- Mảnh Bằng Khen cho Cột Mốc Sống (BS). “Suốt 10 năm trường đối diện với những hành động tàn ác bức hiếp ngư dân ta của Trung Quốc, chẳng thấy nhà nước có bất cứ một động thái, một biện pháp nào nhằm để bảo vệ ngư dân ngoài việc phát bằng khen và thúc họ ra bám biển tiếp. Những tấm bằng khen của lãnh đạo đã trở thành hiện thân của sự vô cảm, quá lạnh lùng đối với máu và nỗi thống khổ của ngư dân. Nếu nhà văn Victor Hugo, tác giả cuốn ‘Những kẻ khốn cùng’ (Les Misérables), tái sinh ở VN không chừng lại có một tác phẩm vĩ đại về ngư dân Việt. Và những kẻ khốn cùng này thực sự sẽ lấy hết nước mắt của thế giới!“
- Tìm giải pháp để chính sách hỗ trợ ngư dân đi nhanh vào cuộc sống (HQ). – Nhiều nỗ lực đưa Nghị định 67 đi vào cuộc sống của ngư dân (TTXVN). – Thúc giục 5 NHTM Nhà nước cấp vốn cho ngư dân đóng tàu (GTVT). – Ưu đãi đặc biệt cho ngư dân đóng tàu (NLĐ). – Ngân hàng: Tiếp sức hỗ trợ ngư dân vươn khơi, bám biển (TCTC). – Tàu thép tiết kiệm hơn một nửa chi phí đi biển (VNE). – Thông tin để bám biển an toàn (DV). – Tặng 253 tủ thuốc cho tàu cá đánh bắt xa bờ (QĐND).
- Giàn khoan Hải Dương 981 đã ra khỏi vùng biển VN, đến vị trí mới (Soha). – Trung Quốc công bố vị trí hoạt động mới của Hải Dương-981 (DT). – Giàn khoan Hải Dương 981 sẽ hoạt động 2 tháng tại vị trí mới (VNE). – Việt Nam vẫn theo dõi sát sao mọi hoạt động trên Biển Đông (PT).
- Phỏng vấn David Brown: ‘Trung Quốc sẽ không ngừng ở đây’ (NV). “Câu
hỏi cần được đặt ra là nếu Hà Nội giờ đây đã sẵn sàng để kiện Trung
Quốc, thì họ còn sẵn sàng làm gì sau đó nữa. Chúng ta vẫn chưa thể biết.
Điều tôi chú ý là chuyến đi thăm Hoa Thịnh Đốn của Phó Thủ Tướng kiêm
Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh, mà tôi mong sớm xẩy ra. Tôi hy vọng
là Hoa Thịnh Đốn sẵn sàng lắng nghe những gì ông Phạm Bình Minh muốn
trình bày, để có những phản ứng thích hợp. Rõ ràng Trung Quốc không
ngừng ở đây mà sẽ tiếp tục có những hành vi khiêu khích, ở vào thời điểm
và địa điểm Trung Quốc chọn“.
Cũng có thể ông Phạm Bình Minh sẽ qua Mỹ
vào tháng 9 tới đây, nhưng cũng có thể là chuyến đi này sẽ không bao giờ
xảy ra. Chuyến đi này ở thì tương lai, còn hiện tại chuyến đi của ông
Ngoại trưởng đã có người đi thế: Ông Phạm Quang Nghị thăm Mỹ (BBC). – Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị thăm Hoa Kỳ (VOA).
- Ông Phạm Quang Nghị sang Mỹ, điều gì đang xảy ra? (RFA). “Trước
đây Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có phát biểu chống lại ý kiến của Bộ
chính trị, tức là hơi chống Trung Quốc thì đương nhiên là phải tìm chỗ
dựa chứ không thì trong nước đảng đánh chết, thế thì phải cử Phạm Bình
Minh đi Mỹ. Nhưng mà đời nào cái Bộ chính trị này để cho ông Tấn Dũng
thực hiện điều đó, cho nên họ mới giữ ông Minh lại để tiếp Dương Khiết
Trì đã. Bây giờ thì lại có tin là đi Hoa Kỳ không phải là Phạm Bình Minh
mà là Phạm Quang Nghị. Rõ ràng là cái phe thân Trung Quốc họ muốn giữ
thế, có nghĩa là nếu có đi liên hệ với Hoa Kỳ thì để họ đi”.
- VÀI BÌNH LUẬN VỀ CHUYẾN ĐI MỸ CỦA ÔNG PHẠM QUANG NGHỊ (Tễu). GS Ngô Đức Thọ: “Về
cái tin Phạm Quang Nghị đi Mỹ theo lời mời của Ngoại trưởng Mỹ J.Kerry,
tôi thấy hơi lạ thật. Mà lại là với danh nghĩa Trưởng đoàn ĐB QH TP Hà
Nội nữa chứ! Với danh nghĩa ấy thì lời mời phải là bên Hạ viện chứ
?.Chuyến đi Ngoại trưởng Mỹ mời là mời Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình
Minh. Nhưng BCT không cho Phạm Bình Minh đi mà thu xếp để cử Phạm Quang
Nghị đi“. – Trò láu cáy của CSVN qua chuyến thăm Mỹ của ông Nghị (BĐX).
- Bùi Tín: Cuộc đấu tranh theo hai hướng (Blog VOA). “Vì
sao khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cử cố vấn đặc biệt, Giám đốc Á
châu vụ của Hội đồng An ninh Quốc gia Evan Medeiros sang Hà Nội ngày
14/7 vừa để thúc đẩy việc ký kết Hiệp ước Kinh tế Xuyên Thái Bình Dưong
TPP, vừa để bàn sâu thêm về cuộc khủng hoảng biển Đông trong triển vọng
nâng cao thêm quan hệ đối tác toàn diện, về quốc phòng và an ninh, phía
VN lại tỏ ra thiếu sốt sắng, còn có vẻ lạnh nhạt một cách khó hiểu và
dại dột nữa. Người tiếp đặc phái viên Tổng thống Hoa Kỳ là Ngoại trưởng
Phạm Bình Minh, một người không có chân trong Bộ Chính trị, chỉ là ủy
viên mới trong Ban Chấp hành Trung Ương, không có quyền uy gì đáng kể“.
- Xích lại gần nhau để thoát Trung hay bảo vệ Đảng? (RFA). “Khó
thể nói có sự xích lại gần nhau một cách hoàn hảo trong thời gian tới
mà có lẽ chỉ là một mối tương quan chiến thuật mà người ta tạm bắt tay
nhau còn sau đó phải chờ tới kỳ bỏ phiếu ở trong Đảng vào cuối năm nay“.
- Trung Quốc ngang nhiên nạo vét kênh ở Hoàng Sa (NĐT). – Trung Quốc tiếp tục hoạt động phi pháp tại quần đảo Hoàng Sa (GDVN). – Mọi hoạt động của TQ tại Hoàng Sa, Trường Sa đều là bất hợp pháp và vô giá trị (TN). – Theo dõi chặt chẽ tình hình biển Đông (NLĐ). – Con đường tơ lụa trên biển: Bóc mẽ mưu đồ Trung Quốc (ĐV). “… rõ
ràng việc TQ định thăm dò, tiến hành nghiên cứu khảo cổ học dưới nước
trong các khu vực tranh chấp và khu vực lãnh hải của nước khác là không
thể chấp nhận được, là vi phạm luật pháp quốc tế. Hiển nhiên khi tiến
hành những vấn đề này, nó đều nằm trong kế hoạch bài bản nhằm độc chiếm
Biển Đông để “bá quyền” khu vực Đông Nam Á và rộng hơn nữa“.
- Trực tiếp: Hội luận Biển Đông (BBC). “Các
chuyên gia Trung Quốc, Philippines, Việt Nam và Singapore bàn về căng
thẳng Biển Đông và giải pháp tháo ngòi nổ trong hội luận bằng tiếng Anh
do Ban Đông Á của BBC tổ chức“. – Giới trẻ và việc nghiên cứu biển Đông (RFA). “Trong
điều kiện chưa có một số thống kê thì tôi xin trả lời một cách khái
quát, Ở Sài Gòn, ở Việt Nam, những người trên và dưới 40 tuổi đều quan
tâm đến biển Đông mạnh mẽ như nhau“.- Một bài viết của GS Tạ Văn Tài rất có giá trị và luận cứ vững chắc để bác bỏ việc Trung Quốc dựa vào công hàm PVĐ làm cơ sở pháp lý cho việc chiếm đoạt chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa: CHỨNG CỨ LỊCH SỬ VÀ KHÍA CẠNH LUẬT PHÁP VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ QUYỀN CHỦ QUYỀN Ở VÙNG BIỂN CHUNG QUANH. TRIỂN VỌNG GIẢI QUYẾT HÒA BÌNH CÁC TRANH CHẤP ĐÃ VÀ CÓ THỂ XẢY RA VỚI CÁC QUỐC GIA KHÁC BẰNG THƯƠNG NGHỊ, HÒA GIẢI HAY TÀI PHÁN (BS).
- Bao nhiêu bản đồ thì đủ? (pro&contra). “Bao
nhiêu bản đồ thì đủ bảo vệ Hoàng Sa-Trường Sa? Câu trả lời của giới học
thuật quan phương dường như là: càng nhiều càng tốt, bất chấp độ khả
tín và bất chấp nguy cơ phản tác dụng vì rơi đúng vào cái bẫy luận điểm
ngụy biện của phía Trung Quốc“.
- Triển lãm ảnh “Cảm xúc Hoàng Sa – 2014” của phóng viên Nhật (PLTP). – Triển lãm, chiếu phim chủ đề hướng về biển đảo quê hương (TTXVN). – Giao lưu, triển lãm và chiếu phim về Hoàng Sa, Trường Sa tại Hà Nội (TTXVN).
- Tuấn Khanh: Di chúc Bắc Kỳ tự do (BS). “60
năm của những người Bắc di cư vào Nam, cho tôi và thế hệ của mình được
nhìn rõ họ hơn, nhắc tôi phải nói về một bản di chúc lớn, một bản di
chúc vĩ đại mà hơn một triệu người từ bến tàu Hà Nội, Hải Phòng… mang
đến cho cả đất nước. Bản di chúc cũng được lưu giữ trong mắt, trong lời
nói của từng người Việt tha hương khắp thế giới: bản di chúc về tự do“.
- Phạm Trần: Từ Geneve 1954 đến giàn khoan HD-981 (DLB). “Nhưng
câu hỏi đặt ra là tại sao ngay sau Hiệp định Geneve miền Bắc đã vội xin
Liên Xô và Trung Cộng cung cấp vũ khí, đạn dược và lương thực để phát
động cuộc chiến phá hoại nếp sống hòa bình của nhân dân miền Nam (VNCH),
nhưng cho ai và vì cái gì ?“
- Về nhà báo Lưu Đình Triều, một nhân vật của Bên Thắng Cuộc: Khi nhân vật nhảy ra khỏi trang sách “phản ứng gay gắt” tác giả (Nguyễn Hoa Lư). “Lưu
nhà báo, do bản năng tự vệ trước một tin nhắn lạ ‘Xin chào thiếu úy
Việt Nam cộng hòa! He he’ và sau đó là dư luận từ một số nhà báo quốc
doanh mà mất bình tĩnh… Qua BTC, nỗi đau ‘đoàn tụ’ của một gia đình được
khắc vào vĩnh cửu và Lưu Đình Triều nên cám ơn tác giả Huy Đức vậy!“
- Chỉ là ý kiến cá nhân: “Vì sao VNCH sụp đổ nhanh như thế?” (FB LS Lê Đức Minh). Còn một ý nữa là: VNCH không quyết tâm thống nhất đất nước bằng cách “Dù hy sinh đến đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập“.
- Tượng đài CS, một gia tài không ai muốn nhận (Trần Trung Đạo). “Việt
Nam rồi cũng thế. Một ngày những thế hệ trẻ Việt Nam sẽ đến những nơi
tương tự không phải để thưởng ngoạn hay thăm viếng nhưng để học về sự
chịu đựng vô bờ bến của ông bà họ trên đoạn đường đầy máu và nước mắt mà
dân tộc Việt đã phải đi qua“.
- Bạn sẽ làm gì khi tiểu sử bị xuyên tạc? (RFA). “Tôi
nghĩ là về đảng thì không dám lên tiếng nữa rồi bởi vì dù sao cái đảng
này nó đã tồn tại dựa trên những sự dối trá, bây giờ nó tiếp tục dối trá
thì nó mới tồn tại được cho nên không trông mong gì họ dám lên tiếng
cả. Trung Quốc thì nó có âm mưu muốn thổi phồng việc đó lên, nó quy kết
tất cả vấn đề lịch sử của dân tộc của Việt Nam là của Trung Quốc“.
- Làm ăn với TQ: Dự án nhiệt điện và nhà thầu Trung Quốc: Rẻ hóa đắt (NĐT).- Tàu cộng đứng sau Bitexco muốn quản lý vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long trong “chỉ” 50 năm tới? (DLB). “Nếu Quảng Ninh (thực chất là đảng CSVN) giao việc quản lý khai thác trên 4000 km2 biển và gần 3000 đảo cho Bitexco rồi công ty này giao lại cho hay ‘liên doanh’ với các công ty TQ thì coi như TQ sẽ làm chủ hoàn toàn phần biển đảo phía Bắc lãnh thổ vốn là phên dậu an ninh quốc gia VN, tức là cửa ngõ phía Bắc sẽ bị mở toang cho TQ! Biên giới biển VN ở phía Bắc sẽ bị đâỷ lên bờ và lãnh thổ quốc gia thu hẹp lại mất trên 3000 km2 đẹp bậc nhất nữa...”
- Không bán nước!!! (DLB). “Nếu có cơ hội tôi sẽ tiếp tục thực hiện các hành động liên quan đến “Phong Trào Không Bán Nước”. Nếu người dân thờ ơ với tình trạng xâm lược của Trung cộng và thái độ nhân nhượng của nhà cầm quyền chúng ta sẽ mất nước dần dần theo chiến lược ‘tầm ăn lá dâu’ của Trung cộng. Đừng thờ ơ bằng câu nói: ‘không quan tâm chính trị’ hay ‘bảo vệ đất nước có nhà nước lo’… vì đất nước là của người dân Việt, tất cả mọi người phải hành động trong việc bảo vệ đất nước của cha ông chúng ta“.
- Giới trẻ, nhân dân Việt Nam đang bị Đoàn TNCS HCM lừa phỉnh (DLB). – Càng Sống Lâu Trong Xã Hội Chủ Nghĩa, Con Người Càng Thiếu Đạo Đức (NQ&TD). “ĐỒNG BÀO QUỐC NỘI MÀ CỨ TIẾP TỤC ‘MACKENO’, THÌ CHUYỆN VIỆT NAM THÀNH TÂY TẠNG THỨ HAI, CHỚP MẮT LÀ THẤY NGAY ! ĐỒNG BÀO THẤY GÌ TRONG HÌNH DƯỚI ĐÂY ? 9 TRÁI TIM LÀ ĐƯỜNG LƯỠI BÒ 9 ĐOẠN, 6 SAO VÀNG, 5 SAO LÀ CỜ TRUNG CỘNG, SAO NGOÀI CÙNG LÀ VIỆTNAM. PHẢI CÓ THÁI ĐỘ, ĐỂ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC ĐỒNG BÀOI !” =>
- Lại nhập viện và ói ra máu sau khi “làm việc” với công an (PLTP). – CSGT có quyền đánh người dân trong khi thi hành công vụ? (DCCT). – Thằng Dân Đen – Anh Là Ai Mà Không Thể Là Bạn Của Dân? (Dân Luận). “Trong
vai trò mới là Thanh Kiếm, lá chắn của Đảng, với sự tăng quyền lực cho
mọi lực lượng công an từ thôn xã, phường tới trung ương thì sự nghiệp
cao cả trước đây của các anh là bảo vệ nhân dân ngày một xa rời nhân
dân. Có quyền lực trong tay, được đảng bảo kê, các anh mặc sức tung
hoành, coi tính mạng của nhân dân như cỏ rác“.
- Tại sao người dân lại tỏ ra vui mừng khi hay tin đồng loại chết? (Phương Bích). “Nó
còn hơn cả lưu manh đấy, nó là côn đồ được nhà nước bảo kê, công an
đấy. Bác già nói với giọng vui mừng tột độ như là vừa cắt bỏ được khối
ung thư di căn trên cơ thể mình“.
- Phạm Chí Dũng: Tăng “quyền nhục hình” cho công an? (BBC). “Tổng
quan, Bộ Công an đã tích tụ đến 4 kiến nghị trái ngược và xúc phạm lòng
dân chỉ trong vòng một năm qua. 3 kiến nghị trước thuộc về ‘quyền nổ
súng’ dành cho cảnh sát cơ động để ‘trấn áp bạo loạn’, ‘báo chí phải
tiết lộ nguồn tin’ dành cho báo giới và ‘hình sự hóa xử lý hội đoàn’
dành cho xã hội dân sự“.
- 25 tháng 7: Sinh nhật Nguyễn Hoàng Quốc Hùng (DLB). “Hôm nay, 25 tháng 7 là sinh nhật của anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, một nhà hoạt động công đoàn trẻ tuổi. Cùng với các thành viên của Lao Động Việt là Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương, Hùng đã tham gia tranh đấu cho quyền lợi của công nhân và bị kết án 9 năm tù giam vì đã đứng về phía những người cùng khổ“.
- Chuyện Kể Năm 2014 (Blog RFA). “Chuyện Kể Năm 2000 đã cũ. Những vòng hoa tiễn biệt, cùng với những đoàn người lũ lượt trước linh cửu Huỳnh Minh Trí và Đinh Đăng Định – hy vọng – giúp cho những kẻ hiện đang nắm quyền ở VN hiểu ra được một điều giản dị: đã đến lúc họ phải ra đi, trước khi quá muộn“.
- Tội ác của đảng CSVN đối với PGHH (DCCT). “Từ
ngày có Ban Trị Sự quốc doanh thì 2 ngày lễ lớn là ngày khai đạo và
ngày Đản sanh chỉ có Ban Trị Sự quốc doanh được phép tổ chức còn ngày
lễ 25-2 âl thì Ban Trị Sự quốc doanh hủy bỏ hẵn, còn Giáo Hội PGHH Thuần
Túy vẫn bị nhà cầm quyền cs triệt để cấm tổ chưc và ròng rã 39 năm liên
tiếp (1975-2014) năm nào cũng như năm nào nhà cầm quyền cs phải sử
dụng hàng ngàn công an với mọi phương tiện để mở chiến dịch ngăn chận
không cho Giáo Hội PGHH Thuần Túy tổ chức 3 ngày lễ này“. – Đường về Toà Giám Mục Xã Đoài: “Hành lộ nan” (DLB).
- Thằng Cu Đái… và lão Đáng Đái (BĐX). “Đáng
tao độc quyền trên đời/ Vạch chim- Đáng độc quyền đái…/ Đái lên văn
minh thời đại/ Đái lên đầu lũ dân đen/ Đái lên Tự do Dân chủ/ Đái lên
Chủ quyền thiêng liêng!“- Facebook và sự đánh phá của dư luận viên (RFA). “Việc họ (nhà cầm quyền VN) phải sử dụng một lượng rất lớn Dư luận viên để đánh phá trang Facebook cá nhân, thể hiện sự bất lực của họ; Vì khi một đất nước họ luôn tự hào là tự do dân chủ nhưng phải dùng chiêu trò rất bẩn thỉu, trẻ con như vậy để đối phó, thì mình nghĩ việc làm của họ rất là lố bịch“.
- CÁC HÌNH THỨC DÂN CHỦ VÀ VIỆC MỞ RỘNG DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM (Nguyễn Minh Tuấn).
- Đừng nghe đảng dọa ma (FB LS Lê Đức Minh). “Ý đảng muốn nói rằng ‘Ổn định chính trị để phát triển kinh tế’. Hay chính xác hơn đảng muốn người dân hiểu rằng người VN nên hy sinh các quyền tự do dân chủ kiểu phương Tây để đổi lấy cơm no áo ấm và cuộc sống ‘bình yên’. Một luận điệu hết sức bịp bợm nhưng có rất nhiều người tin và còn đi rao giảng cho người khác nữa“.
- Những chuyện không thể nào tin, nhưng có thật dưới chế độ CSVN (DLB). – Lối thoát cho khiếu kiện đất đai? (RFA). “Chỗ ông Tranh thì chúng tôi không thể tin nữa, vì chính ông vào thẳng Dak Nong gặp tôi và bà Đặng Thị Luận, gia đình 3 liệt sĩ, nhưng đến bây giờ cũng không chịu giải quyết gì hết!”
- Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng giữ lời hứa (LĐ). Bà con chớ vội mừng. Thủ tướng chỉ yêu cầu các Bộ trưởng giữ lời hứa với Thủ tướng và với đảng thôi, không cần giữ lời hứa với dân đâu. Vả lại thủ tướng chỉ yêu cầu các Bộ trưởng giữ lời hứa, còn với Thủ tướng thì chẳng cần giữ đâu. Các Bộ trưởng không giữ lời hứa nếu có bị kỷ luật, đôi khi lại là cái may, bởi vì Hàng loạt cán bộ ‘dính’ kỷ luật được thăng chức (TN). “… nhiều cán bộ mắc sai phạm trong quản lý, điều hành vẫn được bầu làm đại biểu HĐND và bổ nhiệm chức vụ cao hơn“.
- Vinalines kêu cứu Thủ tướng vụ thua kiện 3 triệu USD- Chí Hiếu (KTB).
<= Căn biệt thự của ông quan thanh tra. – Ông Trần Văn Truyền bị xác minh tài sản (BBC). – Có thể xử lý hình sự ông Trần Văn Truyền (BBC).
- Phụ nữ Việt Nam không bị cắt âm vật nhưng có nhiều cái cái cắt còn phi lý hơn và mang nặng tính nam quyền (FB Nguyễn Đình Bổn). “Ví dụ mới đây, các phụ nữ lớn tuổi, từng có người thân cống hiến cho chế độ đã bị cắt suất ‘Mẹ Việt Nam anh hùng’ chỉ vì… tái giá!“
- CÓ LUẬT CẤM ĐỂ LÀM GÌ? (Hồ Hải). Có luật để trình diễn công lý, rằng đất nước ta cũng có luật lệ, chứ không theo luật rừng xanh. Nhưng có luật thì có, luật pháp không quan trọng bằng các lệnh cấm!
- Báo Pháp Luật TP.HCM minh oan cho người thanh niên trẻ (PLTP). Chuyện lạ đời, tòa án mở phiên tòa “xử” chính tòa án đó, và phiên tòa đó yêu cầu chính nó bồi thường cho người mà nó đã xử oan trước đây.
- Vỡ đường ống nước: Giá Chủ tịch Hà Nội quyết liệt như Bộ trưởng Thăng (GDVN).
- Vụ xà xẻo tiền trợ giá: Sẽ xử lý cán bộ sai phạm (NLĐ).
- Đài Loan: ‘Chính phủ VN thiếu thành thật’ (BBC).
- Bộ Ngoại giao lên tiếng vụ 3 phụ nữ Việt bị giết ở TQ (VNN). – Yêu cầu cứu chữa ngay hai công dân Việt Nam bị tấn công tại Quảng Tây (CAND). – Đề nghị TQ điều tra vụ 3 phụ nữ Việt bị giết hại (KP). – Xác minh danh tính, nhân thân 5 người VN bị tấn công ở TQ (MTG).
- Lô hàng quân sự của VN bị tạm giữ khi đi bảo dưỡng (VNN). – Hải quan Phần Lan giữ lô hàng vũ khí thuộc chương trình hợp tác quốc phòng Việt Nam – Ukraina (LĐ). – Việt Nam nói về lô hàng thiết bị quân sự từ Việt Nam đến Ukraine (MTG).
- Cựu thủ tướng Anh lại thăm Việt Nam (BBC).
- Việt Nam-Singapore thắt chặt quan hệ quốc phòng (VOA).
- Châu Á thiếu một cấu trúc an ninh (Phan Ba).
- Hải quân Mỹ – Ấn tập trận với sự tham gia đặc biệt của Nhật Bản (RFI).
- Triệu Phong – Khi người Trung Quốc không chuộng người gốc Á (Khoahocnet).
- Trung Quốc lồng một vụ thử nghiệm diệt tên lửa vào một đợt tập trận rầm rộ để thị uy (RFI).
- Rút giàn khoan, Trung Quốc trù tính những âm mưu mới (ĐV). - Trung Quốc tính đặt ống dẫn dầu dưới biển Đông (MTG). – Việc Trung Quốc khai thông luồng lạch ở đảo Duy Mộng là bất hợp pháp (LĐ). – CUỘC CHIẾN HẬU GIÀN KHOAN (TNM).
- Hội thảo quốc tế về biển Đông (ICESI 2014): Giải quyết xung đột thông qua Luật quốc tế (LĐ). – Việt Nam cần kiện ngay Trung Quốc ra Toà án Quốc tế (MTG).
- Ông Phạm Quang Nghị “đòi nợ” Mỹ: Đề nghị hạn chế các rào cản thương mại (TTXVN/ TT).
- GS Nguyễn Văn Tuấn: Việt Nam sẽ đi về đâu? (BS). “Có
lẽ Việt Nam sẽ chẳng đi về đâu, mà vẫn bồng bềnh trong tình trạng hiện
nay. Bây giờ thì chắc nhiều người đã nhận ra một điều hiển nhiên từ lâu:
Việt Nam không có cải cách thật sự, không có ‘đổi mới’ thật sự. Tất cả
thiết chế chính trị của chế độ vẫn như xưa, không có gì thay đổi. Ngôn
ngữ của lãnh đạo vẫn như thời bao cấp, có khác chăng là có màu mè hơn
một chút. Có thể có vài thay đổi bề ngoài, nhưng bên trong thì vẫn y
chang từ thời bao cấp… Có lẽ Việt Nam không có khả năng tự đổi mới, nên
đất nước sẽ chẳng đi về đâu cả, và khoảng cách giữa Việt Nam và các nước
trong vùng càng ngày càng xa hơn“.
- NHỚ CHUYỆN ĐẢO ICARI (1) / Phạm Mạn (Trần Mỹ Giống). “Ngẫm
lời bác Tổng nói hôm nao:/ ‘xã hội’ ta xây tự thủa nào/ Đợi cả trăm năm
chưa chắc đến!?/ Gập ghềnh đường tới biết là bao!/ Chợt nhớ năm xưa
tuổi chín mười/ Đọc trang sách ấy, chỉ đọc chơi/ Nào hay găm chặt vào
tâm khảm…/ Vết khắc đến giờ, tuổi tám mươi“.
- Tình hình đàn áp đạo Tin Lành ở Việt Nam (DCCT). “Ngày
12/7/2014, sau khi các cán bộ tới kiểm tra ra về thì tối hôm đó côn an
giả dạng côn đồ tiếp tục chọi hàng chục quả trứng thối, vịt chết vào
cổng nhà nguyện và khu vực dạy trẻ gây hôi thối và ô nhiễm cho trẻ em
mẫu giáo“.
- Đạm Ninh Bình: “sống dở chết dở” vì công nghệ Trung Quốc (TBKTSG). – ‘Quả đắng’ nhà thầu Trung Quốc: Mua máy móc về…’trùm mền’? (ĐV). “Trung
Quốc cho vay vốn ODA nên buộc Vinaplast phải chọn nhà thầu cũng như
thiết bị của họ. Nhưng máy móc nghiệm thu xong lại không sản xuất được.
Máy mới nhưng không đồng bộ, chất lượng kém, công suất không đảm bảo nên
khi vận hành đã hỏng hóc ngay, phải ‘trùm mền’, càng sản xuất càng lỗ“.
Cuối cùng là VN ôm 1 đống nợ vay Trung Quốc với lãi suất phải trả hàng
năm, cùng một đống thiết bị kém chất lượng. Làm ăn như thế này, hỏi sao
dân không nghèo, nước không tàn mạt, lụn bại sao được?
- Quảng Ninh không thể tự quyết cho Bitexco khai thác vịnh Hạ Long (MTG). – Nhượng quyền thu phí Vịnh Hạ Long: Quảng Ninh phân vân vì… (ĐV). – Bitexco đề xuất nhượng quyền khai thác Vịnh Hạ Long: Lo ngại ảnh hưởng quyền lợi cộng đồng (DV). – Quảng Ninh không giao cho Bitexco quyền quản lý vịnh Hạ Long (DV). “Đã
có sự lầm tưởng là tỉnh Quảng Ninh xem xét giao vịnh Hạ Long cho
Bitexco như một dự án với thời gian 50 năm. Bitexco chỉ được xem xét
quyền giao dịch dịch vụ ở vịnh Hạ Long“. – DƯ LUẬN VÀ BÁO CHÍ KHÔNG LÊN TIẾNG THÌ…”BÁN” XONG RỒI! (VOV/ Tễu). – Giao quyền thu phí vịnh Hạ Long 10 năm cho doanh nghiệp (MTG).
- Lãnh đạo TP.HCM đối thoại, giải quyết khiếu nại của dân
(TT). Mỗi tháng họp giải quyết khiếu nại một lần với chỉ có 3 trường
hợp thì đến khi nào mới giải quyết dứt điểm nạn cưỡng chiếm đất đai trái
phép? Xin hãy bắt đầu làm việc một cách hệ thống và nghiêm túc thay vì
chỉ mang tính hình thức, biểu diễn đầy tính chất mị dân.
- GIÀNG BỘ CHẢNG ! (TNM). “Cho
đến khi nào một chính phủ do dân và vì dân nắm quyền điều hành đất nước
thì mới có cơ may Giàng bộ trưởng gia nhập… đội quân bán vé số dạo để
mà nghiền ngẫm cái thu nhập cao của đội quân này !“
- Ai giám sát người giám sát? (TBKTSG). “Giám
sát hoạt động của đại biểu do đó phải là vai trò của cử tri cả nước, là
người qua lá phiếu của mình chọn lựa người đại diện cho quyền lợi của
mình. Chính cử tri là người sẽ quyết định đại biểu có còn xứng đáng với
sự tin cậy của họ hay không. Và để cử tri cả nước làm được vai trò giám
sát này, điều quan trọng phải là công khai minh bạch toàn bộ các hoạt
động của các đại biểu“.
- Vụ
án kéo dài 4 năm chưa giải quyết xong giữa ô-tô Trường Hải với ông Hồ
Đắc Tuấn và những bí mật “động trời”: “Cá lớn nuốt cá bé” và sự “bảo kê”
của cơ quan chức năng? (NCT). – Vụ
án kéo dài 4 năm chưa giải quyết xong giữa Ô-tô Trường Hải với ông Hồ
Đắc Tuấn và những bí mật “động trời”: “Cá lớn nuốt cá bé” và sự “bảo kê”
của cơ quan chức năng? (Tiếp theo kì trước) (NCT).
- Thắng kiện vẫn bị cưỡng chế (TT).
- Mỹ-Ấn-Nhật: Sợi xích nóng xuyên đại dương siết chặt Trung Quốc (ĐV). – Nhật Bản chi hàng tỷ USD đóng 2 tàu khu trục (VNN).
KINH TẾ- Toàn cảnh kinh tế Việt Nam 24-7-2014 (VietFin).
- Tổng quan chuyển động BĐS ngày 24-7-2014 (VietFin). – Chứng khoán ngày 24/7: Blue-chips lại kéo VN-Index vượt 600 điểm (VnEconomy). – Nhận định chứng khoán ngày 25/7: “Sẽ chinh phục mốc 610” (VnEconomy). – Blog chứng khoán: Dòng tiền trì trệ (VnEconomy). – Thận trọng trước… sóng? (ND).
- “Ngân hàng Nhà nước sẽ không nâng tiếp giá mua USD” (VnEconomy).- Giá xăng tăng liên tục với mức kỷ lục: lỗi do đâu? (RFA). “Không thể coi xăng dầu như rượu, golf, casino được, bởi vì xăng dầu là mặt hàng thiết yếu họ không dùng không được cho nên không thể đánh thuế tiêu thụ đặc biệt để tiết chế tiêu dùng”.
- “Bitcoin Việt Nam lập sàn là thách thức các cơ quan quản lý” (VnEconomy).
- “VCCI có sai sót nhưng không tiêu cực, tham nhũng” (VnEconomy).
- Chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa: Trung Quốc muốn “Thoát-Mỹ” – Mà không dễ (RFA). “Với khối dự trữ ngoại tệ khổng lồ, họ được cái danh hão để hù dân là trở thành chủ nợ của nước Mỹ với một ngàn hai trăm tỷ Công khố phiếu Hoa Kỳ ở trong tay. Thật ra, họ cứ nơm nớp lo là khoản tài sản đó mất giá. Bây giờ còn lo thêm là vì nội tình bất ổn, và nhân công có tay nghề thì ít nên cứ đòi tăng lương làm cho giới đầu tư sẽ tìm xứ khác làm ăn. Tôi nghĩ lãnh đạo Bắc Kinh muốn “Thoát Mỹ” mà không nổi!“
- Hàn Quốc vuốt râu hùm : Dây chuyền bánh Pháp Paris Baguette mở cửa hiệu tại Paris (RFI).
- Giao dịch phiên sáng 25/7: Sóng penny (ĐTCK). - Tóm tắt phiên giao dịch sáng 25/7 (TBNH).
- NHTM huy động vốn của BHXH không đúng Luật, Agribank nhiều sai phạm trong cho vay (CafeF). – Argibank, Vietcombank và Vietinbank đều huy động vượt trần lãi suất (BizLive).
- Một khu vực bị nghi ngờ (TBKTSG). “Vì sao khu vực kinh tế tư nhân không được tin tưởng là làm ăn đàng hoàng với chính quyền và tốt lành đối với khách hàng ?“
- Ngành cao su: “Tránh bỏ cùng một giỏ” (ĐĐDN).
- Bắc – Nam sẽ có hai “đường bay một chiều”? (VnEconomy).
- Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright – Bài 37: Giá trị danh nghĩa so với giá trị thực (TBKTSG).
VĂN HÓA-THỂ THAO- CHIM HÓT TRONG LỒNG – Tiểu thuyết NHẬT TIẾN -KỲ 3 (Nhật Tuấn).
- Trần thị Nhật Hưng – Nói Với Ai Bây Giờ? (Khoahocnet).
- Văn học miền Nam: Một số “tác giả lẻ” (Nhị Linh).
- Ngày mưa mờ nhạt, ngón tay đứt và vị chua thoảng (Da Màu).
- Tư duy tiểu nông và nền văn hóa xe máy (THĐP).
- ĐẤT BUỒN (Tương Tri).
- OSHO – Tìm kiếm tính cách, truy tìm tính cá nhân (Phạm Nguyên Trường).
- Ông Nguyễn Minh Diễm, cựu giám đốc Việt ngữ RFA, qua đời (NV).
- Nữ nghệ sĩ Quỳnh Giao qua đời (VOA). – Nghệ sĩ Quỳnh Giao qua đời, hưởng thọ 68 tuổi (NV). – Phỏng Vấn Quỳnh Giao (Dainamax). - Bài báo cuối cùng của nghệ sĩ Quỳnh Giao: Tạp Ghi Quỳnh Giao (Dainamax) – Những bài hát hay nhất của Quỳnh Giao (Tân nhạc official).
- Vũ Thế Thành – Sống chậm buồn như bolero ở Bonneval (Khoahocnet).
- Về “ca sĩ Lệ rơi”: Nguyễn Ngọc Già – Nhạc là vậy đó hả? (Dân Luận).
- Ngô Khôn Trí – Những kỷ niệm của một chuyến trở về thăm Nhật Bản (Khoahocnet).
- Trịnh Minh Châu: Đọc “VỀ LẠI THĂNG LONG” (TCTP).
- Nhiều trở ngại trong bảo tồn di sản Hoàng thành Thăng Long (TTXVN). – Kiến nghị khẩn cấp cứu Hoàng Thành Thăng Long (DT). – Cấp cứu Hoàng thành, nhanh còn kịp (TP). – Đừng đổ rác vào di sản (LĐ).
- Nghi lễ hiến tế qua ngôi đền cổ mới phát hiện (ND).- Hồ sơ thương mại bằng… đất sét (GDTĐ).
- Thế giới tinh thần Cham 22. Phản tỉnh Cham (Inrasara).
- Cửa Lò – Ngày ấy, bây giờ – Kỳ 2: Làng chài mùa biển (giadinh.net).
- GS Tôn Thất Trình – Luận Bàn về Phát triển Bến Tre (Khoahocnet).
- NHỮNG LOẠI THỊT BÒ NÀO TRONG BÁT PHỞ (Nguyễn Tường Thụy).
- Câu cá chuối tổ (TCTP). – Lạ miệng với món “bạch tuộc mini” vùng Quảng Ninh (DT).
- Leonardo Boff và Dalai Lama – TÔN GIÁO KHÔNG QUAN TRỌNG (Khoahocnet).
- Những bộ phim khoa học viễn tưởng hay nhất mọi thời đại (DT).
- Nhà tiên tri dự đoán gì về năm 2014? (GTVT).
- Nguyễn Vĩnh Nguyên: Về một loại chó săn trong phê bình văn nghệ (viet-studies). “Đọc
bài viết của ông Đỗ Ngọc Yên, tôi đã nghĩ, Wikipedia nên sớm cập nhật
thêm một loại chó săn mới. Loại này vừa chỉ điểm, vừa ăn sẵn, vừa nhớ
mùi lâu, vừa hung hăng, vừa theo bầy, và dĩ nhiên, là vừa trung thành,
vừa hăng hái đến kệch cỡm – chó săn trong phê bình văn nghệ. Những
người lạc quan chủ nghĩa nói với nhau rằng, loài này chó săn này đã
tuyệt chủng trên thế giới. Và có thể cũng sắp tuyệt chủng ở Việt Nam.
Kinh nghiệm của tôi là sống ba năm thì mới may mắn gặp được một hai con“.
- VỀ VIỆT NAM MÌNH CỰC LẮM! / Vũ Duy Chu (Trần Mỹ Giống). – KÌ CỤC LIỆT TRUYỆN (1): BÃI BỎ CẤP KÌ / Vũ Duy Chu
- SAO MAI VÀ NƯỚC MẮT (Ngô Minh).
- Phan Nhật Nam và, “Phận Người Vận Nước” (Du Tử Lê).
- Vũ Duy Phú: Lại bàn về cái Gốc (BVN).
- Nguyễn Quang Thân: Điều đáng sợ nhất là thiếu người tài! (Văn Việt).
- HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VÀ SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TỈNH NAM ĐỊNH TỔNG KẾT TRẠI SÁNG TÁC VĂN HỌC NGHỆ THUẬT NHÀ TRƯỜNG NĂM 2014 (Trần Mỹ Giống).
- MỘT CÂU HỎI CHO CHƯƠNG TRÌNH “AI LÀ TRIỆU PHÚ” / Vũ Duy Chu (Trần Mỹ Giống).
- Phố cổ bên Tây (NBG).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC- Thành lập Trường Đại học Việt Nhật (TT).
- Tiết lộ về thủ khoa khối C cao điểm nhất nước (DT). – Thủ khoa “kép” từ chối học bổng 100 triệu vì đam mê Vật lí hạt nhân (DT).
- TS Nguyễn Khánh Trung: ‘Kết quả học tập nên bí mật’ (VNE).
- “Room to read” và thành quả hoạt động tại Việt Nam (RFA).
<- Lò đốt rác ông Kiên – Không thể không nói (Baron Trịnh). “… cần phải góp thêm tiếng nói về vụ việc, để những người làm báo không hiểu chuyên môn nên có tự trọng với việc viết lách, vì những điều họ viết đã và đang làm người dân hiểu sai bản chất của sự việc. Vô hình dung cổ súy cho những ‘phát minh‘ thiếu thực tế và nguy hiểm của những người nông dân thiếu kiến thức khoa học công nghệ, nhưng lại có ảo tưởng là mình đã nắm được cả thế giới“.
- Triết lý vui từ hai bức ảnh (Nguyễn Hoa Lư).
- Tỷ phú Trung Quốc bị đả kích vì tặng đại học Havard 15 triệu đô la (RFI).
- Điều trị đau mắt đỏ bằng sữa mẹ, tinh dầu: ‘Bài thuốc’ gây hại (MTG).
- Những người nào nên hạn chế ăn ngũ cốc nguyên hạt? (GDVN).
- THUỐC HAY CÒN PHỤ THUỘC VÀO CÁI TÂM CỦA THÀY THUỐC (FB Đặng Bích Phượng).
- Bác sĩ giải phẩu đã nhổ 232 cái răng của một thanh niên ở Ấn Độ: Big Mouth: Surgeons Remove 232 Teeth from Teen in India (NBC News).
- Công nghệ tàn phá sức khỏe như thế nào? (DT).
- Hàn Quốc : Đồng hồ thông minh để theo dõi con cái (RFI).
- Những trích đoạn hay – 03: TIN CỰC NÓNG: BẢN BÁO CÁO CỦA HAI PHI HÀNH GIA MẤT TÍCH VỀ NỀN VĂN MINH NGOÀI TRÁI ĐẤT (FB Ha Hong Le).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
- Về bà Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến: Bộ trưởng và Facebook (LĐ).
- Bác sĩ ăn trộm thận? Vụ cắt thận bệnh nhân khi phẫu thuật: Gia đình nạn nhân mòn mỏi chờ giải quyết (DT). “Ca mổ lần 2, gia đình không hề có trao đổi đồng ý nào với phía bệnh viện. Và đặc biệt là khi kíp mổ cắt bỏ thận chị T mà không hề lấy ý kiến của gia đình, thậm chí cắt thận rồi còn giấu nhẹm chỉ đến khi gia đình bệnh nhân phát hiện thì bệnh viện mới thừa nhận“.
- Kết luận nguyên nhân cái chết của chưởng môn phái Bình Định Gia (PLTP).
- Yêu cầu “mạng đổi mạng”, người nhà nạn nhân làm náo loạn công đường (DT).
- Nạn nhân bị xả súng ở tiệm cầm đồ kể lại giây phút kinh hoàng (DT).
- Niêm phong nhà “đại gia” buôn gỗ Lào “vỡ nợ” gần trăm tỷ đồng (DT).
- Sống sót kì diệu sau 5 ngày bị kẹt trong kho lạnh âm 10 độ C (DT). – Trở về từ cõi chết (NLĐ). – 5 ngày bị vùi trong kho lạnh: Nạn nhân bỏng lạnh nhiều vùng cơ thể (DT). – Công nhân bị kẹt trong kho lạnh được chuyển lên Bệnh viện Chợ Rẫy (DT).
- Cho tiền người ăn xin – tiếp tay cho người lười nhác? (ANTĐ).
- Nói 16 tấn bột sương sáo bẩn “đạt chuẩn”: Người dùng nên tin ai? (GDVN). “Trong đó sản phẩm bột sương sáo đen có chứa hàm lượng asen (As) là 18,5 mg/kg, trong khi tiêu chuẩn cho phép là 1mg/kg (cao hơn gấp 18.5 lần tiêu chuẩn cho phép), hàm lượng thủy ngân (Hg) là 0,55 mg/kg, trong khi tiêu chuẩn cho phép là 0,05 mg/kg (cao hơn gấp 11 lần so với tiêu chuẩn cho phép). Sản phẩm Bột sương sáo trắng có chứa hàm lượng thủy ngân (Hg) là 0,37 mg/kg cao hơn gấp 7,4 lần tiêu chuẩn cho phép“.
- Thị trường đồ ăn nhanh tại Trung Quốc đang “dậy sóng” (PLTP). – Vụ ‘thịt thối’ ở TQ: Công nhân Husi nói ăn thực phẩm quá hạn không chết đâu! (MTG).
- Lũ tràn về bất ngờ, dân bì bõm trong biển nước (TT).
- 4 tỉ đồng nhập 3 hươu cao cổ châu Phi về Việt Nam (TT).
- Giới hoạt động kêu gọi nâng cao giáo dục để hạn chế lây nhiễm HIV/AIDS tại TQ (VOA).
- Tai nạn xe lửa tại Ấn Ðộ, ít nhất 12 trẻ em thiệt mạng (VOA). – Tàu hỏa đâm xe bus ở Ấn Độ, 20 trẻ em thiệt mạng (VNE).
- Lật thuyền ở Malaysia, 26 người mất tích (VNE).
- Hàn Quốc tiêu hủy 600 con lợn vì dịch lở mồm long móng (VOA).
- Thế giới có trên 2,2 tỉ người nghèo và cận nghèo (RFI).
- Fukushima : TEPCO công nhận thất thoát chất phóng xạ (RFI).
- Máy bay chậm, hủy chuyến là chuyện tất yếu? (TVN). “Chỉ
số OTP của hãng HK đạt thứ hạng cao nhất là Japan Airlines là 93,11%.
Con số 95% chuyến bay đúng giờ như lời hứa của TGĐ VietJet Air và
Jetstar Pacific có thể đạt được trong một giai đoạn ngắn nào đó, nhưng
về dài hạn chắc chắn là không thể“. – Sẽ thanh tra, xử lý vi phạm tình trạng chậm, hủy chuyến bay (LĐ).
- Cấm uống rượu bia – tốt có phải luôn hợp lý? (TBKTSG).
- Nước sạch mà…. chưa sạch (TBKTSG).
- TQ: Tài Xế Dùng Bằng Giả, Có Ai Đi Xe Buýt Không? (ĐKN).
QUỐC TẾ- Máy bay Algeria chở 116 người bị mất tích (VOA). – NÓNG: Máy bay chở 116 người có thể đã rơi tại Niger (LĐ). – Máy bay Algeria chở 119 người rơi ở Niger (VNN). – Máy bay Algeria chở hơn 120 người đã rơi (DT). – Phi cơ Algeria ‘bị mất liên lạc’ (BBC). – Một máy bay Algérie bị rơi, ít nhất 50 nạn nhân người Pháp (RFI). – Điều động chiến đấu cơ Pháp tìm kiếm máy bay Air Algerie mất tích (PLTP). – Khởi sự tìm kiếm máy bay Algeria chở 116 người bị mất tích (VOA). – Máy bay Algeria mất tích, lại ám ảnh ‘số 7′ (TG). – Máy bay Algeria chở 116 người “rơi ở Niger” (VnEconomy). - Máy bay Algeria gặp nạn ở vùng bất ổn (VNN). – Máy bay Algeria rơi: Thời tiết xấu hay bị bắn hạ? (DT). – Ngoại trưởng Pháp: Máy bay Algeria mất tích có thể đã bị rơi (VOA). – 2014 – Năm của liên tiếp những thảm họa hàng không kinh hoàng (Kênh 14). – Tin thế giới 18h30: Liên tiếp có thảm kịch hàng không sau vụ MH17 (Infonet).
- Đài Loan : Tai nạn hàng không, 48 người thiệt mạng (RFI). – 31 nạn nhân trong vụ rớt máy bay Ðài Loan được nhận dạng (VOA). – Tìm thấy hộp đen máy bay Đài Loan (VNE). – Giới chức Đài Loan bênh vực quyết định cho ATR-72 cất cánh (VOA). – Bí ẩn nguyên nhân máy bay Đài Loan rơi (NLĐ).
- Ai đã bắn hạ máy bay giết 298 người? (RFA). “Nhiều dữ kiện khách quan cho thấy phiến quân thân Nga ở Đông Ukraine là thủ phạm bắn hạ chiếc máy bay bằng hỏa tiễn phòng không S-11 của Nga, do Nga viện trợ. Và trong khi truyền thông Liên Bang Nga đua nhau nêu ra nhiều kịch bản để chạy tội cho phiến quân ở Ukraine và đổ cho chính phủ Ukraine là thủ phạm vụ giết người này, thì Tổng thống Putin đã không trực tiếp bác bỏ sự quy trách cho phiến quân, cũng không buộc tội cho chính phủ Ukraine, mà chỉ nói rằng ‘tai họa đã không xảy ra nếu Kiev không chấm dứt thỏa thuận ngưng bắn với những người ly khai’.”
- Đã xác định vị trí đặt bệ phóng tên lửa bắn hạ MH17? (NĐT). – Nhiều vết thủng phát hiện trên thân máy bay Malaysia (RFI). – ICAO: Hộp đen máy bay MH17 đang ở trong tình trạng tốt (ANTĐ). – Australia tìm cách bảo vệ an ninh địa điểm MH17 bị bắn rơi (VOA).
- Bài phát biểu của Ngoại trưởng Hà Lan về MH17 khiến cả thế giới lặng người (Kênh 14). – Phát biểu lặng người của Ngoại trưởng Hà Lan (VNN). “Tôi phát biểu ở đây không phải với tư cách đại diện của một quốc gia, mà với vị trí của người chồng, người vợ, người cha, người mẹ. Thử hình dung đầu tiên bạn nghe tin chồng mình thiệt mạng, rồi hai ba ngày sau bạn thấy hình ảnh ai đó lấy chiếc nhẫn cưới từ tay ông ấy“. – Hà Lan tiếp nhận thi thể nạn nhân MH17 (BBC). – Vụ MH17: Gian nan quá trình nhận dạng thi thể nạn nhân (KP). – Vụ MH17: Người nhà nạn nhân đến vùng chiến sự vì tin con mình còn sống (TTVH).
- Sẽ sớm đưa thi hài ba nạn nhân Việt trên MH17 về nước (VNE). – Nhanh chóng đưa thi hài 3 mẹ con người Việt về nước (VNN). – 3 nạn nhân người Việt trên MH17 sẽ được an táng tại quê nhà (Infonet). – Bộ Ngoại giao không đưa ra thông tin về bồi thường hơn 10 tỷ đồng cho gia đình 3 nạn nhân Việt Nam vụ MH17 (LĐ).
- Ukraine: Nga muốn thủ tiêu các thủ lĩnh ly khai Donbass sau vụ MH17 (TTXVN). – Mỹ không thể chứng minh MH17 bị tên lửa Ukraine bắn rơi (VOV). – Trừng phạt của phương Tây chỉ là “hạt đậu”! (NLĐ).
- Giao tranh tiếp diễn ở Dải Gaza (VOA). – Xung đột Gaza: Gần 750 người đã thiệt mạng (LĐ). – Liên Hiệp Quốc mở điều tra về cuộc tấn công vào dải Gaza (RFI). – Israel nhắm mục tiêu vào các hệ thống đường hầm ở Dải Gaza (VOA). – Israel không kích trúng trường học của LHQ ở dải Gaza (VOA). – Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm bay đến Israel (VOA). – Số tử vong trong vụ xung đột giữa Israel-Gaza vượt quá 700 người (VOA). – Bangkok kêu gọi Israel di chuyển lao động Thái gần dải Gaza, sau khi một người bị tử thương (RFI).
- Thủ tướng Ukraine bất ngờ từ chức (DT). – Thủ tướng Ukraine từ chức (VOA). – Quân đội Nga tạo thế đối trọng ở đông bộ Ukraine (VOA).
- 2 máy bay quân sự bị bắn hạ, Ukraina cáo buộc Nga (LĐ). – Một nhà báo cộng tác với đài CNN bị bắt cóc ở Ukraine (VOA).
- Obama chúc mừng tân lãnh đạo Indonesia (BBC). – Tổng thống Mỹ muốn tăng cường quan hệ hợp tác với Indonesia (VOA).
- Ông Fouad Massoum được bầu làm Tổng thống Iraq (VOA). – 60 người chết trong vụ tấn công ở Iraq (VOA).
- Na Uy: Có ‘đe dọa cụ thể’ về tấn công khủng bố (VOA).
- Hai nhân viên cứu trợ Phần Lan thiệt mạng tại Afghanistan (VOA).
- Trung Quốc kéo dài tuyến đường xe lửa từ Tây Tạng đến biên giới Ấn Độ (RFI).
- Tìm thấy mảnh vỡ máy bay Algeria ở Mali (BBC). – Tìm thấy xác máy bay Algeria rơi ở Mali (VNN). – Xác máy bay hãng Air Algerie chở 119 người được phát hiện ở Mali, không ai sống sót (TN). – Chưa thể tiếp cận xác máy bay Algeria (VNN). – Tuần lễ đen tối của ngành hàng không dân dụng, 462 người chết (TN). - 3 thảm họa hàng không kinh hoàng trong 7 ngày (Zing). – Giới chức hàng không quốc tế họp về an toàn bay (VNN).
- Nga cáo buộc Mỹ làm giả bằng chứng vụ MH17 (VNE). – Mỹ tố Nga chuyển bệ phóng tên lửa “mạnh hơn nhiều” cho quân ly khai Ukraine (DV). – Mỹ cáo buộc Nga sắp trang bị tên lửa mạnh hơn cho phe ly khai Ukraina (LĐ). – MH17: Trung Quốc bênh Nga, chỉ trích phương Tây (NĐT/ TG).
- MH17: Các nhà điều tra Anh lấy được dữ liệu từ hộp đen thứ hai (GTVT). - Anh phân tích dữ liệu trong hộp đen MH17 (Zing). – Hộp đen của MH17 bắt đầu lên tiếng (VNN). - Những điều chờ đợi phía sau cuộc giải mã hộp đen (CAND). – Phát hiện bất ngờ: Có lỗ đạn súng máy trên xác MH17 (LĐ). – Có dấu vết lỗ đạn trên xác máy bay MH17 (VNE).
- “Chúng ta có mặt ở đây để bàn về một thảm kịch” (TT). – Nhường ghế cho khách, nhân viên Malaysia Airlines thoát chết trong thảm kịch MH17 (DV). – Tìm thấy thêm nhiều thi thể và mảnh vỡ máy bay Malaysia (Tin Nóng).
- Thủ tướng và Nội các Ukraina từ chức (VNN).
* RFA: + Sáng 24-07-2014; + Tối 24-07-2014* RFI: 24-07-2014
* Video RFA: + Bản tin video sáng 24-07-2014; + Bản tin video tối 24-07-2014; + Thế Giới Trong Tuần 24-07-2014
2787. Tăng “quyền nhục hình” cho công an?
Phạm Chí Dũng – Nhà báo Tự do từ Tp HCM
24-07-2014
Công
an phường xã có quyền “tiến hành kiểm tra, xác minh ban đầu” là nội
dung quan trọng nhất và cũng khiến gây tranh cãi nhiều nhất trong giới
đại biểu Quốc hội và chuyên gia pháp luật chưa đến nỗi hoàn toàn vô cảm.
Nội dung đầy tính “sáng tạo” trên nằm
trong khoản 2 Điều 25 của Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự,
theo đó ngoài quy định công an xã, phường, thị trấn, đồn công an, trạm
công an có các quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập hồ sơ,
phân loại và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm xác định có dấu
hiệu tội phạm…, công an xã, phường còn được tăng quyền tiến hành một số
hoạt động điều tra ban đầu.Tản quyền hóa và nạn “tự tử”
Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng đột biến trong những năm gần đây trên khắp các vùng đất nước chắc chắn là một trong những nguồn cơn chính yếu để Bộ Công an và sở công an các tỉnh thành tìm cách “tản quyền”.Thế nhưng trong một nền hành chính mà nạn “trên bảo dưới không nghe” ngày càng tồi tệ, tình trạng tản quyền hóa đã lan tràn từ lâu, với quyền năng sinh sát nằm trong tay một đội ngũ công an phường xã rất thiếu được đào tạo bài bản nhưng lại thừa thãi tinh thần “kiêu binh”. Hệ lụy quá bất tương xứng như thế đã dẫn tới hậu quả một số công an viên và dân phòng ấu trĩ về kinh nghiệm đến mức không thuần thục ngay cả thủ đoạn… đánh người.
Cái chết của một người đàn ông có tên là Ngô Thanh Kiều trong đồn công an ở Phú Yên vào năm 2012 do bị đánh vào chỗ hiểm là một điển hình của rất nhiều điển hình về điều mà cộng đồng quốc tế lên án cảnh sát Việt Nam sử dụng nhục hình.
Nạn nhục hình càng đáng được ghi khắc vào những năm gần đây. Cùng với hiện tượng nổi lên ngày càng nhiều tiêu cực của ngành công an Việt Nam, những cái chết được mô tả là “tự mình giết mình” cũng nối tiếp nhau sinh thành. Hàng loạt vụ việc được công an địa phương báo cáo là “tự treo cổ” đã xảy ra: Nguyễn Công Nhựt ở trụ sở công an thuộc Bình Dương, anh H. cũng ở trụ sở công an thuộc Bình Dương Bình Dương, Bùi Thị Hương ở trụ sở công an thuộc Bình Phước, Đỗ Văn Bình ở trụ sở công an thuộc Đà Nẵng, Đặng Trung Trịnh ở trụ sở công an thuộc Hải Dương…
Đặc biệt từ năm đầu 2013, khi Tổ chức Ân xá quốc tế lần đầu tiên đặt chân đến Việt Nam tính từ thời điểm năm 1975 và báo chí “lề trái” quật khởi tính phản biện, cho đến nay có ít nhất 15 cái chết do “tự tử” trong đồn công an bị giới truyền thông phát hiện.
Chính bởi thực trạng quá tối tăm như thế, khi Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự được đưa ra thảo luận, các đại biểu quốc hội đã phải đặc tả về một nguyên nhân sâu xa khiến người dân sợ hãi về dự thảo này: tại các trụ sở của công an xã, huyện liên tiếp xảy ra những vụ chết người mà nguyên nhân đều “rất khó hiểu, khó tin và khó chấp nhận”.
Cả nước là “cơ quan cảnh sát điều tra”
Nhiều chuyên gia pháp luật cũng cho rằng nếu đưa lực lượng công an xã vào điều tra ban đầu là rất nguy hiểm. Lý do là ngoài việc tìm ra tội phạm, việc bảo mật thông tin ban đầu là vô cùng quan trọng.Việc này công an xã khó đáp ứng được và sẽ có nhiều tiêu cực phát sinh như tuồn thông tin ra ngoài, bao che tội phạm… gây khó cho cơ quan cảnh sát điều tra điều tra sau này. Một sự thật là khi quyền lực của “quan xã” càng cao bao nhiêu thì việc quản lý càng gặp khó khăn bấy nhiêu.
Vào lần này, điểm bổ sung và đặc biệt khác với Pháp lệnh công an xã năm 2008 chính là việc công an phường xã có quyền “tiến hành kiểm tra, xác minh ban đầu” trong Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
“Nếu công an phường, xã được tham gia điều tra, chắc chắn sẽ có thêm nhiều người bị đánh bầm dập lúc xét hỏi” – phần đông dư luận người dân lập tức phản ứng gay gắt khi dự thảo trên còn e ấp phía sau tấm rèm buông nơi tĩnh phòng quốc hội.
Ngay Kiểm sát viên cao cấp Võ Văn Thêm, Phó Viện trưởng Viện Phúc thẩm 3 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cũng phải thừa nhận: “Hiện chưa có nước nào trên thế giới lại đưa công an xã, phường… vào lực lượng điều tra. Mục tiêu của dự luật là tinh gọn đầu mối, song chia nhỏ như thế này đang làm phức tạp, tạo ra nhiều lỗ hổng hơn”.
Còn câu hỏi mà người dân phóng ra là cơ chế để quản lý lực lượng tác nghiệp công an phường xã sẽ được thực hiện như thế nào khi chưa có sự chuẩn bị về nhân lực, phương pháp và các biện pháp giám sát cũng như các chế tài cần thiết?
Tuy thế và như thường lệ, cơ quan pháp luật Quốc hội vẫn không thể thỏa mãn được những vấn đề vừa ẩn chứa tính quan liêu vừa ngoài tầm kiểm soát của họ. Dù có thể “thông cảm” với tình trạng vừa quá tải vừa muốn né tránh trách nhiệm của các cơ quan công an cấp trung ương và cả cấp tỉnh thành, nhưng mặt bằng văn hóa và nghiệp vụ quá kém cỏi của lớp công an phường xã là không thể biện minh được cho cơ chế đùn đẩy chức trách trong nội bộ.
Một khi đã được tăng quyền và kế thừa truyền thống quá tản quyền về hoạt động giám sát, đương nhiên sẽ xảy ra tình trạng quân hồi vô phèng ở không ít địa phương và đối với không ít công an viên. Thay vì truy bắt tội phạm, sẽ không thiếu trụ sở công an phường xã biến thành cơ quan cảnh sát điều tra giả hiệu.
Một số công an viên có thể lạm dụng và cả lợi dụng quyền điều tra ban đầu của mình để “bắt cóc” công dân nhằm mục đích trả thù riêng tư hoặc làm tiền. Tệ nạn “mãi lộ công đường” trong ngành công an cũng do đó sẽ chỉ có tiến chứ không thể lùi…
Xem thường Công ước chống tra tấn?
14/3/2014 – đúng vào ngày tưởng niệm cái chết của đảo Gạc Ma sau cuộc đánh úp của hải quân Trung Quốc, tại một hội nghị tổng kết việc thi hành Bộ luật hình sự năm 1999, đại diện Bộ Công an đã tống đạt một đề nghị hết sức chuyên biệt về chuyên chính vô sản: để đáp ứng toàn diện, đầy đủ hơn yêu cầu trong tình hình hiện nay, bộ luật Hình sự sửa đổi sắp tới cần nghiên cứu hình sự hóa nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội đang xảy ra trong thời gian qua như: tổ chức lập hội trái phép, kêu gọi xóa bỏ hoặc thay đổi Hiến pháp…Lời tống đạt trên chắc chắn càng làm khó cho danh thể vốn khá úa tàn của Nhà nước Việt Nam trước Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Tổng quan, Bộ Công an đã tích tụ đến 4 kiến nghị trái ngược và xúc phạm lòng dân chỉ trong vòng một năm qua. 3 kiến nghị trước thuộc về “quyền nổ súng” dành cho cảnh sát cơ động để “trấn áp bạo loạn”, “báo chí phải tiết lộ nguồn tin” dành cho báo giới và “hình sự hóa xử lý hội đoàn” dành cho xã hội dân sự.
Nếu yêu cầu thứ tư về “tản quyền” cho công tác điều tra ban đầu của công an phường xã được Quốc hội lặng gật nhẹ bẫng như đã từng nhất trí tuyệt đối cao về Hiến pháp sửa đổi 2013, tương lai nhục hình nhiều khả năng sẽ đột biến gia vị ở rất nhiều vùng miền, trong đất nước mà một nhà thơ đã mô tả “Thơ tôi khóc lệ rơi hình chữ S”.
Nhiều cái chết “mình tự giết mình” sẽ còn xảy ra vào những tháng ngày tới, trong khi Bộ Công an và Bộ Ngoại giao vẫn thản nhiên “tiếp tục triển khai hội nghị về Công ước chống tra tấn của Liên hiệp quốc” như một sự làm vì.
Bài phản ánh quan điểm riêng và văn phong của tác giả, thành viên Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam.
2788. CHỨNG CỨ LỊCH SỬ VÀ KHÍA CẠNH LUẬT PHÁP VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ QUYỀN CHỦ QUYỀN Ở VÙNG BIỂN CHUNG QUANH. TRIỂN VỌNG GIẢI QUYẾT HÒA BÌNH CÁC TRANH CHẤP ĐÃ VÀ CÓ THỂ XẢY RA VỚI CÁC QUỐC GIA KHÁC BẰNG THƯƠNG NGHỊ, HÒA GIẢI HAY TÀI PHÁN
18-07-2014
Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại phần lớn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (không phải là trên tất cả các đá, bãi ngầm – phải nói thế mới đúng về mặt sự kiện thực tại và về mặt pháp luật và mới tôn trọng các quốc gia khác trong vùng) và các quyền chủ quyền (sovereign rights, về tài nguyên) đi liền với các vùng biển chung quanh chúng, mà luật dành cho Việt Nam, thì có căn bản chắc chắn trong các chứng cớ sự kiện lịch sử và trong quốc tế công pháp truyền thống và luật quốc tế mới của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea,UNCLOS).
Ở đây, chúng tôi chỉ có thể trình bày những điểm chính trong một bài viết ngắn, vì trình bày chi tiết sẽ cần một bài dài hơn. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng đề ra các căn bản vững chắc cho việc xác lập chủ quyền Việt Nam và do đó sẽ tỏ rõ thiện chí của lập trường Việt Nam khi nói đến các đường lối thương nghị, hòa giải và tài phán về chủ quyền quốc gia và khai thác chung quốc tế.
1. Căn bản về sự kiện lịch sử và pháp lý của chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo và của các quyền chủ quyền trong các vùng biển bao quanh chúng
1.1. Sự xác lập chủ quyền lãnh thổ trên từng mẩu đất, đá trong các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Sự xác lập này phải dựa vào quy tắc thủ đắc chủ quyền lãnh thổ của luật quốc tế truyền thống hay thông lệ của 4 thế kỷ qua: một chính quyền của một quốc gia muốn xác lập chủ quyền trên một vùng đất đai thì phải tuyên bố ý định đó, sau khi khám phá hay chiếm hữu đất đai đó, và liên tục quản lý trong hòa bình, và nếu bị một chính quyền khác dùng võ lực chiếm mất, thì phải phản đối để không cho quyền lực mới đó thủ đắc chủ quyền bằng thời hạn tiêu diệt, nghĩa là có một thời gian mà chủ thể quyền lực mới thi hành chủ quyền liên tục mà không ai phản đối.
Mỗi một quốc gia yêu sách chủ quyền đối với một mẩu đất trong hai quần đảo nói ở đây (xin lưu ý chúng tôi dùng chữ “mẩu đất” vì hầu hết, nếu không phải tất cả, các mẩu đất chỉ là đá (reef, rock), chứ không phải là đảo (island), theo định nghĩa của UNCLOS), thì phải trưng ra chứng cứ đã khám phá và chiếm ngụ mẩu đất đó hợp pháp, trong hòa bình. (Vì thế mà Hoa Kỳ luôn nói, rất hữu lý, là không thiên về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, và chỉ khuyến cáo tranh chấp phải giải quyết trong hòa bình, theo luật quốc tế).
Ở Trường Sa, các mẩu đất đã được khám phá, chiếm ngụ và quản lý trong hòa bình bởi các quốc gia Đông Nam Á, và giữa họ không có tranh chấp lớn gì, và thực ra chỉ có tranh chấp khi một thế lực bên ngoài là Trung Quốc, chiếm đoạt bằng võ lực đá Gạc Ma từ tay Việt Nam vào năm 1988, giết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam, và gần đây lấn chiếm đá ngầm Scarborough của Philippines, đuổi dân chài và tàu chiến của Philippines ra xa. Nhưng chiếu luật quốc tế, các vụ xâm chiếm bằng võ lực này không biện minh được cho chủ quyền của Trung Quốc, vì UNCLOS chỉ dành quyền xây đảo nhân tạo trên đá ngầm cho các nước cận duyên, và nhất là cả Việt Nam và Philippines liên tục phản đối để tránh cho sự thủ đắc bằng thời hiệu khỏi xảy ra.
Riêng trường hợp Việt Nam, thì đã có các bằng chứng lịch sử ghi rõ chính quyền Việt Nam thời xưa đã ra lệnh các hải đội quốc gia làm các cuộc hải trình hàng năm của nhà nước ra Hoàng Sa trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến 9 Tây lịch). Hải trình này thực hiện bởi Đội Hoàng Sa (lập vào thời chúa Nguyễn Phúc Lan, 1635 – 1648). Và cũng đi ra Trường Sa, Côn Sơn và Hà Tiên – hải trình này thực hiện bởi Đội Bắc Hải, lập năm 1776. Đó là những chứng tích lịch sử được ghi nhận trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1686) của Đỗ Bá hay trong Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quí Đôn. Ngoài ra, còn có cả chứng cứ trong các tài liệu Trung Quốc, như Hải ngoại kỷ sự (1696) của Thích Đại Sán. Đến thế kỷ XIX, tài liệu lịch sử thời Nguyễn cho thấy các cuộc hải trình do nhà nước tổ chức vẫn tiếp tục từ năm 1803 đến khi người Pháp đô hộ Việt Nam (từ năm 1884), với những chỉ dụ chi tiết cho các đơn vị hải quân và các viên chức hành chánh địa phương. Thời thuộc địa, nhà cầm quyền Pháp nói tới ít ra là 6 đá hay mỏm đất trong vùng Trường Sa. Từ 1945, Việt Nam là quốc gia chiếm nhiều đá nhất với 29 đảo, đá (hay ít hơn, nếu trừ đi số đá bị Trung Quốc chiếm năm 1988 và các năm sau). So sánh với nước khác thì Trung Quốc mới chỉ bắt đầu để ý đến Trường Sa vào năm 1947 qua việc ông Bai Meichu, một nhân viên cấp thấp, vẽ bản đồ “đường 9 đoạn” thâu tóm 80% Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối với Trường Sa, Trung Quốc hành động trên thực tại lần đầu tiên là khi Trung Hoa Dân quốc (THDQ) chiếm đảo Itu-Aba (đảo Ba Bình) năm 1956 mà không cần dùng võ lực, và lần thứ hai là khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc) tấn công lực lượng hải quân Việt Nam năm 1988 tại đảo Gạc Ma. Trong khi Trung Quốc dùng võ lực lấn chiếm một số đá ở Trường Sa, thì Việt Nam tôn trọng luật quốc tế và quyền lợi các nước Đông Nam Á, vì Luật Biển Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 1.1.2013, ghi nhận là danh sách các đảo, đá thuộc Việt Nam sẽ công bố sau – chắc là muốn định mức độ chủ quyền phải chăng, sau khi bàn với các nước Đông Nam Á khác.
Trong vùng quần đảo Hoàng Sa, tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên các đảo/đá chỉ xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trong biến cố làm cho tranh chấp sôi nổi mạnh mẽ là việc Trung Quốc, vào tháng 5.2014, đặt giàn khoan dầu khí HD-981 ở vùng biển giữa Hoàng Sa và miền Trung Việt Nam, ngay cạnh hai lô thăm dò dầu khí 142 và 143 của Việt Nam, thì Trung Quốc tuyên bố một câu là vị trí đặt giàn khoan “là hoàn toàn trong vùng biển của Hoàng Sa thuộc Trung Quốc”, hàm ý là ở trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, tính từ Hoàng Sa, nơi họ đã chiếm bằng quân sự, gần đây nhất là cuộc hải chiến năm 1974 với Việt Nam Cộng hòa. Vậy ta phải bàn về điểm pháp lý là quốc gia nào có chủ quyền chính đáng trên Hoàng Sa, vì việc tranh chấp chủ quyền nơi đây dã kéo ra một thời gian dài, cuộc khủng hoảng gây ra do giàn khoan HD-981 chỉ là biến cố gần đây nhất.
Những sự kiện lịch sử về việc Việt Nam khám phá và chiếm cứ Hoàng Sa (cũng như một số đá trong Trường Sa, như nói trên) thì có thể truy tầm trong các sử liệu Việt Nam đã có nhiều thế kỷ, thí dụ Phủ biên tạp lục nói ở trên, trong khi đó thì sử liệu Trung Quốc không đả động gì tới Hoàng Sa, Trường Sa, và nói đảo Hải Nam là biên giới cực nam của nước Tàu; trong các sử liệu Tàu đó, phải kể bản đồ chi tiết, năm 1717, thời vua Khang Hi nhà Thanh, do các nhà truyền giáo Dòng Tên nước Pháp soạn, mà một bản sao của J.B. Bourguignon mới được Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Sử liệu Việt Nam thời các vua chúa và thời Pháp thuộc cho thấy nhiều lần nhà nước tuyên bố chủ quyền và xác lập quản lý cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa. Nhật ký của các nhà truyền gíao và du ký của các du khách Tây phuơng cũng nhắc lại như vậy.
Có hai nhóm đảo/đá trong Hoàng Sa. Nhóm phía tây, có tên là Crescent (nhóm Nguyệt Thiềm hay nhóm Lưỡi Liềm), trong đó có Hoàng Sa (Pattle), theo luật quốc tế phải coi là thuộc Việt Nam dù hiện do Trung Quốc chiếm, vì Trung Quốc đoạt bằng võ lực năm 1974 nơi tay Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong sự chống cự của hải quân VNCH thì cũng không tạo ra chủ quyền hợp pháp của họ, và cũng không tước mất đi quyền thừa kế quốc gia về mặt chủ quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam), mà chính quyền này liên tục phản đối sự chiếm cứ của người Tàu từ bao năm nay.
Về nhóm các hòn đảo, đá phía đông của Hoàng Sa, gọi là nhóm Amphitrite, trong đó có Phú Lâm (tiếng Anh gọi là Woody, tiếng Pháp gọi là Boisée), thì do người Pháp lơ là, nên vào năm 1909, Tổng đốc Quảng Đông tự cho mình quyền cho người Nhật khai thác phosphate ở đó, và do đó có người cho là sự xác lập chủ quyền Việt Nam không vững lắm. Nhưng lập trường giải thích ngược lại cũng có lý: nhiều sử liệu cho thấy công ty người Nhật Mitsui Bussan Kaisha tôn vinh thẩm quyền nhà cai trị Pháp, người Pháp vào năm 1920 gửi một phái đoàn khoa học tới Amphitrite, kể cả ở Phú Lâm, rồi vào năm 1938 lập đài khí tượng ở đây, vào năm 1946 phản đối quân đội THDQ chiếm đóng, và sau cùng năm 1950 trao quyền cho chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại khi quân đội Trung Hoa rút lui. Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về hậu chiến, Liên Xô đưa ra đề nghị để Trung Quốc cai quản hai quần đảo, nhưng Hội nghị không ủng hộ, nhưng rồi sau đó Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính phủ Quốc gia Việt Nam ra tuyên bố xác nhận chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa thì không nước nào phản đối. Sau khi Ngô Đình Diệm trở thành nguyên thủ quốc gia tại VNCH (Miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Geneva 1954), thì ngoại trưởng của ông xác lập chủ quyền Việt Nam lần nữa, khi Trung Quốc chiếm Phú Lâm bằng võ lực năm 1956, do đó tránh hậu quả thời tiêu chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa.
Bây giờ ta cần giải quyết một sự kiện: cái công thư (hay công hàm) ngoại giao ngày 14.9.1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH ở Miền Bắc Việt Nam) gửi Tổng lý (Thủ tướng) Chu Ân Lai nhân dịp Trung Quốc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý. Sau nhiều lần viện dẫn công thư Phạm Văn Đồng, coi đó là lời nhượng lãnh thổ Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam, thì vào tháng 6.2014, Trung Quốc lại dùng nó nhân dịp đặt giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Do đó, ta phải bàn luận cứ pháp lý trong chi tiết. Nội dung văn thư đại khái như sau: Sau khi Chu Ân Lai tuyên bố lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý tính từ lãnh thổ Trung Quốc, gồm lục địa và các đảo ở đại dương, như Đài Loan và các đảo quanh đó, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa và các đảo khác, thì ông Phạm Văn Đồng viết cho ông Chu Ân Lai như sau: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý (Chu Ân Lai) rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.
Công thư không nói gì đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Trước hết, Hiệp định Geneva năm 1954 chia đôi Việt Nam đã trao quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, ở phía nam vĩ tuyến 17 (lằn ranh chia cắt) cho VNCH ở phía nam vĩ tuyến đó. Do đó, nhiệm vụ xác lập và hành xử chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc thẩm quyền VNCH. Chính quyền này, và hải quân của họ, đã mạnh mẽ xác định chủ quyền trong và sau trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa hải quân VNCH – lúc đó đang chiếm ngụ và quản lý các quần đảo – và hải quân Trung Quốc xông tới tấn công. Thủ tướng Phạm Văn Đồng của VNDCCH không có thẩm quyền, hay ý định, ra một tuyên bố chủ quyền về các quần đảo lúc đó đang thuộc VNCH. Ông chỉ tuyên bố công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc mà Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố trước đó.
Sự hiện hữu của một quốc gia là một vấn đề sự kiện thực tại (question of fact) theo luật quốc tế. Cho nên dù rằng nguyện vọng trong khẩu hiệu “Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một” biểu lộ một lý tưởng của nhiều người Việt, kể cả Hồ Chí Minh, thì từ năm 1954 đến năm 1975, sự hiện hữu của hai nước Việt Nam, tức VNDCCH và VNCH, là đúng với luật quốc tế, và theo đó VNCH là quốc gia hành xử chủ quyền tại các quần đảo trong thời gian đó.
CHXHCN Việt Nam là quốc gia kế quyền lãnh việc thừa kế vai trò chủ quản các quần đảo. Việc thừa kế chủ quyền này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói tới trong một bài diễn văn tại Quốc hội ngày 25.11.2011. Ông nói rằng vào năm 1974, Trung Quốc dùng võ lực chiếm nốt Hoàng Sa “đang dưới quyền quản lý thực tại của chính phủ Sai Gòn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa lên tiếng phản đối cuộc tấn công và đề nghị Liên Hiệp Quốc can thiệp. Năm 1975..Hải quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa,….năm đảo này do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang quản lý, chúng ta tiếp quản. Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta mở rộng thêm lên 21 đảo”.
Chiếu điều khoản quy định về sự hiện hữu của một .quốc gia trong Công ước Montevideo năm 1933 đúc kết luật pháp quốc tế truyền thống hay thông lệ đã có nhiều thế kỷ, thì VNCH là một chủ thể hội đủ 4 điều kiện pháp lý của một quốc gia: (a) một dân số ổn định, (b) một lãnh thổ rõ ràng, (c) một chính quyền, và (d) khả năng lập bang giao với các quốc gia khác. Khi các quốc gia nhìn nhận một quốc gia hội đủ 4 điệu kiện pháp lý này và lập bang giao với nó, thì sự nhìn nhận này là một quyết định chính trị thêm vào 4 tiêu chuẩn pháp lý. Do đó, dù một quốc gia không ưa và không nhìn nhận một quốc gia khác, nó cũng không thể triệt tiêu tư cách quốc gia của nước đó. Thí dụ Cuba bị Mỹ ghét và không nhìn nhận, thì Mỹ cũng không thể xóa bỏ tư cách quốc gia của Cuba. Trong thập niên 1920, Mỹ không nhìn nhận Liên Xô do người Bolsheviks cai trị, nhưng các tòa án Mỹ cũng phải công nhận quốc gia đó và do đó công nhận quốc gia đó có đặc quyền miễn trừ ngoại giao, không thể bị kiện để bị đòi bồi thường về chuyện quốc hữu hóa các tài khoản ký thác trong các ngân hàng ở Liên Xô. Thế mà VNCH đã được mấy chục nước nhìn nhận. Ngay Liên Xô cũng có lúc đề nghị thu nhận hai nước Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Việc nhận vào Liên Hiệp Quốc chỉ là một vấn đề chính trị và không phải là một tiêu chuẩn pháp lý quyết định sự ra đời của một quốc gia. Hiệp định Geneva quy định là Việt Nam tạm thời chia làm hai miền cho đến khi tổng tuyển cử thống nhất. Sự quy định đó cũng không phải là tiêu chuẩn để nói rằng chỉ có một Việt Nam sau đó, và VNCH “không có dưới ánh mặt trời”. Nói như vậy là không hiểu luật quốc tế trong nhiều thế kỷ đã quy định các tiêu chuẩn của sự hiện hữu của một quốc gia, là lẫn lộn các tiêu chuẩn của luật quốc tế với sự sắp xếp chính trị tạm thời do một số cường quốc đưa ra trong Hiệp định Geneva mà chỉ có một số quốc gia tham gia ký, là quên cả cái thực tại chính trị là vài chục quốc gia đã nhìn nhận VNCH, mà một số nhỏ các quốc gia ký Hiệp định không thể truất quyền của vài chục quốc gia đó.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói, và có thể nói trong quá khứ, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mặc nhiên ám chỉ (mơ hồ trong trường hợp này là một nghệ thuật ngoại giao và chính trị) là có hai nước Việt Nam thời gian 1954 trở đi, và ông chỉ nói tới tuyên nhận 12 hải lý lãnh hải của ông Chu Ân Lai mà không nói đến các vùng đất mà ông Chu liệt kê. Vì rằng làm sao mà ông Phạm Văn Đồng có quyền ban bố cho Trung Quốc chủ quyền đối với các vùng đất, đá cai quản bởi Đài Loan và các nước Đông Nam Á, kể cả VNCH? Nói có hai nước Việt Nam trong thời gian 20 năm đó cũng không làm giảm thành tích thống nhất đất nước sau này, sau năm 1975, vì trong lịch sử thế giới, nhiều quốc gia bị chia cắt rồi lại thống nhất, hay ngược lại. Tan hợp, hợp tan là lẽ thường trên trái đất.
Điểm thứ hai là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ là một tuyên bố đơn phương không có giá trị nhượng đất, chiếu theo luật quốc tế. Cái lý thuyết Estoppel trong luật quốc nội một số nước, theo đó “điều nói ra thì không thể rút lại”, không thể áp dụng dễ dàng trong bang giao quốc tế, vì có điều kiện áp dụng khó hơn, như vụ giữa Đức với Đan Mạch và Hà Lan về tranh chấp thềm lục địa đã xử. Ngoài ra, Tòa án Công lý Quốc tế, trong vụ “Nuclear Tests Case, Australia & New Zealand versus France” năm 1974 (I.C.J.253), xét về ý nghĩa lời tuyên bố đơn phương (unilateral declaration), đã xử rằng khi xét ý nghĩa lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải giải thích chặt chẽ “ý định” của ngưòi tuyên bố: “Khi các quốc gia đưa ra tuyên bố có thể hạn chế bớt tự do hành động của mình, thì cần giải thích chặt chẽ… Chỉ cần xét văn từ trong lời tuyên bố có tỏ rõ một ý định rõ ràng hay không… Tòa án phải có quan điểm riêng về ý định của tác giả về ý nghĩa và phạm vi của lời tuyên bố đơn phương… Và không có thể theo quan điểm của một quốc gia khác không phải là một tham dự viên của lời tuyên bố đó”. Theo tiêu chuẩn của quy tắc luật trong bản án đó, ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong công thư năm 1958 phải được thẩm định theo văn từ hiển hiện trong văn bản (nói theo danh từ các luật sư hay dùng, là “within the four corners of the page”–trong bốn góc của trang giấy), thì công thư trên chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói đến các lãnh thổ thuộc quyền các nước khác. Ngoài ra, công thư cũng nên được chiếu rọi thêm ánh sáng bằng cách đặt công thư đó trong khuôn khổ Hiến pháp 1946 của nước VNDCCH. Theo đó, vai trò Thủ tướng là một nhân viên của nội các, dưới quyền Chủ tịch nước, phó Chủ tịch nước (điều 44); và quyết định quan trọng như nhượng chủ quyền lãnh thổ, thì Chủ tịch nước phải ký một hiệp ước (điều 49, khoản a và h), rồi lại phải có Quốc hội, cơ quan quyền lực tối cao, phê chuẩn (điều 22 và 23). Theo học lý “ultra vires” (vượt quyền), ông Phạm Văn Đồng không thể hành xử quyền qua mặt Chủ tịch nước và Quốc hội được. Nghĩa là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ là lời tuyên bố ủng hộ ngoại giao hải phận 12 hải lý mà Trung Quốc nóng lòng tuyên bố, vì lúc đó mối đe dọa của Hoa Kỳ đang tiến sát tới lục địa Trung Quốc, với sự hiện diện của quân đội Đài Loan có Hoa Kỳ hỗ trợ với tàu chiến và pháo hạm tại 2 đảo Kim Môn và Mã Tổ, chỉ cách Trung Quốc đại lục vài cây số, và với Hạm đội 7 mạnh mẽ gấp bội tại eo biển Đài Loan.
Tóm lại một tòa án quốc tế không cần để ý đến cách giải thích công thư của ông Phạm Văn Đồng năm 1958 một cách chủ quan, như Trung Quốc đã làm, để thủ lợi cho mình.
Còn vài luận cứ khác của Trung Quốc cũng nên bàn để bác bỏ:
Trung Quốc viện dẫn hai bài báo trong Nhân Dân nhật báo, số ngày 6.8.1958 đăng bản tuyên bố của Chu Ân Lai mà có cả đoạn ghi hai chữ Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa) và số báo ra ngày 9.5.1965 phản đối Mỹ vi phạm hải phận Trung Quốc tại Tây Sa và Nam Sa. Trung Quốc cũng nhắc lại lời thứ trưởng ngọai giao VNDCCH Ung Văn Khiêm về sự kiện này, rồi nói VNDCCH đã im lặng nhiều năm, không phản đối Trung Quốc khi Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm thuộc nhóm Amphitrite ở phía đông quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956, và khi Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Cresent phía tây vào năm 1974. Sau hết, Việt Nam đã in bản đồ có ghi tên Tây Sa (Trung Quốc), Nam Sa (Trung Quốc) cùng với cuốn sách giáo khoa lớp 9, có một dòng như sau: “Chuỗi đảo từ Nam Sa và Tây Sa, tới Hải Nam, Đài Loan, Bành Hồ và Châu Sơn, có hình như cái cung và tạo thành bức trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc”.
Việt Nam có thể phản biện là ngay công thư Phạm Văn Đồng cũng không tạo ra văn kiện nhượng đất, thì có ăn thua gì mấy bài báo của phóng viên hay lời nói của ông Ung Văn Khiêm, chỉ nhắc lại nguyên văn những lời của Trung Quốc để “nịnh” Trung Quốc ở thời điểm Việt Nam tùy thuộc viện trợ Trung Quốc. Những lời này không có giá trị nhượng đất, vì theo luật, văn thư nhượng đất phải xuất phát từ các cơ quan có thẩm quyền. Về sự im lặng của VNDCCH khi mất các hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa trước 1975, thì lý do là vào thời gian đó, nhiệm vụ phản đối là ở trong tay VNCH, đang có chủ quyền và đang quản lý các quần đảo. Và VNCH đã phản đối mạnh mẽ, bằng lời và bằng trận hải chiến anh dũng năm 1974. Sau đó, khi sắp thống nhất đất nước và sau khi thống nhất, hải quân của VNDCCH nhanh chóng chiếm Trường Sa, và sau đó, từ 1976, chính phủ nước Việt Nam thống nhất liên tục lên tiếng phản đối Trung Quốc để bảo lưu chủ quyền trên các đảo, đá, đã bị Trung Quốc chiếm. Việt Nam in bản đồ ghi chú như đã nói là chiều theo cách tuyên truyền của Trung Quốc (mà Trung Quốc có cử cố vấn làm việc trong cục bản đồ của Việt Nam), mà không có giá trị của lời minh thị nhượng đất của một cơ quan có thẩm quyền như Quốc trưởng trong một văn bản, và cũng vô giá trị về xác lập chủ quyền như việc Trung Quốc in hình “đường 9 đoạn” vào hộ chiếu do Trung Quốc cấp cho công dân của họ, thì cũng chẳng tạo ra chủ quyền của Trung Quốc đòi chiếm trên 80% Biển Đông. Câu văn trong sách giáo khoa lớp 9 chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền, một hoa ngữ, để ủng hộ Trung Quốc vào lúc mà họ đang lo lời tuyên bố trước đó của Tổng thống Mỹ Johnson ấn định vùng đó là vùng chiến tranh, chứ không phải là văn kiện nhượng đất. Mà làm sao Việt Nam có thể nhượng Đài Loan hay các hòn đảo của các nước Đông Nam Á cho Trung Quốc chỉ bằng việc in một câu trong sách giáo khoa?
Sau khi giải quyết khúc mắc chính là công thư Phạm Văn Đồng năm 1958, thì nếu nhìn toàn cục diện thời gian hơn 20 năm, 1954 – 1975, trong đó có hai nước Việt Nam, ai cũng thấy vai trò xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và quản lý chúng, là ở trong tay VNCH, do Hiệp định Geneva 1954 trao phó. Hiệp định này có một số cường quốc ký, cả Trung Quốc và VNDCCH cũng ký (do ông Phạm Văn Đồng đại diện). Hành xử chủ quyền do quốc tế giao, Tổng thống Ngô Đình Diệm của VNCH ký hai sắc lệnh sát nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa và Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam, gửi hải quân đến các quần đảo này, và cho phép một kỹ nghệ gia khai thác phosphate. Việc xác lập chủ quyền của VNCH đối với quần đảo Hoàng Sa được bày tỏ rõ rệt, mạnh mẽ nhất với cuộc hải chiến ngày 19.1.1974 của hải quân VNCH chống lại hải quân Trung Quốc tới xâm chiếm Hoàng Sa, sau khi Trung Quốc thông báo chủ quyền (với hòn đảo này) vào ngày 12.1.1974 thì VNCH đã phản đối vào ngày 16.1.1974 với lời yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau trận hải chiến, ngày 20.1.1974, VNCH lại yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc họp khẩn để can thiệp. Lần chót VNCH nêu vấn đề chủ quyền và phản đối Trung Quốc là tại Hội nghị Luật Biển của Liên Hiệp Quốc vào ngày 28.6.1974 ở Caracas (Venezuela).
Sau khi thống nhất đất nước, CHXHCN Việt Nam, kế quyền về các quần đảo, đã nhiều lần phản đối sự xâm chiếm của Trung Quốc. Ngày 24.9.1975, khi gặp phái đòan Việt Nam sang thăm, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nhìn nhận có tranh chấp về các quần đảo giữa Trung Quốc và Việt Nam, và gợi ý đàm phán để giải quyết. Liên tục nhiều năm, Việt Nam đã phản đối và đưa ra các chứng cứ lịch sử về chủ quyền, trong lời tuyên bố hay các bạch thư (sách trắng) vào các năm: 1978, 1979, 1980, 1981, 1982, 1984, 1988 (phản đối Trung Quốc tuyên bố sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào đảo Hải Nam), 1990, 1991, 1994 (phản đối Trung Quốc ký hợp đồng với hãng Crestone cho phép thăm dò trong thềm lục địa và vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam), 2012 (phản đối Trung Quốc đưa ra chương trình quản lý các đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa). Việt Nam cũng phải đổ máu bảo vệ chủ quyền ở Gạc Ma năm 1988 khi đem đồ tiếp tế đến cho các chiến sĩ bảo vệ hòn đá đó, mà Trung Quốc tàn sát 64 chiến sĩ hải quân khi họ đang lội nước ngang lưng. Trong vụ giàn khoan HD-981 từ tháng 5.2014 đến nay, Việt Nam đã đưa tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển tới vùng biển nơi HD-981 đang hoạt động trái phép để bảo vệ chủ quyền và yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan. Ngư dân Việt Nam vẫn tiếp tục đánh cá ở gần đó, mặc dùng bị các tàu Trung Quốc bao vây nhưng họ vẫn giữ một khoảng cách an toàn, hầu tránh xung đột võ trang, vừa để mưu sinh, vừa để bảo vệ chủ quyền với sự tự kiềm chế, mặc dù Trung Quốc rất hung hãn, dùng võ lực, đâm tàu Việt Nam và dùng súng nước tấn công tàu Việt Nam. Các lời phản đối và hành động bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển Hoàng Sa trong vụ giàn khoan HD-981 càng cho thấy chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển chung quanh luôn được duy trì, không hề bị xói mòn.
1.2. Quyền lợi Việt Nam trong vùng biển, tức vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Vùng biển quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông là nơi Trung Quốc gây ra tranh chấp vì Trung Quốc vẽ ra “đường 9 đọan”, còn gọi là “đường lưỡi bò”, để mạo nhận chủ quyền trong khu vực rộng tới 80% Biển Đông. Nhưng Trung Quốc không đưa ra được căn bản luật quốc tế nào cho sự nhận vơ này, mà còn mơ hồ hay mâu thuẫn trong lúc biện giải tại các hội nghị quốc tế, khi thì nói đến “vòng cung lịch sử” (historical circumference), khi thì nói đến các “vùng biển lân cận” (adjacent waters) tính từ các đảo/đá của Hoàng Sa và Trường Sa mà họ cũng đã nhận vơ như đã nói ở trên.
Nhưng các yêu sách quá đáng và vô căn cứ này trái với UNCLOS, vì các điều 56, 57, 76, 77 qui định là các quốc gia cận duyên (quanh Biển Đông) có chủ quyền và quyền chủ quyền (sovereign rights) về tài nguyên trong vùng lãnh hải (territorial sea) 12 hải lý tính từ đường cơ sở (base line), tức lằn mức thủy triều thấp, và trong vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) rộng 200 hải lý, tính từ đường cơ sở, cũng như ở thềm lục địa (Continental Shelf, CS) tính từ đường cơ sở ra thềm lục địa hay 200 hải lý. Các quyền chủ quyền về tài nguyên, tài nguyên sinh vật như cá sống trong vùng nước 200 hải lý đó, cũng như tài nguyên vô sinh như dầu khí và khoáng chất dưới đáy biển, là các quyền chuyên độc hay dành riêng (exclusive rights) của các quốc gia cận duyên, mà họ được hưởng mà không cần ra tuyên bố xác lập. Các quốc gia cận duyên có quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá, dù nhô trên mặt nước biển hay ngầm, thành các đảo nhân tạo, thi hành nghiên cứu biển, qui định việc bảo vệ môi sinh, miễn là họ tôn trọng các quốc gia khác khi họ sử dụng quyền tự do lưu thông hải hành (freedom of navigation) hay đặt các ống dẫn dầu và cáp ngầm. Các quốc gia khác đó không có quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia cận duyên, nếu không có sự ưng thuận minh thị của các nước cận duyên. Thực là UNCLOS dành các quyền chuyên độc cho các nước cận duyên một cách chắc chắn như “đinh đóng cột”.
Về cái quyền của tất cả các quốc gia, cận duyên hay không cận duyên, được tự do lưu thông trên biển, tại vùng đặc quyền kinh tế hay vùng biển cả (high sea) ở ngoài xa hơn, thì nó bị vướng mắc vào yêu sách “đường 9 đoạn” vô căn cứ của Trung Quốc (tại Hội nghị phân chia biên giới biển ở Houston, Hoa Kỳ năm 2010, đại điện Trung Quốc đã mở miệng nói một câu rất xúc phạm các nước khác là “vào trong vùng ‘đường 9 đoạn’, quí vị phải tuân theo luật Trung Quốc”). Đường “đường 9 đoạn” này hoàn toàn trái với UNCLOS (điều 89 của UNCLOS nói yêu sách chủ quyền trên biển cả là vô giá trị) và trái với luật quốc tế cổ truyền, hay ngay cả luật tương đối mới là Hội nghị Luật Biển năm 1958 (chỉ công nhận vùng lãnh hải 3 hải lý thôi).
Được vẽ ra bởi một nhân viên cấp thấp từ thời Trung Hoa Dân quốc năm 1947, “đường 9 đoạn” bị lãng quên cho đến năm 2009, khi triển vọng dầu khí ngày càng cao ở Biển Đông, thì Trung Quốc mới đưa “đường 9 đoạn” này vào hồ sơ xin nới rộng thềm lục địa gửi Ủy ban của Liên Hiệp Quốc về Ấn định biên giới thềm lục địa (UN Commission on the Limit of the Continental Shelf). Lập tức, nó bị Việt Nam, Philippines và Indonesia phản đối. Những bằng chứng lịch sử Trung Quốc đưa ra để biện minh cho “đường 9 đoạn” xâm phạm vào quyền của mọi quốc gia, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, như bằng chứng về các cuộc hải trình của Đô đốc Trịnh Hòa vào thế kỷ XV, thì không thể thắng được các bằng chứng cả 4 ngàn năm sinh họat nghề cá, du lịch và thương mại hàng hải, của các dân tộc Malaysia, Indonesia (họ đến tận Madagascar, để lại ngôn ngữ và 50% gene), Philippines, Việt Nam và Đế chế Khmer – Phù Nam thời trung đại – có trình bày trong hồ sơ Philippines nộp cho Tòa án Trọng tài về Luật Biển.
Các viên chức và học gỉa Trung Quốc đã không trả lời nổi các câu chất vấn về yêu sách chủ quyền ở đại dương trong “đường 9 đoạn” tại các hội nghị quốc tế.
2. Dù có căn bản vững chắc về sự kiện và về pháp lý cho chủ quyền của mình, người Việt nên chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền đã hay sẽ xảy ra qua thủ tục thương nghị, hòa giải (trong đó có giải pháp khai thác chung) hay tài phán.
Tranh chấp ở Biển Đông trở nên gay gắt khi Trung Quốc vào ngày 2.5.2014 đã kéo giàn khoan dầu khí HD-981 vào đặt trong vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc Hoàng Sa, cách bờ biển miền Trung Việt Nam chưa tới 120 hải lý để khoan thăm dò dầu khí. Trong khi Trung Quốc nói vị trí đặt giàn khoan này nằm ở trong vùng biển của Tri Tôn, gần đảo Hải Nam của Trung Quốc thì Việt Nam nói là nó đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Sau hơn 70 ngày tranh luận gay go khắp nơi và gây nhiều va chạm trên biển, và sự cô lập của Trung quốc trước phản ứng mạnh bất lợi cho Trung quốc trên trường ngoại giao quốc tế, từ Việt Nam đến các cường quốc Âu, Mý,Úc,Nhật,Ấn v.v.thì đến ngày 15.7.2014,Trung Quốc đã rút giàn khoan này, nhưng nói là vì để tránh bão và có thì giờ nghiên cứu các mẫu dầu khí thu được, nghĩa là giành quyền quay lại ở Biển Đông. Như vậy tranh chấp lại có thể tái phát và những bàn luận sau đây, tức sự phân tích toàn cục các vấn đề tranh chấp biển đảo và đề nghị các sách lược hay thủ tục giải quyết tranh chấp, vẫn là cần thiết cho tương lai. cho các học gỉa cùng các nhà làm chính sách.
Trước tiên, phải liệt kê các vấn đề tranh chấp trước khi suy ra các cơ quan, định chế và thủ tục giải quyết tranh chấp.
2.1. Việc Trung Quốc đặt giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam, kèm theo các biện pháp võ lực, dẫn tới các vi phạm chủ quyền lãnh lãnh thổ của Việt Nam về đảo/đá, do luật quốc tế truyền thống cũ quy định và các vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam về tài nguyên trong các vùng biển dưới mặt nước, và quyền tự do lưu thông của mọi quốc gia, do luật mới của UNCLOS 1982 dành cho các quốc gia, nhất là các quốc gia cận duyên quanh Biển Đông.
Bộ Ngọai giao Trung Quốc biện minh cho việc đặt giàn khoan vào vị trí đã nói bằng một câu ngắn gọn rất nham hiểm, vì họ tránh viện dẫn “đường 9 đoạn” đã bị các nước chất vấn, rằng giàn khoan “đặt hoàn toàn trong vùng nước của Hoàng Sa của Trung Quốc” (placed completely within the water of China’s Paracels). Như vậy là họ nói hai vế trong câu này, mà Việt Nam phải cố bác bỏ với các luận cứ có nội dung vững chắc như nói trên:
- Vế (i): Hoàng Sa thuộc chủ quyền của họ từ lâu (sau này họ đưa thêm vào hồ sơ nộp cho Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Kimon sau khi Việt Nam phản đối mạnh mẽ, có sự ủng hộ của nhiều nước, để nói là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng xác nhận lại cái chủ quyền này mà họ đã có từ lâu). Việt Nam sẽ phải cãi lại về điểm chủ quyền lãnh thổ này, theo như đã nói ở trên khi bàn về chứng cứ lịch sử, công thư ông Phạm Văn Đồng và các biến cố xác lập chủ quyền, kể cả trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, và vấn đề này, phải kiện trước Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice, ICJ) ở The Hague, Hà Lan. Tuy nhiên, kiện đòi chủ quyền lãnh thổ tại ICJ, phải vượt trở ngại là làm sao cho Trung Quốc chấp nhận ra tòa với việc ký nhận điều khoản nhiệm ý (optional clause) công nhận thẩm quyền của ICJ.
- Vế (ii): vị trí giàn khoan ở trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ Hoàng Sa đang thuộc quyền Trung Quốc. Việt Nam cũng sẽ phải cãi về điểm này là vẫn liên tục phản đối sự chiếm đóng sau khi Trung Quốc dùng võ lực tấn công quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 và năm 1974, rồi chiếm đóng từ đó đến nay; khẳng định rằng Trung Quốc không có quyền về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ Hoàng Sa như họ tuyên bố. Một luận cứ khác để bác cái vế (ii) này là nói rằng, cho dù giả thiết – giả thiết mà thôi – là Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa, để bàn cho hết lý lẽ, thì Việt Nam có thể xin Tòa án Trọng tài Luật Biển – đây là vụ kiện thứ 2 của Việt Nam – theo thẩm quyền bắt buộc về giải thích và áp dụng UNCLOS, phải ra một bản án tuyên nhận rằng tất cả các hòn như Tri Tôn hay ngay cả Phú Lâm tại Hoàng Sa, đều không hội đủ điều kiện để là đảo theo định nghĩa của Điều 121 của UNCLOS. Đó phải là nơi có đủ điều kiện hỗ trợ cho đời sống con người và một nền kinh tế tự túc, lúc còn trong tình trạng thiên nhiên sơ khai (như có nước ngọt, thực phẩm nuôi và trồng tại chỗ – nếu chỉ có cocacola thay nước như một học giả Malaysia nói đùa, thì không phải là đảo); không đủ điều kiện là đảo thì chỉ có thể là đá (reef, rock) theo khoản 3 của Điều 121. Và nếu là đá thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở chung quanh, mà chỉ có lãnh hải 12 hải lý (theo khoản 3, Điều 121). Còn nếu là đảo thì có các vùng nước chung quanh như lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải (Contiguous Zone), vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giống như lục địa vậy. Trước Tòa án Trọng tài Luật Biển, Việt Nam có thể theo thủ tục bắt buộc (compulsory procedure) để kéo Trung Quốc ra tòa, mà yêu cầu tòa dùng thẩm quyền giải thích và áp dụng UNCLOS (Điều 286 và Điều 288), để Việt Nam trình bày được chứng cứ lịch sử của nhiều thế kỷ về hoạt động của đội Hoàng Sa trước đây hàng năm đi ra quần đảo đều phải mang nước ngọt và thực phẩm đi theo, rồi không sống quanh năm trong một nền kinh tế tự túc được, và do đó, ngay bây giờ Trung Quốc cũng không đòi quy chế đảo cho Hoàng Sa được, và cũng không đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý cho Hoàng Sa được. Và do đó, giàn khoan HD-981 đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Mở rộng chiến thuật phản biện này sang các đá ở Trường Sa, mà minh chứng tất cả các hòn ở đó đều là đá trong trạng thái thiên nhiên trước khi xây các kiến trúc nhân tạo, thì có thể giảm thiểu nhiều sự tranh giành chủ quyền của Trung Quốc trong vùng biển Trường Sa, vì dù Trung Quốc có chiếm vài đá và đá ngầm, họ cũng không thể đòi gì rộng hơn 12 hải lý lãnh hải quanh các đá đó (đá ngầm cũng không tạo ra lãnh hải, có xây trên đó cũng không tạo thành đảo, và chỉ quốc gia cận duyên mới có quyền xây trên đá ngầm – điều 60 UNCLOS), không thể đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xuất phát từ các hòn đá; và “đường 9 đoạn” càng mất cơ sở là có hòn đất nào đó để bám vào, làm cứ điểm xuất phát.
Nhưng Trung Quốc còn có thể dùng luận cứ khác, không dựa vào Hoàng Sa, mà dựa vào bờ biển Hải Nam làm đường cơ sở, từ đó tính ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ là 200 hải lý, và đo đó giàn khoan nằm trong khoảng 180 hải lý của các vùng biển đó của Trung Quốc, và dù giàn khoan cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 120 hải lý, thì kết quả sau cùng cũng là sự chồng lấn giữa hai vùng biển của hai quốc gia cận duyên đối diện nhau mà ta thấy đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Chiếu theo UNCLOS, thì bổn phận pháp lý của hai quốc gia đó là thương lượng để tìm một giải pháp công bình (equitable solution) trước khi khởi kiện đem nhau ra tòa, thí dụ giải pháp dùng “đường trung tuyến” (median line) chẳng hạn. Điều này có nghĩa là vụ Việt Nam kiện Trung Quốc thì sẽ có khó khăn hơn vụ Philippines kiện Trung Quốc (dù Philippines kiên nhẫn thương nghị với Trung Quốc suốt 17 năm, Philippines cũng không có bổn phận pháp lý phải thương nghị, vì Trung Quốc dùng võ lực chiếm đá ngầm Scarborough cách Trung Quốc hơn ngàn hải lý, ở trong thềm lục địa của Philippines, chứ không có vùng chồng lấn nào cả, rồi xây thêm kiến trúc nhân tạo, cho nên nó không tạo ra quyền nào về vùng biển đó, hay đảo nhân tạo đó). Nhưng dù nội dung thương lượng sẽ khó, nhưng Việt Nam đã nỗ lực thương lượng, 30 lần cố liên lạc ở nhiều cấp, cao và thấp, với Trung Quốc mà không được trả lời, thì Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS như đề cập dưới đây.
Điểm thứ 2 để Việt Nam kiện trước Tòa án Trọng tài Luật Biển là Trung Quốc đã vi phạm Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS là từ chối đáp lại 30 lần Việt Nam đưa lời mời thương lượng, tức là đã không tỏ ra có tinh thần hiểu biết và hợp tác (understanding and cooperation) mà lại còn dùng các biện pháp võ lực như bắn súng nước hay đâm vào tàu Việt Nam để gây thiệt hại về vật chất hay thân thể cho phía Việt Nam, thay vì có các đề nghị về các biện pháp tạm thời, theo các điều khoản trên.
Điểm thứ 3 Việt Nam có thể kiện là Trung Quốc, đó là Trung Quốc với tư cách là một quốc gia cận duyên, đã làm cản trở tự do lưu thông trên biển – vi phạm khoản 1a Điều 297 của UNCLOS – bằng cách gửi một số lớn tàu hải giám, hải cảnh, ngư chính, cả tàu quân sự và máy bay quấy rối ở vùng biển quanh vị trí họ đặt trái phép giàn khoan, không cho các tàu của các nước khác tới gần, không cho tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư Việt Nam thực thi pháp luật hay thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam hoạt động mưu sinh theo truyền thống.
Điểm thứ 4 Việt Nam có thể kiện Trung Quốc là hành động do họ gây ra đã vi phạm nhân quyền của dân chài Việt Nam, tức là họ đã dùng bạo lực đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam (vụ Trung Quốc đâm chìm tàu cá ĐNa 90152 ngày 26.5.2014 chẳng hạn), ngăn cản họ đánh cá trong các vùng ngư trường truyền thống của họ, chiếm đoạt ngư cụ và cá, bắt chuộc tầu cá. Như vậy là tước đi quyền kiếm sống của ngư dân Việt Nam. Vi phạm này, nếu xảy ra trong vịnh Bắc Bộ thì Việt Nam có thể viện dẫn Hiệp định Trung – Việt về Nghề Cá ở vịnh Bắc Bộ, buộc hai bên phải giải quyết hòa bình. Nếu vi phạm xảy ra ở ngoài vùng vịnh Bắc Bộ, thì Chính phủ có thể kiện Trung Quốc hay ủy quyền cho dân chài kiện Trung Quốc, trước Tòa án Trọng tài Luật Biển theo quy định của UNCLOS, hay có thể nêu vấn đề Trung Quốc vi phạm nhân quyền hàng loạt này trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Trong tương lai, các điểm vi phạm của Trung Quốc nói trên vẫn có thể dùng bởi các nhà làm chính sách hay bởi các chuyên gia pháp luật để làm điểm kiện (counts) trong một hoàn cảnh khác sau vụ giàn khoan, trong đó Trung Quốc tuy tuyên bố “trỗi dậy trong hòa bình” nhưng kỳ thực vẫn hung hãn vi phạm luật quốc tế và quyền lợi quốc gia Việt Nam
2.2. Các cơ quan, định chế và thủ tục gỉai quyết tranh chấp.
Một nguyên tắc căn bản phải theo trong các tranh chấp từ khi có Liên Hiệp Quốc là bổn phận pháp lý của mọi quốc gia phải dùng phương pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp, chiếu theo Điều 2 và điều 33 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, và chỉ được dùng võ lực khi tự vệ chính đáng, vì rằng từ nay chỉ có Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mới được giao phó việc dùng võ lực, để giữ hòa bình.
Có 3 thủ tục chính: (i) các thủ tục phi tài phán như thương lượng, hòa giải; (ii) thủ tục tài phán trước Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa án Trọng tài Luật Biển; và (iii) trình ra các cơ quan chính trị quốc tế như Đại hội đồng hay Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc hay các tổ chức khu vực như ASEAN.
(i). Trước hết là thủ tục thương lượng và hòa giải
Về tranh chấp phân chia ranh giới vùng biển, như trường hợp chồng lấn giữa hai vùng đặc quyền kinh tế hay hai thềm lục địa của hai nước, thì khoản a Điều 298, cũng như Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS đòi hỏi các quốc gia có bờ biển gần nhau phải dùng tới các thủ tục đó, để nỗ lực đạt tới những giải pháp công bình (equitable solutions). Việt Nam theo đúng UNCLOS, đã kêu gọi thương lượng, tới chừng 30 lần, kể cả việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam liên lạc với lãnh đạo Trung Quốc mà Trung Quốc không hồi đáp. Việt Nam được công luận thế giới ủng hộ vì hành xử bình tĩnh hơn Trung Quốc, mang tiếng là “anh khổng lồ bắt nạt”. Vô hình trung, Việt Nam áp dụng ngọai giao mềm dẻo như ngọai trưởng Talleyrand của Napoleon đã khuyên trong câu: “trong ngọai giao, không nên hăm hở quá”, hay như vua Quang Trung làm lành xin cưới công chúa nhà Thanh sau khi đại thắng quân Thanh. Việt Nam nhấn mạnh đến nhu cầu thương lượng thân thiện giữa các nước bình đẳng theo đúng tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc, UNCLOS và các thỏa ước trong vùng như Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) giữa ASEAN với Trung Quốc. Rõ ràng là sau khi nhận thấy các quốc gia Á châu lo ngại sự hung hãn của Trung Quốc qua những gì họ đã làm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào tháng 5 và 6.2014, sẽ khiến các nước này ngã theo Mỹ, Nhật, châu Âu, Ấn Độ, Úc, thì Trung Quốc mới dịu giọng mà gửi cho Văn phòng Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một tờ trình, gợi ý là có lẽ hai nước Trung Quốc và Việt Nam chưa có thương lượng về ranh giới biển, cho nên hai bên nên có dịp trình các yêu sách theo thủ tục UNCLOS. Và vào ngày 16.7.2014 thì Trung Quốc rút giàn khoan.
Ngoài thương lượng song phương, các quốc gia nhỏ tại Đông Nam Á phải cùng nhau, và cùng các cường quốc khi thích hợp, sử dụng ngọai giao đa phương để nói chuyện với Trung Quốc về vấn đề tự do lưu thông trên biển và khai thác tài nguyên trong vùng biển cả ngoài các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Phải có mặt trận thống nhất kiểu này mới làm chùn bước Trung Quốc khi vi phạm nền pháp trị quốc tế, vì Trung Quốc sẽ ngại bị cô lập hóa. Đặc biệt, Việt Nam nên sử dụng ngoại giao đa phương vì tuy là quốc gia mạnh nhất Đông Nam Á về quân sự, nhưng Việt Nam là ở tuyến đầu mà Trung Quốc nghĩ là có thể bắt nạt, để làm gương cho các nước nhỏ. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận rõ điểm này khi ông tuyên bố là Việt Nam muốn làm việc với ASEAN trước tiên về Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (Code of Conduct, COC) trước khi bàn với Trung Quốc, hay khi ông kêu gọi tại Diễn đàn Shangri-La là cần tạo “niềm tin chiến lược” (strategic trust).
Có nên dùng thương nghị để đạt các thỏa ước phát triển chung (joint development) hay không? Ông Đặng Tiểu Bình đề nghị 3 khẩu hiệu cho 3 thành tố của giải pháp của Trung Quốc cho các tranh chấp về đảo/đá và vùng biển ở Biển Đông: “zhu quan zai wo, ge zhi zheng yi, gong tong kaifa” (chủ quyền ở ta, gạt bỏ tranh chấp, hợp tác khai thác). Khẩu hiệu 2 chính là ước muốn của các nước Đông Nam Á, vì ta thấy nỗ lực vẫn tiếp tục cho việc triển khai DOC, vốn chỉ là khuyến cáo, thành COC có giá trị ràng buộc pháp lý, để giảm tranh chấp. Khẩu hiệu 3 chỉ là danh từ khác cho đường lối phát triển tài nguyên thiên nhiên trong thế giới ngày nay, tức liên doanh giữa một quốc gia với các xí nghiệp của quốc gia khác, thí dụ liên doanh khai thác dầu khí giữa hãng Mỹ và Việt Nam trong vùng biển Việt Nam, trong đó hợp đồng chia sản phẩm là một thành tố; không ai cần lo lắng về các liên doanh này. Chỉ có khẩu hiệu 1 của ông Đặng về chủ quyền là có thể gây lo ngại cho các nước nhỏ ở Đông Nam Á, vì có vẻ như Trung Quốc giống như con hổ nằm rình mồi sẽ xông ra nuốt chửng các nước yếu khi thâu tóm chủ quyền trên Biển Đông. Chúng tôi đề nghị giải tỏa nỗi lo sợ này bằng cách giảm hành vi đe dọa, bá quyền, lấn lướt của Trung Quốc với sự chất vấn liên tục trong thương lượng và có thể cả trong các vụ kiện trong các tòa án quốc tế, buộc Trung Quốc phải định nghĩa rõ, theo luật quốc tế, các yêu sách chủ quyền của họ và giới hạn của yêu sách ấy, trên đảo đá, trong các vùng biển. Cũng như trong tòa án quốc nội, cần có sự chất vấn (cross-examination) giữa các bên đương tụng thì chân lý mới sáng tỏ. Và trong tòa án quốc nội hay quốc tế, lập trường các bên sẽ ôn hòa hơn, phải chăng hơn, tránh được xung đột. Khi Trung Quốc phải trình ra các lý lẽ làm nền tảng cho các yêu sách của họ, theo tiêu chuẩn của luật quốc tế, họ sẽ bớt ngang ngược hơn, và sẽ tỉnh thức mà thấy là một đại cường muốn được kính trọng và có uy tín, tức là những thành tố của vai trò và ảnh hưởng của cường quốc, thì họ phải cư xử có trách nhiệm, có tốt lành, tôn trọng nền pháp trị, chứ không như kẻ côn đồ ngoài vòng pháp luật. Đức Đạt Lai Lạt Ma có nói rằng: “Đương đầu với Trung Quốc cần phải cương quyết giữ vững lập trường, không sợ hãi, mà cũng không tỏ sự tức giận”.
(ii) Kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) và Tòa án Trọng tài Luật Biển (ATLS)
a. Kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý Quốc tế về chủ quyền lãnh thổ trên quần đảo Hoàng Sa – mà Trung Quốc đang xâm chiếm của Việt Nam từ năm 1974, thì phải vượt qua được sự từ chối trình diện tòa của Trung Quốc vì họ sẽ không ký điều khoản nhiệm ý (optional clause) để nhận thẩm quyền của Tòa, do đó tòa sẽ có thể không thụ lý vụ kiện.
Nhưng thiết nghĩ có hai cách vượt trở ngại này.
- Trước hết, trong vụ Case Concerning United States Diplomatic and Consular Staff in Teheran II (US v. Iran) (ICJ 1980), khi một quốc gia từ chối trình tòa để phản đối thẩm quyền tòa, Tòa vẫn tuyên án được theo quy tắc sau: Nếu Tòa án Công lý Quốc tế thấy quốc gia vắng mặt trước đó, trong một văn kiện, như Hiệp ước thân hữu chẳng hạn, đã có ưng thuận nào đó về thẩm quyến tòa và hơn nữa quốc gia nguyên đơn có trình hồ sơ đầy đủ và có tính thuyết phục cao, Tòa có thể tuyên án dù quốc gia kia vắng mặt. Vậy Việt Nam mà trình bày đủ chứng cứ lịch sử và luận cứ pháp lý vững chắc về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, thì có thể xin một bản án có lợi, nếu có thể tìm ra sự ưng thuận ra tòa có trong Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc vào năm 2000. Hoặc có thể bắt chước Trung Quốc trong vụ kiện của Philippines không ra tòa án trọng tài nhưng xuất bản mấy ngàn trang sách về nội dung lập trường của mình, như một biện pháp vận dụng dư luận quốc tế; Việt Nam có thể chuẩn bị kỹ hồ sơ chủ quyền lãnh thổ trên Hoàng Sa mà đem nạp trong đơn kiện ở Tòa án Công lý Quốc tế, kèm lời mời Trung Quốc chấp nhận thẩm quyền của tòa để làm sáng tỏ vấn đề. Giáo sư Jerome A. Cohen trong Hội thảo quốc tế Hoàng Sa, Trường Sa – Sự thật lịch sử, tổ chức ở Đà Nẵng ngày 20.6.2014 mong đợi các quốc gia nhỏ ở Đông Nam Á cứ đến gõ cửa Tòa án Công lý Quốc tế rồi mời Trung Quốc (nếu họ tin là lẽ phải về phần mình), thì ra tòa mà bàn luận. Dù Việt Nam có nạp hồ sơ và bị từ chối xét xử vì Trung Quốc không chịu trình tòa, thì cũng như đã “treo” được hồ sơ trước cửa Tòa cho thiên hạ đọc, và đạt được thắng lợi tuyên truyền trước công luận quốc tế.
- Thứ hai, Việt Nam hay một nước bạn của Việt Nam có ảnh hưởng mạnh, có thể yêu cầu Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hay một cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc xin một bản án cho ý kiến (advisory opinion)về bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa thì Tòa án Công lý Quốc tế cũng có thể cho. Thí dụ như trong án Advisory Opinion on the Western Sahara (ICJ 1975), do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc yêu cầu xin một bản án ý kiến về một yêu sách lãnh thổ, thì Tòa án Công lý Quốc tế đưa ra quy tắc là Tòa không cần sự ưng thuận của một quốc gia liên hệ mà vẫn cho một bản án ý kiến về một tranh chấp lãnh thổ.
b) Kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Luật Biển. Một quốc gia có thể dùng thủ tục bắt buộc (compulsory procedure) quy định trong các Điều 286 và 288 của UNCLOS để yêu cầu tòa giải thích và áp dụng các điều khoản của UNCLOS. Ngay trong tranh chấp về các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn mà một quốc gia, khi gia nhập UNCLOS, đã làm bảo lưu gạt bỏ ra khỏi sự ưng thuận ra tòa của họ, thì quốc gia khác, dựa vào khoản 4 Điều 298, cũng có thể đưa tranh chấp với quốc gia đã làm bảo lưu ra tòa theo thủ tục bắt buộc.
Như đã nói ở trên về các vi phạm của Trung Quốc mà Việt Nam có thể liệt kê như các điểm khiếu tố ra tòa (counts), Việt Nam có thể viện dẫn trong thủ tục bắt buộc trước Tòa án Trọng tài Luật Biển các vi phạm hay các điểm khiếu tố sau:
- Trung Quốc, trong các hành vi quanh giàn khoan HD-981 vừa qua, đã vi phạm khoản 1a Điều 297, vì đã ngăn cản, với tư cách quốc gia cận duyên, sự tự do lưu thông hàng hải và hoạt động khác như đặt cáp ngầm của quốc gia cận duyên khác.
- Trung Quốc có hành vi hung hãn bá quyền, không chịu thương lượng trong tinh thần hiểu biết và cộng tác, hay áp dụng các biện pháp tạm thời, dù Việt Nam đề nghị cả 30 lần.
- Trung Quốc có thể bị dân chài Viêt Nam kiện vi phạm nhân quyền của họ, trong một vụ họ kiện riêng, với sự ủy quyền của nhà nước Việt Nam, theo đúng tinh thần của UNCLOS.
(iii). Sự can thiệp chính trị của các tổ chức quốc tế
- ASEAN, với Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông luôn luôn có ích, và nên nỗ lực đạt tới Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông.
- Can thiệp của Tổng Thư ký hay Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc có thể làm hạ nhiệt sự hung hãn của Trung Quốc, nhất là có kèm theo các lời phê bình của các đại cường, như lời Thủ tuớng Nhật Bản Shinzo Abe hay lời Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Hagel phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2014. Sau khi Đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, trong tháng 5.2014, yêu cầu Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon can thiệp, và viết công hàm ngọai giao và ra thông cáo báo chí, than phiền là giàn khoan vi phạm luật quôc tế, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, nếu cần, sẽ dùng biện pháp tự vệ, thì Trung Quốc gợi ý nên có thương lượng giữa hai nước, nhất là về việc định ranh giới biển công bình, mà hai bên chưa làm. Trung Quốc cũng tuyên bố không dùng tàu chiến bảo vệ giàn khoan. Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và Văn phòng Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc tỏ ra lạc quan. Và quả nhiên, nay thì giàn khoan rút đi.
Kết luận
Dư luận quốc tế, nhất là các nước phương Tây và Nhật Bản, Ấn Độ đã bênh vực cho lẽ phải của Việt Nam. Philippines thì mong Việt Nam khởi kiện sớm. Nay Việt Nam đã lỡ dịp kiện do giàn khoan đã rút đi, thì trong tương lai, phải chuẩn bị sớm và kỹ để lập tức kiện khi Trung Quốc gây sự lần nữa, ngõ hầu có dịp xác lập chủ quyền, chứ nếu không lại lỡ dịp nhờ pháp luật quốc tế để đẩy mạnh quyền lợi quốc gia của mình.
18.7.2014
———
Tác giả: GS Tạ Văn Tài là Tiến sĩ, Luật sư, cộng tác viên và cựu giảng viên Đại học Luật Harvard, Hoa Kỳ
2789. Di chúc Bắc Kỳ tự do
24-07-2014
Cho C. và những người bạn đất Bắc của tôi
Câu chuyện kỷ niệm 60 năm về hành trình đến miền Nam của hơn một triệu người trôi qua lặng lẽ. 20 tháng 7, 1954 trở thành lịch sử thế giới, nhưng chưa bao giờ đủ với những câu chuyện kể về số phận và suy nghĩ của riêng người Việt. Tôi chờ đọc một áng văn nào đó, nói về suy nghĩ của những người miền Nam khi nhìn thấy dòng người Bắc Kỳ này, khi họ đến đồng bằng, chảy về thành phố, nhưng không thấy. Tràn ngập những bài viết chỉ là nỗi nhớ tha hương, là ký ức và lòng kiêu hãnh của những người tìm tự do từ phía Bắc. Vì vậy, tôi muốn ghi ra chút ít ở đây, về cái nhìn của một người miền Nam, về cha mẹ, ông bà của bạn bè Bắc Kỳ, dù họ còn hay đã mất.
Hai tiếng “Bắc Kỳ” xuất hiện trên miệng trẻ con miền Nam, và cả của tôi, suốt một thời gian dài, chỉ là sự trêu chọc ban bè cùng lứa, vì một kiểu ngữ âm rất khác mình. “Bắc Kỳ” trong ký ức từng là một tâm cảm bị ám thị, thiếu thiện cảm hơn cả khi so sánh với “Ba Tàu”. Chỉ khi tạm đủ chữ trong đầu, biết thêm về đất nước này, hai chữ “Bắc Kỳ” trong tôi mới thật sự thay đổi. Có lẽ cũng giống như tôi, nhiều người miền Nam hời hợt kỳ thị đã tự làm cho mình bớt xấu hổ bằng cách lập ra những hạng mục khác như Bắc kỳ 9 nút (54), Bắc kỳ 2 nút (75)… để bày tỏ rõ hơn trong nhìn nhận.
Nhưng không đủ.
Phải mất đến hơn nửa đời người, tôi mới nhận ra rằng không hề có một giai cấp nào trong đồng bào miền Bắc của đất nước mình, mà chỉ có một cuộc sống không được chọn lựa nào đó đã phủ chụp lên từng miền, từng vùng đã ảnh hưởng cùng cực đến họ, tạo ra những điều khó tả nhưng vậy. Ở mọi miền, Nam hay Trung hay Bắc, người ta cũng đều có thể nhìn thấy kẻ vô lại trong giống nòi, nhưng sự khó khăn nhìn nhận luôn thường dành cho phía Bắc, như một ám chỉ về một vùng đất phải chịu sự khác biệt về chính trị trong nhiều năm, như đã ám toán mọi sinh lực sống bình thường của con người.
Tôi nhận ra điều đó, ở một ngày khi thấy chung quanh mình có rất nhiều bạn, kể cả thầy cô, là những người Bắc mà tôi tin cậy. Họ đại diện cho những người “Bắc kỳ” mạnh mẽ, vượt qua số phận và hoàn cảnh của mình để không bị đè bẹp, không hèn hạ hoặc chết, như F. Nietzsche đã viết “những gì không giết được chúng ta, sẽ làm chúng ta lớn mạnh hơn” (That which does not kill us makes us stronger).
60 năm của những người Bắc di cư vào Nam, cho tôi và thế hệ của mình được nhìn rõ họ hơn, nhắc tôi phải nói về một bản di chúc lớn, một bản di chúc vĩ đại mà hơn một triệu người từ bến tàu Hà Nội, Hải Phòng… mang đến cho cả đất nước. Bản di chúc cũng được lưu giữ trong mắt, trong lời nói của từng người Việt tha hương khắp thế giới: bản di chúc về tự do.
Cả miền Nam sau 1954 cần phải có một lời cám ơn văn chương Bắc Kỳ, âm nhạc Bắc Kỳ, báo chí Bắc Kỳ… đã góp tay dựng lên một nền văn hóa của cả đệ nhất và đệ nhị cộng hòa của miền Nam. Nền văn hóa ngắn ngủi nhưng đủ trường tồn và mạnh mẽ vượt qua một chướng ngại, tồn tại trong lòng người từ sau 1975 đến nay, ở Việt Nam và trên cả thế giới. Cùng với những người anh em từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, những người Bắc đó đã làm tất cả để bù đắp, để dựng xây… cho thỏa sức, việc họ phải rời bỏ rất xa quê nhà, thậm chí trơ trọi, chỉ để đổi lại hai chữ tự do.
Rất nhiều năm sau đó, con cháu của những người Bắc 54 cũng lớn lên ở miền Nam hay vượt đại dương đến nơi nào đó, không ít người trong họ vẫn âm thầm mang theo một bản di chúc có thể sống mãi đến nhiều thế hệ sau về tự do, và chọn lựa vì tự do. Trong một lần ở Mỹ, tôi nghe phát thanh viên của một đài radio người Việt bình luận về một nỗi nhớ quê nhà Hà Nội. Nhớ con đường quanh Hồ Gươm, nhớ con hẻm có bán canh bún nhỏ… Giọng Bắc của anh ta trầm buồn như mới ngày hôm qua còn nhìn thấy những thứ đó, trong khi tôi biết rõ anh chưa về Việt Nam một ngày nào, kể từ tháng 4/1975.
Sau lần phát thanh đó, gặp anh, tôi trêu là sao anh nói cứ như là cứ vừa ở Việt Nam về. Đột nhiên giọng anh trầm lại “Phải cố gắng nhớ dù chỉ là tưởng tượng lại. Phải nhớ như nhớ lời của ông bà mình xua mình xuống tàu, trối dặn mình phải sống với tự do”. Tim tôi như thoáng ngừng đập trong tíc tắc. Dòng người mờ ảo trong những cuốn phim tài liệu trắng đen về số phận Việt Nam chia cắt ập về. Tôi cũng nhận ra rằng bản di chúc tự do đó, không phải những người Bắc Kỳ chia cho nhau, mà còn chia lại cho tôi, cho bạn, cho cả dân tộc này. Từng người chúng ta đã được nhận. Chọn lựa mình hôm nay khốn nạn hay tử tế, là do mình đã không chịu nhìn thấy di sản của cha ông gửi lại, qua bản di chúc không thành văn này.
Tôi nhìn thấy người bạn trẻ của tôi, con một người Bắc di cư, nay sống ở Biên Hòa. Anh đưa lên facebook một tấm ảnh kỷ niệm 60 năm người Bắc xuống tàu vào Nam. Khi bên ngoài người ta nói về những điều lớn lao như hiệp định Genève và các chính quyền, thì cũng có một dòng người không nhỏ đưa lại những hình ảnh thuộc về con người như vậy. Có những tấm ảnh khiến mình phải lặng đi khi thấy cụ già bước gấp vào Nam, hành lý trên tay quý nhất chỉ là tấm hình Đức Mẹ. Người bạn trẻ của tôi đưa lên tấm ảnh người ta chen chúc chia tay nhau ở một bến tàu. Khó mà biết được ông bà hay cha mẹ của anh đã có mặt ở đó hay không, trong những chấm li ti như cát bụi. Bản thân người bạn trẻ đó thì giờ cũng là phần li ti trong hàng triệu người Bắc 54 đã lớn lên, đã thành đạt ở miền Nam này hôm nay.
Và tôi nhận ra rằng, bản di chúc tự do đó cũng vẫn đang âm thầm trong anh, như bao phần li ti khác đang trỗi lên, trên đất nước này.
2790. Phỏng vấn David Brown: ‘Trung Quốc sẽ không ngừng ở đây’
22-07-2014
LTS: Việc Trung Quốc mang giàn khoan Hải Dương 981 đến hoạt động trái phép tại thềm lục địa Việt Nam cách đây hai tháng là một xâm phạm chủ quyền nghiêm trọng nhất trong liên hệ bang giao giữa hai nước. Tình hình có lúc đã căng thẳng tưởng chừng như sắp có chiến tranh, lúc lại dịu đi như không có chuyện gì xẩy ra. Hành động khiêu khích này của Trung Quốc phải được đánh giá như ra sao, và ảnh hưởng lâu dài của sự việc này trên tinh hữu nghị giữa hai nước, cũng như ổn định trong khu vực như thế nào? Nhà phân tích tình hình Đông Á David Brown (*) chia sẻ nhận định của ông qua cuộc phỏng vấn dưới đây, do phóng viên Hà Giang thực hiện.
Hà Giang (NV): Chắc hẳn là ông theo dõi cuộc khủng hoảng giàn khoan tại Việt Nam từ đầu tháng Năm đến nay. Ông có nhận định gì về sự việc này, đặc biệt là về điều mọi người hy vọng rằng biết đâu khủng hoảng này đã mang đến một hướng đi mới tốt hơn cho Việt Nam?
Ông David Brown: Trước hết tôi muốn nói về hành động khiêu khích của Trung Quốc. Theo tôi hành động nguy hiểm này đã tạo ra một tình huống rất xấu, mà chắc chắn Trung Quốc đã tính toán rất kỹ. Nếu không họ đã không gửi thêm 100 tàu khác để hộ tống, đưa Hải Dương 981 vào vị trí. Đối với Việt Nam, tôi nghĩ nó đã tạo ra một tình thế hết sức khó xử. Trong bài viết gửi cho Asia Sentinel, ngay sau khi giàn khoan được triển khai vào đầu tháng Năm, tôi đã viết rằng Trung Quốc chỉ cầu mong Việt Nam dùng vũ khí để tiêu diệt giàn khoan này, nhưng may mắn thay, giới lãnh đạo Việt Nam đã nhận ra đó là biện pháp chỉ nên thi hành khi mọi thứ khác đều thất bại.
Cho đến thời điểm này, sự tranh chấp đã thay đổi toàn bộ tình hình Biển Đông. Từ trước đến giờ, Trung Quốc có xu hướng đi từng bước rất nhỏ và chờ một thời gian cho mọi việc trở lại bình thường rồi lại tiến thêm bước nữa, bước nữa. Nhưng trong năm vừa qua, với những tranh chấp thoạt đầu là với Phi Luật Tân, và bây giờ với Việt Nam, họ đã nâng tranh chấp này lên một cấp hoàn toàn mới. Và phải nói thẳng ra, chỉ nhưng ai mù lòa, thì giờ này mới còn không thấy rằng Trung Quốc đã quyết tâm chiếm giữ vùng biển mênh mông này, bất kể ai khác nghĩ gì.
Khủng hoảng vừa qua khiến những nhà phân tích thế giới nào mà từ trước đến giờ vẫn còn châm chước cho hành động của họ (Trung Quốc), buộc phải thấy rằng thế giới đang đối diện với một hiểm họa Trung Quốc lù lù ngay trước mặt, chứ không có sự hiểu lầm nào cả. Và đây cũng là tình huống không thể thương lượng được. Hình như ông Trương Tấn Sang đã nói “không thể thương lượng với người đã kéo vào sân sau của nhà mình rồi nói sẵn sàng chuẩn bị chia căn nhà đó với mình.” Với Việt Nam, khủng hoảng này tạo ra một tình huống éo le, vì nó cho thấy rõ ràng là chính sách cố “thích ứng” với Trung Quốc không giải quyết được vấn đề.
NV: Ông nhận định gì về việc lãnh đạo Việt Nam có những lời tuyên bố rất khác nhau, và đưa ra thế giới những thông điệp có vẻ là mâu thuẫn, hay ít nhất là không đồng nhất về sự kiện giàn khoan này?
Ông David Brown: Những lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo Việt Nam khiến tôi nghĩ đến hai chữ “lộn xộn” (confused). Tôi nhớ vào thời điểm giàn khoan được đưa vào Việt Nam, hội nghị Trung Ương khóa 7 của đảng CSVN vừa nhóm họp. Và trong nhiều tuần lễ, trời như sập xuống, nhưng bản tóm tắt của hội nghị không đề cập đến vấn đề nóng đang xẩy ra. Điều đó không có nghĩa là không ai trong trung ương đảng nhìn thấy vấn đề, mà là vì đảng đang bị một cơn khủng hoảng về chính sách. Cho đến khi họ ngồi xuống thảo luận và đồng ý với nhau thì không ai có thông điệp gì rõ ràng cho người dân.
Lời tuyên bố quan trọng đầu tiên là của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp ASEAN, mà theo tôi, tuy là một viên đá dò đường để xem phản ứng của các đối tác trong ASEAN, nhưng cũng đạt được một mục đích nhỏ, đó là để ASEAN nhận ra tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa, tuy trên nguyên tắc là tranh chấp riêng của hai nước, nhưng trên thực tế, gây ảnh hưởng lên tất cả các nước trong vùng.
Tuyên bố kế tiếp, cũng là tuyên bố quan trọng hơn, cũng đến từ Nguyễn Tấn Dũng khi ông đến Phi Luật Tân. Ở đây, trả lời phỏng vấn Bloomberg, ông Dũng thả trái bom lớn khi ông nói Việt Nam đang nghĩ đến việc mang Trung Quốc ra tòa. Dĩ nhiên trước khi vụ giàn khoan xẩy ra, việc mang Trung Quốc ra tòa là giải pháp Việt Nam chưa bao nghĩ đến. Tại thời điểm đó, sở dĩ những ông Trọng ông Sang chưa tuyên bố gì, là vì phải chờ thêm vài tuần nữa, các thành viên trong trung ương đảng mới có sự đồng thuận.
Dĩ nhiên tôi chỉ có thể diễn giải tình hình qua những gì tôi quan sát, nhưng tôi cho rằng những lời tuyên bố của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ Tịch Trương Tấn Sang trong thời gian gần đây cho thấy bộ sậu trong trung ương đảng đã cùng thỏa thuận về một chính sách mới. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu điều này (và một số tín hiệu khác), có nghĩa là Hà Nội đã thấy mình không còn giải pháp nào khác hơn là đưa Trung Quốc ra tòa. Tôi nghĩ sớm muộn gì họ cũng sẽ hoặc đứng đơn kiện một mình, hoặc kiện chung với Phi Luật Tân.
Câu hỏi cần được đặt ra là nếu Hà Nội giờ đây đã sẵn sàng để kiện Trung Quốc, thì họ còn sẵn sàng làm gì sau đó nữa. Chúng ta vẫn chưa thể biết. Điều tôi chú ý là chuyến đi thăm Hoa Thịnh Đốn của Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh, mà tôi mong sớm xẩy ra. Tôi hy vọng là Hoa Thịnh Đốn sẵn sàng lắng nghe những gì ông Phạm Bình Minh muốn trình bày, để có những phản ứng thích hợp. Rõ ràng Trung Quốc không ngừng ở đây mà sẽ tiếp tục có những hành vi khiêu khích, ở vào thời điểm và địa điểm Trung Quốc chọn. Và họ sẽ không chỉ xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, mà còn những nước khác.
Tôi nghĩ rằng mọi việc sẽ tạm yên tĩnh sau khi Trung Quốc mang giàn khoan của họ đi, rồi đến mùa Xuân sang năm, lại có một đụng độ lớn khác, có thể lần tới họ sẽ kéo dàn khoan đến Phi Luật Tân. Từ trước đến giờ Trung Quốc vẫn thế, từng bước một. Điều này cũng có nghĩa là mọi người có tám tháng để tính toán xem họ cần phải đối phó ra sao trong lần khiêu khích tới. Đây là một cuộc chiến hết sức phức tạp.
NV: Chắc hẳn phải có một giải pháp nào đó mà một nước hay một số các nước có thể kết hợp để đối phó với Trung Quốc chứ. Theo ông thì giải pháp đó là gì?
Ông David Brown: Chúng ta chưa thảo luận về ASEAN. Từ nhiều năm nay khối ASEAN là một nhóm đã bị Trung Quốc vô hiệu hóa, vì Trung Quốc là đối tác thương mại và nguồn viện trợ quá quan trọng với Cam Bốt, Lào, và ở một mức độ nào đó, cả với Thái Lan và Malaysia. Vì thế khó mà có thể hình dung ASEAN sẽ đóng vai trò năng động. Tuy nhiên, giữa các nước thành viên của ASEAN có một mẫu số chung thấp nhất. Các nước trực tiếp có tranh chấp biển đảo với, và thực sự bị đe dọa bởi Trung Quốc cần phải kết hợp lại, phân tích và xem xét kỹ xem những tranh chấp của họ là gì, và lãnh hải của họ trên Biển Đông nằm ở đâu, rồi thương lượng để đi đến một số thỏa thuận giữa Việt Nam, Phi Luật Tân, Malaysia và Brunei. Vấn đề nằm ở chỗ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc nằm ở một dạng khác, dạng không thể thương lượng. Bốn thành viên này của ASEAN có thể thành lập một khối đồng nhất giữa, một nhóm nhỏ (subgroup) chẳng hạn, và thông báo cho các nước khác trong vùng biết về tất cả những tranh chấp liên quan đến họ. Đây là điều có thể thực hiện được, và nếu thực hiện điện có thể có nhiều tiến triển trong vòng sáu cho đến tám tháng tới. Nỗ lực nâng cao ý thức về những tranh chấp này cũng có thể khiến những nước như Malaysia, Singapore và Indonesia dần dà vào cuộc.
Còn đối với Hoa Kỳ, dù có chính sách xoay trục hay không xoay trục, tại thời điểm nay, Tòa Bạch Ốc phải đối đầu với quá nhiều việc để chú ý nhiều đến vùng Đông Nam Á. Khó có thể biết Tòa Bạch Ốc có đủ tâm trí để dồn cho việc vạch ra một ranh giới cho Trung Quốc vào lúc này hay không. Tuy nhiên tình thế cũng còn tùy vào việc Phó Thủ Tướng Phạm Bình Minh mang gì khi đến Hoa Thịnh Đốn, tức là Việt Nam sẵn sàng như thế nào để có một quan hệ thân thiết hơn với Mỹ. Mỹ đã nói với Hà Nội nhiều lần về điều này, và tôi nghĩ rằng ngay cả khi ông Trương Tấn Sang đến Mỹ tháng Bảy năm ngoái, Hoa Thịnh Đốn cũng đề cập rằng cách đối xử của Hà Nội với những người bất đồng chính kiến không thuận tiện cho việc nâng tầm quan hệ giữa hai bên thành một quan hệ chiến lược. Tôi tin rằng Hà Nội hiểu rất rõ mình cần phải làm gì. Chúng ta hãy chờ xem.
NV: Có phải ông vừa nói là Việt Nam đang ở thời điểm mà họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một đối tác chiến lược với Hoa Kỳ?
Ông David Brown: Không. Tôi nghĩ rằng Hà Nội đang ở thời điểm mà họ nhận ra được rằng chiến lược mà họ theo đuổi từ trước đến giờ chỉ đưa đến một kết cục là Việt Nam sẽ bị Trung Quốc gặm nhấm dần dần, và họ luôn phải sống trong vòng kiểm tỏa của nước này. Đây là điều không thể chấp nhận được, và nếu đọc lịch sử Việt Nam thì chúng ta hiểu đó cũng từng là điều không thể chấp nhận được trong vòng hai hoặc ba ngàn năm qua. Dĩ nhiên cần phải có những cuộc thảo luận để tìm ra giải pháp thích hợp. Tôi không có câu trả lời. Tôi không biết những gì đã được thảo luận ở hội nghị Trung Ương, nhưng tôi đoan chắc là đã có một cuộc thảo luận đến nơi đến chốn, và đã có một sự đồng thuận. Tôi nghĩ rằng trong thời gian sắp tới, khi ông Phạm Bình Minh đến Hoa Thịnh Đốn, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn, vì chắc chắn ông Minh sẽ mang đến Hoa Kỳ một thông điệp nào đó.
(còn tiếp)
———————————————————–
* Ông David Brown là một nhà ngoại giao kỳ cựu với hơn 35 năm kinh nghiệm, từng làm việc ở Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn trước năm 1975. Sau đó, ông phục vụ cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại những quốc gia Á Châu khác. Ông rời nhiệm sở năm 1997 và nay là một chuyên gia quốc tế về Đông Á và năng lượng. Ông David Brown từng trở lại Việt Nam triển khai các dự án giáo dục, bảo tồn môi trường trong nửa cuối của thập niên trước, và hiện vẫn đi lại thường xuyên giữa Việt Nam và Mỹ. Ngoài ra, ông còn là tác giả của nhiều bài viết phân tích về tình hình biển Đông và về vấn đề thời sự ở Việt Nam các tờ báo Asia Times, Asia Sentinel, Yale Global, East Asia Forum, China Economic Quarterly và blog BS.
2791. Bao nhiêu bản đồ thì đủ?
Pro & contra
Phạm Thị Hoài
Bao nhiêu bản đồ thì đủ bảo vệ Hoàng Sa-Trường Sa? Câu trả lời của giới học thuật quan phương dường như là: càng nhiều càng tốt, bất chấp độ khả tín và bất chấp nguy cơ phản tác dụng vì rơi đúng vào cái bẫy luận điểm ngụy biện của phía Trung Quốc.
24-07-2014
Người ngoại đạo
như tôi, sống ở thời Google Map, đứng trước những tấm bản đồ cổ phương
Tây, chữ Latinh hẳn hoi, thường chỉ ngắm chứ không thực sự hiểu. Giống
như xem những chiếc răng, hộp sọ, lưỡi rìu mấy ngàn năm gì đó trong bảo
tàng. Còn bản đồ cổ, châu Á, lại chữ Hán, trông như tranh của Hans
Hartung đè lên Tề Bạch Thạch trong tinh thần “Phẳng chung thủy“, thì chịu, hoàn toàn phải nhờ giới chuyên môn thuyết trình.
Từ nhiều năm
nay cứ thỉnh thoảng lại có một tấm bản đồ cổ chứng minh chủ quyền biển
đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam được phát hiện. Tôi vốn nghĩ sơ sài
rằng mọi bản đồ trong lịch sử đều chỉ có hiệu lực đến một thời điểm lịch
sử nhất định. Có lẽ không một nước nào ngày nay trên trái đất còn giữ
đúng lãnh thổ được vẽ vào thế kỉ 18, huống gì ở thuở nhân loại chưa biết
đến các khái niệm quốc gia dân tộc và chủ quyền quốc gia
theo nghĩa chúng ta đang dùng. Đảng của ông Sam Rainsy không thể mang
bản đồ của Vương quốc Khmer ra đòi Việt Nam và Thái Lan trả đất. Tôi
không biết Dải Gaza từng được đưa vào bản đồ của bao nhiêu nước khiến số
phận nó phải long đong khốn khổ thế, song tôi chắc chắn rằng nếu Putin
cho phát hành toàn thế giới bản đồ Đại Nga bao gồm cả Sao Hỏa thì một
trăm năm sau chủ quyền của nước Nga trong vũ trụ vẫn không hề được chứng
minh. Nếu Công hàm Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lí thì mọi bản đồ
trong lịch sử đều chỉ còn giá trị nghiên cứu.
Nhưng thật lạ
là tôi vẫn mừng, mỗi lần các nhà nghiên cứu Việt Nam đưa ra một bản đồ
làm bằng chứng. Không phải vì tôi yêu nước. Tôi xa lạ với tinh thần ái
quốc. Nếu phải có tinh thần ấy, thậm chí tôi không chắc chắn rằng Tổ
quốc của tôi hiện là đâu, cố hương Việt Nam hay nước Đức, nơi tôi sống
hạnh phúc và đồng thời là công dân. Tôi mừng, có lẽ chủ yếu vì thiện cảm
và sự ủng hộ đương nhiên dành cho một nước nhỏ, yếu về hầu hết mọi
phương diện, gần như vô vọng trong cuộc đương đầu với một đại cường quốc
đầy ắp tham vọng bá quyền. Nếu hải quân Việt Nam không thể thắng trên
biển thì vẫn còn một an ủi là trên giấy, học giả Việt Nam không thua.
Song mừng không dễ. Năm năm trước, một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra trên trang talawas xung quanh một tấm bản đồ từ đời Minh mới được phát hiện, An Nam đồ.
Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã dội một gáo nước lạnh vào sự hoan hỉ
về bằng chứng lịch sử “đanh thép” đó. Ông vạch ra nhiều nhầm lẫn trong
việc đọc và thẩm định tấm bản đồ này, đồng thời cảnh báo rằng “việc thừa nhận giá trị bức An Nam đồ hoặc
các bức đồng dạng và sử dụng chúng như một phần chứng lý chủ quyền lịch
sử Hoàng Sa-Trường Sa sẽ di họa khôn lường vì đã đi vào đúng hướng lý
luận của học giới Trung Quốc” mà ông bác bỏ. Tôi hoàn toàn được học giả độc lập này thuyết phục. Vụ An Nam đồ lắng xuống.
Đầu tháng Sáu vừa rồi, cuốn sách đồ sộ Một số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông
của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam ra mắt,
kết quả làm việc 5 năm của 50 nhà nghiên cứu. Không một cơ quan học
thuật nào của Việt Nam có thể có nhiều phương tiện và chức năng nghiệp
vụ hơn. Truyền thông lại hân hoan. Song một bài “Góp ý bổ cứu” của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh trên một tạp chí nhỏ rất ít người đọc của Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên-Huế và nhất là bài phê bình của ông Phạm Hoàng Quân trên trang Diễn Đàn (Paris) khiến vụ An Nam đồ
dường như sống lại toàn tập. Tất cả những điều nhà nghiên cứu này từng
cảnh báo 5 năm trước vẫn còn nguyên. Sự não nề đặc trưng của các câu
chuyện Việt Nam là: muôn thuở không có gì thay đổi. Căn cứ vào hai bài
viết rất thuyết phục nhưng chỉ có thể xuất hiện bên lề đó, giới chuyên
môn đứng đầu quốc gia hiện ra như những nhà nghiên cứu quan liêu, lười
biếng, tùy tiện, bất cẩn, phản khoa học, thiếu trung thực, thậm chí
thiếu cả năng lực dịch thuật, và có vẻ khá dốt nát. Ông Quân đề nghị rút
hẳn 10 trong 25 đơn vị bản đồ khỏi tập sách, 15 đơn vị còn lại cũng
thiếu độ tin cậy vững chắc để có thể phục vụ hồ sơ chứng lí vô điều
kiện.
Bao nhiêu bản
đồ thì đủ bảo vệ Hoàng Sa-Trường Sa? Câu trả lời của giới học thuật quan
phương dường như là: càng nhiều càng tốt, bất chấp độ khả tín và bất
chấp nguy cơ phản tác dụng vì rơi đúng vào cái bẫy luận điểm ngụy biện
của phía Trung Quốc.
Trừ ông Nguyễn Xuân Diện thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm có một lời trần tình
về sự tham gia tương đối hạn chế của mình vào thành tích bảo vệ chủ
quyền nêu trên, những người chịu trách nhiệm công trình không hề lên
tiếng.
© 2014 pro&contra
_____________
Bài liên quan:
Phạm Hoàng Quân: “Di họa của việc sử dụng sai mục đích An Nam đồ đối với việc nghiên cứu Hoàng Sa-Trường Sa”, talawas 22/3/2009
Trần Đại Vinh: “Góp ý bổ cứu cho công trình Một
số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông“, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 3-4 (110-111) 2014
2792. Mảnh Bằng Khen cho Cột Mốc Sống
24-07-2014
Ngửa mặt lên trời
Như xác ngư dân trôi ngoài biển khơi.
Trôi theo con sóng vỗ
Trôi theo phận nước tôi
(Viết về ngư dân Việt Nam – Tuấn Khanh)
Gần đây lãnh đạo đảng lại vừa cho thực hiện các phong trào cổ động và phát bằng khen cho ngư dân. Từ vụ bà Bộ trưởng Bộ Y Tế Nguyễn thị Kim Tiến phát động chương trình “Ngành y tế cùng ngư dân bám biển” tại đảo Lý Sơn, đến vụ Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Đà Nẵng tặng bằng khen cho các ngư dân tham gia đánh bắt bảo vệ chủ quyền vùng biển Hoàng Sa. Điều nghịch lý là trong lúc lãnh đạo tiếp tục ra lệnh cho Hải Quân Nhân Dân Việt Nam với súng ống, tàu sắt, tàu ngầm, tên lửa phải tuyệt đối bám chặt bờ, thì ngư dân tay không, nghèo kiết xác, thuyền gỗ mong manh lại được đẩy ra bám biển để bảo vệ chủ quyền đất nước?! Chắc chắn bà Bộ trưởng Y Tế Nguyễn thị Kim Tiến chưa một ngày phải sống với nỗi lo sợ, nỗi đau của những người vợ, người mẹ của ngư dân. Bà cũng chưa từng phải nặn những hình nhân bằng đất để đắp cho chồng, cho con một ngôi “mộ gió” trên đảo Lý Sơn (vì đã chết mất xác), nên bà mới có thể mạnh miệng phát biểu: “Ngư dân còn, biển còn. Ngư dân khỏe sẽ tiếp tục bám biển, tiếp thêm lực lượng, thêm sức mạnh bảo vệ quyền và chủ quyền về biển, đảo của Việt Nam.”
Thử hỏi ngư dân tay không thì bám biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng cách nào? Gặp tàu Trung Quốc họ đã phải chạy trối chết để thoát thân, chạy không thoát thì bị chúng dùng tàu vỏ thép va đập, thậm chí đâm chìm như tàu cá DNa90152 của vợ chồng bà Huỳnh thị Như Hoa. Có khi chúng thản nhiên xả đạn bắn vào thuyền ngư dân bất cần có gây thương tích hay thiệt mạng ai không, như trường hợp tàu cá của thuyền trưởng Phạm Quang Thạnh. Có lúc chúng lại xấc xược, trắng trợn như trường hợp mới xảy ra vào sáng ngày 3/7/14. Ngư dân của tàu cá QNg94912TS đang đánh bắt ở vùng biển Việt Nam thì bị tàu Trung Quốc ép sát rồi bắt giữ. Xin ghi lại nguyên văn lời tường thuật của thuyền trưởng Võ Tấn Tèo:“Đang đánh bắt ở biển của mình, Trung Quốc bắt, dìu đi qua biển Trung Quốc, rồi họ dừng lại, bắt ngư dân trên tàu chỉ vô máy định vị lúc đó hiện tọa độ của họ, rồi họ quay phim, chụp hình vu khống mình đánh bắt trái phép biển của họ.” Bị bắt và bị dẫn độ về đảo Hải Nam, tại đây các ngư dân Quảng Ngãi bị buộc phải ký vào những biên bản sai trái trên rồi mới được thả về. Toàn bộ ngư lưới cụ và gần 3 tấn hải sản đánh bắt được đều bị phía Trung Quốc thu giữ với lý do các ngư dân này đã đánh bắt trên vùng biển của chúng. Có những vụ ngư dân bị “quân nước lạ” giết chết nhiều đến độ cả làng để tang như làng đánh cá Hoà Lộc năm 2005.
Suốt 10 năm trường đối diện với những hành động tàn ác bức hiếp ngư dân ta của Trung Quốc, chẳng thấy nhà nước có bất cứ một động thái, một biện pháp nào nhằm để bảo vệ ngư dân ngoài việc phát bằng khen và thúc họ ra bám biển tiếp. Những tấm bằng khen của lãnh đạo đã trở thành hiện thân của sự vô cảm, quá lạnh lùng đối với máu và nỗi thống khổ của ngư dân. Nếu nhà văn Victor Hugo, tác giả cuốn “Những kẻ khốn cùng” (Les Misérables), tái sinh ở VN không chừng lại có một tác phẩm vĩ đại về ngư dân Việt. Và những kẻ khốn cùng này thực sự sẽ lấy hết nước mắt của thế giới!
Khốn cùng vì gần như họ không có một chọn lựa nào khác. Cuộc sống khó khăn đến nỗi nếu không ra biển thì kiếm sống bằng cách nào? Ra biển gặp tàu Trung Cộng thì một mình, bơ vơ, đối phó làm sao được với tàu sắt và súng ống. Đành để chúng tha hồ làm nhục; tha hồ đánh, cướp, phá, đâm chìm, hay bắt giữ đòi tiền chuộc… Nhưng lết được về đến bờ, thoát chết thì lại trắng tay, tài sản mưu sinh mất sạch. Về đến nhà để phải nhìn cảnh gia đình đối diện với đói rách, với nợ nần chồng chất theo các thiết bị đã mất. Có ai không khỏi mủi lòng khi chứng kiến hình ảnh đen đủi thất thần của 13 ngư dân thuộc hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi vừa được Trung Quốc thả cho về. Tiếng khóc nức nở của những người mẹ, người vợ các ngư dân này đã dậy lên ở cửa sông Loan, huyện Quảng Trạch trong buổi chiều đón họ về bến ngày 16/07 vừa qua.
Khốn khổ cho những người vợ trẻ, những đứa con thơ và cha mẹ già phập phồng trông ngóng tin con từng ngày. Bây giờ một lần đưa chồng, đưa con ra đi, họ biết đây có thể là lần cuối. Khi tàu các anh Võ Tấn Tèo, Lê Văn Thun bị Trung Quốc bắt, mẹ anh Thun suốt ngày ra cửa biển Sa Huỳnh ngóng tin con. Trong ngôi nhà nhỏ của anh, người mẹ chồng cùng cô con dâu trẻ đang mang thai ngày nào cũng tràn nước mắt. Chị Thuỳ và anh Thun vừa mới cưới nhau đầu năm, nghe tin vợ có thai anh bảo đi biển chuyến này cố gắng kiếm tiền về cho vợ sanh nở. Gia đình bà Trần thị Mầy, mẹ anh Tèo, cũng không khá hơn, bà thương đứa con dâu suốt ngày núp trong phòng thui thủi khóc một mình. Bà lo lắng cho đứa con trai sợ nó bị Trung Quốc đánh đập, hành hạ. Lo lắng hơn nữa cho con dâu, vợ anh Võ Tấn Tèo, đang bụng mang dạ chửa, sắp đến ngày sinh nở không có chồng bên cạnh!
Khốn quẫn hơn nữa cho một đất nước mà chuyện ngư dân bị “tàu lạ” bắn giết trong hải phận nước mình như vậy lại được người đứng đầu Bộ Quốc Phòng xem là chuyện nhỏ, chuyện lục đục trong gia đình. Và vì là chuyện nhỏ nên tàu hải quân VN sẽ chỉ bám bờ, không can thiệp.
Nhưng KHỐN NẠN nhất là những ngư dân tay không ấy lại được khen ngợi là những “cột mốc sống”. Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như: “ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối; không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những “cột bia xi măng” vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những “cột gỗ mục” vô giá trị.
Và KHỐN KIẾP không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những “cột mốc sống dở chết dở” ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các “cột mốc còn sống” khác ra khơi trở lại.
Những mảnh bằng khen này làm nhiều người nhớ lại loại bằng khen dành cho các bà mẹ liệt sỹ, các “bà mẹ anh hùng” đã hy sinh tất cả đàn con của mình cho cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”. Sau cùng, công trạng “giải phóng miền Nam” là của đảng. Còn cái bằng khen và chỉ cái bằng khen là của mẹ. Và mẹ ôm nó trước ngực, với hai hàng nước mắt ngồi bệt trên mảnh đất duy nhất còn lại đang bị cưỡng chế.
Tôi tự hỏi sau Lý Sơn, Đà Nẵng, … sẽ còn bao nhiêu mảnh bằng khen khốn nạn ấy nữa treo rải khắp các tỉnh duyên hải Việt Nam?
2793. Australia: Cần thúc ép Việt Nam Tôn trọng Nhân quyền
25-07-2014
Đối thoại Song phương được ấn định vào ngày 28 tháng Bảy tại Hà Nội
(Sydney, ngày 25 tháng Bảy năm 2014) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng Australia cần vận dụng cuộc đối thoại nhân quyền Australia-Việt Nam sắp tới để thúc ép chính phủ Việt Nam thực hiện những bước cải thiện cụ thể và hữu hình bảng thành tích tồi tệ về nhân quyền của mình. Trong đó phải bao gồm các hành động như khẩn trương phóng thích toàn bộ tù nhân chính trị và chấm dứt hạn chế các quyền tự do ngôn luận, nhóm họp, lập hội và tự do tôn giáo.
Cuộc đối thoại nhân quyền lần thứ 11 sắp tới giữa hai quốc gia là lần đầu tiên đối với nội các chính phủ của Thủ tướng Tony Abbott, được ấn định sẽ diễn ra tại Hà Nội vào ngày 28, kèm theo các sự kiện bên lề vào ngày 29 và 30 tháng Bảy năm 2014.
“Australia cần minh xác rằng Việt Nam phải đáp ứng được các nghĩa vụ quốc tế về nhân quyền của mình, nếu muốn được nhìn nhận như một đối tác quốc tế có trách nhiệm,” bà Elaine Pearson, Giám đốc phụ trách Australia của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu. “Qua cuộc đối thoại này, hai bên nên cùng xác lập rõ ràng những mốc cụ thể cần cải thiện trong các lĩnh vực chính như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do lập hội.”
Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia đã tuyên bố rằng các cuộc đối thoại song phương về nhân quyền là một cơ chế quan trọng để chuyển tải các quan ngại về nhân quyền của Australia một cách thường xuyên và có hệ thống, đồng thời là một phương tiện khả dĩ thực hiện việc trao đổi thẳng thắn về những vấn đề nhạy cảm.
Trong bản phúc trình dài 7 trang gửi tới Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền khuyến nghị Australia cần thúc ép chính phủ Việt Nam đạt được những tiến bộ trong ba lĩnh vực chính được quan tâm nhiều nhất, là tù nhân chính trị, cản trở quyền tự do tôn giáo và cưỡng ép lao động trong các trung tâm cai nghiện ma túy.
Hiện có khoảng 150 đến 200 nhà hoạt động và bloggers đang phải ngồi tù ở Việt Nam chỉ vì đã thực hành các quyền cơ bản của mình. Trong sáu tháng đầu năm 2014, chính quyền Việt Nam đã phóng thích một số tù nhân chính trị, trong đó có Cù Huy Hà Vũ, Đỗ Thị Minh Hạnh, Lư Văn Bảy, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Tiến Trung và Vi Đức Hồi. Tuy nhiên, trong cùng thời kỳ này, có thêm ít nhất 14 nhà hoạt động hoặc phê phán chính quyền bị kết án tù, trong đó có các blogger nổi tiếng Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào. Tháng Năm, chính quyền bắt thêm một blogger nổi tiếng nữa, Nguyễn Hữu Vinh (bút danh Anh Ba Sàm) và trợ lý, cô Nguyễn Thị Minh Thúy rồi truy tố họ theo điều 258 của bộ luật hình sự về tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước.”
Trong năm 2013, Việt Nam đã áp dụng những điều luật hà khắc như “tuyên truyền chống nhà nước” (điều 88 bộ luật hình sự); tham gia các “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (điều 79); “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc” (điều 87); và “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước: (điều 258) để truy tố và bỏ tù ít nhất 65 blogger và nhà hoạt động ôn hòa.
“Ngoài đối thoại với các nước phương Tây, chính quyền Việt Nam cũng cần tổ chức đối thoại với chính các công dân của mình, dù các ý kiến của họ có khác ý chính quyền, thay vì cứ bắt giữ và bỏ tù để buộc họ im tiếng,” bà Pearson nói. “Chính quyền Việt Nam cần nhận thấy rằng mình không thể giải quyết các vấn nạn to lớn về chính trị và xã hội của đất nước bằng việc bỏ tù những người lên tiếng chỉ trích chính quyền.”
Theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Australia cần yêu cầu Việt Nam phóng thích ngay lập tức tất cả các tù nhân chính trị, đặc biệt cần quan tâm đến những người đang gặp vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe để họ được chăm sóc y tế đầy đủ. Vào tháng Tư năm nay, chỉ một thời gian ngắn sau khi được đặc xá và phóng thích khỏi nhà tù, blogger Đinh Đăng Định qua đời ở tuổi 51. Vào tháng Bảy, Huỳnh Anh Trí qua đời ở tuổi 42 chỉ sáu tháng sau khi mãn hạn 14 năm tù.
Cần quan tâm khẩn cấp đến nhà hoạt động Phật giáo Hòa Hảo Mai Thị Dung, người được báo là đang ốm nặng, bị liệt cả hai chân, mắc chứng sỏi mật và nhiều chứng bệnh khác. Những nhà hoạt động khác cũng có tin là đang gặp vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe gồm có các nhà hoạt động tôn giáo Ngô Hào, Nguyễn Văn Lía, Mục sư Nguyễn Công Chính và Linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà vận động quyền lợi đất đai Hồ Thị Bích Khương, các blogger Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Đặng Xuân Diệu.
Australia cũng cần kêu gọi Việt Nam thực hiện các cam kết tôn trọng quyền tự do ngôn luận, lập hội, nhóm họp và tôn giáo, theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền. Hành động bác bỏ các khuyến nghị trọng yếu về nhân quyền của Việt Nam trong phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát mới đây trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ở Geneva thể hiện sự thiếu thiện chí cải thiện thành tích nhân quyền của mình.
Việt Nam cũng cần chấm dứt việc lạm dụng trong các trung tâm cai nghiện ma túy, nơi những người bị cho là có sử dụng thuốc gây nghiện bị quản chế tới nhiều năm mà không qua một quy trình pháp lý thích hợp, bị buộc lao động cưỡng ép mà không được trả lương hoặc được trả mức lương rất thấp, và bị các cán bộ trung tâm tra tấn và ngược đãi. Nghiên cứu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền cho thấy hạt điều và một số hàng hóa khác được sản xuất bằng sức lao động bị ép buộc trong các trung tâm cai nghiện đã tìm đường vào dây chuyền cung cấp của các công ty xuất khẩu, rồi từ đó được bán ra các nước ngoài, trong đó có Australia.
“Australia cần kêu gọi Việt Nam đóng cửa các trung tâm cai nghiện, phóng thích những người bị quản chế và tạo điều kiện cho họ cai nghiện tại cộng đồng,” bà Pearson nói. “Nếu Australia để cho Việt Nam có một cuộc đối thoại dễ dãi về nhân quyền, chính quyền Việt Nam sẽ có rất ít lý do để thay đổi thói quen đàn áp của họ.”
Để xem thêm các tin, bài của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền về Việt Nam, xin truy cập:
http://www.hrw.org/vi/asia/vietnam
Muốn có thêm thông tin, xin liên hệ:
Ở Sydney, Elaine Pearson (tiếng Anh): +61 400 505 186; hay email: elaine.pearson@hrw.org. Theo dõi trên Twitter @PearsonElaine
Ở Boston, Phil Robertson (tiếng Anh, tiếng Thái): +1-917-378-4097; hay email: robertp@hrw.org. Theo dõi trên Twitter @Reaproy
Ở San Francisco, Brad Adams (tiếng Anh): +1-347-463-3531; hay email adamsb@hrw.org. Theo dõi trên Twitter @BradAdamsHRW
Ở Washington, DC, John Sifton (tiếng Anh): +1-646-479-2499 (di động); hay email: siftonj@hrw.org. Theo dõi trên Twitter @johnsifton
2794. Việt Nam sẽ đi về đâu?
GS Nguyễn Văn Tuấn
Đó là một câu hỏi ám ảnh rất nhiều người quan tâm đến Việt Nam, kể cả tôi. Mặc dù một cách chính thức, Việt Nam theo đuổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhưng hình như chẳng ai biết hình thù cái XHCN đó ra sao, vì nơi khai sinh ra cái chủ nghĩa đó đã khai tử trước khi nó hình thành. Cũng chẳng ai biết khi nào thì đạt được XHCN, vì ngay cả ngài tổng bí thư từng nói “Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. Nói tóm lại, chúng ta chẳng biết Việt Nam sẽ đi về đâu.
Nhìn qua con số thu nhập bình quân (GDP/capita) sẽ thấy Việt Nam ta đang ở đâu. Theo số liệu 2013, thu nhập bình quân của VN là 1901 USD, bằng khoảng 1/3 của Thái Lan (5779 USD). So với Mã Lai (11513 USD), Singapore (55182 USD) và Hàn Quốc (24400 USD) thì VN càng thê thảm hơn nữa. Có người tính toán bao nhiêu năm sau VN mới bằng Singapore, nhưng tôi nghĩ những tính toán như thế tuy rất thú vị nhưng chẳng có ý nghĩa gì khi khoảng cách quá xa. Tất cả các nước vừa kể đều theo Mĩ, chẳng có ai theo Tàu và chẳng ai muốn tiến lên XHCN cả.
Nhưng Việt Nam thì xem cái định hướng XHCN là một mục tiêu, một mục tiêu rất có thể là sai lầm. Giáo sư Đặng Phong (1939-2010) một chuyên gia kinh tế có uy tín từng nói về XHCN như sau: “Xã hội chủ nghĩa là sự vớt vát thuộc quá khứ mà mình không thể chấp nhận nó nữa, nhưng mình không thể thẳng thắn tuyên bố giã từ nó cho nên dùng một chữ rất mơ hồ chung chung như vậy. Bây giờ mà mải mê đi tìm xã hội chủ nghĩa thì không bao giờ tìm thấy giá trị thật của nó đâu. Cái nội dung thật của nó là cái gì thì không tìm thấy đâu. Nó là một món nợ của lịch sử. Người Việt Nam chưa bao giờ xây dựng chủ nghĩa xã hội như Liên Xô, nhưng Việt Nam đã đi theo con đường đó mà ngày nay chưa ai dám thẳng thắn tuyên bố rằng con đường đó là sai lầm.” Nói cách khác, XHCN là một sai lầm lịch sử, nhưng VN không dám nói đó là một sai lầm!
Thế nhưng người ta chẳng những không dám nói là sai lầm, mà vẫn phải nói đó là một mục tiêu cao cả! Người ta vẫn phải nói về mục tiêu XHCN, nhưng chính người nói có lẽ cũng không tin những gì mình nói. Vì nhiệm vụ và đồng lương nên phải nói, nhưng trong thâm tâm thì họ chắc gì đã tin. Một mặt, họ chỉ trích thế giới phương Tây, thậm chí xem Mĩ là kẻ thù, nhưng trong thực tế thì họ thích đi máy bay Airbus và Boeing, và thích gửi con cái sang Mĩ và các nước phương Tây học!
Đó chính là một “hội chứng” cực kì phổ biến trong xã hội ngày nay: “nói vậy mà không phải vậy”. Người ta làm nhưng không tin vào việc mình làm, nói nhưng không tin những gì mình nói. Họ dùng ngôn từ hoa mĩ để che đậy sự thật. Đó cũng là một cách tự bảo vệ mình, phòng ngừa những bất trắc, những soi mói lời ăn tiếng nói trong một thể chế chuyên chế.
Nhưng hội chứng trên còn lan tràn sang mối liên hệ giữa người dân và lãnh đạo. Lãnh đạo cứ đọc diễn văn, vẫn hô hào năm này sang năm khác về con đường XHCN, học tập tấm gương của ai đó, về dân chủ tự do, về chí công vô tư, về chống tham nhũng, v.v. Lãnh đạo cứ nói, người dân vẫn không tin vì họ cho rằng “nói vậy mà không phải vậy”. Thậm chí, người dân cũng không chắc các vị ấy tin vào những gì họ nói, vậy thì tại sao mình phải tin. Người cầm quyền thừa biết rằng người dân đang rất khổ và bất bình, nhưng họ cứ lờ đi và phải nói những gì họ phải nói. Thế là hai bên lệch pha, chẳng ai tin ai. Trong một xã hội như thế thì quả là nguy hiểm. Chính quyền cứ nói, nền kinh tế vận hành theo hướng của nó.
Có lẽ Việt Nam sẽ chẳng đi về đâu, mà vẫn bồng bềnh trong tình trạng hiện nay. Bây giờ thì chắc nhiều người đã nhận ra một điều hiển nhiên từ lâu: Việt Nam không có cải cách thật sự, không có “đổi mới” thật sự. Tất cả thiết chế chính trị của chế độ vẫn như xưa, không có gì thay đổi. Ngôn ngữ của lãnh đạo vẫn như thời bao cấp, có khác chăng là có màu mè hơn một chút. Có thể có vài thay đổi bề ngoài, nhưng bên trong thì vẫn y chang từ thời bao cấp. Họ vẫn “nói vậy mà không phải vậy”, đến nỗi Thủ tướng Đài Loan nói thẳng rằng “Chính phủ Việt Nam thiếu thành thật”. Để người ta nói như thế vào mặt thì còn mặt mũi nào mà nhìn thế giới. Có lẽ Việt Nam không có khả năng tự đổi mới, nên đất nước sẽ chẳng đi về đâu cả, và khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong vùng càng ngày càng xa hơn.
Nguồn: FB Nguyen Tuan
Đó là một câu hỏi ám ảnh rất nhiều người quan tâm đến Việt Nam, kể cả tôi. Mặc dù một cách chính thức, Việt Nam theo đuổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhưng hình như chẳng ai biết hình thù cái XHCN đó ra sao, vì nơi khai sinh ra cái chủ nghĩa đó đã khai tử trước khi nó hình thành. Cũng chẳng ai biết khi nào thì đạt được XHCN, vì ngay cả ngài tổng bí thư từng nói “Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. Nói tóm lại, chúng ta chẳng biết Việt Nam sẽ đi về đâu.
Nhìn qua con số thu nhập bình quân (GDP/capita) sẽ thấy Việt Nam ta đang ở đâu. Theo số liệu 2013, thu nhập bình quân của VN là 1901 USD, bằng khoảng 1/3 của Thái Lan (5779 USD). So với Mã Lai (11513 USD), Singapore (55182 USD) và Hàn Quốc (24400 USD) thì VN càng thê thảm hơn nữa. Có người tính toán bao nhiêu năm sau VN mới bằng Singapore, nhưng tôi nghĩ những tính toán như thế tuy rất thú vị nhưng chẳng có ý nghĩa gì khi khoảng cách quá xa. Tất cả các nước vừa kể đều theo Mĩ, chẳng có ai theo Tàu và chẳng ai muốn tiến lên XHCN cả.
Nhưng Việt Nam thì xem cái định hướng XHCN là một mục tiêu, một mục tiêu rất có thể là sai lầm. Giáo sư Đặng Phong (1939-2010) một chuyên gia kinh tế có uy tín từng nói về XHCN như sau: “Xã hội chủ nghĩa là sự vớt vát thuộc quá khứ mà mình không thể chấp nhận nó nữa, nhưng mình không thể thẳng thắn tuyên bố giã từ nó cho nên dùng một chữ rất mơ hồ chung chung như vậy. Bây giờ mà mải mê đi tìm xã hội chủ nghĩa thì không bao giờ tìm thấy giá trị thật của nó đâu. Cái nội dung thật của nó là cái gì thì không tìm thấy đâu. Nó là một món nợ của lịch sử. Người Việt Nam chưa bao giờ xây dựng chủ nghĩa xã hội như Liên Xô, nhưng Việt Nam đã đi theo con đường đó mà ngày nay chưa ai dám thẳng thắn tuyên bố rằng con đường đó là sai lầm.” Nói cách khác, XHCN là một sai lầm lịch sử, nhưng VN không dám nói đó là một sai lầm!
Thế nhưng người ta chẳng những không dám nói là sai lầm, mà vẫn phải nói đó là một mục tiêu cao cả! Người ta vẫn phải nói về mục tiêu XHCN, nhưng chính người nói có lẽ cũng không tin những gì mình nói. Vì nhiệm vụ và đồng lương nên phải nói, nhưng trong thâm tâm thì họ chắc gì đã tin. Một mặt, họ chỉ trích thế giới phương Tây, thậm chí xem Mĩ là kẻ thù, nhưng trong thực tế thì họ thích đi máy bay Airbus và Boeing, và thích gửi con cái sang Mĩ và các nước phương Tây học!
Đó chính là một “hội chứng” cực kì phổ biến trong xã hội ngày nay: “nói vậy mà không phải vậy”. Người ta làm nhưng không tin vào việc mình làm, nói nhưng không tin những gì mình nói. Họ dùng ngôn từ hoa mĩ để che đậy sự thật. Đó cũng là một cách tự bảo vệ mình, phòng ngừa những bất trắc, những soi mói lời ăn tiếng nói trong một thể chế chuyên chế.
Nhưng hội chứng trên còn lan tràn sang mối liên hệ giữa người dân và lãnh đạo. Lãnh đạo cứ đọc diễn văn, vẫn hô hào năm này sang năm khác về con đường XHCN, học tập tấm gương của ai đó, về dân chủ tự do, về chí công vô tư, về chống tham nhũng, v.v. Lãnh đạo cứ nói, người dân vẫn không tin vì họ cho rằng “nói vậy mà không phải vậy”. Thậm chí, người dân cũng không chắc các vị ấy tin vào những gì họ nói, vậy thì tại sao mình phải tin. Người cầm quyền thừa biết rằng người dân đang rất khổ và bất bình, nhưng họ cứ lờ đi và phải nói những gì họ phải nói. Thế là hai bên lệch pha, chẳng ai tin ai. Trong một xã hội như thế thì quả là nguy hiểm. Chính quyền cứ nói, nền kinh tế vận hành theo hướng của nó.
Có lẽ Việt Nam sẽ chẳng đi về đâu, mà vẫn bồng bềnh trong tình trạng hiện nay. Bây giờ thì chắc nhiều người đã nhận ra một điều hiển nhiên từ lâu: Việt Nam không có cải cách thật sự, không có “đổi mới” thật sự. Tất cả thiết chế chính trị của chế độ vẫn như xưa, không có gì thay đổi. Ngôn ngữ của lãnh đạo vẫn như thời bao cấp, có khác chăng là có màu mè hơn một chút. Có thể có vài thay đổi bề ngoài, nhưng bên trong thì vẫn y chang từ thời bao cấp. Họ vẫn “nói vậy mà không phải vậy”, đến nỗi Thủ tướng Đài Loan nói thẳng rằng “Chính phủ Việt Nam thiếu thành thật”. Để người ta nói như thế vào mặt thì còn mặt mũi nào mà nhìn thế giới. Có lẽ Việt Nam không có khả năng tự đổi mới, nên đất nước sẽ chẳng đi về đâu cả, và khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong vùng càng ngày càng xa hơn.
Nguồn: FB Nguyen Tuan
Nguyễn Lê Hà - Giá trị pháp lý công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng – cái nhìn của một luật sư chuyên nghiệp
Hai vị luật sư Trương Nhân Tuấn và Nguyễn Lê Hà đã có một cuộc tranh
luận thẳng thắn và không khoan nhượng. Có lẽ, nếu không có cái con quái
vật mang tên Giàn khoan 981 thì hẳn hai vị đã ai ngồi nhà nấy, lo công
chuyện của mình. Nhưng ”anh hùng tiếng đã gọi rằng, Giữa đường dẫu thấy
bất bằng mà tha”, nhất là khi hai vị nhìn sự xuất hiện phi lý của con
quái vật 981 bằng con mắt của nhà luật học. Và thế là cuộc tranh luận
bất đắc dĩ đã phải nổ ra. Tuy khác nhau về quan điểm nhưng tấm lòng của
họ, mục đích cuối cùng mà họ hướng tới lại hoàn toàn giống nhau: đấy là
sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
Cám ơn quý vị đã dẫn bạn đọc thám hiểm cánh rừng luật pháp mênh mông, kỳ thú và chắc chắn là rất mới lạ với đa số bạn đọc chúng ta.
Nhận thấy cuộc tranh luận đã đến hồi viên mãn: viên mãn về kiến thức, viên mãn về ý chí bảo vệ chân lý của mình, viên mãn cả về sự khác biệt… quan điểm, BVN xin được khép nó lại
Bauxite Việt Nam
Cám ơn quý vị đã dẫn bạn đọc thám hiểm cánh rừng luật pháp mênh mông, kỳ thú và chắc chắn là rất mới lạ với đa số bạn đọc chúng ta.
Nhận thấy cuộc tranh luận đã đến hồi viên mãn: viên mãn về kiến thức, viên mãn về ý chí bảo vệ chân lý của mình, viên mãn cả về sự khác biệt… quan điểm, BVN xin được khép nó lại
Bauxite Việt Nam
Chào ông Trương Nhân Tuấn,
Khi viết bài : “Giá trị pháp lý Công hàm TT Phạm văn Đồng…” tôi muốn đưa ra một cái nhìn đúng đắn (1), khách quan và công bằng để cùng nhau trao đổi trong sự tương kính lẫn nhau .
Người viết mong nhận được nhũng ý kiến đóng góp, phê bình đứng đắn với tinh thần trách nhiệm và tôn trọng độc giả. Đặc biệt bài viết này liên quan đến lãnh vục chuyên môn về Công Pháp Quốc Tế (2).
Người có chút căn bản về luật sẽ tìm hiểu căn kẽ nội dung bài viết của một luật sư chuyên nghiệp cũng như sẽ thận trọng hơn khi đưa ra những phê bình, kết luận liên quan tới những luận điểm pháp lý.
Hơn nữa khi phê bình, độc giả hiểu rằng người phê bình nắm vững pháp lý những điều mình đưa ra và thận trọng cần thiết khi đưa ra chứng cớ (điều luật, án lệ) chứng minh.
Thực tế, bài trả lời trên đã làm tôi thất vọng, một phần, không phải ông đưa ra chứng cứ pháp lý sai lầm, nhưng là thiếu sự thận trọng cần thiết của một người phê bình luật.
Đàng khác, vấn đề bắt đầu đi quá xa , dùng các sự suy diễn sai lầm đó để bẻ hướng theo chiều không liên quan tới bài viết, mất đi không khí trong lành.
Tôi nghĩ cuộc trao đổi đã đầy đủ và phải chấm dứt sau bài này, lý do thật giản dị, như ngạn ngữ Pháp nói “ils n`ont pas la même longueur d`onde” (không có cùng một làn sóng).
Nói vắn tắt như ông bà ta: “ông nói gà bà nói vịt”
Tuy nhiên vì tôn trọng độc giả các bài viết này, tôi xin trả lời 3 điểm ông nêu ra, không phải nhằm thuyết phục ông, nhưng để các độc giả có một cái nhìn trong sáng trong rừng luật mà không phải hiểu là luật rừng .
1- Học giả cho rằng khi tôi viết: các quốc gia liên bang (Ếtats fédérés) của Hoa Kỳ (État fédéral) cũng được coi như những quốc gia theo Công pháp quốc tế mặc dù không có quyền đối ngoại và an ninh» là không đúng, là lẫn lộn.
Xin trả lời: Điều xác quyết của tôi nêu trên được toàn thể các Học thuyết luật (doctrine) công nhận và 10 tiểu bang ((Ếtats fédérés) của Liên bang Mỹ (État federal) áp dụng Công ước về Luật biển từ trước và sau năm 1958 tới luật mới 1982 để giải quyết các chấp về biển đảo giữa các tiểu bang này với nhau từ hơn nửa thế kỷ nay.
Điều này là hiển nhiên, không có ai trên thế giới này phủ nhận.
Dưới đây là danh sách 10 tiểu bang của Hoa Kỳ đã áp dụng các Công ước
Quốc tế về Luật biển để phân địch ranh giới biển đảo :
- Alabama c. Floride ; Mississipi c. Alabama ; Floride c. Géorgie ; Caroline du Nord c. Caroline du Sud ; Caroline du Nord c. Virginie ; Virginie c. Maryland ; Lousiana c. Mississipi ; Texas c. Lousiana ; Newhamphire c. Maine ; Georgia c. South carolina ; New Jersey c. Delaware…
Nhà luật học Gilles Despeux gọi 10 phán quyết là 10 mệnh lệnh (vì tính cách quan trọng, ông ám chỉ 10 mệnh lệnh của Chúa trao cho Moise để giảng dạy dân chúng) : les dix décisions américaines de délimitation maritime ou les dix commandements de la Grande Federation tại trang 89, Droit de la delimitation maritime, Peter Lang, 2000, ISBN3-631-13996-9.
Tại trang 91, ghi chú số 14, ông còn xác định để độc giả dễ hiểu: Thật vậy, toàn thể Học thuyết (l’ensemble de la doctrine) công nhận các quốc gia trong liên bang (États Fédérés) theo nghĩa Công pháp quốc tế mặc dù không có quyền về đối ngoại và an ninh. Tiếp theo, ông ghi nhiều tên các chuyên gia, học giả nổi tiếng và các sách.
Thực tế các thẩm phán cũng như các luật sư chuyên môn coi đó như một điều hiển nhiên (évidence), không ai tranh cãi hay đặt lại vấn đề từ hơn 50 năm nay.
Ví như Thủ đô của Việt Nam là thành phố Hà Nội. Nếu có người Việt nào đó nói không đúng hay lẫn lộn, tôi đành chịu, không có ý kiến.
2- Học giả nói nếu LS kiện TQ ra Tòa án Công lý quốc tế sẽ bị bác đơn vì lỗi thủ tục.
Ông hiểu sai chữ thủ tục, ông đọc lại phần Procédure điều 40 et ss CIJ sẽ hiểu thế nào là thủ tục.
Tôi thấy thất vọng, khi ông trích dẫn : «LA HAYE, le 17 juin 2003. La Cour internationale de Justice (CIJ), organe judiciaire principal des Nations Unies, a rejeté aujourd’hui la demande en indication de mesure conservatoire présentée par la République du Congo en l’affaire relative à Certaines procédures pénales engagées en France (République du Congo c. France).
Như ông thấy, vụ Cộng hòa Công gô kiện Pháp ra Toà án Công lý Quốc tế ở La Haye Hà Lan và một vụ Hình sự đang thụ lý tại Pháp. Đây là hai vụ khác nhau về bản chất và thẩm quyền hai Toà án khác nhau ở 2 quốc gia khác nhau.
Bởi vậy, nên việc Cộng Hòa Công gô xin Toà án Công lý Quốc tế ở La Haye Hà Lan ra Án lệnh cách thức bảo hộ (mesure concervatoire) liên quan tới vài thủ tục hình sự tại Pháp.
Toà bác đơn xin án lệnh của Công gô vì Toà án Công lý Quốc tế theo quy Chế thành lập đâu có thẩm quyền liên quan tới biện pháp bảo hộ (mesure conservatoire) vụ hình sự tại Pháp, đâu phải Tòa bác đơn kiện chính đang thụ lý ra tại CIJ La Haye.
Điều 41. 1 nói rất rõ: Toà có quyền chỉ định, nếu thấy tình huống đòi hỏi, các biện pháp bảo tồn (mesures conservatoires) của mỗi bên và các biện pháp này chỉ có tính tạm thời.
Điều 41.2 trong khi chờ đợi phán quyết chung thẩm, việc chỉ định các biện pháp này được thông báo ngay cho các bên và Hội đồng an ninh.
Điều luật trên nói rất rõ, các biện pháp bảo tồn chỉ có tính các tạm thời, không có ảnh hưởng hay nguy hại đến phán quyết chung thâm về quyền lợi các bên vụ kiện.
Trong một vụ kiện, các bên yêu cầu Toà ra các Án lệnh khác nhau tùy theo nhu cầu của vụ kiện ví dụ: để bảo tồn nguyên trạng một tình thế (situation), một sự vật (objet), thay đổi người đại diện, thay đổi cố vấn, luật sư…vv các đơn (requête) này có thể bị bác hay chấp nhận với nhiều lý do khác nhau.
Vì thế, các vụ kiện quốc tế không bị bác do lỗi thủ tục là có nghĩa vậy.
Toà xét xử và ra phán quyết về Đơn khiếu kiện (jugement) còn Toà ra án lệnh (Ordonnance) các biện pháp tạm thời ((mesures conservatoires).
Tòa có thể ra nhiều án lệnh (ordonnances) trong vụ kiện nhưng phán quyết đơn kiện chỉ có một (jugement).
Chữ thủ tục theo qui định của mỗi Toà án, chứ không phải thủ tục như ông hiểu.
Ví dụ 2 ông nói vụ thất bại của Air VietNam kiện luật sư Monti là do lỗi thủ tục.
Thưa ông, điều kết luận trên không đúng.
Đơn bị bác do thời hiệu triệt tiêu tố quyền (prescription extintive): Air VietNam đã không sử dụng tố quyền trong thời gian luật định mặc dù đã nhận được đầy đủ hồ sơ.
Luật sư Monti chờ thời gian hết hạn mới xin Toà án Paris ra án lệnh sai áp trương mục Ngân hàng của Air VietNam tổng số khoảng hơn 5000 000$ tương đương với số tiền thù lao của luật sư.
Điều quan trọng hơn, vụ kiện này không phải là vụ kiện quốc tế và theo luật quốc tế.
Trái lại, đó là vụ kiện dân sự giữa cá nhân luật sư Monti và công ty quốc doanh Air Việt Nam và luật áp dụng là luật dân sự Italia.
Điều luật căn bản là điều nói về thủ đắc vô căn (enrichissement sans cause), có nghĩ là hưởng lợi không có lý do. Vụ kiện này đã gây ồn ào trong giới luật sư Việt Nam và không hiểu tại sao luật sư kiện Air VietNam vì ông ls này không có quan hệ làm ăn(3).
Các dẫn chứng trên cho thấy Ông hiểu sai vụ việc và các điểm pháp lý liên quan.
Tục ngữ Việt Nam có câu: « râu ông nọ, cắm cầm bà kia » là vậy.
Các câu hỏi khác như : kiện hay không kiện, thắng hay không thắng, chính danh, không chính danh của các chính quyền VN, giải pháp này nọ đã được đăng trên các Medias và tranh cãi và cãi cọ trên các trang mạng, các salon cà phê, các quán ăn không phải công việc của luật sư.
Là luật sư chuyên nghiệp, chúng tôi làm việc với người thật, sự việc thật, hoàn cảnh thật và tìm ra các giải pháp thỏa đáng, không nhất thiết thắng thua.
Qua bài trả lời, chúng tôi thấy có dấu chỉ vụ việc bắt đầu trượt đi quá xa, vượt tầm kiểm soát. Bởi vậy chúng tôi xin cám ơn các bạn đọc và chấm dứt bài này.
Chào Ông,
Luật Sư NGUYEN LE-HA
(1) Trong bài viết : « Giá trị Pháp L ý … » ở ghi chú 4 , tôi có đề cập tới ba con luật sư trong đó có 1 đứa đã và đang làm việc với nhiều hồ sơ luật QT và Tòa án QT nhưng không cho biết các hồ sơ nào và các toà án nào, kết quả ra sao.
Chỉ vài tờ báo đáng tin cậy, mới cho các thông tin chi tiết trên vì không muốn gây ngộ nhận. Tục ngữ Pháp có câu : cái Tôi là điều đáng ghét. Đàng khác, chúng tôi cũng muốn nói, khi viết bài báo với tinh thần trách nhiệm của một luật sư chuyên nghiệp và tôn trọng độc giả.
(2) Đặc biệt về Công ước Vienne về Hiệp ước, về Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, về Qui Chế Toà Án Công Lý QT, về các Công ước Geneve về Luật Biển 1958 & 1982, Luật về phân định lãnh hải và Hiến pháp Hoa Kỳ ..vv
(3) Chúng tôi hay theo dõi các vụ kiện liên quan tới người Việt Nam hay cơ quan VN với ngoại quốc và tìm hiểu những điểm luật pháp lý liên quan như vụ : Nguyễn Huu Luyen c, Đai học Mỹ (trong đó có liên quan tới học giả Nguyễn Huệ Chi và ?..); vụ kiện các nạn nhân chất da cam c. các công ty Chế Tạo Hóa Chất Mỹ .
Đặc biệt vụ này, chúng tôi có một bài phân tích pháp lý và đưa ra kết luận sẽ bị bác đơn & đề nghị Chính Quyền VN nên làm gì, được đăng trong báo Pháp Luật của DHLKSG tại Houston, TX. Điều này đã xẩy ra vài tháng sau đó.
Khi viết bài : “Giá trị pháp lý Công hàm TT Phạm văn Đồng…” tôi muốn đưa ra một cái nhìn đúng đắn (1), khách quan và công bằng để cùng nhau trao đổi trong sự tương kính lẫn nhau .
Người viết mong nhận được nhũng ý kiến đóng góp, phê bình đứng đắn với tinh thần trách nhiệm và tôn trọng độc giả. Đặc biệt bài viết này liên quan đến lãnh vục chuyên môn về Công Pháp Quốc Tế (2).
Người có chút căn bản về luật sẽ tìm hiểu căn kẽ nội dung bài viết của một luật sư chuyên nghiệp cũng như sẽ thận trọng hơn khi đưa ra những phê bình, kết luận liên quan tới những luận điểm pháp lý.
Hơn nữa khi phê bình, độc giả hiểu rằng người phê bình nắm vững pháp lý những điều mình đưa ra và thận trọng cần thiết khi đưa ra chứng cớ (điều luật, án lệ) chứng minh.
Thực tế, bài trả lời trên đã làm tôi thất vọng, một phần, không phải ông đưa ra chứng cứ pháp lý sai lầm, nhưng là thiếu sự thận trọng cần thiết của một người phê bình luật.
Đàng khác, vấn đề bắt đầu đi quá xa , dùng các sự suy diễn sai lầm đó để bẻ hướng theo chiều không liên quan tới bài viết, mất đi không khí trong lành.
Tôi nghĩ cuộc trao đổi đã đầy đủ và phải chấm dứt sau bài này, lý do thật giản dị, như ngạn ngữ Pháp nói “ils n`ont pas la même longueur d`onde” (không có cùng một làn sóng).
Nói vắn tắt như ông bà ta: “ông nói gà bà nói vịt”
Tuy nhiên vì tôn trọng độc giả các bài viết này, tôi xin trả lời 3 điểm ông nêu ra, không phải nhằm thuyết phục ông, nhưng để các độc giả có một cái nhìn trong sáng trong rừng luật mà không phải hiểu là luật rừng .
1- Học giả cho rằng khi tôi viết: các quốc gia liên bang (Ếtats fédérés) của Hoa Kỳ (État fédéral) cũng được coi như những quốc gia theo Công pháp quốc tế mặc dù không có quyền đối ngoại và an ninh» là không đúng, là lẫn lộn.
Xin trả lời: Điều xác quyết của tôi nêu trên được toàn thể các Học thuyết luật (doctrine) công nhận và 10 tiểu bang ((Ếtats fédérés) của Liên bang Mỹ (État federal) áp dụng Công ước về Luật biển từ trước và sau năm 1958 tới luật mới 1982 để giải quyết các chấp về biển đảo giữa các tiểu bang này với nhau từ hơn nửa thế kỷ nay.
Điều này là hiển nhiên, không có ai trên thế giới này phủ nhận.
Dưới đây là danh sách 10 tiểu bang của Hoa Kỳ đã áp dụng các Công ước
Quốc tế về Luật biển để phân địch ranh giới biển đảo :
- Alabama c. Floride ; Mississipi c. Alabama ; Floride c. Géorgie ; Caroline du Nord c. Caroline du Sud ; Caroline du Nord c. Virginie ; Virginie c. Maryland ; Lousiana c. Mississipi ; Texas c. Lousiana ; Newhamphire c. Maine ; Georgia c. South carolina ; New Jersey c. Delaware…
Nhà luật học Gilles Despeux gọi 10 phán quyết là 10 mệnh lệnh (vì tính cách quan trọng, ông ám chỉ 10 mệnh lệnh của Chúa trao cho Moise để giảng dạy dân chúng) : les dix décisions américaines de délimitation maritime ou les dix commandements de la Grande Federation tại trang 89, Droit de la delimitation maritime, Peter Lang, 2000, ISBN3-631-13996-9.
Tại trang 91, ghi chú số 14, ông còn xác định để độc giả dễ hiểu: Thật vậy, toàn thể Học thuyết (l’ensemble de la doctrine) công nhận các quốc gia trong liên bang (États Fédérés) theo nghĩa Công pháp quốc tế mặc dù không có quyền về đối ngoại và an ninh. Tiếp theo, ông ghi nhiều tên các chuyên gia, học giả nổi tiếng và các sách.
Thực tế các thẩm phán cũng như các luật sư chuyên môn coi đó như một điều hiển nhiên (évidence), không ai tranh cãi hay đặt lại vấn đề từ hơn 50 năm nay.
Ví như Thủ đô của Việt Nam là thành phố Hà Nội. Nếu có người Việt nào đó nói không đúng hay lẫn lộn, tôi đành chịu, không có ý kiến.
2- Học giả nói nếu LS kiện TQ ra Tòa án Công lý quốc tế sẽ bị bác đơn vì lỗi thủ tục.
Ông hiểu sai chữ thủ tục, ông đọc lại phần Procédure điều 40 et ss CIJ sẽ hiểu thế nào là thủ tục.
Tôi thấy thất vọng, khi ông trích dẫn : «LA HAYE, le 17 juin 2003. La Cour internationale de Justice (CIJ), organe judiciaire principal des Nations Unies, a rejeté aujourd’hui la demande en indication de mesure conservatoire présentée par la République du Congo en l’affaire relative à Certaines procédures pénales engagées en France (République du Congo c. France).
Như ông thấy, vụ Cộng hòa Công gô kiện Pháp ra Toà án Công lý Quốc tế ở La Haye Hà Lan và một vụ Hình sự đang thụ lý tại Pháp. Đây là hai vụ khác nhau về bản chất và thẩm quyền hai Toà án khác nhau ở 2 quốc gia khác nhau.
Bởi vậy, nên việc Cộng Hòa Công gô xin Toà án Công lý Quốc tế ở La Haye Hà Lan ra Án lệnh cách thức bảo hộ (mesure concervatoire) liên quan tới vài thủ tục hình sự tại Pháp.
Toà bác đơn xin án lệnh của Công gô vì Toà án Công lý Quốc tế theo quy Chế thành lập đâu có thẩm quyền liên quan tới biện pháp bảo hộ (mesure conservatoire) vụ hình sự tại Pháp, đâu phải Tòa bác đơn kiện chính đang thụ lý ra tại CIJ La Haye.
Điều 41. 1 nói rất rõ: Toà có quyền chỉ định, nếu thấy tình huống đòi hỏi, các biện pháp bảo tồn (mesures conservatoires) của mỗi bên và các biện pháp này chỉ có tính tạm thời.
Điều 41.2 trong khi chờ đợi phán quyết chung thẩm, việc chỉ định các biện pháp này được thông báo ngay cho các bên và Hội đồng an ninh.
Điều luật trên nói rất rõ, các biện pháp bảo tồn chỉ có tính các tạm thời, không có ảnh hưởng hay nguy hại đến phán quyết chung thâm về quyền lợi các bên vụ kiện.
Trong một vụ kiện, các bên yêu cầu Toà ra các Án lệnh khác nhau tùy theo nhu cầu của vụ kiện ví dụ: để bảo tồn nguyên trạng một tình thế (situation), một sự vật (objet), thay đổi người đại diện, thay đổi cố vấn, luật sư…vv các đơn (requête) này có thể bị bác hay chấp nhận với nhiều lý do khác nhau.
Vì thế, các vụ kiện quốc tế không bị bác do lỗi thủ tục là có nghĩa vậy.
Toà xét xử và ra phán quyết về Đơn khiếu kiện (jugement) còn Toà ra án lệnh (Ordonnance) các biện pháp tạm thời ((mesures conservatoires).
Tòa có thể ra nhiều án lệnh (ordonnances) trong vụ kiện nhưng phán quyết đơn kiện chỉ có một (jugement).
Chữ thủ tục theo qui định của mỗi Toà án, chứ không phải thủ tục như ông hiểu.
Ví dụ 2 ông nói vụ thất bại của Air VietNam kiện luật sư Monti là do lỗi thủ tục.
Thưa ông, điều kết luận trên không đúng.
Đơn bị bác do thời hiệu triệt tiêu tố quyền (prescription extintive): Air VietNam đã không sử dụng tố quyền trong thời gian luật định mặc dù đã nhận được đầy đủ hồ sơ.
Luật sư Monti chờ thời gian hết hạn mới xin Toà án Paris ra án lệnh sai áp trương mục Ngân hàng của Air VietNam tổng số khoảng hơn 5000 000$ tương đương với số tiền thù lao của luật sư.
Điều quan trọng hơn, vụ kiện này không phải là vụ kiện quốc tế và theo luật quốc tế.
Trái lại, đó là vụ kiện dân sự giữa cá nhân luật sư Monti và công ty quốc doanh Air Việt Nam và luật áp dụng là luật dân sự Italia.
Điều luật căn bản là điều nói về thủ đắc vô căn (enrichissement sans cause), có nghĩ là hưởng lợi không có lý do. Vụ kiện này đã gây ồn ào trong giới luật sư Việt Nam và không hiểu tại sao luật sư kiện Air VietNam vì ông ls này không có quan hệ làm ăn(3).
Các dẫn chứng trên cho thấy Ông hiểu sai vụ việc và các điểm pháp lý liên quan.
Tục ngữ Việt Nam có câu: « râu ông nọ, cắm cầm bà kia » là vậy.
Các câu hỏi khác như : kiện hay không kiện, thắng hay không thắng, chính danh, không chính danh của các chính quyền VN, giải pháp này nọ đã được đăng trên các Medias và tranh cãi và cãi cọ trên các trang mạng, các salon cà phê, các quán ăn không phải công việc của luật sư.
Là luật sư chuyên nghiệp, chúng tôi làm việc với người thật, sự việc thật, hoàn cảnh thật và tìm ra các giải pháp thỏa đáng, không nhất thiết thắng thua.
Qua bài trả lời, chúng tôi thấy có dấu chỉ vụ việc bắt đầu trượt đi quá xa, vượt tầm kiểm soát. Bởi vậy chúng tôi xin cám ơn các bạn đọc và chấm dứt bài này.
Chào Ông,
Luật Sư NGUYEN LE-HA
(1) Trong bài viết : « Giá trị Pháp L ý … » ở ghi chú 4 , tôi có đề cập tới ba con luật sư trong đó có 1 đứa đã và đang làm việc với nhiều hồ sơ luật QT và Tòa án QT nhưng không cho biết các hồ sơ nào và các toà án nào, kết quả ra sao.
Chỉ vài tờ báo đáng tin cậy, mới cho các thông tin chi tiết trên vì không muốn gây ngộ nhận. Tục ngữ Pháp có câu : cái Tôi là điều đáng ghét. Đàng khác, chúng tôi cũng muốn nói, khi viết bài báo với tinh thần trách nhiệm của một luật sư chuyên nghiệp và tôn trọng độc giả.
(2) Đặc biệt về Công ước Vienne về Hiệp ước, về Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, về Qui Chế Toà Án Công Lý QT, về các Công ước Geneve về Luật Biển 1958 & 1982, Luật về phân định lãnh hải và Hiến pháp Hoa Kỳ ..vv
(3) Chúng tôi hay theo dõi các vụ kiện liên quan tới người Việt Nam hay cơ quan VN với ngoại quốc và tìm hiểu những điểm luật pháp lý liên quan như vụ : Nguyễn Huu Luyen c, Đai học Mỹ (trong đó có liên quan tới học giả Nguyễn Huệ Chi và ?..); vụ kiện các nạn nhân chất da cam c. các công ty Chế Tạo Hóa Chất Mỹ .
Đặc biệt vụ này, chúng tôi có một bài phân tích pháp lý và đưa ra kết luận sẽ bị bác đơn & đề nghị Chính Quyền VN nên làm gì, được đăng trong báo Pháp Luật của DHLKSG tại Houston, TX. Điều này đã xẩy ra vài tháng sau đó.
(
2795. Phỏng vấn GS Carlyle Thayer về việc Trung Quốc đặt giàn khoan trên vùng biển Việt Nam
TAMMY PHAM (Vietnam Film Club): Thưa ông, khi đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam, thì Bắc Kinh đã có những toan tính gì?
CARLYLE THAYER: Tôi nghĩ là hiện nay câu trả lời chưa được rõ ràng lắm về mặt chiến-thuật lẫn chiến-lược. Ngay cái thời-điểm họ đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam cũng là bất ngờ. Bởi vì tháng 10 năm ngoái Phó-thủ-tướng Lý Khắc Cường của Trung Quốc sang thăm Việt Nam, thì báo đài Trung Quốc cho là những khó khăn trong quan-hệ hai nước đã được tháo gỡ.
Hai bên đã đồng-ý lập ra ba ủy-ban làm việc, trong đó có một ủy-ban liên-quan đến các vấn-đề biển đảo. Đã có nhiều lời tuyên-bố là không có bên nào sẽ có hành-động xen vào chuyện của bên kia. Như vậy là quan-hệ đang trên đường cải thiện. Thế mà như từ trên trời rơi xuống, không hề có một hành-động khiêu khích nào từ phía Việt Nam mà tôi có thể thấy, bổng nhiên họ đưa cái giàn khoan vào.
Nhưng câu hỏi chiến-lược lớn hơn thì khá rõ, đó là, trong óc của người Trung Quốc, con đường chín vạch không phải là một con đường tưởng-tượng, mà thuộc vùng ảnh-hưởng chính-đáng của họ. Họ đã cho Hải Nam đưa ra những luật lệ như về đánh cá, để tạo thành một căn-bản pháp-lý ở địa-phương. Như vậy, mọi sự dưới mắt họ là hợp pháp và họ muốn làm trùm, họ muốn các nước khác công-nhận là Trung Quốc có chủ-quyền và quyền chủ-quyền trên những đảo và vùng biển mà Trung Quốc vẫn cho là thuộc về họ.
Trong trường-hợp đó, việc đưa giàn khoan vào chỗ họ đã hạ đặt theo họ chỉ là một chuyện thực-thi chủ-quyền bình-thường của họ. Quả thế, lúc đầu Trung Quốc khá lúng túng khi tìm cách giải-thích chuyện ấy. Họ nói nó nằm trong vùng lãnh-hải của Trung Quốc. Nhưng cùng lúc họ lại bảo là nó nằm 17 hải-lý cách đảo Tri-tôn, như vậy là nằm ngoài lãnh-hải của họ. Sau đó, họ lại sửa lại là nó nằm trong vùng kế cận, nghĩa là cộng thêm 12 hải-lý nữa. Nhưng thêm 12 hải-lý thì lại có vấn-đề liên-hệ đến quan-thuế và một vài chi-tiết khác. Thành thử Trung Quốc đã không dùng được luật quốc-tế để biện minh cho hành-động của họ.
Việc hạ đặt cái giàn khoan đó liên-hệ đến vấn-đề chủ-quyền và quyền chủ-quyền của họ dưa trên dầu hỏa và khí đốt tiềm-tàng ở đó. Nhưng rồi họ cũng vẫn sẽ phải giải thích về thời-điểm đích-xác đặt giàn khoan ở đó vì Việt Nam không hẳn là đã “nằm ở trong túi” của Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng không hẳn là đã về hùa với chính-sách tái-cân-bằng lực-lượng của Hoa-kỳ ở trong vùng. Tuy hiện chưa rõ là Việt Nam có muốn xích lại gần Hoa-kỳ hay không, nhưng trong quốc nội, hành-động của Trung Quốc chắc chắn đã tỏ ra phản tác-dụng.
Cùng lúc tôi cũng vẫn tự hỏi, tôi không nghĩ là thời-điểm đích-xác cũng như vị-trí hạ giàn khoan kia chỉ là một sự ngẫu-nhiên, là Công-ty dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc và một vài thành-phần của Giải-phóng-quân và Hải-quân Trung Quốc bỗng-nhiên quyết-định chuyện đó, đặc-biệt với số tàu mà họ đã đem ra vì họ không nghĩ là phía Việt Nam sẽ có phản-ứng mạnh như thế. Vì thế, việc định thời-điểm và nhắm vào Việt Nam là chuyện hãy còn mù mờ. Nhưng mục-đích chiến-lược lớn của họ thì khá rõ, đó là Trung Quốc cho đây là vùng biển lịch-sử của họ và họ sẽ làm mọi sự cần thiết để khẳng-định quyền của họ.
TAMMY PHAM: Theo ông, Việt Nam cần phải làm gì để đối phó với các hành động của Trung Quốc hiện nay và ngăn ngừa những động thái tương tự trong tương lai?
CARLYLE THAYER: Việt Nam ở vào một thế yếu. Kẻ yếu thì không có bao nhiêu vũ-khí trong tay, ngoại-trừ việc dựa vào ngoại-giao và luật quốc-tế. Có điều khá rõ ràng là nếu Việt Nam đã trả đáp bằng một biện-pháp quân-sự thì chắc chắn sẽ gặp một phản-ứng quân-sự áp-đảo. Đó là lý-do tại sao Việt Nam đã giữ hải-quân của mình ở các hải-cảng. Việt Nam thực-sự không có nhiều lựa chọn, bởi Trung Quốc đã đưa ra lúc đầu là 50 tàu, rồi lên đến 70 tàu, 80 tàu, và bây giờ là trên 100 tàu với khoảng 20 chiến-hạm. Rõ ràng là Trung Quốc muốn bày ra một sức mạnh áp-đảo.
Trong trường-hợp này, Việt Nam có thể làm một số chuyện. Trước hết là tối-thiểu về mặt luật-pháp quốc-tế cho thấy là mình không gật đầu trước việc làm kia, như đưa lực-lượng duyên hải và các tàu kiểm ngư ra để thông-báo trong 3 thứ tiếng, rằng đây là lãnh-thổ chủ-quyền của Việt Nam, rằng Trung Quốc nên dời đi, như vậy Trung Quốc không bao giờ có thể nói với quốc-tế là Việt Nam đã thuận ý.
Thứ hai là về con đường ngoại-giao, trước hết là qua ASEAN và sau là qua các quốc gia khác. Và chuyện này đã xảy ra trong cuộc gặp gỡ giữa các bộ-trưởng ngoại-giao của ASEAN khi lần đầu tiên họ đưa ra một bản tuyên-bố đứng riêng về vấn-đề này, bày tỏ một sự quan ngại nghiêm trọng về những chuyện gì đã xảy ra ảnh-hưởng đến hòa-bình và ổn-định ở trong vùng. Và tuy họ không nhắc đến tên Trung Quốc, họ chưa bao giờ họ nhắc đến tên Trung Quốc ngay từ bản tuyên-bố đầu tiên vào năm 1992, nhưng việc ra tuyên-bố này cũng vẫn quan trọng vì trước đây đã có một vài sự lủng củng trong nội-bộ ASEAN.
Theo tôi được biết, mặc dầu Campuchia đã bắt đầu nêu ra một hai vấn-đề và Mã Lai còn phản-đối khá gắt, việc họ đưa ra được một tuyên-bố là quan trọng từ quan-điểm của ASEAN và nhất là Việt Nam, tổ-chức khu-vực này đã lên tiếng và đây là cơ-sở cho một nước như Hoa Kỳ can-thiệp vào vấn-đề đứng về phía ASEAN. Ở hội-nghị CSIS (của Trung-tâm Nghiên cứu Chiến-lược Quốc-tế) vào tháng 7 năm nay, người ta đã trình bầy khá rõ là vì sao Hoa Kỳ đang thúc đẩy một giải-pháp dùng luật quốc-tế để ngăn chặn các hoạt-động tìm cách đổi thay nguyên-trạng.
Cũng có ngoại-giao với Nhật Bản để cho nước này tăng cường viện-trợ cho các lực-lượng tuần duyên của Việt Nam và Quốc-hội Nhật Bản vào tháng 7 này cũng đang nghiên cứu vấn-đề này. Và trong quá-khứ, Việt Nam đã ngoại-giao với Trung Quốc, và khi ông Lý Khắc Cường sang Việt Nam, người ta đã nói đến những đường giây nóng giữa hai nước. Nhưng khi Việt Nam gọi mấy đường giây nóng này thì không có ai trả lời. Họ đề nghị gởi một đặc-sứ sang Trung Quốc cũng không xong, kể cả khi đề nghị gởi ông Tổng-bí-thư Đảng Cộng sản sang bên ấy, chuyện đó cũng bị từ chối.
Trong cuộc đối-thoại chiến-lược Shangri-La, tôi hỏi ông bộ-trưởng Quốc-phòng Việt Nam, trong một cuộc họp mở rộng cho công-chúng là họ đã tiếp-xúc với cộng-đồng hải-ngoại chưa thì ông ta bảo rằng Trung Quốc chưa có trả lời, rằng họ đang đánh một ván cờ bắt bí. Do vậy nên việc đưa các lực-lượng bán quân-sự như lực-lượng duyên hải và kiểm ngư ra là một cách đánh dấu sự hiện diện của Việt Nam nhưng đó vẫn là một ván bài đang thua vì Trung Quốc vẫn đang mở rộng vùng kiểm-soát của họ và gây tổn-hại cho ít nhất 29 tàu của phía Việt Nam.
Vả lại, phía Việt Nam cũng không có bao nhiêu tàu đủ nặng ký để đương đầu với Trung Quốc. Tàu lớn nhất của phía Việt Nam là 2000 tấn thì chỉ mới bằng những tàu nhỏ nhất của Trung Quốc, và như vậy là một trò chơi bất cân-bằng. Nhưng dầu sao phía Việt Nam cũng đã ghi được điểm cho mình, đó là về mặt trận ngoại-giao với khu-vực và với các nước ngoài vùng.
Ngoài ra, không có bao nhiêu chuyện Việt Nam có thể làm được trong lúc này. Mà nếu ở trong vùng và ở trên thế-giới Việt Nam có thể đứng lên và khiêu khích thì Trung Quốc có thể lật thế cờ và nói ngay là Việt Nam là phe hiếu chiến. Do đó nên Việt Nam chỉ có thể trông mong là đến giữa tháng 8, tức là thời-điểm mà Trung Quốc nói là họ sẽ hoàn-tất việc thăm dò của họ và rút giàn khoan ra. Đó cũng là vào mùa bão nữa và như vậy, cả hai bên đều không còn lý-do để duy trì sự hiện diện của tàu bè của mình trong vùng. Và điều đó có thể dẫn đến việc mở cửa cho một cuộc đối-thoại.
TAMMY PHAM: Thưa ông, như ông thấy, Hà Nội đã không có được mấy thiện cảm trong khối ASEAN. Trong khi đó thì Phi Luật Tân được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và nhiếu quốc gia khác, vì mục tiêu của họ rõ ràng. Ông có nghĩ rằng Việt Nam có can đảm chống lại Trung Quốc như Phi Luật Tân đang làm hay không?
CARLYLE THAYER: Trường-hợp của Phi Luật Tân là một bài học cho Việt Nam, bởi trong nhiều năm, họ đã có nhiều lần ngồi xuống với Trung Quốc, song cuối cùng họ đành phải đưa vấn-đề ra tòa án quốc-tế. Họ bảo họ đã cạn kiệt mọi con đường thương-lượng, mặc dầu Trung Quốc vẫn nói là cửa vẫn mở.
Nhưng thẳng thắn mà nói thì Trung Quốc đòi là phải chấp nhận chủ-quyền của Trung Quốc trước đã rồi nói gì mới nói. Tôi được nghe chuyện đó từ một nguồn tin từ chính tòa án quốc-tế, và hiển-nhiên thì Phi Luật Tân không chấp nhận được. Nhưng Phi Luật Tân và Mỹ là đồng-minh mà Việt Nam thì không phải là đồng-minh của Mỹ. Phi Luật Tân và Mỹ có một hiệp-định quốc-phòng với nhau. Để cập-nhật-hóa vấn-đề thì ít nhất Thủ-tướng Việt Nam đã nói là Việt Nam đang nghiên cứu chuyện đi con đường pháp-lý nhưng vấn-đề là tính làm vào lúc nào.
Ở cuộc đối-thoại Shangri-La khi bộ-trưởng Quốc-phòng Phạm Quang Thanh được hỏi về vấn-đề này thì ông ta bảo đó sẽ là nước cờ cuối cùng. Chuyện quan trọng là người của Phi Luật Tân cũng vừa từ Hà-nội về và nói, “Việt Nam cũng đang lập hai hồ-sơ, một về Hoàng Sa và một vềTrường Sa. Hà-nội sắp đi cùng với chúng tôi.” Nhưng ông Thanh lại nói là Phi Luật Tân chỉ đang “lợi-dụng” chúng tôi thôi.
Vấn-đề là nếu Việt Nam đi con đường pháp-lý thì họ sẽ nêu ra các vấn-đề nào? Và cho mục-đích nào? Theo một nguồn tin thì họ sẽ phân-biệt hai hồ-sơ Hoàng-sa và Trường-sa. Theo một nhà luật-gia ở bên Bỉ thì Việt Nam có thể đi với Phi Luật Tân và nạp cho tòa án quốc-tế một lời tuyên-bố là chúng tôi cũng có lợi-ích được thấy kết-quả trong vụ kiện của Phi Luật Tân
Thế không có nghĩa là Việt Nam bắt buộc phải theo chân Phi Luật Tân. Nhưng nếu có những quốc-gia khác đi theo gương Phi Luật Tân, thì người ta phải để ý, nếu những lời tuyên-bố tương-tự được chồng chất lên thì các vị tài-phán sẽ chú ý và vấn-đề không còn chỉ là chuyện giữa hai nước nữa.
Đó là một. Hai là Việt Nam có thể nhập vào với Phi Luật Tân. Nhưng đôi ba điểm của Phi Luật Tân lại có thể làm cho lập-trường của Việt Nam yếu đi. Hay là Việt Nam có thể đi kiện một cách độc-lập và yêu-cầu có một sự phán xét riêng biệt, trong trường-hợp đó những khác-biệt giữa Việt Nam và Phi Luật Tân lại có thể làm hại cho cả đôi bên và làm lợi cho Trung Quốc tùy theo vụ kiện diễn-tiến ra làm sao. Ngoài ra, lại còn trường-hợp của quần-đảo Hoàng-sa mà Việt Nam có thể đòi chủ-quyền do bởi hành-động xâm-lăng của Trung Quốc vào năm 1974.
Ở đó không có vấn-đề trông chờ là sẽ có một giải-pháp pháp-lý vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ không chịu ra tòa. Nhưng có những luật-gia quốc-tế cho rằng Việt Nam vẫn nên kiện bởi như vậy sẽ chứng tỏ là Việt Nam sẵn sàng đi theo con đường giải-quyết các tranh-chấp bằng luật-pháp quốc-tế, qua một tòa án quốc-tế để đòi chủ-quyền mà đằng nào mình cũng muốn đòi. Có một ông bộ-trưởng Nhật-bản cho rằng Nhật-bản cũng nên đi con đường đó trong trường-hợp quần-đảo Senkaku và đẩy Trung Quốc vào chỗ họ phải chứng minh quan-điểm của họ.
Còn một vấn-đề thứ ba, đó là những sự thiệt hại của các ngư-dân Việt Nam. Họ quan-niệm vấn-đề ra sao và họ muốn được đền bù như thế nào, họ có những phương-thức nào để đòi. Song câu trả lời là chỉ có các quốc gia là có thể kiện tụng trong những cuộc tranh chấp trên biển như thế này, và quốc gia nào mà cho các tàu đó đăng ký là quốc gia phải khởi kiện.
Bằng cách nhấn mạnh vào con đường pháp-lý này thì Việt Nam sẽ được sự đồng-tình của các nước trong ASEAN, sự ủng-hộ chính-trị của ASEAN vì nhiều nhất cũng sẽ chỉ được có thế thôi. Nhưng với sự chuyển hướng trong chính-sách của Mỹ quay sang các biện-pháp pháp-trị dựa trên luật quốc-tế thì Việt Nam không những có thể trông chờ vào sự ủng-hộ của Mỹ mà còn vào cả sự ủng-hộ của Nhật, Úc, Nam-Hàn, Ấn-độ và tất cả những quốc gia lớn khác có vai trò trên biển này.
Tuy-nhiên, dựa vào luật quốc-tế cũng có mặt trái của nó, đó là như trong trường-hợp Phi Luật Tân. Ngay như phán-quyết của tòa án có áp-dụng liền và không chấp nhận khiếu nại thì vẫn không có các biện-pháp chế-tài. Bởi thế nên nếu Trung Quốc nhất quyết khăng khăng phủ-nhận thì chúng ta cũng không có cách nào ép Trung Quốc chấp nhận gia-nhập cộng-đồng thế-giới trong chuyện này.
TAMMY PHAM: Việt Nam và Trung Quốc có những mối quan hệ thay đổi khác nhau trong chiến tranh, sau chiến tranh, và đặc biệt sau sự sụp đổ của khối cộng sản Nga và Đông Âu. Hội nghị Thành Đô được cho là tái xác định lại quan niệm về quan hệ Việt-Trung. Theo nhận xét của ông, thì những thay đổi quan hệ đó nói lên điều gì? Đi theo một lý tưởng? Hay quan hệ nước lớn nước nhỏ theo chủ nghĩa sô vanh?
CARLYLE THAYER: Năm 1990 khi tìm cách sáp lại gần với Trung Quốc, Việt Nam muốn liên-minh trở lại với Bắc Kinh nhưng phía Trung Quốc họ nói: “Đồng-chí, không phải đồng-minh.” Do đó, chuyện chính là Trung Quốc muốn cho thấy mình là một cường-quốc, và từ năm 1990, Việt Nam đã tìm cách làm một chư-hầu trung kiên trong một hệ-thống tuế cống mới, và trong đó ý-thức-hệ chắc chắn là có một vai trò.
Và tôi nhớ là vào năm 1992, nghĩa là ít lâu sau đó, có vụ Crestone và ở vịnh Yuen-an (?) khi Trung Quốc tìm cách đưa một giàn khoan vào, thì ở Trung-ương Đảng Việt Nam có một cuộc thảo-luận sôi nổi về chuyện này và tôi nhớ có phóng-viên tờ Viễn Đông Kinh Tế trích một nguồn tin cao-cấp nói rằng Trung Quốc dùng xã-hội-chủ-nghĩa “như một dây thừng để cột tay của Việt Nam.”
Làm cách nào dùng ý-thức-hệ để lấy lòng Trung Quốc, song lại trông chờ được thưởng như là nhảy theo mọi người trong quan-hệ quốc-tế? Làm sao có thể như dưới thời Thành Cát Tư Hãn? Vì vậy nên tôi nghĩ là Việt Nam bao giờ cũng nghĩ là dùng ý-thức-hệ để hội-nhập như họ đã làm để có được một quan-hệ đặc-biệt với Trung Quốc.
Và từ khi nối lại bang-giao họ đã có được một quan-hệ chiến-lược, một đối-tác chiến-lược toàn-diện dẫn đến hai đảng có những quan-hệ hợp-tác lâu dài: ở mức quốc gia họ đã có những ban chỉ-đạo trung-ương và do đó, Việt Nam đã nghĩ là họ có thể chia ngăn các cuộc tranh chấp ở trong Biển Đông bằng cách dựa lên ý-thức-hệ và chiều theo ý Trung Quốc để có thể nhảy lên theo toa tàu của Trung Quốc về mặt trục lợi kinh tế.
Vì thế nên khi giàn khoan 981 được hạ đặt, nó đảo ngược lại tất cả những việc làm trên kia, nó làm mất tin tưởng chiến-lược vào nhau. Do đó nên ngày hôm nay Việt Nam vẫn còn đang tranh-luận về chuyện này và tôi đã nói đùa với mấy người bạn Việt Nam của tôi là nếu Việt Nam đi con đường xã-hội-chủ-nghĩa thì nó nên là xã-hội-chủ-nghĩa với những đặc-trưng Việt Nam (thay vì Trung-hoa) để gộp những lợi-ích quốc gia của Việt Nam vào trong đó.
Cô biết không, nhắc đến lợi-ích dân-tộc là một vấn-đề tranh cãi dữ lắm khi nó được đưa vào ngôn ngữ hàng ngày ở Việt Nam vì nó không hẳn là đi đôi với những quyền-lợi của công-nhân và các lực-lượng xã-hội ở trong quốc gia đó. Vào năm 2003 và rồi vào năm 2013, Việt Nam xác-định Trung Quốc và Hoa Kỳ là những quốc gia cần hợp-tác tuy có thể là vừa hợp-tác vừa phải tranh đấu hay thậm chí đối đầu. Tuy-nhiên, trong một nỗ-lực nhìn lại vào năm 2013, họ tự hỏi không hiểu họ có dùng quan-niệm đó một cách hữu hiệu không.
Đối với các quốc gia xã-hội-chủ-nghĩa, mình có thể có những bất đồng ý-kiến và phải giữ vững lập-trường nhưng với một đế-quốc như Hoa-kỳ, chúng ta có nhiều khu-vực rộng lớn không thể đồng-ý với nhau như về nhân-quyền và dân-chủ, nhưng đôi bên vẫn có những điểm tụ-hội về lợi-ích cần nối kết với nhau.
Vì vậy nên ngày hôm nay, việc Việt Nam không có khả-năng đối phó với Trung Quốc trong khi cần củng-cố quan-hệ với Hoa-kỳ. Không phải vì những mục-đích chiến-thuật tức-thời mà vì những mục-đích dài hạn như mở rộng kinh tế của Việt Nam, gia-nhập TPP [Hiệp-ước đối-tác xuyên Thái-bình-dương] và đi tìm tất cả những cái lợi khác như giáo-dục, khoa-học kỹ-thuật, tất cả chỉ là những chuyện đãi bôi.
Chính quan-hệ toàn-diện là bằng-chứng cho tất cả những chuyện đó bởi đôi bên đã làm tất cả những chuyện ấy, do đó nên ta thấy có một sự rụt rè không dám tiến tới vì ý-thức-hệ, vì Việt Nam vẫn nhìn vào mình như một nước xã-hội-chủ-nghĩa, một nước muốn dùng chuyện ấy vào việc tăng cường sự hợp-tác của Trung Quốc. Nhưng mặt trái của đồng tiền ấy là Trung Quốc muốn đó phải là xã-hội-chủ-nghĩa với những đặc-trưng Trung-hoa, trong đó Trung Quốc đóng một vai trò nổi bật.
TAMMY PHAM: Nhiều người Việt Nam tin rằng đảng Cộng sản Việt Nam mang nợ Trung Quốc qua nhiều, khó mà thoát ra được áp lực của Trung Quốc. Xin ông nhận xét về nhận định này hiện đang lan tràn trong nước, và cả trong các đảng viên cộng sản.
CARLYLE THAYER: Điều đó khó nói, và đó sẽ là một cuộc vật lộn đối với các đảng-viên được huấn luyện ở ngoài Việt Nam, nhất là những người tôi đã có dịp gặp. Tôi đã có lần viết một bài mang tên,“Cái ác ôn của địa-lý” dựa trên một cuốn sách nói về “cái ác ôn của khoảng cách” của nước Úc. Một nước da trắng, của người Âu nhưng lại nằm ở Á-đông thay vì nằm ở phía Bắc Đại-tây-dương. Nói về cái “ác ôn của địa-lý” tôi đã có lần nói là Việt Nam với 90 triệu người thật ra chỉ bằng một tỉnh vừa của Trung Quốc, người ta đã đáp trả ngay: “Ông nói thế là tiêu-cực quá! Chúng tôi có nhiều cái tích-cực chia xẻ với Trung Quốc, như văn-hóa, tư tưởng chính-trị, tôn-giáo…”
Chắc chắn rồi, Việt Nam không thể phủ-nhận gia-tài, di-sản của mình, nhưng chuyện quan-trọng là Việt Nam phải biết diễn-dịch lại một cách sáng-tạo, như Việt Nam có căn-cước riêng của mình, có lịch-sử riêng của mình, vì nói cho cùng Việt Nam đã lấy lại độc-lập từ Trung Quốc. Nhưng tôi cho là cô cũng đúng, bởi tôi nghe người ta nói là những chuyên-gia về Trung Quốc nghĩ như người Trung Quốc.
Mà đó không phải là một lời chỉ-trích vì Trung Quốc bao giờ cũng hành-động một cách trịch thượng và Việt Nam phải đoán trước được để ngoan ngoãn chiều theo. Họ nghĩ: “Nếu mình làm chuyện này, nghĩa là sát gần đến Hoa-kỳ thì Trung Quốc sẽ nhào đến ngay, và như vậy là ta không đến gần Hoa-kỳ và sẽ làm giảm được áp-lực kia đi ngay.”
Chính-sách này là chính-sách đã có từ khá lâu như ta đã thấy, và cái cân-bằng trong một thế-giới đa-cực mà Việt Nam muốn thấy từ Trung Quốc, Nga, Ấn-độ, Nhật-bản và Hoa-kỳ thì chỉ có ba nước là thường hằng trong chính-sách của Việt Nam. Với Nga, là có vấn-đề với Hoa-kỳ, Trung Quốc thì bây giờ là một anh bạn đáng ngờ. Đâu có ai trông chờ cuộc tranh chấp này giữa Việt Nam và Trung Quốc bởi Trung Quốc là nước bạn độc-nhất có quan-hệ chiến-lược và toàn-diện với Việt Nam. Vậy mà Trung Quốc đã làm những việc khuynh-đảo hoàn-toàn mối quan-hệ đó.
Nhưng tôi cho là chuyện nhất quyết xảy ra, không tránh được là các thành-phần trẻ sẽ lên. Có một đại-hội Đảng sắp tới, với một Trung-ương Đảng ngày càng có tiếng nói của mình, họ không phải là những thành-phần trẻ nhất trong Đảng nhưng chẳng bao lâu nữa họ sẽ như thế. Một lớp lãnh-đạo mới sẽ hiện ra và toàn-cầu-hóa có nghĩa là họ sẽ tái-tạo một căn-cước Việt Nam trong khung-cảnh toàn-cầu chứ không phải là ở trong một thế-giới với Trung-hoa là rốn vũ-trụ.
TAMMY PHAM: Có thể nào ông tiên đoán những động thái trong những ngày tới, một vài tháng hay một hai năm tới, liệu Trung Quốc có tiếp tục các hành động xâm lấn, đặc biệt khi biết rằng Hoa Kỳ đang bận rộn những nơi khác mà Trung Quốc lại thừa dịp để thực hiện các động thái mới?
CARLYLE THAYER: Chúng ta không thể tin được điều Trung Quốc nói. Cài giàn khoan 981 là một cái giàn khoan rất đắt tiền. Nó được thiết kế để đi vào chỗ nước sâu. Nó rất, rất là đắt tiền. Rồi Trung Quốc đang bành trướng lực-lượng tuần duyên của họ, ngân-sách Quốc-phòng của họ tăng trên 10 điểm mỗi năm. Phải mất cả nhiều thập kỷ thì mới đảo ngược được.
Đó là chuyện khá rõ ràng. Không ai thiết kế giàn khoan để ngồi ở nhà. Người ta đem chúng ra biển để tìm dầu và khai thác. Trung Quốc tự thuyết-phục mình là trữ-lượng dầu khí ở Biển Đông là tới bảy lần ước-lượng của phía Hoa-kỳ. Và như vậy ta có thể thấy là ở trong đầu họ thì đây là một lượng tài-nguyên rất đáng kể và họ nhắm khai thác năng-lượng ở đó. Và họ cũng để ý đến các nguồn lợi cá của địa-phương nữa.
Họ đã làm ô-nhiễm nguồn nước, làm kiệt quệ các lượng cá ở đó nên họ xây tàu ngày càng lớn và cuối cùng thì thế nào cũng đi đến đụng chạm, không chỉ riêng gì với Việt Nam và Phi Luật Tân là chuyện đang xảy ra lúc này, mà còn cả với Mã-lai-á, Nam-dương, In-đô-nê-xia.
Và chúng ta đã trông thấy ở hội-nghị CSIS, vị đại diện của Mã-lai-á đã tiết-lộ là ở Quốc-hội nước ấy gần đây, nói bằng tiếng Mã-lai, ông Bộ-trưởng Quốc-phòng khi nói đến những xâm lấn của Trung Quốc thì không phải chỉ có ở bãi ngầm James Shoal mà còn cả ở một địa-điểm khác nữa, nghĩa là hai vụ khác nhau.
Và những nhận-định này đã được ghi vào trong Công-báo của Mã-lai-á nhưng không được mấy ai để ý vì không có bao nhiêu người đọc tiếng Mã-lai. Rồi đến lượt In-đô-nê-xia cũng đã yên ắng đưa ra những video Youtube cho thấy nước này từ khá nhiều năm nay cũng đã có những đụng độ giữa hải-quân họ với hải-quân Trung Quốc. Cả hai nước sau này đều đã tăng cường sức mạnh quân-sự của họ, họ cũng đã nâng cấp quan-hệ quân-sự với Hoa-kỳ nhưng làm một cách lẳng lặng, không lộ hẳn như Phi Luật Tân, nhưng những xu-hướng đó thì vẫn đang tiếp tục.
Như vậy tương-lai sẽ không là một vùng hòa-bình, ổn-định và hợp-tác mà sẽ là tranh chấp vì Trung Quốc không chỉ vì năng-lượng, vì nghề cá, vì áp-chế quyền-lực của họ, vì gân guốc quân-sự của họ đối lại với sự sa sút tương-đối, không hẳn là sa sút hoàn-toàn, của Mỹ trong khi Trung Quốc thì đang đi lên.
Do đó, ở địa-vị của tôi ở Úc-châu, như một đồng-minh của Mỹ, thì tôi rất đau lòng thấy những vụ xích mích nội-bộ ở Hoa-thịnh-đốn, vấn-đề tài-trợ, thấy Mỹ ở trong một hoàn-cảnh không mấy thuận-lợi.
Nhưng rồi Mỹ là một cường-quốc toàn-cầu và nếu có chuyện không hay xảy ra ở Trung-đông thì Mỹ sẽ bị chia trí và không tập trung được vào Á-đông Thái-bình-dương. Trong trường-hợp đó Trung Quốc sẽ tìm cách thúc đẩy các lợi-ích của họ, không bằng phương-tiện quân-sự nhưng bằng những phương-tiện khác. Và tất cả các quốc gia trong vùng sẽ phải đương đầu với tình-trạng đó trong vài thập niên tới.
TAMMY PHAM: Ở Việt Nam tinh thần chống Trung Quốc là khá phổ biến như ta có thể thấy trong các cuộc biểu tình cả trong nước lẫn ở ngoài này. Theo ông thì những cuộc biểu tình đó có tác dụng gì không? Hay là người Việt nên hành động, phản ứng ở tầm chiến lược hơn?
CARLYLE THAYER: Dân-tộc-chủ-nghĩa và chủ-nghĩa yêu nước là một cái gươm hai lưỡi. Chúng rất tốt nếu dùng đúng dịp, nhưng nếu chúng thúc đẩy chúng ta đến những hành-động hấp tấp quyết-định trong lúc nóng nảy, những hành-động vội vã có thể trở thành phản tác-dụng.
Tôi nghe thấy ở trên các đài hải-ngoại của người Việt đề nghị là Việt Nam nên nhào ra chộp lấy quân cờ đầu trong một ván cờ tướng. Nhưng rồi tôi nói, quý-vị biết chuyện gì không, Trung Quốc nó có tới hai lần số quân cờ của mình nên ta phải cẩn thận. Nhưng những nhà dân-tộc-chủ-nghĩa ở Việt Nam đã không tạo ra sự thuyết phục. Họ cho là Thủ-tướng Dũng vì nói thẳng thừng nên uy-tín của ông ta nhảy vọt lên mặc dầu trước đây, họ chỉ-trích ông ta về cách ông ta quản-lý kinh tế, do đó nên cũng có những khác-biệt.
Về mặt này tuy cũng đã có những phát biểu từ ông Chủ-tịch nước và ông Tổng-thư-ký đảng, là chúng ta phải bảo-vệ chủ-quyền biển đảo. Song thực ra là để thỏa mãn dư luận trong Việt Nam mà thôi. Việt Nam cần phải chứng tỏ với Trung Quốc là những lực-lượng quốc-nội của Việt Nam thực-sự vững mạnh và những chính-sách của Trung Quốc là sai lầm.
Nhưng nếu ta vặn ngược đồng-hồ trở về những cuộc biểu tình lúc đầu, thì sau đó, đã có một đại diện Việt Nam đi sang Trung Quốc và hai bên đã đồng-ý là nên lái dư-luận đó sang hướng khác. Và thế là sau đó có đàn áp mấy vụ biểu tình ở trong nước.
Nhưng nay ta có thể thấy là đã có một số trí-thức Việt Nam và đảng-viên về hưu, như vừa rồi ta thấy có ông Tương Lai viết một bài xã-luận ở trên tờ New York Times; ông ta là một người tôi gặp từ năm 1981, lúc bấy giờ hình như ông là một phát-ngôn-nhân của chính-phủ. Nhưng bây giờ ông đã về hưu và ông viết như một ông quan xưa dùng hết cả uy-tín của ông ta có từ thời tham-chính để nói lên sự bất bình của ông đối với vấn-đề ý-thức-hệ và tính e ngại rủi ro của Bộ Chính-trị không muốn đảo lộn bất cứ điều gì.
Tôi không hẳn là khuyến cáo nên làm điều gì vội vã, không suy nghĩ, nhưng tôi cũng cho là Việt Nam tự đóng lại các lựa chọn của mình bằng cách không chấp nhận các tình tự dân-tộc. Việt Nam, cũng như Úc-châu, nên phải có toàn-quyền lựa chọn chính-sách ngoại-giao của mình. Trung Quốc cứ nói như trong thời chiến-tranh lạnh là “chúng tôi sẽ buôn bán với quý-vị nhưng chuyện kia là không thể thương thảo” và cũng tương-tự, VN cũng phải có cái ý-hướng muốn biết mình đi đâu, mình là ai. Nhất là tuổi trẻ.
Gần đây, tôi có dịp đi nói chuyện ở một số đại-học địa-phương và họ đòi hỏi phải thảo-luận về Biển Đông. Tôi được nhắc nhở nhẹ nhàng là không nên nói đến những chuyện mà nhiều quan-chức Việt Nam không thể nói được giữa công-chúng. Nhưng chắc chắn là áp-lực sẽ ngày càng mạnh, nhất là vì sắp tới một Đại-hội Đảng, tôi không nghĩ là ai có thể đắc cử trở lại ở trong Đảng nếu họ dám thúc đẩy một chính-sách thỏa-hiệp với Trung Quốc.
Nhưng ngược lại cũng không thể là một chính-sách chống đối không khoan nhượng, họ sẽ phải đưa ra một sự chuyển hướng mới trong quan-hệ ngoại-giao của Việt Nam, trong đó ý-thức-hệ sẽ không còn là một căn-bản để hợp-tác với Trung Quốc nữa mà cơ-sở đó phải là lợi-ích quốc gia của Việt Nam.
TAMMY PHAM: Xin cám ơn ông đã chia sẻ những nhận định quý báu của ông trong buổi phỏng vấn hôm nay.
Lại bàn về cái Gốc
Boxitvn
Vũ Duy Phú
Tác giả Vũ Duy Phú đã gửi cho BVN bài báo này kèm lời chú ngắn gọn “tôi viết vội (tác giả nhấn mạnh) chủ yếu nhằm bàn thảo với giới trí thức người Việt ở nước ngoài”…
Mặc dù khiêm tốn tự nhận là viết vội
nhưng không khó để nhận ra rằng người viết rất am hiểu tình hình đất
nước, hơn thế nữa, ông còn là một người “trong cuộc”, một người tham gia
trực tiếp, ở mức độ nào đó, vào các “biến cố” của Đảng, của chế độ
trong mấy chục năm qua. Vì nằm trong chăn nên biết chăn có rận, ông hiểu
rõ những căn bệnh chết người của Đảng và thể chế xã hội chủ nghĩa. Và
ông đã đưa ra các giải pháp để giải cứu Đảng, giải cứu chế độ – mà trong
đó, ông là một thành phần không thể tách rời.
So với rất nhiều người hiện nay, ông là một người đàng hoàng, chính trực, một ông quan “ngự sử” của thời hiện đại.
Có một điều thú vị là
mặc dù cụm từ “xã hội dân sự” cho đến nay vẫn bị chính quyền coi là từ
“húy” nhưng thực tế thì xã hội dân sự đã hình thành, trước hết là ở sự đa nguyên về tư tưởng
mà bài báo này là một minh chứng: chúng ta đã được nghe rất nhiều tiếng
nói khác nhau, hôm nay lại được nghe thêm một tiếng nói mới, độc lập,
bàn về những giải pháp cho tình hình đất nước hiện nay.
Xin trân trọng giới
thiệu cùng quý vị tiếng nói của một vị “quan ngự sử” thời hiện đại,
không phải vì ông cùng quan điểm với chúng tôi, mà chính vì ông khác với
chúng tôi. Xin cảm ơn tác giả Vũ Duy Phú
Bauxite Việt Nam
|
Toàn thế giới từ lâu đã sang Thời đại “Làng toàn
cầu”. Hầu hết mọi người đang được sống trong một “Thế giới phẳng”. Cuộc
đấu tranh sinh tồn, vì hòa bình và hạnh phúc lâu bền của CON NGƯỜI đã
vượt ra khỏi biên giới từng quốc gia, đang diễn ra và phụ thuộc lẫn nhau
ở tầm khu vực và toàn hành tinh. Chuyển bước theo Thời – Vận là quy
luật chung của muôn loài, đối với Loài người thì đó là Tự do, Dân chủ,
Nhân quyền. Vậy mà nước ta vẫn còn hiện tượng ôm khư khư lấy cái triết
lý “Đấu tranh giai cấp”, “Chuyên chính vô sản”, “Độc đảng toàn trị” lạc
hậu và chịu để tồn tại “Hận thù dân tộc”, không chỉ là hậu quả sai lầm
tạo ra từ thời hậu chiến trước đây, mà còn do những ung nhọt của thể chế
chính trị lạc hậu hiện nay! Đó là cái “ách” ngàn cân tạo bởi cái Gốc
sai lầm làm cản bước tiến lên của dân tộc Việt Nam. Vì vậy chúng ta cần
nói cho thật rõ một lần để khắc phục dứt điểm.
Trước hết nói về Đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh
đã từng nói tại Ấn Độ, khi có một phóng viên phương Tây hỏi về thái độ
của Cụ đối với địch thủ lúc bấy giờ, là ông Ngô Đình Diệm. Cụ Hồ đã nói:
“Ông Diệm yêu nước theo kiểu của ông ấy. Tôi yêu nước theo kiểu của
tôi”. Ta biết về Hoa Kỳ, cuộc nội chiến Bắc Nam của họ, chính là biểu
hiện sự xung khắc kịch liệt trong tư duy và quyền lợi của 2 miền trên
con đường phát triển. Nhưng sau khi một bên thắng, họ chỉ thực hiện giải
giáp vũ khí bên thua, rồi thả cho cán binh bại trận trở về gia đình,
thực thi đoàn kết dân tộc, vì vậy nước Mỹ sau chiến tranh không có hận
thù dai dẳng, cả nước đồng lòng tiến tới như chúng ta đã thấy. Còn ở
Việt Nam ta, các nhóm yêu nước khác nhau có khi không phối hợp được với
nhau, thậm chí hành động đối chọi nhau, như chung quanh sự kiện chuẩn bị
giành và lập chính quyền sau ngày Nhật đầu hàng 1945. Đương nhiên khi
đó phe nhóm nào có cơ sở quần chúng mạnh hơn, chuẩn bị từ sớm hơn, có
cương lĩnh (như của Việt Minh) rõ ràng, thậm chí công bố từ một vài năm
trước, được nhân dân hiểu rõ hơn và ủng hộ, vì vậy đã thắng thế. Cuối
cùng, nếu không có sự can thiệp chia rẽ phá hoại của bên ngoài, chắc
chắn nội quốc sẽ phối hợp và đoàn kết được với nhau. Sự khác biệt giữa
hoạt động của các ông Hồ Chí Minh, Trần Trọng Kim và Ngô Đình Diệm chính
là ở chỗ đó. Ta có thể thấy điều này sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hồ
Chí Minh thậm chí đã thực thi “chế độ lưu dung” (sử dụng người của chế
độ cũ mà giữ nguyên lương) đối với toàn bộ cán binh chính quyền cũ, tạo
ra một ấn tượng đoàn kết “Thắng – Thua” rất đậm nét: Sau chiến tranh,
tất cả cùng hợp sức xây dựng cuộc sống mới. Nhìn về xa xưa, sau khi
thắng quân Minh, Vua ta đã cấp phương tiện và lương thực cho quân địch
bại trận rút về nước. Còn nhiều tấm gương tốt, anh hào quân tử khác nữa
của quá khứ. Giá thử, sau chiến thắng 1975, chúng ta, cũng với tầm nhìn
đại nghĩa, quân tử, nhân đạo, xử sự theo “tình người” như những trường
hợp đã nêu trên đây, thì có thể mối hận thù dân tộc trong cuộc xung đột
thắng thua vừa qua đã không đến nỗi gây “tan cửa nát nhà”, nhiều người
phải “ngậm đắng nuốt cay” cho đến tận hôm nay. Hơn thế bao nhân tài cùng
máu đỏ da vàng đã phải bỏ nước ra đi tìm đến nơi văn minh hơn. Tại sao
như vậy ? Một phần chủ động là tại đội ngũ lãnh đạo của bên thắng lúc đó
thiếu một tầm nhìn chiến lược và một tấm lòng đại nhân đại nghĩa quân
tử cần thiết. Nhưng thực ra chính còn tại vì cái nguyên nhân thứ hai sau
đây ngăn cản: Đó là cái tư duy “Đấu tranh giai cấp một mất, một còn”
đầy tội lỗi làm u mê cái trí tuệ và lòng nhân đạo của một bộ phận lãnh
đạo của chính phủ VNDCCH, khiến họ đã sản sinh ra biện pháp “tẩy não” và
đối đãi mất nhân tâm đối với bên thất bại.
Vì vậy, muốn sửa tận Gốc, cần nói rõ về cái “gông cùm” “Đấu tranh giai cấp”
“một mất, một còn” rất tai hại này. Thực ra, căn cứ những việc làm của
Phong trào Việt minh đánh Pháp, đuổi Tầu Tưởng về nước, giành độc lập
cho đất nước giai đoạn 1944 – 1950 thì chứng tỏ Hồ Chí Minh không dính
một chút xíu nào về tư duy “đấu tranh giai cấp” kiểu CN Mác – Lê -Mao.
Vì mục tiêu đại đoàn kết đấu tranh giành Độc lập Dân tộc và Xây dựng đất
nước, Cụ Hồ mời cả vua Bảo Đại làm cố vấn chính phủ, mời mấy đại thần
của Triều đình cũ, như các cụ Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Hồ Tùng Mậu .
. . . và nhiều trí thức viên chức cũ, như Phan Anh… tham gia chính
quyền cách mạng. Có một trí thức danh tiếng xin ra nhập Đảng CS, Cụ Hồ
đã khuyên “Chú cứ tiếp tục hoạt động trong đảng Xã hội, sẽ có lợi hơn
cho cách mạng . . .”. Chính phủ đa đảng phái, Tuyên ngôn Độc lập, Hiến
pháp 46 của nước VN dựa theo mô hình của Pháp và Mỹ làm cho Stalin tức
đến mức không thèm công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có
nghĩa, điều quan trọng nhất đối Hồ Chí Minh, với phong trào Việt Minh là
lòng Yêu nước, là Đại đoàn kết dân tộc. Vậy cái
đường lối “đấu tranh giai cấp một mất, một còn” cộng sản rất tai hại
tồn tại lâu nay nó thâm nhập rộng rãi vào VN bằng con đường nào?
Bằng con đường thụ động, bị ép buộc sau đây: Bởi năm 1947 thực dân Pháp,
với sự giúp đỡ của Mỹ, quay trở lại xâm chiếm VN lần thứ hai, đã buộc
Hồ Chí Minh phải dựa vào Liên Xô và Trung Cộng để tiến hành cuộc kháng
chiến. Hồ Chí Minh đã buộc lòng phải trả giá
bằng cái gì để lấy lòng tin của Stalin, và sau năm 1949 cả Mao Trạch
Đông nữa để họ tận tình giúp đỡ cuộc kháng chiến của VN ? Từ năm 1950,
ngoài mong muốn được giúp lương thực súng đạn, Cụ Hồ từng bước buộc lòng
phải tỏ ra thực tâm đi theo đường lối “cách mạng vô sản, tiêu diệt tư
bản” của Liên Xô và Trung Cộng , nên kể cả phải trả giá bằng tỏ ra tin
tưởng mà nhờ vả đào tạo cán bộ, tuyên truyền huấn luyện “học thuyết Mác –
Lê” và xây dựng bộ máy chính quyền non trẻ của VN vì mục đích trên hết
là Độc lập dân tộc trước đã. Hồ Chí Minh đã phải “giấu nhẹm” cái tư duy Tự do Dân chủ Cộng hòa, Đa nguyên đa đảng lúc đầu của Người,
khôn khéo đến mức không chỉ Stalin và Mao Trạch Đông yên tâm tận tình
giúp đỡ Việt Nam, mà chính ngay cán binh cộng sự của Người, của cả nhân
dân VN cũng tin là VN đã thực sự là một thành viên đích thực “đầy đủ”
của phe Cộng sản quốc tế, của phe XHCN theo mô hình của Liên Xô và Trung
Cộng. Vậy đương nhiên, đã là một thành viên của phe XHCN thì phải theo
đường lối “Đấu tranh giai cấp một mất một còn”, “không đội trời chung với tư bản”,”khác ta là địch”,
“độc đảng vô sản toàn trị” chứ còn làm cách nào khác được?! Chính vì
vậy cán bộ cấp dưới của Hồ Chí Minh, đã an tâm làm theo tư vấn (thâm
độc, phá hoại) của các chuyên gia TQ, mới có “Cải cách ruộng đất” giết
chết hàng loạt cốt cán của Việt Minh xuất thân từ địa chủ, tư sản yêu
nước và chính quyền cũ, những người đã đóng góp công sức to lớn với cách
mạng tháng 8. Chính vì vậy mới có “Nhân văn giai phẩm”, mới có “tịch
thu nhà xây ba tầng” của dân, mới có “Cải tạo công thương nghiệp tư
doanh” làm tan nát nền kinh tế miền Nam sau giải phóng ! Cái tư duy và
quan điểm “đấu tranh giai cấp” “một mất một còn”, “khác ta là địch” với
người giầu, với tư sản (tuy là bé cỏn con tại VN), và với trí thức yêu
nước còn kéo dài mãi về sau này. Tuy nhiên, chúng tôi đã nhiều lần nói:
Nếu không có cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai 1947 – 1954, thì với
Hiến pháp 46, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ đa nguyên đa đảng Hồ Chí
Minh, và nếu Hoa Kỳ nhận đầu tư phát triển kinh tế, thì Việt Nam hoàn
toàn đã có thể trở thành một Con Rồng như Singapor hay Inđonêxia sau
này. Vậy có trách, có căm thù, thì trước hết hãy trách cái sai lầm chiến lược thời ấy của các nước phương Tây trước đã.
Ngay Bộ chính trị mọi nhiệm kỳ, ngoài lòng yêu nước và các ưu khuyết
điểm của chính họ, họ cũng là nạn nhân của chính cái sai lầm Gốc chết
người nói trên. Lại nói, về “CN Mác – Lê”, được hiểu sơ sài ở VN, chỉ có
ích trong cuộc đấu tranh vũ trang ở chỗ: Đã kích động lòng căm thù giai
cấp, tức là căm thù người giầu bóc lột và thực dân đế quốc (và những
người theo họ), để cộng hưởng với tinh thần dân tộc cao sẵn có từ hàng
ngàn đời nay nên đã dẫn đến thắng lợi 1975. Nhưng một khi cách mạng đã
giành thắng lợi rồi, thì cái tinh thần “đấu tranh giai cấp”, “khác ta là
địch”, “căm thù người giầu” máy móc kiểu cũ ấy bây giờ hòa bình phát
triển kinh tế rồi thì nó cần dùng vào đâu, vì mục tiêu gì ? Trên giải
đất VN sau ngày giải phóng, có nên gạt bỏ, thậm chí tiêu diệt tất cả
những ai biết làm ăn kinh tế mà giầu có, đã “liên quan đến địch” hay
không ? Tôi thậm chí đã nói một cách nhầm lẫn, một chiều: Trong mỗi loại
thể chế, dù CS hay TB, những người giầu có hay làm quan đúng luật của
thể chế hiện hành, đều là những người có tài ! Nhưng tôi đã quên: Chế độ
của giai cấp công nông, “độc quyền đảng trị” trước đây lại rất coi
trọng việc chỉ đưa bà con có lí lịch công nhân, nông dân, binh lính và
thân quen vào các vị trí tổ chức lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật, bang giao với thế giới… để xây dựng đất nước, coi
trọng kinh tế quốc doanh. Khi không còn Hồ Chí Minh (Người đã hơn 30 năm
đi khảo sát học tập kinh nghiệm TBCN và XHCN ở nước ngoài), thì cái
sai lầm lớn nhất của VN sau 1975 chính là ở chỗ lẫn lộn, mơ hồ “kiên
định” “đấu tranh giai cấp”, “độc đảng toàn trị” không dân chủ cạnh tranh
công khai minh bạch để chọn người thật sự có tài. Chính cái đó
(độc đảng công nông toàn trị, độc quyền mất dân chủ) là nguyên nhân của
bao nhiêu suy thoái tệ hại khác đã diễn ra, nổi rõ nhất mà Đảng CS đã
phải thừa nhận là có độc quyền nên có quốc nạn tham nhũng, tiêu cực,
trên đất VN. Do đó rõ ràng phải
đấu tranh bỏ hẳn cái Gốc thể chế chính trị sai lầm ấy, và vì vậy không
cần kéo dài hận thù giai cấp và trù dập cá nhân nữa. Đấy là cái Gốc của câu chuyện quá khứ. Vấn đề là bây giờ nên thế nào đây ?
Đáng lẽ phải đại đoàn kết mọi thành phần, mọi giai
cấp, mọi nhân tài quốc nội và quốc ngoại, mọi khả năng hợp tác quốc tế
để bảo vệ và phát triển đất nước, thì Đảng CS VN, tuy đa số có lòng
nhiệt thành yêu nước và ý chí cách mạng vẫn rất cao, nhưng do tập quán,
tầm nhìn và tri thức hạn hẹp, nên vẫn bo bo quan điểm cũ: Cái gì khác ta
thì là địch. Mà “ta” thì là cái CN Mác – Lê, cái thứ triển khai rất sai
lầm ở các nước XHCN khác, nên CHXN đã tan rã, nhưng lại ngoan cố bảo
thủ giải thích rằng sự tan rã đó là do “sai lầm triển khai” ! . Nhưng không phải vậy. Ở ta, chừng nào sau chiến thắng 1975 đã hình thành những tầng lớp quan chức hậu duệ, với
việc chiếm lấy độc quyền đã giành được do thắng lợi của cách mạng làm
“vốn đầu tư” nên một bộ phận không nhỏ đã trở nên giầu có, biến thành
tầng lớp “tư bản đỏ”, thì nguyên nhân của vấn đề “kiên trì” đường
lối Mác – Lê quá đát hiện nay không hoàn toàn còn là nhầm lẫn ấu trĩ
như cũ nữa, và cũng không thể giải thích là “sai lầm triển khai”. Mà là vì 2 nhân tố cốt tử
sau: a)Một là: Trung Quốc vẫn rất ép buộc, đe dọa, không muốn VN thay
đổi thể chế để thoát khỏi sự khống chế của TQ như một phên dậu và đồng
minh, hơn nữa họ lo sợ sự thoát ra khỏi lạc hậu để tiến bộ của VN sẽ lại
kích thích sự vùng lên của nhân dân TQ, sẽ phá hoại ý đồ bằng mọi giá tiến lên thống trị thế giới của TQ (tức Đại cục, Giấc mộng Trung Hoa) (*); b) Hai là: Dù
biết rằng thể chế cũ “độc đảng toàn trị mất dân chủ” là sai rồi, Cái
sai đó tạo ra một cái “gông” từ phía Đại bá TQ, một cái “xiềng” thể chế
tồi tệ đặt lên vai nhân dân, song bỏ “gông xiềng” này đi bằng cách nào
đây để Đảng cầm quyền vẫn không
bị mất vị trí, tức là bản thân các tầng lớp quan chức từ TƯ đến xã
phường không mất quyền và lợi hiện có, nhất là tầng lớp “tư bản đỏ”.
Đó là lí do căn bản của mâu thuẫn nội bộ, của sự “nhùng nhằng, trì trệ,
lưỡng lự và nhút nhát” của một số không nhỏ lãnh đạo cấp cao. Nhưng về
phía nhân dân, một câu hỏi phản biện đặt ra: Có nên vận dụng một lần nữa
nguyên lý “đấu tranh giai cấp” của CN Mác – Lê vào đây để lật đổ cái
chính quyền mang tiếng là “tay sai (a)” và giai cấp tư bản đỏ “bóc lột
(b)” hiện nay hay không? Rõ ràng là không nên, là ảo tưởng ,và có muốn
cũng chẳng được, hơn nữa, vì như trên chúng ta đã kết luận: Biện pháp
cực đoan công nông “đấu tranh giai cấp” lật đổ chính quyền tư bản (bây
giờ là TB đỏ) của CN Mác – Lê là sai lầm cực đoan quá đát rồi còn gì ?!
Hơn nữa, đất nước ta lại đang nằm ở tuyến đầu chống Bành chướng bá
quyền, chúng ta cần rất thận trọng cân nhắc toàn cục mọi quan hệ, mọi
lực lượng trong nước và quốc tế.
Vấn đề hiện nay. Như trên đã nói, VN đã hoàn
toàn nằm trong bàn cờ của khu vực và thế giới. Muốn thoát khỏi cái
“gông” ngoại bang và cái “xiềng” thể chế sai lầm để tiến lên, chúng ta
phải làm gì ? Rất may, sự nôn nóng, bồng bột, ngạo mạn sai lầm của tập
đoàn lãnh đạo TQ hiện nay (tuy họ tưởng đã nhắm đúng Vận, nhưng lại cũng
đã phát lệnh sai cả về Thời) đã tạo ra một tình thế vĩ mô mới rất nguy
kịch cho họ, nhưng lại có lợi cho cách mạng VN. Tôi xin hệ thống lại
nhận thức và những ý kiến của nhiều tầng lớp nhân dân, bao gồm của cả
các quan chức Đảng và Chính phủ có tầm nhìn xa về cái Gốc của Thời – Vận
hiện nay:
1. Cùng với việc rà lại cả quá trình lịch sử và hiện tại của TQ, Thế giới đã “bừng tỉnh”,
hiểu rõ bản chất “Đại cục”, “Giấc mộng Trung Hoa” của nước này là cái
gì. Họ đã hiểu rõ rằng, CN bành trướng bá quyền Đại Hán/TQ chính là Chủ
nghĩa phong kiến bành trướng cực đoan cổ xưa + với CN phát xít của thế
kỷ XX. Nếu CN BTBQ Đại Hán thống trị được thế giới, thì toàn cầu sẽ trở
thành một đại TQ với một thể chế chính trị và xã hội không chỉ lạc hậu
dã man, mà còn đại loạn như tại TQ hiện nay. Mọi mâu thuẫn, xung đột các
thể loại khác nhau đang diễn ra hiện nay trên khắp thế giới đều không
có cái thể loại nào nguy hiểm đe dọa tương lai cả Loài người bằng cái
nguy hiểm tột độ của CN BTBQ Đại Hán/ TQ này (**).
Sự bừng tỉnh của thế giới đã kéo theo sự bừng tỉnh thật sự của toàn thể nhân dân và lãnh đạo Việt Nam !
2. Rất không vô tình, không ngẫu nhiên, VN lại đang là điểm đối đầu
rõ nhất của CN BTBQ Đại Hán/ TQ với “Phần còn lại của Thế giới”. Trước
đây, Việt Nam đã từng hoàn toàn “bị động” đứng gọn ở phía TQ rồi, nhưng
TQ không để VN yên bình và còn tự xô đẩy VN trở nên đối địch. Vậy nên
chăng VN vẫn lừng khừng để chết chẹt giữa 2 lực lượng quốc tế đối đầu,
trong khi “Phần còn lại của Thế giới”, mà chủ lực là Mỹ, Anh, Pháp,
Nhật, Ấn Độ, Nga , và nhiều nước văn minh tiến bộ khác đang dang tay ra
đón đỡ VN, nước vốn cũng đã từng rất anh hùng (và đã thông cảm, bỏ qua
những suy thoái, tệ nạn đang hiện hữu khách quan tạm thời tại VN) ! Khi
đã bừng tỉnh thì không thể đứng nhìn và chờ đợi. Là một nhân tố “mũi
nhọn của lịch sử”, VN dứt khoát và phải mau chóng đứng hẳn về phía Nhân loại văn minh.
Để đồng hành không chuệch choạc vênh váo với thế giới Văn minh, việc
đầu tiên là chúng ta phải dứt điểm từ bỏ lý luận và quan điểm (chủ
nghĩa) biệt lập “đấu tranh giai cấp”, “khác ta là địch”, trở về với
đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đại đoàn kết, trân
trọng, hợp tác, liên kết các khác biệt, kể cả đối lập” để dứt khoát đi với Thế giới hiện đại.
3. Chúng ta phải chủ động từng bước, nhanh chóng,
quyết tâm cao .. . thực thi cái đường lối sáng suốt đó của Hồ Chí Minh.
Bằng cách;
+ Hoàn trả lại đầy đủ quyền Làm chủ (Tự quyết) cho nhân dân,
sửa đổi để hoàn toàn trở lại tinh thần Hiến pháp 46, có chính sách đối
ngoại độc lập, bình đẳng và tiến bộ với các nước, như rất nhiều tổ chức
và cá nhân người Việt ở trong nước và nước ngoài đã và đang khẩn thiết
kêu gọi. Từng bước mở rộng cửa cho các cá nhân và tổ chức dân sự hoạt
động theo pháp luật, sau một thời gian đủ để nhân dân hiểu rõ để lựa
chọn, lúc đó sẽ để cho các cá nhân và tổ chức dân sự ngoài Đảng CS có
thể tự do bình đẳng tham gia tranh cử vào các cấp lãnh đạo của nhà nước.
Đây chính là lúc “Vận nước đã đến rồi”. Khá nhiều người không tin “Cộng sản” chịu làm như vậy.
Tại sao họ lại quên những Enshin, Goorbachop, Putin, Võ Văn Kiệt. . . ?
Trên thực tế, mọi cải cách trong nước đã và đang buộc phải đi theo
chiều hướng trả lại quyền Tự quyết đầy đủ cho nhân dân. Còn ai muốn “dẹp
bỏ” cái chính quyền CS mang tiếng “độc quyền” hiện nay trước, rồi sẽ
cải cách và chống Bành trướng bá quyền sau. . . là người đó không nắm
được tình hình trong nước và quốc tế, là chưa nắm được Vận nước. Hơn
nữa: Thời cơ không chờ đợi cho một giải pháp ngược đời, đảo lộn và ngây
thơ như vậy !.
+ Song song với, và cần rà lại để hiện thực hóa mọi
chương trình kế hoạch nhà nước đang triển khai, nhà nước nên làm nhiều
việc bổ sung kịp thời:
- Rà lại tất cả những nội dung hợp tác với TQ. Học
tập Mianma: Những nội dung hợp tác nào do nể nang, lo sợ và ảo tưởng với
TQ, làm hại đến an ninh và quyền lợi của VN, thì dứt khoát đấu tranh
loại bỏ hoặc điều chỉnh. “Không ai chọn được láng giềng”, nhưng cần dũng
cảm xây dựng một mối quan hệ hợp tác láng giềng mới bình đẳng, công
bằng, hữu nghị, tự tin, đàng hoàng thật sự với TQ;
- Nhất trí với đường lối “Thoát ta”, tức là thoát những sai lầm do thể chế cũ và tầm nhìn hạn chế làm tụt hậu Đất nước như hiện nay.
Hãy khách quan mà thừa nhận: Toàn thế giới đang Toàn cầu hóa TBCN. Và
như Các Mác đã tiên đoán: Các nước TB phát triển nhất sẽ tiến trước lên
CNXH (Hậu Tư bản CN). Do hoàn cảnh lịch sử trớ trêu và số phận cay
nghiệt của đất nước ta, chúng ta hãy bình tĩnh học tập cách tổ chức và quản lý đất nước của các nước bạn có chỉ số văn minh cao để có được một xã hội lành mạnh như người ta trước đã,
rồi sẽ từ đó mà tiến lên tiếp. Nếu giỏi, lúc bấy giờ sẽ không ai cản
bước. Hãy nhìn TQ đó: Dù có nghiên cứu sâu kinh dịch, dự đoán giỏi Vận
của Phương Đông và Vận của TQ, song sự nóng vội và ảo tưởng của TQ đang
diễn ra sai lệch rất lớn so với Thời Vận của nước này, đó chẳng phải là
một bài học để đời không chỉ cho các dân tộc Trung Hoa. Ngược lại, với
VN, Thời và Vận đều đã đến gõ cửa, mà còn chần chừ, chậm chạp, thì lại
sẽ không tránh khỏi một tai họa kép.
- Đảng CSVN muốn tồn tại, và có thể tồn tại mạnh mẽ hơn trước, nếu Đảng lấy lại được phong
thái anh hùng thủa xưa, quyết liệt cải tạo tư tưởng đường lối đạo đức,
dân chủ hóa, sòng phẳng công khai đường hoàng cạnh tranh ngay trong nội
bộ, dẫn đầu làm gương cho thể chế bên chính quyền, tạo ra một động lực
phát triển mới cho đất nước, và . . . . làm gương cho các đảng
bạn non trẻ sẽ ra đời trong tương lai… Có thế dân mới cần đến Đảng CS,
còn không, hiển nhiên nhân dân sẽ tìm mọi cách chọn một đảng tiên phong
mới dẫn đường. Không nên e ngại, rằng sẽ làm phật lòng Trung Quốc, vì,
về phía họ, muốn tồn tại, thì TQ cũng phải giải quyết thành công đại
sung đột nội bộ còn phức tạp rắc rối muôn phần hơn chính chúng ta, bằng
không, nếu họ còn hung hăng bành trướng, thì dưới sức ép của cuộc tổng
trừng phạt kinh tế, chính trị, luật pháp và quân sự của “Phần còn lại
của Thế giới”, TQ sẽ được chia ra nhiều quốc gia độc lập, bình đẳng, để
từ đó sẽ hình thành một “Cộng đồng mới các quốc gia độc lập và văn
minh”, thỏa lòng ước mơ của nhân dân TQ, sống hòa bình bên cạnh Cộng
đồng Đông Nam Á , làm cho Châu Á ngày càng tiến bộ hơn, phù hợp với Đại
Vận toàn cầu đang diễn ra.
Tóm lại, chúng ta hãy cố gắng bỏ qua mọi sai lầm cũ
để đại đoàn kết, sửa chữa từ những cái Gốc, cơ hồ có thể yên tâm dũng
cảm vận động theo “Làng toàn cầu”, “Thế giới phẳng”, theo Nhân loại văn
minh, cũng là để theo được kịp “Thời Vận” của Trời Đất.
Hà Nội, ngày 18, tháng 7, 2014
V.D.P
Tác giả gửi BVN
Chú thích:
(*)Dương Kiết Trì, Bộ trưởng ngoại giao TQ đã có lần
đe dọa: “các nước DNA nên nhớ, TQ là một nước lớn”, ý ông ta định dọa
cái gì ? Nếu không phải là ức hiếp ?
(**) Hãy đọc “Cái chết từ TQ” và các kết luận của Hội
nghị của “Siêu quyền lực Thế giới và Hoa Kỳ 2014 gần đây, kết hợp với
“Huyền Không học” và “Thái ất”, những khoa học về diễn biến Thời – Vận,
người ta dự báo rằng, sự tan rã để trở về trạng thái ban đầu của một
Trung Quốc kỳ dị trên 1,3 tỷ dân hiện nay là phù hợp với quy luật của
Trời Đất ).
Chính trị – Xã hội
Phỏng vấn David Brown: ‘Trung Quốc sẽ không ngừng ở đây’ -(NV) -Tôi nghĩ rằng Hà Nội đang ở thời điểm mà họ nhận ra được rằng chiến lược mà họ theo đuổi từ trước đến giờ chỉ đưa đến một kết cục là Việt Nam sẽ bị Trung Quốc gặm nhấm dần dần… ===>>>
Việt Nam-Singapore thắt chặt quan hệ quốc phòng -(VOA)
Ông Phạm Quang Nghị sang Mỹ, điều gì đang xảy ra? -(RFA) — Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị thăm Hoa Kỳ -(VOA) — Khi người Việt thiện cảm với Mỹ hơn với Trung Quốc -(RFA)
Bạn sẽ làm gì khi tiểu sử bị xuyên tạc?
-(RFA) – Sau khi cuốn sách chữ Hán viết về cuộc đời của Chủ tịch HCM có
tên: “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” của tác giả Hồ Tuấn Hùng được xuất
bản và phát hành rộng rãi tại Đài Loan, vẫn không thấy một động tĩnh gì
từ phía VN trước sự bóp méo và xuyên tạc tiểu sử của người được xem là
khai sinh đảng cộng sản VN.Xích lại gần nhau để thoát Trung hay bảo vệ Đảng? -(RFA)
Giới trẻ và việc nghiên cứu biển Đông -(RFA) — Lối thoát cho khiếu kiện đất đai? -(RFA) — Đài Loan: ‘Chính phủ VN thiếu thành thật’ -(BBC)
Facebook và sự đánh phá của dư luận viên -(RFA) — “Room to read” và thành quả hoạt động tại Việt Nam -(RFA)
Lại nhập viện và ói ra máu sau khi “làm việc” với công an -(PLTP)
Báo Pháp Luật TP.HCM minh oan cho người thanh niên trẻ -(PLTP) – *** Lại kiểu pháp luật mà “tự lấy cây đập vào đầu mình”.Bộ ngu à.
Tội ác của đảng CSVN đối với PGHH -(DCCT)
Nhắc lại cái cũ : Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam -(TC Thoitrangtre) -Chương trình Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam là một trong nhiều hoạt động của phong trào thanh niên khu vực trường học ở TP.HCM trong năm học 2011-2012. – Cái Logo ở trên.
Giao lưu tuổi trẻ là điểm sáng quan hệ hữu nghị Việt – Trung – 09:12 ngày 30 tháng 03 năm 2014 -(TP) >>> Liên hoan thanh niên Việt – Trung: Nồng ấm
Tăng cường giao lưu hợp tác thanh niên biên giới Việt – Trung - 30/03/2014 02:37
-(TN) -Ngày 29.3, tại Hà Nội, Bí thư thứ nhất T.Ư Đoàn Nguyễn Đắc Vinh
đã gặp gỡ và hội đàm với Bí thư T.Ư Đoàn TNCS Trung Quốc La Mai trong
khuôn khổ chương trình Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt Nam – Trung Quốc
năm 2014.
Tình cảm nồng ấm và hữu nghị của Liên hoán Thanh niên Việt – Trung
-(GDTĐ) -“Các bạn trẻ sẽ xứng đáng với sự tin cậy của hai Đảng và mong
mỏi của nhân dân hai nước Việt Nam- Trung Hoa; không ngừng phấn đấu,
học tập, rèn luyện, lao động, cống hiến, góp phần xây đắp tương lai tươi
sáng cho mỗi nước và cho tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai
nước…”
*** Từ lâu nó đã như thế, ngay cả “tuổi trẻ” là rường cột nước
nhà mà như thế thì nước VN ‘thoát Trung” hay “nhập Trung” – Cho nên Bà
con ta cứ bàn cái chuyện THOÁT khỏi Trung cộng có được không???- Nó đã
ăn sâu rồi, có nước NHẬP mẹ thì có.- Muốn thoát khỏi TC xâm lược chỉ trừ
khi….*****************************************************************
Chuyện Kể Năm 2014 – (Tưởng năng Tiến -RFA) -Nói dại: lỡ mà ngày mai ông Thủ Tướng, ông Chủ Tịch Nước, ông Tổng Bí Thư hay ông Chủ Tịch Quốc Hội… chuyển sang từ trần chắc (chắn) tất cả đều không được mọi người “tiếc thương” đến thế – nếu chưa muốn nói là ngược lại.
Cuộc đấu tranh theo hai hướng -(Bùi Tín -VOA)
Mục sư Nguyễn Trung Tôn tiếp tục bị sách nhiễu (Huỳnh Bá Hải) – (Thongluan)“Putin vẫn là người tốt”? (Nguyễn Văn Tuấn) – (Thongluan)
Thằng Cu Đái… và lão Đáng Đái -(Badamxoe) >>> NSUT Kim Chi từ Mỹ về và câu chuyện đất nước với thể chế?
Trò láu cáy của CSVN qua chuyến thăm Mỹ của ông Nghị. -(Badamxoe) – Ông Nghị sang thăm Mỹ (không phải Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh) là CSVN muốn gửi thông điệp cho Mỹ, rằng ở Việt Nam, Ngoại trưởng không thể to bằng bất kỳ cá nhân nào mang mác Bộ Chính trị. Ngoại giao Mỹ mời ngoại giao Việt Nam nhưng Việt Nam cử ai đi ngoại giao là quyền của Bộ Chính trị Việt Nam. Chuyến này Bô Chính trị Việt Nam muốn Nghị sang thăm Mỹ, Ngoại giao Mỹ phải có giấy mời đich danh ông nghị. Bản chất của sự láu cáy ở đây là, Đảng CSVN muốn cho nước Myc thấy rằng, Mỹ muốn Việt Nam chơi với Mỹ thì Mỹ phải chơi với CSVN”. Điều này đã làm cho Thượng Nghị sĩ John Mc Cain kinh ngạc.
VÀI BÌNH LUẬN VỀ CHUYẾN ĐI MỸ CỦA ÔNG PHẠM QUANG NGHỊ – (Tễu) – GS Ngô Đức Thọ có một stt trên FB: -Về cái tin Phạm Quang Nghị đi Mỹ theo lời mời của Ngoại trưởng Mỹ J.Kerry, tôi thấy hơi lạ thật. Mà lại là với danh nghĩa Trưởng đoàn ĐB QH TP Hà Nội nữa chứ! Với danh nghĩa ấy thì lời mời phải là bên Hạ viện chứ ?.Chuyến đi Ngoại trưởng Mỹ mời là mời Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Nhưng BCT không cho Phạm Bình Minh đi mà thu xếp để cử Phạm Quang Nghị đi.
*** Từ điều này thấy rằng ĐCSVN đánh giá Mỹ(Chính phủ và 2 đảng lớn của Mỹ) quá thấp , cho nên để xem lối xử sự ngoại giao như thế này thì đừng tưởng Mỹ và Thế giới không hiểu ĐCSVN làm gì , đã bảo Mỹ “thực dụng” thì nói Mỹ không hiểu là rất …lú.- Cho nên những người VN nào hy vọng Mỹ sẽ “tự nguyện” giúp ĐCSVN chống Trung cộng đẻ khỏi rơi vào tay Trung cộng là …lú thật (mượn lời Hiệu Minh)- Mỹ không hiểu là (ngay cái vụ MH 17 bị bắn) hết ôm chân Trung cộng, bị nó đấm vào mặt mới chạy sang Nga (Liên xô) sao…Và chắc chắn về “địa chính trị, quân sự” Mỹ cũng chả cần VN với tình hình Thế giới hiện nay và thực lực của Mỹ cùng các Đồng minh của Mỹ, một điều chắc chắn là Trung cộng vẫn biết thế, và Trung cộng không dám cản trở những gì Mỹ muốn làm- Vì sao, vì Trung cộng vẫn có một số quyền lợi kinh tế rất lớn với MỸ cũng như nhờ Mỹ mà TC có như ngày hôm nay- Chiếm Biển đông (lưỡi bò) thì TC không dám, nhưng chiếm phần của VN thì trước sau gì TC cũng chiếm.- Cho nên muốn thiên hạ giúp mình thì đừng giở trò láu cá và hạ thấp người khác – Đừng cầm thiên hạ là ngu, chỉ có “ta” là khôn.
Đừng nghe đảng dọa ma -(LS Lê đức Minh FB) – Ý đảng muốn nói rằng “Ổn định chính trị để phát triển kinh tế”. Hay chính xác hơn đảng muốn người dân hiểu rằng người VN nên hy sinh các quyền tự do dân chủ kiểu phương Tây để đổi lấy cơm no áo ấm và cuộc sống “bình yên”. Một luận điệu hết sức bịp bợm nhưng có rất nhiều người tin và còn đi rao giãng cho người khác nữa. Nếu đúng như đảng tuyên truyền thì Bắc Triều Tiên phải là quốc gia giàu có nhất thế giới.
Tư duy tiểu nông và nền văn hóa xe máy -(THĐP) — Phụ nữ Việt Nam không bị cắt âm vật nhưng… -(Nguyễn đình Bổn FB)
CÓ LUẬT CẤM ĐỂ LÀM GÌ? – (Hồ Hải) – CHIM HÓT TRONG LỒNG – Tiểu thuyết NHẬT TIẾN -KỲ 3 -(Nhật Tuấn)
Không bán nước!!! -(DLB)===>>>
Từ Geneve 1954 đến giàn khoan HD-981 -(DLB) — Nhạc là vậy đó hả? -(DLB)
Thiếu tá Hồ Chí Minh -(DLB)
Vẫn nhớ về cây xanh Thành Phố – Nguyễn thị Hậu -(Diễn đàn)
____________________________________________________________________________________
Thế giới này có dân tộc nào như dân tộc Việt Nam? -(GDVN) >>> Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương TQ đi Indonesia du thuyết Biển Đông >>> Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia đã nói gì với tướng Trung Quốc?
Rút giàn khoan, Trung Quốc trù tính những âm mưu mới -(ĐV) – Báo TQ vỗ ngực, tỏ ra đắc thắng vụ đưa giàn 981 xâm phạm Việt Nam -(GDVN)
Bão Rammasun chỉ là cớ… giàn khoan TQ có thể trở lại vùng biển VN? -(KT)
Việt Nam chuyển hướng vũ khí Nga sang vũ khí châu Âu? -(ĐV) — Phần Lan công bố hình ảnh lô vũ khí bị tạm giữ của Việt Nam -(Infonet) – Các đầu dẫn của tên lửa “không đối không” Việt Nam gửi đi bảo hành tại Ukraine ===>>>
Hà Nội: Công an quận Hai Bà Trưng bị tố bức cung nghi can? -(GDVN) — Tách quận Từ Liêm: Thăng chức nhiều cán bộ dính kỷ luật? -(ĐV) — Vụ xà xẻo tiền trợ giá: Sẽ xử lý cán bộ sai phạm -(NLĐ)Bộ, ngành nhận trụ sở mới phải trả ngay “đất vàng” -(ĐV) — EVN nói dân phải sống chung với lũ: Vô trách nhiệm! -(ĐV) — Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng thực hiện lời hứa -(ĐV)
‘Quả đắng’ nhà thầu Trung Quốc: Mua máy móc về…’trùm mền’? -(ĐV)
Việt Nam nói chuyện với Trung Quốc về việc 5 phụ nữ VN bị giết -(RFA) — Hồi ức về cuộc chiến đánh chìm tàu Mỹ của chiến sĩ biệt kích – (Dân trí)
Điêu đứng sau bão Thần Sấm -(Dân trí) >>> VNPT giải quyết 5000 lao động dôi dư sau tái cơ cấu thế nào?
Phó Thủ tướng bảo dừng, Cty Ao Vua vẫn ngang nhiên xây khu sinh thái? -(GDVN) — Biệt thự sừng sững của “quan” Lào Cai -(KT)
Ông Tập Cận Bình với xu hướng “chủ nghĩa tân độc tài” -(MTG) >>> Việt Nam cần kiện ngay Trung Quốc ra Toà án Quốc tế >>> Trung Quốc âm mưu đặt ống dẫn dầu dưới biển Đông
Đức ủng hộ giải quyết vấn đề Biển Đông bằng biện pháp hòa bình -(VnM)
Quỳ gối trước một thế lực không phải là tính cách của người VN -(MTG)- *** Nói chung người VN thì đúng, nhưng bọn Việt gian nó quì thì sao, làm gì nó??? -Đây là Bài viết của một người Việt ở Úc trên EURASIA Review
‘Hiền tài là nguyên khí quốc gia’ – mỗi lần bàn đến lại là mới tinh -(MTG)
Quảng Ninh lên tiếng việc Bitexco đề nghị tham gia “khai thác” vịnh Hạ Long -(MTG) — “Không có chuyện giao toàn quyền quản lý Vịnh Hạ Long cho Bitexco” -(Bizlive) — Quảng Ninh không thể tự quyết cho Bitexco khai thác vịnh Hạ Long -(MTG) — Vụ DN muốn quản Vịnh Hạ Long: Chỉ giao quyền thu phí không quá 10 năm -(NLĐ)
PETA – biểu tình bảo vệ khỉ trước trụ sở Air France Việt Nam -(MTG)
Bộ trưởng Đinh La Thăng dọa sẽ thay Vụ trưởng nếu nương tay với nhà thầu -(PLTP)
Phương pháp điều tra cực mới -(PLTP) – Tèo: “Đồng đội đừng nóng, để tôi nói tiếp. Sau khi mở máy tính có nối mạng lên, tôi nhỏ nhẹ nói với nghi can/bị can rằng: “Theo luật, anh/chị/ông/bà có quyền không khai, có quyền không thừa nhận gì hết. Nhưng tôi chỉ khuyên ông bà nên vào Google tra cứu cụm từ “chết tại trụ sở công an” rồi quyết định cũng chưa muộn”… Và thế là họ tự khắc thành khẩn khai báo.
Ở phố cổ Hà Nội, không dám đẻ vì nhà… quá chật -(TP) — Hàng nghìn chiến sĩ thương vong ngày cao điểm trận chiến Vị Xuyên -(VnEx)
Nhiều chủ Facebook Việt ‘mất tài khoản’
-(BBC) -Một loạt trang Facebook cá nhân có tiếng ở VN bị ‘đánh hội
đồng’ và Facebook chưa trả lời ai đứng đằng sau. ===>>>
Úc nên hối thúc Việt Nam tôn trọng nhân quyền ? -(RFI) – Vì sao các nhà tranh đấu ở SG bị cấm ra khỏi nhà hôm 25/7? -(RFA) -Có
lẽ họ cẩn thận, hoặc sợ hãi hoặc nghi điều gì đó thì tôi không biết;
ngay từ tối hôm qua họ đặt hai chốt, mỗi chốt 3 người ngồi ngay hai chỗ
đầu nhà tôi. -BS Nguyễn Đan QuếKinh tế
Giá xăng tăng liên tục với mức kỷ lục: lỗi do đâu? -(RFA) — Toàn cảnh kinh tế Việt Nam 24-7-2014 -(VietFin) — “Ngân hàng Nhà nước sẽ không nâng tiếp giá mua USD” -(VnEc) — Vàng trong nước chênh 3,5 triệu đồng/lượng so với vàng thế giới -(Tintuc)
Kinh tế Singapore đạt mục tiêu tăng trưởng 2-4% trong năm 2014 -(Tintuc) — Doanh nghiệp dèm pha, nói xấu đối thủ sẽ bị phạt 100 triệu đồng -(Infonet)
3 ngân hàng nhà nước bị soi dưới “lăng kính” Kiểm toán Nhà nước
-(Bizlive) – Ba ngân hàng thương mại nhà nước là Vietcombank,
Vietinbank, Agribank vừa bị Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán năm
2012. Nhiều sai phạm và vấn đề đã được “lôi” ra ánh sáng. Trong
đó, Agribank và Vietinbank có nhiều chỉ tiêu như tỷ lệ, tỷ trọng nợ xấu ở
mức đáng “báo động”.
Argibank, Vietcombank và Vietinbank đều huy động vượt trần lãi suất -(Bizlive) >>> Tài chính 24h: “Lôi” 3 ông lớn ngân hàng ra ánh sáng >>> Thiếu dự án tỷ “đô”, vốn FDI 7 tháng tiếp tục “hụt hơi”
Doanh nghiệp 24h: Bà chủ “xài” Rolls Royce, công ty nợ Agribank 3.700 tỷ đồng -(Bizlive) — Bà Diệp Bạch Dương nợ Agribank 3.700 tỉ đồng -(MTG)
Hậu Giang: Nợ xấu lên tới 5,39% trong 6 tháng đầu năm -(Bizlive) >>> 48 cán bộ, nhân viên ngành Kiểm toán bị xử lý kỷ luật >>> Địa ốc 24h: Hàng loạt dự án đội vốn cao bị kiểm toán nhà nước “điểm mặt” >>> Tồn kho bất động sản: Vốn ngoại dửng dưngCòn quá sớm để nói bất động sản đã phục hồi -(MTG)
Năm 2015 kiểm toán chuyên biệt về nợ công -(Bizlive) >>> 7 lý do khiến nợ công đáng lo >>> Giá điện cõng hơn 18.000 tỷ tiền bù lỗ cho EVN — Kiếm toán Nhà nước: EVN lãi 8.814 tỷ đồng nhờ tăng giá điện -(VOV)
*** Bỏ tiền “chùa” làm chỗ chơi bời hạng sang, cái lẫy rùm beng, giờ lại móc hầu bao đám Dân đen bù vào cái LỖ , không biết nó to cỡ nào, nó có mắc bệnh mai mốt lở tét bét ra không, thì giá điện cứ tăng không biết Dân ta “can đảm” bù lỗ tới mức nào???- Dân Việt nam ta tốt bụng thật, không có quốc gia nào dân tốt hơn.
Việt Nam vào Top 10 nước gia công phần mềm tốt nhất -(Bizlive) — Doanh nghiệp than tiền thuê đất cao -(NLĐ) >>> Quảng Ngãi: Doanh nghiệp ứng vốn rồi… bỏ chạy
Xăng dầu đã lãi nhưng giá vẫn không giảm -(TN) >>> Hai sàn giảm điểm phiên cuối tuần >>> Giá vàng tiếp tục giảm >>> Tranh mua gạo xuất tiểu ngạch sang Trung Quốc
Giá chung cư tiếp tục xu hướng giảm -(VnM) >>> Chỉ số giá tiêu dùng tăng trên mọi tiêu chí
Giá xăng tạo “động lực” cho CPI tháng 7 tăng 0,23% -(VnEc) >>> Kiến nghị xử lý gần 23 ngàn tỷ đồng ngân sách “có vấn đề” >>> Có “biến hóa” trong số liệu tăng trưởng tín dụng?
IMF hạ dự báo tăng trưởng của 5 nước ASEAN -(RFI)
Thế giới
Tên lửa tình yêu’ biểu tình trước sứ quán TQ -(RFA) – Khoảng 100 người Philippines mang theo những mô hình tên lửa giả biểu tình trước đại sứ quán Trung Quốc tại Manila vào ngày hôm nay để phản đối những hành động gây hấn đòi chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông.
‘Tên lửa mang tình yêu’ biểu tình trước sứ quán Trung Quốc
‘Chúc mừng sớm’ -(BBC) -Tổng thống Obama chúc mừng ‘tân tổng thống’ Indonesia.
Tổng thống Mỹ muốn tăng cường quan hệ hợp tác với Indonesia -(VOA)
Nhiều vết thủng phát hiện trên thân máy bay Malaysia -(RFI) — Australia tìm cách bảo vệ an ninh địa điểm MH17 bị bắn rơi -(VOA)
Trừng phạt Nga : Pháp từ chối hy sinh tàu quân sự Mistral -(RFI) — Thủ tướng Ukraine từ chức -(VOA)
Chiến dịch đẫm máu của Israel tại Gaza bị tố cáo là tội ác chống nhân loại -(RFI) — Israel không kích trúng trường học của LHQ ở dải Gaza -(VOA) — Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm bay đến Israel -(VOA)
Na Uy: Có ‘đe dọa cụ thể’ về tấn công khủng bố -(VOA) >>> Hai nhân viên cứu trợ Phần Lan thiệt mạng tại Afghanistan
Miến Điện mời MSF trở lại Rakhine -(RFA) — Fukushima : TEPCO công nhận thất thoát chất phóng xạ -(RFI)
Hàn Quốc : Đồng hồ thông minh để theo dõi con cái -(RFI) — Hàn Quốc vuốt râu hùm : Dây chuyền bánh Pháp Paris Baguette mở cửa hiệu tại Paris -(RFI)
Tỷ phú Trung Quốc bị đả kích vì tặng đại học Havard 15 triệu đô la -(RFI) — Trung Quốc muốn “Thoát-Mỹ” – Mà không dễ -(RFA) — Trao đổi thăm viếng hàng không mẫu hạm giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc -(NV)
Khởi sự tìm kiếm máy bay Algeria chở 116 người bị mất tích -(VOA) – Ngoại trưởng Pháp: Máy bay Algeria mất tích có thể đã bị rơi -(VOA)
31 nạn nhân trong vụ rớt máy bay Ðài Loan được nhận dạng -(VOA) ___ Ông Fouad Massoum được bầu làm Tổng thống Iraq -(VOA)
Phương Tây hiện diện quân sự ở châu Phi gây khó khăn cho Trung Quốc -(GDVN) — Trung Quốc lo sợ trước “Quyền tự vệ tập thể” của Nhật -(ĐV)
Nga: Bằng chứng của Mỹ vụ MH17 là ngụy tạo -(ĐV)Tình báo Mỹ che giấu sự thật về vụ MH17 bị bắn hạ? -(DT) — Nga-Malaysia, Indonesia đối mặt tương lai không chắc chắn sau vụ MH17 -(GDVN)
Lãnh đạo ly khai thừa nhận bắn MH17 do bị Ukraine ‘gài bẫy’ -(Infonet) >>> Putin sẽ trắng tay ở Ukraine sau vụ MH17 bị bắn rơi?
Ai bắn hạ máy bay giết 298 người? -(RFA) — Quân đội Nga tạo thế đối trọng ở đông bộ Ukraine -(VOA)“Các thi thể bị lợi dung cho một trò chơi chính trị chăng?” -(Dân trí) – “Tôi hy vọng thế giới sẽ không phải chứng kiến những cảnh này lần nữa. Những hình ảnh đồ chơi trẻ em bị quăng quật, hành lý bị mở tung, và các tấm hộ chiếu, hộ chiếu của trẻ em bị đưa lên truyền hình”.
NATO tính biến cảng Ba Lan thành căn cứ lớn nhất Đông Âu -(Tintuc) — Mỹ, Hà Lan nhất trí tăng cường trừng phạt Nga -(Tintuc)
Quý cô Trung Quốc đua nhau sang Mỹ để đẻ con -(TP) — Người Trung Quốc đua nhau mua bất động sản Mỹ -(Tintuc) – Vậy sống ở “thiên đường cọng sản” hay “tư bản bóc lột giãy chết” tốt hơn nào???
Tổng thống Pháp: Đã tìm thấy hộp đen máy bay Algeria, không ai sống sót – (Dân trí) >>> Pháp điều binh sĩ đảm bảo hiện trường tai nạn máy bay Algeria
Thủ tướng Ấn Độ thăm Nhật Bản đầu tiên, sẽ có 1 liên minh mới? -(GDVN) — Kỳ 26: Chu Ân Lai – ngợi ca và rào cản -(MTG)Trung Quốc cố mua đảo của Nhật – (NLĐO)
Kỳ lạ cáo buộc Nga nã pháo vào Ukraine của Mỹ -(VnM) - Kèm thêm chữ “kỳ lạ” là ý nói Mỹ xạo hay ba que.- Ông GS Tuấn bên Úc nói không sai cái lối vuốt đuôi hòng kiếm tí chút- Quên mất Liên xô lúc 1979 rồi. Putin nay còn ma mãnh hơn thới Liên xô.
‘Không ai sống sót’ vụ máy bay Algeria -(BBC) — Xác máy bay Air Algérie được tìm thấy tại miền Bắc Mali -(RFI)
Trễ nhiều chuyến bay do Trung Quốc tập trận -(RFI) — Cảng Đại Liên, biểu tượng cho tham vọng của Hải quân Trung Quốc -(RFI)
Thủ tướng Ukraina từ chức -(RFI)
Thủ tướng Nhật thăm Nam Mỹ -(RFI) — Nhật -Trung đọ sức tại Châu Mỹ La Tinh -(RFI)Văn hóa – Giáo dục – Khoa học
Đào tạo kém, sinh viên ra trường thất nghiệp -(Tintuc)Ngành giáo dục lạm thu hơn 185 tỷ đồng -(Bizlive)
Tái giá không được phong Bà mẹ VNAH: Đừng tạo ra “lệ” ngoài luật! -(Infonet) >>> Đại gia tố cáo Chủ tịch tỉnh: Thanh tra Chính phủ kết luận gì?
Vụ xà xẻo tiền trợ giá: Sẽ xử lý cán bộ sai phạm -(NLĐ) — Người nhà bệnh nhân hành hung bác sĩ ngay trong phòng cấp cứu -(DT) — Người nhà bệnh nhân hành hung y tá mang thai 7 tháng đến ngất xỉu -(GDVN)Nhân viên viện dưỡng lão cắt trộm tinh hoàn 4 người già “làm thuốc” -(GDVN) - Tân Hoa Xã ngày 25/7 đưa tin, hôm 22/7 đã xảy ra một vụ trọng án tại nhà dưỡng lão ở thị trấn Trinh Tường thuộc huyện Thanh Cương tỉnh Hắc Long Giang, Đông Bắc Trung Quốc khi có tới 4 người già sống trong viện bị cắt mất tinh hoàn. Kẻ thủ ác đã bị bắt.
Vietnam Airlines hủy chuyến không xin lỗi, bù 100.000 đồng -(ĐV) >>> Người Đà Nẵng phân trần phải đánh trộm chó vì…
Đại gia cùng quẫn: Viết thư tuyệt mệnh rồi treo cổ tự tử -(DT) >>> Hà Nội: Nữ đạo chích trộm đồ của Đại sứ đặc mệnh toàn quyền >>> “Vấn nạn” nữ sinh tự nguyện trao thân >>> Lời khai chấn động của vợ Bí thư xã đốt xác phi tang
Vụ lộ bí mật “động trời” về Master Chef VietNam: Ban tổ chức lên tiếng
-(GDVN) – Ban tổ chức Vua đầu bếp đã quyết định sẽ phát lại
câu chuyện dự thi của thí sinh ‘tố’ chương trình sử dụng chiêu
trò thay cho câu trả lời.
*** Chuyện chơi mà cũng giở “chiêu trò lưu manh,gian dối…” ( Trò nào cũng đổ bể) thì đúng là cái xã hôi suy tàn!!!
Cơn địa chấn đang đến của ngành giáo dục
Từ
sân trường Oxford tới khuôn viên trường Harvard cho tới vô số tháp ngà
bằng thép và kính của các trường đại học khác, lúc này, các kỳ thi đã
kết thúc, nhường chỗ cho những ngày nghỉ. Khi sinh viên xem xét cuộc
sống sau khi tốt nghiệp, các trường đại học đang phải đối mặt với những
câu hỏi về tương lai của mình. Các mô hình giáo dục đại học bao gồm
giảng dạy, nhồi nhét, kiểm tra đã hầu như không thay đổi trong nhiều thế
kỷ. Giờ đây, có ba làn sóng mới đang đe dọa phương thức giảng dạy và
học tập được thiết lập lâu đời này.
Một mặt, cuộc khủng hoảng tài chính đã tạo ra sự thiếu hụt tiền bạc mà những bộ não sáng giá nhất của các trường đại học đang phải vật lộn để giải quyết. Chi phí cho trường học đang tăng lên, do các khoản đầu tư đắt tiền cho công nghệ, lương giảng viên và chi phí hành chính phi nước đại. Điều này xảy ra khi các chính phủ kết luận rằng họ có thể không còn đủ khả năng để trợ cấp cho các trường đại học một cách hào phóng như họ đã từng. Đặc biệt là các trường đại học Mỹ, đang phải chịu nhiều áp lực: một số nhà phân tích dự đoán sẽ có sự phá sản hàng loạt trong vòng hai thập kỷ tới.
Đồng thời, một cuộc cách mạng công nghệ đang thách thức mô hình kinh doanh giáo dục đại học. Sự bùng nổ trong giáo dục trực tuyến, phần lớn là miễn phí, có nghĩa là những kiến thức vốn từng chỉ truyền đạt cho một số ít may mắn giờ đây đã được phổ cập cho bất cứ ai sở hữu một điện thoại thông minh hoặc máy tính xách tay. Những gián đoạn tài chính và công nghệ trùng với một sự thay đổi lớn thứ ba: trong khi các trường đại học quen với việc chỉ giáo dục một tầng lớp nhỏ, giờ đây phải chịu trách nhiệm đào tạo và tái đào tạo người lao động trong suốt sự nghiệp của họ. Làm thế nào để các trường sống sót qua cơn bão này và cái gì sẽ nổi lên thay thế vị trí của họ nếu họ không thể vượt qua?
Tài chính 101
Các trường đại học đã đẩy hầu hết các chi phí gia tăng của họ sang sinh viên.Học phí của các trường đại học tư phi lợi nhuận ở Mỹ đã tăng 28% về giá trị thực trong vòng một thập kỷ tính đến năm 2012, và còn tiếp tục tăng lên. Các trường đại học công cũng tăng học phí 27% trong năm năm tính đến năm 2012. Học phí trung bình của trường công bây giờ là gần 8400 USD cho sinh viên theo học trong cùng tiểu bang, và hơn 19.000 USD nếu học ở bang khác. Ở các trường đại học tư học phí trung bình là hơn 30,000 USD (hai phần ba học sinh được hưởng học bổng dưới hình thức nào đó). Khoản nợ của sinh viên Mỹ đã lên đến 1,2 nghìn tỷ USD, với hơn 7 triệu người không thể trả nợ đúng kỳ.
Trong một thời gian dài các khoản nợ dường như đáng giá. Đối với hầu hết sinh viên ,“phần thưởng tốt nghiệp” là công việc được trả lương hậu hĩnh sẽ đủ chi trả cho chi phí để kiếm được bằng cấp . Nhưng không phải tất cả các ngành học đều kiếm ra tiền, và tiền lương tốt nghiệp cào bằng hơn có nghĩa là phải mất nhiều thời gian hơn để sinh viên bắt đầu kiếm ra tiền. Lượng sinh viên nhập học tại Mỹ, tăng từ 15.2 triệu người vào năm 1999 lên đến 20.4 triệu người trong năm 2011, đã giảm 2% trong năm 2012.
Các trường cao đẳng tư nhân nhỏ đang phải vật lộn để cân bằng thu chi. Susan Fitzgerald của Moody, cơ quan xếp hạng tín dụng, dự báo sẽ có sự đóng cửa hàng loạt theo một “ vòng xoáy chết chóc” . William Bowen, cựu chủ tịch của Đại học Princeton, nói về một “căn bệnh chi phí”, trong đó các trường đại học đang đầu tư phung phí vào các trung tâm đại học, thư viện và nơi ăn nghỉ để thu hút sinh viên.
Về mặt chính trị, gió cũng đã đổi chiều. Cả Bill Clinton lẫn Barack Obama đều nói rằng các trường đại học đối mặt với một viễn cảnh tăm tối nếu họ không thể giảm chi phí, điều này đánh dấu một sự thay đổi xu hướng của các chính trị gia trung tả vốn ủng hộ chi tiêu công nhiều vào các học viện. Sự cắt giảm được thực hiện bởi chính quyền tiểu bang được bù đắp một phần bởi sự gia tăng của mức trợ cấp liên bang “Pell Grants” cho sinh viên nghèo. Nhưng các trường đại học Mỹ sẽ sớm phải thu tiền nhiều hơn từ học phí thay vì nhận được hỗ trợ từ cộng đồng
Ở châu Á, mức gia tăng học phí vào khoảng 5% trong năm năm qua đối với các trường đại học hàng đầu, đã làm dấy lên mối lo ngại của tầng lớp trung lưu về chi phí học đại học. Các nước Mỹ Latinh thì băn khoăn về việc giữ gìn phí đủ thấp để tăng lượng sinh viên tốt nghiệp. Tại châu Âu với mức hỗ trợ cao, cùng với lượng sinh viên đăng ký nhập ít hơn, đã miễn nhiễm cho các trường đại học. Nhưng chi phí đang tăng lên: năm 1998 Anh đưa ra mức học phí hàng năm chỉ £1,000 (tương đương 1650 USD lúc đó), cho tới năm 2012 đã tăng lên mức tối đa là £ 9,000 (13,900 USD).
Việc tăng chi phí đã tấn công các trường đại học vào thời điểm khó có thể tồi tệ hơn. Trên toàn thế giới, nhu cầu tái đào tạo và giáo dục bổ sung đã tăng vọt trong lực lượng lao động ở mọi lứa tuổi. Toàn cầu hóa và tự động hóa đã thu hẹp số lượng các công việc đòi hỏi một trình độ giáo dục trung cấp. Kể cả những người lao động này cũng tìm cách giáo dục nhiều hơn, trong một nỗ lực để đi trước nhu cầu lao động một bước. Ở Mỹ, việc đăng ký học đại học/ cao học của sinh viên độ tuổi từ 35 trở lên đã ở mức 314 ngàn người trong những năm 1990, và lên tới 899 ngàn người trong những năm 2000.
Cải tiến trong các thiết bị thông minh đã cho phép tự động hóa thâm nhập vào các lĩnh vực mới của nền kinh tế, từ sổ sách kế toán tới bán lẻ. Các mô hình kinh doanh trực tuyến mới đe dọa các ngành mà cho đến gần đây, đã điêu đứng sau cơn bão Internet. Carl Benedikt Frey và Michael Osborne, thuộc Đại học Oxford, nghĩ rằng có lẽ 47% của các ngành nghề có thể được tự động hóa trong vài thập kỷ tới. Họ nhận ra rằng tỷ lệ sa thải giảm mạnh khi sự trau dồi trí thức tăng lên.
Thời đại Ipad
Như vậy, nhu cầu về giáo dục sẽ tăng lên. Ai sẽ đáp ứng được nhu cầu này? Các trường đại học đối mặt với một đối thủ cạnh tranh mới trong hình thức các khóa học trực tuyến đại chúng, hoặc MOOCs. Các khóa học được cung cấp qua công nghệ số, giảng dạy thông qua các ứng dụng web hoặc máy tính bảng, có lợi thế lớn so với các đối thủ đã tồn tại lâu đời. Với chi phí thiết lập thấp và qui mô thị trường rất lớn, các khóa học trực tuyến giảm đáng kể giá của việc học tập và mở rộng cánh cửa đăng ký, bằng cách loại bỏ việc yêu cầu sinh viên nghe giảng tại một thời điểm hoặc địa điểm nhất định. Chi phí để cung cấp một khoá học là thấp – tạo khoá mới chi phí khoảng $ 70,000-có nghĩa là các khoá học có thể được bán với giá rẻ, hoặc thậm chí cho không. Clayton Christensen của Trường kinh doanh Harvard coi MOOCs là một “công nghệ đột phá” mạnh mẽ, sẽ giết chết nhiều trường đại học không hiệu quả. “Mười lăm năm kể từ bây giờ hơn một nửa các trường đại học [ở Mỹ] sẽ phá sản”, ông dự đoán hồi năm ngoái.
MOOC đầu tiên bắt đầu chào đời ở Canada trong năm 2008 như một khóa học trực tuyến về máy tính. Tới năm 2012, năm được đặt tên là “năm của MOOC”, MOOC đã tạo ra sự phấn khích được dự đoán về ý tưởng này. Ba chương trình MOOC lớn đã thành lập: edX, nhà cung cấp các khoá học phi lợi nhuận, liên kết giữa trường Harvard và Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT); Coursera, hợp tác với Đại học Stanford; và Udacity, một tổ chức phi lợi nhuận sáng lập bởi Sebastian Thrun, người đã dạy một khóa học trực tuyến về máy tính tại Đại học Stanford. Ba nhà cung cấp này cho đến nay đã mang lại các khóa học cho hơn 12 triệu sinh viên. Có ít hơn một phần ba là người Mỹ, còn theo edX, gần một nửa sinh viên đến từ các nước đang phát triển (xem biểu đồ 2). Giám đốc điều hành mới của Coursera, Richard Levin, một cựu chủ tịch của Đại học Yale, đang có kế hoạch mở rộng sự tập trung vào Châu Á.
Với tất cả tiềm năng của mình, MOOCs vẫn chưa tạo ra một cơn bão đột phá theo định nghĩa của nhà kinh tế học Schumperter. Hầu hết các trường đại học và các tổ chức sử dụng lao động vẫn nhìn nhận giáo dục trực tuyến là một bổ sung cho chương trình học văn bằng truyền thống, chứ không phải là một sự thay thế. Nhiều trường uy tín, bao gồm cả Oxford và Cambridge, đã từ chối sử dụng các nền tảng mới.
Nick Gidwani, người sáng lập SkilledUp -một dịch vụ thư mục trực tuyến, so sánh quá trình này với sự đổ vỡ của ngành xuất bản và báo chí. Các nhà xuất bản lớn vốn từng quen thưởng thức độc quyền về in ấn, thuê bao và những giao dịch với các nhà quảng cáo. Sự gia tăng của các blog chi phí thấp, các trang web và các ứng dụng có nghĩa là họ không còn có được những điều họ từng hưởng thụ. Ngay cả các ấn phẩm thành công giờ cũng phải học phần nào mô hình của các đối thủ kỹ thuật số của họ. Ông Gidwani thấy “ít hy vọng cho việc 200 giáo sư, tất cả đều chỉ cung cấp các bài giảng tương tự nhau”.
Các trường đại học truyền thống cũng có một vài con Át chủ bài. Chẳng hạn như việc giảng dạy trực tiếp, kiểm tra, cấp giấy chứng nhận, giáo dục đại học tạo ra nguồn vốn xã hội. Học sinh cần học cách tranh luận, thể hiện bản thân, liên lạc, liên kết, làm các vấn đề và gỉải pháp khớp với nhau. Làm thế nào một trường đại học kỹ thuật số có thể cung cấp tất cả điều đó?
Câu trả lời có thể là kết hợp cả hai. Anant Agarwal, người điều hành edX, đề xuất giải pháp thay thế cho các khóa học đại học bốn năm theo tiêu chuẩn Mỹ. Sinh viên có thể học một năm đại cương qua MOOC, tiếp theo là hai năm học ở trường và một năm cuối cùng bắt đầu làm việc bán thời gian trong khi hoàn thành nốt việc học hành qua mạng. Cách kết hợp này dường như đang được chứng minh là hấp dẫn hơn so với học trực tuyến suốt bốn năm. Nó cũng có thể thu hút những người muốn kết hợp học tập với công việc hoặc nuôi dạy con cái, giải thoát họ khỏi việc sắp xếp lịch trình cho phù hợp với các thời khóa biểu ở trường. Một số đối tượng nữa cũng được hưởng lợi,: một khóa học về chủ nghĩa hiện sinh Pháp có thể được đi kèm với MOOC của trường đại học khác qua phiên bản tiếng Bồ Đào Nha.
Một số trường đại học đã bổ sung thêm các khóa học qua mạng vào hệ thống giáo trình của họ. Ở Brazil, Đại học Unopar cung cấp các khóa học chi phí thấp bằng cách sử dụng tài liệu trực tuyến và hội thảo hàng tuần, qua vệ tinh. Ở Mỹ, Đại học Minerva có tiêu chuẩn nhập học không kém các đối thủ tốt nhất trong nhóm Ivy League (nhóm các trường đại học hàng đầu của Mỹ), nhưng chi phí thấp hơn (khoảng $ 10,000 một năm, thay vì lên đến $ 60,000). Nhóm đầu tiên gồm 20 sinh viên vừa được chấp nhận vào học năm đại cương ở Minerva ở San Francisco, và sẽ tiếp tục hoàn thành toàn bộ phần còn lại của khóa học qua hướng dẫn trực tuyến trong khi sống bên ngoài nước Mỹ, nhấn mạnh vào việc sinh sống ở các nước đang phát triển như là lợi điểm đối với các nhà tuyển dụng trong tương lai
Lỗi 404: Không có bằng
Học tập trực tuyến cũng có nhiều chông gai. Đề án thí điểm tại Đại học San Jose State ở California, cung cấp một khóa học toán học và thống kê học bởi Udacity, đã bị đình chỉ vào năm ngoái. Trong lúc đó, 30% sinh viên học tại trường hoàn thành một khóa học đại số sơ cấp, thì chỉ có 18% những người học trực tuyến vượt qua bài kiểm tra – và khoảng cách này tiếp tục mở rộng với các khóa học phức tạp hơn.
“Phương pháp sư phạm của các MOOC cần phải được cải thiện rất nhanh chóng,” Ông Thrun của Udacity thừa nhận. Ông nghĩ rằng thí nghiệm San Jose cho thấy sinh viên cần nhiều hỗ trợ cá nhân hơn để có thể theo học trực tuyến các khóa học trình độ đại học. Một cuộc khảo sát của sinh viên MOOC ở Mỹ cho thấy 70% đã có bằng cấp. Nếu muốn cạnh tranh với các trường đại học thông thường, các nhà cung cấp MOOC phải giảng dạy tốt hơn cho các sinh viên mới nhập học. Ông Agarwal của edX muốn cung cấp nhiều khóa học hơn giữa các kỳ nghỉ, khi sinh viên có thể sử dụng chúng để có thêm tín chỉ hoặc để bắt kịp các môn học bị lỡ.
Những lời chê bai nhắm vào tỷ lệ bỏ học cao: chỉ khoảng 10% những người lần đầu đăng ký học qua MOOC hoàn thành khóa học đăng ký. Điều đó có thể không phản ánh xấu về những gì được cung cấp: chi phí ghi danh không đáng kể có nghĩa là nhiều người đăng ký mà không có mục tiêu chắc chắn hoàn tất khóa học. Nhưng vì các nhà cung cấp MOOC chỉ kiếm hầu hết tiền của họ từ giấy chứng nhận họ cấp cho người hoàn thành khóa học, việc duy trì một tỷ lệ tốt nghiệp hợp lý là rất quan trọng. Một số đã tinh chỉnh các khóa học của họ để khiến giai đoạn đầu dễ dàng tiếp thu hơn. Edx phát hiện ra rằng hầu hết việc bỏ học xảy ra khá nhanh chóng,theo cùng một cách mà các sinh viên đại học năm thứ nhất thử các khóa học mẫu trước khi quyết định theo đuổi các tín chỉ mong muốn.
Một nỗi lo khác là sinh viên có thể ăn gian bằng cách nhờ ai đó thực hiện bài kiểm tra trực tuyến hộ mình. Trường Iversity một trường đại học trực tuyến Đức thành lập năm ngoái, đang cố gắng khắc phục việc này bằng cách sử dụng các giám thị trong các kỳ thi. Coursera mời chào dịch vụ xác minh nhận dạng có trả tiền, phần nào thông qua việc ghi nhận các kiểu đánh máy riêng của mỗi sinh viên
Các khóa học trực tuyến đã khêu dậy sự phản đối từ các học giả, những người lo sợ rằng việc cắt giảm nhân sự của các trường đại học sẽ tăng tốc hơn nữa. Khi Michael Sandel, một giáo sư chính trị của Harvard, đồng ý cung cấp một số bài giảng đại học nổi tiếng của mình cho edX, ông đã bị chỉ trích bởi một nhóm các học giả ở California rằng ông đã hỗ trợ một mô hình mang lại “hiểm họa lớn lao cho các trường đại học”. Các khóa học trực tuyến, họ lập luận, đang mạo hiểm “thay thế các cơ sở giảng dạy bằng giáo dục trực tuyến giá rẻ”. Những người khác băn khoăn rằng những người hưởng lợi chính sẽ là những ngôi sao như Giáo sư Sandel, mở rộng thêm khoảng cách về lương bổng và uy tín với những đồng nghiệp khác. Họ có thể đúng: các giáo viên sinh động luôn thu hút sự quan tâm nhiều hơn so với những người tẻ nhạt (Socrates giảng bài tại các buổi tiệc ở thành Athen với những đám đông đã khản giọng). Sự khác biệt bây giờ là có nhiều học sinh có thể chia sẻ quyền truy cập vào những bài giảng như vậy.
Tín chỉ khi đến kỳ
Cho đến nay, các nhà cung cấp MOOC đã ve vãn các sinh viên mới bằng cách sử dụng lời chứng thực của các sinh viên tốt nghiệp (testimonials), dẫn chứng một thực tế là hoàn thành một khóa học đã giúp họ có được một công việc. Nhiều sinh viên tiềm năng đã thất vọng bởi thực tế là không có sự đảm bảo rằng những công sức học online của họ sẽ được chấp nhận như các tín chỉ để giành được tấm bằng. Điều này đang bắt đầu thay đổi, khi các khóa học qua mạng trở thành gắn bó chặt hơn với chương trình đào tạo hiện có. Hơn một nửa số 4.500 sinh viên tại MIT tham gia MOOC như một phần trong khóa học của họ. Đại học John F. Kennedy ở California, giáo dục chủ yếu các sinh viên lớn tuổi, đã bắt đầu chấp nhận các tín chỉ của edX MOOC trong việc cấp bằng.
Nhưng hầu hết các trường đại học vẫn không thực hiện điều này. Một phần của câu trả lời của sự xa cách này nằm ở châu Âu. Theo một quy định được thiết kế nhằm cổ vũ sự linh hoạt của sinh viên giữa các quốc gia thành viên khối EU, sinh viên có thể chuyển tín chỉ, theo quyết định của các trường đại học, trong bất kỳ một trong số 53 quốc gia đã ký Công ước Lisbon, “bất kể những kiến thức, kỹnăng vànăng lực đãthu được thông qua chính thức, con đường học tập không chính quy hoặc không chính thức “. Vấn đề then chốt nằm ở chỗ giành được sự chấp nhận của các trường đại học châu Âu đối với các tín chỉ MOOC, từ đó dẫn đến việc trao đổi chúng.
“Châu Âu sẽ không nhanh chóng chấp nhận cách cấp bằng mới này,” ông Santiago Iñiguez, hiệu trưởng trường đại học IE của Tây Ban Nha, dự đoán. Những người khác lạc quan hơn. Hans Klopper, giám đốc điều hành của Iversity, chỉ ra rằng sinh viên rất dễ dàng đánh giá chất lượng MOOC, vì chúng mở ra cho mọi người. Khi một số lượng lớn sinh viên đã hoàn thành các khóa học online và bắt đầu kêu la để được công nhận, sẽ là khó khăn cho các trường đại học của châu Âu chống lại việc công nhận những khóa học tốt nhất trong số đó, ông tin tưởng.
Trong khi đó, thế hệ thứ hai của MOOC đang cố gắng mô phỏng theo các khóa học được cung cấp tại các trường đại học truyền thống. Viện Công nghệ Georgia và Udacity đã gia nhập lực lượng với AT & T, một công ty viễn thông, để tạo ra một khóa học thạc sĩ trực tuyến chuyên ngành máy tính chỉ với $ 7,000, chạy song song với một khóa học tại trường với chi phí khoảng $ 25,000. Mona Mourshead, người điều hành bộ phận tư vấn giáo dục của McKinsey, nhận thấy một bước ngoặt. “Nếu người sử dụng lao động chấp nhận điều này một cách bình đẳng, thì bằng cao học của MOOC sẽ cất cánh. Những người khác chắc chắn sẽ làm theo “, cô nói.
Mặc dù một số công ty đã là tác giả của các khóa học trực tuyến (Google, ví dụ, đã thực hiện một MOOC về cách diễn giải dữ liệu), các trường đại học tên tuổi vẫn tạo ra hầu hết các MOOC khác. Để khuyến khích các trường dành thời gian cho các học giả tốt nhất trong lúc xây dựng các khóa học, các công ty học trực tuyến phải cung cấp cho họ một sự khích lệ tài chính. Edx nói rằng họ “tự duy trì” nhưng không cung cấp chi tiết về doanh thu. Tờ “Chronicle of Higher Education” báo cáo rằng edX cho phép các trường đại học sử dụng nền tảng của nó trong $50,0000 đầu tiên thu từ khóa học, cộng với chiết khấu cho doanh thu tương lai. Một mô hình thay thế là đề nghị tính phí $ 250,000 để “hỗ trợ sản xuất” trong việc tạo ra một khóa học, cộng vớ phí tính thêm cho mỗi kỳ học. Coursera tiết lộ, doanh thu duy nhất của họ là từ các chứng chỉ – khoảng 4 triệu USD kể từ khi ra mắt vào năm 2012- với mức phí cho sinh viên khoảng giữa $ 30 và $ 100.
Một số đã vật lộn để có thể kinh doanh theo hướng này. Năm ngoái Udacity trải qua một sự ” chuyển hướng” đột ngột, tuyên bố rằng các mô hình miễn phí đã không hiệu quả và từ nay về sau họ sẽ bán đào tạo trực tuyến chuyên nghiệp. Mặc dù các khóa học dựa trên web là rẻ hơn nhiều so với những người trong khuôn viên trường, họ sẽ không giữ lại sinh viên đầy tham vọng, trừ khi họ có thể tái tạo sự tương tác ở mức độ tương tự như trong các trường đại học tốt. Đưa giáo viên vào các cuộc hội thảo kỹ thuật số và gia tăng mức độ tương tác có thể trợ giúp quá trình này. Như vậy sẽ có nhiều phản hồi trực tuyến chi tiết hơn. Những cải tiến như thế này làm tăng chi phí. Vì vậy, hệ sinh thái MOOC đa dạng hơn có thể hình thành với các mức giá khác nhau cho trình độ khác nhau, từ một mô hình cơ bản miễn phí cho tới những khóa học chuyên biệt đắt tiền hơn.
Bạn không thể làm điều này trực tuyến
Các trường đại học ít có khả năng bị thua thiệt nhất trước đối thủ cạnh tranh trực tuyến là các học viện danh tiếng lâu đời và tỷ lệ sinh viên trên giáo viên thấp. Đó là tin tốt cho Ivy League, Oxbridge và nhóm các trường ưu tú, mà tại đó cung cấp cơ hội kết nối cho các sinh viên song song với việc cấp bằng. Sinh viên các trường đại học chỉ đứng sát dưới nhóm Ivy League nhạy cảm hơn với việc tăng chi phí để giành được bằng cấp, vì lợi tức đầu tư nhỏ. Những trường đại học này có thể thu lợi từ việc tăng tỷ lệ học tập trực tuyến so với giảng dạy tại lớp học, giảm chi phí trong khi vẫn mang lại các phần thưởng của nền giáo dục đại học thực hiện một phần tại khuôn viên trường.
Dễ bị tổn thương nhất, theo Jim Lerman của Đại học Kean ở New Jersey, là “các trường cấp trung, đào tạo ra phần lớn giáo viên cấp trung, quản lý cấp trung của Mỹ”. Họ có thể bị thay thế bởi phần lớn các khóa học trực tuyến, ông nhận định. Vì vậy, có thể các trường cao đẳng cộng đồng yếu hơn, dù rằng có mối liên hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp địa phương, cũng có thể không có khả năng phục hồi.
Kể từ khi làn sóng đầu tiên của các khóa học trực tuyến đại chúng tung ra vào năm 2012, một phản ứng dữ dội đã tập trung vào thất bại của họ và sự không chắc chắn về mặt thương mại. Tuy nhiên, nếu các nhà phê bình cho rằng họ miễn nhiễm với bước hành quân của MOOC, họ gần như chắc chắn sai. Trong khi các khóa học trực tuyến có thể nhanh chóng điều chỉnh nội dung và cơ chế cung cấp, các trường đại học phải nỗ lực hết mình chống lại các vấn đề nghiêm trọng về chi phí và hiệu quả, với rất ít cơ hội đòi hỏi nhiều hơn từ công quỹ.
Trong “Ý tưởng của một trường đại học”, xuất bản năm 1858, John Henry Newman, một hồng y Công giáo Anh, đã tóm tắt các trường đại học sau Giác ngộ là “một nơi trao đổi, lưu thông các tư tưởng, thực hiện bởi giao tiếp cá nhân, trên diện rộng ở tầm quốc gia “. Lý tưởng này vẫn còn truyền cảm hứng cho thời đại chúng ta khi các tùy chọn cho giao thiệp cá nhân thông qua internet hầu như là vô hạn. Nhưng Đức Hồng Y đã có một cảnh báo: Nếu không chạm đến mức độ cá nhân hóa, giáo dục đại học có thể trở thành “một khối băng, bị hóa đá”. Đó là điều mà làn sóng mới các khóa học trực tuyến công nghệ cao không nên trở thành. Nhưng là phương tiện thay thế cho mô hình giáo dục đại học bị quá tải, đắt đỏ, có nhiều khả năng họ sẽ thịnh vượng hơn là tàn lụi.
The Economist
28/06/2014
Người dịch: Kevin Bùi
28/06/2014
Người dịch: Kevin Bùi
Nguồn: gocnhinalan.com
Trung Quốc muốn “Thoát-Mỹ” – Mà không dễ
Vũ Hoàng & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
Tình trạng “Mỹ thuộc” của nền kinh tế Trung Quốc là một nghịch lý mà chúng ta nên nhìn ra. Diễn đàn Kinh tế giải thích điều ấy hầu quý độc giả qua phần trao đổi sau đây của Vũ Hoàng cùng chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa…
Vấn đề sinh tử của Bắc Kinh
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, thống kê từ bộ Ngân khố Hoa Kỳ ngày Thứ Tư 16 tuần qua cho thấy Trung Quốc mua Công khố phiếu Mỹ tới mức dồn dập chưa từng thấy kể từ năm 1977 là khi Hoa Kỳ bắt đầu bút ghi loại nghiệp vụ này. Theo dõi thị trường tín dụng Mỹ, ông giải thích thế nào về hiện tượng ấy khi người ta cứ cho rằng Bắc Kinh nắm dao đằng chuôi và có thể gây khó cho Hoa Kỳ khi giảm dần số lượng Công khố phiếu họ vẫn mua của Mỹ?Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ đây là cơ hội cho chúng ta nhìn ra quan hệ kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc để thấy là ngược với nhận thức của nhiều người, kể cả các chính trị gia Mỹ, kinh tế Trung Quốc quá lệ thuộc vào nước Mỹ! Và đây là vấn đề sinh tử của Bắc Kinh.
Trước hết, xin nói về bối cảnh thì từ vụ khủng hoảng rồi Tổng suy trầm năm 2008, Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ có biện pháp kích thích kinh tế bất thường là hạ lãi suất tới sàn rồi mua vào trái phiếu và trả bằng tiền được tá ghi trong sổ sách kế toán của ngân hàng để các ngân hàng có thêm thanh khoản nên cho vay ra dễ dàng. Từ Tháng Năm của năm ngoái, khi kinh tế Mỹ có chiều hướng khả quan hơn thì Ngân hàng Trung ương Mỹ làm thế giới chấn động qua dự tính “vuốt nhọn” chính sách tiền tệ, tức là giảm dần mức độ bơm tiền và còn có thể nâng lãi suất.
Khi thu vào Mỹ kim thì họ làm gì để tiền đó đó khỏi mất giá? Họ mua tài sản tại Mỹ, mà loại tài sản có mức an toàn nhất vì coi như được Chính quyền Mỹ đảm bảo chính là Công khố phiếu.Khi đó, các thị trường dự đoán là phân lời trái phiếu cùng lãi suất tại Mỹ sẽ tăng. Điều ấy chưa xảy ra, phân lời trái phiếu Mỹ lại giảm và giá công khố phiếu lại tăng. Tức là có chủ nợ sẵn sàng cho Mỹ vay tiền bằng cách mua vào Công khố phiếu vì thế giá mới tăng và phân lời mới hạ. Lúc đó, người ta mới thấy vai trò của Trung Quốc là năm nay họ mua thêm Công khố phiếu Mỹ với mức chưa từng thấy và tính đến cuối Tháng Năm vừa qua thì làm chủ một khoản nợ gồm Công khố phiếu và cả trái phiếu ngắn hạn lên tới một ngàn 271 tỷ Mỹ kim, bằng 10,6% tổng số Công khố phiếu Mỹ.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Vũ Hoàng: Ông vừa cho biết Trung Quốc làm chủ hơn 10% tổng số nợ dưới dạng Công khố phiếu của Mỹ mà lại nói rằng kinh tế Trung Quốc lệ thuộc vào Hoa Kỳ thì nhiều thính giả của chúng ta tất nhiên là không hiểu. Vì vậy, để khởi đầu, xin ông giải thích cho nghịch lý đó.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong chuyện này, ta tìm hiểu hai lĩnh vực là tài chính và thương mại, hay ngoại hối và ngoại thương, thì may ra sẽ thấy được nghịch lý ấy.
Trước hết, ta bay qua bên kia đại dương để xem giới hữu trách kinh tế tại Bắc Kinh suy tính gì. Từ Đại hội 18, họ cứ nói đến tái cân bằng cơ chế kinh tế, cụ thể là nâng sức tiêu thụ nội địa và giảm dần sự lệ thuộc vào đầu tư và xuất khẩu. Họ chưa làm được chuyện ấy mà vẫn cố bán hàng nhiều hơn với giá rẻ hơn. Một cách kích thích xuất khẩu là can thiệp vào thị trường ngoại hối, là mua vào Mỹ kim và bán ra đồng nội tệ, tức là đồng Nguyên mà họ cứ gọi là “Nhân dân tệ” trong tinh thần mị dân. Khi thu vào Mỹ kim thì họ làm gì để tiền đó đó khỏi mất giá? Họ mua tài sản tại Mỹ, mà loại tài sản có mức an toàn nhất vì coi như được Chính quyền Mỹ đảm bảo chính là Công khố phiếu. Nôm na là Bắc Kinh bóp cổ người dân để bán hàng rẻ, và thu về một dự trữ ngoại tệ cứ được ca tụng là kỷ lục của thế giới, vì lên tới gần bốn ngàn tỷ đô la, rồi suy đi tính lại thì vẫn lại cho Mỹ vay tới hơn một phân tư chỉ vì đấy là nơi chọn mặt gửi vàng an toàn nhất!
“Bụt chùa nhà không thiêng”
Vũ Hoàng: Ông trình bày từ giác độ của Trung Quốc, nhưng nhiều người ở tại Hoa Kỳ lại cứ lo Trung Quốc có thể tẩy chay thị trường trái phiếu Mỹ tức là không cho Hoa Kỳ vay tiền nữa. Ông giải thích thế nào về chuyện đó?Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng nhiều khi báo chí và các chính trị gia không hiểu hoặc muốn tác động vào dư luận theo chủ ý riêng của họ nên cứ hăm dọa chuyện khôi hài đó.
Trên diễn đàn này, cách đây mấy năm chúng ta có nhắc đến lời than của một viên chức cao cấp tại Bắc Kinh, rằng “ghét Mỹ lắm mà vẫn phải mua Công khố phiếu của Mỹ”! Thật ra, trị trường trái phiếu Mỹ có hai ưu điểm là sâu rộng và an toàn hơn hẳn mọi thị trường khác trên thế giới. Sâu vì lớn hơn tổng số thị trường của năm nước lớn nhất sau Mỹ và an toàn vì có thanh khoản cao, tức là khi cần rút ra để lấy về tiền mặt thì rất nhanh và dễ. Nhìn cách khác, nếu có tài sản mà muốn lưu giữ dưới dạng ngoại tệ, ta có thể chọn đồng Euro, đồng Yen Nhật, đồng Anh kim hay Phật lăng Thụy Sĩ, v.v…. Trong số này, nhiều đồng bạc có khi vững giá hơn Mỹ kim, nhưng thị trường lại quá nông và hẹp, thí dụ như nếu rút ra 100 tỷ là gây chấn động và có khi bị lỗ nặng.
Sau cùng cũng cần nói thêm chuyện “bụt chùa nhà không thiêng”. Người ta cứ ca tụng kinh tế Trung Quốc, nhưng nếu đầu tư vào thị trường ấy mà an toàn và có lời thì tại sao Bắc Kinh phải gửi tiền qua biển cho Mỹ vay?
Vũ Hoàng: Từ lĩnh vực tài chính ta bước qua lĩnh vực ngoại thương. Thưa ông, nếu kinh tế của Trung Quốc lệ thuộc vào Hoa Kỳ thì tại sao nước Mỹ cứ bị nhập siêu, tức là nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, khi mua bán với Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Quả thật là nước Mỹ có gặp vấn đề ấy, nhưng nó được khuếch đại và gây ấn tượng sai lạc, có khi là với chủ đích chính trị mà truyền thông không hiểu rõ. Một lối nhìn khác là ta nên thấy ra mối lo của Bắc Kinh khi kinh tế mắc bệnh nghiện xuất khẩu!
Hoa Kỳ có một nhược điểm kinh tế mà lại là ưu điểm xã hội là có mức tiêu thụ quá cao, tới 70% Tổng sản lượng GDP. Tôi nói là ưu điểm xã hội vì cho thấy tư thế và khả năng chọn lựa của người dân, là điều Trung Quốc không có vì tiêu thụ bị đè nén và giảm dần từ nhiều năm qua.
Thế dân Mỹ tiêu thụ những gì? Họ chủ yếu mua hàng hóa và dịch vụ của Mỹ, xin tính tròn cho dễ nhớ là tới 88% tổng số tiêu thụ là của nội địa, chỉ có 12% là nhập từ ngoài, trong số này nhiều sản phẩm lại do doanh nghiệp Mỹ góp phần làm ra và xuất ngược về Mỹ. Nghĩa là chỉ có 12% thị trường tiêu thụ của Mỹ mà lại là nguồn sống cho rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Vũ Hoàng: Ông vừa nói trong số hàng nhập vào Mỹ lại có nhiều sản phẩm do doanh nghiệp Mỹ chế tạo từ bên ngoài, thí dụ như tại Trung Quốc, nên có thể kiếm lời ngay từ gốc. Phải chăng, con số gọi là nhập siêu của Mỹ với Trung Quốc thật ra lại không nặng như vậy.
Người ta cứ ca tụng kinh tế Trung Quốc, nhưng nếu đầu tư vào thị trường ấy mà an toàn và có lời thì tại sao Bắc Kinh phải gửi tiền qua biển cho Mỹ vay?Nguyễn-Xuân Nghĩa: Cho dễ nhớ thì tôi xin nêu vài thí dụ.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Thứ nhất là trong số hàng tiêu thụ nhập vào Mỹ, chỉ có gần 3% là đến từ Trung Quốc, bên trong thì hơn phân nửa là do công ty Mỹ nắm lấy từ khi hàng cập bến bên Tầu, chở qua đây bán cho nhà tiêu thụ cuối cùng ở Mỹ. Nói nôm na thì khi mua một đô là hàng “Made in China“, dân Mỹ chi 55 xu cho người Mỹ tại Mỹ đã. Mà 45 xu kia cũng chẳng lọt hết vào tay Trung Quốc. Thí dụ kia từ một kinh tế gia của Ngân hàng Dự trữ Mỹ tại Dallas sẽ làm rõ ra điều ấy.
Giả dụ như tôi bỏ ra 500 đô la để mua tại Cali một cái iPhone ráp chế bên Tầu. Về nhà tìm hiểu thêm mới biết là để có món hàng loại sang gọi là “Made in China” thì Trung Quốc phải mua bộ nhớ và âm thanh của Mỹ mất 11 đồng, mua linh kiện xử lý và thu hình từ các xứ khác mất 162 đô la, tổng cộng là mất 173 đô la. Rồi tốn thêm bảy đồng ráp chế trước khi bán qua Mỹ được 180 đồng. Các doanh nghiệp Mỹ tốn 180 đồng để mua một sản phẩm ráp chế bên Tầu rồi tính thêm chi phí này nọ trước khi bán cho tôi lấy 500 đồng.
Từ nghiệp vụ ấy, bà nhân viên Bộ Thương Mại Hoa Kỳ thì bấm máy ghi rằng Mỹ bán hàng vặt cho Tầu được có 11 đồng mà mua của Tầu 180 đồng nên bị nhập siêu mất 169 đồng! Đó là 162 đồng do Trung Quốc bỏ ra để mua linh kiện từ xứ khác, cộng thêm bảy đồng ráp chế. Trong khi ấy, cô bí thư tại Bắc Kinh lè lưỡi ghi bằng bút chì phần đóng góp của Trung Quốc cho dự án iPhone đó là vỏn vẹn có bảy đồng!
Vũ Hoàng: Qua mấy con số rất vui đó thì có lẽ ta thấy sức nặng ngoại thương của Trung Quốc với Mỹ thật ra không nặng như người ta thường nghĩ! Thưa ông, có phải vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi tin là lãnh đạo Bắc Kinh ý thức được nhược điểm bên trong mà chưa thể cải sửa hay cải tiến được. Họ tự khoe là công xưởng toàn cầu, thực ra thì bán hai chục triệu cái áo hay chục triệu đôi giầy mới đủ tiền mua một máy bay Boeing. Mà loại sản phẩm ráp chế như giày dép áo quần, hay cả máy điện thoại loại khôn thì doanh nghiệp Mỹ có thể làm hoặc mua của xứ khác, chứ Trung Quốc không có nhiều chọn lựa khi phải mua máy bay.
Ta thấy ra sự khác biệt của nền kinh tế khi Hoa Kỳ, hay Âu Châu, Nhật Bản và cả Nam Hàn đã tiến tới hình tháí hậu công nghiệp với trị giá gia tăng rất cao của dịch vụ và trí tuệ mà Trung Quốc mới chỉ đi vào lĩnh vực chế biến ở ngọn chứ không có gốc. Cũng vì vậy nên Bắc Kinh cố đi tắt bằng thủ đoạn ăn cắp sản phẩm trí tuệ và bí mật kỹ thuật của xứ khác, mà vẫn không xong.
Vũ Hoàng: Bây giờ thì có lẽ thính giả của chúng ta hiểu ra nghịch lý mà ông nói là kinh tế Trung Quốc ở vào tình trạng “Mỹ thuộc”. Kết luận của ông là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Kinh tế Hoa Kỳ và cả Âu Châu nữa có nội lực riêng nên ít lệ thuộc vào xuất nhập cảng, tức là ít lệ thuộc vào xứ khác. Kinh tế Trung Quốc thì lệ thuộc vào xuất cảng đến gần phân nửa, tức là gấp đôi Hoa Kỳ và thực tế thì nằm trong vòng kiềm tỏa của Mỹ. Chuyện phũ phàng ấy, lãnh đạo Bắc Kinh có biết và cũng muốn thoát mà không xong. Với khối dự trữ ngoại tệ khổng lồ, họ được cái danh hão để hù dân là trở thành chủ nợ của nước Mỹ với một ngàn hai trăm tỷ Công khố phiếu Hoa Kỳ ở trong tay. Thật ra, họ cứ nơm nớp lo là khoản tài sản đó mất giá. Bây giờ còn lo thêm là vì nội tình bất ổn, và nhân công có tay nghề thì ít nên cứ đòi tăng lương làm cho giới đầu tư sẽ tìm xứ khác làm ăn. Tôi nghĩ lãnh đạo Bắc Kinh muốn “Thoát Mỹ” mà không nổi!
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi hữu ích này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét