Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Ông Hà Đức Toại, cựu Phó Bí thư Tỉnh ủy, cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn và khối bất động sản “khủng” ở thị xã Bắc Kạn?

Ông Hà Đức Toại, cựu Phó Bí thư Tỉnh ủy, cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn và khối bất động sản “khủng” ở thị xã Bắc Kạn?

Người Cao Tuổi

KS 1
Nhiều cán bộ và người dân coi ông Hà Đức Toại là “người hùng” một thời ở tỉnh Bắc Kạn. Ông cũng nổi tiếng với các biểu hiện vi phạm kỉ luật Đảng, coi thường kỉ cương phép nước, những “quyết đáp” đầy uẩn khúc trong chia chác đất công, ban phát quyền khai thác các mỏ khoáng sản, bỏ qua các quy định trong quản lí đầu tư xây dựng cơ bản… sống và hành xử như một “ông vua” ở vùng cao. Với những “thành tích bất hảo” kể trên, ngày 17/4/2007, ông Hà Đức Toại đã bị Thủ tướng Chính phủ kí quyết định kỉ luật với hình thức khiển trách. Tại Hội nghị chuyên đề ngày 16/4/2008, ông Hà Đức Toại bị Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Kạn miễn nhiệm chức danh Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn với số phiếu gần như tuyệt đối (41/42 phiếu) và ai cũng biết, lá phiếu không tán thành duy nhất là của chính ông Hà Đức Toại.

Lí do để Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Kạn bãi nhiệm chức danh Chủ tịch UBND tỉnh của ông Hà Đức Toại xin được tóm tắt như sau: “Từ năm 2006, với cương vị là Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn, ông Hà Đức Toại đã thiếu trách nhiệm trong việc lãnh đạo Ban Cán sự Đảng, UBND tỉnh thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Bộ Chính trị. Chưa chủ động tổ chức và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quy chế làm việc của Ban Cán sự Đảng, làm hạn chế vai trò lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng đối với UBND tỉnh. Buông lỏng và coi nhẹ sự lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đôn đốc các cơ quan chức năng tham mưu giải quyết dứt điểm các vụ vi phạm trong quản lí, sử dụng đất đai trên địa bàn thị xã Bắc Kạn và vi phạm trong đầu tư xây dựng khu dân cư thị xã. Thiếu nhất quán trong chỉ đạo UBND tỉnh giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực khai thác khoáng sản. Vi phạm Luật Khoáng sản và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, vi phạm quy chế làm việc của Ban Cán sự Đảng và quy chế làm việc của UBND tỉnh trong việc kí một số quyết định cho phép và gia hạn trong khai thác tận thu khoáng sản…, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân…”.caphe 1
Sau khi bị bãi nhiệm chức danh Chủ tịch UBND tỉnh, ông Hà Đức Toại tiếp tục “tại vị” chức danh Phó Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn một thời gian rồi “hạ cánh an toàn”…
Có điều (rất giống với trường hợp ông Trần Văn Truyền, cựu Tổng Thanh tra Chính phủ), sau khi “hạ cánh an toàn”, ông Hà Đức Toại tiếp tục giữ vững danh hiệu “người hùng” trong giới thượng lưu ở thị xã Bắc Kạn bởi lúc này, hàng loạt “của chìm” mới được ông và vợ, con ông phô phang thành “của nổi”, mặc những lời đàm tiếu, thắc mắc, thậm chí cả tố cáo của không ít cán bộ, đảng viên và nhân dân thị xã Bắc Kạn. Báo Người cao tuổi xin công khai một số trong rất nhiều (dư luận cho rằng ông Toại có thể có đến hàng chục) bất động sản tại các vị trí đắc địa vào hạng nhất, nhì thị xã Bắc Kạn, nhưng tập trung nhất chỉ nêu 3 “dự án gia đình” của ông ở phường Đức Xuân, thị xã Bắc Kạn.dat 1
Ảnh 1: Khách sạn Anh Thư (tên con dâu cả ông Hà Đức Toại), rộng hàng trăm mét vuông (3 lô đất), xây cao 8 tầng với hàng chục phòng ăn, nghỉ, hội họp có các trang, thiết bị hiện đại đắt tiền, nằm tại ngã ba 2 trục đường chính là đường Kon Tum (đường tránh đi Cao Bằng) và đường 2 chiều Trần Hưng Đạo, đối diện bến xe Bắc Kạn, thuộc tổ 11 phường Đức Xuân, TX Bắc Kạn.
Ảnh 2: Quán cà-phê kiêm Ka-ra-ô-kê “Không gian 68″ cũng rộng hàng trăm mét vuông, gồm 3 lô đất liền kề mang các số 33, 35, 37 trên trục đường hai chiều Trần Hưng Đạo, đối diện chợ Đức Xuân, một trung tâm thương mại sầm uất nhất thị xã Bắc Kạn và chỉ cách khách sạn Anh Thư vài trăm mét.
Ảnh 3: Vẫn nằm trên địa bàn phường Đức Xuân, là 4 lô đất thông nhau (gồm 2 lô số 95, 97 mặt tiền) đường Nguyễn Văn Khoát nối thông 2 lô mặt đường nội bộ phía sau đối diện tổ 13 phường Đức Xuân (4 lô đất dự trữ này mới dựng nhà tạm, sử dụng làm kho chứa hàng). Theo dư luận thì có thể ông Toại còn cả chục lô đất khác trên địa bàn thị xã Bắc Kạn, nhưng chắc chắn không đứng tên “chính chủ” là ông Hà Đức Toại.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết Trung ương 4 (KhóaXI) nêu rõ “một bộ phận không nhỏ”… song rất ít có tổ chức Đảng các cấp tìm ra, chỉ ra được “bộ phận” này. Báo Người cao tuổi trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số “gương mặt điển hình” như ông Trần Văn Truyền (cựu Tổng TTCP), ông Ngô Văn Khánh (Phó Tổng TTCP), ông Lê Sĩ Bảy (Vụ trưởng Vụ I Thanh tra Chính phủ) và trang Thư giãn cuối tuần trong số báo này là ông Hà Đức Toại, cựu Phó Bí thư Tỉnh ủy, cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn để bạn đọc tham khảo và các cấp lãnh đạo xem xét, xử lí…
 Bài và ảnh Ngân Hà

Công nhân người Việt “ê mặt” trước cảnh báo của công ty Nhật

http://soha.vn/cu-dan-mang/cong-nhan-nguoi-viet-e-mat-truoc-canh-bao-cua-cong-ty-nhat-20140329153857533.htm

Công Luận – theo Trí Thức Trẻ
(Soha.vn) – Sau vụ việc của nữ tiếp viên Nguyễn Bích Ngọc, hình ảnh của người Việt một lần nữa lại trở nên xấu xí hơn trong mắt người nước ngoài.

Trong những ngày gần đây, thông tin liên quan đến vụ việc nữ tiếp viên hàng không VietNam Airlines bị cơ quan điều tra Nhật bắt giữ vì cáo buộc vận chuyển đồ ăn cắp đang được rất nhiều người quan tâm. Tuy không phải là người có lỗi nhưng chắc chắn sự việc này cũng gây ảnh hưởng nhất định tới những người dân Việt Nam đang công tác hoặc du lịch tại nước ngoài.
Mới đây, một thông báo được cho là của công ty MKO thuộc Nghiệp đoàn Osaka Com gửi tới các Thực tập sinh và Kỹ sư người Việt lại khiến dân mạng xôn xao.
Công nhân người Việt "ê mặt" trước cảnh báo của công ty Nhật
Tờ giấy thông báo được ghi bằng hai ngôn ngữ tiếng Nhật và tiếng Việt. Trong nội dung được in bằng tiếng Việt ghi rõ:
Những ngày vừa qua, tin một tiếp viên hàng không Việt Nam bị bắt vì liên quan đến việc vận chuyển  [hàng ăn cắp] đã được loan báo rộng rãi trên báo chí, truyền hình Nhật Bản.
Qua sự kiện này, người Việt Nam sẽ bị đánh giá thấp vì đã làm mất danh dự. Các bạn đang làm việc tại Nhật không nhiều thì ít sẽ bị ảnh hưởng.
Do đó, các bạn cần chú ý những điều sau đây:
  1. 1.Khi đi mua sắm, chỉ mang ví tiền, không nên mang đồ đạc lỉnh kỉnh.
  2. 2.Không có hành động gây nghi ngờ.
  3. 3.Không có hành động tập trung ở các nơi mua sắm v.v…
Ngoài ra cũng cần chú ý đến những dù xét chung quanh mình.
Các bạn làm việc tốt trong công ty sẽ tạo được sự tin tưởng; do đó hãy tự hào về những hành động tốt của mình để tiếp tục làm việc”.
Khi đọc được thông báo được cho là của công ty bên Nhật soạn, không ít dân mạng tại Việt Nam cảm thấy hổ thẹn. Bình luận về tờ thông báo, bạn Tony Hoàng cho biết: “Dù đúng hay thế nào thì các chị tiếp viên hàng không VNA đã đưa hình ảnh con người và đất nước Việt Nam lên tầm vóc quốc tế về sự… Các chị làm thế này để rồi được lên truyền hình Nhật Bản, đường đường là một nữ tiếp viên, hình ảnh đại diện của một quốc gia trong mỗi chuyến bay mà lại dính líu đến chuyện này. Người ta không ghét mới là lạ!”
Với giọng lưỡi đầy mỉa mai, bạn Nhâm Hoàng chua chát: “Cũng chỉ tại cái tính cần cù , chịu thương chịu khó của người Việt ta mà ra cả ! Đi đâu cũng thế, thấy cái gì cũng chịu khó nhặt nhạnh, ai hở cái gì ra là cất dùm. Haiz, khổ lắm cơ. Từ bây giờ, người Việt ở Nhật ai nấy cũng đều được biến thành thần tượng, đi đâu cũng được soi từ đầu đến chân”.
Bạn Kỳ Nguyễn, một người đang sinh sống và công tác tại Nhật cho biết: “Mình đang ở Tokyo nên biết 1 tháng qua rồi, tivi đăng tin người Việt Nam bị bắt là chuyện bình thường, mà chỉ có Việt Nam không à. Đi tàu điện, lúc đầu bình thường không sao, rút điện thoại ra đọc báo thấy mình người Việt, người Nhật tránh ra ngồi chỗ khác”.

Chuyện ly kỳ về “lá số tử vi” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu

Dường như số phận của cả một chế độ cũng ứng nghiệm hoàn toàn với lá số tử vi của người đứng đầu chế độ - ít nhất là trên những…giai thoại!

Đề cập đến sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền Sài Gòn, người ta lại thường gắn nó với vai trò của Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống thứ 3 nếu đếm ngược từ dưới lên. Hai người đi sau, Trần Văn Hương và Dương Văn Minh,thời gian làm "chủ nhân ông" tại Phủ Đầu Rồng chỉ tính bằng ngày, bằng giờ. Khi họ lên làm Tổng thống, miền Nam đã trong cơn hấp hối và không còn cơ hội để cứu vãn sự sụp đổ. Đó là "di sản" cay đắng mà họ được người tiền nhiệm Nguyễn Văn Thiệu miễn cưỡng trao lại.

Thật thú vị, dường như số phận của cả một chế độ cũng ứng nghiệm hoàn toàn với lá số tử vi của người đứng đầu chế độ - ít nhất là trên  những…giai thoại!

Ngày 29.9.2001, tại TP.Boston, bang Massachusetts, Mỹ, cựu Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu  đã hóa người thiên cổ. Đến dự đám tang của ông có nhiều cựu quan chức, tướng lĩnh quân đội Sài Gòn, trong  đó có Ngô Quang Trưởng, Phạm Quốc Thuần, Lê Minh Đảo, Đào Duy Ân, Mạch Văn Trường, Phan Hòa Hiệp, Lâm Ngươn Tánh, Trần Bá Di, Văn Thành Cao…, những người không chỉ là thuộc cấp mà còn từng là đồng ngũ lâu năm, hiểu Nguyễn Văn Thiệu rất rõ.

Họ đã hết sức ngạc nhiên vì trong cáo phó do gia đình soạn, ông Thiệu cầm tinh Quý Hợi, sinh ngày 5.4.1923. Điều này ngược hẳn với hiểu biết của họ, và cũng là hiểu  biết của số đông dân chúng miền Nam, rằng ông Thiệu cầm tinh Giáp Tý, sinh ngày 24/12/1924. Lá tử vi "tam trùng quý số" gồm sinh giờ Tý, tháng Tý và năm Tý của ông Thiệu một thời đã từng là đề tài tốn không ít  giấy mực của báo chí miền Nam.
 
 Nguyễn Văn Thiệu và Tổng thống Nixon

Nếu ngày sinh tháng đẻ này không đúng, sinh thời không được ông Thiệu công nhận, uống mật gấu cũng chẳng có "cao thủ"  nào trong giới bốc phệ, giới nhâm cầm độn toán hay anh ký giả ti toe nào dám công khai lên báo bàn tán nhăng cuội. Và nếu không đúng, chẳng lẽ suốt 10 năm ngự trị trên cương vị lãnh đạo chóp bu của miền Nam (1965-1975), ông Thiệu lại không hề đính chính, mặc cho thiên hạ bàn tán đủ  kiểu? Chưa hết, khai xuân năm Nhâm Tý 1972, ông Thiệu còn cho phép ba thầy Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn - những cao thủ trong nghề chiêm tinh, tử vi đẩu số và bói toán mà ông tin tưởng và ưu ái nhất lên đài truyền hình nói trước dân chúng về vận mạng quốc gia.

Lá tử vi quý số "tam Tý" của  vị tổng thống đương nhiệm lại được ba thầy tranh nhau nhắc đến, gắn "chân mạng đế vương" của người đứng đầu thể chế với "một nền hòa bình và vĩnh cửu, cho dân chúng miền Nam, đang đến rất gần". Nếu thế, cái tuổi Quý Hợi 1923 ghi trong cáo phó là lấy ở đâu ra?

Người ngoài có thể nhầm nhưng người thân trong gia đình của ông Thiệu thì tuyệt đối không thể nhầm. Đã có hơn một lần, vị cựu Tổng thống chính quyền Sài Gòn đã từng giải thích điều này. Trong hồi ký "Từ Tòa Bạch Ốc đến Dinh Độc Lập" xuất bản năm 1988, đã được in và phát hành trong nước, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên phụ tá kinh tế của Nguyễn Văn Thiệu thuật lại: Ông Thiệu cho biết, ngày sinh của ông là 5/4/1923. Khi ghi danh đi học, phải khai  giấy tờ, ông Thiệu không nhớ, lại không có người lớn trong gia đình ở bên cạnh để hỏi nên ông đã khai đại thành 24/12/1924, vì biết đó là ngày đẹp "Tý trùng", cộng với việc ông sinh giờ Tý để thành "Tam trùng" - "tam tý vi vương". Khai xong, ông mới có điều kiện hỏi lại để biết chính xác ngày sinh tháng đẻ của mình.

Nếu những gì viên tiến sĩ phụ tá nhớ lại là sự thật thì sự thật này chỉ hợp lý có… một nửa. Không như đa số người nghèo ở miền Trung hồi đầu thế kỷ XX, con  em sinh ra ít khi nhớ rõ ngày tháng thật, ông Thiệu sinh ra  trong một gia đình theo truyền thống Nho học. Nhà Thiệu ở làng Tri Thủy, xã Tri Hải, quận Thanh Hải, nhưng quê thì ở thôn Dư Khánh, xã Khánh Hải, (cách nhau một cửa biển hẹp), nay là thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, một vùng có cảnh quan khá đẹp.

Ông Nguyễn Văn Chung, thân sinh của Nguyễn Văn Thiệu là một nhân sĩ Nho học. Hai người anh lớn Nguyễn Văn Hiếu và Nguyễn Văn Kiểu cũng là trí thức, từng dạy học. Do đó, việc ông Thiệu có ngày  sinh tháng đẻ chính xác, có lá số tử vi chính xác là điều dễ hiểu và hợp lý. Tuy nhiên, ở tuổi học trò tiểu học, khó có thể tin là cậu bé Nguyễn Văn Thiệu đủ tri thức chọn một ngày sinh "quý số tam trùng" để "khai đại" cho đời mình. Nếu thế, ông Thiệu có thể được coi là một thầy tử vi đại tài, năng khiếu phát lộ từ tấm bé!

Ngày sinh 5.4.1923 chẳng ăn nhập gì đến yếu tố Tý, chính xác rơi vào ngày Mậu Thân, tháng Ất Mão, năm Quý Hợi. Người có lá số  này  "tuổi thơ nghèo khổ, ít học, nhưng khôn ngoan và ương ngạnh. Tuy háo sắc nhưng rất kín đáo để che giấu tình cảm. Là người có vóc dáng thanh tú, điềm đạm, thông minh, mưu trí và nhất là biết chụp thời cơ. Có khiếu về văn nghệ và ngoại ngữ, lấy vợ sớm và phải có người mai mối". Về tính cách, "đây là người ôn hòa, mềm mỏng, đa nghi, có nhiều mưu trí. Suốt cả cuộc đời đều được yên thân và hưởng giàu có sau 33 tuổi. Khuyết điểm của người tuổi này là: chủ quan, liều lĩnh, thô bạo, nóng nảy...".

Tử vi Tây phương cho tuổi Quý Hợi (1923) xác định ông Thiệu tuổi Miên Dương (Aries), mang các đặc điểm: "Mạng Hỏa tinh (Mars, thần Chiến tranh),  là người nghị lực, rất can cường, tự tin, cá tính độc lập, có tài lãnh đạo nhưng độc tài, hiếu thắng và liều lĩnh. Mạng hỏa  nên rất có uy quyền, óc sáng tạo, có tài ngoại giao nhờ ăn nói bặt thiệp. Người tuổi này hợp với việc điều binh, khiển tướng...".

Quả thật, ông Thiệu mồ côi cha từ năm 11 tuổi, tuổi thơ khá vất vả. Học xong lớp 9, Nguyễn Văn Thiệu rời quê vào Sài Gòn, tá túc tại nhà người anh cả là Nguyễn Văn Hiếu (thời đệ nhị Cộng hòa là đại sứ VNCH tại Italia) để học nghề ở Trường Kỹ thuật Đỗ Hữu Vị. Sau đó, ông Thiệu được người anh này giúp đưa vào học trường dòng của Pellerin của Pháp tại Huế. Sau năm 1945, ông  vào Sài Gòn nhờ ông Nguyễn Văn Hiếu xin cho học trường Hàng hải.

Nguyễn Văn Thiệu quả thật có duyên với đường binh nghiệp và thăng tiến rất nhanh. Pháp chủ trương "Việt Nam hóa chiến tranh", hà hơi tiếp sức cho Bảo Đại lập nên cái gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam, Thiệu ghi tên vào học khóa sĩ quan khinh quân đầu tiên và trở thành thiếu úy trong Quân đội Liên hiệp Pháp vào năm 1949.

Năm 1955, Quân đội VNCH được thành lập, Nguyễn Văn Thiệu đã đeo lon trung tá, giữ chức Chỉ huy trưởng Trường Võ bị Đà Lạt. Lúc này ông Thiệu 33 tuổi, theo tuổi âm. Không lâu sau đó, ông ta lại được Ngô Đình Diệm thăng hàm đại tá, cất nhắc vào vị trí Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, thay cho Đại tá Woòng A Sáng, một tay chỉ huy thiện chiến nhưng bất trị mà Diệm luôn nghi ngại. 
Nguyễn Văn Thiệu và vợ
Năm 1951, Thiệu cưới vợ, bà Nguyễn Thị Mai Anh, con gái một gia đình Công giáo toàn tòng ở Mỹ Tho, Tiền Giang. Do đó, năm 1957, Nguyễn Văn Thiệu được rửa tội và trở thành tín đồ Thiên Chúa giáo. Mai mối cho cuộc hôn nhân là Đặng Văn Quang, một người  bạn đồng ngũ. Bà Mai Anh là cháu họ của Đặng Văn Quang. Khi Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng thống, Đặng Văn Quang đeo lon trung tướng, được Thiệu mời làm Cố vấn Tổng thống về quân sự, Phụ tá An ninh và Tình báo Quốc gia, Tổng thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia, trở thành người có quyền lực hàng thứ 4 trong hàng  ngũ quyền lực cao nhất  ở  miền Nam.


Nguyễn Văn Thiệu quả thật  rất có  khiếu ngoại ngữ. Thời đi học, vốn tiếng Pháp của ông không tồi. Tiếng Anh, ông ta chỉ học qua các phụ tá của  mình, không theo lớp nhưng rất giỏi. Trong hồi ký "Từ Tòa Bạch Ốc đến Dinh Độc lập", tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến chuyện  ngày 8.6.1969, trong cuộc gặp thượng đỉnh với Tổng thống Mỹ R. Nixon tại đảo Midway ở Thái Bình Dương để bàn về vấn đề Việt Nam hóa chiến tranh, Nguyễn Văn Thiệu đã tranh luận trực tiếp bằng tiếng Anh trong 8 giờ liền mà không cần phiên dịch.

Riêng về chuyện "háo sắc nhưng rất kín đáo để che giấu tình cảm" của ông thì trước năm 1975, báo chí đối  lập đã phanh phui khá nhiều, với người dân miền Nam thời đó đã không còn là chuyện lạ. Ngoài ra, ông còn là người có  năng khiếu văn nghệ, từng tham gia thủ trống biểu diễn trong một cuộc giao lưu với Hướng đạo sinh tại Suối Tiên vào năm 1972…

Tuy nhiên, Đại tá Đỗ Mậu, nguyên Giám đốc Nha An ninh Quân đội thì luôn tin rằng Nguyễn Văn Thiệu sinh vào nửa đêm (giờ Tý) ngày 24.12.1924, tức ngày 28.11 âm lịch, nhằm vào ngày Đinh Sửu, tháng Bính Tý của năm Giáp Tý. Đỗ Mậu là  người rất am tường khoa "Tử vi đẩu số". Theo ông, Nguyễn Văn Thiệu không chỉ "trùng tam Tý" mà còn "trùng tứ Tý".  Trong hồi ký "Việt Nam máu lửa quê hương tôi" (được in  trong nước dưới tựa "Tâm sự tướng lưu vong" - NXB Công an nhân dân 1994), ông viết: "Thiệu sinh tuổi Giáp Tý (1924), sinh vào giờ Tý (nửa đêm), tháng Tý (tháng 11 Âm lịch) và cung Mệnh Viên cũng nằm ở Tý.

Lại nữa, mệnh của Thiệu là mệnh Kim mà lại nằm vào cung Thủy là đắc cách. Năm 1965, khi Thiệu đúng 41 tuổi đi vào cung Thổ, mà Thổ lại sinh Kim, lại gặp Khoa, Quyền, Lộc, Binh, Hình, Tướng, Ấn hội chiếu là thượng cách, vì thế Thiệu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, rồi sau đó lên chức Tổng thống. Vì cung Phúc Đức là gốc của lá số cho nên tuy hết làm Tổng thống mà Thiệu vẫn được thụ hưởng giàu sang, an nhàn cho đến năm 1985, nghĩa là vào hạn Chính Hòa ở cung Ngọ".
Ông Trần Đại Sỹ, đã "thú nhận" rằng đã nhắm mắt chấm cho Nguyễn Văn Thiệu lá sổ tử vi... đế vương

Khi nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm, Sư đoàn 5 do Thiệu chỉ huy vẫn đóng ở Biên Hòa. Khi có sự cố, đó chính là đơn vị có thể điều quân cơ động, nhanh chóng nhất về Sài Gòn, cho dù là để tấn công hay phòng thủ, giải vây. Nhóm tướng lĩnh đảo chính đã tìm đủ cách để lôi kéo Nguyễn Văn Thiệu tham gia vào âm mưu, chí ít cũng là án binh bất động không can thiệp, để đề phòng bất trắc. Đại tá Đỗ Mậu, một trong những "công trình sư" chủ chốt của âm mưu  đảo chính anh em Diệm - Nhu đã trực tiếp đứng ra lo liệu việc lôi kéo Nguyễn Văn Thiệu.

Biết viên tư lệnh trẻ là người nặng đầu óc mê tín, rất tin vào tướng số, Đỗ Mậu đã đút tiền cho thầy chiêm tinh Huỳnh Liên trên đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần), người được mệnh danh là Quỷ Cốc tiên sinh để tay này "vẽ bùa"  Nguyễn Văn Thiệu, do chính Đỗ Mậu dắt tới. Quỷ Cốc tại thế phán: "Thầy cầm tinh Giáp Tý, năm Quý Mão (1963) tất gặp chông gai. Thầy phải đích thân đứng ra đẩy bật tảng đá chắn đường mình đi, nếu không thì mạng vận của thầy sẽ bị tảng đá này đè nát".

Thiệu tin sái cổ. Quỷ Cốc tiên sinh còn phán thêm: "Số phần đã vạch, thầy chớ có nhị tâm mà rước họa vào thân, chết không toàn mạng". Theo yêu cầu của thầy tướng số - mà kỳ thực là yêu cầu của chính Đỗ Mậu - Nguyễn Văn Thiệu đã líu ríu thề độc sẽ theo phe đảo chính, chính thức ký tên vào danh sách những kẻ sẽ nhúng tay vào máu anh em Ngô Đình Diệm.

Một nguồn thông tin khác lại cho rằng, tuổi "Tý trùng" của Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn là bịp bợm. Người ngụy tạo ra nó là một bác sĩ, nhân viên tình báo thời đệ nhất Cộng hòa tên là Trần Đại Sỹ, ông này từng sắm vai ký giả, ký bút danh Trần Hoàng Quân, từng là trưởng nhóm nghiên cứu Tử Vi Đông A. Việc ngụy tạo được tiến hành theo đơn đặt hàng của dược sĩ Nguyễn Cao Thăng trước khi đảo chính anh em Diệm nổ ra.

Sau này, sống lưu vong tại Pháp, ông Trần Đại Sỹ có xuất bản cuốn "Tử Vi cho tuổi Tý", không tiếc lời mạt sát lá số thật của Nguyễn Văn Thiệu. Ông ta cũng xin lỗi các "cao thủ" khác trong nghề "xủ quẻ" và thú nhận thời trẻ nông nổi, ham danh lợi nên ông ta đã làm bậy, nhắm mắt chấm cho Nguyễn Văn Thiệu một lá số có mạng đế vương!

Điều kỳ lạ là sau này, Nguyễn Văn Thiệu lại tuyệt đối tin rằng ông ta có chân mạng "tứ Tý quý trùng", nhất nhất xây dựng cơ đồ quyền lực trên nền tảng của một trò bịp bợm!
Theo Kiến Thức
 

Có gì “đồng thanh tương ứng” giữa người tù đang cận kề bên cái chết và trang Bauxite Việt Nam?

 Boxitvn

Nguyễn Huệ Chi
Đọc bài viết “Ba ngàn chữ ký” của Facebooker Lưu Gia Lạc ngày 27-3-2014 khiến tôi sững sờ. Mỗi dòng chữ xúc động của tác giả phơi trải một sự thật phũ phàng làm cho trái tim bất kỳ ai cũng phải đau thắt. Huống nữa là tôi, một trong ba sáng lập viên và là người chủ trì trang Bauxite Việt Nam trong gần suốt 5 năm. Hôm nay, vào lại đường link bài viết đó thì người viết đã rút bài xuống. Ngạc nhiên, không hiểu vì lý do gì, tôi đành đi tìm những thông tin xung quanh thầy giáo Đinh Đăng Định, người ký tên vào bản Kiến nghị Bauxite đợt 4 với số thứ tự 679, lật giở lại một số bài viết cáo buộc ông trên các loại báo chính thống, mới hay tội danh đích thực bao trùm nhất người ta quy cho ông chung quy vẫn là việc ông phản đối Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Còn những tội khác như “móc nối với các phần tử, tổ chức phản động trong và ngoài nước để xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước” (Người lao động 21/2/2012), “đòi đa nguyên đa đảng, phi chính trị hóa lực lượng CA, quân đội và đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam” (Công an Đà Nẵng, 21/2/2012), v.v. thì cứ đọc vào bản cáo trạng dành cho bất kỳ người dân Việt nào có ý thức ít nhiều về quyền tự do dân chủ của công dân, từng bị cơ quan chức năng khởi tố và kết án tù, cũng đều thấy câu chữ na ná tuồng như cóp lại của nhau kể cả về câu chữ, cho đến cái chấm phẩy, hay cách dùng những trạng ngữ “chặt chém”. Thế thì, dẫu có rút xuống khỏi trang facebook, trước sau cái giá trị thông báo trong bài viết của người ký tên Lưu Gia Lạc vẫn cứ còn nguyên. Giá trị thông báo ấy không phải là ở sự định lượng – một con số ba ngàn chữ ký đã chính xác hay chưa, thậm chí không có nghìn nào cả cũng vẫn không sao hết – bởi tinh thần cốt lõi mà tác giả tóm bắt được trên gương mặt Đinh Đăng Định là cái thái độ quyết liệt không đồng tình với một kế hoạch đào bới quặng mỏ tại một vùng đất mà kéo theo nó là hàng chục thứ hệ lụy tày đình, do chính người Tàu bày đặt ra và mớm ép, bắt Việt Nam thi hành.

Thì ra, vào tháng Tư năm 2009, khi ba anh em chúng tôi, Phạm Toàn, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Thế Hùng đang căng đầu phấp phỏng tính toán với nhau về một hình thức đấu tranh sao cho hiệu quả – để không đến nỗi không được ai nghe, trở thành vô duyên, cũng không đến nỗi rước lấy tai họa “sứt đầu bươu trán” – nhằm phản bác lại Dự án Bauxite Tây Nguyên mà viên Tổng bí thư của đảng cộng sản thuở ấy mang từ nước Tàu về như một quả bom hẹn giờ thẩy vào “sân” Nhà nước – mà Nhà nước thì cố nhiên ngồi trên đầu hơn 85 triệu dân chúng Việt Nam – và được cả một bộ máy đảng răm rắp tuân theo, lại được ông Chủ tịch Quốc hội bấy giờ đặc biệt “ưu ái” cho lách luật bằng cách băm chặt thành nhiều khúc để ngân sách từng hạng mục nằm dưới mức phải đưa ra thông qua ở Quốc hội, trong khi đó thì ông Phó thủ tướng (mà nay đã “đổi ngôi” giữ chức Chủ tịch Quốc hội) đứng giữa diễn đàn Quốc hội bặm miệng giơ tay chém chém vào không khí mà nói: “Bô xít không thể không làm!”, đến nỗi những lá thư phản đối kiên trì của Võ Đại tướng cũng như nhiều bản thỉnh nguyện của các bậc trí thức công thần liên tiếp gửi lên các vị cầm chịch tối cao đều chẳng ăn nhằm gì; đúng giữa cái lúc tình hình oi ngột như thế thì rải rác khắp nơi trên đất nước từ Nam chí Bắc, ít nhất cũng có hàng chục, chưa nói có thể hàng trăm, tấm lòng thao thức vì sự mất còn của dân tộc trước đại họa tiềm tàng này, cũng đang ngày đêm trăn trở, giằng xé không nguôi, trong đó có thầy giáo Đinh Đăng Định.
Và rồi các kiến nghị dừng Dự án bauxite Tây Nguyên 1, 2, 3, 4, 5… đã lần lượt tung ra, như những tiếng chuông mạnh gióng lên trong dư luận, khởi sự từ đầu tháng Năm, liên tục kéo dài cho đến cuối năm 2009 (và cả năm 2010), cùng lúc với sự xuất hiện trang blog, kế đấy là trang mạng Bauxite Việt Nam, được người Việt khắp trong và ngoài nước nhiệt liệt hưởng ứng, tạo nên một không khí phấn động lạ thường. Việc ký tên vào Kiến nghị, từ chỗ là một việc còn lạ lẫm ngỡ ngàng, xét về mặt tâm lý tiếp nhận, kể cả một chút sợ hãi vô hình phảng phất đâu đó như một ám ảnh, đã nhanh chóng chuyển thành thói quen, một việc làm đàng hoàng chính đáng, làm người ta trở nên bạo dạn. Người ký tên mỗi đợt có lúc lên đến con số nghìn. Các trang mạng bè bạn vì thế cũng bạo hẳn lên với những lời lẽ châm biếm sát sườn, chua cay, chỉ trích thẳng thắn bất kỳ hành vi nào của những kẻ cứ khăng khăng bám víu vào hàng loạt con số tính toán trên giấy để bênh che cho cái Dự án mà ai có lương tri cũng biết là việc đùa với lửa vô cùng dại dột. Thậm chí khi một nhân vật như Lê Dương Quang đại điện cho TKV ra giữa Quốc hội lớn tiếng nhục mạ những người trí thức ký tên vào Kiến nghị, rằng họ đã “ăn phải bả của thế lực thù địch” thì ông ta chỉ chuốc lấy những tai tiếng tày đình vì chính hành vi “ăn có nói không” của mình. Có thể nói một phong trào dân sự bắt đầu dấy lên từ đây, trên một đất nước suốt hàng bao nhiêu năm vốn chỉ biết cúi đầu vâng lệnh “đảng quang vinh”.
Về phía những người xướng xuất Kiến nghị, phải nói cũng đã trải qua nhiều chặng biến thái tâm trạng khác nhau. Nỗi lo lắng buổi đầu tiên đón đợi phản hồi của dư luận là một hồi hộp khôn tả. Tôi còn nhớ đã phải canh giờ chờ đợi VTDH từ Paris gọi điện về báo tin chị đã liên lạc được với GS Trần Văn Khê để cho tôi nói chuyện trực tiếp với ông, trong bụng đang không thật tự tin bỗng thở phào sung sướng khi đầu dây bên kia vị GS già cất tiếng nhận lời ký tên. Và khi con số người ký mỗi ngày một tăng, mỗi đợt lại có thêm hàng trăm người mới xin ghi danh, và hàng ngày cả ba sáng lập viên đều nhận rất nhiều thư điện tử phản hồi cổ vũ, thì chúng tôi bỗng trở nên vững bụng hơn, có khi chuyển từ trạng thái căng thẳng ban đầu sang cái thái cực gọi là lạc quan tếu nữa, vì nghĩ rằng thế nào thì ông đảng và ông nhà nước cũng sẽ phải thột tỉnh trước “cánh chim báo bão”, sẽ lắng nghe và chấp nhận tiếng nói của “lòng dân”. Trong vòng 4 tháng tính từ đầu tháng Năm 2009, Kiến nghị bauxite đúng là “diều gặp gió” cứ thế mà bay lên.
Chúng tôi lạc quan đến mức vào cuối thu 2009, cả một dải miền Trung đất nước gặp “bão dồn lũ dập”, anh em đã hăng hái bàn nhau cho phát ngay lên mạng lời kêu gọi quyên góp tiền bạc nhằm tổ chức cứu trợ lụt bão. Và sau khi nhận được một khoản kinh phí khá lớn trong một thời gian tương đối ngắn, trong đó người đóng góp lớn nhất và tích cực nhất là TS. Phùng Liên Đoàn – ông đóng dôi ra cho chúng tôi đủ tiền đi lại – chúng tôi liền lập hai đoàn cứu trợ xuất hành cách nhau chưa đầy một tháng, với sự giúp đỡ tận tình của anh em trí thức Đà Nẵng, lần thứ nhất vào đến Phú Yên, ra cả đảo Lý Sơn và lần thứ hai lên đến tận Tumơrông Tây Nguyên.
Ở bất kỳ nơi nào chúng tôi tìm đến, người dân cũng bộc lộ những tình cảm đôn hậu, chân thành. Tôi không thể nào quên được cái ngày chạy xe một mạch từ Đà Nẵng vào Phú Yên, phát được cho 12 gia đình thì trời tối phải quay ra. Nhưng khi xe vừa ngang qua cổng Ủy ban xã thì một người chạy bổ từ trong sân ra chắn ngay trước xe. Mở cửa bước xuống là một bộ mặt đen thủi, gầy tọp, râu ria tua tủa, đứng đối diện với tôi. “Em là Chủ tịch xã đây. Chỉ có một yêu cầu. Mai các anh chị thế nào cũng quay lại. Vì chỉ mới được có bằng nấy gia đình. Bao nhiêu người sập hết nhà và chết người nữa, chưa có gì ngoài mấy ký mì và chai nước mắm của một đoàn đến trước. Không quay lại thì dân họ xé thịt em ra”. Nghe lời nói thẳng tuột của anh, chúng tôi không thể không thay đổi chương trình, nhận lời thêm vào lịch trợ cứu cho Phú Yên một ngày nữa. Nhưng trước khi ra nhà trọ còn được nghe thêm anh Chủ tịch xã phơi bày gan ruột – nghe mà không hết ngạc nhiên, cảm động: “Em trông già sụm thế này nhưng mới xấp xỉ 30 thôi đấy. Thức trắng từ hôm nước tràn về đến nay. Mới tốt nghiệp Đại học Kinh tế tại Sài Gòn được mấy năm. Đại học chính quy hẳn hoi”. Hôm sau y hẹn, chúng tôi quay lại phát khắp lượt bà con trong xã của anh, trong đó có một gia đình phải đến tận nơi theo lời yêu cầu của anh Chủ tịch – để hiểu được người ta đang phải chịu đựng mất mát như thế nào. Gia đình này có hai vợ chồng trẻ mà chồng còn mếu máo được vài câu, còn vợ thì cứ ngồi ngây ra không nói không rằng, nhìn chúng tôi trừng trừng. Hỏi ra mới biết vì đập thủy điện xả van nên nước ập về nhanh quá, gia đình có hai con một trai một gái vội đẩy con lên bàn còn vợ chồng đứng dưới đất, nào ngờ dòng nước quái ác xoáy đúng vào cái bàn, và sau khi nước rút nơi đấy chỉ còn là một lỗ trũng sâu hoắm. Cách nhau gang tấc mà bố mẹ sống trong khi con mất dạng. Tôi cũng không thể nào quên được cặp mắt một bé gái ở Lý Sơn, cặp mắt mở to đứng ở cửa nhìn hút theo chúng tôi, khi cả đoàn từ trong nhà em đi ra: đấy là một mẹ và 5 con còn bé choắt, đầu đứa nào cũng chít vành khăn trắng, mẹ chỉ biết khóc vùi, vì bố vừa rơi từ mái nhà xuống chết đúng trong cơn bão. Tôi càng găm vào trí mình ấn tượng một ngày nhịn đói nhịn khát ròng rã lội suối trèo đèo, vượt qua vô số đoạn đường sạt lở thành sông, để mang niềm vui, dẫu rằng chỉ gói trong mấy xe tải chở tôn và một số tiền không nhiều nhặn gì cho lắm, đến với bà con Xơ Đăng ở Tumơrông vốn đang bị sập hết những ngôi nhà sàn vì lũ cuốn. Tuy ngay trong đêm ấy, đứng ở giữa mảnh sân Ủy ban xã đón cơn gió lạnh cao nguyên thổi lộng óc, nhìn sang thân thể liêu xiêu vì đói của anh Phạm Toàn đứng kế bên, tôi đã linh cảm một điều gì đó chẳng lành, nước mắt bỗng ràn rụa chảy ra khiến Toàn và TN phải nắm chặt lấy tay, vỗ về: “Bình tâm đi!”. Nhưng cũng chỉ là một linh cảm thoáng qua rồi tắt nhanh, bởi trong lòng vẫn tràn trề hy vọng, tin vào chính đại quang minh của những việc mình làm.
Chúng tôi đã bé cái nhầm. Người ta đâu có cần mình nói lời nói thẳng. Những lời nói thẳng vì lợi ích đất nước nhưng lại xóc vào gan ruột những ai ai đấy. Chúng tôi quên mất rằng lợi ích dân tộc từ lâu rồi đã bị lợi ích nhóm giày đạp và xé cho tơi tả. Cho đến vài ngày cuối năm 2009, khi trang Bauxite Việt Nam bất ngờ bị đánh sập, và những lá thư nặc danh bôi nhọ giữa Phạm Toàn và tôi được ném lên mạng thì chúng tôi mới vỡ lẽ về sự thơ ngây nông nổi của mình. Và rồi một cuộc khám nhà, khám máy tính, và 22 ngày thẩm vấn liên tục tiếp theo đã mở mắt cho tôi. Mọi hy vọng mơ hồ cứ thế tắt lịm đi. Cho đến hôm nay, khi thực tế sờ sờ về tai họa nhãn tiền của dự án Bauxite Tây Nguyên – chỉ mới tính riêng về mặt kinh tế – đã hiển hiện và được báo chí phơi bày, cả Phạm Toàn và tôi cũng không còn lạc quan mấy nỗi. Sự đời là thế, dẫu biết chết mười mươi đi nữa, những kẻ “theo lao” đâu có chịu dừng lại. Những con bạc khát nước ấy sẽ đâm đầu vào Cái Chết cho đến khi trắng mắt. Nhưng đó là nói lẽ đời, chứ cụ thể ở đây thì chết là chết Dân, chết Nước chứ “đương sự” có chết đâu. Họ vẫn sống khỏe, còn khỏe hơn khi chưa “đâm đầu” là khác. Và trên con đường của những con thiêu thân thần kỳ nọ, người ta sẽ không nể nang gì mà không chà đạp, nếu chà đạp được, lên thân phận của cái thằng mình.
Bài học rõ ràng nhất chính là trường hợp thầy giáo Đinh Đăng Định. Đọc bài viết về Đinh Đăng Định của Lưu Gia Lạc mà không khỏi bàng hoàng biết ông là một nạn nhân tồi tệ của chuyện ký tên vào Kiến nghị Bauxite. Không, bài của Lưu Gia Lạc đã rút xuống nên chuyện ấy thì án từ của ông rồi đây sẽ soi tỏ cho chúng ta. Tôi muốn nói đến một phía khác của con người này kia: ông đúng là một người “đồng thanh tương ứng” với bản Kiến nghị của chúng tôi đến tận trong tâm khảm, và vì thấm sâu lời cảnh báo gớm ghê của nó nên không chỉ tham gia ký tên mà ông còn đã thầm lặng, một mình một xe, đi vào các xóm làng để lấy bằng được thật nhiều chữ ký đáp ứng lời kêu gọi dừng dự án khai thác bauxite ở Tân Rai và nhất là Đắc Nông. Cũng là dễ hiểu và chẳng có tội lỗi gì ở đây, bởi nếu không có những sự thầm lặng góp sức của những người như thế, chúng tôi làm sao thực hiện nổi 5 bản Kiến nghị đầy ắp chữ ký trên trang Bauxite Việt Nam được. Hoặc giả tuy không hề biết đến những Kiến nghị lan truyền rất rộng vào thời điểm ấy (giả định này là phi thực tế), song do “chí lớn gặp nhau”, là người tận mắt chứng kiến việc ồ ạt phá rừng để triển khai dự án Bauxite tại địa điểm Đắc Nông nơi mình cư ngụ, thầy giáo Đinh Đăng Định đã tự phát lên tiếng cự tuyệt và vì thế rước họa vào mình. Đằng nào thì cũng thế thôi.
Thử hỏi, những việc ông làm, dù tự phát hay từ Kiến nghị của chúng tôi, giá thử có lặn lội đi lấy chữ ký của ba nghìn người dân cho bản Kiến nghị đi nữa, liệu chưa đủ để giúp người cầm chịch nhận ra ở người thầy giáo họ Đinh không phải là một việc làm “sách động” mà là một mục tiêu chí cốt cao xa hơn nhiều: giác ngộ và quy tụ lòng căm phẫn của đồng bào vào một kẻ thù chung hết sức nguy hiểm là lũ bành trướng Đại Hán mà chính ông đã nhìn thấu tim đen, ẩn trong một Dự án chứa nhiều bất cập như dự án Bauxite triển khai ngay trên “mái nhà” trung tâm – tử huyệt của đất nước? Từ đó, thử hỏi, giữa một Đinh Đăng Định và những kẻ đã tra vấn, hành tội ông, đẩy ông đến những ngày cuối của căn bệnh ung thư, ai là người yêu nước, thật tâm muốn ngăn chặn những nguy cơ tày trời cho dân tộc, và ai là phường phản dân hại nước? Viết đến đây tôi lại cứ như nghe trong tai mình đang ong ong những lời xỉ vả đám trí thức của ông Lê Dương Quang năm nào giữa diễn đàn Quốc hội. Bỗng chốc, một thứ triết lý sống ngạo ngược của cuộc sống hôm nay cứ hiện rõ ra dần: Ai chết cứ chết, ai giành được một miếng cứ việc ngoạm, và ngoạm xong đâu đấy – như kiểu gã trung tá KGB gian giảo vừa ngoạm xong Crimé của Ukraine – thì tự nhiên tất cả mọi thứ, lợi lộc, chính danh, chính nghĩa cũng khắc tuôn hết vào tay. “Mười lăm thằng trên hòm người chết / Be rượu rom say tít cung thang Quinze hommes sur la poitrine du mort, yo-ho-ho et une bouteille de rhum!” (Châu đảo – L’île au trésor – của Stevenson).
N.H.C.
————————————
Phụ lục: BA NGÀN CHỮ KÝ … (Bài do BVN lưu được)
Lưu Gia Lạc
clip_image002
Ngồi lặng lẽ bên người thầy giáo gầy guộc nhỏ bé không muốn rời mặc dù đêm trước chỉ ngủ được khoảng 3 tiếng đồng hồ, đôi mắt cay xè nhưng cơn buồn ngủ vẫn không thể đến. Tôi không dám hỏi han nhiều vì sợ anh mất sức nếu phải trả lời, hình như cứ mỗi lần tôi ngồi bên xoa nhè nhẹ cho anh là đôi mắt anh lại khép lại như muốn ngủ, tôi rất mong anh ngủ được vì biết rằng giấc ngủ 5, 10 phút đồng hồ đối với anh thật hiếm hoi trong một ngày liên tục phải chống đỡ với những cơn đau, với những lúc lộn ruột gan ra, gồng mình lên để ói ra mật xanh mật vàng …
Được một lúc anh đưa tay cho tôi, cầm tay anh bóp nhẹ như muốn hỏi, anh cố một nụ cười mà có vẻ như không có sức, tôi ghé sát nhìn vào mắt anh, đâu rồi đôi mắt tinh anh thuở nào, còn phảng phất đâu đây cái nét ngạo nghễ ngước nhìn lên trên như thách đố, như đón chờ những điều không hay đang đến… trong đầu tôi lướt qua hình ảnh cậu học trò môi đỏ như son, hai má lúc nào cũng hồng lên như má của thiếu nữ, và mọi thứ đỏ hơn khi cậu học trò đó ngang nhiên tranh luận gay gắt với thầy giáo của mình về một cách giải mới về một bài toán khó mà cậu mới tìm ra chưa được thầy công nhận.
Tôi biết con người ấy không dễ gì khuất phục, tôi chợt nhớ rồi hỏi nhỏ:
- Khu vực này có bao nhiêu người dân ký vào bản kiến nghị phản đối dự án Bauxit giết người kia?
- Ba ngàn… dân quanh vùng.
- Một mình một xe máy phải không? Thời gian bao lâu?
- Từ khi có lời kêu gọi trên trang Bauxite đến khi tôi bị bắt, chỉ mình tôi với nó…
Anh đưa mắt tìm tòi, tôi hiểu anh muốn chỉ cho tôi cái xe máy đã bao lần thay áo (sơn) mà tôi đã nhìn thấy khi đến đây.
Lặng đi không nói, tôi quay đi, mắt tôi cay xè, không thể, tôi đâu có thể chảy nước mắt một cách dễ dàng như thế, tôi đâu có là một thằng đàn ông yếu mềm cơ chứ. Tôi nắm chặt tay anh thêm và rồi đứng lên ra phía sau nhà rửa mặt, tôi không thể để anh thấy tôi ủy mị, càng không muốn sự ủy mị ấy lan qua anh… không, tôi không hề muốn điều đó.
Xả nước ra xối vào mặt, làn nước lạnh làm tôi tỉnh người, một cảm giác khang khác lạ lẫm chợt đến trong tôi, tôi ngỡ ngàng nhìn cái bể nước mới.
- Một chú đến thăm bố rồi tranh thủ làm cho mẹ con cái bồn nước mới đó chú.
Thảo nói và xả thêm nước rồi đưa tôi chiếc khăn lau mặt, tôi lắc đầu cứ để dòng nước chảy dài xuống cổ, tôi thích thế, thích sự tươi mát của dòng nước khi mà mọi thứ vẫn còn oi nồng, và mỉm cười với ý nghĩ: Sống bao nhiêu năm, bao nhiêu ngày không quan trọng, nhưng sống mà để đến những phút cuối bỗng dưng có bao nhiêu con người xa lạ mà anh chưa từng biết, chưa từng nghe, chưa từng gặp đến với anh như những người ruột thịt, sẵn sàng gánh vác san sẻ cùng anh thì quả là sống một ngày, một tháng hay một năm cũng đã là sướng cả một đời người. Sống được như thế mới thực sự gọi là sống! Và như thế thì sống bao lâu cũng chẳng còn quan trọng gì nữa. Nghĩ thế tôi phấn chấn bước vào với anh, trong đầu cứ hiện lên một con số 3000, ba ngàn người, ba ngàn chữ ký của những người nông dân quanh vùng, con số ấy nói lên tất cả, con số ấy là phần thưởng cao quý nhất mà anh đã giành được ở đời, nó hơn mọi huân huy chương cao quý nào khác, nó hơn mọi sự vinh danh của người đời.
Ba ngàn, con số của sự thầm lặng, khiêm nhường nhưng của một con người không hề biết khuất phục, để có con số ấy anh đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
Tôi muốn thét lên, gầm lên vì con số 3000 ấy!
L.G.L.
Nguồn: https://www.facebook.com/gialac.luu (Hiện không còn lưu hành)

clip_image004
clip_image006
clip_image006
clip_image008

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét