Tác giả: HUỲNH PHAN
Tôi
thực sự không thể hiểu nổi, một vấn đề hệ trọng như vậy, vấn đề liên
quan đến lợi ích của một dân tộc, lại có thể bị gạt phăng đi chỉ vì một
câu phán của một người nào đó, cho dù người đó có là ai. Bởi, trước đó
cả một tập thể quyền lực đã nhất trí rồi. Buồn hơn nữa là sau quyết định
bỏ cuộc đó, nhiều nơi lại tranh thủ "đóng góp thêm ý kiến". Họ cho cái
dự thảo BTA của chúng tôi xấu hết chỗ nói. - Trưởng đoàn đàm phán BTA
Nguyễn Đình Lương
Ông
còn nhớ không, đại văn hào Nga Lev Tolstoi đã từng nói rằng cuộc tranh
cãi tay đôi chỉ chấm dứt khi một trong hai người hiểu ý định thực sự của
người kia. Còn trong trường hợp của BTA, hai bên đã mất tới hơn một năm
rưỡi, với 5 vòng đàm phán để làm điều đó. Chỉ có điều, trong trường hợp
BTA, cả Việt Nam và Mỹ đều hiểu ý định thực sự của nhau, để không phải
chấm dứt ở đó mà cùng nhau đi tiếp.
Kể từ vòng đàm phán thứ 6, ông có cảm nhận thấy thay đổi thái độ của phía Mỹ dành cho ông và đoàn đàm phán Việt Nam không?
Có
chứ, rất rõ ràng. Qua thái độ, ánh mắt và lời nói. Chứ trước đó, tôi
cảm nhận được sự lo lắng của họ. Vả lại, như Joe đã nói với anh đấy, một
người được đào tạo ở Liên Xô và nhiều năm làm việc với Liên Xô và Đông
Âu theo mô hình thương mại Xô Viết, chắc hẳn sẽ khó chơi lắm. Khi đã
hiểu nhau, Joe có nói với tôi rằng anh ta đã từng chờ đợi những điều tồi
tệ nhất có thể xảy ra.
Nhân
thể xin hỏi lại ông điều này. Joe Damond nói rằng trưởng đoàn phía Mỹ
là "ông chủ" cuộc chơi, nhưng, ông trưởng đoàn Việt Nam lại đóng vai trò
như một người điều phối, điều tiết. Có lý do gì đó không, hay là tính
cách ông nó vậy?
Thông
thường trong đàm phán, nhất là thời gian đầu, tôi hay hỏi nhiều và yêu
cầu anh em trong đoàn đặt nhiều câu hỏi. Một mặt, càng nhiều thông tin
thì càng hiểu ý tứ của đối tác trong cuộc chơi này. Và, mặt khác, chúng
tôi cũng học được nhiều hơn về kinh tế thị trường, để có thể bảo vệ tốt
hơn những lợi ích thực sự của Việt Nam. Cũng như Joe Damond và đoàn đàm
phán phía Mỹ trong việc bảo vệ lợi ích của nước Mỹ.
Lý
do thứ hai là đoàn đàm phán của Việt Nam là đoàn liên bộ, mỗi bộ lại có
lợi ích riêng của mình. Nếu trưởng đoàn không biết điều phối cho khéo,
rất dễ xảy ra trường hợp "trưởng đoàn không biết phương án đàm phán
riêng của từng bộ".
Ông Nguyễn Đình Lương và Joe Damond tại lễ kỉ niệm 10 năm BTA |
Tất
nhiên, trước đó, tôi đã có trao đổi cụ thể và thống nhất với anh Tuấn,
anh Ân, hay anh Chiến và anh Chướng, là nên triển khai như thế nào. Khi
đã có chữ ký bộ trưởng, các anh ấy gửi cho tôi một bản để tôi tập hợp
thành một đề án chung và trình lên cấp trên thông qua. Tuy trưởng đoàn
là người quyết định cuối cùng, và cũng là người giơ đầu chịu báng nếu có
chuyện gì, nhưng vẫn phải hết sức tôn trọng anh em, tôn trọng kiến thức
và công sức đóng góp của họ, và nhất là tôn trọng quyền của họ.
Bây
giờ chúng ta hay nói là phát huy, hay thu hút, mọi nguồn lực xã hội,
trí tuệ xã hội, nhưng nếu không tôn trọng những điều đó, làm sao mà thu
hút, hay phát huy, được.
Kể
cũng hay nhỉ? Một người đến từ nơi được coi là thế giới tự do như Joe
Damond lại cư xử như một nhà độc tài (dictator), như cách ông ta tự nhận
khi nói với tôi, còn còn cách làm việc của đại diện phía Việt Nam thì
lại...
(Cười)
Phía Mỹ họ khác. USTR được lập ra để đàm phán các hiệp định thương mại,
cũng như xử lý các tranh chấp thương mại quốc tế. Họ chuyên nghiệp lắm.
Quay
lại câu chuyện đàm phán, kể từ cuộc đàm phán thứ 6 cho tới khi hai bên
ký tắt hiệp định hơn một năm sau đó, mọi chuyện có suôn sẻ không?
Khi
đàm phán về thuế, tôi yêu cầu Joe Damond soạn cho tôi những yêu cầu của
phía Mỹ. Và, bước vào bàn đàm phán, họ đưa cho chúng tôi một danh sách
rất dài khung giảm thuế, và không quên nhấn mạnh rằng nếu không làm vậy
quốc hội sẽ không phê chuẩn. Bởi trong quốc hội, đứng đằng sau nghị sĩ
là doanh nghiệp, và nếu doanh nghiệp không được hưởng lợi, nghị sĩ sẽ
không ủng hộ.
À, Joe Damond có kể chuyện này, và nói rằng thoạt tiên ông ta rất ngạc nhiên về lời đề xuất này của ông...
Khi
bàn trên cơ sở bản danh sách đó, tôi mới bảo với Joe rằng thuế nhập
khẩu của Mỹ chỉ chiếm 2% thu ngân sách, chủ yếu để làm chính sách thương
mại, trong khi đó ở Việt Nam đó là 20% nguồn thu ngân sách. Ký BTA,
nguồn tăng thu từ xuất khẩu chưa biết là bao nhiêu, tự nhiên mất ngay
gần hết 1/5 nguồn thu ngân sách, đời nào chính phủ Việt Nam chịu cho ký.
Tôi
còn giải thích thêm rằng, bên Mỹ có thuế thu nhập cá nhân, thuế tài
sản..., còn Việt Nam thu nhập như lúc đó, ăn còn chẳng đủ, tài sản cá
nhân cũng chẳng có mấy, như tôi đang ở nhà của nhà nước. Như vậy lấy đâu
ra mà bù vào khoản hụt đó.
Rồi
tôi nói: "Thôi chúng ta sẽ bàn, nhưng bàn sau, khi Việt Nam đàm phán
gia nhập WTO. Khi đó, Việt Nam cũng có dăm ba năm cải cách hệ thống thuế
theo hệ thống của thế giới, như thuế VAT, thuế thu nhập, thuế tài
sản..."
Joe
nghe ra, hai bên bàn bạc qua lại, và cuối cùng chúng tôi chỉ tập trung
vào hơn 200 dòng thuế để bàn về thuế suất và lộ trình giảm thuế.
Nhưng
đâu đã ổn. Khi nhóm thuế hai bên đàm phán riêng, phía Mỹ lại yêu cầu
phía Việt Nam đưa biểu thuế AFTA (Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN) ra
bàn. Anh Tuấn và anh Khánh (hiện là Thứ trưởng Công Thương, Trưởng đoàn
Đàm phán TPP) không chịu, và về báo cáo tôi.
Tối hôm đó, Joe mời cơm.
Trong khi ăn, tôi mới hỏi: "Phía Mỹ có định ký BTA không?"
Joe ngỡ ngàng nhìn tôi.
Tôi
hỏi tiếp: "Tại sao nhóm thuế lại đưa yêu cầu như vậy? Phía Mỹ đòi biểu
thuế AFTA của tôi, vậy, đổi lại, các ông hãy đưa biểu thuế NAFTA (Hiệp
định Thương mại Tự do Bắc Mỹ) ra cho chúng tôi. Thế mới bàn được chứ."
Joe
chịu tôi, và mọi chuyện trở nên suôn sẻ hơn nhiều. Muốn biết cụ thể hơn
về diễn biến đàm phán, nhà báo nên hỏi anh Tuấn, hay anh Khánh.
Có quả thực là trước khi Joe Damond thông báo với ông ở Aukland là việc ký BTA bị dừng lại, ông không hề biết trước?
Tôi
đã có linh cảm là có điều gì đó không ổn, khi lãnh đạo cấp cao lại họp
để bàn lại lần cuối về việc ký BTA. Bởi, trước đó, đã có sự nhất trí
hoàn toàn rồi. Nhưng tôi vẫn tin là mọi chuyện sẽ không sao.
Vì vậy, khi nghe Joe báo, tôi hết sức ngỡ ngàng. Dường như tôi không tin nổi.
Ông cũng chia sẻ cách lý giải của Joe?
Có
một lần, ngồi với Ginny Foote, nhắc đến chuyến lỡ tàu đó, tôi nói "phụ
nữ rất được việc, nhưng, đôi khi, cũng dễ rách việc". Tất cả cười "ồ"
lên.
Ờ,
bà Albright, khi còn làm Đại sứ Mỹ ở Liên Hợp Quốc, đã từng nổi hứng
doạ bẻ gãy giò ông Tổng Thư ký Boutros Boutros -Ghali. Vả lại, cha của
bà này đã bị cách chức Đại sứ Czech tại Nam Tư và phải đưa cả gia đình
bỏ sang Mỹ, khi những người cộng sản lên nắm quyền năm 1948.
Cảm tưởng của ông khi biết rõ hơn về nguyên nhân vụ đổ bể đó?
Buồn, buồn lắm! Buồn vì nhiều lẽ.
Tôi
thực sự không thể hiểu nổi, một vấn đề hệ trọng như vậy, vấn đề liên
quan đến lợi ích của một dân tộc, lại có thể bị gạt phăng đi chỉ vì một
câu phán của một người nào đó, cho dù người đó có là ai. Bởi, trước đó
cả một tập thể quyền lực đã nhất trí rồi.
Buồn
hơn nữa là sau quyết định bỏ cuộc, nhiều nơi lại tranh thủ "đóng góp
thêm ý kiến". Họ cho cái dự thảo BTA của chúng tôi xấu hết chỗ nói.
Chúng
tôi lại phải tốn mất mấy tháng trời, tốn mấy trăm tờ giấy viết "bản
giải trình", để trả lời những câu hỏi của họ. Khổ nhất là phải giải
trình lại những vấn đề mà chúng tôi đã giải thích trước đó cả năm trời
rồi, hay những dự đoán hoàn toàn cảm tính, mà thiếu lập luận khoa học,
của họ.
Đến khi nào thì lãnh đạo cấp cao lại cho phép nối lại đàm phán để ký BTA?
Sau khi giải trình xong, thấy không có ý kiến gì, tháng 12.1999, chúng tôi lại làm tờ trình xin ký.
Đầu
năm 2000, Bộ Thương mại lại có sự thay đổi lãnh đạo. Anh Vũ Khoan, Thứ
trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, về thay anh Trương Đình Tuyển đi Nghệ
An.
Vừa
mới về, anh Vũ Khoan đã gặp tôi, và bảo: "Hai thằng bạn già chúng mình
quyết tâm làm cho xong BTA rồi nghỉ cũng được." Chúng tôi cùng học ở
MGMO với nhau, tuy không cùng năm.
Rồi ăn Tết xong,
đến giữa tháng 3, tôi gửi thư mời Joe cùng đoàn Mỹ sang Việt Nam. Joe
cũng muốn sang, nhưng cả Bộ Ngoại giao Mỹ và USTR rất cảnh giác Việt
Nam, sau vụ bị "bẽ mặt" ở Aukland.
Joe có nói tới vai trò của Dan Price trong chuyện này?
Đúng vậy. Chúng tôi mời Dan sang. Mọi chuyện trở nên rõ ràng với phía Mỹ.
Nhưng
đến tháng 7.2000, họ vẫn thử thách lần cuối, bằng cách mời Bộ trưởng Vũ
Khoan sang. Ông Vũ Khoan sang, tức là hai bên nhất định ký.
Trong lần đàm phán cuối cùng đó, ông nhớ nhất kỷ niệm nào?
Joe và tôi mất có nửa tiếng là giải quyết xong hết, còn lại ba điều khoản để giải quyết ở cấp bộ trưởng.
Ngoài
kỷ niệm vẫn lưu trên tường kia là bức ảnh Tổng thống Bill Clinton bắt
tay tôi, một kỷ niệm cũng rất ấm áp là Bộ trưởng Vũ Khoan nhất định đợi
"ông Lương" xong việc mới cùng lên xe vào Nhà Trắng.
Hà hà, hai ông bạn già...
Ông Nguyễn Đình Lương bắt tay Tổng thống Bill Clinton |
Joe Damond đã viết hồi ký, và hy vọng sang năm sẽ ra mắt độc giả. Thế còn ông?
Bạn bè tôi cũng khuyên tôi, thúc giục tôi nên viết.
Nhưng với tôi, "sự đời đã tắt lửa lòng/ còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!"
Xin cám ơn ông!
Nhìn
lại 10 năm thực hiện BTA Việt – Mỹ, ông Nguyễn Đình Lương bảo ông vui
vì xuất khẩu tăng mạnh không bằng việc sức nặng pháp lý của BTA đã góp
phần giúp Việt Nam làm vỡ tảng băng trì trệ của nền kinh tế bao cấp, làm
nghiêng đổ những chiếc cột đồng chống đỡ nền kinh tế "xin - cho" không
hiệu quả, bẻ gãy chiếc then cài cổng cho gió WTO thổi vào từng phòng
họp, hội trường, từng giảng đường, thư viện, và tháo tung chiếc hộp pháp
lý được sản xuất bằng chất liệu "độc quyền" và "phân biệt đối xử"...
Để
rồi thiết kế lại một khung pháp luật mới phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế, vừa gạt bớt những cản trở trong quá trình thực hiện chủ trương đúng
đắn của Đảng và Nhà nước là huy động mọi tiềm lực xã hội để phát triển.
|
-Cuộc chiến bên ngoài bàn đàm phán Việt - Mỹ
Joe
hoàn toàn có lý: Trên thế giới, những nước có nền kinh tế mở, không có
nước nào nghèo. Nhưng suốt 30 năm chiến tranh liên tục, lại bị các nước
thù địch bao vây về chính trị, cấm vận về kinh tế, làm sao mà mở cửa
được với thế giới bên ngoài cơ chứ. Hơn nữa, anh ta cũng đâu hiểu một
thực tế là, ở trong nước lúc đó, chỉ có một chiều suy nghĩ: Đói nghèo là
do chiến tranh, ai nói khác là không chấp nhận được. - Trưởng đoàn đàm
phán BTA Việt - Mỹ Nguyễn Đình Lương.
Joe
Damond đã nhấn mạnh tới ý thứ hai, liên quan đến đề nghị của Việt Nam
sẽ mở cửa hoàn toàn vào năm 2020, rằng "Việt Nam phải coi việc đóng cửa
thị trường chính là nguyên nhân của nghèo đói và chậm phát triển". Ông
nghĩ gì lúc đó?
Joe hoàn toàn có lý: Trên thế giới, những nước có nền kinh tế mở, không có nước nào nghèo.
Nhưng
anh ta không hiểu hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Suốt 30 năm chiến
tranh liên tục, lại bị các nước thù địch bao vây về chính trị, cấm vận
về kinh tế, làm sao mà mở cửa được với thế giới bên ngoài cơ chứ.
Hơn
nữa, anh ta cũng đâu hiểu câu chuyện bên trong của chúng ta lúc đó. Có
một thực tế là, trong nước lúc đó, chỉ có một chiều suy nghĩ: Đói nghèo
là do chiến tranh, ai nói khác là không chấp nhận được.
Quả thực là nhận định thẳng thắn của Joe đã khiến chúng tôi dễ dàng ăn nói hơn nhiều.
Joe
Damond có nói rằng chỉ đến những ngày đầu năm mới năm 1998, khi nhận
được bản thiết kế đàm phán của phía Việt Nam, ông ta mới tin rằng hai
bên mới có thể đi chung trên một con đường, trước khi tới đích. Vậy
trong suốt hơn 8 tháng đó ông đã làm thế nào để ra được bản đó?
Trong
thời gian đó, tôi đi tìm "tầm sư học đạo". Trước tiên, tôi vào Sài Gòn
tìm gặp những người trước đây từng học ở Mỹ, hay làm việc cho các tổ
chức quốc tế, trong đó có Giáo sư Nguyễn Xuân Oánh từng làm hai nhiệm kỳ
ở IMF. Họ cũng chẳng giúp gì được tôi, vì thời họ học, chủ yếu là những
năm '60, là GATT, chứ không phải WTO.
Trưởng đoàn đàm phán BTA Việt - Mỹ Nguyễn Đình Lương và Dan Price. Ảnh Huỳnh Phan. |
Thế là tôi lại "khăn gói quả mướp" đi một vòng sang các nước bạn bè, anh em cũ. Trung Quốc là nước tôi nghĩ tới đầu tiên.
Trung
Quốc à? Theo Joe Damond giải thích thì BTA họ ký với Mỹ thì còn "xưa
hơn cả Diễm", à, cả Nga. Nhưng hình như lúc đó họ đang đàm phán về việc
gia nhập WTO với Mỹ?
Đúng
vậy. Và họ cũng cử chuyên gia tiếp tôi mấy buổi. Có điều cứ đúng 45
phút người tiếp tôi lại xin ra ngoài. Đến lần thứ ba thì tôi giật mình.
Tại sao? Yếu thận là chuyện bình thường mà.
Thế tại sao cứ đúng 45 phút, đều như vắt chanh, mà không phải 50 phút, hay 40 phút?
À, tôi hiểu. Họ ra thay băng cassette? Hồi đó chưa có máy ghi âm kỹ thuật số?
Chắc
cũng là để đảm bảo an toàn cho bản thân, nhỡ sau này có ai đó qui trách
nhiệm nọ kia. Nhưng tôi hiểu là người ta đã cẩn trọng như vậy, chắc
cũng chả nói gì quan trọng cho mình.
Thế là tôi qua Đông Âu, tìm bạn bè cũ.
Có khả quan hơn không, thưa ông?
Nga
thì không biết gì. Ba Lan thì bảo BTA họ vừa ký với Mỹ chẳng qua là cái
"passport" để họ xin gia nhập EU và NATO thôi, nên Mỹ đưa cái gì là họ
chấp nhận cái đó. Chỉ khi sang Hungary tôi mới thấy được một tia hy
vọng.
Bạn
tôi khi đó làm Trợ lý Bộ trưởng Bộ Kinh tế, bảo tôi: "Ở bộ tôi có nhiều
chuyên gia đàm phán quốc tế giỏi, kể cả trong GATT. Nhưng, khi về nước,
ông phải bảo Bộ Thương mại gửi trước cho tôi một bức thư chính thức,
xin một khoản tài trợ khoảng vài trăm ngàn đô la. Có số tiền đó tôi sẽ
cử chuyên gia sang giúp ông."
Tôi
mừng rỡ trở về. Nhưng trong khi tôi đang hối hả lo trình để xin chữ ký,
dấu má, thì đùng một cái nghe tin Đảng Dân chủ cầm quyền bị đổ, và Đảng
Thanh niên lên thay.
Đúng là cái số ông khổ thật. Rồi sao nữa?
Lúc
đó, chính phủ cho phép mời tư vấn Mỹ. Và Ginny Foote đã xuất hiện. Hội
đồng Thương mại Mỹ - Việt đã giới thiệu các giáo sư, chuyên gia sang
giảng bài về WTO cho đoàn đàm phán. Và, sau khi nghe họ giảng thử ở các
lớp khác nhau, tôi đã chọn Dan Price.
Lý do?
Ông
này lúc đó đang làm cho một công ty tư vấn ở Mỹ. Nhưng Dan đã có thời
gian dài làm cho Cơ quan Đại diện Thương mại Mỹ, và, quan trọng nhất, đã
từng đàm phán BTA với Liên Xô và NAFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Bắc
Mỹ). Tôi nghĩ ông này có thể có những cái mà chúng tôi cần. Chẳng hạn
như phương án xử lý các vấn đề cụ thể với các nước đang phát triển.
Joe Damond nói rằng Dan Price đóng vai trò nhất định trong việc Việt Nam đưa ra bản thiết kế đàm phán điều chỉnh, có đúng không?
Dan Price là nhà tư vấn tốt, có nhiều kinh nghiệm, có kiến thức. Chúng tôi khá thân nhau.
Sau
này, khi Dan Price trở thành Phó Cố vấn An ninh Quốc gia trong chính
quyền Tổng thống Bush (con), phụ trách mảng kinh tế đối ngoại, chúng tôi
vẫn giữ được quan hệ bạn bè. Mỗi lần sang Hà Nội công tác, cứ xong việc
công, Dan Price lại hẹn nhau ngồi nhâm nhi vài ly.
À,
quay trở lại câu chuyện năm 1997, đối với một số vấn đề cần tham vấn,
tôi luôn yêu cầu Dan đưa cho tôi 4-5 phương án, hoặc ít nhất cũng là 2.
Còn chọn phương án nào, có điều chỉnh hay không là quyền của đoàn đàm
phán Việt Nam. Bởi chúng tôi phải có phương án phù hợp nhất với điều
kiện của Việt Nam. Anh nên nhớ rằng chúng tôi còn phải bảo vệ ở trong
nước trước khi gửi cho phía Mỹ chứ.
Trong
thời gian đó, tôi phân công cho anh em tìm hiểu và thiết kế lại từng
mảng, từ sở hữu trí tuệ, đầu tư đến dịch vụ. Chuyên gia từng lĩnh vực
thì rà soát trong phương án của Mỹ điều gì cần bỏ, điều gì cần thay, hay
bổ sung. Các luật sư thì ngồi với nhau hàng tuần để mổ xẻ từng khái
niệm, từng câu chữ, từng đoạn... Về nguyên tắc, chúng tôi đảm bảo rằng
chưa hiểu hết nội dung, chưa cam kết.
Và
bản thiết kế, khi hoàn thành, so với bản của phía Mỹ đưa ra trước đó 8
tháng đã được thay đổi khá nhiều. Đặc biệt, Chương Thương mại Dịch vụ
được viết lại hoàn toàn cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Giám đốc Học viện Ngoại giao Đặng Đình Quý, và 2 vị trưởng đoàn đàm phán BTA Việt - Mỹ Nguyễn Đình Lương và Joe Damond trong cuộc tọa đàm đầu tháng 12. Ảnh Huỳnh Phan. |
Và
đúng như Joe nói, kể từ tháng 5.1988, cuộc đàm phán đã đi vào thực
chất, và chúng tôi chỉ tập trung bàn về lộ trình mở cửa thị trường.
Thảo
nào, Joe Damond kể rằng Dan Price chỉ thông báo là bản của phía Việt
Nam sẽ có nhiều thay đổi, chứ không nêu cụ thể sẽ thay đổi thế nào. Ông
ta còn nói rằng một điều khác khiến ông ngạc nhiên là làm sao ông Lương
có thể thuyết phục được chính phủ và các cơ quan liên quan của Việt Nam
đồng ý với bản thiết kế đó. Xin ông giải thích rõ chuyện này?
Khi
chuẩn bị xong tất cả, chúng tôi trình lên cấp trên một tập tờ trình dài
350 trang, gửi trước cho mỗi người một tập. Khi bắt đầu họp, vị lãnh
đạo chủ trì nhắc nhở: "Lưu ý để các đồng chí rút kinh nghiệm, theo thông
lệ, trình lên cấp này, mỗi vấn đề chỉ ghi trong một trang hoặc một
trang rưỡi. Tờ trình này những 350 trang thì sao xử hết được."
Đúng
vậy. Cách đây mấy năm, khi nhóm tư vấn Harvard gửi bản khuyến nghị
chính sách đầu tiên lên cho Thủ tướng, họ làm dài lắm, rất cụ thể. Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nghe nói cũng nhận xét rằng
dài thế Thủ tướng lấy đâu thời gian mà đọc xuể, chỉ làm độ 6-7 trang là
vừa. Thế là, khi trình bản khuyến nghị thứ hai, họ cố gắng cô gọn lại
chỉ có mười mấy trang.
Lúc đó, tôi nghe cả, và tôi hiểu hết. Nhưng chúng tôi vẫn phải trình dài, vì không trình hết thì nguy hiểm lắm.
À, đó có phải là điều duy nhất hữu ích ông thu nhận được từ chuyến đi Trung Quốc trước đó?
(Cười)
Mọi thứ đều hoàn toàn mới mẻ, lạ lẫm, nếu không trình hết để cấp trên
hiểu, thì nếu có chuyện gì sau này, đoàn đàm phán chúng tôi sẽ không
gánh nổi trách nhiệm.
Xin ông nói rõ ông có gặp khó khăn gì với tờ trình của mình không?
Không
dễ dàng tí nào. Người ta phản đối, vì tất cả các hiệp định đầu tư Việt
Nam đã ký với nước ngoài, không có một nội dung nào như trong này.
Một
đồng nghiệp trong bộ thương mại đã nói với tôi rằng trách nhiệm của
những người đi đàm phán là phải thiết kế làm sao cho khung pháp lý không
va đập với khung pháp lý hiện hành.
Tôi đã phải nói rằng cái khung pháp lý của chúng ta quá lởm khởm, nên phải cho cái búa đập vỡ nó đi mới mong làm ăn được.
Ý ông nói rằng cho đến khi BTA có hiệu lực, hệ thống luật pháp của Việt Nam rất lạc hậu?
Cũng
không hẳn vậy. Tôi thấy Quốc hội Việt Nam cũng chăm chỉ sửa luật đấy
chứ. Chỉ có điều, vì không có tiêu chí, nên cách sửa nhiều khi tuỳ hứng,
và tuỳ vào ý chí của lãnh đạo.
Nhưng lần này thì khác, bởi luật sẽ được sửa cam kết theo BTA, theo WTO, tức là theo một tiêu chí rõ ràng.
Chúng
tôi thuyết phục những người phản đối bằng lập luận sau: Không nước nào
có thể phát triển được nếu không xuất khẩu được vào thị trường Mỹ. Ngay
cả "ông bạn vàng phương Bắc" của chúng ta muốn thực hiện "bốn hiện đại
hoá" thành công cũng phải ký BTA với Mỹ, để hưởng qui chế tối huệ quốc
mà thúc đẩy xuất khẩu. Và, Việt Nam, muốn xuất khẩu được phải thiết kế
một hệ thống pháp luật để đáp ứng nhu cầu đó. Và để phát triển lâu dài,
không nên sửa kiểu cò con, vụn vặt.
Đối
với Chương Sở hữu Trí tuệ, có một nhà khoa học nổi tiếng, có chức sắc
đàng hoàng, đã phản đối đến cùng. Ông ta cho rằng xưa nay các nước tư
bản phát triển được là do đi "ăn cắp" phát minh của người khác, và Việt
Nam cam kết vào đây là "tự trói mình", sau này lấy lấy tiền đâu mà mua.
Chúng
tôi phải thuyết phục rằng liệu các nhà đầu tư tử tế nào từ Mỹ và các
nước phát triển sẽ vào Việt Nam, khi họ không đảm bảo rằng sản phẩm của
họ không bị làm nhái, hay không. Vả lại, với Mỹ sở hữu trí tuệ là lợi
ích quốc gia, lợi ích doanh nghiệp, đời nào họ chịu buông.
Chẳng
hạn, chỉ riêng giá trị thương hiệu của Coca-cola đã gần gấp ba lần GDP
của Việt Nam vào thời điểm đó (90 tỷ đô la so với 32 tỷ đô la).
Gần
đây, một chuyên gia hàng đầu về đầu tư của Nhật Bản có nhận xét với tôi
rằng một trong những lợi thế của Việt Nam so với Trung Quốc, trong con
mắt các nhà đầu tư Nhật Bản, là ở Việt Nam chuyện ăn cắp bản quyền trong
sản xuất hàng hoá chưa phổ biến, hoặc giả người Việt Nam chưa đủ trình
độ ăn cắp như người Trung Quốc.
Hay
với Chương Đầu tư, chúng tôi cũng phải thuyết phục rằng mục đích của
chúng ta là thu hút đầu tư, và, vì vậy, phải cải thiện môi trường pháp
lý.
Hoặc
với Chương Mua sắm Chính phủ, trong đó qui định dự án đầu tư của nhà
nước từ nửa triệu đô la trở lên là phải đấu thầu, họ phản đối rất mạnh.
Họ viện lý do là làm như vậy là tiết lộ bí mật quốc gia. Chúng tôi trả
lời rằng trong đó đã loại bỏ hết những dự án liên quan đến an ninh, quốc
phòng, rồi, và chẳng qua chỉ là những dự án dân sự như xây dựng nhà máy
điện, hay mua xe lửa thôi... Chúng tôi khẳng định rằng chỉ có đấu thầu
công khai, thay vì chỉ định thầu, mới hạn chế được tham nhũng.
Nhưng chương này cuối cùng đã bị loại ra. Chúng tôi đã thua, bởi lợi ích của những người chống quá lớn.
Đó là nỗi đau lớn nhất của ông?
Đối
với bản hiệp định thì đúng. Nhưng đối với đoàn đàm phán Việt Nam, và cá
nhân tôi, nỗi đau lớn nhất lại nằm ở chỗ khác. Tôi sẽ nói sau.
(Còn tiếp...)
Kỳ cuối: Niềm vui và nỗi đau
Anh
bạn tôi lúc đó là Thứ trưởng Tài chính Liên Xô bảo: "Lương, hôm nay ta
nói chuyện với nhau như những người bạn. Mày (tiếng Nga, khi thân quen
chúng tôi dùng đại từ "tư" là mày, bạn) bỏ cái nghề ăn xin của mày đi.
Không ai giàu lên bằng của bố thí. Phải đứng thẳng người lên để làm giàu
như họ. Chứ Liên Xô chúng tao cũng sắp đổ rồi, không còn gì nữa đâu mà
cho." Tôi ngồi lặng người một hồi lâu, miệng đắng ngắt...
LTS: Tuần
Việt Nam xin được kết thúc câu chuyện bình thương hoá quan hệ ngoại
giao và thương mại Việt - Mỹ với cuộc trò chuyện với đối tác của Trưởng
đoàn đàm phán BTA Mỹ - Việt Joe Damond - ông Nguyễn Đình Luơng.
Chúng
tôi hy vọng phần trò chuyện của ông Lương sẽ bổ sung cho bức tranh về
cuộc đàm phán được coi là sự mở đầu thực chất nhất cho tiến trình hội
nhập kinh tế của Việt Nam, cũng như là lời giải đáp cho những thắc mắc
của Joe Damond - người, vì những lý do nhất định, chưa hỏi thẳng đối tác
và cũng là người bạn vong niên của mình.
Ông đã trở thành trưởng đoàn đàm phán như thế nào?
Sáng
ngày 5.11.1996, tại cuộc họp bàn về việc chuẩn bị đàm phán kinh tế -
thương mại với Mỹ, sau khi các bộ ngành hữu quan báo cáo tình hình, Phó
Thủ tướng phụ trách kinh tế đối ngoại Trần Đức Lương, người chủ trì, đã
quyết định thành lập "Tổ công tác liên bộ về Hiệp định Kinh tế - Thương
mại với Hoa Kỳ".
Đột
nhiên, ông chỉ vào tôi, và nói: "Tôi quyết định cử đồng chí Nguyễn Đình
Lương" làm tổ trưởng." Tôi thực sự thấy bất ngờ, và không kịp phản ứng
gì cả, vì giọng nói ông rất quyết đoán.
Trong
thâm tâm, tôi hiểu ông chọn tôi vì tôi đã nhiều lần tháp tòng ông trong
các cuộc đàm phán, hay họp hội nghị của uỷ ban liên chính phủ với Liên
Xô và các nước XHCN khác. Ông hiểu trong đầu tôi có cái gì, và tôi có
thể làm gì.
Từ
sau đó các công việc liên quan đến đàm phán Việt - Mỹ cứ được chuyển về
chỗ tôi để tôi tập hợp và tổng hợp. Và đến khi đoàn Mỹ sang, tôi dẫn
đầu đoàn đàm phán phía Việt Nam.
Joe Damond có nói rằng anh ta may mắn vì Sếp trực tiếp của anh ta đã chủ động tránh sang một bên, chứ không thì...
Tôi
không may mắn như vậy. Quyết định bất ngờ đó đã làm cho tôi khổ sở một
thời gian, vì ông Sếp trực tiếp của tôi lại muốn nhận việc đó. Có lẽ,
ông ta nghĩ đơn giản việc đó là "oai", nhưng ông không hiểu rẳng tôi đã
thực sự "oải" như thế nào trong quá trình đàm phán, nhất là ở nửa chặng
đầu và sau khi hai bên đã ký hiệp định về nguyên tắc. Nhưng đó là chuyện
về sau.
Số tôi số khổ mà. Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Ông Joe Damond và ông Nguyễn Đình Lương. Ảnh: Thái An |
Joe
Damond nói rằng trong thời gian đầu, phía Mỹ tỏ ra khá lúng túng trong
việc khởi động đàm phán, vì họ chẳng có thông tin, cũng như hiểu biết về
cơ chế của kinh tế - thương mại Việt Nam. Và ông ta cũng cảm nhận điều
tương tự từ phía Việt Nam, có đúng không?
Đúng và không đúng. Đúng vì ta cũng không hiểu hệ thống thương mại của Mỹ và thế giới nói chung, ngoài phe XHCN của chúng ta.
Còn không đúng, vì Việt Nam vất vả hơn trăm lần. Chúng tôi không hiểu phía đối diện, và cũng không hiểu phía sau lưng.
Cuộc
chiến tranh 30 năm và sự khốc liệt của nó đã để lại trên đất nước Việt
Nam, và trong quan hệ Việt - Mỹ, quá nhiều vấn đề. Tôi không còn đủ trí
nhớ để thống kê lại những điều gặp phải trong quá trình chuẩn bị cho
BTA.
Nhưng chắc vẫn có những điều không thể quên?
Nào
là nhận thức "Mỹ là kẻ thù cơ bản lâu dài", bên cạnh tâm lý chống Mỹ và
tâm lý nghi kỵ. Có người coi BTA chỉ là "âm mưu của Mỹ để chuyển hoá
chế độ chính trị ở Việt Nam, đơn giản (nó) chỉ là âm mưu phá vai trò
lãnh đạo của Đảng". Hay dùng thị trường tự do để phá hoại cái định hướng
XHCN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của chúng ta.
Còn ông, lúc đó, ông nghĩ thế nào?
Đó
là hậu quả của một quá trình lâu dài xa lánh luật chơi thị trường, chỉ
biết chăm lo củng cố cho nền kinh tế độc quyền XHCN, đã đặt chúng ta vào
thế quá ngỡ ngàng, lúng túng, khi buộc phải chuyển sang nền kinh tế thị
trường, buộc phải chơi theo một luật chơi mới, áp dụng cho hầu hết các
cuộc chơi.
Cho
dù các Nghị quyết của Đảng đã nhiều lần chỉ rõ, và xã hội đã nhận thức
được rằng, thế giới đang thay đổi sâu sắc, nền kinh tế thế giới đang
phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đi vào xu thế toàn cầu hoá, nhưng quả
thực vượt qua được những rào cản chính trị, rào cản tâm lý kể trên là
điều hoàn toàn không dễ dàng. Càng không phải một sớm một chiều.
Xin ông nói cụ thể hơn trong trường hợp BTA.
Đàm
phán BTA với Mỹ là công việc hoàn toàn mới mẻ, thực sự cũng chưa ai
hình dung nó là thế nào. Mỗi người, mỗi cơ quan, nhìn một góc, đòi hỏi
một cách... Không ai giống ai.
Bây giờ nhớ lại thật buồn cười. Và nhiều vấn đề được nêu ra hình như chỉ như đánh đố đoàn đàm phán.
Đánh đố?
Vì làm sao mà thực hiện được.
Chẳng
hạn, có người bảo: "Trước kia ta chưa đòi được khoản bồi thường chiến
tranh theo Hiệp định Paris (1973), kỳ này đàm phán kinh tế ta phải đòi
cho bằng được."
Liên
quan đến khoản tiền đó, vì ta không hiểu luật Mỹ (tiền nong do Quốc hội
quyết) mà ta đã đánh rơi mất cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ
trước đấy hai chục năm. Tất nhiên, chúng ta có quyền nêu, nhưng nêu cho
vui thôi, phía Mỹ sẽ không đồng ý đưa vào chương trình đàm phán.
Hay,
có người đòi là "Đoàn đàm phán phải đấu tranh với Mỹ để xếp Việt Nam
vào khối các nước kém phát triển, để họ phải có chính sách ưu đãi đặc
biệt".
Điều
này chúng tôi cũng chịu. Đã có một thời Việt Nam bị liệt vào danh sách
các nước kém phát triển (underdeveloped countries), như một số nước Châu
Phi. Việt Nam chúng ta tự ái, mất bao nhiêu năm trời mới đi đấu tranh,
vận động, để được xếp trong danh sách các nước đang phát triển
(developing countries).
Thế
mà nay lại giao cho Đoàn đàm phán BTA kéo tụt Việt Nam xuống. Mà đoàn
đàm phán phía Mỹ có quyền hành gì trong việc lôi lên, hay đè xuống này?
Lại
cũng có người chỉ đạo rất cụ thể: "Đàm phán với Mỹ là phải thực hiện
phương châm "vừa hợp tác vừa đấu tranh, và với kẻ thù rắn mặt như Mỹ thì
phải đấu tranh là chính."
Tôi chỉ còn biết ngửa mặt lên trời mà than: "Về khoản này, con xin chịu không bắt chước được bố."
Ý ông là...?
Anh
nhớ câu chuyện cậu con rể tương lai cứ chăm chăm bắt chước mọi động tác
của bố vợ chứ gì? Đến nỗi, ông "Nhạc phụ đại nhân" phải phì cười, và
hai sợi bún thò lò ra đằng mũi.
Đây
đâu còn là thời chiến tranh mà ta thắng, địch thua. Cả hai bên phải đạt
được một thoả thuận đảm bảo đôi bên cùng có lợi, để cùng nhau là đối
tác lâu dài.
Không thể buổi đàm phán nào cũng lo đấu tranh, cũng chửi người ngồi đối diện với mình một trận cho bõ tức. Tan cuộc ngay!
Dân
gian hay nói, chính chúng ta, lúc cần khẳng định vị thế, thì tự nâng
lên, còn lúc cần tiền viện trợ, xin xỏ, thì tự hạ xuống.
Thôi, chuyện dân gian thì nhiều lắm. Tôi xin miễn bàn. Nhưng riêng tôi cũng có một kỷ niệm đáng nhớ liên quan đến chuyện đó.
Mùa
thu năm 1989, mùa các nước XHCN chuẩn bị đàm phán cho Hiệp định 5 năm
tiếp theo (1991-1995). Trước khi hai đoàn chính phủ gặp nhau, là người
chuẩn bị các phương án, tôi đi Moskva thăm dò trước. Và tôi đã đến thăm
anh bạn thân học cùng trường MGIMO (Học viện Quan hệ Quốc tế Moskva),
lúc đó là Thứ trưởng Tài chính Liên Xô.
Anh
ta nói: "Lương, hôm nay ta nói chuyện với nhau như những người bạn. Mày
(tiếng Nga, khi thân quen chúng tôi dùng đại từ "tư" là mày, bạn) bỏ
cái nghề ăn xin của mày đi. Không ai giàu lên bằng của bố thí. Phải đứng
thẳng người lên để làm giàu như họ. Chứ Liên Xô chúng tao cũng sắp đổ
rồi, không còn gì nữa đâu mà cho."
Tôi ngồi lặng người một hồi lâu, miệng đắng ngắt. Tôi uống vội cốc nước chè đen còn đang nóng, suýt bỏng họng.
Bài học đó cả đời tôi không quên.
Nhưng
chính Joe Damond đã nhắc đến chuyện, vào khoảng mùa thu năm 1997 gì đó,
trong một cuộc đàm phán, ông Nguyễn Đình Lương đã nói rằng Việt Nam là
nước nghèo đói, kém phát triển, và chỉ có thể chấp nhận các tiêu chuẩn
thương mại quốc tế (WTO) vào năm 2020. Xin ông giải thích cho rõ ràng.
Đó là chuyện có thật. Bây giờ nhắc lại tôi vẫn thấy buồn cười.
Số
là, sau khi tôi đề nghị, phía Mỹ đã chuẩn bị bản dự thảo
"Comprehensive" (tổng thể), theo các tiêu chuẩn WTO. Mọi người hơi
choáng: "Khó hiểu quá, mới quá!"
Xin phép được ngắt lời ông. Tại sao ông lại đề nghị phía đối tác soạn dự thảo?
Trong
một cuộc họp cấp cao phía Việt Nam, có một ý kiến nêu ra là ông Nguyễn
Đình Lương phải đưa ra một dự thảo cho phía Mỹ, và nêu rõ quan điểm của
Việt Nam.
Trước
đây, khi đàm phán Liên Xô, chỉ trong ba tiếng đồng hồ tôi đã có một dự
thảo cả tiếng Nga lẫn tiếng Việt. Nhưng khi ngồi trong cuộc bà Barbara
Barshefski tiếp Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết ở Washington DC vào
tháng 6.1995, và ngồi với Joe Damond suốt một tối, đến tận 12h đêm tại
KS Sheraton (DC) để nghe giải thích về khái niệm một hiệp định tổng thể
theo những cam kết của WTO, thì tôi biết là tôi không biết gì về WTO.
Tôi đã đề nghị Joe Damond chuẩn bị dự thảo là vì lý do đó.
Vâng. Xin ông tiếp tục.
Khi
chúng tôi dịch dự thảo ra, và trình lên lấy ý kiến trong nội bộ Việt
Nam, đã có người (tất nhiên là người có quyền) bảo rằng Việt Nam là nước
nghèo, là nước kém phát triển, Việt Nam chỉ có thể chấp nhận các tiêu
chuẩn đó vào năm 2020.
Nhân
tiện có ý kiến đó, trong lúc phía đoàn đàm phán chúng tôi chưa chuẩn bị
được gì, chúng tôi đành cứ phóng ra cho phía Hoa Kỳ phương án, lộ trình
tất cả các lĩnh vực (thương mại, đầu tư, dịch vụ...) đều đến 2020.
Sao chúng ta bị ám ảnh bởi con số 20 thế nhỉ? Hai ngàn hai mươi, rồi hai mươi ngàn tiến sĩ...
(Cười) Đó là một cú sốc đối với đoàn Mỹ. Qua nét mặt, tôi biết đoàn đàm phán Mỹ thất vọng lắm.
Họ không ngờ...
Họ thất vọng về những người ngồi đối diện với họ?
Đúng vậy. Và kể từ đó, đúng như Joe Damond nói với anh, câu chuyện cứ lùng nhùng, dậm chân tại chỗ.
Nhưng
cũng nhờ đó chúng tôi hiểu được suy nghĩ thực sự của họ, và nhận được
một phản ứng mạnh mẽ nhất, cho tới lúc đó, từ phía họ. Chúng tôi cần
hiểu tận cùng những ý tưởng của Mỹ trong cuộc chơi này, để từ đó mới
thiết kế được đối án của mình. Và, nhờ đó, chúng tôi đã kéo dài được
thời gian học bài và chuẩn bị.
Nhưng sự thất vọng của phía Mỹ chưa phải là điều xấu nhất có thể xảy ra với tôi.
Lại còn có điều tồi tệ hơn sao?
Thời
gian đó, ở Hà Nội, vì thấy bế tắc, nơi này nơi khác đã có tiếng xì xèo.
Có người nghi vấn "hình như ông Lương không biết đàm phán".
Thậm chí, có người còn đề nghị thay trưởng đoàn đàm phán.
Tại sao ông không bị thay?
Béo
bở gì miếng xương. Mà lại là miếng xương đang mắc ngang cổ họng người
khác. Có người sẵn sàng làm việc đó, thì không còn có lúc này tôi ngồi
tiếp chuyện nhà báo đâu.
(Còn nữa...)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét