Kami - Nghịch lý Việt nam
Nếu điều giả dối ấy là do một đứa trẻ nói ra thì chỉ là chuyện nhỏ, ta
sẽ dạy bảo nó bằng những lời khuyên để nó bỏ tật nói dối. Vì với một đứa
trẻ hư, từ chuyện nói dối đến chỗ có hành động ăn cắp thì chẳng là mấy.
Nhưng ngược lại, người nói dối là người lớn, là quan chức và đang giữ
một cương vị quan trọng thì đó là một điều khó tha thứ. Vậy mà ở Việt
nam, những chuyện liên quan đến sự dối trá, đặc biệt là sự dối trá của
các quan chức giờ đã thành chuyện thường ngày, chuyện bình thường. Các
câu chuyện đối trá của quan chức tuy khác nhau về nội dung, song đều có
chung một mẫu số. Đó
là sự giả dối.
Từ sự giả dối...
Hôm vừa rồi, dư luận xã hội "giật nảy" mình khi biết ngày 13/6, ông Phạm Ngọc Dũng, Phó trưởng phòng Chính sách phòng chống mại dâm, Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ LĐ-TB&XH) cho biết, đánh giá về tệ nạn mại dâm tại Đồ Sơn (Hải Phòng) và Quất Lâm nhưng kết quả báo cáo của các địa phương đều khẳng định là không phát hiện có mại dâm tại hai địa điểm này. Ông Dũng cho biết, muốn khẳng định có mại dâm hay không cần phải có chứng cứ. Nhưng quá trình kiểm tra cơ quan chức năng có phát hiện các tiếp viên nhưng họ có hợp đồng lao động với các cơ sở dịch vụ nên rất khó xử lý.
Sở dĩ ai cũng giật mình vì phát biểu trên, vì chuyện tệ nạn mại dâm tại Đồ Sơn (Hải Phòng) và Quất Lâm (Nam định) những địa điểm nghỉ mát được mệnh danh là "Thiên đường sung sướng" là thực tế quá rõ ràng không thể chối cãi. Không phải vì câu ca "không đi thì không biết Đồ sơn/ Đi rồi mới biết chẳng hơn đồ nhà" đã lưu truyền từ hàng chục năm nay kể từ khi nhà nước mở cửa kinh tế. Chuyện ấy, không phải chỉ riêng người Đồ sơn biết, người Hải phòng biết mà cả nước biết. Ngay cả báo chí nhà nước cũng nói tới chuyện nhức nhối này, mà họ dùng cụm từ "mắt nhắm mắt mở" để biện minh cho tình trạng này. Theo báo Lao động đã khẳng định "Trong “bảng tổng sắp” những điểm du lịch có “dịch vụ” mại dâm cao nhất cả nước thì Đồ Sơn (Hải Phòng) luôn giữ vị trí số 1. Chẳng một cơ quan chức năng nào thừa nhận, nhưng ai cũng biết cùng với casino Đồ Sơn thì mại dâm chính là một “sản phẩm du lịch” thu hút phần lớn khách đến với bãi biển này." .
Hãy nghe ông Lê Khắc Nam, Phó chủ tịch TP Hải Phòng, khẳng định "Tôi đọc thông tin trên báo chí và thấy rất bất ngờ. Tôi phụ trách mảng này và khẳng định không có lãnh đạo Hải Phòng nói hay báo cáo là Đồ Sơn không có mại dâm. Chúng tôi phải nói nghiêm túc là vẫn còn mại dâm, chỉ có nhiều hay ít so với trước đây. Nếu không có mại dâm thì chúng tôi xây dựng trung tâm 05 (trung tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội dành cho gái bán dâm) làm gì. Như vậy, nói không có mại dâm ở Đồ Sơn là vô lý"
Chuyện sờ sờ ra như thế, ai cũng biết, người trong cuộc nói như thế vậy mà lãnh đạo cấp Cục ở một Bộ chịu trách nhiệm trước nhà nước về vấn đề tệ nạn xã hội lại phát biểu là không biết và không có thì là sao?
Cũng một chuyện nữa khiến cho dư luận xã hội phát chán không kém, đó là chuyện phát biểu tại Hội nghị sơ kết dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ ĐH tăng cường về làm Phó Chủ tịch xã thuộc 63 huyện nghèo hôm nay (26/6) tại Hà Nôi. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mong các trí thức trẻ làm Phó Chủ tịch các xã nghèo phấn đấu trở thành đảng viên. Vì theo ông Nguyễn Tấn Dũng thì "Vào Đảng không phải để lên chức mà để thực hiện lý tưởng cao đẹp, xây dựng đất nước".
Trên thực tế hiện nay, động cơ vào đảng của hầu hết các đảng viên là để tiến thân nhờ có chức có quyền. Vì theo quy định muốn làm lãnh đạo thì phải là đảng viên, đây cũng chính là lý do vì sao đảng CSVN luôn khẳng định duy trì điều 4 như một đặc quyền của Hiến pháp. Việc duy trì chế độ độc đảng là một biểu hiện của sự tham lan, ích kỷ và trái đạo lý. Mà hậu quả của nó đã làm cho mọi mặt kinh tế, xã hội của đất nước be bét ở mức chưa từng có. Vậy mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại nói đến chuyện vào đảng là để thực hiện lý tưởng cao đẹp, xây dựng đất nước. Nếu nói như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì ngoài hơn 3 triệu đảng viên đảng CSVN thì phần còn lại của xã hội không còn ai có lý tưởng xây dựng đất nước hay sao? Đó là một điều giả dối, dối trá, mà lẽ ra ở cương vị một vị Thủ tướng không được phép nói ra điều như thế.
Vì như vậy là sự xúc phạm và coi thường những người ngoài đảng, không phải là đảng viên.
Với ông Nguyễn Tấn Dũng, bài học mà Nghệ sĩ Kim Chi dành cho ông khi phát biểu rằng "Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác mình bị xúc phạm.". Người có lòng tự trọng và sự dũng cảm họ đã nói như thế hẳn ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn còn nhớ? Nói như thế là sòng phẳng, xin khuyên ông Thủ tướng nên suy nghĩ vấn đề này cho nghiêm túc.
.
.
Việc phát ngôn hay hành động của một số các quan chức và các cơ quan nhà nước không biết do sự ngẫu hứng hay trình độ hạn chế của họ. Điều đó đã khiến dư luận băn khoăn về ý thức trách nhiệm trước xã hội trong cương vị những người chịu trách nhiệm trong bộ máy điều hành nhà nước.
Việc phát ngôn hay hành động của một số các quan chức và các cơ quan nhà nước không biết do sự ngẫu hứng hay trình độ hạn chế của họ. Điều đó đã khiến dư luận băn khoăn về ý thức trách nhiệm trước xã hội trong cương vị những người chịu trách nhiệm trong bộ máy điều hành nhà nước.
.
Khi nhà nước tổ chức trưng cầu người dân góp ý và báo chí là kênh thông tin để các cơ quan chức năng có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với luồng ý kiến, đóng góp của dư luận xã hội. Thì ông Đinh Mạnh Toàn (Cục phó Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về TTXH - Bộ Công an) phát biểu tại một cuộc hội nghị của Bộ GTVT rằng “các phóng viên đó có lẽ... thiểu năng gì đó”. Hay chuyện ông Vụ trưởng Vụ Thanh toán (NHNN) đã “chê” dân khi cho rằng "Những người rút tiền qua thẻ ATM, là quen hít khí trời, hưởng gió biển nên thấy khó là kêu...".
Khi nhà nước tổ chức trưng cầu người dân góp ý và báo chí là kênh thông tin để các cơ quan chức năng có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với luồng ý kiến, đóng góp của dư luận xã hội. Thì ông Đinh Mạnh Toàn (Cục phó Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về TTXH - Bộ Công an) phát biểu tại một cuộc hội nghị của Bộ GTVT rằng “các phóng viên đó có lẽ... thiểu năng gì đó”. Hay chuyện ông Vụ trưởng Vụ Thanh toán (NHNN) đã “chê” dân khi cho rằng "Những người rút tiền qua thẻ ATM, là quen hít khí trời, hưởng gió biển nên thấy khó là kêu...".
.
Và gần đây, khi bị dư luận phê phán chuyện gian hàng triển lãm của Việt nam ở Đức có treo ảnh quảng cáo nhầm danh thắng của Trung Quốc, thì ông Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch lại nói một cách vô trách nhiệm rằng “Cái chuyện đến gian hàng nước này hỏi tour nước khác là chuyện bình thường, vì một số nước Châu Á cũng na ná giống nhau”...
Và gần đây, khi bị dư luận phê phán chuyện gian hàng triển lãm của Việt nam ở Đức có treo ảnh quảng cáo nhầm danh thắng của Trung Quốc, thì ông Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch lại nói một cách vô trách nhiệm rằng “Cái chuyện đến gian hàng nước này hỏi tour nước khác là chuyện bình thường, vì một số nước Châu Á cũng na ná giống nhau”...
.
Đó là các ví dụ về thái độ coi thường công luận cũng như người dân của các quan chức nhà nước, tuy những vụ việc đó phàn nào là cho mọi người bực mình. Song có lẽ cũng không bằng nhưng chuyện đại loại như chuyện này. Đó là chuyện ông Trần Đức Mậu (nguyên tổng Giám đốc Tổng công ty Thủy lợi 4, kiêm Giám đốc Ban điều hành công trình thủy điện Sông Tranh 2) đã được cơ quan tố tụng cho rằng đã mắc chứng rối loạn cảm xúc trước và sau khi vòi đối tác 500 triệu đồng "bôi trơn" là một chuyện bi hài. Cho dù Tòa đã xác định đây là một hành vi nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận. Được biết, trong quá trình hợp tác làm ăn, ông Mậu đã gây khó khăn cho phía đối tác khiến công ty này phải mất rất nhiều chi phí trong việc lưu kho, bảo quản hàng hóa ngay dưới chân công trình. Không những thế, tháng 8/2010, ông Mậu đơn phương chấm dứt hợp đồng, với mục đích buộc cho đối tác phải "thương lượng". Kết quả, hai bên thỏa thuận tiền "bôi trơn" là 500 triệu đồng để nối lại hợp đồng và thu hồi công nợ. Khi không thấy đối tác trả tiền "bôi trơn", tháng 10/2010, ông Mậu ra Hà Nội và gọi điện cho ông Luân, mang 300 triệu đồng đến khách sạn thì bị cảnh sát bắt quả tang.
Đó là các ví dụ về thái độ coi thường công luận cũng như người dân của các quan chức nhà nước, tuy những vụ việc đó phàn nào là cho mọi người bực mình. Song có lẽ cũng không bằng nhưng chuyện đại loại như chuyện này. Đó là chuyện ông Trần Đức Mậu (nguyên tổng Giám đốc Tổng công ty Thủy lợi 4, kiêm Giám đốc Ban điều hành công trình thủy điện Sông Tranh 2) đã được cơ quan tố tụng cho rằng đã mắc chứng rối loạn cảm xúc trước và sau khi vòi đối tác 500 triệu đồng "bôi trơn" là một chuyện bi hài. Cho dù Tòa đã xác định đây là một hành vi nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận. Được biết, trong quá trình hợp tác làm ăn, ông Mậu đã gây khó khăn cho phía đối tác khiến công ty này phải mất rất nhiều chi phí trong việc lưu kho, bảo quản hàng hóa ngay dưới chân công trình. Không những thế, tháng 8/2010, ông Mậu đơn phương chấm dứt hợp đồng, với mục đích buộc cho đối tác phải "thương lượng". Kết quả, hai bên thỏa thuận tiền "bôi trơn" là 500 triệu đồng để nối lại hợp đồng và thu hồi công nợ. Khi không thấy đối tác trả tiền "bôi trơn", tháng 10/2010, ông Mậu ra Hà Nội và gọi điện cho ông Luân, mang 300 triệu đồng đến khách sạn thì bị cảnh sát bắt quả tang.
.
Một vụ việc phạm tội có tính chất nghiêm trọng, bị cáo nguyên là cán bộ lãnh đạo nhận hối lộ với giá trị tài sản lớn, nếu chiểu theo pháp luật bị cáo sẽ phải đổi mặt với bản án trừng trị nghiêm khắc. Vậy mà không hiểu sao, kết cục lại hoàn toàn khác với lý do "đã mắc chứng rối loạn cảm xúc" trước và sau khi vòi đối tác 500 triệu đồng. Đây chỉ là một trong muôn vàn các ví dụ sinh động thể hiện việc bất chấp công lý, sự lấp liếm và coi thường dư luận của các quan chức nhà nước nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Điều đó cho thấy, đây là một vấn nạn trầm trọng, đã làm xói mòn lòng tin của người dân đối với chính quyền.
.
Một vụ việc phạm tội có tính chất nghiêm trọng, bị cáo nguyên là cán bộ lãnh đạo nhận hối lộ với giá trị tài sản lớn, nếu chiểu theo pháp luật bị cáo sẽ phải đổi mặt với bản án trừng trị nghiêm khắc. Vậy mà không hiểu sao, kết cục lại hoàn toàn khác với lý do "đã mắc chứng rối loạn cảm xúc" trước và sau khi vòi đối tác 500 triệu đồng. Đây chỉ là một trong muôn vàn các ví dụ sinh động thể hiện việc bất chấp công lý, sự lấp liếm và coi thường dư luận của các quan chức nhà nước nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Điều đó cho thấy, đây là một vấn nạn trầm trọng, đã làm xói mòn lòng tin của người dân đối với chính quyền.
.
Và hậu quả của nó
.
Những câu chuyện nêu trên, giờ đã trở thành chuyện bình thường và phổ biến ở xã hội Việt nam. Cho dù sau hàng chục năm khi Cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã từng nhận định rằng "Chúng ta đang ở trong tình trạng nói dối phổ biến, nhưng không ai tự nhận mình nói dối cả!" . Tuy vậy, tình trạng trên cũng không hề có sự thay đổi mà hình như còn ngày càng trầm trọng hơn. Đó là hậu quả của việc, khi sự giả dối lên ngôi, khi quyền lực nhà nước nằm trong tay một phường cơ hội, của những kẻ dốt nát, bất tài và láu cá. Mà họ không biết rằng, họ đã đánh mất một cái lớn nhất của người dân đối với họ. Đó là lòng tin. Điều này, ông Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thừa biết, vì phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ở Sigapore vừa rồi ông ta tuyên bố “Nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin”. Không có lẽ khi nói điều này ông ta cũng nói dối?
Những câu chuyện nêu trên, giờ đã trở thành chuyện bình thường và phổ biến ở xã hội Việt nam. Cho dù sau hàng chục năm khi Cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã từng nhận định rằng "Chúng ta đang ở trong tình trạng nói dối phổ biến, nhưng không ai tự nhận mình nói dối cả!" . Tuy vậy, tình trạng trên cũng không hề có sự thay đổi mà hình như còn ngày càng trầm trọng hơn. Đó là hậu quả của việc, khi sự giả dối lên ngôi, khi quyền lực nhà nước nằm trong tay một phường cơ hội, của những kẻ dốt nát, bất tài và láu cá. Mà họ không biết rằng, họ đã đánh mất một cái lớn nhất của người dân đối với họ. Đó là lòng tin. Điều này, ông Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thừa biết, vì phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ở Sigapore vừa rồi ông ta tuyên bố “Nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin”. Không có lẽ khi nói điều này ông ta cũng nói dối?
.
Đó là nguyên nhân dẫn tới tình trạng, bây giờ chính quyền nói người dân không tin, nhưng họ lại tin vào những tin đồn thổi. Đó chính là điều đã khiến Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa phải thú nhận rằng "Không lẽ để vài ngọn gió từ các trang mạng làm lung lay?". Trong khi nhà nước nắm độc quyền truyền thông và báo chí trong tay. Đó cũng là lý do lý giải vì sao trong vụ Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực trong hơn ba tuần vừa qua, cho dù truyền thông nhà nước bằng mọi cách lý giải và phản bác nhưng dân chúng vẫn không tin. Cho dù có hình ảnh Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ cầm trong tay tờ báo Nhân dân số ra ngày thứ năm 13.06.2013, nhưng cũng không thuyết phục được ai.
Đó là nguyên nhân dẫn tới tình trạng, bây giờ chính quyền nói người dân không tin, nhưng họ lại tin vào những tin đồn thổi. Đó chính là điều đã khiến Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa phải thú nhận rằng "Không lẽ để vài ngọn gió từ các trang mạng làm lung lay?". Trong khi nhà nước nắm độc quyền truyền thông và báo chí trong tay. Đó cũng là lý do lý giải vì sao trong vụ Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực trong hơn ba tuần vừa qua, cho dù truyền thông nhà nước bằng mọi cách lý giải và phản bác nhưng dân chúng vẫn không tin. Cho dù có hình ảnh Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ cầm trong tay tờ báo Nhân dân số ra ngày thứ năm 13.06.2013, nhưng cũng không thuyết phục được ai.
.
Hay một hiện tượng đáng buồn mà không thể không nhắc đến, đó là cho dù chính quyền nhà nước độc quyền thông tin, với số lượng hơn 700 tờ báo in, báo mạng, báo hình, báo tiếng... Song những tờ báo hàng đầu về tầm quan trọng, đó là báo Nhân dân tiếng nói của đảng CSVN, hay báo Hà nội mới tiếng nói của Thành Ủy Đảng cộng sản Việt Nam - Thành phố Hà Nội v.v... hiện nay không có mặt trên các sạp báo bởi không có người đọc.
Tất cả là bởi người dân đã rút ra một chân lý rằng: dối trá, đặt điều là bản chất của chính quyền Việt nam hiện nay ở mọi lúc, mọi nơi và mọi chỗ và không bao giờ họ nói sự thật. Vì công khai và minh bạch là điều luôn khiến họ sợ hãi.
.
Đây là những hậu quả hết sức đáng lo ngại, thể hiện sự mất lòng tin của người dân đối với chính quyền. Điều này buộc chính quyền nhà nước phải nhìn nhận và có các giải pháp khắc phục một cách nghiêm túc, chứ không thể xem thường.
.
Hay một hiện tượng đáng buồn mà không thể không nhắc đến, đó là cho dù chính quyền nhà nước độc quyền thông tin, với số lượng hơn 700 tờ báo in, báo mạng, báo hình, báo tiếng... Song những tờ báo hàng đầu về tầm quan trọng, đó là báo Nhân dân tiếng nói của đảng CSVN, hay báo Hà nội mới tiếng nói của Thành Ủy Đảng cộng sản Việt Nam - Thành phố Hà Nội v.v... hiện nay không có mặt trên các sạp báo bởi không có người đọc.
Tất cả là bởi người dân đã rút ra một chân lý rằng: dối trá, đặt điều là bản chất của chính quyền Việt nam hiện nay ở mọi lúc, mọi nơi và mọi chỗ và không bao giờ họ nói sự thật. Vì công khai và minh bạch là điều luôn khiến họ sợ hãi.
Đây là những hậu quả hết sức đáng lo ngại, thể hiện sự mất lòng tin của người dân đối với chính quyền. Điều này buộc chính quyền nhà nước phải nhìn nhận và có các giải pháp khắc phục một cách nghiêm túc, chứ không thể xem thường.
.
Kết
.
Một khi sự giả dối bao trùm trong tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, khi các công bộc của dân quen thói nói vậy mà không phải vậy. Điều này không chỉ thể hiện sự coi thường quần chúng nhân dân cũng như dư luận xã hội, đây là suy nghĩ hết sức sai lầm của giai cấp thống trị. Họ ỷ thế mạnh mà bất chấp sự thật, bất chấp luân thường đạo lý và bất chấp cả công lý. Khi sự giả dối lên ngôi cũng chính là lúc biết bao nguy cơ tiềm ẩn đã và đang hình thành, dần tích tụ và chờ cơ hội để bùng phát. Nên nhớ, việc quản trị một nhà nước cũng cần phải có nguyên tắc đó là coi trọng sự thật, đạo lý và công lý. Thiếu ba điều đó thì không thể có một chế độ nào có thể tồn tại dài lâu và phát triển. Ở Việt nam chúng ta thường nghe nói các thế lực thù địch một cách mơ hồ, không ai biết cụ thể nó là ai, hình hài ra sao. Mà ít ai biết rằng các thế lực thù địch chỉ đơn giản là sự thật, đạo lý và công lý. Điều này ta thấy nó hiện hữu ở các quốc gia văn minh và phát triển, nơi mà đời sống người dân có phúc lợi xã hội cao và quyền con người được tôn trọng.
Còn nhớ, ông Trần Quốc Thuận, nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội đã từng phát biểu rằng "Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Không tham nhũng mới là lạ! Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống."
Một khi sự giả dối bao trùm trong tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, khi các công bộc của dân quen thói nói vậy mà không phải vậy. Điều này không chỉ thể hiện sự coi thường quần chúng nhân dân cũng như dư luận xã hội, đây là suy nghĩ hết sức sai lầm của giai cấp thống trị. Họ ỷ thế mạnh mà bất chấp sự thật, bất chấp luân thường đạo lý và bất chấp cả công lý. Khi sự giả dối lên ngôi cũng chính là lúc biết bao nguy cơ tiềm ẩn đã và đang hình thành, dần tích tụ và chờ cơ hội để bùng phát. Nên nhớ, việc quản trị một nhà nước cũng cần phải có nguyên tắc đó là coi trọng sự thật, đạo lý và công lý. Thiếu ba điều đó thì không thể có một chế độ nào có thể tồn tại dài lâu và phát triển. Ở Việt nam chúng ta thường nghe nói các thế lực thù địch một cách mơ hồ, không ai biết cụ thể nó là ai, hình hài ra sao. Mà ít ai biết rằng các thế lực thù địch chỉ đơn giản là sự thật, đạo lý và công lý. Điều này ta thấy nó hiện hữu ở các quốc gia văn minh và phát triển, nơi mà đời sống người dân có phúc lợi xã hội cao và quyền con người được tôn trọng.
Còn nhớ, ông Trần Quốc Thuận, nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội đã từng phát biểu rằng "Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Không tham nhũng mới là lạ! Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống."
Không biết đến bao giờ mới hết nghịch lý ấy ở Việt nam?
Ngày 04 tháng 07 năm 2013
© Kami - RFA Blog's
Lê Diễn Đức - Minh bạch thông tin là tự sát
Khi lên làm thủ tướng từ năm 2006, ông Nguyễn Tấn Dũng đã gom gần 20 tập
đoàn và tổng công ty về dưới trướng và trực tiếp chỉ đạo. Cơ quan chủ
quản duy nhất là chính phủ nắm quyền quản lý, bổ sung vốn và theo dõi
tiến độ các dự án. Với cơ chế này, ông Dũng đã nắm toàn bộ nguồn tài
chính và các ưu đãi cao nhất cho doanh nghiệp nhà nước, phân chia, ban
phát ân huệ, lợi ích kinh tế và từ đó tạo được sân sau để chi phối chính
trị, củng cố vị trí quyền lực.
Về mặt nguyên tắc, doanh nghiệp nhà nước phải minh bạch thông tin để duy
trì sự ủng hộ của người dân cho sự phát triển. Tuy nhiên, với DNNN,
người dân không thể thực hiện được quyền này. Mọi quyết định hoàn toàn
nằm trong tay chính phủ.
“Việc che giấu hoặc không muốn minh bạch thông tin về hoạt động kinh
doanh trở thành lợi ích cấu kết thường trực của cả cơ quan chủ quản và
bộ máy quản lý DNNN để tránh những rắc rối từ công luận, tức từ ông chủ
đích thực của mình” - tờ Thời báo Sài Gòn ngày 20 tháng 6, 2013 viết.
Tóm lại, khu vực doanh nghiệp nhà nước là cái ổ để rót tiền bạc từ ngân
sách, vốn đầu tư phát triển ODA, cái bẫy của nợ công, cái nôi của các
loại tham nhũng, rút ruột công trình nhiều nhất và ăn chia hoa hồng,
cùng nhiều đặc lợi khác.
Nợ của ngày hôm nay là gánh nặng phải trả của nhiều thế hệ tương lai.
Thế nhưng, có đầu tư thì mới có ăn, chính phủ vẫn tiếp tục tìm các nguồn
tín dụng mới bằng phát hành trái phiếu, lấy các khoản vay mới trả nợ
cũ, vần vũ trong vòng xoáy của tiền.
Từ năm 2000 trở lại đây, tỉ lệ đầu tư vốn toàn xã hội/tổng thu nhập của
Việt Nam luôn cao, trung bình hơn 30%; có năm lên tới 43% như năm 2007.
Theo Bộ Kế Hoạch & Ðầu Tư, năm 2012, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước chỉ đạt 14.84%,
giảm 4.16% so với năm 2011.
Tổng nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2012 trên
1.33 triệu tỷ đồng (tương đương 60 tỷ USD) là đáp số tệ hại của một nền
kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản
phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.
Trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư công đạt khoảng 286 nghìn tỉ
đồng, chiếm trên 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; trong giai đoạn
2006-2010 ước đạt trên 739 nghìn tỉ đồng, khoảng trên 24% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội.
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới
là 11.5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, đến hết năm 2010, nợ công đã tăng
lên 55.2 tỷ USD, tương đương 54.3% GDP. Như vậy, trong vòng 10 năm, từ
2001 đến nay, nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ
trên 15% mỗi năm.
Tời Thời Báo Ngân Hàng, ngày 24 tháng 6 viết:
Trước Quốc Hội, Phó Thủ Tướng Vũ Văn Ninh báo cáo: “Theo luật nợ công,
nợ công gồm có nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính
quyền địa phương. Trên tinh thần như vậy thì nợ công tính đến 31 tháng
12 năm 2012, tương đương 55.5% GDP” - vẫn trong ngưỡng an toàn. Nhưng
“tính đầy đủ, thì số nợ công thực tế của Việt Nam đã lên đến gần 129 tỷ
USD, gần gấp đôi con số được chính phủ công bố, lên đến 106% GDP, nghĩa
là đã ở mức tiền khủng hoảng”.
Từ năm 2006 đến nay, tức là từ khi Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức thủ tướng,
tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định, và hầu như không có sự
gia tăng đáng kể về giá trị. Trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên
3.5% GDP để chi trả nợ và viện trợ phát triển. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công
giảm dần qua các năm, từ 9.09% năm 2006 xuống còn 6.53% năm 2010. Trong
khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ
chóng mặt.
Ðáng lo ngại nhất là khu vực nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi nhất thì hiệu quả đầu tư lại thấp nhất.
Xét ICOR là hệ số đo lường chất lượng của đồng vốn đầu tư đối với tăng
trưởng kinh tế, thì hệ số ICOR có xu hướng ngày mỗi tăng trong 3 năm gần
đây.
Hệ số ICOR đã tăng nhanh từ 1996 đạt mức cao nhất vào năm 1999, chứng tỏ
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đã bị giảm nhanh từ năm 1996 và đạt mức
thấp nhất vào năm 1999. Trong khi hệ số này của Hàn Quốc là 3.3, của
Thái Lan là 3.6, của Malaysia là 3.9, của Philippines là 4.3, của
Singapore là 4.4, của Indonesia là 4.4... Nếu giai đoạn 2000-2005 bỏ ra
gần 5 đồng có thể tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP, đến giai đoạn
2006-2010 phải bỏ ra 7.4 đồng mới tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP. Giai
đoạn 2000-2005 hệ số này đóng góp vào tăng trưởng khoảng trên 22%, thì
đến giai đoạn 2006-2010 con số này chỉ còn dưới 8.8%.
Sang năm 2012, sau 9 tháng tổng mức đầu tư toàn xã hội là 35.8% GDP
nhưng tăng trưởng GDP chỉ đạt 4.73%, ICOR tạm tính là 7.56 lần.
Tất cả là do đầu tư bừa bãi, không đúng ngành nghề, chức năng kinh
doanh, quản lý kém cỏi, lãng phí, nhưng nghiêm trọng nhất là rút ruột dự
án.
Những thí dụ điển hình gần đây cho thấy rõ.
Bỏ hàng ngàn tỷ đồng để mua những con tàu nát tại Vinashine, Vinaline,
cùng với sự thất thoát trong các khoản đầu tư vô tội vạ vào các ngành
không thuộc chức năng, đã dẫn đến món nợ tới khoảng 4.5 tỷ đô la.
Từ dự toán chưa tới 600 triệu USD để không vượt quá mức bị Quốc Hội phê
duyệt, tới nay đã rót hơn 18,000 tỷ đồng (tương đương 900 triệu USD) vào
2 dự án bauxite Tây Nguyên. Giá xuất khẩu alumin của Vinacomin ở ven
biển ước tính tối đa khoảng 345 USD/tấn. Tính chi phí tiêu thụ (vận
chuyển, bốc dỡ, hao hụt) khoảng 25 USD/tấn và thuế xuất khẩu 20%, mỗi
tấn alumin sẽ lỗ khoảng 124 USD, tổng số lỗ năm 2013 sẽ là 74.4 triệu
USD. Nếu Vinacomin được miễn cả thuế xuất khẩu thì mỗi tấn alumin sẽ lỗ
ít nhất 55 USD, mỗi năm tổng lỗ ít nhất 33 triệu USD và không biết bao
giờ có lãi.
Ðường cao tốc 50 km Cầu Giẽ-Ninh Bình được đầu tư xây dựng với số tiền
8,974 tỷ đồng, tương đương 420-430 triệu đôla, được báo chí nói là thiết
kế đạt chuẩn loại A1, có 6 làn xe, tốc độ thiết kế 100-120km/h, “hiện
đại nhất Việt Nam”, sau 5 tháng đi vào khai thác, mặt đường trông như
mặt ruộng mới cày, dư luận gọi là “đường cao tróc”.
Vừa được cắt băng khánh thành và đưa vào sử dụng được hơn 6 tháng, nhưng
mặt bê tông nhựa trên cầu Bến Thủy 2 (Nghệ An- Hà Tĩnh) đã bị lún nhiều
chỗ. Chiếc cầu được đầu tư gần 1,300 tỉ đồng chưa qua 1 năm tuổi đã bị
hư hỏng.
Dự án đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, sau hơn 3 năm triển khai với tổng
mức đầu tư gần 25,500 tỷ đồng, dự kiến thông xe vào năm 2014, nhưng cho
tới nay mới thực hiện được hơn 20% khối lượng.
Cầu bị lún, sập, đường bị nứt nẻ, ổ gà là bi kịch phổ biến của gần như
mọi công trình cầu đường trên lãnh thổ Việt Nam, trên nhiều tuyến quốc
lộ như 1, 3, 5, 7, đại lộ Ðông Tây, không chỉ ở các dự án đã khai thác,
sử dụng 6-8 năm mà còn ở cả các dự án mới đưa vào khai thác... Nhưng tệ
hơn, quan tham thời nay còn ăn bẩn và ăn tạp. Công trình Tượng Ðài Chiến
Thắng Ðiện Biên Phủ bị rút ruột đến 150 tấn đồng, hay cả toilet cũng bị
liếm láp.
Theo Tuổi Trẻ, một chiếc toilet hiện đại, biến chất thải thành năng
lượng sạch của dự án “Tái sáng tạo toilet” của tỷ phú Bill Gates giá
khoảng 2,200 USD. Trong khi đó, một nhà vệ sinh trường học diện tích
29m2 ở Quảng Ngãi lên đến 30,000 USD! Nhà vệ sinh này của trường phổ
thông cơ sở Long Hiệp (Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi) có tổng vốn đầu tư là
600 triệu đồng, diện tích 29 m2, chia làm hai bên dành cho nam và nữ,
phòng nữ có 3 bệ tiểu nhưng không có cửa, phòng nam có bốn bệ tiểu, một
hố xí và bồn rửa tay, vật dụng đều thuộc loại bình thường. Ngoài ra,
cũng trường Long Hiệp, còn có những nhà vệ sinh tương tự giá 710 triệu,
721 triệu đồng!
Cha chung không ai khóc, sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi! Trong khi
“dân kiếm không nổi 50 ngàn, quan xin dự án nghìn tỷ” (Ðất Việt
19/06/2013). Cục đường thủy nội địa xin 1,800 tỉ nắn dòng chảy Sông
Hồng, Sở Phòng Cháy Chữa Cháy Hà Nội xin 6,000 tỉ đồng mua quần áo chống
cháy, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường xin 1,100 tỉ đồng mua tàu điều tra
tài nguyên môi trường biển, Bộ Văn Hóa-Thể Thao xin 6,000 tỷ để xây dựng
đề án tăng chiều cao dân số...
Nước Việt thật buồn về một gia tài ngày càng cạn kiệt và lâm vào nợ nần chồng chất mà các băng nhóm lợi ích, mafia đỏ để lại.
Việt kiều và những người nhẹ dạ trong nước đừng hoang tưởng về sự tài
giỏi nào của đảng Cộng Sản Việt Nam trong sự đổi thay của đất nước sau
gần 40 năm hòa bình. Nếu tiền đầu tư, xây dựng không tự dưng biến mất
30-40% thì sự thay đổi sẽ còn ra sao?
Ðầu tư công là bức tranh thể hiện rõ nhất trong cơ chế “ngậm miệng ăn tiền”. Không thể nào minh bạch thông tin trong cơ chế ấy.
Lê Diễn Đức
(Diễn đàn)
Mới ra tỉnh đã quên mình "chân quê"?
Với lịch sử ngót ba thế kỷ, xuất phát từ các nước Tây Âu, công nghiệp
hoá vẫn luôn được xem là một bước quan trong tiến trình phát triển kinh
tế. Ở Việt Nam, từ những năm 1960, định hướng "công nghiệp hoá, hiện đại
hoá" được coi là trọng tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Mới chỉ nằm trên các... luận văn khoa học
"Công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã trở thành một khẩu hiệu được mặc định
là đúng đắn, không cần bàn cãi hay xem xét. Công nghiệp hóa được xem
như con đường duy nhất dẫn tới hiện đại và phát triển. Người ta gắn liền
công nghiệp với sự giàu mạnh, tân tiến. Trong khi đó, nông nghiệp luôn
đi kèm với sự nghèo nàn và lạc hậu.
Chính vì thế, đã bao năm nay từ trung ương tới địa phương, ở đâu cũng
chỉ thấy vô số chính sách thu hút đầu tư vào công nghiệp, dịch vụ. Trong
khi đó, thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là một vấn đề còn khá
mới mẻ ở Việt Nam, hay nói đúng hơn mới chỉ nằm trên các... luận văn
khoa học.
Thế nhưng, nghiêm túc nhìn lại, chúng ta phải thừa nhận một thực tế đáng
quan ngại là hiệu quả của quá trình công nghiệp hóa được đẩy mạnh một
cách ồ ạt tại nước ta trong mấy chục năm qua chưa được như mong đợi.
Sau năm 1975, do quá chú trọng công nghiệp nặng, nền kinh tế trở nên
thiếu cân đối. Cùng với những chính sách ấu trĩ về thương mại, việc
không quan tâm đúng mức tới chính sách nông nghiệp đã khiến cho những
vùng chưa bao giờ biết tới nạn đói, như cũng phải điêu đứng vì thiếu
lương thực trong những năm trước đổi mới.
Kể từ đó tới nay, những ngành công nghiệp được cho là mũi nhọn của đất
nước vẫn đang ngốn số vốn khổng lồ, được o bế bằng các chính sách bảo hộ
nhưng hiệu quả kinh tế của các ngành này vẫn là một câu hỏi lớn.
Hàng năm, báo cáo về sản xuất công nghiệp vẫn nhắc lại những kết luận
quen thuộc như hàm lượng giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp còn
thấp; tỷ lệ sản xuất gia công còn cao; công nghiệp phụ trợ chưa phát
triển, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chưa cao. [1]
Một thí dụ điển hình là ngành ô tô. Tỷ lệ lắp ráp trong nước của ngành
này chỉ đạt khoảng 5 - 10% trong khi phần linh kiện, máy móc nhập khẩu
từ nước ngoài chiếm tới 90 - 95%. [2]
Thật đáng suy nghĩ khi mà ở một đất nước với thu nhập bình quân mới vượt
qua ngưỡng nghèo như Việt Nam, giá ô tô lại cao hơn so với các nước
giàu nhất thế giới bởi các loại thuế, phí đã đội giá ô tô nhập khẩu lên
nhiều lần. Thực chất, đây là một biện pháp nhằm mục đích bảo hộ ngành ô
tô nội địa.
Người viết dẫn ra những ví dụ này không nhằm mục đích phủ nhận những
hiệu quả kinh tế tích cực nhất định mà chính sách công nghiệp hóa mang
lại. Tầm quan trọng của công nghiệp trong nền kinh tế là điều cần thừa
nhận. Đúng như lời bàn của Lê Quý Đôn rằng "phi công bất phú"- không có
công nghiệp thì đất nước không thể trở nên phú cường được.
Tuy nhiên, công nghiệp hoá cần phải có một hướng đi rõ ràng, cụ thể, phù
hợp với điều kiện của đất nước, có cân nhắc đến nguồn tài nguyên và khả
năng kết hợp với các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đẩy mạnh công
nghiệp hóa trong khi không xem xét một cách toàn diện các nhân tố trên,
không những không đem lại thành tựu tương xứng mà còn có thể gây ra
nhiều tác hại, để lại những hậu quả nặng nề về sau.
nông nghiệp, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế VN
Đã quên mình "chân quê"
Từ nhận thức đó, người viết muốn dẫn bạn đọc chuyển sang câu chuyện về
nông nghiệp. Vai trò của nông nghiệp nên được đặt ở đâu trong tiến trình
công nghiệp hóa là điều mà người viết muốn đề cập trong phần còn lại
của bài viết.
Người ta vẫn hay phê phán những ai mới "ra tỉnh" đã quên mình cũng "chân
quê" nhưng ít ai nhận thấy cách ứng xử đó cũng đang diễn ra ở tầm vĩ
mô.
Như một nghịch lý, một đất nước thoát thai từ nông nghiệp, có điều kiện
tuyệt vời để phát triển nông nghiệp như Việt Nam lại đang coi rẻ "bầu
sữa" đã nuôi lớn mình để chạy theo giấc mơ nhanh chóng trở thành nước
"công nghiệp hiện đại."
Những lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế đều khẳng định mỗi quốc gia
nên tập trung vào những ngành sản xuất mà quốc gia đó có lợi thế so
sánh. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, một quốc gia sẽ xuất khẩu
những mặt hàng mà quốc gia đó có nguồn lực sản xuất dồi dào.
Đối với Việt Nam, các lý thuyết này đã được minh chứng trên thực tiễn.
Nhờ có truyền thống nông nghiệp, với điều kiện thiên nhiên ưu đãi và lực
lượng lao động nông nghiệp đông đảo, Việt Nam từ nhiều năm qua đã trở
thành một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.
Thế nhưng, bất chấp những lý thuyết kinh tế và bằng chứng thực tiễn về
vai trò lớn lao của nông nghiệp, nhiều nhà làm chính sách vẫn hùng hồn
tuyên bố rằng không thể giàu lên nhờ nông nghiệp vì ... bao nhiêu tấn
gạo mới đổi được một con chip điện tử. Đó là lối tư duy tiểu nông được
che giấu bởi những lời ngụy biện chỉ hợp lý ở vẻ bề ngoài.
Người viết cho rằng nông nghiệp hoàn toàn có thể làm cho đất nước giàu
lên, và không dựa vào lợi thế so sánh sẽ là một bước đi sai lầm. Tại sao
Việt Nam lại "cố sống cố chết" chạy theo giấc ảo mộng về việc trở thành
nước công nghiệp hiện đại trong khi việc trở thành nước nông nghiệp
hiện đại là một mục tiêu vừa tầm tay hơn rất nhiều?
Đồng ý rằng có nhiều trường hợp hàng chục tấn gạo mới đổi được một con
chip điện tử. Nhưng không lẽ vì thế chúng ta sẵn sàng đánh đổi hàng ngàn
hecta đất nông nghiệp để xây dựng những khu công nghiệp, tập trung vào
những ngành không có lợi thế so sánh trong khi thế giới đã bỏ xa chúng
ta. Để rồi cuối cùng chỉ là kẻ làm công, chỉ đơn thuần thực hiện những
công đoạn lắp ráp giản đơn.
Nông sản có giá trị thấp hơn sản phẩm công nghiệp là một thực tế. Vấn đề
đặt ra là làm sao để nâng cao được giá trị gia tăng của nông nghiệp. Có
hai con đường là giảm chi phí sản xuất và tăng cường công nghiệp chế
biến. Muốn làm được điều đó phải dựa vào công nghiệp.
Do vậy, không nên đặt nông nghiệp và công nghiệp lên bàn cân để xem
trong những năm qua chúng ta lập thành tích giảm tỉ trọng nông nghiệp
được đến đâu mà phải đặt ra bài toán công nghiệp hóa nông nghiệp thế nào
cho hiệu quả.
Nhận thức của Việt Nam về vai trò và vị trí của nông nghiệp trong cơ cấu
nền kinh tế nên có sự thay đổi cơ bản. Nông nghiệp cần phải trở thành
trung tâm của nền kinh tế và các ngành công nghiệp, dịch vụ phải phát
triển xoay quanh nông nghiệp, phục vụ cho nông nghiệp.
Theo sau việc đầu tư phát triển nông nghiệp, ngoài công nghiệp chế biến
được đẩy mạnh, còn cần công nghiệp sản xuất phân bón, máy móc trang
thiết bị, sản xuất sản phẩm cao cấp từ nông nghiệp... Các ngành dịch vụ
như vận tải, phân phối cũng sẽ được nông nghiệp tạo đà phát triển. Những
ngành công nghiệp không phù hợp vì thiếu lợi thế so sánh cũng sẽ nhờ đó
được loại bỏ.
Liên quan trực tiếp tới nông nghiệp là ẩm thực. Càng đi ra nước ngoài
mới càng thấy sự tinh túy của nền ẩm thực Việt Nam. Giáo sư Marketing
hàng đầu Philip Kotler từng nói, Việt Nam có thể trở thành đầu bếp của
thế giới. Xét đến cùng đó cũng là câu chuyện xoay quanh lợi thế về nông
nghiệp của nước ta.
Nhưng thay vì trân trọng những gì đang có, chúng ta lại đang hủy hoại
lợi thế của chính mình bằng cách "đầu độc" nền ẩm thực tinh túy đó với
các loại thực phẩm và quy trình chế biến ô nhiễm, kém chất lượng.
Điều đó cho thấy, trong cái nhìn của người làm chính sách, nông nghiệp
vẫn chỉ là một viên sỏi thô ráp, đơn sơ chứ chất ngọc bên trong nó chưa
được phát lộ.
"Phi nông bất ổn"
Cùng với mức độ quan tâm chưa tương xứng tới nông nghiệp trong nền kinh
tế, người nông dân Việt Nam - lực lượng chiếm đa số dân số cả nước -
những người tạo ra khối lượng nông sản khổng lồ phục vụ tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu cũng chỉ có tiếng nói yếu ớt trong xã hội. Mỗi khi nền
kinh tế gặp khó khăn, người ta chỉ thấy những đại gia lên tiếng còn
người nông dân chỉ biết "kêu trời".
Trong thời gian học tập ở Thụy Sĩ, người viết có cơ hội được chứng kiến
đời sống nông dân ở một nơi mà nông nghiệp được hết sức quan tâm. Tại
đây, không có cảnh những người nông dân chân lấm tay bùn đầu tắt mặt tối
nhờ sản xuất nông nghiệp được công nghiệp hóa cao. Tỷ trọng giá nông
sản so với sản phẩm công nghiệp cũng tương đối cao.
Chưa kể người nông dân được bảo hộ và trợ cấp nên họ thực sự trở thành
những "phú nông" với mức sống không kém bất cứ ngành nghề nào trong xã
hội.
Điều đó khiến người viết cảm thấy vô cùng day dứt khi nghĩ tới người
nông dân Việt Nam. Không những lao động cực nhọc vì phương thức sản xuất
lạc hậu, chí phí sản xuất lớn nhưng hiệu quả sản xuất chưa cao, người
nông dân Việt Nam còn phải đối mặt với đủ các rào cản khi tham gia vào
thương mại quốc tế.
Nhưng mối đe dọa nghiêm trọng hơn cả có lẽ xuất phát từ chính thái độ
coi rẻ vai trò nông nghiệp. Trong mối tương quan với công nghiệp, nông
nghiệp luôn ở thế yếu hơn. Không những bị lép vế trong ưu tiên phát
triển mà nông nghiệp còn sẵn sàng bị hi sinh để phát triển các ngành
công nghiệp có khói và không khói.
Đất đai sản xuất nông nghiệp không phải bỗng dưng mà có, mà phải mất
hàng trăm năm vỡ hoang, cải tạo. Các nước trên thế giới đều tránh động
chạm tới quỹ đất nông nghiệp. Vậy nhưng ở nước ta chỉ cần căn cứ vào một
câu "thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế" là đất ruộng sẽ trở
thành nền khu công nghiệp, nền chung cư, biệt thự, sân golf.
Điều đáng nói là chúng ta mới chỉ biết "phi công bất phú" nhưng lại quên
mất câu "phi nông bất ổn." Sự ổn định mà nông nghiệp đem lại không phải
chỉ là an ninh lương thực mà còn là những lợi ích trong bảo vệ, cải tạo
môi trường, gìn giữ tài nguyên thiên nhiên, phân bố dân cư, lao động...
Hãy nhìn vào những nước đã đi lên từ nông nghiệp. Cho đến nay các nước
này vẫn duy trì nền nông nghiệp như một phần không thể thiếu bên cạnh
một nền công nghiệp phát triển, tạo sự cân đối, hợp lý cho nền kinh tế,
hướng tới phát triển bền vững.
Người viết tin chắc rằng để trợ cấp, bảo hộ nông nghiệp vẫn có những
cách làm phù hợp. Bởi lẽ chính các quốc gia phát triển lại là những nước
bảo hộ nông nghiệp mạnh mẽ nhất. Việc các nước lớn từ chối mở cửa thị
trường nông nghiệp là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự thất bại
của vòng đàm phán Doha.
Trong khi đó ở Việt Nam, nơi mà người nông dân vẫn chưa phải là đối
tượng được quan tâm trong chính sách phát triển kinh tế thì việc được
hưởng những khoản trợ cấp như thế sẽ còn là tương lai xa vời.
Giờ đây, khi chúng ta vẫn tiếp tục "xà xẻo" nông nghiệp để phục vụ phát
triển công nghiệp, hãy nhớ rằng chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm
với hậu thế về thái độ ứng xử tương tự mà chúng ta đang dành cho nông
nghiệp.
Khương Duy
------------------
Ghi chú:
[1] http://vietstock.vn/2013/06/4-nganh-cong-nghiep-trong-yeu-phat-trien-cham-768-302276.htm
[2] http://tintuc.vibonline.com.vn/Home/Su-kien-Binh-luan/10361/Long-leo-cum-lien-ket-nganh
(Tuần VN)
Nâng chuẩn ngân hàng: bắt đầu từ con người
Để nâng cao khả năng phòng vệ cho ngân hàng phải bắt đầu từ con người. Ảnh: mang tính minh họa |
Rủi ro và tổn thương lan rộng
Theo phó giám đốc trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Vietinbank
Nguyễn Thị Hải Hà, sau sáu năm gia nhập WTO, rủi ro và mức độ tổn
thương của hệ thống ngân hàng đã lan rộng ở mọi góc độ, từ hoạt động tín
dụng, hoạt động huy động, quản lý thanh khoản, rủi ro về nguồn thu nhập
đến rủi ro từ vấn đề sở hữu chéo và các hoạt động trá hình trong hệ
thống ngân hàng. Chẳng hạn, sở hữu chéo gắn với các lợi ích cá nhân, lợi
ích nhóm khi lãnh đạo các ngân hàng thực hiện các hoạt động huy động,
cho vay thông qua các công ty thuộc quyền sở hữu nhằm thâu tóm thị
trường. “Hệ quả không chỉ là rủi ro với hoạt động ngân hàng, mà đối với
cả nền kinh tế, do cung cầu bị bóp méo, giá cả bị đẩy lên vượt quá khả
năng của nền kinh tế”, bà Hà nói.
Phó chủ tịch uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia Hà Huy Tuấn nhận định,
các chính sách thúc đẩy tăng trưởng cao từ giữa năm 1999 đến trước khi
gia nhập WTO dựa vào mở rộng đầu tư với hiệu quả không cao đã tạo sức ép
lên ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn sau đó, khiến cho thị trường
tài chính, đặc biệt là ngân hàng đã chịu nhiều tác động tiêu cực. Nguyên
nhân, theo ông Tuấn là do công tác quản lý, giám sát ngân hàng chưa bắt
nhịp kịp những vận động nhanh chóng của thị trường và chưa thực sự là
chốt chặn an toàn đối với những rủi ro tích tụ trong hệ thống tài chính
ngân hàng; quy chế an toàn còn lỏng lẻo, bỏ ngỏ nhiều rủi ro như đầu tư
chéo, sở hữu chéo, đầu tư tập trung… “Có thể nói, hệ thống ngân hàng vừa
chịu tác động, vừa là nguyên nhân góp phần vào những bất ổn hiện nay”,
ông Tuấn nhấn mạnh.
“Chúng ta chưa có bộ chứng chỉ hành nghề ngân hàng. Thế nên mới có tình
trạng cán bộ vi phạm ở ngân hàng này, nhưng sang ngân hàng khác lại làm
lãnh đạo to đùng”.
Giám đốc trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Vietinbank Nguyễn Thị Mùi
Đồng tình với đánh giá này, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh phân tích:
rất nhiều vụ việc vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng được phát hiện, cho
thấy lãnh đạo một số ngân hàng biết thừa doanh nghiệp khai vống tài sản,
vay không để đầu tư, sản xuất song vẫn ký bừa; bất động sản phình lên
như vừa qua không thể nào không có sự đóng góp của các ngân hàng. Ông
Doanh nêu vấn đề: “Phải chăng vào WTO, chúng ta đã không thực sự chú ý
cải cách thể chế của mình? Thậm chí, nhiều quy định đã có, nhưng không
được thực hiện nghiêm túc, ví dụ như quy định tỷ lệ sở hữu ngân hàng tối
đa 5% với mỗi cá nhân và 10% với tổ chức, nhưng chúng ta đều biết có
một số trường hợp cả một ngân hàng thuộc về một gia đình. Có ngân hàng
70% dư nợ tín dụng giao cho một người, người đó là cũng đồng thời là chủ
của một công ty khác và công ty đó chỉ đầu tư và một dự án duy nhất”.
Không nâng chuẩn sẽ “chết ngập”
Bà Lê Hoàng Nga (uỷ ban Chứng khoán Nhà nước), cho rằng, hệ thống ngân
hàng Việt Nam dễ tổn thương nhất so với các lĩnh vực khác trong nền kinh
tế, và cũng là dễ tổn thương nhất so với hệ thống ngân hàng các nước
Đông Á, mà điều này tỷ lệ nghịch với sự phát triển bền vững. Để nâng cao
khả năng phòng vệ, theo bà Nga, phải bắt đầu từ con người, bằng bộ quy
tắc chứng chỉ hành nghề ngân hàng cũng như bộ quy tắc ứng xử trong ngân
hàng. Theo đó, khi phạm luật, các cán bộ ngân hàng bị xử lý theo luật
Dân sự, luật Hình sự và luật Ngân hàng, tuy nhiên chưa bị xử lý theo
chuyên môn hành nghề, để có thể phạt đình chỉ vĩnh viễn hành nghề ngân
hàng khi vi phạm quá nặng và đưa vào danh sách “đen” của cả hệ thống
trong toàn quốc.
Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh, nhận xét, chúng ta đã mở toang thị
trường tài chính với tốc độ khá nhanh. Điều ông Ánh quan tâm là các ngân
hàng phải tự nâng chuẩn trong “bối cảnh nước dâng, nếu không sẽ chết
ngập”.
Khuyến nghị cơ chế, chính sách và giải pháp cho hệ thống ngân hàng Việt
Nam, phó chủ tịch uỷ ban Giám sát tài chính Hà Huy Tuấn, cho rằng, cần
phải nhanh chóng rà soát các cơ chế chính sách tác động đến nền kinh tế
và hoạt động ngân hàng, theo hướng hội nhập, phù hợp với lộ trình cam
kết quốc tế và tương đối ổn định để ngân hàng và doanh nghiệp tiên liệu,
lượng định được những rủi ro nảy sinh khi thay đổi chính sách. Cùng với
đó, phải đẩy nhanh tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam; nâng cao
năng lực quản trị rủi ro và năng lực giám sát ngân hàng; xây dựng hệ
thống thu thập dữ liệu đảm bảo các thông tin cung cấp là tin cậy.
Thảo Nguyễn
(SGTT)
Phố Tàu xuất hiện ngày càng nhiều
Biển hiệu tiệm tạp hóa ghi tiếng Trung Quốc.
Tổng hợp Tiền phong/Dân trí
Phố Tàu – Biểu hiện Hán hóa ở Việt Nam
Các khu phố Tàu đang mọc lên như nấm trên khắp Việt Nam. Càng ngày, càng nhiều tin, bài, hình ảnh về những vấn đề liên quan đến sự hình thành và phát triển của các khu phố Tàu mới.Một góc phố Tàu ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. (Hình: Sống Mới). |
Các tờ Tiền Phong, Thanh Niên, Dân Trí vừa đưa nhiều thông tin, hình
ảnh, giới thiệu những khu phố Tàu mới hình thành ở Bình Dương, Hà Tĩnh.
Điểm
đáng ngạc nhiên là tuy vẫn quản lý dân chúng rất chặt cả trong cư trú
lẫn kinh doanh nhưng chính quyền nhiều địa phương ở Việt Nam lại rất nhẹ
tay với người Trung Quốc.
Theo mô tả của báo chí Việt Nam, phía
sau Khu Công nghiệp Bình Dương, thuộc thành phố Thủ Dầu Một, hiện có một
khu phố Tàu. Đến đó dễ có cảm giác giống như đang ở trên đất Trung
Quốc.
Đa số cư dân sống tại đó là người Trung Quốc, ngôn ngữ
chính sử dụng trong sinh hoạt, giao tiếp là tiếng Hoa, hàng hóa được bày
ra để mua bán cũng là những sản phẩm được sản xuất tại Trung Quốc.
Bảng
hiệu, thực đơn được kẻ vẽ, in ấn xen kẽ cả hai ngôn ngữ Việt – Trung.
Giá cả được liệt kê cả bằng đồng Việt Nam lẫn nhân dân tệ của Trung
Quốc. Chưa kể, tại khu phố Tàu ở Bình Dương còn có một trường học dạy
tiếng Trung Quốc.
Một góc phố Tàu khác ở Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. (Hình: Sống Mới)
|
Những
khu phố Tàu như thế hiện nằm rải rác trên khắp Việt Nam. Ở miền Trung,
sầm uất và sung túc giống như khu phố tàu tại thành phố Thủ Dầu Một,
tỉnh Bình Dương là khu phố Tàu ở thị trấn Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Tại đó,
người Trung Quốc đang làm chủ hàng trăm cơ sở thương mại.
Ngược
ra phía Bắc, phố Tàu đã định hình và đang phát triển ổn định ở Thủy
Nguyên thuộc thành phố Hải Phòng, Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh, Yên Khánh
thuộc tỉnh Ninh Bình, Đông Triều thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Trường dạy tiếng Hoa ở Bình Dương mang tên “Trung tâm Hoa ngữ Những người bạn”. (Hình: Tiền Phong)
|
Tại
Hà Nội, tuy mật độ quần cư của người Trung Quốc chưa đến mức hình thành
phố Tàu song sự phát triển của Hoa ngữ đã trở thành phổ biến, nên hệ
thống ATM của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vừa bổ túc thêm tiếng Hoa
bên cạnh tiếng Việt và tiếng Anh.
Đề cập đến sự hình thành và
phát triển nhanh chóng của các khu phố Tàu tại Việt Nam, báo điện tử
Sống Mới khái quát: Những khu phố Tàu mọc lên nhan nhản từ Nam ra Bắc
đang gây bao sự lộn xộn, hỗn loạn do thói ăn ở, sinh hoạt bừa bãi của
hàng vạn lao động phổ thông Trung Quốc, cho đến chiêu kinh doanh kiểu
tận thu, tận diệt của các doanh nghiệp nước này.
Bảng hiệu bằng tiếng
Hoa ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Việt Nam quy định rất chặt chẽ cả về tỷ lệ, lẫn
kích thước chữ nước ngoài trên bảng hiệu nhưng với những bảng hiệu gần
như chỉ có Hoa ngữ thì chính quyền lại không hề thắc mắc. (Hình: Thanh
Niên)
|
Cũng theo báo điện tử
Sống Mới, cùng với sự xuất hiện của người Trung Quốc, sự tràn ngập của
hàng hóa Trung Quốc, chính người Việt cũng đang biến xứ sở của mình
thành nơi mang đậm bản sắc của Trung Quốc. Chẳng hạn nhiều địa phương tổ
chức trang trí theo kiểu Trung Quốc, treo đèn lồng Trung Quốc trong các
dịp lễ, Tết khiến người ta có cảm tưởng đang ở trên đất Trung Quốc.
Nhiều
tờ báo ở Việt Nam đang nêu ra hàng loạt câu hỏi: Tại sao trong khi hàng
triệu thanh niên Việt Nam đang đối mặt với tình trạng thất nghiệp và
trở thành nạn nhân của những tệ nạn như buôn người, đi làm thuê rồi bị
cưỡng bức lao động trên xứ người thì hàng vạn lao động phổ thông của
Trung Quốc ào ạt đổ vào Việt Nam làm việc?
Tại sao các cảnh báo
về sự cạn kiệt tài nguyên không được quan tâm và các loại tài nguyên vẫn
ào ạt chảy sang Trung Quốc? Tại sao doanh nghiệp Trung Quốc, người
Trung Quốc được hưởng nhiều biệt đãi mà người Việt không được hưởng ngay
trên chính xứ sở của mình?
Những câu hỏi đó chưa có ai trả lời!
(Người Việt)
Khi những con vẹt Việt Nam câm tiếng hót
Chúng ta, những ông bố bà mẹ có con đang theo học các trường chuyên, các
quan chức ngành giáo dục cũng như quan chức Đảng và Nhà nước từ mấy
chục năm nay say sưa với tiếng chim hót khi các đoàn học sinh giỏi Việt
Nam ca khúc khải hoàn trở về sau mỗi kì thi Olympic quốc tế . Trong bối
cảnh nền kinh tế chậm phát triển và rất nhiều khó khăn , thì ngành giáo
dục lại phát triển tràn lan về số lượng tỉ lệ nghịch với chất lượng, và
người ta lấy việc bồi dưỡng mấy con gà nòi đi thi quốc tế để rao giảng
về một chủ thuyết sai lầm về giáo dục và đào tạo
Tỉnh nào cũng mở trường chuyên, không chỉ có chuyên Toán như những năm
đầu tiên mà môn nào cũng có chuyên , chuyên cấp III và cả chuyên cấp II ,
Thế là phụ huynh học sinh đua nhau cho con thi vào trường chuyên, lớp
chọn và đó chính là gốc gác của tệ nạn học thêm dạy thêm không thể khắc
phục được
Đối với học sinh trường chuyên, ước nguyện của các bậc cha mẹ là con
mình chắc chắn đỗ vào một trường đại học nào đó, nhưng đối với nhà
trường và Bộ Giáo dục- Đào tạo thì phải lựa chọn ra những em ưu tú nhất
để bồi dưỡng vào đội tuyển thi đấu quốc gia và quốc tế và phải có giải
để báo cáo thành tích lên trên . Học sinh trường chuyên và cả bố mẹ rất
sợ phải tham gia đội tuyển . Nếu thi đoạt giải quốc gia và quốc tế thì
còn được vào thẳng đại học. Nếu không đoạt giải thì số phận không biết
thế nào khi học lệch, học tủ, học vẹt đã biến các em thành một cái máy
làm toán , rất thiếu kĩ năng làm một con người theo đúng nghĩa của nó
Các em được triệu tập vào đội tuyển , vinh dự thì cũng có đấy nhưng khó
nhọc vô cùng. Hàng ngày các thày giỏi nhất nhồi cho các em các dạng thức
đề thi mà quốc tế người ta có thể ra. Cứ thế các em rèn luyện như những
con vẹt. Người ta bảo đấy là những “bài toán mẫu mực”mà muốn đi thi
quốc tế phải biết làm . Và không phải em nào giỏi nhất cũng được chọn
vào đội tuyển. Đã có những trường hợp “đi đêm” cho những em chưa xứng
đáng đi thi quốc tế vật lí năm nào và người phụ trách môn vật lí của Bộ
đã bị kỉ luật.
Năm nay, cũng có chuyện lùm xùm trong việc thành lập đội tuyển vật lí mà
ông Bộ lại một lần nữa phải thanh minh . Nhưng rồi sự thiếu minh bạch
đã phải trả giá. Cả 5 em đi thi quốc tế năm nay không đoạt một huy
chương nào . Các con vẹt vật lí bỗng dưng câm lặng. Lí do rất dễ hiểu.
Đề thi năm nay không có bài nào trúng tủ “những bài toán mẫu mực” mà các
trò đã được thày luyện đi luyện lại. Gặp đề “không mẫu mực” là các con
giời tịt ngay
Tại Khoa Lý Trường chuyên Đại học khoa học tự nhiên có một em rất giỏi.
Các thày giáo đều nói rằng lâu lắm mới phát hiện một em có tư chất
thông minh như vậy . Một lần em không làm bài tập , thày bắt lên bảng
làm một bài toán rất khó. Thế là em lẳng lặng lên bảng và giải bài toán
kín bảng mà không cần suy nghĩ lâu la gì trước sự cảm phục của thày giáo
và các bạn cùng lớp . Nhưng trong kì thi học sinh giỏi quốc gia , em
chỉ đoạt giải ba nên không được chọn vào đội tuyển đi thi quốc tế. Nếu
việc tuyển chọn thật công minh thì em học sinh giỏi nọ chắc chắn sẽ được
chọn và có thể em sẽ mang về cho quốc gia xính huy chương này một chiếc
.
Không biết trên thế giới có nước nào mở nhiều trường chuyên để “đào tạo
nhân tài” như ở Việt Nam không nhỉ . Không biết có nước nào trên thế
giới mà ngành giáo dục đại trà “nát bét” như Việt Nam không nhỉ . Đã đến
lúc các vị cầm cân nảy mực, hoạch định chính sách giáo dục phải xem
lại chuyện say sưa khi những con vẹt cất tiếng hót trên đấu trường quốc
tế và cả khi nó bỗng dưng câm lặng .
Chúng ta, những ông bố bà mẹ có con đang theo học các trường chuyên, các
quan chức ngành giáo dục cũng như quan chức Đảng và Nhà nước từ mấy
chục năm nay say sưa với tiếng chim hót khi các đoàn học sinh giỏi Việt
Nam ca khúc khải hoàn trở về sau mỗi kì thi Olympic quốc tế . Trong bối
cảnh nền kinh tế chậm phát triển và rất nhiều khó khăn , thì ngành giáo
dục lại phát triển tràn lan về số lượng tỉ lệ nghịch với chất lượng, và
người ta lấy việc bồi dưỡng mấy con gà nòi đi thi quốc tế để rao giảng
về một chủ thuyết sai lầm về giáo dục và đào tạo
Tỉnh nào cũng mở trường chuyên, không chỉ có chuyên Toán như những năm
đầu tiên mà môn nào cũng có chuyên , chuyên cấp III và cả chuyên cấp II ,
Thế là phụ huynh học sinh đua nhau cho con thi vào trường chuyên, lớp
chọn và đó chính là gốc gác của tệ nạn học thêm dạy thêm không thể khắc
phục được
Đối với học sinh trường chuyên, ước nguyện của các bậc cha mẹ là con
mình chắc chắn đỗ vào một trường đại học nào đó, nhưng đối với nhà
trường và Bộ Giáo dục- Đào tạo thì phải lựa chọn ra những em ưu tú nhất
để bồi dưỡng vào đội tuyển thi đấu quốc gia và quốc tế và phải có giải
để báo cáo thành tích lên trên . Học sinh trường chuyên và cả bố mẹ rất
sợ phải tham gia đội tuyển . Nếu thi đoạt giải quốc gia và quốc tế thì
còn được vào thẳng đại học. Nếu không đoạt giải thì số phận không biết
thế nào khi học lệch, học tủ, học vẹt đã biến các em thành một cái máy
làm toán , rất thiếu kĩ năng làm một con người theo đúng nghĩa của nó
Các em được triệu tập vào đội tuyển , vinh dự thì cũng có đấy nhưng khó
nhọc vô cùng. Hàng ngày các thày giỏi nhất nhồi cho các em các dạng thức
đề thi mà quốc tế người ta có thể ra. Cứ thế các em rèn luyện như những
con vẹt. Người ta bảo đấy là những “bài toán mẫu mực”mà muốn đi thi
quốc tế phải biết làm . Và không phải em nào giỏi nhất cũng được chọn
vào đội tuyển. Đã có những trường hợp “đi đêm” cho những em chưa xứng
đáng đi thi quốc tế vật lí năm nào và người phụ trách môn vật lí của Bộ
đã bị kỉ luật.
Năm nay, cũng có chuyện lùm xùm trong việc thành lập đội tuyển vật lí mà
ông Bộ lại một lần nữa phải thanh minh . Nhưng rồi sự thiếu minh bạch
đã phải trả giá. Cả 5 em đi thi quốc tế năm nay không đoạt một huy
chương nào . Các con vẹt vật lí bỗng dưng câm lặng. Lí do rất dễ hiểu.
Đề thi năm nay không có bài nào trúng tủ “những bài toán mẫu mực” mà các
trò đã được thày luyện đi luyện lại. Gặp đề “không mẫu mực” là các con
giời tịt ngay
Tại Khoa Lý Trường chuyên Đại học khoa học tự nhiên có một em rất giỏi.
Các thày giáo đều nói rằng lâu lắm mới phát hiện một em có tư chất
thông minh như vậy . Một lần em không làm bài tập , thày bắt lên bảng
làm một bài toán rất khó. Thế là em lẳng lặng lên bảng và giải bài toán
kín bảng mà không cần suy nghĩ lâu la gì trước sự cảm phục của thày giáo
và các bạn cùng lớp . Nhưng trong kì thi học sinh giỏi quốc gia , em
chỉ đoạt giải ba nên không được chọn vào đội tuyển đi thi quốc tế. Nếu
việc tuyển chọn thật công minh thì em học sinh giỏi nọ chắc chắn sẽ được
chọn và có thể em sẽ mang về cho quốc gia xính huy chương này một chiếc
.
Không biết trên thế giới có nước nào mở nhiều trường chuyên để “đào tạo
nhân tài” như ở Việt Nam không nhỉ . Không biết có nước nào trên thế
giới mà ngành giáo dục đại trà “nát bét” như Việt Nam không nhỉ . Đã đến
lúc các vị cầm cân nảy mực, hoạch định chính sách giáo dục phải xem
lại chuyện say sưa khi những con vẹt cất tiếng hót trên đấu trường quốc
tế và cả khi nó bỗng dưng câm lặng .
Lương Kháu Lão
(Blog Lương Kháu Lão)
Cảm nghĩ về vụ Nguyễn Thái Bình
Những sự kiện như vừa nêu không khỏi khiến người ta đi đến kết luận
rằng dường như người Việt Nam không có năng lực để thoả hiệp với nhau,
để hoà giải, để cùng nhau san bằng những bất đồng, hướng về mục tiêu tối
hậu là sự trường cửu của Dân tộc-Đất Nước. Thay vào đó có vẻ như người
Việt dễ dàng để bị ngoại bang chi phối và can thiệp vào chuyện nội bộ
của mình; họ sẵn sàng để cầu viện ngoại nhân hơn là tương nhượng và đùm
bọc nhau; dễ dàng để tôn thờ một quan điểm ngoại lai, hơn là lắng nghe
và cùng nhau xây đắp một dòng tư tưởng mang bản sắc riêng của nòi giống
Việt.
Cái chết bi thảm của anh sinh viên Nguyễn Thái Bình, tuy xảy ra 40 năm
về trước, vẫn còn đáng cho người Việt chúng ta hôm nay suy ngẫm.
1/ Trước hết, xét về mặt pháp lý, căn cứ theo lời khai của hung thủ và
các nhân chứng, thì rõ ràng đó là một vụ sát nhân (murder) mà hung thủ
là viên cơ trưởng Eugene Vaughn và tòng phạm là một cựu cảnh sát Mỹ trên
chuyến bay.
Ngoài tội cố ý sát nhân, Vaughn còn vi phạm luật hàng không quốc tế,
khinh thị luật pháp và xâm phạm chủ quyền của VNCH. Bởi y đã, không do
động cơ tự vệ chính đáng tự ý đối phó với tình huống, mà y cho là không
tặc, ngay trên không và lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền, không
thông báo với cơ quan hữu trách, cũng không tự đặt mình dưới sự chi phối
của luật pháp của quốc gia đó.
Cũng về mặt pháp lý, việc chính phủ VNCH thời đó không truy tố, theo
luật pháp của mình, viên phi công trưởng Vaughn là tự mình xem nhẹ chủ
quyền quốc gia, không chu toàn bổn phận thi hành luật pháp và bảo vệ
công dân của mình.
2/ Về mặt văn hoá, hành vi công khai giết người một cách tàn bạo, khinh
thường chủ quyền quốc gia VNCH của Vaughn là một biểu hiện đặc trưng của
thái độ ethnocentricity của một số khá đông người Tây Phương nói chung,
và người Mỹ nói riêng, khi tiếp xúc với người dân của các quốc gia
nhược tiểu Á-Phi. Thái độ đó không chỉ xảy ra trước đây mà ngay cả đến
nay cũng vẫn còn. Cứ nhìn những vụ tàn sát, hãm hiếp, và tra tấn mà lính
Mỹ mới đây đã gây ra ở Iraq, hay Afghanistan thì rõ.
3/ Về mặt chính trị, việc một công dân Việt Nam bị giết một cách man rợ
bởi một người Mỹ, ngay trên khu vực an toàn nhất của VNCH mà không một
sự truy cứu trách nhiệm hình sự nào xảy ra, biểu lộ mối quan hệ bất bình
đẳng nghiêm trọng giữa hai quốc gia Mỹ-VNCH. Cùng với sự im lặng của
chính phủ VNCH trong vụ tàn sát ở Mỹ Lai-Quảng Ngãi, chính nghĩa của phe
Quốc Gia đã bị tổn hại nặng nề, tạo một cơ hội rất tốt cho sự tuyên
truyền của đối phương. Chắc chắn là nhờ những vụ như vậy mà VC đã tuyển
mộ thêm được nhiều người đi theo họ.
4/ Sự im lặng của chính phủ VNCH là một sự đồng lõa với kẻ sát nhân. Dù
vậy vào thời đó, và cả đến ngày hôm nay, chắc chắn sẽ có vô số người sẳn
sàng bào chữa cho thái độ đó của chính quyền VNCH bằng cách cho rằng vì
cố sinh viên Nguyễn Thái Bình thân Cộng, có hành vi chống lại, tự trở
thành kẻ thù của chính quyền VNCH nên chính quyền đó không có nhiệm vụ
bảo vệ cho anh ta. Hơn thế nữa có nhiều người còn kết án Nguyễn Thái
Bình là thứ "phản bội, ăn cơm quốc gia thờ ma CS" và cho rằng Nguyễn
Thái Bình chết là đáng đời!
Điểm đáng suy ngẫm ở đây là trong suốt một thời gian dài, nhiều thế hệ
người Việt Nam ở cả hai phía, đã vì khác biệt ý thức hệ mà sẳn sàng hợp
tác, hoặc đồng loã với ngoại bang để giết đồng bào của mình một cách
không thương tiếc. Cái chết của Nguyễn Thái Bình chính là kết quả, là
điển hình của sự hợp tác giữa người Việt Nam bên phe này với người Mỹ để
giết một đồng bào không cùng chính kiến hoặc ý thức hệ với mình, tỏ ra
muốn ngã về bên kia. Về mặt bản chất thì sự hợp tác của người Việt với
ngoại bang trong vụ Nguyễn Thái Bình cũng tương tự như việc trước đây
giới lãnh đạo đảng CSVN của chính quyền VNDCCH đã đồng lõa với đám cố
vấn Trung Quốc trong vụ Cải Cách Ruộng Đất để giết hàng chục ngàn đồng
bào địa chủ của mình ở Miền Bắc vào những năm 1953-1956.
Ngày nay việc nhà cầm quyền CSVN ra tay bắt bớ, giam cầm, đánh đập, và
tù đày những người Việt Nam bày tỏ sự phản kháng đối với tham vọng lấn
chiếm của Trung Quốc, cũng lại một lần nữa biểu hiện sự đồng lõa, có lẽ
đã thành nề của người Việt đối với ngoại nhân để quay lại tàn sát dân
mình.
Những sự kiện như vừa nêu không khỏi khiến người ta đi đến kết luận rằng
dường như người Việt Nam không có năng lực để thoả hiệp với nhau, để
hoà giải, để cùng nhau san bằng những bất đồng, hướng về mục tiêu tối
hậu là sự trường cửu của Dân Tộc-Đất Nước. Thay vào đó có vẻ như người
Việt dễ dàng để bị ngoại bang chi phối và can thiệp vào chuyện nội bộ
của mình; họ sẵn sàng để cầu viện ngoại nhân hơn là tương nhượng và đùm
bọc nhau; dễ dàng để tôn thờ một quan điểm ngoại lai, hơn là lắng nghe
và cùng nhau xây đắp một dòng tư tưởng mang bản sắc riêng của nòi giống
Việt. Bằng chứng là người Việt không có học thuật và chủ thuyết, chỉ bắt
chước và mô phỏng. Tàu có Khổng Giáo thì người Việt bắt chước theo
Khổng Giáo; Tàu có Lão giáo thì người Việt cũng noi theo; Tàu du nhập
Phật Giáo thì người Việt cũng du nhập Phật Giáo. Tây Phương đến mang
theo Thiên Chúa Giáo, nhiều người Việt cũng đã tử vì đạo ấy. Rồi khi học
thuyết Cộng Sản ra đời, vô khối người Việt cũng đã nhanh nhẩu trở thành
môn đồ nhiệt thành. Đến nay, sau sự sụp đổ của khối CS, chủ nghĩa tư
bản trở thành độc bá thiên hạ, Dân Chủ là vũ khí tư tưởng của chủ nghĩa
ấy đang trở thành phổ quát với đà toàn cầu hoá ngày càng tăng nhanh, vô
số người Việt cũng đang tỏ ra là những học trò năng nổ của cặp song sinh
Kinh Tế Thị Trường và Dân Chủ. Chỉ có điều là, đúng như một học giả
Việt Nam đã viết cách nay hơn thế kỷ rằng người Việt Nam chỉ giỏi bắt
chước mà ít sáng tạo. Nhiều người Việt đang hô hào Thị Trường-Dân Chủ,
nhưng có vẻ như chỉ giỏi hô theo mẫu mực của người khác, hơn là vạch ra
một hình thái riêng phù hợp với điều kiện mọi mặt của dân tộc mình. Đó
là điều không hay, bởi nó sẽ chỉ cuối cùng lặp lại những gì đã xảy ra
trước kia, rồi lại vẫn "nồi da xáo thịt" của sự bất đồng quan điểm tạo
ra do sự khác biệt của các khuôn mẫu bắt chước.
Mong sao khí thiêng sông núi vẫn hiển linh, soi sáng cho những thế hệ
trẻ Việt Nam sắp đến nhận chân ra được bản chất đích thực của dân tộc
mình, thoát ra khỏi được sự mông muội ý thức hệ, đủ sáng suốt để hạ bệ
mọi thần tượng huyễn hoặc, nhận ra được những sai lầm chí tử của tiền
nhân, từ đó tìm ra được con đường mới cho sự vươn lên trường cửu của Tổ
Quốc.
Mong lắm thay!
TRƯƠNG D. TRUNG
(Dân luận)
TS Phạm Sỹ Liêm: Sắp lộ diện những DN BĐS làm ăn kiểu "bán nước bọt"
“Đây cũng là thời điểm các doanh nghiệp làm ăn theo kiểu “bán nước bọt”,
“bán lúa non” bắt đầu lộ diện và phá sản. Những doanh nghiệp này sẽ “cù
nhầy”, để đòi lại quyền lợi khách hàng chỉ có thể khởi kiện” – TS Phạm
Sỹ Liêm cho biết.
Thông tin ông Nguyễn Hoàng Long - Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH kinh doanh
nhà Vĩnh Hưng (chủ đầu tư dự án 409 Lĩnh Nam), đồng thời cũng là Chủ
tịch tập đoàn Vina Megastar (chủ đầu tư của hàng loạt dự án bất động sản
tại Hà Nội) bị bắt vì hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đang dấy
lên sự lo ngại của những người trong ngành về một hiệu ứng đổ vỡ của các
doanh nghiệp BĐS.
Sự lo ngại này càng trở nên rõ ràng khi nhìn lại thị trường BĐS thời
gian qua, số lượng doanh nghiệp BĐS, chủ đầu tư dự án đang dính vào
tranh chấp, kiện cáo căng thẳng với chính khách hàng của mình ngày càng
tăng.
Trao đổi với phóng viên báo điện tử Giáo dục Việt Nam, TS Phạm Sỹ Liêm -
Phó Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây
dựng cho rằng: “Kẽ hở chủ yếu của BĐS thời gian qua đó là vấn đề liên
quan đến tiền vốn góp của khách hàng và người dân không rõ ràng. Nếu
doanh nghiệp chỉ vay tiền ngân hàng có lẽ đã phá sản từ lâu vì vay ngân
hàng nếu không trả được gốc phải trả lãi mà lãi không trả được thì ngân
hàng đã đến tịch thu”.
TS Phạm Sỹ Liên biết, tình hình BĐS hiện nay bộc lộ một vấn đề quản lý
thiếu chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước trong một thời gian dài
hình thức góp vốn trong đầu tư kinh doanh BĐS.
“Nhà nước ta có thể nói quản lý không chặt chẽ hình thức góp vốn, hình
thức góp vốn không có trong bất cứ văn bản nào của Luật Đầu tư. Ở đây
thực chất chỉ nên nộp một số tiền như lời cam kết mua sản phẩm BĐS của
người dân. Về số lượng tiền thì tùy nguyên lý thì phải gọi số tiền đó là
tiền đặt cọc” – TS Phạm Sỹ Liêm cho biết.Theo TS Phạm Sỹ Liêm, trước
đây ông và Tổng hội Xây dựng đã từng có đề nghị với Bộ Xây dựng các cơ
quan quản lý nhà nước về đầu tư, kinh doanh BĐS nên đưa tiền vốn góp của
khách hàng tại các dự án BĐS thành hợp đồng ký kết đặt cọc. Như vậy nếu
ký một số tiền đặt cọc thì mọi chuyện rất rõ ràng vì các quy chế về đặt
cọc, quy định về đặt cọc đã có trong Bộ luật Dân sự.
TS Phạm Sỹ Liêm, Phó Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây dựng: “Đây cũng là thời điểm các doanh nghiệp làm ăn theo kiểu “bán nước bọt”, “bán lúa non” bắt đầu lộ diện và phá sản...". |
“Trong Bộ luật Dân sự đã nói rõ “Đặt cọc là dùng tiền để cam kết thực
hiện lời hứa hẹn của mình”. Ví dụ người dân hứa hẹn sẽ mua nhà của dự án
này nhưng nếu chỉ hứa hẹn “suông” thì lấy gì tin cậy vì thế nên anh
phải nộp vào đó một khoản tiền gọi là tiền đặt cọc. Số tiền đặt cọc sẽ
ràng buộc bên mua và bên bán” – TS Phạm Sỹ Liêm cho biết thêm.
Theo TS Liêm, cái hay của việc bên mua bên bán có hợp đồng tiền đặt cọc
là sự ràng buộc. Nếu bên bán (chủ đầu tư BĐS) có sản phẩm nhưng bên mua
đã cam kết lại không mua thì số tiền đặt cọc đó thuộc về doanh nghiệp,
ngược lại nếu bên bán không giao hàng theo đúng hợp đồng đặt cọc thì
chịu phạt một số tiền tương đương với tiền đặt cọc cho người mua.
Tại thời điểm TS Liêm đưa ra, vấn đề tiền đặt cọc thay cho hình thức
tiền góp vốn của người dân tại dự án BĐS. Bộ Xây dựng lại cho rằng, nếu
số tiền góp vốn của người dân trở thành tiền đặt cọc thì doanh nghiệp
không tiêu được số tiền ấy, chủ đầu tư không được dùng số tiền đó vì đây
chỉ là số tiền khách hàng gửi đặt cọc như một cam kết. Như vậy sẽ dẫn
đền vấn đề thiếu vốn để hoàn thành dự án.
Về vấn đề này TS Phạm Sỹ Liêm lý giải, nếu thiếu vốn chủ đầu tư nên vay
ngân hàng, doanh nghiệp có thể mở thêm ở ngân hàng một tài khoản gọi là
tài khoản phong tỏa, ai có tiền đặt cọc sẽ gửi vào tài khoản đó bên mua
cũng không được rút ra, bên bán cũng không được sử dụng.
“Khi ngân hàng thấy số tiền đặt cọc đó có sẵn trong tài khoản thì họ có
thể cho chủ đầu tư, doanh nghiệp BĐS cho vay số tiền tương đương với số
tiền ở tài khoản phong tỏa kia. Nếu doanh nghiệp không trả được thì ngân
hàng sẽ thu tiền đặt cọc. Như vậy chủ đâu tư BĐS đã vay ngân hàng và
trả lãi thực sự còn từ trước đến nay chủ đầu tư BĐS dùng tiền của khách
hàng không trả bất cứ đồng lãi nào” – TS Liêm phân tích.
Việc một thời gian dài để tình trạng thu hút tiền vào các dự án BĐS theo
hình thức góp vốn khiến người dân “mất cả chì lẫn chài”. Trong khi đó
hình thức góp vốn thực tế là góp vốn để kinh doanh lấy lãi nhưng người
dân lại thiệt hại.
Đưa ra nhận định của mình về tình hình doanh nghiệp BĐS thời gian tới,
TS Phạm Sỹ Liêm cho biết: “Nhất định là sẽ còn nhiều doanh nghiệp BĐS
phá sản, tuyên bố phá sản để phát mại tài sản để trả lại tiên cho khách
hàng. Trong trường hợp như vậy để đòi lại quyền lợi người dân chỉ có thể
đưa ra tòa kiện nếu đủ giấy tờ liên quan hợp đồng mua bán BĐS”.
Cũng theo TS Phạm Sỹ Liêm, thời gian qua chính sách của nhà nước đối phó
với khó khăn của thị trường BĐS còn chậm, chưa kịp sửa đổi phù hợp với
tình hình thực tế.
“Ngay từ lúc đầu có những nhà kinh doanh BĐS lập ra dự án với mục đích
để lừa đảo gom tiền của khách hàng rồi chạy mất, đó là lừa đảo. Ở thời
điểm này những doanh nghiệp làm ăn theo kiểu “bán nước bọt”, “bán lúa
non” bắt đầu lộ diện và phá sản. Những doanh nghiệp này sẽ “cù nhầy”, để
đòi lại quyền lợi khách hàng chỉ có thể khởi kiện” – TS Liêm nói.
(GDVN)
Tại sao Trung Quốc chấp nhận đàm phán với ASEAN về COC?
Hội nghị các ngoại trưởng ASEAN tại Brunei với trọng tâm chính là vấn đề
Biển Đông về bộ quy tắc COC diễn ra trong một bối cảnh tranh chấp đang
diễn ra căng thẳng ngày một leo thang khó kiểm soát. Trước thềm hội nghị
người ta lại nghe thấy những lời cảnh báo, đe dọa cứng rắn từ phía
Trung Quốc đến Philipines xung quanh việc tranh chấp chủ quyền trên Biển
Đông…
Nhưng, điều bất ngờ xảy ra là Trung Quốc, đối tượng trực tiếp, chủ yếu
của ASEAN, là nguyên nhân thành, bại của hội nghị các ngoại trưởng ASEAN
lần này hay tất cả cấp hội nghị cấp nào bàn về hòa bình trên Biển Đông
đã tỏ ra thiện chí. Trung Quốc đã chấp nhận đàm phán với ASEAN về Quy
tắc ứng xử Biển Đông COC vào tháng 9/2013 tại Trung Quốc.
Sự kiện này, Trung Quốc nói những lời "có cánh”, các nước trong ASEAN
tán dương và ngay cả Philipines, quốc gia mới bị Trung Quốc ban cho bản
luận tội gồm 7 tội còn “chưa ráo mực” cũng “mát lòng”.
Tuy nhiên, “tại sao?” là câu hỏi mà giới phân tích thời cuộc luôn đưa ra sau quyết định này của Trung Quốc.
Trung Quốc sử dụng “Pause” trong cuộc chơi trên Biển Đông?
Thông thường khi cuộc chơi (games) diễn biến ngày càng mau lẹ, có nguy
cơ nằm ngoài sự phán đoán, ngoài tầm kiểm soát mà chưa có khả năng và
cách thức đối phó, nếu tiếp tục thì thất bại là chắc chắn thì lúc đó
người chơi sử dụng nút Pause để dừng cuộc chơi để có thời gian suy nghĩ,
tính toán…
Có thể nói “cuộc chơi trên Biển Đông” được các nhà chiến lược Trung Quốc
từ thế hệ lãnh đạo này đến thế hệ lãnh đạo khác chuyển tiếp một cách
nhất quán. Chiến lược biến Biển Đông thành “ao nhà” được các nhà chiến
lược vạch ra trên cơ sở dựa vào sức mạnh của quốc gia theo phương châm
cậy mạnh, hiếp đáp với các quốc gia nhỏ yếu quanh khu vực Biển
Đông-ASEAN.
Đó là sự lấy lòng ASEAN, ký DOC…từ năm 2005 trở về trước khi Trung Quốc
đang buộc phải thực hiện sách lược “giấu mình chờ thời” để trỗi dậy. Khi
trỗi dậy, đặc biệt từ năm 2009 trở lại đây, với sự phát triển vượt bậc
của nền kinh tế, Trung Quốc tăng ngân sách quốc phòng vượt ra ngoài phạm
vi phòng thủ, Trung Quốc bất chấp chấp tất cả, hung hăng, ngang ngược,
đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt Biển Đông.
Tiếc thay, trong ván cờ đó Trung Quốc tính chưa kỹ các nước đi, chỉ biết
hoan hỉ với nước đi của mình mà không cần biết nước đi của đối phương,
Trung Quốc chỉ biết đến sức mạnh của mình mà không biết rằng đó chỉ là
“sức mạnh đơn phương” mà khi đối đầu với “sức mạnh đa phương” tất yếu
chỉ có thảm bại.
Xu hướng đối nội, ASEAN tăng cường tiềm lực quốc phòng để tự vệ
Rõ ràng là khi Trung Quốc cậy mạnh đe dọa dùng vũ lực trên Biển Đông thì
các quốc gia ven biển phải tăng cường tiềm lực quốc phòng để bảo vệ chủ
quyền là tất yếu.
Trung Quốc chưa phải là số 1 của thế giới nên vũ khí, trang bị chiến
tranh của Trung Quốc xét về độ tin cậy, tiên tiến và hiện đại lại không
vượt trội, thậm chí có mặt thua kém vũ khí trang bị mà các nước ASEAN
mua sắm.
Tấn công vào một trong các nước đó thì giá phải trả quá lớn, có thể sa
lầy. Nhưng dù sao về mặt quân sự đơn phương, đây không phải là vấn đề
lớn, đáng lo ngại của Trung Quốc.
Với Philipines, hình ảnh Nhật Bản ngày xưa không đáng ngại bằng Trung Quốc hiện tại. Một liên minh quân sự Nhật Bản-Philipines sẽ do Trung Quốc quyết định. |
Xu hướng đối ngoại, ASEAN đã lựa chọn
Nếu như từ năm 2012 về trước, ASEAN còn có tồn tại sự lựa chọn giữa
Trung Quốc và Mỹ thì sau cú “tàn phá” ASEAN mang tên Trung
Quốc-Campuchia, hồi tháng 7/2012 khi lần đầu tiên sau hơn 45 năm ra đời,
hội nghị thượng đỉnh ASEAN không ra nổi một thông cáo chung đó, ASEAN
như bị xúc phạm bởi một cú sốc mạnh và hồi tỉnh với một thái độ đối với
Trung Quốc hoàn toàn thay đổi.
Những nhà thông thái quan sát sự kiện ASEAN lúc đó đã nhận định rằng:
“Trung Quốc đã thắng về chiến thuật nhưng thất bại về chiến lược”, đến
bây giờ thực tế chứng minh hoàn toàn đúng.
Đúng và chính xác bởi vì năm 2012, Trung Quốc đã thành công khi ngăn cản
ASEAN ra một thông cáo chung về tình hình Biển Đông nhưng năm nay thì
không thể, không những thế Trung Quốc buộc phải chấp nhận đàm phán với
ASEAN (đa phương) về COC.
Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả, lòng tin chiến lược của ASEAN với
Trung Quốc và qua đó sự lựa chọn của ASEAN mà trong đó Trung Quốc không
phải là tối ưu, mới là thất bại mang tính chiến lược của Trung Quốc:
Như vậy, Mỹ và Trung Quốc đã khiến cho ASEAN lựa chọn và chia rẻ, nhưng
hành động của Trung Quốc đã làm phần còn lại của ASEAN vào vòng tay kẻ
khác đang dang rộng chờ đợi.
Sự trở lại của Mỹ với châu Á-TBD trong chiến lược kiềm chế sự thách thức
của Trung Quốc bằng việc củng cố các liên minh hiện có, xây dựng liên
minh mới…nhằm tạo ra một vành đai chiến lược bao vây Trung Quốc từ ngay
chuỗi đảo thứ nhất.
Quá tin vào ‘sức mạnh đơn phương”, cậy mạnh nên trong mắt Trung Quốc chỉ
có Mỹ mới là đối thủ, Trung Quốc coi thường tất cả, ngay Nhật Bản,
Trung Quốc cũng đánh giá chỉ là một “con gà” mà có thể “giết” bất cứ lúc
nào để “dọa khỉ (Mỹ)” mà thôi.
Vì thế, trên biển Hoa Đông, Trung Quốc đẩy tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư
bùng lên dữ dội nhằm khẳng định sức mạnh, uy thế, bản lĩnh của mình. Rốt
cuộc Nhật Bản phải tái vũ trang để đối đầu và Trung Quốc đã vấp phải
một sức mạnh không thể vượt qua…
Trong bối cảnh khu vực có 2 yếu tố lớn tác động như trên, bất kỳ sự lựa
chọn nào của bất kỳ quốc gia nào trong ASEAN với Nhật Bản hay Mỹ đều
“đơm hoa” và luôn là “kết trái đắng” cho Trung Quốc.
Hãy xem quan hệ giữa Trung Quốc và Philipines. Nếu như Trung Quốc dấn
thêm một bước nữa để “nuốt” tiếp Bãi Cỏ May thì chưa biết chừng không
những Philipines mở cảng Subic cho Mỹ, Nhật Bản mà còn liên minh quân sự
với Nhật Bản. Vì vậy, vấn đề của Trung Quốc lúc này không phải là
Philipines mà là Mỹ và Nhật Bản.
Với Việt Nam. Việt Nam tuyên bố không liên minh quân sự, không cho nước
ngoài lập căn cứ quân sự…thực chất là một thông điệp cho Trung Quốc
rằng: “Việt Nam không chống và không theo ai để chống Trung Quốc, Việt
Nam muốn là bạn với Trung Quốc trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền
của nhau. Nhưng nếu một khi Trung Quốc bất chấp, gây chiến để xâm phạm
chủ quyền thì ngay mạng sống của mình, dân tộc Việt còn chấp nhận thà hy
sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước…thì liên minh quân sự hay
căn cứ quân sự chỉ là chuyện nhỏ, không có việc gì mà Việt Nam không
thể làm”.
Tại thời điểm này, Trung Quốc dù tốn bao công sức phô trương sức mạnh,
dọa dẫm… đã phải cay đắng nhận ra rằng, Biển Đông đã được quốc tế hóa
sâu sắc. Biển Đông không phải là nơi mà Trung Quốc dễ dàng “trùm chăn”
các nước nhỏ, yếu để ra đòn. Đặc biệt, Trung Quốc nhận ra xu hướng hành
động mà ASEAN đang và sẽ thực hiện là rất nguy hiểm, khó đối phó cho
Trung Quốc. Nếu cứ tiếp tục thực hiện mưu đồ chiến lược của mình, Trung
Quốc sẽ bị cô lập hoàn toàn và có nguy cơ một mình chống lại cả châu
Á-TBD. Chắc chắn không có một ban lãnh đạo đất nước nào muồn như vậy cả.
Vì vậy, Trung Quốc buộc phải chủ động “dừng cuộc chơi” bằng cách chấp
nhận đàm phán với ASEAN về bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC nhằm để
có thời gian nghiên cứu đối phó.
Trung Quốc sử dụng nút Play thì sẽ như thế nào?
Trung Quốc chấp nhận đàm phán với ASEAN về bộ quy tắc ứng xử trên Biển
Đông COC nhưng vấn đề quan tâm nhất của ASEAN là COC có được ký kết,
thông qua hay không mới quan trọng. Chấp nhận đàm phán là Trung Quốc
chấp nhận từ bỏ quan điểm giải quyết tranh chấp Biển Đông chỉ bằng đàm
phán song phương, nhưng chấp nhận COC hay không là quyền của Trung Quốc.
Rất khó để Trung Quốc chấp nhận ký kết COC bởi sẽ bị áp lực lớn của chủ
nghĩa dân tộc cực đoan đã tác oai tác quái lâu nay. Nhưng sự bất ổn xã
hội và đặc biệt nhận thức về việc biến Biển Đông thành “ao nhà” chỉ là
“duy ý chí” của Trung Quốc thì Biển Đông trước và sau cuộc đàm phàn COC
vẫn không có gì thay đổi. Biển Đông vẫn là một chiến trường nóng bỏng,
ngày càng chật chội bởi trên thì tàu chiến hiện đại ngày càng lớn, dưới
thì tàu ngầm ngày càng nhiều…trong đó có cả tàu ngầm Việt Nam.
Lê Ngọc Thống
(Đất Việt)
‘Đòn tấn công thần tốc toàn cầu’ nhắm Trung Quốc, Nga
“Đòn tấn tấn công thần tốc toàn
cầu” bằng vũ khí phi hạt nhân của Mỹ cho phép tiêu diệt mục tiêu ở bất
cứ điểm nào trên phạm vi toàn cầu trong thời gian giới hạn 1 giờ.
Do những thâm hụt và khủng hoảng ngân sách, Mỹ có thể sẽ cắt giảm các khoản chi tiêu dành cho quốc phòng.
Nhưng sẽ rất sai lầm nếu cho rằng, từ những cắt giảm đó, sức mạnh quân
sự Mỹ sẽ sụt giảm. Quân đội Mỹ đang cố gắng giảm thiếu các chi phí thông
thường, nhưng lại tăng cường các khoản đầu tư ngân sách công nghệ hiện
đại.
Trên thực tế, Mỹ đã chi một khoản
ngân sách rất lớn nhằm phát triển chương trình “Đòn tấn tấn công thần
tốc toàn cầu” (Prompt Global Strike - PGS). Đây là hệ thống công kích
bằng vũ khí phi hạt nhân, cho phép tiêu diệt mục tiêu ở bất cứ điểm nào
trên phạm vi toàn cầu trong thời gian giới hạn 1 giờ. Đây là chương
trình có tên gọi DARPA Falcon Project (Falcon HTV-2). Số lượng các
loại vũ khí này trong kho vũ khí chiến lược Mỹ ngày càng tăng.
Theo đánh giá của các chuyên gia Bộ
Quốc phòng Nga, đến giữa thập kỷ trong biên chế sẵn sàng chiến đấu của
Washington sẽ có từ 1.500 – 1.800 tên lửa hành trình tốc độ siêu thanh
sử dụng phương tiện mang trên không và trên biển, nhằm mục đích giáng
những đòn công kích chính xác tiêu diệt các mục tiêu quan trọng trong
loạt phóng đạn đầu tiên. Đến năm 2020 số lượng này có thể tăng đến 2500 –
3000 đơn vị.
Đầu đạn siêu thanh dự án DARPA Falcon Project. |
Mỹ nỗ lực tích hợp hệ thống “đòn
tấn công thần tốc toàn cầu” với hệ thống phòng thủ vũ trụ và hệ thống
phòng thủ tên lửa để hình thành một siêu hệ thống. Dưới lá chắn của hệ
thống tấn công và phòng thủ toàn cầu, vũ khí tiến công chiến lược của
các cường quốc, bao gồm cả vũ khí hạt nhân sẽ trở thành vô dụng. Các đòn
tiến công của Mỹ với thời gian rất ngắn, sẽ đánh trúng các mục tiêu –
phương tiện mang chiến lược, số lượng không đáng kể các tên lửa được
phóng lên sẽ bị bắn hạ bởi lá chắn hạt nhân tầm xa.
Với hệ thống siêu tấn công – phòng
ngự này, người Mỹ dự kiến sẽ làm lệch cán cân chiến lược toàn cầu và khu
vực về phía Mỹ, đẩy khả năng phản kích hoặc tấn công của của các nước
khác trở thành nhỏ nhất hoặc bằng không trong các tình huống đặc biệt
nghiêm trọng và dồn nén không gian chiến lược của đối phương ở mức nhỏ
nhất, bao quanh biên giới các nước không thân thiện.
Đòn tấn công thần tốc của các đầu đạn siêu thanh nhằm vào các mục tiêu chiến lược như hầm phóng tên lửa đạn đạo. |
Điều này đẩy các nước sở hữu vũ khí
tiến công chiến lược vào tình huống khó khăn: Hoặc họ mất hoàn toàn khả
năng phản kích đối phương bằng vũ khí chiến lược, hoặc sử dụng vũ khí
hạt nhân ồ ạt tấn công trước để tránh bị hủy diệt.
Một câu hỏi được đặt ra: Ai sẽ là
đối thủ chính trong chiến lược siêu phòng ngự này, trong danh sách đen
của Mỹ sẽ có các nước như: Iran, Bắc Triều Tiên, Nga, Trung Quốc. Với
Iran, vấn đề hoàn toàn chưa rõ ràng, Bắc Triều Tiên trên thực tế tiềm
lực tấn công bằng vũ khí hạt nhân khá nhỏ do công nghệ phát triển chưa
đủ mạnh. Do vậy, hai cường quốc được Mỹ chú trọng là Nga và Trung Quốc.
Sơ đồ thử nghiệm Falcon HTV trên Thái Bình Dương. |
Liên bang Nga với lực lượng vũ
trang có hệ thống hỏa lực phòng không mạnh nhất thế giới và đã từng được
thử thách, từ giai đoạn của chiến tranh lạnh đã xây dựng hệ thống phòng
không và phòng thủ vũ trụ thành các tuyến phòng thủ rất mạnh, được
trang bị các hệ thống tên lửa như S – 400, S-400M, các tổ hợp phòng thủ
tên lửa tầm trung và tầm gần “Tor” và “Amur” thuộc hệ thống phòng không
thành phố Moscow A- 135. Hệ thống phòng thủ đa tầm, rộng khắp và dày đặc
này có thể bẻ gãy mọi đòn tấn công từ trên không ngay từ ngoài biên
giới nước Nga.
Nếu Mỹ muốn tấn công nước Nga bằng
các tên lửa siêu thanh, thì toàn bộ châu Âu sẽ nằm trong vòng nguy
hiểm. Đây là điều Mỹ hoàn toàn không mong muốn. Ngược lại, Nga có thể
phản kích rất nhanh bằng các hệ thống tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm
xa phóng từ tàu ngầm trực tiếp vào nước Mỹ. Với đòn tấn công tầm trung
và các tên lửa đạn đạo ngày nay, lá chắn tên lửa Mỹ hoàn toàn vô dụng.
Như vậy, nếu xét trên khía cạnh
chiến lước tấn công và phòng ngự theo phương án thống trị 3 không gian
chiến lược – vũ trụ, trên không và trên biển, tính toán đến những khả
năng và sự trỗi dậy của Trung Quốc, cùng với những tuyên bố và chính
sách đối ngoại quốc phòng. Có thể thấy rõ, theo các chuyên gia,
hypersonic vehice như X-41 đang nhằm vào Trung Quốc.
Cùng với sự ngạc nhiên của các
chuyên gia quân sự thế giới trong lĩnh vực phòng thủ, các tướng lĩnh và
nhà khoa học Trung Quốc quan tâm nhiều đến hệ thống phòng thủ tên lửa và
bỏ qua mối nguy cơ bị tấn công tầm xa bằng những đòn công kích đầu đạn
siêu thanh. Một số chuyên gia nhận xét, Trung Quốc đang đứng trước những
lựa chọn khó khăn. Từ một hướng, khoa học công nghệ quốc phòng không có
khả năng xây dựng một hệ thống phòng thủ tích cực và hiệu quả. Từ góc
độ khác, nếu như Trung Quốc đầu tư xây dựng hệ thống, các nước khác sẽ
phát hiện ra hạn chế đồng thời làm lộ bí mật các hầm phóng ngầm của tên
lửa đạn đạo.
Sự phát triển mạnh mẽ các đầu đạn
tấn công của Trung Quốc tên lửa Đông Phong DF–21 định hướng tấn công tàu
sân bay, cũng như số lượng các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân cũng như
đầu đạn thông thường của Trung Quốc khá lớn. Riêng 2 lữ đoàn tên lửa DF –
21 được sử dụng để đẩy lùi tàu sân bay của Mỹ ra khỏi tuyến phòng thủ
biển khơi thứ 1 của Trung Quốc. Điều này đã đặt cho Mỹ nguy cơ khó lòng
bảo vệ các căn cứ của mình trên Okinawa cũng như đảo Guam, các đồng minh
của Mỹ ở khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông sẽ bị sức ép nặng nề từ hải
quân Trung Quốc mà Mỹ không thể có tàu sân bay để giải quyết khủng
hoảng nếu xảy ra.
Từ những căn cứ tính toán về khả
năng công kích tầm rất xa tiêu diệt các trận địa tên lửa bằng vũ khí phi
hạt nhân siêu thanh (loại vũ khí phá hủy bằng động năng như X-41 hoặc
Falcon HTV) cho phép Mỹ có thể công kích các trận địa của PLA ngay khi
mới triển khai đội hình tác chiến, đồng thời có thể công kích mọi điểm
trên lãnh thổ Trung Quốc với thời gian ngắn hơn rất nhiều lần tên lửa
Trung Quốc tiếp cận mục tiêu.
Đòn công kích bằng nhiều phương tiện mang PGS với tầm bay nhiều nghìn km tấn công các hệ thống tên lửa đạn đạo. |
Với tốc độ bay siêu thanh từ thượng
tầng khí quyền, vật thể bay được cấu tạo để bay theo cơ chế lướt trên
không khí với góc dốc xuống không lớn gây khó khăn cho các loại tên lửa
phòng không tầm cao, tầm trung và hoàn toàn không thể bị bắn hạ ở tầm
gần. Đầu đạn động năng chắc chắn được chế tạo từ vật liệu siêu bền sẽ
tăng khả năng chịu đựng các đầu đạn phòng không. Ngoại trừ cơ chế phá
hủy bằng động năng thì khả năng tiêu diệt đầu đạn rất khó. Cũng chưa có
loại tên lửa nào của Trung Quốc có khả năng đánh chặn, ngoại trừ trường
hợp Trung Quốc mua của Nga tên lửa S – 400, điều mà họ đang thương
thuyết.
Sơ đồ đường bay tấn công của Falcon HTV-2. |
Cho đến khi Trung Quốc có thể có
được một hệ thống phòng không tầm xa và dày đặc như của Nga, thì Mỹ vẫn
âm thầm phát triển PGS, sẽ không ngạc nhiên nếu các đầu đạn PGS có tốc
độ bay từ 5 – 6 M cho đến gần 20 M thì cũng không có hệ thống tên lửa
nào đánh chặn được, ngoại trừ S-500 hoặc các tên lửa thế hệ sau cao hơn
nữa có tầm phòng không đến hàng nghìn km. Đó có thể là chuyện của Trung –
Mỹ đến năm 2020 trong vòng xoáy chạy đua vũ trang mới trên Thái Bình
Dương.
Trong quá trình đàm phán vấn đề
giảm thiểu vũ khí tiến công chiến lược, Nga đã phát biểu chống lại khả
năng Mỹ sử dụng các phương tiện mang vũ khí hạt nhân để lắp đặt các đầu
đạn phi hạt nhân, điều đó đã giúp Mỹ giảm một khoản ngân sách khổng lồ
cho phòng thủ tên lửa, đồng thời thúc đẩy chương trình phát triển hệ
thống vũ khí “Đòn tấn công thần tốc toàn cầu” siêu thanh - supersonic.
Có thể trong tương lại gần, có
nhiều khả năng trong các cuộc đàm phán về giảm vũ khí hạt nhân, Nga vẫn
tiếp tục duy trì quan điểm của mình. Nhưng người Nga cũng không thể dừng
hoặc hãm chậm tốc độ nghiên cứu và phát triển vũ khí siêu thanh. Trong
việc này có vấn đề Nga đang yêu cầu Mỹ hãm chậm tốc độ hoặc hủy kế hoạch
triển khai hệ thống lá chắn tên lửa ở châu Âu, đồng thời nỗ lực tìm
kiếm sự ủng hộ của các cường quốc hạt nhân khác. Vì vậy, Nga không có
điểm nào có lợi thế để ngăn chặn hoặc phản đối kế hoạch phát triển vũ
khi siêu thanh của Mỹ.
Nhưng trên thực tế, những nước
trang bị vũ khí thông thường sẽ rơi vào tình thế yếu hơn so với Mỹ, để
tránh bị tổn thương, họ thường hướng đến phương pháp đấu tranh phi đối
xứng. Sự ổn định chiến lược của thế giới một phần rất lớn phụ thuộc vào
sự ổn định ở châu Âu và Đông Bắc Á. Thế giới cần hiểu điều đó và làm cho
các siêu cường, thường hay tuyên bố “vì một thế giới không còn vũ khí
hạt nhân” hiểu được vấn đề này với hy vọng họ không phát triển các loại
vũ khí theo công ước quốc tế, nhưng lại có thể thay thế được vũ khí hạt
nhân. Điều đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh thế giới.
Những người thật sự yêu hòa bình hy
vọng rằng, hệ thống phương tiện cơ bản để có thể phóng những đầu đạn
siêu thanh phi hạt nhân cũng như hệ thống phòng thủ tên lửa sẽ là những
vấn đề được đề cập đến trong các chương trình nghị sự nhằm cắt giảm các
loại vũ khí tiến công chiến lược. Đây cũng là một cơ hội gìn giữ hòa
bình và ổn định.
Trịnh Thái Bằng
(Tiền phong)
Julia Gillard và Kevin Rudd cần phải có nhau
BẾ TẮC.
Tuần qua và tuần sắp tới là hai tuần chót của khóa họp cuối cùng của
quốc hội Liên bang Úc hiện nay. Sau đó, ai sẽ về nhà nấy để chuẩn bị cho
một cuộc vận động dài gần 3 tháng cho ngày bầu cử 14/9 đã được ấn định.
Tuy nhiên, trong khi liên đảng Tự Do – Quốc gia có một thành phần cầm
đầu ổn định, các ứng cử viên của đảng cầm quyền Lao Động vẫn chưa biết
một cách chắc chắn là ai sẽ dẫn đầu trong chiến dịch tranh cử đó.
Lý do là vì trong khi chúng tôi viết những giòng này, cuộc khủng hoảng
trong nội bộ đảng Lao Động về vấn đề lãnh tụ dường như vẫn còn bị bế
tắc.
Cựu Thủ tướng Kevin Rudd vẫn giữ lập trường đã tuyên bố hồi tháng Hai
năm nay, là “không có hoàn cảnh nào mà tôi có thể trở lại với chức vụ
lãnh tụ”. Sau khi tham dự “Đêm ngủ vĩa hè” cùng một vài chính trị gia và
tổng giám đốc các cơ sở tài chánh thương mại ở Brisbane hôm tối thứ Năm
20/6 để nêu lên nghiệt cảnh của những người vô gia cư, ông Rudd sử dụng
thuật “xẻ chữ”, thêm vào câu nói trên ba chữ “Tôi không tin” khiến nó
trở thành “Tôi không tin có hoàn cảnh nào có thể khiến tôi lại trở thành
lãnh tụ đảng Lao Động được”.
Ý của ông Rudd muốn người nghe phải hiểu là có người cho ông ấy biết có
cách để ông ta nắm lại chức vụ hàng đầu đảng Lao Động nhưng ông ta không
tin vào điều đó.
Bao nhiêu đó cũng đủ cho giới truyền thông xôn xao bàn tán suốt đôi ba ngày cuối tuần rồi.
Trong khi đó, bà Thủ tướng Julia Gillard vẫn bình chân như vại, ngồi yên
một chỗ, không rút lui, không nhượng bộ như các tin đồn được tung ra
tấp nập như các cánh bướm mùa Xuân. Nào là các nghiệp đoàn đã rút lui sự
ủng hộ. Nào là các dân biểu độc lập vẫn sẽ tiếp tục hậu thuẩn đảng Lao
Động dù ông Kevin Rudd có lên thay thế bà Gillard.
Trong tình trạng đó, những ủng hộ viên của bà Thủ Tướng đã thách thức
phe Kevin Rudd “Put up or shut up”, nôm na là “Giỏi thì chơi, không thì
nín đi”.
Khi bài này đến tay quý vị, chúng ta đều sẽ biết sự bế tắc trên có được
giải quyết hay chưa. Nhưng trước đó, ta hãy tìm hiểu xem căn bản thực sự
của cuộc tranh chấp Rudd v. Gillard bắt nguồn từ đâu ? Và tại sao lại
đi đến mức trầm trọng, lâm vào cảnh bế tắc đến như vậy ?
Tất cả đều bắt đầu từ một sự dị biệt nòng cốt: ông Rudd là người của
quần chúng trong khi quyền lực của bà Gillard nằm với cơ cấu của đảng
Lao Động.
CĂN BẢN.
Khi ông Rudd và bà Gillard làm việc chung với nhau, họ là một cặp bài
trùng. Họ là bạn, là đồng minh và hổ tương nhau một cách trọn vẹn. Thật
ra, họ cần có nhau.
Đó là bởi vì ông Rudd không bao giờ nắm vững sự điều hành guồng máy của
đảng trong quốc hội và bà Gillard thì lại thất bại trong việc lấy lòng
cử tri Úc. Sức mạnh của người này là yếu điểm của người kia. Và ngược
lại.
Có lẽ nhiều người đã quên là năm 2006, cặp Rudd – Gillard đã lật đổ Kim
Beazley một cách khá khít khao 49 – 39. Một mình ông Rudd không thể đảo
chánh được ông Beazley mà phải cần có bà Gillard.
Lúc đó, cơ cấu đảng Lao Động đồng ý để ông Rudd nắm ghế lãnh tụ với điều kiện ông ta đồng ý để bà Gillard làm phó.
Đến cuộc bầu cử năm 2007, chính tài vận động xuất sắc và sự mến mộ của
cử tri dành cho ông Rudd đã đưa chiến thắng đến cho đảng Lao Động. Không
có bằng cớ gì cho thấy là bà Gillard có thể đánh bại được ông John
Howard trong kỳ bầu cử đó. Bà ta cần ông Rudd.
Nhưng sau đó, sự thật phũ phàng về sự ủng hộ yếu ớt dành cho ông Rudd
trong cơ cấu của đảng đã được phơi bày cho mọi người cùng thấy trong
cuộc đảo chánh ngày 22 và 23 tháng 6 năm 2010.
Nói theo danh từ toán học, bài học cho ông Rudd là được lòng dân chỉ mới
là điều kiện” ắt có”. Muốn có thêm điều kiện “đủ”, ông ta cần phải được
sự tín nhiệm của nội bộ trong đảng.
Trong khi đó, nhìn về mặt bên kia của đồng tiền, sự thật không kém phần
phũ phàng cho bà Gillard là bà không thể nói chuyện được với quần chúng
để tạo sự tin tưởng trong lòng họ. Bao nhiêu cuộc thăm dò dư luận trong
thời gian qua đã chứng minh điều này, tưởng không cần phải lập lại chi
tiết.
Thành thử, bài học cho bà Thủ Tướng là nắm vững bộ máy của đảng cũng chưa đủ.
Và trong hoàn cảnh đó, sự bế tắc nảy sinh. Ông Rudd là chính trị gia
được ưa chuộng nhứt trong xứ, nhưng bà Gillard là người được đảng viên
chọn ưu tiên để lãnh đạo họ.
Và đó chính là song đề cho đảng Lao Động: đảng muốn Gillard và công
chúng muốn Rudd. Sự khó xử kéo dài trong 3 năm qua: dân chúng không thể
chấp nhận Gillard và đảng thì không mở rộng vòng tay cho Rudd. Phải làm
sao đây ?
BÀI HỌC.
Có lẽ một bài học lịch sử cận đại có thể giúp phần nào để thoát khỏi cảnh bế tắc này chăng ?
Thời điểm: tháng 12 năm 1991. Cuộc thăm dò dư luận Morgan cho thấy Lao
Động đang ở trong tình trạng thê thảm với 33% so với Liên đảng 51%,
không khác tình trạng hiện nay chi lắm. Lúc bấy giờ, ông Bob Hawke đang
làm Thủ Tướng và ông Paul Keating đã ra ngồi ở hàng ghế sau.
Một phái đoàn gồm 6 Tổng, Bộ trưởng, bạn của ông Hawke, đến gặp ông để
yêu cầu ông đặt quyền lợi của đảng trước nhứt và hãy rút lui. Ông Hawke
từ chối việc giao chức lãnh tụ lại cho ông Keating. Cũng giống như hiện
nay, bà Gillard không công nhận ông Rudd là thủ lãnh.
Và cũng giống như bà Gillard hiện nay, ông Hawke không thể nhìn thấy một
đảng Lao Động không được ông ta dẫn dắt trong tương lai.
Do đó, chiến thuật của ông Paul Keating qua phái đoàn 6 người đã thất
bại. Nhưng ông ta đã đạt được một sự nhượng bộ quan trọng. Đó là ông
Hawke, sau khi hội ý với các ủng hộ viên, đồng ý sẽ có cuộc bỏ phiếu
chọn lãnh tụ. Cũng giống như bà Gillard đã làm hồi tháng Ba vừa rồi.
Nhưng khác một điều là ông Paul Keating đã ra đối đầu với ông Hawke và
đã chiến thắng với tỷ số 56 – 51. Trong khi ông Rudd đã “đem con bỏ chợ”
gần một chục ủng hộ viên khiến họ phải lâm vào cảnh từ chết đến bị
thương chỉ vì ông ta bị “lạnh cẳng”..
Từ đó, chúng ta rút tỉa được ba bài học.
Thứ nhứt, nếu có phái đoàn nào đến gặp bà Gillard, họ phải tự xem họ
thuộc phe đối nghịch và cho bà ấy biết họ sẵn sàng đảo chánh nếu bà ta
không bước xuống. Nếu không cứng rắn như vậy, bà Gillard sẽ xẻ họ ra làm
trăm mãnh.
Thứ hai, nếu Paul Keating đã áp dụng chiến thuật của ông Rudd hiện nay
là ngồi yên và chờ sung rụng, ông Keating sẽ thất bại và đã không bao
giờ trở thành Thủ Tướng. Chiến thuật “không thách thức” chỉ thành công
nếu đối phương có động cơ để rút lui. Cả ông Hawke 1991 và bà Gillard
2013 đều không có động cơ để rút lui.
Thứ ba, không giống như ông Hawke, bà Gillard sẽ không kêu bỏ phiếu với
lý do chánh đáng là bà đã làm như thế hôm tháng Ba vừa qua và ông Rudd
đã không dám ra mặt.
Do đó, chỉ còn trường hợp thứ hai là ông Rudd rút kiếm ra khỏi võ.
Nhưng theo thiển ý, ông ta sẽ không làm thế. Với tình hình cho thấy Liên
đảng đang dẫn trước quá xa như hiện nay, kết quả cuộc bầu cử ngày 14/9
dường như đã được định đoạt. Chỉ còn số ghế hai bên sẽ là bao nhiêu mà
thôi.
Như thế, ông Rudd sẽ nghĩ “Dại gì ra lãnh cái búa tạ vào đầu để mang
tiếng là người đưa đảng Lao Động đến một thất bại thê thảm như thế. Chi
bằng đợi đến sau bầu cử, chúng sẽ đến với ta, khúm núm mà xin ta trở lại
Lúc đó cũng chưa có gì là muộn mà tự ái lại được thỏa mãn … hết biết
luôn !”.
HƯNG VIỆT (Brisbane)
22/06/2013
Chuyện lạ: Mốt "bú sữa người" trực tiếp của các đại gia
(những chuyện này chả có gì là lạ ở đất Khựa, trò này Khựa có từ hồi Mao ... chỉ dành cho những tai to mặt lớn lắm tiền, h thì mở rộng thị trường ra thôi :D)
Các công ty cung cấp dịch vụ này úp mở cho biết, chỉ cần trả giá
cao thì khách hàng có thể được trực tiếp bú sữa như các em bé.
Ba phụ nữ làm việc cho các công ty kinh doanh dịch vụ "bú sữa mẹ". |
Thời gian gần đây, trong giới nhà giàu ở thành phố Thâm Quyến, Trung
Quốc đang rộ lên mốt uống sữa người. Rất nhiều công ty "giới thiệu" phụ
nữ đang cho con bú đã mọc lên. Dưới cái mác trá hình là cung cấp sữa mẹ
cho trẻ sơ sinh, những phụ nữ này sẽ tới tận nhà khách hàng đại gia để
phục vụ... người lớn. Các công ty cung cấp dịch vụ còn úp mở cho biết,
chỉ cần trả giá cao thì khách hàng có thể được trực tiếp bú sữa "tại
nguồn" như các em bé.
Theo lời giới thiệu của các công ty môi giới, sữa mẹ là nguồn thực
phẩm bổ dưỡng không chỉ với trẻ sơ sinh. Uống sữa mẹ có thể giúp người
bị bệnh mau chóng bình phục, tăng sức đề kháng, cải thiện sức khỏe. Vì
thế, có những khách sộp thậm chí còn thuê hẳn một phụ nữ có sữa về nhà ở
trong thời gian dài để thỏa mãn nhu cầu bất cứ lúc nào.
Một người họ Lin làm trong một công ty kiểu này đã đưa ra cả bảng tên
đặt hàng và số điện thoại liên hệ của các vị khách lắm tiền. Anh này
cho biết một phụ nữ đi cho bú thuê có thu nhập trung bình khoảng 1,6 vạn
nhân dân tệ/tháng (tương đương 55 triệu đồng). Những phụ nữ trẻ tuổi,
có nhan sắc và sức khỏe tốt thậm chí còn có giá cao hơn.
Cơ quan công an thành phố Thâm Quyến cho biết hiện họ đang tiến hành
điều tra các cơ sở cung cấp “sữa người” để làm rõ liệu có yếu tố lạm
dụng tình dục đối với người lao động hay không.
Nguồn: ngoisao.vn
‘Chiêu tái chế’ biến gái làng chơi thành 'rau sạch'
Các ả gái làng chơi có đủ mọi chiêu trò tinh vi, để biến mình trở thành
gái trinh nhằm nâng giá bán dâm. Một trong những chiêu trò lưu truyền
trong giới làng chơi đó là sử dụng tiết lợn trong các cuộc “mây mưa” với
khách.
Hình minh họa |
Thủ thuật này vô cùng đơn giản, dễ làm mà lại không tốn kém và có sẵn
trên thị trường. Điều đặc biệt là thủ thuật này có thể sử dụng nhiều lần
mà không tốn kém như vá màng trinh. Chỉ cần ra chợ mua một ít tiết động
vật và một cục bông rồi dùng bông có tẩm máu động vật vào vùng kín là
có thể biến 'hàng' cũ thành 'hàng' mới. Người nào cẩn thận hơn thì có
thể dùng thêm chút thuốc co thắt là có thể trở thành gái “zin 100%”
trong mắt khách hàng. Điều quan trọng nhất để lừa được các đại gia là
trong khi “hành sự”, các cô phải biết nhập vai sao cho khéo, phải biết
đau đớn khóc than, biết vật vã sụt sùi.
Chỉ bằng thủ thuật đơn giản như thế, nhiều gái làng chơi hết đát đã lừa
được khối đại gia phải bỏ ra hàng đống tiền để mua cái “ngàn vàng” rởm.
Nhiều tay chơi sành sỏi nhưng khi “hành sự” vẫn đinh ninh rằng mình đang
được ăn “rau sạch”.
Đã có rất nhiều đường dây chuyên cung cấp “rau sạch” áp dụng những chiêu
trò đơn giản này. Trong đó có đường dây khét tiếng chuyên 'tái chế' gái
làng chơi thành 'rau sạch' là của Nguyễn Thị Hồng Liễu (SN 1991) ở Phù
Ninh, Phú Thọ. Năm tròn 17 tuổi, Liễu đã trở thành “má mì”. Ban đầu,
Liễu thường tìm các đối tượng là những cô gái thôn quê, gia cảnh nghèo
khó, muốn đổi đời để rủ rê họ bán đi “cái ngàn vàng” lấy số tiền từ vài
triệu đến vài chục triệu. Cùng tham gia đường dây “săn gái đồng trinh”
với Liễu có Hoàng Thị Thu Hằng ở Việt Trì, Phú Thọ.
Chỉ một thời gian ngắn, danh tiếng của “má mì” Liễu nổi như cồn. Giới ăn
chơi từ Việt Trì đến Hà Nội thường truyền tai nhau về một đường dây
chuyên cung cấp toàn gái quê, trẻ đẹp và đặc biệt là… còn “zin”. Khách
hàng của Liễu ngày càng đông. Tuy vật lộn khắp hang cùng ngõ hẻm, nhưng
số lượng “gái đồng trinh” mà Liễu, Hằng kiếm được vẫn quá ít so với nhu
cầu rất lớn từ các đại gia. “Cung không đủ cầu” Liễu liền quay sang dụ
dỗ, thu nạp các đối tượng là nữ sinh ham ăn chơi, đua đòi, thậm chí cả
gái mại dâm chuyên nghiệp vào đường dây của mình.
Chai tiết lợn của gái mại dâm bị công an thu giữ |
Học lỏm được “bí quyết” của một đàn chị, nhiều năm lăn lộn trong nghề,
Liễu bắt đầu phù phép biến những ả “giang hồ” thành “gái đồng trinh”.
Chẳng cần phải bỏ ra tiền triệu để phẫu thuật hay vá víu gì, Liễu mua
cho mỗi cô ít tiết lợn và một cục bông. Trước khi “mây mưa” với khách,
các cô chỉ cần lấy bông thấm máu lợn rồi nhét sâu vào “chỗ kín” của mình
thế là có thể phù phép gái làng chơi thành những cô gái thôn quê cho
các đại gia.
Chỉ bằng chiêu “thổi gái” đơn giản như thế, cặp đôi Liễu – Hằng đã lừa
được khối đại gia phải bỏ ra hàng đống tiền để mua cái “trinh” rởm.
Và đến khi bị công an quận Ba Đình bóc gỡ, thì các đại gia mới té ngửa
vì bấy lâu họ bỏ ra bạc triệu chỉ để mua “cái ngàn vàng” làm bằng tiết
lợn.
Tháng 10/2008, Công an Hà Nội bắt quả tang đường dây môi giới mại dâm
của Hoàng Thị Oanh (46 tuổi, trú tại Tam Đồng, Mê Linh, Hà Nội). Oanh
khai, đã nhiều lần môi giới bán trinh cho một số đại gia quen biết hoặc
gọi đến các số điện thoại “VIP" để chào mời.
Tang vật hành nghề bán dâm bị công an thu giữ |
Để khách tin tưởng là gái còn trinh, Oanh tuyển chọn những cô gái dân
tộc, 18-20 tuổi. Một giờ trước khi "hành sự", gái bán dâm trong đường
dây của Oanh dùng bông gòn thấm tiết lợn đặt vào trong cơ thể. Giá mỗi
lần mua trinh là 5 triệu đồng. Oanh trả cho các cô gái 2 triệu đồng, còn
lại đút túi.
Một độc chiêu khác cũng thường được gái mại dâm sử dụng là dùng máu chim
bồ câu. Cách sử dụng chiêu này cũng tương tự với cách dùng tiết lợn,
chỉ cần chút máu chim bồ câu và bông gòn, gái mại dâm có thể trở thành
trinh nữ và được trả giá cao hơn rất nhiều so với giá bán dâm thông
thường.
Tháng 4/2012, cảnh sát Trung Quốc đã bắt giữ một băng nhóm tội phạm
chuyên sử dụng các bé gái dưới tuổi vị thành niên "đóng giả" làm trinh
nữ để bán dâm và sau đó tống tiền khách hàng.
Duyên Trần (t/h)
(Người Đưa tin)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét