Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Bài đáng chú ý

Về hai cuốn sách đề cập những lần xuất quân của Trung Quốc



- Tháng 2 năm 1992, Nhà Xuất bản Văn nghệ Tứ Xuyên, Trung Quốc đã cho xuất bản cuốn 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, của hai tác giả Sa Lực và Mân Lực. Cuốn sách này đã được phát hành rộng rãi mà theo phía Việt Nam là “có nhiều nội dung rất sai trái”.
- Tháng 8 năm 1992, Cục Nghiên cứu, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã cho dịch và xuất bản 1.000 cuốn 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, nhưng chỉ phát hành trong nội bộ, không nộp lưu chiểu.
- Từ năm 1990 đến 1993, Trung Quốc đã công bố rộng rãi nhiều cuốn sách khác có nội dung liên quan tới quan hệ hai nước như: Kháng Mỹ viện Việt thực lục, Sự thực về 6 cuộc chiến tranh chống xâm lược của nước Trung Hoa mới, Khai quốc đệ nhất chiến, 10 năm chiến tranh Trung-Việt.
- Tháng 2 năm 1996, sau nhiều nỗ lực và được sự quan tâm của lãnh đạo cấp cao nhất, Nhà xuất bản Đà Nẵng đã cho xuất bản 3.700 cuốn Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt-Trung, của nhiều tác giả, có nộp lưu chiểu, nhưng chỉ phát hành trong phạm vi hẹp.
Trong bối cảnh những năm đầu thập kỷ 1990 và qua những động thái trên, có thể tạm nêu ra 2 nhận xét sau:
1- Sau những trận xung đột lên tới đỉnh điểm dẫn tới những lần đưa quân sang xâm lược Việt Nam vào những năm 1974, 1979, 1988, tiếp đến là quan hệ giữa hai nước bước vào thời kỳ bình thường hóa với nhiều cuộc thăm viếng cấp cao đôi bên vào những năm 1991, 1992, phía Trung Quốc vẫn không ngừng chuẩn bị dư luận công phu, bài bản về chủ quyền của mình trên Biển Đông cũng như những hành động gây hấn trong quá khứ.
2- Phía Việt Nam không tỏ ra chủ động và có kế hoạch lâu dài như Trung Quốc trong những vấn đề này, từ số lượng các ấn phẩm được đưa ra, từ nội dung sách, cho tới phạm vi công bố.
Ví dụ như trong cuốn 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, các tác giả phía Trung Quốc đã cung cấp nhiều tư liệu, mô tả chi tiết, thậm chí sinh động (đương nhiên theo ý chủ quan của họ) nhiều sự kiện, tính toán từng câu chữ, với lối viết không chỉ nhắm tới mục tiêu chủ quyền, mà còn khích lệ tinh thần dân tộc trong binh sĩ, người dân. Trong khi cuốn Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt-Trung do phía Việt Nam xuất bản nặng về nội dung phản bác lại quan điểm nêu ra trong cuốn sách của Trung Quốc, bằng sử liệu chứng minh Hoàng Sa-Trường Sa từ lâu đã là của Việt Nam, mà rất ít thông tin về diễn biến của vụ việc, không lột tả sống động hành động hèn hạ của đối phương và tinh thần hy sinh quả cảm của chiến sĩ ta. Thậm chí, nhiều đoạn trong sách còn trích dẫn những miêu tả của phía Trung Quốc, nhưng không phải là để “phản bác”, mà tựa như phía ta hoàn toàn không có thông tin gì về cuộc gây hấn xâm lược này, đành phải sử dụng cứ liệu lịch sử của họ.
Rõ ràng cuốn sách của Trung Quốc mang tính đại chúng hơn hẳn, còn cuốn của Việt Nam chỉ giúp ích chủ yếu cho giới nghiên cứu (từ nội dung cho tới cách phát hành).
Để góp phần soi chiếu không chỉ sự thực về những hành động gây hấn của Trung Quốc trong quá khứ, mà cả kinh nghiệm đấu tranh trong công luận, xin được trích đăng một đoạn liên quan trong cuốn Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt-Trung, còn toàn bộ nội dung, bà con có thể truy cập vào trang Diễn đàn Hoàng Sa-Trường Sa để tải về bản PDF.

Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt-Trung

(trích)
IV. Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa trong quan hệ Việt-Trung (1974-1995)
[...] Tháng 1 năm 1988, Trung Quốc cho hải quân ra khu vực quần đảo Trường Sa hoạt động khiêu khích, ngăn cản các tàu vận tải Việt Nam. Họ đã xâm chiếm một số bãi đá ngầm, nhằm xây dựng căn cứ đứng chân làm bàn đạp để mở rộng các hoạt động xâm lược trên quần đảo.
Đặc biệt nghiêm trọng là sáng ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc sử dụng một biên đội tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 506 và 531 được trang bị tên lửa và pháo cỡ 100 mi-li-mét, vô cớ tiến công, bắn chìm và cháy ba tàu vận tải của Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở các bãi đá Len Đao, Cô Lin, Gạc Ma, thuộc cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam. Khi các tàu cứu hộ Việt Nam mang cờ chữ thập đỏ đến cứu những tàu bị bắn cháy, bắn chìm, lại bị tàu chiến Trung Quốc ngăn cản, bao vây, khiêu khích. Cuộc tiến công của Trung Quốc đã gây thêm tội ác mới chống nhân dân Việt Nam làm cho một số cán bộ, chiến sĩ quân đội Việt Nam bị hy sinh, 74 người bị mất tích.
Phối hợp với các hoạt động quân sự trên biển, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố các hoạt động đó là “bình thường” và đòi Việt Nam phải “rút khỏi các đảo san hô” ở đây; đổ lỗi cho bộ đội Việt Nam xông lên bắn vào nhân viên khảo sát của Trung Quốc trên bãi đá ngầm Gạc Ma (Trung Quốc gọi là Xích Qua) và vu cáo rằng, các tàu của hải quân Việt Nam nã pháo vào tàu hải quân Trung Quốc neo đậu gần đó, dẫn đến hải quân Trung Quốc buộc phải “phản kích để tự vệ”.(1)
Sự thật là thế nào? Điều gì đã làm cho nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa kể từ ngày ra đời, luôn luôn tuyên bố là nước “yêu chuộng hoà bình”, là một trong những nước đã đề ra năm nguyên tắc “chung sống hoà bình”, lại dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, như Trung Quốc đã từng làm đối với một số nước có chung đường biên giới? Điều gì đã làm cho Cộng hoà nhân dân Trung hoa, đã từng tuyên bố chống đế quốc mạnh mẽ, đã từng tích cực ủng hộ nhiều phong trào giải phóng dân tộc và nhiều năm sát cánh cùng Việt Nam chiến đấu vì sự nghiệp chung, nay lại gây ra cảnh đau lòng khi những người lính Trung Quốc xả súng bắn vào cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đang làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa?
Mọi người đều biết, sau khi chiếm được quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào tháng 1 năm 1974, Trung Quốc ra sức xây dựng quẩn đảo này thành một căn cứ quân sự liên hợp có cầu cảng, sân bay làm bàn đạp mở rộng xâm lược xuống quần đảo Trường Sa. Một tờ báo Mỹ đã vạch rõ: “Chiến lược của Trung Quốc dường như là củng cố vị trí trên quần đảo Hoàng Sa trước khi tiến tới quần đảo Trường Sa ở xa hơn nữa về phía nam” (2)… nơi mà từ trước đến nay Trung Quốc chưa bao giờ đặt chân tới.
Điều này được thể hiện trong lời tuyên bố của Ngoại trưởng  Trung Quốc Hoàng Hoa, ngày 30 tháng 7 năm 1977 rằng: “Khi thời cơ đến chúng ta sẽ thu hồi toàn bộ quần đảo Nam Sa (tức quần đảo Trường Sa của VIệt Nam) mà không cần phải thương lượng gì hết”(3)
Trên thực tế, từ năm 1981, Trung Quốc đã đưa Sở chỉ huy của hạm đội Nam Hải từ Quảng Châu xuống Trạm Giang, trang bị cho hạm đội này những phương tiện đổ bộ hiện đại nhất và xây dựng, mở rộng hàng loạt các cảng quân sự ở đảo Hải Nam. Đồng thời, Trung Quốc cũng xúc tiến mạnh về mặt tổ chức hành chính, để tạo cơ sở cho việc chiếm đoạt lâu dài Hoàng Sa và chuẩn bị thôn tính nốt Trường Sa của Việt Nam.
Tháng 6 năm 1984, Quốc hội Trung Quốc khoá VI đã phê chuẩn việc thành lập “Khu hành chính Hải Nam” bao gồm cả hai quẩn đảo Hoàng Sa, Trường Sa trực thuộc tỉnh Quảng Đông.
Ngày 13 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc thành lập tỉnh Hải Nam, một tỉnh có địa giới hành chính rộng lớn trên biển Đông bao trùm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Tờ Liên hợp báo (Đài Loan) nhận xét: “Bằng việc nâng cấp quy chế của đảo Hải Nam, Trung Quốc rõ ràng là đang mưu toan đặt toàn bộ vùng biển Đông và tất cả các đảo ở đó dưới sự kiểm soát của họ, do đó mở rộng tuyến phòng thủ chiến lược phía Nam của họ tới quẩn đảo Spratly (tức Trường Sa) ở cực Nam biển Đông”(4)
Trung Quốc vẽ bản đồ biển Đông theo yêu sách của chính quyền Tưởng Giới Thạch năm 1947, thể hiện một đường biên giới không liên tục chiếm ba triệu ki–lô–mét vuông. Theo đường biên giới này thì Trung Quốc chiếm hầu như toàn bộ biển Đông.
Từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 6 tháng 6 năm 1987, hải quân Trung Quốc diễn tập lớn ở khu vực quần đảo Trường Sa. Về cuộc tập trận này, đài BBC (Anh) đã nhận xét như sau: “Cuộc tập trận hải quân đầu tiên từ trước tới nay, xung quanh quần đảo Trường Sa có lẽ sẽ có những hậu quả rộng lớn khắp vùng Đông – Nam châu Á. Nó làm phức tạp thêm quan hệ giữa Trung Quốc với Malaixia và Inđônêxia. Nó xác nhận mối lo của Inđônêxia rằng, chính Bắc Kinh chứ không phải Matxcơva là mối đe doạ chiến lược lâu dài, thực sự đối với Đông – Nam Á”(5)
Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến (có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa) đi từ đảo Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo Trường Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên (là hai bãi san hô còn đang lập lờ mặt nước). Họ xây nhà, cắm cờ Trung Quốc trên hai đảo này, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình thường giữa các đảo do quân đội Việt Nam bảo vệ.
Trong đợt hoạt động nói trên, Trung Quốc đã thành lập một Bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải họ thường xuyên duy trì 20 tàu các loại ở khu vực quẩn đảo Trường Sa. Họ đẩy mạnh các hoạt động ngăn cản, phong toả, khiêu khích trắng trợn bằng vũ lực đối với các tàu vận tải Việt Nam để kiếm cớ gây xung đột vũ trang, dẫn đến sự kiện nghiêm trọng ngày 14 tháng 3 năm 1988.
Để biện hộ cho sự kiện này, Trung Quốc nói rằng: họ buộc phải “phản kích để tự vệ”(!). Theo cách nói đó nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công, còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ, tự vệ.
Trận “phản kích tự vệ” đó được sách báo Trung Quốc mô tả như sau: Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút, nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo dõi.
Trong khoảnh khắc, trên biển Nam trời đất tối sẫm, tiếng pháo đùng đùng, bốn bề tiếng súng râm ran.
“Trong tiếng pháo đùng đùng, tàu vận tải (số 604) của hải quân Việt Nam chở đầy lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ (số 505) và một tàu vận tải khác (số 605) bị bắn trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngòm, chuồn thẳng. Tàu đổ bộ (số 505) bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ (số 605) thì bị mắc cạn.
Cuộc chiến đấu không cân sức trên biển vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với thất bại thảm hại của quân Việt Nam, kết quả một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương hơn 20 tên, mất tích 74 tên. Còn phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra không bị tổn thất gì, đấy thật là một trận chiến đấu trên biển đánh gọn và đẹp mắt”(6)
Những đoạn ghi chép trên cho biết phía Việt Nam chỉ có hai tàu vận tải và một tàu đổ bộ, hai loại phương tiện này không phải là phương tiện dùng để chiến đấu, càng không phải là phương tiện để tiến công. Sa Lực – Mân Lực còn mô tả: “Những chiến hạm kiểu mới được trang bị tên lửa biển đối biển và pháo tự động 100 ly hợp đồng tác chiến với tàu ngầm và các loại hạm tàu kiểu mới khác, hình thành lưới lửa dày đặc, khiến quân Việt Nam lâm vào thế trận bị động chịu đòn”(7)
Điều cần nói thêm là, lực lượng hải quân Trung Quốc hoạt động ở vùng biển Trường Sa năm 1988 có phải “thuần tuý là hoạt động khoa học” như họ nói không?
Chính các tác giả Trung Quốc viết rằng: “Cùng với sự diễn biến ngày càng gay gắt và xấu đi trong mâu thuẫn về vấn đề chủ quyền Nam Sa giữa Trung Quốc – Việt Nam để giữ gìn chủ quyền thiêng liêng của lãnh thổ Tổ quốc, hải quân Trung Quốc đã có sự cố gắng to lớn, đã xây dựng một đội quân tác chiến trên biển và trên đất liền trang bị thêm tàu cứu hộ viễn dương kiểu mới, xây dựng hệ thống dẫn đường vệ tinh hiện đại… Việc chúng ta giành lại chủ quyền lãnh thổ đối với những hòn đảo nào đó ở Nam Sa bị nhà cầm quyền Việt Nam xâm chiếm là trách nhiệm không thể thoái thác”(8)
Rõ ràng, cái gọi là tiến hành khảo sát để “lắp đặt trang bị khảo sát khoa học” theo yêu cầu của tổ chức văn hoá, giáo dục khoa học Liên hợp quốc là bức màn che đậy cho việc thực hiện chủ trương “tiến xuống Nam Sa” của Trung Quốc (phụ lục IV). Đúng như một tờ báo Mỹ đã nhận xét: “Các cuộc thao diễn hải quân của Trung Quốc ở biển Đông đang hỗ trợ cho những ý kiến khẳng định của những người lãnh đạo các nước Đông – Nam Á là Bắc Kinh có những mục đích bá quyền ở khu vực”(9). Trung Quốc đã không thể tìm ra những chứng cứ để chứng minh được rằng, Trung Quốc đã chiếm hữu các quần đảo này từ bao giờ và đã có những hành động thực tế nào để thực hiện việc quản lý thật sự hai quần đảo. Vì vậy, phía Trung Quốc chỉ khăng khăng một cách đơn giản và độc đoán: “Chính phủ các triều đại Trung Quốc đã liên tục thực hiện quyền cai quản hai quần đảo đó”(10)
Trong quyển Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ, bản đồ Trung Quốc đời Thanh, xuất bản năm 1894, ghi chú rõ: “Điểm cực nam lãnh thổi Trung Quốc là Nhai Châu, Quảng Đông, độ Bắc cực 18 độ 13”. Còn quyển Quảng Đông dư địa toàn đồ, bản đồ tỉnh Quảng Đông xuất bản năm 1897 cũng ghi: “Điểm cực nam tỉnh này là mỏm núi bên ngoài cảng Du Lâm 18 độ 09’10””. Trong Đại Thanh đế quốc, bản đồ toàn Trung Quốc trong toàn tập bản đồ mang tên Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ 4 năm 1910, cũng chỉ rõ phần cực nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam (phụ lục V). Những bản đồ ấy đều khẳng định cho đến thế kỷ XX lãnh thổ Trung Quốc không bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các tác giả Sa Lực – Mân Lực dẫn ra vừa mơ hồ về nội dung, vừa không thống nhất về thời điểm lịch sử. Lúc thì họ nói từ đời nhà Đường, lúc thì họ nói từ đời Bắc Tống, các triều đại Trung Quốc đã “thi hành quyền quản lý” hai quần đảo này? Qua các sách sử Trung Quốc như Đường Thư, Dư địa kỷ thắng, Vỹ Kinh tổng yếu, Quảng Đông thông chí,người ta không thấy chép việc sáp nhập các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào đảo Hải Nam.
Sự kiện viên Thái giám nhà Minh, Trịnh Hoà bảy lần sang Tây Dương chép trong Minh sử(11) chỉ là những chuyến đi “đi sứ” của một sứ thần, hoàn toàn không liên quan gì đến hai quần đảo ở biển Đông. Tuyến đường biển mà Trịnh Hoà đã đi là tuyến đường ven theo bờ đại lục Trung Quốc, bờ biển đảo Hải Nam, bờ biển miền Trung Việt Nam rồi đi xuống phía Nam.
Cần nói thêm, Sa Lực – Mân Lực đã viết rằng, đoàn thuyền của Trịnh Hoà đã “nhiều lần thả neo nghỉ ngơi tại đây” (tức là tại Tây Sa và Nam Sa). Điều đó, chứng tỏ các tác giả không hiểu biết gì về các quần đảo này. Thực ra, đó chỉ là các quần đảo san hô, chằng chịt những bãi cạn và đá ngầm, chỉ có thuyền nhỏ có thể ra vào được, còn thuyền lớn vào đó không bị đắm cũng mắc cạn. Đoàn thuyền của Trịnh Hoà (viên Thái giám nhà Minh được vua Minh bảy lần sai đi sứ các nước Đông – Nam Á và Nam Á) “gồm trên 200 chiếc, trong đó 60 chiếc dài 148 mét, rộng 60 mét”(12) sao có thể “thả neo” ở Tây Sa và Nam Sa được?
Không có chủ quyền trong lịch sử đối với quần đảo Trường Sa, Trung Quốc làm sao có thể nói mình có quyền “giành lại chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo” thuộc quần đảo này? Những việc làm của Trung Quốc đối với quần đảo này từ những năm 1930 đến nay, không có khả năng biện minh theo luật pháp quốc tế.
Lý lẽ và hành động trên của Trung Quốc khiến cho dư luận quốc tế lo ngại và cảnh giác. Trong bài Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa hoàn toàn là chuyện rắc rối(13). Tác giả Brai Oai–nơ (Bary Wain) vạch rõ: “Bằng những lý do chẳng ai biết rõ ra sao (nguyên văn là: bằng những lý lẽ mà không thể hiểu rõ ngay được đối với người trên sao Hoả đáp xuống). Trung Quốc nói rằng, nhóm đảo ấy là lãnh thổ thiêng liêng của họ”. Về những yêu sách của Trung Quốc đối với vùng biển Đông, cũng bài báo trên đã nhận xét: “…lập trường của Trung Quốc không chỉ là vô lý mà còn lố bịch nữa”(14)
Những hành động của Trung Quốc tại vùng biển quần đảo Trường Sa của Việt Nam rõ ràng là hành động bất hợp pháp, xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, vi phạm nguyên tắc không sử dụng vũ lực của Liên hợp quốc, là sự chà đạp thô bạo luật pháp quốc tế. Tờ báo Pháp Libêration vạch rõ: “Cái chính trị pháo thuyền này khơi động những mối lo ngại từ lâu về chủ nghĩa bá quyền Trung Hoa ở Đông – Nam Á. Các nước trong vùng không khỏi nhận thấy một cách bực dọc rằng, các bản đồ phát hành ở Bắc Kinh chỉ rõ lãnh thổ Trung Quốc kéo dài đến sát bờ biển Malaixia, Philippin và Việt Nam”(15)
Cũng như các triều đại, các Chính phủ trước đây, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước sau khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Việt Nam chủ trương tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia khác, song quyết không để người khác xâm chiếm bộ phận lãnh thổ của Việt nam. Trong bài phát biểu tại cuộc mít tinh ở đảo Trường Sa (tháng 5-1988) Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định ý chí sắt đá: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”(16)
Với lòng mong muốn giữ gìn tình hữu nghị Việt – Trung, tôn trọng nguyên tắc không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; trong các ngày 17, 23 và 27 tháng 3 năm 1988, Việt Nam đã đề nghị Trung Quốc cử đại diện đàm phán để giải quyết những bất đồng liên quan đến quần đảo Trường Sa cũng như các vấn đề tranh chấp khác về biên giới và quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam cũng đề nghị, trong khi chờ đợi hai bên cam kết không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp.(17)
Đáp lại, trong Bị vong lục công bố ngày 12 tháng 5 năm 1988, Trung Quốc xác nhận ý kiến của Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc trong cuộc hội đàm với Việt Nam tại Bắc Kinh, tháng 9 năm 1975 như sau: “Đối với Việt Nam, ngay sau khi họ đưa ra đòi hỏi về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa của Trung Quốc, tháng 9 năm 1975, lãnh đạo phía Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nêu ra với người lãnh đạo Việt Nam Lê Duẩn đang thăm Trung Quốc, phía Trung Quốc có đầy đủ tài liệu chứng minh quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ cổ đến nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc, nhưng theo nguyên tắc giải quyết tranh chấp thông qua hiệp thương hữu nghị, bày tỏ “sau này có thể thương lượng””(18)
Bước vào thập kỷ 90, quan hệ hai nước dần trờ lại bình thường. Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc tháng 11 năm 1991 nêu rõ: “Hai bên tuyên bố hai nước Việt Nam và Trung Quốc sẽ phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện trên cơ sở năm nguyên tắc: “Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng, cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình”. Hai bên xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ khôi phục quan hệ bình thường trên các nguyên tắc độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”. Sau khi bình thường hoá quan hệ, Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã thoả thuận sẽ tiến hành đàm phán nhằm giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ tồn tại giữa hai nước. Chính phủ hai nước cũng đã bày tỏ tán thành tuyên bố về biển Đông của Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN họp ở Manila tháng 7 năm 1992. Tuyên bố về biển Đông có đoạn:
“ – Nhấn mạn sự cần thiết phải giải quyết tất cả các vấn đề chủ quyền và quyền tài phán ở biển Nam Trung Hoa (biển Đông) bằng các biện pháp hoà bình, không sử dụng vũ lực.
-          Kêu gọi các bên liên quan kiềm chế nhằm tạo ra một bầu không khí tích cực cho giải pháp cuối cùng đối với mọi tranh chấp.
-          Không phương hại tới chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia có lợi ích trực tiếp trong khu vực, quyết tâm thăm dò khả năng hợp tác tại biển Nam Trung Hoa về các vấn đề an toàn hàng hải và giao thông, chống ô nhiễm môi trường biển, phối hợp với các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ, các cố gắng chống cướp biển và cướp có vũ trang, cũng như phối hợp trong các chiến dịch chống buôn lậu ma tuý” (19)
Nhân dân Việt Nam mong muốn rằng, thông qua đàm phán, hai bên có thể đi đến một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo ở biển Đông, mang lại hoà bình, ổn định và hợp tác trong khu vực. Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, biểu thị quyết tâm của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển, hoà nhập vào đời sống pháp luật quốc tế.
Những năm gần đây, Việt Nam và Trung Quốc đang tiếp tục đàm phán để giải quyết những vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Chính phủ các nước trong khu vực đã ra Tuyên bố chung về biển Đông, kêu gọi các nước giải quyết tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán ở biển Đông bằng các biện pháp hoà bình, không sử dụng vũ lực, bày tỏ quyết tâm thăm dò khả năng hợp tác ở vùng biển này. Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển đã có hiệu lực, được thế giới chấp nhận và tôn trọng.
Chuyến đi thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của đồng chí Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dânh Trung Hoa tháng 11 năm 1994, đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ hai nước. Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc nêu rõ: “Hai bên khẳng định lại những thoả thuận tại các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai nước từ năm 1991 đến nay, kiên trì thông qua đàm phán hoà bình giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Hai bên hài lòng về sự tiến triển của các cuộc đàm phán cấp chính phủ và cấp chuyên viên giữa hai nước…” và “… trước khi vấn đề được giải quyết, hai bên đều không tiến hành những hành động làm phức tạp thêm hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực. Hai bên sẽ bàn bạc kịp thời và giải quyết thoả đáng những bất đồng nảy sinh với thái độ bình tĩnh xây dựng, không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước”(20)
Cùng trong chuyến đi thăm này, trả lời các nhà báo Việt Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch Giang Trạch Dân nhấn mạnh: “Đối với một số vấn đề còn tồn tại giữa hai nước, hai bên cần xuất phát từ vấn đề lớn là giữ gìn quan hệ hữu nghị Trung – Việt, phát triển hoà bình, ổn định ở khu vực, thông qua hiệp thương để giải quyết từng bước”(21)
Tình hình dù phức tạp đến đâu, nếu các bên tranh chấp đều tuân theo Hiến chương Liên hợp quốc, giải quyết bằng thương lượng hoà bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, thì đều có khả năng tìm ra giải pháp phù hợp, bảo đảm cho vùng biển này mãi mãi là vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực.
Các tác giả cuốn sách 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, nên đọc lại và suy ngẫm thêm về những lời tuyên bố trên của đồng chí Giang Trạch Dân.
CHÚ THÍCH:
1: Nhân dân Nhật báo, ngày 1-4-1988
2: Theo báo Diễn đàn thông tin quốc tế (Mỹ) ngày 22 – 2 – 1983
3: ED. Xtê – pha – nốp, Trung Quốc bành trướng trên hướng biển,NXB Quan hệ quốc tế, 1980, trang 144.
4: Theo tờ Liên hợp báo (Đài Loan), ngày 2 – 9 – 1987
5: Dẫn theo Tìm hiểu Trung Quốc thành lập tỉnh Hải Nam với chiến lược bành trướng trên biển Đông
6,7: Sa Lực – Mân Lực, 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, NXB Văn nghệ Tứ Xuyên, 1992, tr 9.10
8: Sa Lực – Mân Lực, 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, NXB Văn nghệ Tứ Xuyên 1992, tr.7
9: Theo báo Người hướng dẫn khoa học đạo Ki – tô (Mỹ), ngày 16-3-1988.
10: Theo Văn kiện Bộ ngoại giao nước CHND Trung Hoa, ngày 30-1-1980.
11: Minh sử: quyển 6, tờ 2b – 7a, quyển 7, tờ 1b – 6a, quyển 304, tờ 2a – 2b (Thư viện quốc gia)
12: Trung Quốc Đại bách khoa toàn thư, NXB Bắc Kinh – Thượng Hải, 9-1990, trang 480.
13, 14: Bary Wain, Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa hoàn toàn là chuyện rắc rối, báo Asien wall Street (Hồng kông) 15-4-1994.
15: Liberation (Pháp), ngày 25-3-1988.
16: Bài phát biểu của Đại tướng Lê Đức Anh tại cuộc mít tinh ở đảo Trưởng Sa, kỷ niêm lần thứ 33 ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân (7-5-1955 – 7-5-1988)
17: Theo Công hàm Bộ ngoại giao CHXHCN Việt Nam gửi Bộ ngoại giao CHND Trung Hoa ngày 17, 23 và 27-3-1988.
18: Nhân dân Nhật báo, ngày 12-5-1988.
19: Báo nhân dân, ngày 24-7-1992.
20,21: Báo nhân dân, ngày 22 và 23 – 11 – 1994

VN “phản bác” luận điệu xuyên tạc của TQ về trận Gạc Ma

Đôi lời: Đầu thập niên 1990, ngay trong lúc có hàng loạt động thái dẫn tới bình thường hóa quan hệ hai nước Việt – Trung, như cuộc gặp cấp cao Trung -Việt ở Thành Đô 1990, rồi chuyến viếng thăm TQ của TBT Đỗ Mười và TT Võ Văn Kiệt cuối năm 1991, thì tháng 2/1992, Nhà xuất bản Văn nghệ Tứ Xuyên, TQ lại công bố cuốn 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, trong đó có những bài viết xuyên tạc sự thật, ra sức tung hô cho những cuộc xâm lăng phi nghĩa lãnh thổ VN của quân đội TQ ngay dưới thời “tình nghĩa anh em” cộng sản với nhau.
Bộ Quốc phòng VN đã cho dịch, in ngay cuốn sách này. Nhưng rồi mãi tới năm 1996, phía VN mới có cuốn Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt  - Trung, của NXB Đà Nẵng, để phản bác những luận điệu của phía TQ. Cả hai cuốn đều không phát hành công khai.
Nhân sự kiện Gạc Ma 24 năm trước, xin trích đăng 2 bài từ 2 cuốn sách này, cùng một số bài báo liên quan.
Bài thứ nhất của TQ. Nam Sa là tên TQ đặt cho quần đảo mà VN gọi là Quần đảo Trường Sa, tiếng Anh là Spratly Islands.
Bài thứ hai của VN. Song, đáng ngạc nhiên là trái ngược hoàn toàn với những nội dung hết sức sống động trong bài viết của phía TQ, bài này hầu như không có một chút chi tiết nào về cuộc tấn công dã man, phi nghĩa của quân TQ, mà chỉ toàn đưa ra những bằng chứng lịch sử về chủ quyền và kể lể quá trình bình thường hóa quan hệ.
Một trong những dấu hỏi cho hiện tượng kỳ lạ này là phải chăng đã có một mệnh lệnh bắt phải “thúc thủ” hoàn toàn được phát ra từ đất liền khi xảy ra cuộc tấn công của kẻ địch? Điều này có thể thấy được phần nào trong video do TQ công bố, và qua lời kể trên RFA, bài thứ ba dưới đây: “Anh Nguyễn Văn Thống cho biết ‘Bên mình lúc ra đi là quán triệt không được nổ súng bằng bất cứ giá nào”, hay trên tờ Thanh niên, mới hôm qua, rằng đó là “trận hải chiến chỉ “nổ súng từ một phía”, chứ không như bài viết xuyên tạc của phía TQ? Vậy, ai đã đưa ra mệnh lệnh đó?! Nếu có thì sự kiện Gạc Ma không thể gọi là một “trận hải chiến” như báo chí sau này viết, mà là một “cuộc tàn sát”? Lịch sử sẽ phải trả lời!
Từ cách ra đời cho tới nội dung các bài viết trong hai cuốn sách thấy rõ một điều, xem ra kẻ cướp lại được lớn tiếng tự tụng ca mình khá bài bản như hành động chính nghĩa, còn người bị cướp thì vẫn phải bị động, lúng búng tự bênh vực, dễ bị coi là kẻ phi nghĩa.
Dù tự biết ta không phi nghĩa, nhưng rõ là bất nghĩa, bất minh, bất tín khi đọc những bài báo viết về số phận những chiến sĩ đã hy sinh hay còn sống sót trong ngày ấy cùng gia đình họ (Anh đã sống thay đồng đội,  Phía sau những người đã ngã xuống vì Trường Sa , …).

TIẾN QUÂN NAM SA

 Trích từ cuốn: 9 LẦN XUẤT QUÂN LỚN CỦA TRUNG QUỐC (NXB Văn Nghệ Tứ Xuyên/2-1992)
Trung tuần tháng 3 năm 1988, để bảo vệ quần đảo Nam Sa lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, hải quân Trung Quốc đã có một cuộc đọ sức trên biển với hải quân Việt Nam, cuộc chiến đấu trên biển chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút, và đã kết thúc với sự toàn thắng của hải quân Trung Quốc.

Chuỗi ngọc sáng trên biển Nam Trung Quốc

Quần đảo Nam Sa, như một chuỗi ngọc rực sáng trên mặt biển phía Nam Tổ quốc vĩ đại của chúng ta, với trên 200 đảo – đá rải rác trong vùng biển mênh mông từ 4 độ vĩ bắc đến 16 độ vĩ bắc, ở đó có cảnh thiên nhiên giàu đẹp, có tài nguyên khoáng sản dầu khí vô cùng phong phú, triển vọng khai thác rất khả quan. Đó còn là một ngư trường tốt đẹp của Tổ quốc vĩ đại của chúng ta, hải sản ở đây cực kỳ phong phú. 
1
Về vị trí địa lý, vùng biển này phía bắc giáp đất liền nước ta, phía nam giáp Malaixia, đông cạnh Philipin, tây gần Việt Nam, là con đường biển tất yếu phải đi qua giữa nước ta với các nước đông nam châu Á, và cũng là con đường biển quan trọng đi đến các châu lớn – Châu Phi, châu Âu, châu Úc. Vì vậy các đảo trong vùng Nam Hải không những quan trọng về mặt kinh tế, chính trị, mà còn hết sức quan trọng về mặt quân sự, giao thông. Cũng chính vì vậy, quần đảo quí báu này lâu nay đã trở thành vùng đất, của quý tranh chấp trong con mắt nhiều người.
Quần đảo Nam Sa là vùng đảo lớn nhất trong các đảo ở Biển Nam – Nhà cầm quyền Việt Nam luôn ấp ủ âm mưu bành trướng đối với quần đảo này. Những năm gần đây đã nhiều lần gây sự trong vấn đề thuộc quyền của quần đảo Nam Sa, hòng nuốt chửng mảnh đất lãnh thổ thiêng liêng này của Trung Quốc.
Ngay từ thời Tây Hán (140TCN – 88 TCN – ND), người Trung Quốc đã bắt đầu đi xuống Biển Nam, và là người đầu tiên phát hiện Tây Sa, Nam Sa…. Từ đời nhà Đường (618- 907 – ND) trở đi chính phủ các triều đại TQ đã luôn luôn thi hành quyền quản lý  đối với vùng đảo đá này, lâu nay, vùng đảo đá này vẫn nằm trong khu vực hành chính của TQ, điều đó mọi người đều biết và có chứng cứ lịch sử rõ ràng. Nhà hàng hải lớn đời nhà Minh Trung Quốc Trịnh Hòa đã bảy lần đến Tây Sa, nhiều lần neo thuyền ở đây, trong đó, “Quần đảo Trịnh Hòa” trong quần đảo Nam Sa chính là lấy tên nhà hàng hải TQ Trịnh Hòa.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, các đảo ở Biển Nam lại lần nữa trở về tay chính phủ TQ, cả thế giới đều công nhận vùng biển này là lãnh thổ TQ. Sau khi thành lập nước TQ mới, ngày 15 tháng 8 năm 1951, Chu Ân Lai, Thủ tướng kiêm bộ trường ngoại giao TQ lúc đó đã trịnh trọng tuyên bố trong “Tuyên bố hội nghị San franxixkô và dự thảo hòa ước Mỹ Anh với Nhật” là: “Quần đảo Tây Sa và đảo Nam uy cũng như toàn bộ quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Đông Sa, xưa nay vẫn là lãnh thổ của TQ”.
Từ đó về sau, trong các trường hợp khác nhau chính phủ Trung Quốc mới đều nhiều lần tuyên bố lập trường nghiêm chỉnh này.
Đối với sự thực trên đây, trước năm 1974, chính quyền Hà Nội đều công nhận. Trong tất cả công hàm ngoại giao, tuyên bố chính phủ, báo chí tuyên truyền thậm chí trong các bản đồ và sách giáo khoa của học sinh Việt Nam lúc bấy giờ đều thừa nhận và ghi rõ quần đảo Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc – Đây cũng là sự thực có chứng cứ rõ ràng.
Nhưng sau khi kết thúc chiến tranh, thống nhất Bắc-Nam, cùng với tham vọng bá quyền khu vực và bành trướng, những người lãnh đạo đương cục Việt Nam đã lật lọng, đưa quần đảo Nam Sa vào phạm vi bành trướng của họ, và bắt đầu bước xâm lấn từ nhỏ đến lớn.
Xuất phát từ tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân Trung – Việt, lúc bấy giờ chính phủ ta đã có nhiều cuộc giao thiệp khuyên ngăn và kháng nghị hành vi của nhà đương cục Việt Nam song không công khai hóa cuộc đấu tranh. Tháng 9/1975, khi gặp đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam do Lê Duẩn dẫn đầu, Lê Duẩn có yêu cầu phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình tiến hành đàm phán 2 nước Trung – Việt về vấn đề chủ quyền quần đảo Nam Sa, ngay lúc đó đồng chí Đặng Tiểu Bình đã từ chối rõ ràng. Đặng Tiểu Bình nói với Lê Duẩn là:
“Vấn đề này không cần thiết phải đàm phán, TQ có đủ bằng chứng để chứng minh rằng quần đảo Nam Sa và các đảo khác là lãnh thổ của Trung Quốc…”
Mùa xuân năm 1979, sau khi quan hệ Trung- Việt đã công khai xấu đi, nhà cầm quyền Hà Nội nói liều rằng TQ có hứa là sẽ đàm phán với họ về vấn đề Nam Sa.
Sự thật là, nhiều tài liệu có liên quan đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng, thái độ của TQ đối với những hòn đảo này xưa nay là kiên định và rõ ràng, trước sau như một từ chối bất cứ hình thức đàm phán nào với Việt Nam về chủ quyền của Tây Sa và Nam Sa.
Tháng 4/1977, khi Phạm Văn Đồng thăm Liên Xô ghé qua Bắc Kinh, phía Việt Nam lại vô lý nêu ra vấn đề này, và đã bị đại diện phía TQ từ chối, bác bỏ ngay.
Cuối năm 1978, tình hình biên giới Trung – Việt căng thẳng đến cực độ, các dư luận đo phía Việt Nam đặt ra xung quanh vấn đề thuộc quyên đối với quần đảo Nam Sa và các đảo khác đều bị Chính phủ ta lần lượt bác bỏ.
Tháng 4/1979, trong cuộc đàm phán biên giới mới sau khi kết thúc chiến tranh biên giới Trung-Việt, Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long, đại biểu số 1 phía TQ đã nêu lập trường 8 điểm với VN, trong đó có điểm yêu cầu Chính phủ VN phải trở lại lập trường trước năm 1974, thừa nhận sự thật lịch sử về chủ quyền lãnh thổ của TQ đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa. Đồng thời chính phủ ta đã công bố trước toàn thế giới nhiều văn kiện và hồ sơ. Một lần nữa chứng minh rằng trước năm 1974, VN vẫn luôn luôn thừa nhận lập trường của chinh phủ ta.
Mâu thuẫn Trung-Việt trong vấn đề Tây Sa, Nam Sa, hoàn toàn là do Việt Nam gây nên, nguyên nhân chỉ có một, vùng đảo quý báu này thực sự là một chuỗi ngọc rực sáng.

So sánh lực lượng hải quân giữa Trung Quốc và Việt Nam

Từ năm 1955, Hải quân nhân dân Trung Quốc đã bắt đầu đóng quân trên 1 số đảo trong các quần đảo biển Nam. Trận chiến đấu với quân nước ngoài đầu tiên của hải quân ta diễn ra ngày 14 tháng 01 năm 1974 là cuộc chiến tranh bảo vệ quần đảo Tây Sa, trận đánh trên biển này đã đánh đuổi hải quân Sài Gòn ra khỏi quần đảo Tây Sa, giành lại lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc, làm rạng rỡ khí thế anh hùng của hải quân non trẻ của nước ta.
Song vì quần đảo Nam Sa cách đất liên quá xa; những trên một ngàn cây số, mà hải quân nước ta lúc đó đang ở thời kỳ đầu xây dựng, chưa có khả năng tác chiến ở biển xa, vì vậy tạm thời chưa thể đưa quân ra đồn trú trên một số hòn đảo. Nhưng từ năm 1956 đến nay nhà cầm quyền Quốc dân Đảng ở Đài Loan vẫn luôn có quân đội đóng quân trên đảo Thái bình, hòn đảo lớn nhất của quần đảo Nam Sa.
Để bảo vệ nền an ninh của lãnh hải Tổ quốc, ngay từ đầu mới thành lập, hải quân nhân dân TQ đã coi việc bảo vệ an toàn và chủ quyền của các quần đảo trong biển Nam là một sứ mệnh trọng đại và thiêng liêng của mình. Năm 1984, đồng chí Lưu Hoa Thanh nguyên tư lệnh hải quân nhân dân TQ, nay là phó chủ tịch quân ủy Trung ương đảng cộng sản TQ khi gặp gỡ các phóng viên đá nói:
“Sau 30 năm xây dựng, Hải quân nhân dân Trung Quốc đã trở thành lực lượng chiến đấu trên biển có quy mô nhất định và có khả năng tấn công, phòng thủ 3 chiều trên không, mặt biển và đáy biển. Ngày nay đang phát triển theo hướng tên lửa hóa, điện tử hóa và tự động hóa…”
Từ đầu những năm 70, hải quân TQ bắt đầu thay đổi kết cấu và lực lượng của mình. Số lượng tàu thuyền cỡ vừa và cỡ nhỏ như tàu tuần tra v.v., mà lâu nay vẫn được coi trọng bắt đầu giảm đi rõ rệt, còn tốc độ đóng tàu khu trục, tàu hộ vệ, tàu ngầm hạt nhân tang rất nhanh. Đến năm 1979, về mặt hiện đại hóa hạm tàu hải quân lại tiến bộ thêm một bước rất lớn.
Đến nay, hải quân Trung Quốc gồm mấy trăm ngàn quân đã được tổ chức thành 3 hạm đội Bắc hải, Đông hải và Nam hải. Và hải quân Trung quốc đã có đơn vị tàu ngầm đứng tư 3 trên thế giới. Trong bộ đội tầu ngầm hiện đại có tầu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân, loại tàu ngầm này được coi là tầu ngầm quân sự có trình độ tiên tiến thế giới, nó có thể mang tải 12 quả tên lửa đạn đạo phóng từ dưới mặt nước.
Về các loại hạm tầu khác, hải quân Trung Quốc đã có thực lực tương đối, như các loại hạm tàu quân dụng cờ lớn: Tàu hộ vệ mang tên lửa, tàu đổ bộ chở tăng tác chiến trên biển và trên đất liền, các loại tàu đổ bộ, tàu vận tải cỡ lớn và cỡ vừa v.v… Cùng với một loạt hạm tàu cỡ vừa, cỡ nhỏ tác chiến biển gần, đã tạo nên lực lượng phòng vệ trên biển hùng mạnh. Theo đánh giá của các tổ chức hữu quan của nước ngoài, thì thực lực hải quân TQ được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới.
Giữa những năm 70, sau khi quân đội TQ đánh lui cuộc xâm lược của hải quân Sài Gòn, chiếm lại một số đảo đá trong quần đảo Tây Sa, Hải quân TQ đã bắt đầu chú trọng xây dựng lực lượng Thủy quân lục chiến có khả năng tác chiến trên biển và trên đất liền. Khác với mô thức xây dựng của lính thủy đánh bộ Mỹ hoặc bộ binh hải quân Liên Xô, thủy quân lục chiến hải quân ta là một đội chiến đấu đang phát triển và phù hợp với yêu cầu quân sự đặc biệt của TQ. Ngoài ra, chúng ta cũng hết sức tỉnh táo để nhìn nhận một tình trạng hiện thực là, hải quân TQ còn cần phải có một lực lượng yểm trợ trên không hùng mạnh, để đảm nhiệm nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho các hòn đảo cách xa đất liền như quần đảo Nam Sa. Việc xây dựng bộ đội không quân của hải quân là không thể thiếu được. Những năm gần đây, hải quân TQ đã bắt đầu có lực lượng không quân của hải quân lớn mạnh gồm máy bay oanh tạc, máy bay chiến đấu, máy bay cường kích. Ngoài nhiệm vụ chính là bảo vệ căn cứ hải quân và bộ đội tàu mặt nước, bộ đội không quân của hải quân còn làm nhiệm vụ trinh sát và chống ngầm.
Giữa tháng 11 năm 1985, một đoàn tàu hải quân Trung Quốc gồm một tàu khu trục lớp Lữ Đại và một tàu tiếp dầu lớp Phúc Kiến, do tư lệnh hạm đội Đông hải Nhiếp Tụ Khuê đẫn đàu đã đi thăm các nước Pakixtan, Bănglađet và Sêrilanka v.v.. Chuyến thăm đó đánh dấu hải quân TQ đã có khả năng tiếp dầu cho các hạm tàu trên biển, và có khả năng giữ vững thông tin liên lạc trong cự ly tương đối xa, chuyến đi biển xa đó đã khiến thế giới phải chú ý.
Tất nhiên, mục tiêu chúng ta xây dựng một đội hải quân lớn mạnh chỉ là để phòng ngự và bảo vệ lãnh hải của mình không bị người khác xâm lược. Chúng ta không muốn lấy một tấc lãnh hải của người khác, song cũng quyết không cho phép người khác xâm chiếm một tấc lãnh hải của TQ. Trong vấn đề nguyên tắc về chủ quyền lãnh thổ, người Trung Quốc lâu nay vẫn nói sao làm vậy.

Chúng ta hãy thử xem tình trạng của hải quân Việt Nam ra sao

Hải quân VN được thành lập vào tháng 8/1955, tốc độ phát triển không lấy gì là nhanh. Sau khi kết thúc chiến tranh VN, chính phủ VN tận dụng trên 100 chiếc tàu thuyền kiểu Mỹ thu gom được (trong chiến tranh) làm cơ sở của hải quân, để tiến hành mà rộng một bước đối với hải quân.
Tổng quân số của hải quân Việt Nam không vượt quá trên dưới 50 ngàn người, biên chế gồm một hạm đội, một lữ thủy quân lục chiến, một lữ tàu pháo, 10 trung đoàn chiến đấu. Đại để trang bị gồm có hơn 200 hạm tàu lớn, vừa và nhỏ các loại. Tổng trọng tải không quá 100 ngàn tấn.
Năm 1975, sau khi thống nhất Bắc – Nam, nhà cầm quyền Hà Nội không đếm xỉa gì đến tín, nghĩa, công nhiên cho quân ra đánh chiếm mấy hòn đảo Nam Sa do quân đội Sài Gòn xâm chiếm từ sau năm 1974, và thông qua hãng thông tấn chính thức là Thông tấn xã Việt Nam loan tin ra cả thế giới.
Người ta đã chú ý rằng, ngay từ lúc đó, hải quân Việt Nam đã bắt đầu tích cực chuẩn bị cho việc xâm chiếm quần đảo Nam Sa. Lực lượng không lấy gì làm mạnh về số lượng và chất lượng này, lúc đó có khoảng hơn 100 chiếc hạm tàu chiến đấu, chủ yếu là tàu khu trục, tàu hộ vệ, tàu hộ tống, tàu quét mìn, tàu đổ bộ chở tăng, tàu ngư lôi, tàu tên lửa và tàu săn ngầm v.v… Ngoài ra còn có các đơn vị bảo đảm như thông tin, trinh sát, ra đa, công binh…

Cuộc chiến tranh 28 phút trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam

Ngày 14/3/1988, giữa TQ và VN đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển Nam Trung Quốc, cuộc chiến đấu này mặc dầu chỉ đánh trong thời gian 28 phút, nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo dõi.
Cùng với sự diễn biến ngày càng gay gắt và xấu đi trong mâu thuẫn về vấn đề chủ quyền Nam Sa giữa TQ – VN, để gìn giữ chủ quyền thiêng liêng của lãnh thổ tổ quốc, hải quân TQ đã có sự cố gắng to lớn. Đã xây dựng một đội quân tác chiến trên biển và trên đất liền, trang bị thêm tàu cứu hộ viễn dương kiểu mới, xây dựng hệ thống dẫn đường vệ tinh hiện đại.
Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần cảnh cáo nhà đương cục Việt Nam, hãy chớ có hoạt động gì để bành trướng xâm lược các đảo Nam Sa… Hải quân Trung Quốc sẽ không bao giờ làm ngơ trước bất cứ hành động gì làm tổn thất đến chủ quyền của nước ta. Với ý nghĩa như vậy, việc chúng ta giành lại chủ quyền lãnh thổ đối với những hòn đảo nào đó ở Nam Sa bị nhà cầm quyền Việt Nam xâm chiếm là trách nhiệm không thể thoái thác.
Xét về mặt quân sự, trong những năm gần đây, hải quân TQ đã có những bước tiến dài, việc năm 1980, hải quân TQ vâng lệnh tổ chức cuộc đi biển xa để phối hợp thử nghiệm tên lửa tầm xa của nước ta, đã chứng minh hùng hồn rằng chúng ta đã có khả năng hoạt động tương đối ở vùng biển xa, có khả năng bảo vệ an toàn và chủ quyền của quần đảo Nam Sa.
Có một số nhân sĩ nào đó của nước ngoài cho rằng: Hải quân TQ nếu muốn giành lại tất cả các đảo đá bị Việt Nam chiếm đóng không phải là khó khăn lắm, vì TQ có ưu thế áp đảo về lực lượng hải quân. Song vấn đề là làm sao giữ được những hòn đảo này, vì chúng cách đất liền quá xa, điều kiện cố thủ quá kém, đó chính là sơ hở lớn nhất mà người Việt Nam có thể lợi dụng. Vì muốn giữ thì phải có sự yểm trợ và phối hợp của không quân. Một số nhà quân sự phương Tây nghi ngờ là trước mắt máy bay quân sự của TQ còn chưa thể cất cánh từ đảo Hải Nam bay đi làm nhiệm vụ ở Nam Sa rồi quay trở về Hải Nam được. Vì muốn làm được như vậy cần phải có tàu sân bay và tiếp đầu trên không. Trong trường hợp đó nếu máy bay Việt Nam ra tập kích số quân đồn trú trên Nam Sa của Trung Quốc, thì liệu quân đội Trung Quốc có giữ nổi hay không?
Bắt đầu từ giữa tháng 2/1888, theo yêu cầu của tổ chức văn hóa, giáo dục khoa học LHQ, Trung Quốc đã lắp đặt một số trang bị khảo sát khoa học trên một số đảo đá ở Quần đảo Nam Sa cho tổ chức quốc tế này; và đồng thời bắt đầu tiến hành một số hoạt động khảo sát khoa học cần thiết.
Khi trả lời câu hỏi của các phóng viên trong chuyến sang thăm Anh năm đó, đồng chí Bộ trưởng ngoại giao Ngô Học Khiêm nêu rõ:
“Những người mà Chính phủ Trung Quốc cử lên các đảo này đều là nhân viên công tác khoa học, họ lên đảo để lắp đặt trang bị khoa học cho tổ chức văn hóa, giáo dục khoa học LHQ, đây thuần túy là hoạt động khảo sát khoa học, là việc làm bình thường và cần thiết. Nhân viên TQ triển khai những hoạt động này trên lãnh thổ của mình hoàn toàn là hợp pháp”.
Nhưng ngày 14/3, trong khi nhân viên khảo sát khoa học của Trung Quốc đang tiến hành hoạt động khảo sát khoa học bình thường trên 2 đảo đá thuộc quần đảo Nam Sa, thừa lúc tàu thuyền bảo vệ hoạt động khảo sát khoa học của hải quân TQ quay trở về đảo Hải Nam, hải quân Việt Nam đã tập kích bất ngờ, nổ súng bắn pháo vào nhân viên khoa học TQ đang tiến hành khao sát trên đảo, hòng xâm chiếm những hòn đảo này. Ngoài ra, họ còn nã pháo vào tàu thuyền tuần tiễu của ta, làm bị thương nhân viên của ta.
Trong khoảnh khắc, trên biển Nam trời đất tối sầm (Nguyên văn: Phong vân đột biến – ND); tiếng pháo đùng đùng, bốn bề tiếng súng râm ran. Toàn bộ số nhân viên khảo sát khoa học trên đảo của ta đều là nhân viên dân sự, tính mạng tài sản và hoạt động khảo sát của họ bỗng dưng bị đe dọa nghiêm trọng.
Trước tình thế khẩn cấp, bộ đội hải quân ta lập tức xuất kích hướng thẳng phía tàu địch xông tới, đội tàu quân ta với 3 tầu hộ vệ làm chủ lực, đã tỏ rõ sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Những chiến hạm kiểu mới được trang bị tên lửa biển đối biển và pháo tự động 100 ly hợp đồng tác chiến với tàu ngầm và các loại hạm tàu kiểu mới khác, hình thành lưới lửa dày đặc, khiến quân Việt Nam lâm vào thế trận bị động chịu đòn.
Tàu đổ bộ (505) của hải quân Việt Nam đang tấn công vào đảo vội vã ứng chiến, còn 2 tàu vận tải (605) và (604) khác cũng vội vã tổ chức bắn trả, vừa đánh vừa tìm cách chuồn về.
“Bám sát chúng, hãy dạy cho chúng bài học nhớ đời” Chỉ huy quân ta ra lệnh thừa thắng xốc tới.
Trong chốc lát các tàu ta mở hết tốc lực bám sát mục tiêu lưới lửa trùm lên tàu giặc, làm chúng không kịp trở tay, có tên vừa kêu vừa la, có tên ôm đầu chạy trốn, có tên lao đầu xuống biển để tránh đòn trừng phạt của ta, cảnh tượng thật là nhục nhã.
Các chiến sĩ ta càng đánh càng hăng, một chiến sĩ nói: “Trong trận đánh tôi đặt chân vào cò súng bắn xối xả, trút lửa căm hờn dồn nén lâu nay trong tim vào lũ xâm lược, đánh cho chúng tan tác chỉ còn cách tìm đường tháo thân”.
Một pháo thủ khoái chí: “Riêng khẩu pháo 37 ly của tôi đã trút hơn 400 viên đạn vào tàu địch, cùng với hỏa lực của các đồng chí khác, chuyến này người Việt Nam no đòn phải biết!”
Trong tiếng pháo đùng đùng, tàu vận tải (604) của hải quân Việt Nam chở đây lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ (số 505) và một tàu vận tải khác (số 605) bị bắn trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngòm, chuồn thẳng. Tàu đổ bộ (số 505) bị chìm trên đường về, còn tàu vận tải (số 605) thì bị mắc cạn.
Cuộc chiến đấu không cân sức trên biển vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút, đã kết thúc với thất bại thảm hại của quân Việt Nam, kết qua một tàu bị chìm tại chỗ, 2 tàu bị thương, chết và bị thương hơn 20 tên, mất tích 74 tên. Còn phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra không bị tổn thất gì, đây thật là một trận chiến đấu trên biển đánh gọn và đẹp mắt.
Sau trận đánh, phía Trung Quốc không hề cản trở phía Việt Nam đến cứu vớt, tìm kiếm người mất tích, trái lại, với tinh thần nhân đạo, còn tiến hành cứu giúp số người rơi xuống biển của phía Việt Nam.
Cũng ngày, Bộ ngoại giao Trung Quốc trao công hàm phản đối đến đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, công hàm nêu rõ “Tàu thuyền vũ trang phi pháp xâm nhập vùng biển quần đảo Nam Sa Trung Quốc của phía Việt Nam đã ngang nhiên tập kích vũ trang vào thuyền bè đang làm nhiệm vụ khảo sát và tuần tra của Trung Quốc ở vùng biển đảo Xích-qua (Gạc Ma – ND) thuộc quần đảo Nam Sa, thuyền bè Trung Quốc buộc phải đánh trả tự vệ”. “Nhà cầm quyền Việt Nam phải lập tức chấm dứt ngay những cuộc khiêu khích vũ trang đối với TQ ở vùng biển quần đảo Nam Sa, và rút khỏi các đảo đá đá xâm chiếm và vùng biển phụ cận của Trung Quốc…”
Đây là lập trường kiên định và không thể thay đổi của Chính phủ Trung Quốc.

Sóng dư sau cuộc chiến đấu trên biển Nam Sa chưa yên lặng

Sự kiện khiêu khích do nhà cầm quyền Việt Nam đơn phương gây nên, đã kết thúc bằng chính hậu quả mà họ tự chuốc lấy. Liền sau đó, Chính phủ Việt Nam đã nêu ra “sự phản kháng” và “cảnh cáo” của họ.
Ngày 28/3 Ngoại trưởng Việt Nam tỏ ý về cái gọi là “mong muốn tiến hành đàm phán về vấn đề Nam Sa với Trung Quốc”. Điều đó lý đương nhiên bị Chính phủ Trung Quốc từ chối, trong tình hình không còn cách nào khác, họ lại lên gần, liên tiếp cho không quân bay lượn trên vùng trời quần đảo Nam Sa, làm ra vẻ muốn đối chọi với Trung Quốc, song chẳng qua đó chỉ là sự phô trương thanh thế mà thôi.
Sau cuộc chiến đấu trên biển ngày 14/3, Chính phủ Trung Quốc vẫn giữ thái độ tương đối kiềm chế, chỉ đăng có 1 bài bình luận trên “Nhân dân Nhật Báo” và Bộ ngoại giao có ra vài lần tuyên bố và công hàm mà thôi.
Đông đảo báo chí nước ngoài đều cho rằng đây là cách làm chín chắn “có lý, có lợi, có kiêm chế” của Chính phủ Trung Quốc. Nhân sĩ hữu quan phương Tây thì cho rằng: “Về ý nghĩa hành động lần này của hải quân Trung Quốc rõ ràng là không những giành lại một phần của Nam Sa Trung Quốc, mà nó còn chứng tỏ cho cả thế giới thấy quyết tâm và khả năng bảo vệ lãnh thổ của mình, của Chính phủ Trung Quốc”.
Nguồn: 9 LẦN XUẤT QUÂN LỚN CỦA TRUNG QUỐC (NXB Văn Nghệ Tứ Xuyên/2-1992)
———-

Sự thật về những lần xuất quân

của Trung Quốc và quan hệ Việt  - Trung

Mục IV. Vấn đề Hoàng Sa – Trường Sa trong quan hệ Việt Trung

Trích từ cuốn Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt  - Trung (NXB Đà Nẵng: 1996).
 [...] Trong đợt hoạt động nói trên, Trung Quốc đã thành lập một Bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ thường xuyên duy trì 20 tàu các loại ở khu vực quần đảo Trường Sa. Họ đẩy mạnh các hoạt động ngăn cản, phong tỏa, khiêu khích trắng trợn bằng vũ lực đối với các tàu vận tải Việt Nam để kiếm cớ gây xung đột vũ trang, dẫn đến dự kiện nghiêm trọng ngày 14 tháng 03 năm 1988.
Để biện hộ cho sự kiện này, Trung Quốc nói rằng họ buộc phải “phản kích để tự vệ” (!) Theo cách nói đó nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công, còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ, tự vệ.
Trận “phản kích để tự vệ” đó được sách báo Trung Quốc mô tả như sau:
Ngày 14 tháng 03 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút, nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo dõi.
Trong khoảnh khắc, trên biển Nam trời đất tối sầm, tiếng pháo đùng đùng, bốn bề tiếng sung râm ran.
“Trong tiếng pháo đùng đùng, tàu vận tải (số 604) của hải quân Việt Nam chở đầy lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ (số 505) và một tàu vận tải khác (số 605) bị bắn trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngòm, chuồn thẳng. Tàu đổ bộ (số 505) bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ (số 605) thì bị mắc cạn.
Cuộc chiến đấu không cân sức trên biển vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với thất bại thảm hại của quân Việt Nam, kết quả một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương hơn 20 tên, mất tích 74 tên. Còn phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra không bị tổn thất gì, đây thật là một trận chiến đấu trên biển đánh gọn và đẹp mắt” (1).
(1): Sa Lực – Mân Lực, 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, Nxb. Văn nghệ Tứ Xuyên, 1992, tr. 9, 10.
 
     Những đoạn ghi chép trên đây cho biết phía Việt Nam chỉ có hai tài vận tải và một tàu đổ bộ, hai loại phương tiện này không phải là phương tiện dùng để chiến đấu, càng không phải là phương tiện để tiến công. Sa Lực – Mân Lực còn mô tả: “Những chiến hạm kiểu mới được trang bị tên lửa biển đối biển và pháo tự động 100 ly hợp đồng tác chiến với tàu ngầm và các loại hạm tàu kiểu mới khác, hình thành lưới lửa dày đặc, khiến quân Việt Nam lâm vào thế trận bị động chịu đòn” (1).
Điều cần nói thêm là, lực lượng hải quân Trung Quốc hoạt động ở vùng biển Trường Sa năm 1988 có phải “thuần túy hoạt động khoa học” như họ nói không?
Chính các tác giả Trung Quốc viết rằng: “Cùng với sự diễn biến ngày càng gay gắt và xấu đi trong mâu thuẫn về vấn đề chủ quyền Nam Sa giữa Trung Quốc – Việt Nam để gìn giữ chủ quyền thiêng liêng của lãnh thổ Tổ quốc, hải quân Trung Quốc đã có sự cố gắng to lớn, đã xây dựng một đội quân tác chiến trên biển và trên đất liền trang bị thêm tàu cứu hộ viễn dương kiểu mới, xây dựng hệ thống dẫn đương vệ tinh hiện đại… Việc chúng ta giành lại chủ quyền lãnh thổ đối với những hòn đảo nào đó ở Nam Sa bị nhà cầm quyền Việt Nam xâm chiếm là trách nhiệm không thể thoái thác”(2).
Rõ ràng cái gọi là tiến hành khảo sát để “lắp đặt trang bị khảo sát khoa học” theo yêu cầu của tổ chức văn hóa, giáo dục khoa học Liên hợp quốc là bức màn che đậy cho việc thực hiện chủ trương “tiến xuống Nam Sa” của Trung Quốc (phụ lục IV). Đúng như một tờ báo Mỹ đã nhận xét: “Các cuộc thao diễn hải quân của Trung Quốc ở biển Đông đang hỗ trợ cho những ý kiến khẳng định của những người lãnh đạo các nước Đông – Nam Á là Bắc Kinh có những mục đích bá quyền ở khu vực” (3). Trung Quốc đã không thể tìm ra những chứng cứ để chứng minh được rằng, Trung Quốc đã chiếm hữu các quần đảo này từ bao giờ và đã có những hành động thực tế nào để thực hiện việc quản lý thật sự hai quần đảo. Vì vậy, phía Trung Quốc chỉ khăng khăng một cách đơn giản và độc đoán:“Chính phủ các triều đại Trung Quốc đã liên tục thực hiện quyền cai quản hai quần đảo đó” (4).
(1), (2) Sa Lực – Mân Lực, 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, Nxb. Văn nghệ Tứ Xuyên, 1992, tr. 9, 10.
(3) Theo báo Người hướng dẫn khoa học đạo Ki – tô (Mỹ), ngày 16 – 03 – 1988.
(4) Theo Văn kiện Bộ ngoại giao nước CHND Trung Hoa, ngày 30 – 01 – 1980.
 
     Trong  quyển Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ, bản đổ Trung Quốc đời Thanh, xuất bản năm 1894, ghi chú rõ: “Điểm cực nam lãnh thổ Trung Quốc là Nhai Châu, Quảng Đông, độ Bắc cực 18o13”. Còn quyển Quảng Đông dư địa toàn đồ, bản đồ tỉnh Quảng Đông xuất bản năm 1897 cũng ghi: “Điểm cực Nam tỉnh này là mỏm núi bên ngoài cảng Du Lâm 18o09’10’’”. Trong Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ 4 năm 1910, cũng chỉ rõ phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc không bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các tác giả Sa Lực – Mân Lực đã cố dẫn ra một vài chi tiết lặt vặt, bằng cách cắt xén, sắp xếp tư liệu để chứng minh chủ quyền của Trung Quốc.
Bằng chứng mà Sa Lực – Mân Lực dẫn ra vừa mơ hồ về nội dung, vừa không thống nhất về thời điểm lịch sử. Lúc thì họ nói từ đời nhà Đường, lúc thì họ nói từ thời Bắc Tống, các triều đại Trung Quốc đã “thi hành quyền quản lý” hai quần đảo này? Qua các sách sử Trung Quốc như Đường Thư, Dư địa kỷ thắng, Vũ kinh tổng yếu, Quảng Đông thông chí, người ta không thấy chép việc sáp nhập các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào Hải Nam.
Sự kiện viên Thái giám nhà Minh, Trịnh Hòa bảy lần sang Tây Dương chép trong Minh sử(1) chỉ là những chuyến “đi sứ” của một sứ thần, hoàn toàn không liên quan gì đến hai quần đảo ở biển Đông. Tuyến đường biển mà Trịnh Hòa đã đi là tuyến đường ven theo bờ đại lục Trung Quốc, bờ biển đảo Hải Nam, bờ biển miền Trung Việt Nam rồi đi xuống phía Nam.
Cần nói thêm, Sa Lực – Mân Lực đã viết rằng, đoàn thuyền của Trịnh Hòa đã “nhiều lần thả neo nghỉ ngơi tại đây” (tức là tại Tây Sa và Nam Sa). Điều đó, chứng tỏ tác giả không hiểu biết gì về các quần đảo này. Thực ra đó chỉ là các quần đảo san hô, chằng chịt những bãi cạn và đá ngầm, chỉ có thuyền nhỏ có thể ra vào được, còn thuyền lớn vào đó không bị đắm cũng mắc cạn. Đoàn thuyền của Trịnh Hòa (viên Thái giám nhà Minh được vua Minh bảy lần sai đi sứ các nước Đông – Nam Á và Nam Á) “gồm trên 200 chiếc, trong đó có 60 chiếc dài 148m, rộng 60m”(2) sao có thể “thả neo” ở Tây Sa và Nam Sa được?
Không có chủ quyền trong lịch sử đối với quần đảo Trường Sa, Trung Quốc làm sao có thể nói mình có quyền “giành lại chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo”thuộc quần đảo này? Những việc làm của Trung Quốc đối với quần đảo này từ những năm 1930 đến nay, không có khả năng biện minh theo luật pháp Quốc tế.
(1)    Minh sử, quyển 6, tờ 2b-7a; quyển 7, tờ 1b-6a; quyển 304, tờ 2a-2b, (Thư viện Quốc gia).
(2)    Trung Quốc Đại bách khoa toàn thư, Nxb. Bắc Kinh – Thượng Hải, 9-1990, tr. 480.
(3)    Bary Wain, Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa hoàn toàn là chuyện rắc rối, báo Asien Wall Street (Hồng Kông) 15-04-1994.
     Lý lẽ và hành động trên của Trung Quốc khiến cho dư luận Quốc tế lo ngại và cảnh giác. Trong bài Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa hoàn toàn là chuyện rắc rối (3). Tác giả Brai Oai – nơ (Bary Wain) vạch rõ: “Bằng những lý do chẳng ai biết rõ ra sao (nguyên văn là: bằng những lý lẽ mà không thể hiểu rõ ngay được đối với người trên sao Hỏa đáp xuống). Trung Quốc nói rằng, nhóm đảo ấy là lãnh thổ thiêng liêng của họ”. Về những yêu sách của Trung Quốc đối với vùng biển Đông, cũng bài báo trên đã nhận xét: “…lập trường của Tung Quốc không chỉ là vô lý mà còn lố bịch nữa”(1).
Những hành động của Trung Quốc tại vùng biển quần đảo Trường Sa của Việt Nam rõ ràng là hành động bất hợp pháp, xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, vi phạm nguyên tắc không sử dụng vũ lực của Liên hợp quốc, là sự chà đạp thô bạo luật pháp quốc tế. Tờ báo Pháp Li-bê-ra-ti-on vạch rõ: “Cái chính trị pháo quyền này khơi động những mối lo ngại từ lâu về chủ nghĩa bá quyền Trung Hoa ở Đông -  Nam Á. Các nước trong vùng không khỏi nhận thấy một cách bực dọc rằng, các bản đồ phát hành ở Bắc Kinh chỉ rõ lãnh thổ Trung Quốc kéo dài đến sát bờ biển Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin và Việt Nam” (2).
Cũng như các triều đại, các Chính phủ trước đây, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước sau khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của mình với  hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, kiên quyết bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của mình. Việt Nam chủ trương tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia khác, song quyết không để người khác xâm chiếm bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Trong bài phát biểu tại cuộc mít tinh ở đảo Trường Sa (tháng 5 – 1988) Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định ý chí sắt đá: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liên của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”(3).
Với lòng mong muốn giữ gìn tình hữu nghị Việt – Trung, tôn trọng nguyên tắc không dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế; trong các ngày 17, 23 và 27 tháng 3 năm 1988, Việt Nam đã đề nghị Trung Quốc cử đại diện đàm phán để giải quyết những bất đồng liên quan đến quần đảo Trường Sa, cũng như các vấn đề tranh chấp khác về biên giới và quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam cũng đề nghị, trong khi chờ đợi hai bên cam kết không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp(4).
(1)    Bary Wain, Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa hoàn toàn là chuyện rắc rối, báo Asien Wall Street (Hồng Kông) 15-04-1994.
(2)    Liberation (Pháp), ngày 25-03-1988.
(3)    Bài phát biểu của Đại tướng Lê Đức Anh tại cuộc mít tinh ở đảo Trường Sa, kỉ niệm lần thứ 33 ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân (07-05-1955 – 07-05-1988).
(4)    Theo Công hàm Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao CHND Trung Hoa ngày 17, 23 và 27-03-1988.
     Đáp lại, trong Bị vong lục công bố ngày 12 tháng 5 năm 1988, Trung Quốc xác nhận ý kiến của Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc trong cuộc hội đàm với Việt Nam tại Bắc Kinh, tháng 9 năm 1975 như sau: “Đối với Việt Nam, ngay sau khi họ đưa ra đòi hỏi về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa của Trung Quốc, tháng 9 năm 1975, lãnh đạo phía Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nêu ra với người lãnh đạo Việt Nam Lê Duẩn đang thăm Trung Quốc, phía Trung Quốc có đầy đủ tài liệu chứng minh quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ cổ đến nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc, nhưng theo nguyên tắc giải quyết tranh chấp thông qua hiệp thương hữu nghị, bày tỏ “sau này có thể thương lượng””(1).
Bước vào thập kỉ 90, quan hệ hai nước dần dần trở lại bình thường. Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc tháng 11 năm 1991 nêu rõ: “Hai bên tuyên bố hai nước Việt Nam và Trung Quốc sẽ phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện trên cơ sở năm nguyên tắc: “Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng, cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình”. Hai bên xác định:“Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ khôi phục quan hệ bình thường trên các nguyên tắc độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”. Sau khi bình thường hóa quan hệ, Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã thỏa thuận sẽ tiến hành đàm phán nhằm giải quyết vấn đề về biên giới lãnh thổ tồn tại giữa hai nước. Chính phủ hai nước cũng bày tỏ tán thành tuyên bố về biển Đông của hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN họp ở Ma-ni-la tháng 7 năm 1992. Tuyên bố về biển Đông có đoạn:
-       “Nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết tất cả các vấn đề chủ quyền và quyền tài phán ở biển Nam Trung Hoa (biển Đông) bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực.
-       Kêu gọi các bên liên quan kiềm chế nhằm tạo ra một bầu không khí tích cực cho giải pháp cuối cùng đối với mọi tranh chấp.
-       Không phương hại tới chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia có lợi ích trực tiếp trong khu vực, quyết tâm thăm dò khả năng hợp tác tại biển Nam Trung Hoa về các vấn đề an toàn hàng hải và giao thông, chống ô nhiễm môi trường biển, phối hợp với các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ, các cố gắng chống cướp biển và cướp có vũ tranh, cũng như phối hợp trong các chiến dịch chống buôn lậu ma túy”(2).
(1)    Nhân dân nhật báo, ngày 12-05-1988.
(2)    Báo Nhân dân, ngày 24-07-1992.
 
     Nhân dân Việt Nam mong muốn rằng thông qua đàm phán, hai bên có thể đi đến một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo ở biển Đông, mang lại hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực. Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, biểu thị quyết tâm của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển, hòa nhập vào đời sống pháp luật quốc tế.
Những năm gần đây, Việt Nam và Trung Quốc đang tiếp tục đàm phán để giải quyết những vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Chính phủ các nước trong khu vực đã ra Tuyên bố chung về biển Đông, kêu gọi các nước giải quyết tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán ở biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, bày tỏ quyết tâm thăm dò khả năng hợp tác ở vùng biển này. Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển đã có hiệu lực, được thế giới chấp nhận và tôn trọng.
Chuyến đi thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của đồng chí Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc , Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tháng 11 năm 1994, đã mở ra một thời kì mới trong quan hệ hai nước. Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc nêu rõ: “Hai bên khẳng định lại những thỏa thuận tại các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai nước từ năm 1991 đến nay, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Hai bên hài long về sự tiến triển của các cuộc đàm phán cấp Chính phủ và cấp chuyên viên giữa hai nước…” và “… trước khi vấn đề được giải quyết, hai bên đều không tiến hành những hành động làm phức tạp thêm hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực. Hai bên sẽ bàn bạc kịp thời và giải quyết thỏa đáng những bất đồng nảy sinh với thái độ bình tĩnh xây dựng, không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước”(1).
Cũng trong chuyến đi thăm này, trả lời các nhà báo Việt Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch Giang Trạch Dân nhấn mạnh: “Đối với một số vấn đề còn tồn tại giữa hai nước, hai bên vần xuất phát từ vấn đề lớn là giữ gìn quan hệ hữu nghị Trung – Việt, phát triển hòa bình, ổn định ở khu vực, thông qua hiệp chương để giải quyết từng bước”(2).
(1), (2) Báo Nhân dân ngày 22 và 23-11-1994.
 
     Tình hình dù phức tạp đến đâu, nếu các bên tranh chấp đều tuân theo Hiến chương Liên hợp quốc, giải quyết bằng thương lượng hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, thì đều có khả năng tìm ra giải pháp phù hợp, bảo đảm cho vùng biển này mãi mãi là vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực.
Các tác giả cuốn sách 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, nên đọc lại và suy ngẫm thêm về những lời Tuyên bố trên của đồng chí Giang Trạch Dân.
Nguồn: Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt  - Trung (NXB Đà Nẵng: 1996).

Trận chiến đẫm máu tại Gạc Ma 1988

Quỳnh Chi, phóng viên RFA
19-10-2011
Ngày 14 tháng 3 năm 1988 đã xảy ra trận chiến đẫm máu giữa hải quân Việt Nam và Trung Quốc tại Gạc Ma, Trường Sa.
Trận chiến kết thúc, hải quân Việt Nam chỉ có chín người sống sót. Từ đó, Gạc Ma được cho là đã thuộc về Trung Quốc. Bối cảnh và diễn biến cuộc chiến tại Gạc Ma như thế nào? Mời quý vị nghe chính người lính năm xưa kể chuyện của họ.

Tay không bảo vệ tổ quốc

Từ đầu năm 1988, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng tại một số bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, cũng như đưa lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực này. Nhận thấy tình hình có thể diễn biến phức tạp, Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam ra lệnh cho xây dựng và bảo vệ đảo tại Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao bởi vì các đảo này có vị trí quan trọng trong tuyến đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ khác tại Trường Sa. Chiến dịch này còn được biết đến với tên gọi CQ-88, tức Chủ quyền 88.
Bắt đầu ngày 12 tháng 3 năm 1988, ba chiếc tàu vận tải của Lữ đoàn 125 mang số hiệu HQ-604, HQ-605 và HQ-505 mang theo một số phân đội của Trung đoàn công binh 83 và Lữ đoàn 146 đến các đảo này. Ba con tàu neo tại 3 đảo, với nhiệm vụ “Xây dựng và bảo vệ đảo”.  Tuy nhiên, giao tranh chủ yếu diễn ra ở Gạc Ma. Đó cũng là một cuộc chiến đẫm máu nhất trong chiến dịch CQ-88.
Con tàu HQ-604 chở khoảng 74 chiến sĩ, đa phần là công binh có nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đảo Gạc Ma. Trước khi đi, tất cả các chiến sĩ đều được quán triệt là bảo vệ tổ quốc nhưng không nổ súng. Anh Nguyễn Văn Thống cho biết “Bên mình lúc ra đi là quán triệt không được nổ súng bằng bất cứ giá nào”.
Chính vì được quán triệt là không được nổ súng, trên các con tàu trong chiến dịch CQ-88 đều chỉ mang lương thực, xi măng, cốt thép và các cột bê tông đúc sẵn mà không mang theo bất cứ một loại vũ khí nào, chỉ trừ vài khẩu súng AK. Các chiến sĩ trên tàu, chủ yếu chỉ là công binh, chưa một lần cầm súng chiến đấu, để rồi cho đến bây giờ, tim họ vẫn còn nhói khi nghĩ lại. Theo lời kể của 8 nhân vật còn sống cho đến hôm nay, họ không hề có một khẩu súng trong tay và chỉ thấy khoảng 3¬-4 người lính Việt Nam có cầm súng AK. Anh Trần Thiện Phung chua xót nhớ lại:
“Đơn vị tôi là đơn vị công binh mà, ra đảo chỉ biết là để xây dựng chứ đâu biết để chiến đấu. Nhưng ra đó, tàu chiến của Trung Quốc đánh mình”.
Chiều 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-604 vừa đến Gạc Ma và bị quân Trung Quốc dùng loa cảnh báo. Theo lời những người tham gia trận đánh, Trung Quốc lúc ấy triển khai 3 tàu chiến, đứng vị trí hình tam giác bao vây con tàu vận tải HQ-604, chỉ cách nhau chừng vài trăm mét. Anh Dương Văn Dũng nhớ lại:
“Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.”
Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra. Anh Dương Văn Dũng.
Đến sáng sớm ngày 14 tháng 3, khi hải quân Việt Nam đổ bộ, bốc vật liệu xây dựng từ tàu xuống đảo, đó là lúc phát súng đầu tiên vang lên, để rồi tiếp sau đó là một tràn tiếng súng dài và máu văng tung tóe. Hiện tại, Trung Quốc cho sản xuất một phim tư liệu ghi lại trận chiến tại Gạc Ma với hình ảnh một vòng người bị bắn tan tành trên nước. Đó chính là đoạn nghi lại hình ảnh này. Anh Thống nói:
“Bởi vì chúng tôi nhận được lệnh là chuyển cột bê tông từ tàu xuống đảo để xây dựng đảo cho nên các anh em đổ bộ vào đảo. Khi mình đổ bộ như thế thì họ từ trên tàu bắn xuống một hàng dài. Khi mình đưa cờ vào thì trong vòng 30 phút sau là bị bắn.”

Trung Quốc tấn công và chiếm đảo

Lúc đó cũng là lúc tàu Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và khoảng 40 lính có trang bị vũ khí đổ bộ lên đảo giật cờ Việt Nam. Dưới nước, lúc giáp lá cà, 2 bên chỉ cách nhau khoảng 100 mét. Phía trên, tàu Trung Quốc bao vây. Anh Dũng cho biết:
“Khi họ tràn qua như thế thì mình cử một người bảo vệ cây cờ của mình trên đảo. Khi họ bắn một phát súng thì một hàng lính của họ bắn tới tấp. Mình vẫn đứng ôm cây cờ Việt Nam chịu chết. Một đồng chí khác cũng đứng gần đó bảo vệ cây cờ  cũng bị thương nặng.
Tất cả các anh em hô to giữ chặt cây cờ, không bao giờ để mất cây cờ cũng như không bao giờ để mất tổ quốc. Mình hô to “Bảo vệ! bảo vệ! bảo vệ”. Khi họ tràn qua đánh mình là mình chống trả ngay lập tức. Mình chấp nhận tay không bảo vệ cây cờ tổ quốc”.
Thiếu úy Trần Văn Phương là người giữ lá cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma, cũng là người nhận phát đạn đầu tiên và tử thương đầu tiên. Nhiều người kể rằng, trước khi chết, anh Phương còn hô to “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để máu chúng ta nhuộm đỏ Biển Đông”.
Theo anh Trần Thiện Phụng, lúc tình hình bắt đầu căng thẳng, lữ đoàn phó lữ đoàn 146 Trần Đức Thông ra lệnh “Đây là lãnh thổ của Việt Nam, các đồng chí hãy bảo vệ lãnh thổ”. Lúc ấy cũng là lúc nhiều người dù không có vũ khí trong tay cũng nhảy xuống tàu bơi vào bám trụ trên đảo, để rồi tất cả đều phải hi sinh nhanh chóng sau đó. Anh Dũng nói tiếp:
“Chúng tôi biết rằng đã bị thua thế và mắc mưu Trung Quốc, cho nên chỉ làm bia đỡ đạn cho địch thôi chứ không biết nói sao. Họ là phía hành động tất cả. Khi họ tràn qua đánh thì chúng tôi biết rằng chỉ có chết thôi chứ làm sao sống được? Ở đó chỉ có nước và trời, không phải rừng rú, trốn vào đâu được? Khi hành động là họ vây mình hết rồi, nên mình chỉ có chết thôi.  Tất cả các anh em đều bị bắn xối xả hết. Tôi vẫn nhớ kỹ mà. Tôi nhìn rõ hết mà. Dễ sợ lắm.”
Lúc ấy, phía Trung Quốc có 1 hộ vệ hạm và 2 hải vận hạm, được trang bị hỏa lực 100mm với hơn 200 binh sĩ (tài liệu từ Trung Quốc). Theo tài liệu từ phía Bắc Kinh, quân Trung Quốc luôn sẵn sàng chiến đấu. Thậm chí, trước đêm trận chiến xảy ra, quân lính nước này còn được xem phim tuyên truyền nói rằng Việt Nam ăn cắp tài nguyên của Trung Quốc.
Sau khi bắn xối xả vào vòng người trên đảo, Trung Quốc bắt đầu nả pháo liên tiếp vào con tàu HQ-604. Anh Lê Minh Thoa bồi hồi nhớ lại:
“Tôi lo về máy móc của tàu không có súng ống gì cả. Lúc bắt đầu giao chiến thì tôi còn ở trên boong tàu. Nhưng khi thuyền thưởng ra lệnh sẵn sàng chiến đấu thì ngành nào theo ngành nấy và tôi xuống hầm máy. Khi tôi đang ở hầm máy thì tàu bị bắn và xăng dầu trong hầm máy cũng bùng cháy. Tôi bị cháy sau lưng và bỏ chạy lên boong tàu rồi nhảy xuống nước. Khi ấy, nước đã bắt đầu tràn vào tàu và chìm dần”.
Khi quả những khẩu đạn pháo nhắm vào thân con tàu HQ-604 già nua, cũng là lúc quân Việt Nam chết nhiều nhất, người thì chết vì ngạt khi co cụm dưới khoang tàu, người thì chết vì đạn pháo, người thì chết vì ngạt nước – hỗn loạn, tan tác và kinh hãi. Anh Thoa chua xót nói tiếp:
“Khi lính của mình chết gần hết rồi, xác họ trôi lơ lửng, máu tràn lan trên biển, máu của lính từ mạn tàu chảy xuống. Tôi thấy ghê gớm thật. Lúc đó chẳng biết suy nghĩ gì, chạy loạn xạ hết. Nhìn thấy cảnh tượng ấy tôi rất buồn bởi vì anh em mới đêm trước còn nói chuyện với nhau, bây giờ người sống kẻ chết. Tôi thấy rất buồn. Sau này tôi có xem lại đoạn phim về trận hải chiến này do Trung Quốc quay. Mỗi lần nhìn thấy đoạn phim ấy là hai hàng nước mắt chảy ra.”
Sau khi nhận quả đạn pháo đầu tiên, con tàu HQ-604 bắt đầu bùng cháy và chìm hẳn chỉ 30 phút sau đó. Cùng với xác con tàu, là xác của hàng chục chiến sĩ hải quân Việt Nam với vũng máu lớn loan cả một vùng biển Đông. Khi đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc hoan hô reo rò chiến thắng. Họ bắt tay, ôm nhau, nói cười vui vẻ. Anh Dũng uất ức kể lại:
“Tôi tức chứ, tức vô cùng. Tôi tức vì mình không đủ khả năng đánh lại họ vì mình không chuẩn bị. Họ đã được chuẩn bị và họ đánh mình. Họ đánh nát tan thuyền của mình. Họ đánh xong, họ hoan hô. Tôi nằm dưới nước thấy cảnh ấy mà tức vô cùng”.

Tàn sát lính Việt Nam

Tuy nhiên, đó còn chưa phải là kết thúc của những đau thương và mất mát. Anh Thoa nói tiếp:
“Khi tôi nhảy khỏi tàu thì thật tình tôi thấy hiện trường có rất nhiều lính Trung Quốc. Tôi chứng kiến thấy rằng Trung Quốc ác quá. Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên”. 
Cứ như thế, hải quân trên con tàu HQ-604 tại đảo Gạc Ma gần như tử thương tất cả chỉ sau hơn một giờ đồng hồ giao tranh. Trong số 74 chiến sĩ trên con tàu ấy, chỉ có 9 người còn sống sót. Cho đến bây giờ, họ cũng không giải thích được lý do vì sao họ có được cái may mắn còn sống để kể về câu chuyện của chính họ ngày hôm nay. Anh Thoa cho biết vì sao mình không chết trong trận chiến ấy:
“Chín người chúng tôi còn sống sót là do có những người nổi lên nhưng nhìn cũng như chết rồi. May mắn cho tôi là tôi có được hai quả bí. Khi nghe tiếng xuồng của địch chạy đến thì tôi lặn xuống biển, hết tiếng xuồng là tôi ngoi lên”.
Sau khi nghĩ rằng đã tiêu diệt hết tất cả hải quân Việt Nam cùng con tàu HQ-604, ba chiếc tàu chiến cùng hải quân Trung Quốc bỏ đi. Lúc này thủy triều đang lên, đảo Gạc Ma lại chìm trong biển nước mênh mông (đảo Gạc Ma còn gọi là đảo chìm; nổi lên và lặn xuống theo con nước). Không còn tiếng súng nổ, không còn tiếng động cơ, cũng chẳng còn tiếng la hét, trả lại cho Gạc Ma sự yên ắng đến rợn người.
Biển không gợn chút sóng, mà lòng những người sống sót đau đến lạ. Chín người còn sống sót nằm trên đảo, bên cạnh những xác chết nghiêng ngửa của những người bạn mà chỉ mới hôm qua thôi, còn chúc nhau sống lâu trăm tuổi. Họ nhìn đồng đội, nhìn Gạc Ma mà nhòe đi vì nước mắt. Có lẽ không một lời nào có thể diễn tả tâm trạng của họ lúc này; nó trống rỗng như cái khoảng không trên bầu trời cao vợi, sâu thắt như đáy biển Đông và mênh mông như Trường Sa lúc này.
Tất cả chín người sống sót đều bị thương nặng, như những xác chết nằm cùng vô vàng các xác chết khác. Có lẽ ngay chính họ cũng không biết là mình còn sống. Trong cơn đau đến nỗi tưởng như có thể chết đi, các anh vẫn ý thức rằng, lá cờ Việt Nam trên tay đồng chí Phương cũng không còn nữa. Anh Thống buồn rầu nói:
“Đá trên đảo là đá san hô cho nên không thể cắm cờ trên đảo được. Chỉ có thể cho người cầm cờ mà thôi. Tuy nhiên, khi người cầm cờ ấy mất thì lá cờ cũng mất theo”.
Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên. Anh Lê Minh Thoa.
Trận chiến trên đảo Gạc Ma kết thúc, phía Trung Quốc chỉ có một người bị thương. Họ vinh danh một đặc nhiệm hải quân tên Du Xiang Hou, là người đã xé bỏ lá cờ Việt Nam trên đảo. Họ làm phim giáo dục con cháu về trận chiến mà đối với họ là một sự vẻ vang kiêu hùng. Và họ xem đó là bằng chứng không thể chối cãi đối với chủ quyền tại đảo Gạc Ma. Vậy mà đã 23 năm tại Việt Nam, cuộc chiến này bị né tránh không nói đến, như thể nó là một phần lịch sử cần được giấu đi. Có lẽ trận chiến trên đảo Gạc Ma không phải là một vết son trong lịch sử như những chiến thắng của đội quân Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn hay vua Quang Trung. Tuy nhiên, người ta vẫn cần một lịch sử thật hơn một lịch sử đẹp. Huống chi, các chiến sĩ CQ-88 tay không đánh giặc, há chẳng phải đẹp lắm sao?
Cuộc chiến tại Gạc Ma kết thúc, nhưng trận chiến của những người còn sống sót còn chưa đến hồi kết. Số phận chín người còn sống sót như thế nào? Mời quý vị đón nghe vào kỳ tới.
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
—-
Mời xem thêm:
* Tuần Việt Nam:  Người yêu liệt sĩ ‘sự kiện Gạc Ma’ ra thăm Trường Sa (19/6/2011), Phía sau những người đã ngã xuống vì Trường Sa(21/6/2011),  Gặp những người lính trong trận hải chiến Trường Sa 1988 (25/7/2011), Hải chiến 1988: bất tử trên đảo Gạc Ma (KỲ 2), Hải chiến Trường Sa 1988: cá mập (Kỳ 3).

* Thanh niên: Anh đã sống thay đồng đội (28/8/2011).
* Tuổi trẻ: Nhật ký Trường Sa – Kỳ 9: Lá cờ của cha, lá đơn của con (13/9/2011).
* Danh nhân Sài Gòn: Biển mang dáng hình những đứa con của mẹ (1/2012).
* Quân đội ND: Tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh tại quần đảo Trường Sa: Gửi vào biển ngàn lần yêu thương (7/1/2012).
* Thanh niên:  Trường Sa ký ức tháng ba (11/3/2012).
Hải chiến Trường Sa 1988:

Chúng ta phải làm gì? (Kỳ 4) - Tổ chức biểu tình

Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Biểu tình là một trong những hành động thể hiện lòng yêu nước và bày tỏ thái độ của nhân dân đối với những hành động cướp nước và bán nước của cộng sản Việt Nam. Mặc dù chúng ta đã có nhiều cuộc biểu tình đã gây được nhiều tiếng vang nhưng thật sự chúng ta vẫn bị công an cộng sản đàn áp. Như vậy yêu cầu về việc tổ chức quy mô hơn nữa các cuộc biểu tình chống Trung cộng và chống cộng sản bán nước để biểu lộ sức mạnh dân tộc, đánh động dư luận trong nước về cộng sản đã bán nước và nguy cơ nô lệ đang tới rất gần là hết sức bức thiết. Ngoài ra như tôi đã trình bày trong “Chúng ta phải làm gì - Kỳ 1” thì đây cũng là một biện pháp ly gián quan hệ quan thầy - chư hầu của Trung cộng và cộng sản Việt Nam.
Trong khuôn khổ bài viết này tôi xin trình bày một số suy nghĩ xung quanh việc tổ chức biểu tình tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Đây cũng chỉ là những kinh nghiệm từ những ngày đầu đi biểu tình năm 2007, 2008... của tôi và nhận xét mang tính tham khảo và góp ý cho các bạn và tổ chức của các bạn. Đây hoàn toàn không phải là sự duy ý chí, nó chỉ mang tính tham khảo gửi tới các bạn. Hãy vận dụng sáng tạo vào từng từng trường hợp là một điều tối cần thiết trong đấu tranh.
1. Đôi điều về Biểu tình ở chế độ cộng sản độc tài Việt Nam:
Nguyên tắc của biểu tình là phải có nhiều người tập trung lại với nhau, mà nhiều người tập trung lại thì thành “tụ tập đông người”, mà tụ tập đông người thì sẽ... bị dẹp. Người dẹp ở đây chính là công an, côn đồ cộng sản. Mà người bị dẹp hay nói cách khác nạn nhân chính là chúng ta - những người đang đấu tranh chống giặc ngoại xâm và độc tài, bán nước.
Như chúng ta đã biết, biểu tình là một hoạt động hợp hiến và hết sức thông thường ở xã hội văn minh. Nhưng đến nay, biểu tình ngoài sắp đặt của nhà cầm quyền cộng sản vẫn còn là một chuyện tương đối xa lạ ở Việt Nam, thậm chí như một điều bị cấm. Biểu tình bị ngăn cản, dù có diễn ra thì người ta vẫn quanh co, không dám gọi đúng tên. Biểu tình vốn dĩ thuộc phạm trù nhân quyền của con người hay thực tế hơn là vấn đề đối nội, nhưng ở Việt Nam quyền biểu tình được nêu trong Hiến pháp trên thực tế chỉ còn để đối ngoại.
Cản trở đối với quyền biểu tình của công dân không chỉ xuất phát từ ý muốn được “yên ổn“ của những người cầm quyền, mà còn bị ảnh hưởng nhiều bởi sự nhầm lẫn về mặt lô-gíc: Cả hai phía đều coi việc chưa có Luật biểu tình chính là nguyên nhân khiến quyền biểu tình chưa được hay chưa thể thực thi mà quên đi đó là một thứ quyền căn bản của con người.
Phía người dân tưởng là khi chưa có Luật biểu tình thì không được biểu tình, nên đa số những người muốn bày tỏ chính kiến... vẫn im lặng. Ngay cả những người đã can đảm xuống đường vẫn cảm thấy chưa yên tâm, lo là hành động của mình có gì đó không ổn về mặt pháp luật, nên mới đề nghị Quốc hội ban hành Luật biểu tình. Đây là điều sai lầm hết sức nghiêm trọng.
Phía nhà cầm quyền cộng sản thì coi các cuộc biểu tình không do họ hoặc các cơ quan Nhà nước tổ chức là bất hợp pháp, là cố tình gây rối, thậm chí là do các thế lực thù địch tổ chức hoặc kích động, nên nếu có biểu tình thì nhà cầm quyền có quyền giải tán, có quyền bắt bớ... Hay nói một cách cụ thể hơn đó là nhà cầm quyền cộng sản sợ nhân dân làm mất lòng Trung cộng khi cộng sản đã bán nước và sợ người dân tập dượt cho một cuộc nổi dậy lật đổ chế độ độc tài. Có lẽ cũng do cho rằng chưa có Luật biểu tình thì không được biểu tình, nên một số người muốn trì hoãn việc ban hành Luật biểu tình, vì nếu có luật thì dù quy định ngặt nghèo đến đâu đi nữa, vẫn còn lại những quyền tự do tối thiểu, và không phải ai cũng muốn chấp nhận những quyền tối thiểu ấy của người dân. Chính vì vậy nhà cầm quyền cộng sản không muốn có Luật biểu tình và cũng không muốn cho dân biểu tình.
Vậy chúng ta nên hiểu quyền biểu tình và mối quan hệ của nó với Luật biểu tình như thế nào cho đúng?. Xin bạn đọc lướt qua một số yếu tố trong chính hiến pháp của nhà cầm quyền cộng sản và vài lời phân tích của luật sư Trần Vũ Hải.
a. Quyền biểu tình trong Hiến pháp hiện hành
Cơ sở pháp lý để đánh giá về tính hợp pháp của hoạt động biểu tình là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Điều 69 của Hiến pháp hiện hành quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Mặc dù là “tự do” nhưng việc đi kèm theo nó mệnh đề “theo quy định của pháp luật” khiến người dân lúng túng, do dự khi thực hiện quyền biểu tình, và nhà cầm quyền cộng sản dựa vào đó để phủ nhận quyền biểu tình của công dân trên thực tế. Thật ra, từ “pháp luật” xuất hiện 60 lần trong Hiến pháp 1992, nhiều khi chỉ là một phạm trù chung chung, không ám chỉ một luật cụ thể nào. Chúng ta phải hiểu “theo quy định của pháp luật” hay “trong khuôn khổ pháp luật” là tuân theo những quy định thuộc về pháp luật (nếu đã có). Chưa có luật tương ứng thì có nghĩa là chưa có hạn chế, bởi không thể dùng cái chưa có để hạn chế thực tại. Sau khi Hiến pháp có hiệu lực, thì còn thiếu rất nhiều luật, và đến bây giờ vẫn còn thiếu, nhưng mọi tư duy lành mạnh đều hiểu rằng: Không thể bắt cuộc sống dừng lại, để đợi đến khi cơ quan lập pháp ban hành đủ luật.
Hiến pháp 1992 viết công dân có quyền biểu tình “theo quy định của pháp luật”, chứ không đòi hỏi cụ thể là “theo quy định của Luật biểu tình”. Giả sử, nếu Hiến pháp quy định là công dân chỉ có quyền biểu tình theo quy định của Luật biểu tình, thì công dân có quyền chất vấn và phê phán Quốc hội nhà cầm quyền cộng sản là tại sao mấy chục năm rồi mà vẫn chưa ban hành Luật biểu tình? Lúc đó nhân dân nhắc nhở và đòi hỏi Quốc hội phải ban hành Luật biểu tình, chứ không phải chỉ đề nghị hay xin xỏ, vì những điều đó được khẳng định tại chính Hiến Pháp như sau: 
- Điều 6, Hiến pháp 1992: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân, là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. 
- Điều 53, Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội”. 
Như vậy, khi không (hoặc chưa) có luật nào quy định cụ thể hơn về việc biểu tình, thì có nghĩa là pháp luật không (hoặc chưa) có hạn chế nào cả, và công dân hoàn toàn có quyền biểu tình, như Hiến pháp cho phép. Chính vì vậy lập luận là vì chưa có luật biểu tình để đàn áp biểu tình của nhà cầm quyền cộng sản chính là vi hiến và ngụy biện.
b. Nhận định của luật sư Trần Vũ Hải
Mời bạn đọc theo dõi cuộc phỏng vấn của Nam Nguyên (RFA) và luật sư Trần Vũ Hải (1):
Nam Nguyên: Ở Việt Nam, thưa Luật Sư, có thể tiến tới biểu tình có xin phép, được nhân viên công lực giữ trật tự và bảo vệ như ở các nước khác hay không ạ?

LS Trần Vũ Hải: Nói chính xác là chưa có luật biểu tình, tuy nhiên có nghị định của chính phủ năm 2005 có nói về vấn đề tụ tập hội họp gì đó đông người, từ 5 người trở lên thì phải có giấy phép. Kiểm tra cái nghị định này thì cái nghị định này căn cứ vào luật tổ chức chính phủ chứ không căn cứ vào hiến pháp, và nghị định này do Bộ Công An đề xuất, tức là nhằm làm nhiệm vụ để giữ gìn trật tự, đúng không ạ? Thế thì tôi cho rằng đây là vấn đề trật tự, không phải là biểu tình. 

Biểu tình là có mục đích chính trị rõ ràng là để ủng hộ hay phản đối ai, hoặc là chính sách hay hành vi, cho nên cái nghị định này, cái nghị định của chính phủ năm 2005 không nằm trong phạm vi, không thể đồng nhất với biểu tình. Bởi vì thứ nhất cái nghị định này không căn cứ vào hiến pháp, cái thứ hai là biểu tình là một quyền chính trị. 

Điều 50 của Hiến Pháp có nói là có 3 loại quyền con người được thể hiện theo hiến pháp và luật, là quyền chính trị, quyền kinh tế và quyền văn hóa. Hiện nay Hiến Pháp đã quy định quyền biểu tình, nhưng lại "theo quy định của pháp luật" tức là ý nói rằng phải có luật về biểu tình, thế thì đáng tiếc là chưa có. Mới có luật về báo chí để nói về vấn đề báo chí, nhưng mà chưa có luật biểu tình.

Nói chính xác là chưa có luật biểu tình, tuy nhiên có nghị định của chính phủ năm 2005 có nói về vấn đề tụ tập hội họp đông người, từ 5 người trở lên thì phải có giấy phép. 

.....

LS Trần Vũ Hải: Tôi cho rằng cái nghị định năm 2005 là không bao gồm vấn đề biểu tình ở đây. Đây là một cái trách nhiệm của Quốc Hội phải ban hành, nhưng chưa ban hành. Bây giờ để giải quyết tình huống ấy, theo luật thì BTV có quyền giải thích điều luật ấy cần phải được hiểu như thế nào. Khi chưa có luật thì đương nhiên được hưởng hay là phải đợi đến khu luật biểu tình ra đời.

Tuy nhiên, trong thực tế cũng phải thấy rằng khi có vấn đề gì thì công an, lực lượng an ninh, lực lượng trật tự có nghĩa vụ phải đảm bào rằng là sẽ không có phát sinh những vấn đề gây rối, những vấn đề quá khích. Thì tôi nghĩ ở bất kỳ đất nước nào các lực lượng an ninh trật tự cũng phải làm nhiệm vụ đó.”
c. Nhận định chung về biểu tình tại Việt Nam:
Nhà cầm quyền cộng sản dùng Luật biểu tình như một vật cản để giới hạn và ngăn cản lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Nó chứng tỏ nhà cầm quyền cộng sản sợ 3 điều thông qua biểu tình: 
- Sợ nhân dân thông qua biểu tình “phá vỡ” mối quan hệ và hợp đồng bán nước của cộng sản cho Trung cộng. 
- Thông qua biểu tình gây áp lực lên nhà cầm quyền cộng sản về mọi mặt kinh tế, xã hội mà đảng muốn mình độc quyền điều hành. 
- Sợ nhân dân tập dượt cho một cuộc xuống đường tổng thể lật đổ cộng sản. 
Như vậy chúng ta phải lấy đúng cái quyền thật sự của con người và những gì đã ghi trong Hiến pháp để làm những gì cộng sản đó là: Biểu tình. Vấn đề làm thế nào làm cho các cuộc biểu tình thành công? Xin có một số góp ý ở phần dưới.
2. Vài lưu ý trong tổ chức biểu tình:
Bỏ qua các yếu tố sợ hãi do cộng sản đàn áp vì chúng ta đang dần chứng tỏ bằng làn sóng đấu tranh dân chủ đang dâng cao mà những hành đọng của Phương Uyên, Nguyên Kha... hay các phong trào đấu tranh giữ đất của nông dân Văn Giang, Trịnh Nguyễn, của anh em ông Đoàn Văn Vươn hoặc việc đi phân phát tuyên ngôn nhân quyền, tuyên bố 258 là những ví dụ. Ngoài ra việc nhân dân dưới sức ép về kinh tê, nhận ra sự thật bị lừa hơn 80 năm qua cũng giúp nỗi sợ hãi ngày càng phai nhạt. Chúng ta cũng có thể đọc thêm loạt bài “Cuộc cách mạng của sợ hãi” của tác giả Vũ Đông Hà để tìm cách thích hợp nhất để vượt qua sự sợ hãi giúp ích cho biểu tình thành công (2).
Như vậy điều còn lại là làm sao để có được các cuộc biểu tình chống Trung cộng và cộng sản bán nước hiệu quả? Hãy tham khảo một số lưu ý sau đây. 
- Nên thành lập một liên minh dạng Liên minh Biển Tây của người Philippines (Vấn đề cụ thể này tôi xin trình bày trong “Chúng ta phải làm gì? - Kỳ 5”) để phối hợp hành động thật nhịp nhàng và có tiếng nói trong vấn đề với Trung cộng ra công luận quốc tế thay cho nhà cầm quyền bán nước. 
- Có thể trong cuộc biểu tình chống Trung cộng nên mời công dân Philippines và công dân Nhật bản tham gì vì họ cùng kẻ thù chung là Trung cộng bành trướng và nhà cầm quyền cộng sản không có lý do bắt họ. Đồng thời đây là một hình thức đoàn kết và kêu gọi sự chú ý của cộng đồng quốc tế.(Xem thêm bài viết trên Viendongdaily để tham khảo thêm (3)
- Các tổ chức đứng ra biểu tình nên chọn một số đại sứ quán, cơ quan nhân quyền LHQ... để mời họ tới tham gia quan sát biểu tình và theo dõi nhân quyền. 
- Về mặt thông tin trước biểu tình: Không nên tuyên bố trên facebook hay các trang mạng xã hội khác mà dùng hoạt động nhóm để vận động và thông báo. Trên các trang mạng xã hội chỉ nên thông báo để đánh lạc hướng công an, an ninh mật vụ. Xin ví dụ: Chúng ta có thể thông báo là sẽ có biểu tình trong vài tuần tới mà không cụ thể để cho công an, an ninh phải mệt mỏi vì theo dõi... Có nhiều hình thức đánh lạc hướng mong các bạn tự nghiên cứu bổ sung thêm. 
- Thông tin trong biểu tình: Do mới là bước đầu của việc đấu tranh nên mới chỉ dừng lại ở biểu tình bất bạo động. Chính vì vậy cần phải sử dụng hình ảnh làm vũ khí chống đàn áp cộng sản. Vì vậy, nên chọn hẳn một nhóm đứng tại một số cao điểm hay góc quay thuận lợi để chụp hình, quay phim để tường thuật trực tiếp lên mạng và gửi đến các cơ quan quốc tế về hình ảnh công an đàn áp. 
- Thông tin sau biểu tình: Tổng hợp các thông tin về hình ảnh, clips tới các trang mạng như đã từng làm. Đồng thời gửi các thông tin đàn áp của công an cộng sản đến các tổ chức quốc tế, đại sứ quán như đối với tuyên bố 258 mà ta đã làm rất tốt. 
- Khi đã có các nhóm thì vấn đề tổ chức biểu tình hết sức thuận lợi và lưu ý trong biểu tình không nên để lộ ra mối quan hệ các nhóm để tránh tổn thất sau này. 
- Không nhất thiết hành trình phải quanh bờ hồ Hà Nội hay khu trung tâm Sài Gòn mà có thể ở các khu đông người như: Sân Vận Động Mỹ Đình, chợ Đồng Xuân, Khu Ngã tư Sở... tại Hà Nội hoặc Chợ Bến Thành... tại Sài Gòn. 
Trên đây là một số góp ý trong tổ chức biểu tình cần lưu ý để tổ chức có ý nghĩa hơn các cuộc biểu tình để có hiệu quả. Các bạn có thể vận dụng tốt hơn nữa dựa trên kinh nghiệm hoạt động của chính mình.
3: Khẩu hiệu mang theo:
Về cơ bản chúng ta có thể đem theo nhiều khẩu hiệu thông qua băng rôn, cờ, áo mặc, mũ và thậm chí kể cả khăn tay... Tuy nhiên cần phải lưu ý vài điểm như sau: 
- Khi đi biểu tình tại Việt Nam chúng ta không nên mang theo cờ Vàng ba sọc đỏ vì cộng sản sẽ lấy cớ là chúng ta cầm cờ “Chế độ cũ” để có thể đàn áp biểu tình. Do đó một cách sáng tạo là chúng ta in cờ Vàng thời Hai Bà Trưng hoặc một số lá cờ vàng của triều đại trước đây như Lê, Trần... 
- In một số tích truyện thật lịch sử trên băng rôn, áo... như Mã Viện bị Hai Bà đánh tan tác, Thoát Hoan chui ống đồng, Liễu Thăng bị chém bay đầu ở Chi Lăng, Nghìn cọc vùi thây giặc tại Bạch Đằng... 
- Tuyệt đối không mang theo cờ đỏ cộng sản vì chúng ta biết rằng cờ đỏ bán nước cho giặc hơn nữa lá cờ của cộng sản là là cờ ăn cắp của tỉnh Phúc Kiến - Trung cộng (Xin xem thêm “Những sự thật cần phải biết” - Phần 89). Vậy thì chúng ta sẽ chống ai nếu chúng ta đi biểu tình chống Trung cộng lại mang cờ 1 tỉnh Trung cộng?. Lý do mà mọi người đem theo cờ cộng sản để tránh đàn áp cũng không đúng vì không đem theo cờ của cộng sản không có nghĩa là không yêu nước. 
- Tuyệt đối không mang theo hình Hồ Chí Minh vì chính Hồ Chí Minh đã sai Phạm Văn Đồng bán nước cho Tầu mà cụ thể là công hàm 1958 được chính nhà cầm quyền cộng sản thừa nhận. Cũng không thể lý luận mang theo ảnh Hồ Chí Minh thì không bị đàn áp. Các bạn thấy rõ rằng trong những lần biểu tình trước việc đem theo ảnh Hồ Chí Minh cũng không tránh khỏi điều này. Do đó không nên mang theo ảnh của tên bán nước để đi chống bán nước và cướp nước được. 
- Chính vì báo nhân dân và các phương tiện đã công khai công hàm 1958 và cái đó là hoàn toàn có thật nên chúng ta ngoài băng rôn khẩu hiệu thì nên có băng rôn in thật to đoạn tuyên bố của Trung cộng: “...quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc....” và nguyên cái công hàm của Phạm Văn Đồng đồng ý tuyên bố của Trung cộng để nhân dân thấy sự thật bán nước của cộng sản. (Có thể in các tờ rơi phát cho bà con trên đường biểu tình và cho rơi ngay xuống đường). 
- Đồng thời in các tuyên bố của quan chức cộng sản như: 
Năm 1956, Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao Trung cộng, Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Lý Chí Dân (Li Zhimin), tham tán sứ quán Trung cộng tại Việt Nam: “chiếu theo tài liệu Việt Nam thì HS và TS thuộc về Trung Quốc”.
Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: “Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống”. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài “Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa”.
- Khẩu hiệu mang theo thường là “Đả đảo Trung cộng, “Cắt lưỡi bò”, “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam hay “Tầu khựa cút khỏi biển đông... Nay đề nghị chúng ta thêm “Đả đảo bán nước”. Cộng sản lấy cớ gì mà đàn áp khẩu hiệu này? Nó đàn áp thì rõ ràng nó tự cho nhân dân thấy bản chất bán nước rõ hơn. 
- Kết hợp đốt và xé cờ Trung cộng để gây sức ép ly gián Việt cộng và Trung cộng. 
- Khẩu hiệu nên dùng 2 thứ tiếng và Việt và Anh để cho bạn bè quốc tế dễ hiểu và có thể thêm chữ Tầu để cho chính bọn Tầu khiếp sợ. 
Người dân Philippines biểu tình (Ảnh: Minh họa)
Trên đây là một số góp ý nhỏ trong biểu tình về vấn đề khẩu hiệu, bạn đọc có thể có những sáng tạo thêm để cho các cuộc biểu tình thành công hơn nữa. Và đây chỉ là những bước đầu cho một cuộc xuống đường tập thể hoành tráng hơn với những khẩu hiệu tương tự như “Cộng sản đi chết đi” hay “Đả đảo cộng sản hèn với giặc, ác với dân” sau này.
4. Kết luận:
Biểu tình là quyền cơ bản của chúng ta, đảng cộng sản tìm mọi cách tước đoạt và đàn áp để dễ dàng độc tài và bán nước cho Trung cộng. Chúng ta phải đoàn kết lại để tổ chức lại những cuộc biểu tình có hiệu quả và ý nghĩa hơn. Từ đó có thể có tiếng nói nhất định gây sức ép cho cộng sản và cả Trung cộng. Ngoài ra đây có thể là những bước tập dượt và chuẩn bị cho việc biểu tình đòi trả tù nhân lương tâm hoặc sau này là lật đổ chế độ cộng sản bán nước hại dân tại Việt Nam. Hãy xuống đường bằng những cái đầu tình táo và tổ chức chặt chẽ, cộng sản sẽ phải thất bại vì chúng ta có chính nghĩa và có lòng yêu nước. Một câu hỏi được đặt ra là cần làm gì để có thể thống nhất biểu tình như trên? Những vấn đề đó sẽ được giải quyết trong “Chúng ta phải làm gì?- Kỳ 5”.
01/10/2013
________________________________

Bài liên quan đã đăng:

90% chính sách đối ngoại VN là với TQ '

Cựu Đại sứ Anh Derek Tonkin khuyên Hà Nội vẫn nên đòi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm năm 1974.
Bạn cần mở JavaScript lên và cài phần mềm Flash Player mới nhất để nghe/xem.
Bình luận về việc Trung Quốc dùng vũ lực quân sự cưỡng chiếm Quần đảo Hoàng Sa, và liệu Việt Nam có thể có một cơ hội nào đó để lấy lại chủ quyền của mình với quần đảo này hay không, cựu Đại sứ Anh Derek Tonkin nói với BBC tiếng Việt rằng "Anh quốc chống lại bất cứ hành vi sử dụng bạo lực nào để giải quyết một tranh chấp, bất luận là nó xảy ra ở đâu.
"Do đó nếu một quốc gia này tiến hành một cuộc xâm lăng với một quốc gia khác vì nó tuyên bố chủ quyền với một vùng lãnh thổ, thì điều đó là không thể chấp nhận và không bao giờ nên như thế.
"Do đó trong trường hợp như Việt Nam xâm lược Campuchia, Liên Xô xâm lược Afghanistan và gần đây là cuộc xung đột ở Syria, người dân Anh đều chống đối sự can thiệp. Bởi vì các hành động quân sự luôn để lại những hậu quả. Nó có chiều hướng làm tăng nhiệt căng thẳng và có xu thế dẫn tới có thêm các cuộc giao tranh và các cuộc xung đột vũ trang đẫm máu.
Ông cũng khuyên điều ông gọi là Việt Nam "hãy cứ tiếp tục đòi chủ quyền".
"Ở Nam Thái Bình Dương, có những hòn đảo mà chủ quyền bị tranh cãi giữa Hoa Kỳ và với chính nước Anh nhưng chúng tôi có những thỏa thuận nguyên tắc với Hoa Kỳ rằng những đảo này sẽ không phải là chủ đề của xung đột và chúng tôi sẽ cùng nhau giải quyết".
Nhà ngoại giao người Anh, nguời ở Hà Nội trong giai đoạn 1980-1982, nói rằng một viên chức ngoại giao của Việt Nam lúc đó với ông ông rằng "Chính sách đối ngoại của chúng tôi thực sự là xử lý quan hệ với Trung Quốc, họ chiếm tới 90% quan hệ đối ngoại của Việt Nam."
"Các mối quan hệ như Việt - Mỹ, Việt - Pháp, Việt - Anh hay Việt - Asean đều không là gì so với quan hệ với Trung Quốc."

Hãy lắng nghe người dân và thực hiện thay đổi

RFA tiếng Việt
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok. Phỏng vấn ông Mai Thái Lĩnh *
01-10-2013



1
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đang họp hội nghị trung ương lần thứ 8 bắt đầu từ hôm qua cho đến ngày 9 tháng 10 tới đây. Sự kiện này diễn ra trước kỳ họp Quốc hội khóa 6 nhằm thông qua một số quyết định quan trọng về vấn đề chính trị của đất nước, dân tộc.
Trong thời gian qua nhiều vị nhân sĩ, trí thức với tâm huyết muốn đóng góp ý kiến cho Đảng và Nhà Nước, Quốc hội đã lên tiếng nhiều.

Ông Mai Thái Lĩnh, nguyên phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Lạt, một nhà nghiên cứu độc lập vừa qua có thư công khai muốn tranh luận về vấn đề Thác Bản giốc của Việt Nam bị phía Trung Quốc lấn chiếm với một vị nguyên trưởng ban Biên giới chính phủ là ông Trần Công Trục. Thế nhưng yêu cầu đó không được đáp ứng. Nhân dịp này ông Mai Thái Lĩnh có một số nhận định về khả năng thay đổi từ các cấp lãnh đạo Đảng, Quốc hội và chính phủ Việt Nam hiện nay. Trước hết ông nói về việc tranh luận công khai và tiếp thu ý kiến phản biện của các cấp đó như sau:
Ông Mai Thái Lĩnh: Trong xã hội hiện nay thông tin không còn có biên giới nữa; nhu cầu tranh luận, đối thoại về những vấn đề của đất nước là hết sức cần thiết, đặc biệt vấn đề biên giới, vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tôi thấy ngay trong Quốc hội, Đảng cũng không cho quốc hội tranh luận, rồi ở ngoài báo chí cũng chỉ nói theo một chiều thôi. Theo tôi nghĩ như vậy, Đảng chứng tỏ không có gì thay đổi, mà nhu cầu của xã hội thì càng ngày càng cần thiết hơn, cho nên các diễn đàn như các trang blog, trang mạng diễn đàn hình thành. Hiện nay những trang như thế chưa được Nhà nước cấp giấy phép nhưng chúng vẫn tồn tại. Qua đó cho thấy xã hội cần thiết phải có tiếng nói, có sự đối thoại, tranh luận trên những vấn đề của đất nước để tìm ra giải pháp.
2
Thế nhưng thái độ của Đảng Cộng sản theo tôi hết sức bảo thủ, nhất là qua những phát biểu mới đây của ông Nguyễn Phú Trọng, tôi có cảm tưởng mấy ổng đang sống ở thời nào, tức không hiểu biết gì về tình hình đất nước hiện nay hết, chỉ có nghe một chiều. Như ông Nguyễn Phú Trọng có gặp cử tri cũng chỉ gặp mấy ông đảng viên, hưu trí cũng nói theo cùng một giọng điệu, rồi căn cứ vào đó tưởng là người dân nói. Tôi không biết mấy ông có biết hiện nay người dân nghĩ như thế nào không! Nhưng coi như Đảng bác bỏ hoàn toàn nhu cầu trao đổi ý kiến và đối thoại đối với người dân, đối với trí thức, đối với cả những người trước đây đã từng công tác trong bộ máy chính quyền, trong bộ máy đảng.
Gia Minh: Tình hình thực tế và nhu cầu lớn như vậy, thì xu thế có thể giúp để ‘mở ra’ được không?
3Ông Mai Thái Lĩnh: Theo thôi thực ra, nói về phía đảng họ không muốn trao đổi với ai, không muốn thay đổi gì hết, cứ khư khư ôm lấy quan niệm cũ để ngồi trên địa vị cũ đó để làm thôi. Nhưng trên thực tế, tình hình không cho phép làm như vậy. Thành ra trong tình hình thực tế hiện nay tôi nghĩ đang có chuyện gì đó có thể gọi là ‘xé rào’. Chúng ta trở lại thời kỳ trước kia, trước năm 1986 cũng như vậy- tức là tình hình kinh tế nhà nước không cho mở ra, mà trong thực tế làm ăn người ta ‘xé rào’.
Bây giờ chúng ta đang bước sang giai đoạn thứ hai về mặt văn hóa, tư tưởng, chính trị cũng có nhu cầu xé rào. Nhà nước ngăn cấm nhưng bây giờ người dân tìm cách xé rào, ví dụ những blog cá nhân, nhất là blog của những người trẻ mở ra rất nhiều. Điều đó chứng tỏ bây giờ nhà nước có muốn ngăn cấm cũng không được. Tôi nghĩ nhà nước có ngăn cấm cũng vô ích thôi, như nước đã chảy có thể khơi cho nó chảy, chứ nếu cứ tìm cách đắp đập lại thì rồi nước cứ rỉ ra đến lúc nào đó phá vỡ con đập. Những người lãnh đạo khôn ngoan, tốt hơn hết nên  
nhìn thấy tình hình thực tế như thế. Trước đây không ngăn cản được về mặt kinh tế, bây giờ văn hóa, chính trị, tư tưởng cũng không thể ngăn cản được.
Gia Minh: Sau kỳ họp Trung ương 8 này sẽ đến cuộc họp quốc hội, dù đảng không muốn, nhưng có gì sẽ ‘nới lỏng’ra không?
4Ông Mai Thái Lĩnh: Điều đó tôi chưa dám đoán trước được, nhưng nói thật ngay trong Quốc hội, trong lãnh đạo Quốc hội, có nhiều người tôi biết. Có những người trước đây là trẻ, đàn em của tôi, nay giữ đến chức ủy viên trung ương, chủ nhiệm văn phòng … Những người lãnh đạo đất nước này có một số người lớn hơn tôi một hai tuổi, nhưng phần lớn nhỏ tuổi hơn tôi, nên tôi cũng biết hết. Có một điều mà tôi ngạc nhiên là tại sao trong một Quốc hội đông đảo như vậy, trong đó phần lớn là đảng viên, nhưng sao lại không dám lên tiếng. Theo tôi nghĩ đó là điều đáng hết sức ngạc nhiên.
Vài chục năm trước đây khi những người như ông Trần Độ, Nguyễn Hộ lên tiếng; thời kỳ đó còn có thể sợ bị dập tắt, bị trù ếm; nhưng trong tình hình hiện nay không thể làm được điều đó. Ngay như anh Lê Hiếu Đằng ở Sài Gòn, ông ta cũng lên tiếng kêu gọi thành lập một đảng như vậy, dù Nhà nước có đem bao nhiêu tờ báo ra để phê phán nhưng có làm được gì ông ta đâu. Đâu có dám làm như ngày xưa đối với ông Trần Độ hay ông Nguyễn Hộ. Thế thì tại sao những người trong Quốc hội hiện nay không ai dám lên tiếng hết! Điều đó theo tôi nghĩ họ quá xa cách với người dân, họ quá hèn nhát, không dám đứng lên nói tiếng nói của người dân.
5
Tình hình này sẽ dẫn đến ‘tức nước, vỡ bờ’ như những hiện tượng nông dân đòi đất Đoàn Văn Vươn hay vừa rồi một người vì vấn đề đất đai phải bắn; họ biết làm như vậy bất hợp pháp nhưng bức bách quá họ phải làm như vậy. Trước tất cả những điều như vậy mà quốc hội không dám làm gì và các vị lãnh đạo không muốn thay đổi thì sắp tới những hậu quả không thể lường được.
Tuy nhiên tôi không phải bi quan. So với tình hình 10,20 năm trước tôi thấy có thay đổi nhiều. Bây giờ làm sao có thể ngăn cấm được tiếng nói của người dân, thậm chí trong cán bộ đảng viên.
Theo tôi tốt hơn hết, đảng nên chủ động thay đổi; nhưng căn cứ vào những gì mà các vị lãnh đạo hiện nay phát biểu thì tôi thấy ý của họ không muốn thay đổi. Ví dụ Hiến pháp vẫn giữ nguyên như vậy. Vừa rồi ông Nguyễn Phú Trọng phát biểu hầu hết nhân dân ta tán thành giữ lại điều 4, hoặc vẫn tán thành để kinh tế quốc doanh là chủ đạo. Tôi có cảm tưởng ông ta đang sống trên đất nước nào chứ không phải đất nước Việt Nam hiện nay nữa. Một người đứng đầu đảng mà phát biểu như thế hết sức thất vọng, chứng tỏ ông không biết gì về tình hình thực tế bên dưới này. Thậm chí ông cũng không hiểu nổi những người trong đảng nữa bởi vì tôi cũng tiếp xúc với nhiều đảng viên mà trước đây giữ những chức vụ cao ở địa phương, tôi thấy họ thay đổi nhiều và rất hiểu từ ngày họ về hưu họ hiểu rất nhiều nhân dân, còn mấy vị lãnh đạo cao cấp hình như họ sống ở đâu đâu không biết gì về tình hình thực tế.
Gia Minh: Cám ơn những ý kiến của ông trình bày về tình hình đất nước.
—–
* Ông Mai Thái Lĩnh  còn là một trong những thành viên của Nhóm Đà Lạt, gồm một số trí thức yêu nước, đi đầu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ, được thành lập từ nhiều năm trước và luôn bị chính quyền gây sức ép đủ kiểu. Có thể nói đây cũng là một mô hình của tổ chức Xã hội dân sự. Mời tham khảo thêm:  +  Tự cùng nhau mở các Tiểu Diên Hồng (BBC, 29/6/2007); + Tiêu Dao Bảo Cự: Một cuộc đại hội thảo và những cuộc gặp gỡ văn nghệ tự do. Tại sao không? (talawas, 28/6/2007).

Nguyễn Văn Thạnh - Vì sao XHDS Việt Nam yếu?

Nguyễn Văn Thạnh
Bài 7: Giải quyết chủ nghĩa Mackeno để thúc đẩy XHDS Nhiều người quan tâm đến tình hình đất nước đều cảm thấy bất lực, bởi lẽ xã hội đang trên đà thối nát, rất nhiều vấn đề cần chung tay, chung sức nhiều người mới giải quyết được, trong khi xung quanh giới trẻ thì cắm đầu vào việc cá nhân: học hành, chơi game, café, trung niên thì vội vàng kiếm tiền mưu sinh, già cả thì thu mình trong nhà cùng con cháu. Căn bệnh vô cảm còn gọi là Mackeno (mặc kệ nó) như một bệnh mãn tính ở xã hội Việt Nam.

Nhiều người tặc lưỡi xem nó như một thói xấu của người Việt, có từ thời khai thiên lập địa (một nhà học giả còn dày công tìm hiểu về nguồn gốc văn hóa, lịch sử cư trú để chứng minh điều này) và kết luận rằng nó là dân tộc tính, không thay đổi được.
Dưới góc nhìn của tôi, căn bệnh Mackeno có ba nguyên nhân: một là con người muốn an toàn, không muốn dính vào điều rắc rối, nguy hiểm; hai là người ta thấy không có lợi lộc gì cho bản thân khi làm việc đó; ba là người ta nhìn thấy vấn đề quá lớn, quá phức tạp, không thể làm được nên không tham gia.
Chúng ta thử phân tích, tìm hiểu căn bệnh Mackeno dưới góc nhìn này.

1. Sợ hãi, tránh điều nguy hiểm là bản năng con người:

Chúng ta mạnh miệng lên án người thờ ơ, vô cảm nhưng có bao giờ ta tự hỏi tại sao họ vô cảm không? Suy ngẫm, ta dễ dàng thấy một nguyên nhân lớn chi phối là họ sợ gặp rắc rối, sợ liên lụy, sợ mất việc, sợ người thân khổ,…?
Suy cho cùng, chúng ta là một sinh vật, chúng ta có nhu cầu bảo toàn sự sống như muôn loài. Ngoài bản năng bảo tồn sự sống, chúng ta là một sinh vật có tình cảm. Đến loài vô thức như chó, gà,… còn dũng mãnh bảo vệ con huống chi con người (ai bị gà mẹ đá khi đang nuôi con thì biết). Lẽ tự nhiên, tình yêu cộng đồng, tổ quốc, nhân dân không thể mạnh hơn tình yêu ruột thịt, tình yêu gia đình: con cái, bố mẹ, anh em, vợ chồng,… được. Đó là lẽ tự nhiên thuộc về bản chất của con người.
Bản năng sống tự nhiên, con người sẽ né tránh điều nguy hiểm cho mình và cho gia đình mình. Đặt tay lên tim, suy nghĩ thật lòng mình, hẳn chúng ta sẽ đồng ý với nhận định trên.
Để mọi người tích cực tham gia việc chung, chúng ta không thể chỉ kêu gào, lên gân tinh thần. Chúng ta cần thấu hiểu điều này ở mỗi con người, để có góc nhìn và giải quyết vấn đề một cách thấu đáo và khoa học.
Chúng ta lên án thờ ơ nhưng cộng đồng không làm gì khi một nhà báo trẻ lên tiếng vì lương tâm và điều đúng thì bị mất việc. Anh còn vợ trẻ, con thơ, ai nuôi, ai chăm lo cho họ khi anh mất việc? Những nhà báo còn lại, thấy gương thảm của anh sẽ biết thân mà im miệng.
Chúng ta lên án thờ ơ nhưng khi một cô giáo khuyên học trò nên lên mạng vào các trang diễn đàn để mở mang hiểu biết liền bị sa thải, đuổi dạy. Cuộc sống cô hiện nay thế nào? Gia đình cô sống ra sao? Không ai quan tâm, không ai biết?
Chúng ta lên án vô cảm nhưng khi một cô giáo dũng cảm làm luận án thạc sĩ về một nhóm xuất bản không chính thống (nhóm mở miệng) thì bị đuổi việc nhưng chúng ta lại thinh nín.
Chúng ta lên án vô cảm nhưng lại thờ ơ ngồi xem một chủ quán café “giải thiêng” (café Cộng) bị thanh tra, bị đánh tơi bời.
Tôi có thể kể ra vô vàng những ví dụ như thế. Tại sao chúng ta không làm gì bảo vệ người lên tiếng mà chỉ chăm chăm kêu gào vô cảm? Tôi thấy rất nhiều người giàu có luôn miệng kêu gào vô cảm nhưng không bao giờ cho đi một đồng để giúp người lên tiếng bị nạn. Thật là nghịch lý trong tư duy.
Thuốc đặc trị bệnh Mackeno là cộng đồng hãy chung tay bảo vệ người lên tiếng, người đi tiên phong đóng góp cho sự nghiệp dân chủ hóa đất nước. Người có của góp của, người có công góp công. Khi một người tiên phong an toàn trong vòng tay cộng đồng thì lớp lớp người sẽ dấn thân.

2. Người ta chưa thấy trách nhiệm, quyền lợi của mình trong công việc chung.

Mỗi ngày, dù trời mưa gió, dù nắng nóng, dù bụi khói tắt đường, ngập đường,… nhưng hàng triệu con người vẫn ùn ùn đi làm, trong số đó không biết bao nhiêu ông bố bà mẹ chịu đựng gian truân với niềm hy vọng cho con sau này có tương lai, sau này sung sướng đỡ khổ hơn. Họ chỉ nghĩ đơn giản là có tiền, có của cho con là con ấm thân sung sướng chứ nào có biết sự liên đới từng cá nhân đến vận mệnh đất nước. Chúng ta cần làm sao để những bậc bố mẹ khả kính này biết rằng dù cho con biệt thự nhưng trong một đất nước tan nát thì đời con cũng không yên ổn: không hiểm họa “Lê Văn Luyện” thì đường xá đầy rẫy ổ gà ổ voi, không đường ổ gà ổ voi thì thực phẩm ô nhiễm, không khí ô nhiễm cũng gây hại cho con.
Chủ nghĩa Mackeno xuất phát từ tình yêu thương gia đình, lo sợ gia đình liên lụy, khổ sở thì chúng ta phải dùng chính tình thương yêu thương này để chữa trị căn bệnh đó. Hãy nói về tình yêu thương, nói về tương lai con cái, nói về tương lai chung để các bậc bố mẹ biết rằng quan tâm đến chính trị, chiến đấu chống cái ác, tranh đấu cho nền dân chủ là tranh đấu cho một tương lai bền vững cho con cháu. Không có dân chủ thì không có tương lai dù có của tiền nhiều như núi.
Hàng triệu sinh viên nếu biết rằng họ sẽ bị thất nghiệp, không có tương lai trong một đất nước nát bét vì chính trị tồi thì chúng sẽ quan tâm đến chính trị. Chúng ta phải làm sao cho giới trẻ biết tham gia, quan tâm chính trị cũng là xây dựng tương lai cho mình, nó quan trọng không kém gì việc cố gắng học tốt.
Khi con người ý thức được tương lai mình, quyền lợi mình gắn với những công việc chung thì chủ nghĩa Mackeno sẽ mất dần đất sống.

3. Người có lý trí sẽ biết viễn kiến công việc:

Trong cuộc sống, chúng ta thấy một điều, người có lý trí và thực dụng thường lượng định công việc ở tính hiệu quả. Nếu thấy công việc đầy rủi ra và không hiệu quả họ sẽ lượng định chi phí cơ hội quá cao và họ không làm. Rất nhiều phong trào, dự án dân chủ không được tổ chức tốt, sát với thực tế, khả thi, gần như chúng được phát động bỡi những người giàu đầu óc tưởng tượng, lý tưởng nên không thu hút được người thực dụng, có lý trí. Thay vì nghĩ lại công việc tổ chức và dự án chính trị được đưa ra thì chúng ta lại lên án sự thờ ơ, vô cảm.
Dân chủ là một quá trình lâu dài, có rất nhiều việc phải làm, nó tương tự như việc xây dựng một tòa nhà cao tầng. Chúng ta cần một công trình sư với bản thiết kế rõ ràng, chỉ huy làm những việc cụ thể có khả năng làm được trong từng thời điểm cụ thể. Có như vậy mới huy động sức của đám đông của mọi thành phần tham gia vào công trình chung.

4. Lời kết

Chủ nghĩa Mackeno sinh ra từ bản chất con người là muốn sống an toàn cho mình và cho người thân thì phải đi từ bản chất con người mời giải quyết được. Chúng ta cần “khai dân trí” để người dân thấy được trách nhiệm cá nhân trong cộng đồng, thấy được tương lai mỗi cá nhân gắn với tương lai đất nước. Điều mà từ lâu người Mỹ xem như một tín điều là “lợi ích riêng được nhận thức đúng”. Và trên hết cộng đồng phải chung ta bảo vệ những người lên tiếng, đấu tranh cho bất công; bảo vệ, ủng hộ không chỉ bằng lời hay chót lưỡi đầu môi mà phải bằng hành động thực tế.
XHDS ra đời, lớn mạnh trên cơ sở những cá nhân tự nguyện liên kết nhau để tranh đấu cho một điều tốt đẹp gì đó. Nó còn mãi là đứa trẻ sơ sinh nếu chủ nghĩa Mackeno còn thống trị dân tộc VN.
Để XHDS có thể lớn mạnh thành chàng trai cường tráng, gánh vác sứ mệnh kiến tạo nền dân chủ nặng nề sắp tới, việc đầu tiên phải làm là chúng ta hãy chung tay giải quyết chủ nghĩa Mackeno.
Nguyễn Văn Thạnh
Bài tiếp: Quyền con người đi trước lót nền cho XHDS.

 

QUYỀN LỰC của KHÔNG QUYỀN LỰC - Phần 10

       
* VACLAV HAVEL
(tiếp theo - Phần 10)
XV. 
... Cố gắng sống trong sự thật của người bán rau quả có thể được giới hạn trong việc không làm một số điều nhất định. Anh quyết định không đặt cờ trong cửa sổ khi động cơ duy nhất cho việc đặt cờ lên cửa sổ chỉ là để tránh bị gã công an khu phố sách nhiễu; anh không bỏ phiếu trong những kì bầu cử mà anh cho là giả tạo; anh không giấu ý kiến của mình với cấp trên. Nói cách khác, anh có thể không làm gì hơn là từ chối phục tùng những đòi hỏi nhất định của hệ thống đối với anh (vốn đương nhiên không phải là một bước tiến nhỏ).
Điều này, tuy thế, có thể thành cái gì đó lớn hơn. Người bán rau quả có thể bắt đầu làm cái gì đó cụ thể, cái gì đó vượt lên hành động tự vệ cá nhân cấp thời chống lại sự giật dây, cái gì đó có thể thể hiện cảm nhận mới tìm ra của anh về trách nhiệm cao hơn. Ví dụ, anh có thể tổ chức những người đồng nghiệp bán rau quả hành động chung để bảo vệ lợi ích của mình. Anh có thể viết thư cho các cơ quan, kêu gọi sự chú ý của họ về các ví vụ mất trật tự và bất công xung quanh anh. Anh có thể tìm sách báo chui, copy chúng và cho bạn bè mượn. 
    => Quyền lực  Phần 1;> Phần 2;> Phần 3 ;> Phàn 4 ;> Phần 5 > Phần 6 ; > Phần 7 ; > Phần  8 ;> Phần 9 ;
Nếu cái tôi gọi là sống trong sự thật là điểm khởi đầu về mặt sinh tồn (và đương nhiên là tiềm ẩn cả mặt chính trị) căn bản cho mọi hiện tượng như "sáng kiến của các công dân độc lập" và "bất đồng chính kiến" hay "đối lập" sẽ được làm rõ trong tiểu luận này, thì điều này không có nghĩa là mọi cố gắng sống trong sự thật đều ngay lập tức thuộc về những phong trào này. Ngược lại, trong ý nghĩa rộng nhất và nguyên bản nhất của nó, sống trong sự thật bao trùm một lãnh địa rất rộng mà ranh giới rất mờ nhạt và khó vạch rõ, một lãnh địa gồm đầy những biểu hiện khiêm tốn của ý hướng nhân văn, thì tuyệt đại đa số những biểu hiện ấy vẫn vô danh và những ảnh hưởng chính trị của chúng có lẽ sẽ không bao giờ được cảm nhận hay mô tả rõ ràng hơn là một phần của không khí hay cảm xúc xã hội. Hầu hết những biểu hiện này vẫn chỉ là những sự nổi dậy sơ đẳng chống lại sự giật dây: bạn chỉ đơn giản là đứng thẳng và sống trong nhân phẩm hơn, như một cá nhân. 
Ở đâu đó, nhờ tự nhiên, các giả định và nghề nghiệp của một số người, cũng nhờ những biến số ngẫu nhiên, thí dụ các đặc thù của một bối cảnh cục bộ, các bạn bè và v.v..., mà một sáng kiến hữu hình và thống nhất hơn có thể xuất hiện từ những vùng đất xa xôi vô danh và bao la này, một sáng kiến cao hơn hẳn những "cuộc nổi loạn" cá nhân và chuyển thành những công việc tự giác, có tổ chức và hướng đích hơn. Cái điểm mà ở đó sống trong sự thật không còn là một sự phủ định đơn thuần cuộc sống dối trá và được cụ thể hóa theo một cách nhất định, là điểm mà có cái gì đó được sinh ra, có thể gọi là "đời sống chính trị, xã hội và tinh thần độc lập của xã hội". Đời sống độc lập này không tách rời phần còn lại của cuộc sống ("cuộc sống phụ thuộc") bằng một ranh giới được phân định rõ ràng. Cả hai thường xuyên cùng tồn tại trong một con người. Tuy thế, tiêu điểm quan trọng nhất của nó được đánh dấu bởi mức độ tương đối cao của giải phóng nội tâm. Nó bơi trên đại dương mênh mông của đời sống bị giật dây như những chiếc thuyền con, bị sóng dập vùi nhưng luôn nhấp nhô như là sứ giả hiện hữu của sống trong sự thật, nói lên những mục tiêu đang bị đàn áp của cuộc sống. 

Đời sống độc lập này của xã hội là gì? Dải tần của các biểu hiện và hoạt động của nó dĩ nhiên là phải rất rộng. Nó bao gồm mọi thứ, từ tự giáo dục và nghĩ về thế giới, từ các hoạt động sáng tác tự do và truyền tải nó tới người khác, đến cách phong phú tự do bày tỏ thái độ công dân, bao gồm cả những tổ chức xã hội độc lập hình thành tự phát. Tóm lại, nó là một khu vực mà trong đó sống trong sự thật được chi tiết hóa và vật chất hóa theo cách nhìn thấy được. 

Vì thế, cái sau này sẽ được nhắc đến như là "sáng kiến công dân", "phong trào bất đồng chính kiến", thậm chí đối lập, nổi lên như là một phần mười hiển hiện nhô khỏi mặt nước của tảng băng, từ khu vực đó - từ đời sống độc lập của xã hội. Nói cách khác, cũng hệt như đời sống độc lập của xã hội bắt rễ từ sống trong sự thật theo nghĩa rộng nhất của từ này, như là cách biểu hiện chi tiết và tách biệt của đời sống đó, "bất đồng chính kiến" cũng dần trỗi dậy từ "đời sống độc lập của xã hội". Tuy vậy, vẫn có một khác biệt đáng kể: nếu "đời sống độc lập của xã hội", ít nhất là bề ngoài có thể được hiểu như là một dạng cao hơn của sống trong sự thật, thì sẽ kém rõ ràng hơn nhiều rằng "các phong trào bất đồng chính kiến" lại nhất thiết là dạng cao hơn của "đời sống độc lập của xã hội". Chúng chỉ đơn giản là một biểu hiện của nó, và mặc dù có thể chúng dễ nhận ra nhất nhất, và mới nhìn thoáng qua, là biểu hiện chính trị nhất (và được chi tiết hóa rõ nhất) của nó, chúng còn lâu mới là trưởng thành nhất, thậm chí quan trọng nhất, không về mặt xã hội nói chung, mà thậm chí về mặt ảnh hưởng chính trị trực tiếp. Sau rốt, "bất đồng chính kiến" đã bị bứt khỏi ngọn nguồn của nó một cách giả tạo, bằng việc đặt cho nó một cái tên đặc biệt. Tuy nhiên, trên thực tế, khó có thể nghĩ về nó biệt lập khỏi toàn bộ cái nền chung mà từ đó nó phát triển lên, cái mà nó là một phần hữu cơ và là cái cung cấp nguồn sức mạnh cho nó. Dù gì đi nữa, từ những gì trình bày ở trên về những dị biệt của hệ thống hậu toàn trị, rõ ràng là cái tưởng chừng như là có tính chính trị nhất trong các lực lượng tại một thời điểm cho trước, cái vẫn tự nghĩ về mình theo lối ấy, trên thực tế lại không nhất thiết là một lực lượng như vậy. Phạm vi mà nó trở thành một lực lượng chính trị thực sự hoàn hoàn phụ thuộc vào bối cảnh tiền-chính trị của nó. 

Cái gì sẽ tiếp sau mô tả trên? Không nhiều hơn và không ít hơn điều này: không thể nói về cái mà các "nhà bất đồng chính kiến" đang làm trên thực tế, và ảnh hưởng của những việc họ làm mà lại không trước hết nói về những việc của tất cả những người, bằng cách này hay cách khác, tham gia vào cuộc sống độc lập của xã hội, những người hoàn toàn không nhất thiết phải là "nhà bất đồng chính kiến". Họ có thể là các nhà văn viết theo ý thích mà không thèm để ý đến kiểm duyệt hay những mệnh lệnh chính thức, những người truyền bá tác phẩm của họ - trong trường hợp các nhà xuất bản chính thức từ chối in chúng - với tư cách là samizdat (văn chương bí mật, văn chương “không chính thống”). Họ cũng có thể là các nhà triết học, sử học, xã hội học, hay tất cả những nhà nghiên cứu độc lập, mà nếu như không thể qua các kênh chính thức hoặc bán chính thức, lưu truyền tác phẩm của mình trong samizdat, hay những người tổ chức các cuộc đàm luận, thuyết giảng và hội thảo tư nhân. Họ có thể là các giáo viên, những người kín đáo dạy thanh niên những điều vốn bị "cấm kị" trong các trường công, những linh mục đang tại vị, hoặc đã bị [chính quyền] phế truất, vẫn cố gắng thực hành đời sống tôn giáo tự do; các họa sĩ, nhạc sĩ và ca sĩ, những người đang lao động nghệ thuật mặc cho nhà cầm quyền nhòm ngó thế nào; những người, bằng mọi phương tiện sẵn có, cố gắng thể hiện và bảo vệ các lợi ích xã hội thực sự của người lao động, trả lại ý nghĩa đích thực cho các công đoàn, hay sáng lập các công đoàn độc lập; những người không sợ thu hút sự chú ý của các quan chức tới những trường hợp bất công, những người đấu tranh để được thấy luật lệ đang được bảo vệ; và những nhóm thanh niên khác nhau đang gỡ bở những sự giật dây và sống theo chính cách của mình, theo tinh thần của hệ giá trị của mình. Bảng liệt kê vẫn còn mãi. 
Rất ít người nghĩ đến chuyện gọi tất cả những người này là "nhà bất đồng chính kiến". Và dù thế, chẳng phải những "nhà bất đồng chính kiến" nổi tiếng cũng chỉ là người bình thường như họ hay sao? Chằng phải tất cả những hành động ấy chính là cái mà những "nhà bất đồng chính kiến" đang thực hiện hay sao? Chẳng phải những người mà ta vừa kể không tạo ra các công trình học thuật và đăng chúng trong samizdat? Chẳng phải họ không viết kịch, viết tiểu thuyết và thơ? Chẳng phải họ cũng đang vật lộn chống lại đủ loại bất công và cố gắng tìm hiểu và thể hiện những quan tâm xã hội thực sự của vô số bộ phận dân chúng? 
Sau khi đã cố gắng chỉ ra các nguồn mạch, cấu trúc bên trong và một số mặt của thái độ "bất đồng chính kiến" như trên, rõ ràng tôi đã chuyển góc nhìn từ bên ngoài sang một cuộc điều tra về những gì mà các "nhà bất đồng chính kiến" đang thực sự làm, và làm thế nào mà các đề xướng của họ được thực hiện, và chúng sẽ dẫn tới đâu. 
Vì thế, kết luận thứ nhất được rút ra là, cái không gian hoạt động căn bản và quan trọng nhất, cái quyết định mọi không gian khác, chỉ đơn giản là một cố gắng tạo ra và hỗ trợ "đời sống độc lập của xã hội" với tư cách là một sự thể hiện cụ thể của "sống trong sự thật". Nói cách khác, là hành động tôn vinh sự thật một cách kiên định, có mục đích và cẩn trọng, và tổ chức việc tôn vinh này. Điều này, rốt cuộc, là tự nhiên thôi: nếu sống trong sự thật là xuất phát điểm cơ bản cho mọi nỗ lực của con người chống lại sức ép tha hóa của hệ thống, nếu nó là cơ sở duy nhất có ý nghĩa cho bất kì hành động có ý nghĩa chính trị nào, và nếu, cuối cùng, nó cũng là nguồn hiện sinh sâu sắc nhất của thái độ "bất đồng chính kiến", thì thật khó tưởng tượng được rằng thậm chí một sự "bất đồng chính kiến" công khai còn có cơ sở nào khác ngoài tôn vinh sự thật, tôn vinh một cuộc sống chân thành và cố gắng mở đường cho những mục tiêu đích thực của cuộc sống....
(còn tiếp)

------------------
[1]Tác giả dùng chiết tự: đối lập - opposition với "kiến lập" - position và tiếp đầu tố "đối" - op. (Biên dịch)
[2]Tại đoạn này, Havel đã chính thức trả lời một cách hiệu quả lời kết tội của các báo chí Czechoslovakia, trong đó “bất đồng chính kiến” đôi khi được hiểu là odpadlik. Nghĩa đen của từ này là “kẻ bị sa ngã”, hay “kẻ phản bội” hoặc “tái phạm” (Biên dịch).
[3]Ủy ban Bảo vệ Công nhân, một tổ chức của Ba Lan tồn tại trước khi có sự ra đời của Công đoàn Đoàn kết năm 1980. Sau đó nó được đổi tên thành KSS-KOR (Ủy ban Tự vệ Xã hội-KOR) để nhấn mạnh đến cam kết bảo vệ các quyền dân sự cũng như sự ủng hộ của nó đối với các sáng kiến xã hội chống lại các thể chế của nhà nước toàn trị (Biên dịch).

 

Cảnh báo về tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục

 

 

 

 


(TBKTSG Online) - Một báo cáo công bố hôm 1-10 của Tổ chức Minh bạch quốc tế cảnh báo tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục đã trở nên phổ biến ở Việt Nam, đe dọa khả năng tiếp cận giáo dục công của người dân.
Sẵn sàng hối lộ
Trong phần nghiên cứu về Việt Nam, báo cáo tham nhũng toàn cầu (GCR) về giáo dục của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) nêu rõ, trong những năm gần đây nhu cầu ngày càng tăng về giáo dục chất lượng cao cùng với nhận thức về hạn chế trong chuẩn giữa các trường công đã làm bùng nổ cuộc cạnh tranh, chạy đua vào trường “điểm”.
Báo cáo dẫn cuộc khảo sát trực tuyến gần 20.000 người do báo điện tử Dân trí thực hiện cho thấy 62% phụ huynh thừa nhận họ đã sử dụng các mối quan hệ cá nhân hoặc tiền để chạy trường, lớp cho con. Có 40% phụ huynh cho rằng chất lượng trường học và uy tín của trường là lý do họ chọn trường “điểm” để cho con học trái tuyến.
Báo cáo chỉ ra rằng, tham nhũng trong việc tuyển sinh phổ biến ngay từ cấp giáo dục ban đầu, với chi phí hối lộ có thể lên tới 3.000 đô la Mỹ để vào được một trường tiểu hoc danh tiếng và khoảng 300- 800 đô la Mỹ để vào được một trường “thường thường bậc trung”.
Báo cáo dẫn lời một phụ huynh thừa nhận, việc chi 1.000 đô la Mỹ để cho con vào một trường tiểu học hàng đầu là “hợp lý” và “chấp nhận được” bởi mong muốn con cái được giáo dục tốt là bình thường. Như vậy là nhiều bậc phụ huynh sẵn sàng và tự nguyện đưa hối lộ để đối lấy việc con cái họ được nhận vào một trường “điểm”.
Gia tăng bất bình đẳng
Báo cáo cho hay, một trong những tác động lớn nhất của tham nhũng trong tuyển sinh vào các trường phổ thông là làm gia tăng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục.
“Với những chi phí lớn và liên tục phát sinh gắn với tham nhũng trong tuyển sinh vào các trường phổ thông, sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên khi hiện tượng này dẫn tới sự gia tăng bất bình đẳng xã hội, vì những trẻ em nghèo hơn sẽ bị gạt ra khỏi trường, ngay cả nếu chúng thuộc diện đúng tuyến, hoặc sẽ bị phân biệt đối xử bởi không có khả năng đưa hối lộ”, báo cáo nêu rõ.
Báo cáo cảnh báo hối lộ làm mất đi lòng tin vào hệ thống giáo dục và tăng áp lực cho mọi người cùng tham gia vào hành vi tham nhũng, từ đó khiến cho vấn đề ngày càng phát triển theo hướng trầm trọng hơn.
Theo báo cáo, mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thiết lập một số biện pháp hành chính để giảm tình trạng chạy trường, nhưng những biện pháp này chỉ có tác dụng khiêm tốn và ngắn hạn. Báo cáo khuyến nghị, với vai trò vừa là nạn nhân, vừa là chủ thể chính, phụ huynh cần đồng lòng chấm dứt nạn chạy trường.
“Khi tham nhũng trong tuyển sinh vào các trường đang dần nhận được sự hợp tác và chấp nhận của đa số phụ huynh, giáo viên, cán bộ quản lý nhà trường thì điều đầu tiên cần làm là chú trọng tới nâng cao nhận thức về tác động tiêu cực của hiện tượng này”, báo cáo nêu rõ.

Cắn táo như Bạch Tuyết, không chết cũng uổng

Điều xấu xa thực sự đằng sau một nàng công chúa chưa chắc đã phải là một bà mẹ kế hay phù thủy độc ác.
Nếu đã thuộc lòng câu chuyện cổ tích trên, bạn có thể đọc thêm “Những câu chuyện không phải là cổ tích” được viết bởi tiến sĩ tâm lý học Sue Gallehugh để hiểu điều xấu xa thực sự đằng sau một nàng công chúa chưa chắc đã phải là một bà mẹ kế hay phù thủy độc ác.
“Nổi bật” là một món quà, không phải là cái tội!
Định kiến thứ nhất dành cho nàng Bạch Tuyết. Từ nhỏ nàng đã phải sống như thể một con búp bê được lồng trong khung kính, nàng khao khát được mọi người nhìn  nhận như một vật thể sống có tâm hồn thực sự. Họ luôn miệng gọi nàng là Bạch Tuyết, nhưng thực tế nàng muốn mọi người biết rằng mình tên là Lisa. Mọi người cho rằng những cô gái có nhan sắc thì thường kém thông minh, và thậm chí họ còn cho rằng nàng chỉ sống nhờ vào nhan sắc…chấm hết. Những định kiến vô lý đó khiến nàng không còn dám tham dự các buổi dạ vũ, tránh xa lời tán dương của mọi người.
Một vài cô gái xung quanh tôi trở nên cô độc đơn giản bởi vì so với những người khác, cô ấy mắc tội “nổi bật”. Thật tức cười vì một số người tự tử chỉ vì mình không xinh đẹp, còn một số lại tự kỉ vì quá-xinh-đẹp. Theo quan điểm của tôi thì nếu xinh đẹp là một cái tội thì hẳn là các nàng hoa hậu đều đáng lãnh án tử hình. Xinh đẹp là một đặc ân mà không phải ai cũng có, vì thế hãy dùng nó làm nền móng mà xây dựng lên một ngôi nhà tri thức vững chắc, chắc hẳn mọi định kiến về bạn sẽ “vút bay”. Không ai có thể từ chối sức hút của một cô nàng xinh đẹp và giỏi giang cả. Chỉ có những kẻ tầm thường mới tạo ra định kiến để làm thoả mãn lòng ghen tức của mình đối với người khác. Đừng tự cô lập mình chỉ vì kẻ khác muốn như vậy. Chúng ta có quyền làm những điều mình muốn và quan trọng hơn hết là quyền sống thực với bản thân.
Be what you wanna be!
Đừng tự nhốt mình trong những cái biệt danh!
Những định kiến còn lại xung quanh lâu đài của Bạch Tuyết là “dành cho” bảy chú lùn và cả anh chàng hoàng tử. Ethan, Doug, Larry, Gary, Donald, Greg và Chase là tên của bảy chú lùn, nhưng thay vì trông đợi để được gọi bằng những cái tên đẹp đẽ ấy, họ lại bị gọi bằng những biệt danh như là: Người Lùn, Khờ Khạo, Vui Vẻ, Cáu Kỉnh, Ngái Ngủ, Hắt Xì và Mắc Cỡ. Lý do mà họ bị người khác gọi bằng những cái biệt danh đó chỉ vì một vài tật xấu của mình.
Tôi đặc biệt ấn tượng về chú lùn Larry (được gọi là Vui Vẻ). Chú có một người cha kỳ quái, ông đòi hỏi mọi người trong nhà đều phải vui vẻ ngay cả khi họ buồn, nếu không thực hiện đúng như vậy, họ sẽ phải bị trừng phạt. Hậu quả là cách sống đó dần ăn sâu vào tiềm thức của chú, đồng thời khiến những cảm xúc thật của chú bị chai sạn ngày qua ngày. Tệ hơn nữa, chú dần quên đi làm thế nào để sống cho bản thân mình mà ngược lại là luôn luôn trăn trở phải làm sao để được lòng tất cả mọi người…Còn chú lùn Gary (được gọi là Cáu Kỉnh) thì cho rằng: “Nếu mình không quen biết, không mở lòng ra với ai thì họ sẽ chẳng bao giờ gần gũi mình được, và như thế họ sẽ không làm mình đau khổ được nữa.”… vậy là chú quyết định giết chết các mối quan hệ xung quanh bằng chính sự cáu kỉnh của mình.
 Không phải cứ mặc quần sịp đỏ thì anh ấy trở thành siêu nhân, mà bản thân anh ấy làm được những điều người khác không thể. Hãy tạo ra biệt danh chứ đừng để biệt danh tạo ra bạn!
Định kiến không phải là bạn
Trong cổ tích, thậm chí đến hoàng tử cũng cảm thấy mệt mỏi với cái biệt danh Hào Hoa. Chàng ta chia sẻ: “Mọi người luôn nhìn vào ta và trông đợi mọi cử chỉ, hành động của ta đều hào hoa và phong nhã như chính tên gọi của ta vậy. Nhưng nàng biết không, ta đang đói đến mức có thể ăn bốc mà không cần muỗng nĩa, nếu mọi người không phiền lòng!”…
Phải, chúng ta thường quen trói buộc mình trong những định kiến mà kẻ khác đã tạo sẵn. Ban đầu chúng ta sẽ có thái độ tức giận, phản kháng, nhưng sau cùng thì chúng ta vô tình xem chúng là một phần của cuộc đời mình. Chúng ta chấp nhận đơn giản vì nghĩ rằng chả thể làm gì khác được, và hiển nhiên sự chấp nhận khiến chúng ta trở thành “đồng loã” trong việc tự hành hạ bản thân mình.
Tôi cũng đã từng là nạn nhân của những biệt danh “tiêu cực”. Ban đầu tôi cũng không muốn gây chiến vì cho rằng sự im lặng của mình rồi sẽ dập tắt tất cả, nhưng suy nghĩ đó là sai lầm. Sau cùng, tôi quyết định sẽ “tặng” cho kẻ gọi tôi bằng biệt danh một ánh mắt nói-thử-một-lần-nữa-xem. Nếu nói việc “đạp đổ” định kiến là khó thì nó sẽ khó, còn nhận định là dễ thì nó sẽ dễ. Lần thứ nhất ra sức đấu tranh cho kẻ khác thấy rằng định kiến mà chúng đặt lên mình là sai, dẫu có thất bại thì tôi nghĩ rằng lần thứ hai, thứ ba sẽ khá hơn.
Thành công có xảy ra hay không còn tuỳ thuộc vào bạn có sức chiến đấu đến đâu.
Kẻ tạo ra định kiến nếu phải tử hình thì chăc chắn kẻ im lặng chấp nhận định kiến cũng không thoát khỏi tội “đếm lịch”. Chúng ta sẽ có lỗi với chính bản thân mình nếu tạo cơ hội cho kẻ khác đặt để định kiến lên mình. Tôi tin rằng bạn đủ mạnh mẽ và thông minh để tìm ra cho mình những biện pháp đấu tranh hiệu quả. Hãy mạnh dạn bước ra khỏi định kiến và sống thực với bản chất của mình, bạn nhé!
Theo TTT

Sách đỏ lại sẽ ghi tên con người?

-"Nếu tàn phá hết thiên nhiên/ Sách đỏ lại sẽ ghi tên CON NGƯỜI". Câu thơ ấy bắt đầu đúng, với Việt Nam.
>>Chôn hóa chất độc: Sao chưa khởi tố?
>> Vụ chôn hóa chất: Đủ căn cứ khởi tố hình sự
Tuy chưa đến mức hoảng loạn về ô nhiễm môi trường như ở Trung Quốc nhưng với vô vàn lý do, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đã ở mức báo động. Có thể nói không ngoa: Ra ngõ gặp... ô nhiễm.
Chỉ nhìn vào thành phố Hà Nội- Thủ đô được coi là văn minh của nước Việt, cũng đã thấy rõ điều đó. Ô nhiễm rác thải, nước thải, ô nhiễm bụi, tiếng ồn bủa vây cuộc sống hàng ngày của người dân.
Sẽ chẳng có gì là ngạc nhiên khi nhiều khách nước ngoài phàn nàn về tình trạng trên và cũng chẳng sợ mất đi niềm "tự hào dân tộc" khi chúng ta tự nhận Việt Nam là một trong những nước, và Hà Nội là một trong những thủ đô bị ô nhiễm môi trường. Bởi chỉ có có sự nhìn nhận khách quan, trung thực hiện trạng ô nhiễm môi trường, thì mới có đủ quyết tâm và tỉnh táo để tìm ra các giải pháp "cứu" môi trường ở đất nước ta. Sẽ là quá muộn, nếu không kịp thời có những giải pháp đúng,  vì rõ ràng ô nhiễm môi trường là "cái chết được báo trước"!
Vì sao độ "ác tính" cao hơn?
Ba yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường là cấu trúc cơ bản, hợp lý và hài hòa  bảo đảm sự tồn tại, ổn định và phát triển của một quốc gia. Trong đó, con người có vai trò quyết định cho tính bền vững và sự ổn định của kinh tế và môi trường. Ở đây, ta thấy yếu tố kinh tế do quan hệ giữa con người với tự nhiên (đất, nước, không khí, và các loại tài nguyên), và tác động của con người làm cho sự phát triển kinh tế  nhanh hay chậm, lành tính hay... ác tính.
Từ nhận định trên, có thể thấy quan hệ con người với tự nhiên có tính tự phát sẽ dẫn đến tàn phá môi trường. Điển hình là dưới thời chủ nghĩa tư bản từ thế kỷ 20 trở về trước, càng lùi xa càng đậm nét hoang dã và tàn bạo.
Và ở nhiều nước ngày nay, người ta đã tận dụng các thành quả khoa học kỹ thuật và công nghệ ứng dụng vào quá trình tác động môi trường sống nên sức tàn phá kinh khủng hơn.
ô nhiễm môi trường, Hà Nội, khói bụi, ao hồ, tự hào dân tộc, phát triển kinh tế
Nhiều sông hồ ở Hà Nội ô nhiễm nặng. Ảnh: Hanoi.org.vn
Quan hệ  xã hội góp phần gián tiếp nhưng rất quyết định vào quá trình lao động sản xuất và tái sản xuất theo hướng thiện hay ác. Có nghĩa là nó góp phần vào sự hủy diệt môi trường nhanh, rất lãng phí hay từ từ và có phần phục hồi, tái tạo nhất định. Đó là chế độ chính trị  (dân chủ hay độc tài), quan hệ phân phối lợi ích, nền tảng văn hóa, hệ thống pháp luật và năng lực quản lý của bộ máy công quyền.
Chế độ xã hội chủ nghĩa một thời theo mô thức của Liên Xô - Đông Âu trên lý thuyết là sử dụng lao động, tài nguyên và phân phối có kế hoạch nên sự phá hoại môi trường ít hơn. Thậm chí, thể hiện quan điểm rất đúng đắn, họ đã từng khuyên can ta chưa nên khai thác bôxit Tây Nguyên mà hãy chờ đợi khi có công nghệ tiên tiến sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, đỡ tổn hại đến môi trường.
Hay nói cách khác, "đời cha không ăn mặn" thì coi như có của để dành cho các thế hệ đời sau.
Lợi ích nhóm "tầm thế giới"
Môi trường là vấn đề chung của cả thế giới chứ không riêng gì của Việt Nam.  Quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa cũng là quá trình tàn phá môi trường dẫn đến tình hình thế giới phải có những hội nghị bàn về việc phát triển bền vững , chống biến đổi khí hậu, nước biển dâng vv...Tại các hội nghị này, không phải các nước đều thống nhất là phải có biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường mà còn có sự đùn đẩy cho nhau vì lợi ích nhóm ở... tầm thế giới.
Công nghệ xanh đã được đề cập tối thiểu từ sau đại chiến thế giới lần thứ II. Trước đó, đã có những công trình nghiên cứu về sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng thủy triểu .... nhưng vẫn ỳ ạch, chậm phát triển. Mãi gần đây, trước nguy cơ của khủng hoảng năng lượng mới bắt đầu tập trung vào việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, công nghệ sạch để nâng cao hiệu suất (cũng là để tăng hiệu quả, giám giá thành, ...) của những nguồn năng lượng tái sinh.
Sau  đại chiến thế giới lần thứ II, các quốc gia tập trung vào sử dụng năng lượng nguyên tử với các nhà máy điện nguyên tử vì đã có sẵn công nghệ xử lý các nguyên tố phóng xạ được vận dụng vào việc sản xuất vũ khí nguyên tử. Nói cách khác, các nhà tư bản tài phiệt không mặn mà trong việc chịu bỏ tiền đầu tư để sử dụng các nguồn năng lượng sạch, tái sinh, tuy các nhà khoa học đã đi trước.
Đầy mâu thuẫn và nghịch lý
Theo cả nghĩa đen và bóng, chỉ riêng lĩnh vực phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, luôn tồn tại mâu thuẫn và nghịch lý. Mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ môi trường thiên nhiên, một vấn đề mang tính chất sinh tử không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với cà thế giới. Bởi vậy, người ta mới đúc kết thành thơ: "Nếu tàn phá hết thiên nhiên/ Sách đỏ lại sẽ ghi tên CON NGƯỜI"
Nhận thức, ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của nhiều cấp ủy, chính quyền, cán bộ quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng hiện còn rất yếu kém, hạn chế. Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ, đúng mức về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường đối với sự nghiệp phát triển bền vững đất nước. Còn tồn tại khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành động, giữa cam kết và thực hiện. Đặc biệt, trong chỉ đạo, điều hành, tư tưởng ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ yêu cầu bảo vệ môi trường còn phổ biến.
Ý thức về bảo vệ môi trường vẫn chưa thành thói quen, nếp sống của nhân dân. Các thói quen xấu gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng như vứt rác, chất thải, xác súc vật bừa bãi ở nơi công cộng, nguồn nước... chưa được loại bỏ, thậm chí một số nơi còn phổ biến.
Ý thức chấp hành Luật Bảo vệ môi trường và giữ gìn vệ sinh môi trường của các hộ sản xuất, kinh doanh, nhất là các hộ sản xuất, kinh doanh thuộc các làng nghề rất kém. Một số nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh còn thấp, chưa chủ động, tự giác thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường, phần lớn vẫn chạy theo lợi nhuận, coi nhẹ bảo vệ môi trường, thậm chí là tàn phá. Còn một bộ phận không nhỏ có tư duy thiếu tôn trọng thiên nhiên, hành vi thái độ ứng xử, lối sống, thói quen tiêu dùng thiếu thân thiện với môi trường, ý thức bảo vệ môi trường kém.
Nhiều quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường còn chồng chéo, mâu thuẫn, không khả thi, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời, việc thực thi pháp luật chưa nghiêm. Vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ngày càng tinh vi nghiêm trọng,  điển hình như vụ ô nhiễm sông Thị Vải, chôn thuốc trừ sâu của công ty Nicotex  Thanh Thái  ở Thanh Hóa vv... Công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường còn hạn chế về cả số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, trang thiết bị còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước chưa phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường, đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, chưa theo kịp được các yêu cầu mới đặt ra, nhất là ở các địa phương, cơ sở.
Bộ máy quản lý Nhà nước về môi trường dù đã được kiện toàn nhiều lần nhưng vẫn chưa đồng bộ và thống nhất từ trung ương đến địa phương, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, chưa phù hợp với việc phân cấp quản lý hiện nay. Việc phân công nhiệm vụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với các bộ, ngành, địa phương còn tồn tại nhiều bất hợp lý.
Sự phân tán các nhiệm vụ quản lý môi trường ra nhiều bộ ngành khác nhau làm cho vận hành trên thực tế thiếu hiệu quả vừa trùng lặp, vừa bỏ sót việc. Việc triển khai nhiệm vụ bảo vệ môi trường của các bộ ngành không đồng  bộ gây ra những hệ lụy không đáng có.
Giải pháp ở đâu?
Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia.
Quản lý môi trường ở Việt Nam phải bắt đầu từ tư duy sống, văn minh thương mại và luật phát nghiêm minh, dựa vào trục điều hành cơ bản vĩ mô và vi mô đồng điệu và nhất quán. Cần tránh việc vận dụng pháp luật để bảo vệ môi trường để yêu sách nhũng nhiễu không đúng chỗ.
Ý thức bào vệ môi trường của người dân và doanh nghiệp là quan trọng nhất. Để có ý thức và tôn trọng môi trường,  phải có sự ra tay của luật pháp nghiêm minh, chế tài nghiêm khắc, chống tham nhũng, giáo dục thích đáng và hiệu quả.
Yêu cầu bảo vệ môi trường cần được quan tâm đúng mức trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong công tác quy hoạch phát triển khu, cụm công nghiệp, thủy điện. Công tác lập, thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược đối với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội phải được coi trọng, nâng cao chất lượng thẩm định và phê duyệt.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 phải được bổ sung về nội dung và chất lượng của đánh giá môi trường chiến lược và chỉnh sửa đánh giá tác động môi trường thành công cụ hữu hiệu trong xem xét, phê duyệt các dự án và quản lý môi trường, tránh việc "lách luật" , đầu tư quá tốn kém và bất chấp đến tác hại xấu đến môi trường như Dự án cảng tỷ đô Lạch Huyện - Hải Phòng.
Nâng cao chất lượng tư vấn của các đơn vị tư vấn lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, dự báo được xu thế biến động môi trường cũng như các tác động đến các vấn đề môi trường chính trong các kịch bản chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Huy động sức mạnh tổng hợp của cộng đồng vào công tác bảo vệ môi trường, phát phát huy được vai trò của các đoàn thể trong việc giám sát thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường vv...
Thiên nhiên là cơ thể hữu cơ và vô cơ của con người ở ngoài con người. Kinh tế quốc gia phát triển lành mạnh là xuất phát từ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội lành mạnh. Chỉ có nền chính trị của dân, do dân, vì dân thật sự, thiết kế Nhà nước theo mô hình khoa học văn minh và người dân có trình độ giáo dục cao (tự giác) thì mới bảo vệ môi trường sống tốt cho đất nước và dân tộc.
Chúng ta chỉ mới nói nhiều đến ô nhiễm môi trường tự nhiên. Còn một thứ môi trường nữa cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, đó là ô nhiễm trong đạo đức, lối sống,  nó tạo ra thói ích kỷ và vô cảm. Đó cũng là căn nguyên sâu xa của tình trạng ô nhiễm môi trường tự nhiên mà chúng ta đang phải đối mặt.
Tô Văn Trường

Hàn Quốc đã thành công, ta vẫn loay hoay

-"Cùng một xuất phát điểm như vậy, mà Hàn Quốc đã thành công. Còn chúng ta, trong cùng một khoảng thời gian đó, vẫn loay hoay với việc giải quyết những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường" - PGS-TS Trần Đình Thiên.Sau khi trả giá đắt, mới nhớ ra... bài học
Các nước che đậy, Việt Nam lại... trưng ra
Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường
Theo cách giải thích của ông, tôi hoàn toàn cảm thấy dễ hiểu. Vậy mà sao suốt 25 năm qua tại sao chúng ta lại vật vã, khổ sở đến vậy, và cũng khiến cho giới đầu từ nước ngoài vào Việt Nam luôn băn khoăn, thắc mắc, thậm chí hồ nghi về khái niệm này, để có những quyết định quan trọng khi bỏ đồng vốn ra?
Bởi vì hoá ra chúng ta chưa hiểu thế nào là kinh tế thị trường theo nghĩa đàng hoàng tử tế. Chúng ta tưởng chúng ta hiểu, bởi giáo trình Tây có đầy rẫy, đọc là hiểu. Nhưng hoá ra lại không phải là thế.
Điều cốt lõi nhất của kinh tế thị trường là chấp nhận những quyền tự do về tài sản, bao gồm quyền tự do sở hữu, quyền tự do kinh doanh. Tất nhiên là tự do trong khuôn khổ luật pháp, tự do có điều kiện, chứ không phải tự do vô chính phủ.
Vai trò của nhà nước pháp quyền là đảm bảo cho những quyền chính đáng đó được thực hiện. Và, đặc biệt, không cho cái tự do vô chính phủ nó phá đám việc thực thi những quyền đó.
Ông Adam Smith bảo nhà nước là "gác đêm" cho sở hữu tư nhân là theo cái nghĩa đó. Tức là đừng để cho bọn trộm cắp lợi dụng trạng thái "tối đen" về luật pháp mà cuỗm những quyền chính đáng đó của cá nhân.
Vai trò lớn nhất của nhà nước, tựu trung lại, là bảo vệ những tài sản của những cá nhân đó để họ yên tâm vận hành tài sản đó một cách hiệu quả nhất và sáng tạo ra của cải cho xã hội, và một phần được dùng lại làm chi phí vận hành cho nhà nước.
Thị trường là cạnh tranh tự do, càng nhiều cạnh tranh tự do, càng nhiều sở hữu tư nhân hợp pháp, và sự bình đẳng giữa các chủ thể, thì nền kinh tế thị trường càng tốt. Cách hiểu của mấy chục năm qua đã khiến cho cái định hướng cao đẹp, nhưng rất xa vời kia, đã lấn át cái kinh tế thị trường.
Theo ông căn nguyên của cách hiểu sai lệch này là gì?
Đây không phải là lỗi cá nhân nào cả. Mà là hệ quả của một ý thức hệ thâm căn cố đế.
Rất may là gần đây hai khái niệm thị trường và định hướng XHCN đã dần rõ ra, và nhà nước cũng bắt đầu ngộ ra rằng vai trò chính của mình là làm sao giảm thiểu tổn thất thị trường. Đây là cách hiểu định hướng XHCN một cách hợp lý nhất.
Còn về mặt xã hội, vai trò của nhà nước là điều tiết làm sao đừng để sự chênh lệch thái quá giữa các cá nhân trong xã hội, bởi sự chênh lệch thái quá sẽ dẫn đến sự méo mó về nhân cách con người, và lớn hơn là bất ổn xã hội.
Đâu cũng vậy thôi, câu chuyện phong trào Phố Wall là vậy đó.
Kinh tế thị trường, XHCN, Trần Đình Thiên, Việt Nam
PGS-TS Trần Đình Thiên
Để khắc phục cái nhận thức sai lệch này phải làm sao đây?
Chuyện này không chỉ một số nhà lãnh đạo hiểu, không chỉ giới lý luận, hay chuyên gia kinh tế hiểu, mà toàn xã hội phải hiểu kinh tế thị trường đích thực là gì. Là tư nhân, cạnh tranh, vị thế, và được đảm bảo bằng luật.
Việt Nam bây giờ càng phải làm sao phải càng thúc đẩy cho hệ thống thể chế thị trường phát triển nhanh, bởi đã hội nhập vào cái thị trường thế giới phát triển rất cao rồi. Đã ngồi trên lưng hổ rồi, không còn cửa tụt xuống đâu, gẫy cổ như chơi.
Chúng ta hay nhắc đến từ công nghệ, phấn đấu có công nghệ hiện đại. Nhưng để đảm bảo điều đó, trước hết phải có hệ thống thế chế hiện đại, đặc biệt với những nước đi sau. Bởi chỉ so thể chế tốt, những nhà đầu tư có công nghệ hiện đại họ mới vào được.
Nói tóm lại, muốn định hướng thì phải có đối tượng để định hướng trước. Tức là phải có thị trường thì mới định hướng XHCN được. Thị trường càng lành mạnh thì định hướng càng hiệu quả, và càng đỡ tốn kém (về chi phí định hướng).
Từ lập luận nói trên, tôi thấy Nghị quyết Đại hội XI, tuy không dùng những từ đạo to búa lớn, nhưng đã tiếp cận được tư duy phát triển đúng.
Tại sao Việt Nam chậm tiến?
Vấn đề chính của Việt Nam hơn hai chục năm qua là gì?
Chúng ta đưa quá ít những nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường vào thực tiễn, mà quá chú trọng phần quản lý nó theo cách hành chính, vì sợ nó chệch hướng. Như tôi đã nói, cái định hướng tốt nhất là phải tạo ra cái đối tượng cần định hướng (thị trường), và để cho nó phát triển bình thường nhất.
Đó là lý do tại sao doanh nghiệp Việt Nam phát triển hơn 20 năm rồi, nhưng vẫn yếu, và thị trường vẫn kém phát triển. Hay nói một cách nhẹ hơn là phát triển khấp khểnh, không đồng bộ.
Nói một cách hình ảnh là không nên quá chú trọng tới việc giáo dục giới tính cho một cô bé con mới 5-6 tuổi, tôi xin lỗi các chuyên gia về giáo dục và bình đẳng giới, đúng không ạ?
Nhưng, theo ông, khoảng thời gian vừa rồi có phải là vẫn chưa đủ dài cho cô bé con đó trở thành một cô gái nở nang, hay theo cách nói của các cụ là "xôi ra xôi, oản ra oản" không?
Thời đại này là thời đại của tốc độ, của thay đổi tới chóng mặt. Hàn Quốc chẳng hạn, cũng trong khoảng thời gian đó, họ đã bước từ cái xã hội kém phát triển, như chúng ta, sang xã hội phát triển loại cao.
Ông có nhớ trong cuộc hội thảo Hàn - Việt cách đây mấy năm tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, chính (cựu) Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak đã nói rằng Việt Nam và Hàn Quốc có cái xuất phát điểm giống nhau là đều đi lên từ đống tro tàn của chiến tranh không?
Có. Cùng một xuất phát điểm như vậy, mà Hàn Quốc đã thành công. Còn chúng ta, trong cùng một khoảng thời gian đó, vẫn loay hoay với việc giải quyết những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường. Ví dụ như lực lượng doanh nghiệp, ví dụ như sự vận hành của các thị trường, ví dụ như câu chuyện cạnh tranh tự do, bình đẳng...
Ông lý giải thế nào về sự rụt rè, e ngại, vừa làm vừa run, nặng về định hướng, hơn là phát triển thị trường? Do thiếu quyết tâm chính trị, hệ thống think-tank có vấn đề, hay do cái mà gần đây người ta hay nói vui là "Việt Nam là nước khó có thể phát triển"?
Hoặc giả nguyên nhân chính là những yếu tố tác động từ bên ngoài khiến chúng ta e ngại? Chẳng hạn khủng hoảng kinh tế - tài chính, cuối những năm '90 ở châu Á, và lặp lại 10 năm sau trên toàn thế giới?
Những điều anh nêu đều có lý cả. Nhưng nói một cách tận cùng là suốt mấy ngàn năm phát triển của Việt Nam cái cấu trúc phát triển của ta nó quá bền vững, như chúng ta hay nói là con trâu đi trước cái cày đi sau, và con người đi sau rốt.
Cái hệ thống thể chế dựa trên ba nhân vật ấy nó tích đọng lại quá lâu nên phá vỡ nó rất khó. Nhất là việc cái cấu trúc thể chế đó đã giúp dân tộc này xử lý thành công bao nhiều cuộc chiến tranh...
Bởi sự luôn phải gồng mình lên đương đầu với bao cuộc chiến tranh, nên nó luôn cảnh giác với mọi thế lực từ bên ngoài. Mọi luồng gió mới từ bên ngoài vào luôn được đón nhận với một tâm lý cảnh giác cao độ.
Hơn nữa, hệ thống đó lại thành công trong các công cuộc bảo vệ Tổ Quốc, nên mặc nhiên người ta thấy đó là một hệ thống rất tốt.
Văn hoá tự chịu trách nhiệm
Nhất là đối với một đất nước trải qua khá nhiều cuộc chiến tranh trong quá trình một ngàn năm từ khi có nền độc lập của mình, đúng không ông? Nhưng xét cho cùng, chiến tranh tuy nhiều, nhưng vẫn chỉ là những cái bất thường, còn hòa bình và phát triển mới là cái bình thường trong quá trình phát triển của một xã hội.
Theo tôi, suy cho cùng là phải suy như vậy, chứ chúng ta hay có thói quen qui lỗi ngắn hạn, qui cho ông nọ, ông kia, hay cho giai đoạn nọ, giai đoạn kia. Tất nhiên ai cũng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về những quyết định của mình cả. Nhưng chúng ta phải nhìn như thế để đánh giá cho nó công bằng hơn, thấy gốc rễ vấn đề ở chỗ nào mà thay đổi.
Hơn nữa, cái xã hội của chúng ta còn dựa trên mô hình của phương Đông, của đồng thuận xã hội, và ảnh hưởng nặng nề của Khổng Giáo. Xã hội đại đồng đâu phải phát minh của ông Karl Marx, ông Lenin đâu, mà là phát minh của ông Khổng Tử, và những đệ tử của mình. Một cấu trúc xã hội mà mỗi người đều có tham gia vào đó, mỗi người đóng một vai trò chức năng khác nhau.
Khi có đổi mới, đó là một cuộc cách mạng thực sự - chuyển sang kinh tế thị trường. So với với nhiệm vụ hội nhập của dân tộc Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy đổi mới nó tiến chậm.
Nhưng nếu nhìn vào tiến trình lịch sử, thì quả là một phần tư thế kỷ đổi mới vừa rồi cũng làm được một việc lớn: đó là rung, là lắc cái cấu trúc "tĩnh" đã hình thành hàng ngàn năm đó, khiến nó phải năng động.
Tức là không chỉ văn hóa thể hiện bản thân, mà có cả cái văn hóa chịu trách nhiệm về sự thể hiện đó?
Cũng có thay đổi rồi, nhất là với lớp trẻ, chứ không phải hoàn toàn vẫn như vậy.
Nhưng nói chung tập tính, đặc điểm tâm lý cố hữu đó của người Việt, hoàn toàn không còn tương thích với yêu cầu phát triển hiện nay nữa. Cho nên tôi nói việc thay đổi lối tư duy này sẽ thực sự là một cuộc cách mạng.
Chúng ta cũng nên tự tin rằng hơn một phần tư thế kỷ đổi mới vừa rồi, cũng có những cái chúng ta nhập cuộc với thế giới đâu phải quá chậm. Viễn thông, điện thoại di động, internet, chẳng hạn. Hay Đặng Thái Sơn, hay Ngô Bảo Châu chẳng hạn.
Tất nhiên những cái đơn lẻ đó cũng chưa đủ chứng tỏ là Việt Nam đã nhập cuộc tốt. Nhưng, chí ít, nó cũng cho thấy nếu thực sự quyết tâm thì cũng có thể làm được cái gì đó.
Và điều làm được đó nó giúp chúng ta thoát khỏi cảm giác tự ti rằng dân tộc chúng ta không thể khẳng định được gì trước loài người, ngoài việc đánh thắng mấy đế quốc to, trong quá khứ. Bởi tuy là cá thể, nhưng những cá thể đó là dấu hiệu của năng lực Việt Nam.
Tôi lấy ví dụ cơ cấu công nghiệp, bởi cũng sắp đến năm 2020 rồi, khi Việt Nam phấn đấu đạt mức cơ bản là nước công nghiệp, chúng ta định làm cái gì trên thế giới, trong cái chuỗi giá trị của loài người? Tôi nghĩ Việt Nam phải tạo ra một cái riêng.
Ta hãy so sánh Đài Loan với con chip của PC. Chính con chip đó đã định vị Đài Loan trong cuộc chơi. Thậm chí, người Đài Loan còn tự đặt cho mình một vị thế là thiết kế sản phẩm vi tính cho loài người.
Còn Việt Nam, do mới nhập cuộc, nên chủ yếu đi theo người ta, chứ chưa nghĩ đến chuyện nghĩ ra cái gì mới. Nhưng đây là chuyện cần thiết, và cấp thiết.
Hay Việt Nam sẽ chỉ là người đi hút dầu thô, đào mỏ, hay xúc cát đi bán cho loài người? Và được bao lâu?
Ý ông nói là phải có sản phẩm made by Vietnam, chứ không chỉ made in Vietnam?
Tất nhiên. Nhưng đầu tiên phải made in Vietnam đã, bởi bây giờ thế là đã khó rồi.
Xin cám ơn ông.
Huỳnh Phan

Bệnh viện mắt Hà Nội có sai phạm ở tám nội dung

Ông Phan Đăng Long, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội khẳng định trong nội dung đơn tố cáo về Giám đốc Bệnh viện mắt Hà Nội, cả 8 nội dung tố cáo đều có hiện tượng sai phạm.

Phát biểu tại buổi giao ban báo chí do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội tổ chức chiều 1/10, ông Long cho hay, Bệnh viện mắt Hà Nội đã có những sai phạm, tuy nhiên việc quy kết về bản chất thì hầu hết không đúng, không chính xác, theo suy diễn của người đứng đơn.

Giải thích về sự việc liên quan đến những “lùm xùm” về Bệnh viện mắt Hà Nội, ông Long cho hay, sau khi tiếp nhận đơn tố cáo, thanh tra Sở Y tế Hà Nội đã trực tiếp có biên bản làm việc với hai người làm đơn tố cáo là bà Nguyễn Thị Thu Thủy và bà Nguyễn Minh Châu. Tất cả có 8 nội dung tố cáo về các lĩnh vực như công tác tổ chức nhân sự, đánh tráo thủy tinh thể trong quá trình mổ, về việc mua sắm và sử dụng trang thiết bị...

Sau khi tiếp hai người tố cáo, thanh tra sở đã có báo cáo với Giám đốc Sở Y tế Hà Nội về quá trình làm việc với người tố cáo vào ngày 19/9. Một ngày sau đó, thanh tra sở đã có tờ trình gửi Giám đốc Sở Y tế xin ý kiến chỉ đạo cho vấn đề thanh tra. Sau đó, Sở Y tế đã có thẩm tra đầy đủ và trả lời đối với hai người làm đơn tố cáo.

Vấn đề thay thủy tinh thể, tráo thủy tinh thể trong quá trình mổ, ông Long cho hay việc sử dụng thủy tinh thể hoàn toàn theo sự chỉ định của bác sỹ. Trong chỉ định khi mổ thì sử dụng thủy tinh thể có các loại khác nhau và giá trị không chênh lệch nhiều. Tùy theo tình hình bệnh nhân lúc đó, trực tiếp bác sỹ mổ khi đó quyết định sẽ sử dụng chất dịch nhầy nào và thủy tinh thể nào cho phù hợp với thẩm mỹ và cơ địa của mỗi bệnh nhân và đó là yếu tố chuyên môn, không phải có ý chỉ định loại này nhưng lại tráo loại khác để hòng kiếm lợi.

“Bệnh viện trong đó có xây dựng định mức cho một ca mổ là 6,5 triệu. Sau đó, kết luận thanh tra cho thấy bệnh viện có sai và tố cáo đó là có cơ sở, tuy nhiên bản chất của sự việc không phải là tham ô để vụ lợi,” ông Long nói.

Sau đó hai người tố cáo chưa thỏa mãn kết luận thanh tra của Sở Y tế và tiếp tục khiếu nại lên cấp cao hơn. Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã giao cho thanh tra của thành phố vào cuộc để làm việc.

Thanh tra của thành phố sau khi làm việc đã có kết luận thanh tra gửi lên Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội và có thông báo kết luận về cơ bản không có gì khác với kết luận của thanh tra Sở Y tế.

“Qua tiếp cận với tất cả các văn bản hiện nay, tôi đang có kết luận thanh tra thành phố và kết luận của thanh tra Sở Y tế Hà Nội cho thấy đơn tố cáo có những nội dung đúng và có những nội dung chưa đúng. Những nội dung đúng và có cơ sở không đúng với quy kết trong đơn nhằm làm tăng tính nghiêm trọng của sự việc,” ông Long nhấn mạnh.

Thành phố đã giao Giám đốc Sở Y tế khắc phục những sai sót của cá nhân để chấn chỉnh kịp thời.

Như vậy, sự việc “lùm xùm” tố cáo gian lận tại Bệnh viện mắt Hà Nội xảy ra 1 tuần nay, nhưng giới báo chí vẫn chưa tiếp cận được với phát ngôn từ Sở Y tế Hà Nội về vấn đề này để có những câu trả lời thỏa đáng, cũng như chưa nhận được thông tin phản hồi của bệnh viện để làm sáng tỏ những thắc mắc của người dân cũng như giới báo chí./.

Hoa Kỳ, Trung Quốc và bẫy Thucydides

Nguồn: Robert B. Zoellick (2013). “U.S., China and Thucydides”, The National Interests, (July/August 2013).
Biên dịch: Bùi Đức Sơn | Hiệu đính: Nghiêm Hồng Sơn
Download: Hoa Ky, TQ va bay Thucydides.pdf

TRONG THỜI GIAN thăm Hoa Kỳ năm ngoái, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra ý tưởng “mối quan hệ kiểu mới giữa các siêu cường”. Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Obama Tom Donilon đáp lời rõ ràng vào tháng Ba năm nay bằng cách bày tỏ sự quan tâm đến việc xây dựng một “mô hình quan hệ mới giữa một cường quốc hiện tại và một cường quốc đang lên”. Tháng Sáu này, lãnh đạo hai nước đã gặp nhau ở California để tìm hiểu xem liệu các quan điểm chiến lược của họ có thống nhất được với nhau không.
Tôi đoán rằng quan điểm của Chủ tịch Tập Cận Bình phản ánh việc nghiên cứu lịch sử của vị lãnh đạo cấp cao này. Tại cuộc họp năm ngoái về Đối thoại kinh tế và Chiến lược Trung Quốc – Hoa Kỳ, cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào phát biểu rằng, “chúng ta phải chứng mình rằng suy nghĩ truyền thống là các siêu cường phải giải quyết mâu thuẫn bằng xung đột là sai, và [thay vào đó] hãy tìm kiếm những cách thức mới phát triển mối quan hệ giữa các nước lớn trong thời đại kinh tế toàn cầu hóa.”
Tại Hoa Kỳ, giáo sư Graham Allison và Joseph Nye của Harvard đã gọi thách thức này là “cái bẫy Thucydides”: khi giải thích nguyên nhân của cuộc đại chiến Peloponnesse thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, nhà sử học Thucydides đã chỉ ra lý do của cuộc chiến là sự trỗi dậy của thành Athens và nỗi sợ hãi của thành Sparta. Từ nhiều thế kỷ nay, các học giả đã nghiên cứu việc chuyển đổi quyền lực đã dẫn đến những căng thẳng tranh chấp như thế nào: đôi khi kiểm soát được và đôi khi dẫn đến xung đột.
Bài viết này đặt ra một câu hỏi: Điều gì là bản chất của mối quan hệ siêu cường kiểu mới giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ?
Kevin Rudd, cựu thủ tướng và bộ trưởng ngoại giao của Úc, cũng đã đề cập đến vấn đề này trong một loạt bài phát biểu sâu sắc. Cách tiếp cận của ông chỉ ra sự cần thiết phải tăng cường đối thoại và nỗ lực hợp tác.
Tôi sẽ bổ sung cho những quan sát của ông Rudd bằng cách gợi ý các chính sách cụ thể nhằm kiến tạo mối quan hệ kiểu mới này. Tôi sẽ tập trung đặc biệt về các vấn đề kinh tế và an ninh, cũng như những trở ngại mà Trung Quốc và Mỹ cần phải giải quyết.
Năm 2005, tôi đề nghị Hoa Kỳ nên khuyến khích Trung Quốc trở thành một “thành viên có trách nhiệm” trong một hệ thống quốc tế đã hỗ trợ quá trình tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa phi thường của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình đã khôn ngoan nhận ra rằng Trung Quốc mở cửa có thể giúp quốc gia này tận dụng hệ thống quốc tế hiện có về thương mại, đầu tư, công nghệ, phát triển và an ninh. Nhờ có sự nỗ lực của nhân dân Trung Quốc, những nhận định của Đặng Tiểu Bình được chứng minh là đúng đắn.
Hệ thống quốc tế của những năm cuối thế kỷ XX cần phát triển với thời đại mới. Trách nhiệm trong việc bảo vệ và mở rộng những lợi ích hệ thống  – và thích ứng với những thách thức mới – cần được xem xét như là một phần trong lợi ích quốc gia của các siêu cường. Tuy nhiên, Hoa Kỳ, Trung Quốc và những nước khác sẽ không thể thích ứng thành công với một hệ thống thay đối nếu họ không cùng có một cam kết cơ bản cho hệ thống quốc tế này.
Một số nhà quan sát tin rằng Trung Quốc đã hành động như một “thành viên bất đắc dĩ”, đặc biệt trong việc chuyển những lợi ích chung thành những chính sách hỗ trợ những lợi ích đó. Trong khi tìm hiểu lý do tại sao, các nhà quan sát đã đặt ra một câu hỏi: liệu có phải là Trung Quốc vẫn còn đang cân nhắc hay đang thích nghi với vai trò của mình không? Hay là, theo như một số phát ngôn của Trung Quốc, có phải Trung Quốc muốn có một hệ thống mới? Nếu như vậy, thì hệ thống mới đó sẽ như thế nào? Có phải Trung Quốc muốn đưa thêm nội dung tư tưởng khác vào quan hệ quốc tế – điều sẽ thể hiện một sự thay đổi so với chính sách của Trung Quốc trước đây?
Những bất trắc này làm dấy lên một câu hỏi quan trọng nữa là: có phải những phê bình của Trung Quốc đối với hệ thống quốc tế hiện hành đã cân nhắc cái giá phải trả và phản ứng của các nước khác về những mục tiêu mới của Trung Quốc? Không phải ngẫu nhiên mà những vấn đề này đang nảy sinh chủ yếu ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Vì vậy, khi xem xét khả năng hình thành mối quan hệ siêu cường kiểu mới, chúng ta cần trao đối nghiêm túc, sâu sắc về việc liệu giữa Trung Quốc và Hoa kỳ có tồn tại những lợi ích hệ thống chung hay không – cũng như về các chính sách cụ thể. Sự phụ thuộc lẫn nhau bản thân nó không thể giải quyết các vấn đề và các mối đe dọa của thế kỷ 21. Chúng ta cần phải xem xét kinh tế và an ninh tương tác như thế nào trong chính sách đối ngoại ngày nay.
***
NHỮNG THẮNG LỢI KINH TẾ đáng kinh ngạc của Trung Quốc – tăng trưởng trung bình 10%/năm trong 30 năm qua – đã đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, nơi giao thương dịch vụ và hàng hóa lớn thứ hai thế giới, và là quốc gia nhận vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài lớn thứ hai thế giới.
Nhưng Hoa Kỳ vẫn chiếm khoảng 22% GDP toàn cầu. Mặc dù các nền kinh tế tiên tiến khó tiếp tục tăng năng suất khi đạt tới đỉnh cao công nghệ, những phát kiến gần đây của Hoa Kỳ về năng lượng, phần mềm và mô hình kinh doanh cho thấy một nền kinh tế đã phát triển nhưng vẫn duy trì được một khả năng thích nghi và tái sinh lạ thường. Trái ngược với hầu hết các nền kinh tế tiên tiến khác – và thậm chí so với nhiều nước đang phát triển – triển vọng về nhân khẩu học của Mỹ là tương đối tích cực. Hội nhập của Mỹ với các đối tác ở Bắc Mỹ cũng cho thấy triển vọng tốt.
Tuy nhiên, một loạt các chuyển dịch cơ cấu toàn cầu, đặc biệt là sự trỗi dậy nhanh chóng của các nền kinh tế đang phát triển, cùng với sự phục hồi toàn cầu đang còn bấp bênh từ sau cuộc Đại suy thoái, đòi hỏi phải có sự thay đổi nhiều hơn nữa từ Trung Quốc, Hoa Kỳ và toàn thế giới.
Những thách thức cho sự phát triển của Trung Quốc được mô tả đầy đủ trong bản báo cáo hoàn thành năm ngoái với tiêu đề “Trung Quốc năm 2030” của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển thuộc Quốc Vụ Viện (tức Chính phủ) cùng với các Bộ khác của Trung Quốc và một nhóm chuyên gia quốc tế của Ngân hàng Thế giới.
Các nhà nghiên cứu đã tìm cách giải quyết vấn đề cơ bản là làm cách nào Trung Quốc có thể tránh được cái gọi là bẫy thu nhập trung bình – xu hướng năng suất và tăng trưởng chậm lại sau khi các nền kinh tế đang phát triển đạt được mức thu nhập trung bình. Các đồng nghiệp Trung Quốc của chúng ta đã khôn ngoan nhận ra rằng dự báo tăng trưởng theo đường thẳng hiếm khi xảy ra.
Hãy xem xét vấn đề này trong bối cảnh lịch sử: khi Ngân hàng Thế giới xem xét hoạt động của 101 nền kinh tế được xếp loại là các nước có mức thu nhập trung bình vào năm 1960 thì họ phát hiện rằng vào năm 2008, tức khoảng 50 năm sau, chỉ 13 nước vươn lên được mức thu nhập cao. Và một trong các nước đó là Hy Lạp!
Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào các tài sản cố định chủ yếu do chính phủ đầu tư, và tăng trưởng nhờ xuất khẩu. Trung Quốc cần phải thích ứng với những chuyển đổi cơ cấu toàn cầu: hiện nay các nền kinh tế đang phát triển chiếm một nửa sản lượng toàn cầu – và quả thực chiếm khoảng hai phần ba mức tăng trưởng toàn cầu trong 5 năm qua – Trung Quốc không thể tiếp tục phụ thuộc mô hình tăng trưởng chủ yếu đến từ việc bán hàng cho các nước phát triển.
Trung Quốc cần phải thay đổi mô hình tăng trưởng dựa vào mức tiêu thụ và nhu cầu trong nước ngày càng lớn – cũng như vai trò ngày càng lớn của thành phần tư nhân. Việc đầu tư vào nguồn vốn con người sẽ ngày càng quan trọng vì nó khích lệ tinh thần cải tiến của những nhân tài Trung Quốc. Sự biến đổi này cũng có thể cho phép nhiều người Trung Quốc thụ hưởng thành quả sau hàng thập niên vất vả, đồng thời gia tăng tiêu thụ nội địa có thể làm dịu những căng thẳng xã hội.
Báo cáo “Trung Quốc 2030″ đã vạch ra con đường đi lên mô hình tăng trưởng mới bao gồm: hoàn thành việc chuyển đổi sang thị trường đối với các lĩnh vực đất đai, lao động, doanh nghiệp và tài chính; hướng đến hệ thống cải tiến mới, giúp Trung Quốc tiến tới bước tiếp theo trong chuỗi giá trị sản xuất; tạo cơ hội bình đẳng và an sinh xã hội cơ bản cho người dân Trung Quốc; cơ cấu lại hệ thống tài chính cho phù hợp với trách nhiệm giải trình đối với doanh thu và chi tiêu ở các cấp chính quyền khác nhau; làm sạch môi trường và định giá các nguồn tài nguyên khan hiếm; đồng thời xem xét các tác động quốc tế từ việc chuyển đổi cơ cấu ở Trung Quốc.
Tôi không mong đợi các nhà lãnh đạo Trung Quốc hành động theo kiểu cải cách “Bùng Nổ”. Tôi cho rằng họ và các nhà lãnh đạo cấp tỉnh sẽ theo đuổi thử nghiệm thực tế. Thủ tướng Lý Khắc Cường đã chỉ ra đô thị hóa chính là cánh cửa để qua đó Trung Quốc có thể thay đổi có kế thừa, kết hợp các vấn đề xã hội, đất đai, doanh nghiệp, giáo dục và các dịch vụ khác, tiêu dùng, mức sống, cơ sở hạ tầng mới, nhà ở, phát triển bền vững, tài chính và vấn đề quản trị.
Chỉ việc nhận thức nhu cầu thay đổi cũng là một bước tiến lớn. Ngược lại, hơn 20 năm trước tôi đã chứng kiến hệ thống chính trị và hành chính Nhật Bản đã phản kháng đối với nhu cầu về một mô hình tăng trưởng mới. Hiện nay Thủ tưởng Shinzo Abe phải theo đuổi những bước đi táo bạo nhằm khắc phục việc phản kháng đối với thay đổi của Nhật Bản.
Tuy nhiên việc thúc đẩy cải tổ tiếp theo của Trung Quốc sẽ gặp khó khăn. Lãnh đạo Trung Quốc cần phải cân bằng chiến lược tăng trưởng ngắn hạn, chủ yếu phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế hiện nay, với sự cần thiết phải thay đổi cấu trúc hiện tại cho tăng trưởng sau này.
***
QUAN HỆ SIÊU CƯỜNG kiểu mới phải tiên lượng các thay đổi về kinh tế và thậm chí cả những thay đổi về thể chế ở phía trước. Trung Quốc và Hoa Kỳ phải xác định những lợi ích chung trong việc hỗ trợ cải tổ cơ cấu và “tái cân bằng” ở cả hai nước.
Hãy xem xét việc tìm kiếm một phương pháp tiếp cận kinh tế hợp tác mới đòi hỏi những gì:
  • Chẳng hạn, để nâng cao năng suất, tạo việc làm, mở rộng cơ hội kinh doanh và tăng tiêu dùng, Trung Quốc cần mở rộng sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ. Thành phần kinh tế tư nhân Trung Quốc cần mở rộng vai trò của mình. Ngoài ra, Hoa Kỳ và các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài có thể mang phương pháp, công nghệ và kết nối toàn cầu hỗ trợ lĩnh vực dịch vụ được mở rộng của Trung Quốc. Sự hợp tác này có thể góp phần làm giảm sự mất cần bằng thương mại và những xung đột trong khi thúc đẩy lợi ích chung.
  • Chương trình đổi mới của Trung Quốc cần phải kết hợp giáo dục, công nghệ, đầu tư mạo hiểm, tác động liên kết, và nâng cao việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ; xin nhắc lại, sự tham gia của Mỹ có thể hỗ trợ đồng thời cũng mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ và các quốc gia khác.
  • Phải thực hiện mạnh nhưng linh hoạt vấn đề an sinh xã hội ở Trung Quốc, điều này có thể rút ra từ kinh nghiệm quốc tế về vấn đề bảo hiểm, tiết kiệm và cung cấp các mô hình dịch vụ. Đến lượt mình, Hoa Kỳ cũng cần phải giải quyết các vấn đề về chi phí, tài chính và các ưu đãi cho hệ thống an sinh già nua và đắt đỏ hơn rất nhiều của mình.
  • Nhu cầu thực phẩm và bảo tồn nguồn nước của Trung Quốc có thể được đáp ứng bằng các sản phẩm, công nghệ và các hệ thống của Hoa Kỳ và nước ngoài bao gồm việc tập trung vào chất lượng và an toàn thực phẩm. Các thị trường mở cần phải mở rộng các hoạt động kinh doanh nông nghiệp bổ sung xuyên Thái Bình Dương đồng thời phải nâng cao mức sống.
  • Có nhiều cơ hội chung trong lĩnh vực năng lượng và môi trường bao gồm các nguồn năng lượng ít thải các-bon, hệ thống và công nghệ thay thế, kinh nghiệm làm sạch không khí, nước, đa dạng sinh học và sử dụng đất.
  • Để thích nghi cần phải có sự hỗ trợ từ các thị trường chuyên sâu hơn, đa dạng hơn và uyển chuyển hơn về tiết kiệm, tín dụng và đầu tư – đồng thời đảm bảo an toàn, bền vững và quản lý khủng hoảng hiệu quả. Trung Quốc cần chuyển từ một quốc gia của những người gửi tiết kiệm để lấy những đồng lợi nhuận tối thiểu trở thành một quốc gia của những người đầu tư có đóng góp cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân của Trung Quốc.
  • Cuối cùng, Trung Quốc, Hoa Kỳ và những quốc gia khác cần có cơ chế tốt hơn để khuyến khích đầu tư lẫn nhau đồng thời quản lý an ninh quốc gia và những vấn đề nhạy cảm khác.
Ở chừng mực nào đó, các nhà lãnh đạo thế kỷ XXI của Trung Quốc có thể lưu tâm đến lý luận của Đặng Tiểu Bình và Chu Dung Cơ: là khai thác các thị trường, vận dụng các quy tắc, sự cạnh tranh, tận dụng những cơ hội và các tiêu chuẩn của nền kinh tế quốc tế để thúc đẩy tiến bộ và cải cách cơ cấu Trung Quốc.
Hoa Kỳ cũng cần phải cải cách cơ cấu – đặc biệt trong hệ thống lương hưu và chăm sóc y tế, cải cách thuế, quan hệ đối tác công – tư đối với cơ cở hạ tầng và giáo dục gắn liền với kỹ năng và nghề nghiệp. Các chương trình phúc lợi xã hội Hoa Kỳ mỗi năm phải chi cho mỗi người đàn ông, phụ nữ và trẻ em ở Hoa Kỳ 7.400 đô la Mỹ – nhiều hơn thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc.
Trung Quốc và Hoa Kỳ đều có lý do chính đáng, vì lợi ích của mình để theo đuổi cải cách cơ cấu và tái cân bằng toàn cầu. Mặc dù vậy, sự hợp tác giữa hai bên có thể thúc đẩy triển vọng lẫn nhau và khả năng là thành công. Hơn nữa, hiệu quả của cuộc cải cách của Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy các điều kiện kinh tế toàn cầu và tăng cường khả năng cải cách hệ thống ở các nước khác.
Tôi có cảm giác rằng các cuộc đối thoại kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc – dù dưới tiêu đề “chiến lược”, kết nối thương mại, G-20, APEC, WTO hay các diễn đàn khác – đã trở nên quá cứng nhắc, mang tính phòng thủ và không sáng tạo.
Chương trình phát triển mới của Trung Quốc và sự phục hồi của Hoa Kỹ đã mở ra cơ hội. Cả hai bên cần phải tìm ra sự liên kết đôi bên cùng có lợi. Không phải mọi ý kiến đều khả thi. Tuy nhiên, sự hình thành mối quan hệ kiểu mới có thể mở ra giải pháp và những cơ hội sáng tạo.
Ngoài ra, là hai cường quốc kinh tế chính, đã phát triển và đang phát triển, Hoa Kỳ và Trung Quốc cần phải xem xét việc họ hợp tác với nhau có thể thúc đẩy cải thiện hệ thống toàn cầu và khu vực như thế nào.
Ví dụ, mở cửa lĩnh vực dịch vụ của Trung Quốc – vốn phục vụ lợi ích của chính Trung Quốc – có thể được khai thác để thúc đẩy các cuộc đàm phàn tự do hóa lĩnh vực dịch vụ trong tổ chức thương mại thế giới (WTO). Hiệp định Công nghệ Thông tin của WTO (ITA) trong những năm 1990 đã chứng tỏ là một lợi ích tuyệt vời đối với việc cung ứng toàn cầu, chuỗi cung ứng, hệ thống hậu cần, đổi mới và người tiêu dùng. Các thành viên của WTO đang thảo luận về một ITA thứ hai để nâng cấp danh mục các sản phẩm cũ và bổ sung dịch vụ. Trung Quốc và Hoa Kỳ cần thúc đẩy nỗ lực này. Cũng có nhiều cơ hội khác, từ các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại đến các quy định chi tiêu của chính phủ cởi mở hơn. Áp lực sẽ gia tăng để làm rõ các quy định cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp nhà nước. Một vài năm trước, các quỹ đầu tư quốc gia đã chứng tỏ rằng các bước theo hướng tăng minh bạch và khuyến khích các đơn vị hoạt động tốt nhất có thể ngăn chặn những lo lắng đồng thời nâng cao năng suất.
Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng cần phải thảo luận hệ thống tiền tệ quốc tế tương lai. Hệ thống này phải điều chỉnh được sự dịch chuyển toàn cầu và hậu quả của các chính sách tiền tệ quốc tế bất thường hiện nay. Thế giới cần phải cảnh giác trước nguy cơ phá giá tiền tệ do cạnh tranh. Khi Trung Quốc quốc tế hóa đồng nhân dân tệ và chuyển hướng sang một tài khoản vốn mở, một kỷ nguyên mới về các mối quan hệ siêu cường sẽ đòi hỏi các nền kinh tế lớn quản lý được sự phát triển hướng tới hệ thống dự trữ tiền tệ đa chủng loại.
Trung Quốc và Hoa Kỳ có kinh nghiệm và triển vọng phát triển có thể hỗ trợ các quốc gia khác – cho dù thông qua việc phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, nông nghiệp, mở rộng sản xuất và chuỗi cung ứng, phát triển lĩnh vực dịch vụ, cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư. Trung Quốc và Hoa kỳ cần phải có những lợi ích chung trong tăng trưởng có lợi cho toàn bộ người dân, có nền quản trị tốt, minh bạch và chống tham nhũng, thương mại và tránh chu kỳ bùng nổ và phá sản. Kỷ nguyên mới này có thể thúc đẩy hợp tác với các tổ chức đa phương và hệ thống khu vực tư nhân.
Các đề tài về môi trường cũng cần được khai thác – từ đa dạng sinh học và bảo tồn động vật hoang dã đến phát triển với ít năng lượng các-bon.
Quả thực, nếu Hoa Kỳ và Trung Quốc có mâu thuẫn về các chủ đề cần sự hợp tác xuyên quốc gia, thì hệ thống quốc tế không thể hoạt động hiệu quả; ngược lại, nếu Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể hợp tác, thậm chí từng bước một, thì những quốc gia khác sẽ tham gia.
Chương trình nghị sự kinh tế về mối quan hệ siêu cường kiểu mới có thể được mở rộng. Tất nhiên, cần kiểm soát những yếu tố nhạy cảm và khác biệt, nhưng mạng lưới các mối quan hệ kinh tế mở rộng – chính phủ, tư nhân, liên quốc gia và đa quốc gia – có thể là khởi nguồn các ý tưởng giải quyết vấn đề, sáng tạo và thậm chí còn là tấm nệm để giảm sốc do khác biệt.
Tuy nhiên, về các vấn đề an ninh, dù là song phương hay đa phương, Trung Quốc và Hoa Kỳ lại không có một mạng lưới như vậy. Lỗ hổng này có thể bắt nguồn một phần từ sự khác biệt về cơ cấu. Ở Trung Quốc, Giải phóng Quân Nhân Dân (PLA) báo cáo với Quân ủy Trung ương, một tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chỉ với một hoặc hai thành viên dân sự. Do đó, các quan chức ngoại giao cấp cao của Trung Quốc đến cấp Ủy viên Quốc vụ thường không thể can thiệp vào chủ đề an ninh cho đến sau khi PLA đã hành động và đôi lúc chỉ sau khi thiệt hại cho quan hệ đối ngoại của Trung Quốc đã xảy ra.
Trung Quốc không có hệ thống hội đồng an ninh quốc gia để hợp nhất an ninh, ngoại giao, quốc phòng và thậm chí cả những vấn đề kinh tế và chính trị. Kết quả là không có một hệ thống tổ chức Trung Quốc tương đương cho những cái được gọi là thảo luận “chính trị – quân sự”.
Trung Quốc và Hoa Kỳ đã từng có những cuộc trao đổi quân sự – quân sự, tuy nhiên những cuộc trao đổi này không diễn ra ở cấp phù hợp. Trung Quốc đã dừng các cuộc thảo luận để thể hiện sự bất mãn, khiến các cuộc trao đổi chuyên sâu cần thiết bị cản trở . Hơn nữa, quan hệ an ninh giữa các siêu cường kiểu mới đòi hỏi nhiều hoạt động hơn là chỉ các cuộc thảo luận quân sự.
Một số học giả và quan chức Trung Quốc nhận ra sự cần thiết phải hợp nhất đầy đủ hơn các quan điểm của Trung Quốc về an ninh và chính sách ngoại giao. Chẳng hạn, hệ thống Trung Quốc có thể trông chờ vào một thành viên của Ủy ban Thường vụ Bộ chính trị ĐCSTQ để phối hợp quốc phòng, chính sách đối ngoại, an ninh và các chủ đề kinh tế, điều phối PLA, các quan chức của chính phủ và ĐCS. Hoặc giới lãnh đạo ĐCS có thể dựa vào các tiểu ban của họ.
….
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Hoa Ky, TQ va bay Thucydides.pdf

Thùy Giang (Vietnam+)

Đừng làm đổ trà của chủ ngươi (phần 1)

Trước đây một thế kỷ, người Pháp hợp nhất Việt Nam, Lào và Campuchia lại thành Đông Dương. Cũng trong thời gian đó, Thái Lan, thời đó còn được gọi là Xiêm, và Việt Nam, trước đây được gọi là An Nam, đã cố gắng phân chia Campuchia ra cho chính họ. Người Pháp ngăn chận việc đó và tuyên bố Campuchia là nước được họ bảo hộ. Cho tới ngày hôm nay, người Campuchia vẫn cảm kích nói về người Pháp như là những người đã bảo vệ họ. Khác với trong nước Lào ở phía Bắc và trong Việt Nam nằm ở phía Đông, người Pháp cũng xử sự giống như là những người bảo vệ nhiều hơn là những người chiếm hữu đất nước đó. Họ còn mang lại cho người Campuchia cả sở hữu quốc gia và cảm giác quốc gia đã bị lãng quên của họ, bằng cách đã khai quật khu đền thờ Angkor tuyệt diệu trong rừng rậm và tháo bỏ bức màn che đậy lịch sử của người Khmer. Ngay ngày nay, người Campuchia cũng gọi họ là người Khmer, và ở Angkor, những người hướng dẫn khách du lịch chỉ cho du khách xem các phù điêu hết sức nghệ thuật, mô tả những trận đánh ác liệt giữa người Khmer và người An Nam. Tên của cái thành phố nhỏ bé ở cạnh khu đền thờ đó không được ghi trên bất cứ tấm bản đồ Thái Lan nào, mặc dù máy bay của hãng hàng không Thai International đáp xuống đó. Tên thành phố đó là Siemreap, có nghĩa là “cái chết của người Xiêm”.
Tàu bệnh viện Helgoland
Tàu bệnh viện Helgoland
Truyền thuyết kể rằng người An Nam trong trận đánh cuối cùng, diễn ra bất lợi cho người Khmer, đã bắt được nhiều tù binh và lôi họ về doanh trại của mình. Rồi những người tù binh đó bị chôn xuống đất cho tới tận cổ, người ta đổ hắc ín lên đầu họ rồi đốt cháy. Người An Nam nấu trà của họ trên những ngọn đuốc sống đó, và khi những nạn nhân của họ lắc lư qua lại trong đau đớn, người ta đã quát lên: “Đừng làm đổ trà của chủ ngươi.” Câu nói này cho tới ngày nay vẫn còn được xem là một lời lăng nhục chết người ở Campuchia. Người Việt Nam chính thức là kẻ thù của đất nước này. Nhưng với lòng khoan dung đáng khâm phục của người Á, người Khmer không động chạm đến những khu kiều dân người Việt, ngay cả ở trong thủ đô Pnom–Penh của họ.
“Lịch sử Việt Nam vừa mới được viết”, tùy viên văn hóa ở Tổng Lãnh sự Pháp tại Sài Gòn nói, người có nửa tá thầy giáo đứng dưới quyền, những người có nhiệm vụ giảng dạy về lịch sử của đất nước này trong các trường học Việt–Pháp, “bây giờ, trong thời gian của ý thức quốc gia Việt Nam. Lịch sử Việt Nam bao gồm một loạt truyền thuyết mà nội dung của chúng bây giờ được viết thành sử.” Điều đó không hoàn toàn đúng. Các nhà sư, ngay khi rất rời rạc, cũng đã ghi lại nhiều phần của lịch sử Việt Nam. Nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha Alexander de Rhodes, người sáng tạo ra một bảng chữ cái rất giống với chữ La tinh cho tiếng Việt có nhiều cách nhấn giọng, cho tới lúc đó còn được viết theo chữ Trung Quốc, cũng đã viết sử.
Người ta cho rằng trước Công Nguyên khoảng hai thế kỷ rưỡi, người Việt ngày nay đã di cư đến từ miền Nam Trung Quốc. Lúc thâm nhập xuống miền Nam, họ đã đẩy lùi những người dân cư nguyên thủy, có lẽ là có nguồn gốc Mã Lai, lên núi. Nhưng ngay từ trước Công Nguyên, người Trung Quốc đã đô hộ Bắc Việt Nam ngày nay và đã là những người thống trị cả ngàn năm. Cho tới ngày nay, tập quán Trung Hoa, nghệ thuật, văn học và triết học của họ thống trị trong số những ảnh hưởng khác nhau từ nước ngoài ở Việt Nam. Ngay từ thời đó, người Việt đã tập đánh du kích chống lại quân đội Trung Quốc. Con đường của “Hai chị em họ Trưng”, đường Hai Bà Trưng ở Sài Gòn, nhắc nhở đến một cuộc nổi dậy chống người Trung Quốc trong năm 40, được hai chị em này dẫn đầu nhưng đã thất bại. Đại lộ Lê Lợi ở Sài Sòn được gọi theo tên của một lãnh tụ nông dân, người đã chiến đấu chống người Trung Quốc vào khoảng năm 1400.
Vào khoảng năm 1000, Việt Nam giành được độc lập và về cơ bản vẫn độc lập trong vòng 900 năm sau đó. Thế nhưng chiến tranh thường xuyên được tiến hành với người Trung Quốc, người Mông Cổ và giữa những nhóm người Việt với nhau. Trong thế kỷ mười sáu và mười bảy, người Âu đến Việt Nam, thương gia, những người tuy vậy vẫn cố làm chính trị và giúp đỡ những nhóm khác nhau. Năm 1858, quân đội thuộc địa Pháp đổ bộ xuống Đà Nẵng, thành phố mà họ gọi là Tourane, và dần dần chiếm lấy đất nước này. Đông Dương thành hình năm 1887, cái chấm dứt tồn tại trước đây mười lăm năm sau cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đẫm máu. Năm 1954, Việt Nam bị chia cắt tại Hội nghị Genève.
Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa ngày nay, là một phần của Liên bang Đông Dương, bối cảnh của nhiều quyển tiểu thuyết trữ tình và sách chiến tranh thực tại. Ngày trước, người Pháp không thích sống ở miền Nam Việt Nam, vì, như một nhà báo và là cựu chiến binh Pháp ở Điện Biên Phủ nói với tôi: “Trái tim của chúng tôi đã ở lại miền Bắc.” Như người ta thường hay tìm thấy được một thang bậc chia độ của những đặc tính và khả năng tùy theo vị trí địa lý của nó trong một dân tộc, ở Việt Nam, người Bắc và người Nam khác với người Trung. Tương phản lớn là giữa Bắc và Nam. Miền Nam có nhiều đất đai mầu mỡ, thu hoạch ba lần mà chẳng phải cực nhọc gì nhiều, cây trái không cần phải được chăm sóc đặc biệt. Người miền Nam vì vậy mà yêu đời và vô tư lự. Ở miền Bắc thì phải làm việc cực nhọc mới giành được hoa quả từ đất. Giữa mùa Hè và mùa Đông có sự khác biệt rõ ràng, và thống trị trong mùa Đông là một khí hậu khắc nghiệt. Người miền Bắc đã quen làm việc có chủ định. Họ cần cù hơn và năng động hơn là những người đồng hương từ miền Nam của họ.
Sau lần chia cắt đất nước năm 1954, trong vòng 300 ngày được hoạch định để di chuyển quân đội theo Hiệp định Genève, hai triệu người miền Bắc đã chạy trốn vào Nam. Ngày nay, họ thường ở những vị trí có nhiều ảnh hưởng: Tướng Kỳ là người Bắc. Viên đại sứ của một đất nước nhỏ bé ở châu Âu, một người khôn khéo, người nhờ ở Việt Nam một thời gian đặc biệt dài – thường các đại sứ thay nhau hai hay ba năm một lần – mà có được những hiểu biết sâu sắc về tình hình hơn là phần lớn người ngoại quốc, có lần đã nói với tính sống động trong tiếng mẹ đẻ của ông: “Thật ra thì ở Việt Nam người miền Bắc đánh nhau với người miền Bắc. Phần lớn các chức vụ lãnh đạo trong chính phủ Sài Gòn đều do người xuất thân từ miền Bắc nắm giữ.”
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét