Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

Bài viết đáng chú ý

Ông Hà Vũ tuyệt thực 'đã hơn hai tuần'

Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ (trái)
Ông Cù Huy Hà Vũ (trái) đang tuyệt thực suốt nửa tháng, theo gia đình ông

Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, tù nhân chính trị đang thụ án 7 năm tù giam do bị khép vào điều 88 của Bộ luật hình sự của Việt Nam, đang có tình trạng sức khỏe nghiêm trọng trong khi tuyệt thực hoàn toàn liên tục suốt nửa tháng ở trong tù, theo xác nhận của người nhà ông.

Hôm 10/6, bà Nguyễn Thị Dương Hà, luật sư đồng thời là vợ của ông Hà Vũ nói với BBC ông Hà Vũ từ chối ăn uống để phản đổi trại giam số 5 ở tỉnh Thanh Hóa vi phạm nhiều quyền chính đáng của ông, trong lúc sức khỏe có dấu hiệu suy kiệt khi ông chỉ uống nước mà từ chối ăn uống bất cứ thứ gì khác.

Cùng ngày, bác sỹ Phạm Hồng Sơn, cựu tù nhân chính trị, tuyên bố ông tuyệt thực tại gia để ủng hộ, chia sẻ với ý chí và hoàn cảnh của ông Hà Vũ, và dự đoán chính quyền chắc chắn phải có những động thái sớm để đáp ứng trước vụ tuyệt thực của tiến sỹ luật học.

Hôm thứ Hai, bà Dương Hà nói với BBC: "Tính đến hôm nay đã là 15 ngày rồi, chồng tôi, tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ vẫn đang tuyệt thực ở nhà tù, trại giam số 5, Thanh Hóa, để phản đối giám thị Lường Văn Tuyến không trả lời những đơn thư tố cáo cũng như tất cả những yêu cầu rất con người, rất đúng pháp luật của tiến sỹ."

Luật sư Dương Hà cho hay bà đã bị Tổng cục VIII của Bộ Công an, cơ quan chuyên theo dõi về thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, từ chối yêu cầu được thăm viếng với tư cách luật sư của chính chồng bà. Bà nói:

"Rất tiếc hôm nay tôi vào xin giấy để vào thăm tiến sỹ luật ở trong trại giam hiện đang tuyệt thực thì Tổng cục VIII họ không cấp giấy cho. Và họ nói là nên vào với tư cách gia đình, và với tư cách gia đình, thì 1/6 tôi cũng đã vào mất rồi, cho nên lúc này tôi không còn phương cách nào để vào,

"Nhưng tôi biết rất chắc chắn qua một nguồn tin đáng tin cậy là anh ấy vẫn đang tuyệt thực, bởi vì là hiện tại anh ấy vẫn chưa được đáp ứng bất kể một cái gì"
Về tình hình sức khỏe của ông Hà Vũ, bà Dương Hà cho biết:

"Hiện tại tôi biết là anh ấy đã giảm 6 kg rồi, sức khỏe rất là yếu vì anh ấy tuyệt đối không ăn một cái gì, trừ uống nước, ngay cả sữa cũng không uống, dứt khoát không ăn một cái gì để phản đối."

'Chính quyền phải đắn đo'


"Nếu áp lực chúng ta đủ mạnh, công luận chúng ta đủ quan tâm, thì tôi nghĩ chúng ta có thể đạt những kết quả khả quan, nhất là bảo đảm được tính mạng cho anh Cù Huy Hà Vũ, ít nhất là anh không bị tuyệt thực quá lâu, dẫn đến suy kiệt" - Bác sỹ Phạm Hồng Sơn
Hôm 10/6, bác sỹ Phạm Hồng Sơn, đánh giá về "ngưỡng" phản ứng mà chính quyền sẽ phải xử lý, đáp ứng trong trường hợp ông Hà Vũ, một tù nhân lương tâm đặc biệt theo ông Sơn, tuyệt thực.

Ông nói: "Theo kinh nghiệm của tôi, tôi đánh giá rằng sự vụ của anh Cù Huy Hà Vũ, có thể nói hiện nay là một trong số ít những người tù nhân chính trị mà chính quyền hiện nay quan tâm nhất và họ cũng phải lưu ý nhất...

"Anh ấy là một nhân vật mà chính quyền hiện nay phải đắn đo và phải tính toán từng hành vi, hành động, trong việc xử sự với anh Cù Huy Hà Vũ, nhất là bảo đảm tính mạng cho anh ấy chứ không phải là bất chấp tất cả như chúng ta thường cảm nhận thấy,

"Vì theo tôi, chính quyền độc tài dù có ngang ngược đến mấy, họ vẫn không phải là những người mất hết trí khôn, họ luôn luôn có những tính toán làm sao có lợi nhất."

Bác sỹ Sơn nhắc lại việc chính quyền từng giảm án hoặc trao trả tự do trước thời hạn cho các tù nhân chính trị và liên hệ với trường hợp của ông Hà Vũ:

"Chúng ta từng thấy rằng họ đã từng chấp nhận giảm án rất nhiều cho các tù nhân chính trị hoặc thả những tù nhân chính trị trước thời hạn, thì chúng ta cũng biết, đối với anh Cù Huy Hà Vũ, theo cảm nhận của tôi, chính quyền không phải là bất chấp tất cả đâu.

"Họ cũng đều tính toán để sao họ có lợi nhất, nếu áp lực chúng ta đủ mạnh, công luận chúng ta đủ quan tâm, thì tôi nghĩ chúng ta có thể đạt những kết quả khả quan, nhất là bảo đảm được tính mạng cho anh Cù Huy Hà Vũ, ít nhất là anh không bị tuyệt thực quá lâu, dẫn đến suy kiệt,

"Có những trường hợp suy kiệt mà y tế không cấp cứu kịp thì điều đó là điều đáng tiếc, tôi nghĩ thế," nhà hoạt động vì dân chủ đang tuyệt thực tại gia nói.

Hôm thứ Hai trên trang blog "Như cây tre Việt Nam" của mình, bác sỹ Sơn tuyên bố ông hưởng ứng lời kêu gọi của nhiều người khác và tuyệt thực nhằm chia sẻ và đoàn kết với tiến sỹ Hà Vũ.

Ông viết trên blog: "Chúng ta – những người yêu mến Tự do và đang còn ở ngoài nhà tù – cần phải làm một điều gì đó nhiều hơn là viết bài hay chỉ xướng lên tiếng nói ủng hộ xót xa. Cho đến nay không có dấu hiệu nào cho thấy ông Vũ đã dừng tuyệt thực.

"Vì những lẽ trên, tôi quyết định tự nguyện tuyệt thực 07 ngày đêm kể từ ngày 10/06/2013 đến ngày 17/06/2013 tại nhà riêng để bày tỏ sự khâm phục và chia sẻ tinh thần đấu tranh và những rủi ro mà Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ đang đối mặt.

"Đồng thời sự tuyệt thực này cũng là một bày tỏ đồng cảm, chia sẻ với tất cả những người đã và đang chịu sự sách nhiễu, bách hại của cường quyền tại Việt Nam."

Về phần mình, vợ của Tiến sỹ Hà Vũ, luật sư Dương Hà cho BBC hay cảm nghĩ của bà và gia đình ông Hà Vũ khi biết tin nhiều người tuyệt thực vì chồng bà.

"Thực ra cũng an ủi được chúng tôi rất nhiều trong việc có nhiều người đã đồng hành với chồng tôi, hiện tại đó là niềm vui duy nhất đối với gia đình tôi trong lúc bối rối như thế này," bà nói với BBC.
(BBC)

Phó Chủ tịch Hà Nội đang rửa ghế bị Bộ Công an vồ hụt

  Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Văn Khôi: “Dù to hay nhỏ, trách nhiệm vẫn thuộc thành phố“
Ông Nguyễn Văn Khôi, Phó Chủ tịch UBND Thành phố HN
Gần chục năm sau ngày đồng chí Phó Chủ tịch Hà Nội (Nguyễn Triệu Hải) phụ trách công tác Giáo dục, Văn Xã bị Công an bắt quả tang bên các người đẹp tại Quảng Bá (Tây Hồ) trong một vụ cực kỳ tai tiếng thì năm 2007 một Phó Chủ tịch khác của Thủ đô lại bị Bộ Công an vồ hụt khi “rửa ghế” theo phong cách VIP tại khách sạn riêng của đ/c Phạm Quốc Trường (nguyên Thành ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở GTCC Hà Nội) trên Tam Đảo.
Ngày 13/7/2007, tại kỳ họp thứ 9 HĐND TP Hà Nội khóa XIII đồng chí Nguyễn Văn Khôi (lúc đó đang làm Thành ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Giao thông Công chính Hà Nội) được bầu giữ chức Phó chủ tịch UBND TP Hà Nội thay thế Đỗ Hoàng Ân (nghỉ hưu) phụ trách giao thông, xây dựng cơ bản và các Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước thuộc Hà  Nội (trong đó có Tổng công ty Đầu tư và Phát triển Nhà Hà Nội) – đơn vị bao thầu tổ chức vụ rửa ghế cho đ/c Nguyễn Văn Khôi, tân Phó Chủ tịch UBND Thành phố, đêm 17 rạng sáng 18/8/2007 tại khách sạn An Phú của vợ chồng Trường – Liên (Phạm Quốc Trường, nguyên Thành ủy viên, nguyên Giám đốc sở GTCC Hà Nội).
Đ/c Nguyễn Văn Khôi, sinh ngày 13/3/1954 tại Hà Nội. Trình độ chuyên môn: cấp thoát nước. Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp. Hộ khẩu thường trú tại phường Vĩnh Phúc, Ba Đình.
Khách sạn An Phú (AN lành mà lại PHÚ quý) cực kỳ bề thế của vợ chồng Trường – Liên nằm sát với các biệt thự nghỉ mát trước đây giành riêng cho các cụ Bộ Chính trị được xây với kinh phí mấy chục tỉ.
Là khách sạn nhưng An Phú không nhằm mục đích kinh doanh thông thường mà chỉ là nơi gia đình chủ nhân nghỉ cuối tuần và là nơi ông bà chủ Trường Liên tiếp khách VIP từ Hà Nội. Để phục vụ khách tận tình, chu đáo, vợ chồng Trường – Liên tuyển gần chục em “hoa hậu vùng” trẻ trung, xinh đẹp phục vụ ngày đêm.
Trong cái nóng tháng 8, đúng 5 giờ chiều ngày làm việc cuối tuần, thứ Sáu 17/8/2007, “phái đoàn” gồm hơn 20 chục xe ô-tô sang trọng đi rửa ghế cho tân Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Khôi rầm rộ lăn bánh khỏi Hà Nội tiến về khu nghỉ mát Tam Đảo. Lãnh đạo đoàn gồm các đồng chí Nguyễn Văn Khôi, Phạm Quốc Trường, Nguyễn Văn Kiên, Chủ tịch HĐQT, Đỗ Hữu Dũng (Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển nhà Hà Nội), Thượng tá Công an Chung Minh (về sau làm thư ký riêng một thời gian cho đ/c Khôi). Sở dĩ Tổng Cty Đầu tư Phát triển nhà Hà Nội được tín nhiệm “chọn mặt gửi vàng” vì đây là Tổng do con rể Đỗ Hoàng Ân (cựu Phó Chủ tịch HN) thao túng, là vua các dự án bất động sản Hà Nội, là con gà đẻ trứng vàng cho lãnh đạo Thủ đô. Đây cũng là doanh nghiệp sân sau giúp sức “lobby” ghế Phó cho đồng chí Khôi.
Lên đến Tam Đảo, sau màn các đệ ca tụng tài năng và trí tuệ của lãnh đạo cùng tiệc rượu linh đình túy lúy với bao đặc sản địa phương, đến khoảng 9 giờ tối thì đồng chí Khôi hạ lệnh “bãi chầu, tùy nghi di tản”. Mấy đ/c thích cờ bạc thì kéo nhau lên phòng… “họp kín”. Một số thì đi “họp hở”. Riêng đồng chí Khôi thì được bố trí vào “mật thất”.
Đúng 1 giờ sáng ngày 18/8/2007, khi mọi người trong khách sạn đang “say sưa công việc” thì tổ công tác đặc biệt của Cục CSHS Bộ Công an (lúc đó còn gọi là C14) cùng nhiều lính Hình sự của Công an Vĩnh phúc ập vào các buồng, khống chế mọi đối tượng. Camera quay chụp liên hồi.
Tại phòng 404, các đ/c Chủ tịch HĐQT, Phó Tổng GĐ Nhà Hà Nội bị bắt quả tang đang đánh bạc. Tang vật thu giữ tại chỗ gồm hơn 110 triệu đồng cùng một số lượng lớn ngoại tệ. Đối tượng từ các phòng lần lượt được gom xuống sảnh để Công an đưa về trại giam. Điểm đi điểm lại, tìm kiếm rất lâu mà “con cá to” Nguyễn Văn khôi vẫn lặn đâu đó mất tăm tích. Con rể Đỗ Hoàng Ân cũng bị còng tay tống vào xe thùng.
Vụ để xổng “con cá to” này khiến Bộ CA nghi ngờ cán bộ CA Vĩnh Phúc “hai mang” nên “dích” tin cho đ/c Khôi và “ăn mảnh”. Một số cán bộ của CA tỉnh Vĩnh Phúc trực tiếp tham gia bị kiểm điểm lên xuống: Thượng tá Điêu Văn Thoả (Trưởng phòng PC 14 CA tỉnh Vĩnh Phúc), Trung tá Nguyễn Trần Anh (Phó phòng PC 14), Trung tá Lê Anh Dũng (Trưởng CA thị trấn Tam Đảo), Thiếu tá Nguyễn Hải Khanh (Phó CA thị trấn). 
Ngay sau vụ bắt hụt Phó Chủ tịch Hà Nội, Thượng tướng Lê Thế Tiệm, Thứ trưởng Bộ Công an bèn “chuyển thể tuồng thành cải lương”. Đồng chí họp báo, chỉ đạo điều tra nguồn gốc số tiền với kịch bản như vụ bắt gã Công an lái xe riêng của Hải “trắng” (Trưởng Phòng CSGT Hà Nội) đánh bạc tại công viên Bách Thảo rồi lần ra vụ PMU18 của Dũng “tổng”.
Thành ủy Hà Nội cũng sốt sắng triệu tập cuộc họp bất thường do Bí thư Phạm Quang Nghị chủ trì. Đồng chí Bí thư Nghị nhấn mạnh: Đây là những cán bộ có phẩm chất tốt, có trách nhiệm với tổng công ty, hàng năm các đồng chí này đều được khen thưởng vì có thành tích tốt. Tuy nhiên, vì những phút lơ là mà vô tình vi phạm. Đề nghị kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc.
Sau cuộc họp bất thường của thành ủy Hà Nội nói trên, Phó Chánh văn phòng UBND thành phố Nguyễn Văn Thịnh được chỉ đạo ra thông báo với báo chí rằng đây là một Hội thảo khoa học kỹ thuật về cầu đường. Đồng thời thành ủy “phím” Tổng Công ty Đầu tư và phát triển hạ tầng Hà Nội (Handico) làm báo cáo gửi lên thành ủy giãi bày và “nhờ” thành ủy trao đổi với C14 cho các cán bộ đánh bạc được tại ngoại. Báo cáo này còn khẳng định các cán bộ bị bắt đều là Đảng viên với bản lĩnh chính trị vững vàng, có lối sống tốt, có nhiều đóng góp cho nhà nước và xã hội, có đồng chí là thương binh, sức khỏe kém, có con nhỏ, do chưa nhận thức đầy đủ về pháp luật nên chỉ vô tình vượt quá mức độ “chơi giải trí”. Văn bản đề nghị Thường trực thành uỷ và UBND thành phố: Trao đổi và làm việc với C14 xem xét tạo điều kiện cho các đồng chí trên được tại ngoại để Handico có điều kiện giáo dục các đồng chí ấy.

Khoi
Chủ tịch UBND TP Nguyễn Quốc Triệu chúc mừng hai tân Phó Chủ tịch Hà Nội ngày 13/7/2007 ngay sau khi được bầu (Nguyễn Văn Khôi và nguyên sỹ quan Công an Vũ Hồng Khanh).
Cuối cùng cả C14, cả Thứ trưởng Bộ Công an vào cuộc cũng chỉ đủ gãi ngứa bởi Tổng Handico là Tổng mạnh nhất Hà Nội lúc đó với hàng trăm dự án địa ốc đang hái ra tiền. Tuy nhiên, vụ khách sạn An Phú cũng đủ chặn đường lên Thứ trưởng Bộ XD của đ/c Nguyễn Văn Khôi. Thượng tá Công an Trần Danh Lợi (lúc đó là Thành ủy viên, Quyền Giám đốc Sở GTCC) vì không “nhiệt tình” trong chiến dịch giải oan vụ trên nên bị biếm chức quyền Giám đốc sở. Thay vào là đ/c Nguyễn Quốc Hùng (Giám đốc Ban quản lý dự án Tả Ngạn) đệ cứng của đ/c Bí thư Nghị.
Thượng tướng Lê Thế Tiệm sau đó phải trả giá vụ này do dám gây sự với tập thể lãnh đạo Thủ đô mà đứng đầu là đồng chí Ủy viên BCT, Bí thư thành ủy. Sở dĩ suất vào Ban Bí thư của đồng chí Tiệm bị “đóng băng” là do có ý kiến phản đối mạnh mẽ của “một đồng chí ” trong Bộ Chính trị.
Đến bây giờ vụ đồng chí Khôi thoát nạn tại khách sạn An Phú vẫn là điều bí ẩn. Chỉ Thượng tá Công an Chung Minh (thư ký riêng) và một vài Công an Vĩnh Phúc nắm rõ.
(Blog Cầu Nhật Tân)

Ai có thể đánh bại được Cộng sản?

Nhìn lại lịch sử tranh chấp giữa hai khối tư bản và Cộng sản trong gần suốt thế kỷ 20, nhận xét đầu tiên người ta có thể rút ra là: Không ai có thể đánh bại được Cộng sản.
Nhận xét ấy được hỗ trợ bởi hai bằng chứng:
Thứ nhất, trên phạm vi toàn cầu, trong 70 năm đầu tiên, chủ nghĩa Cộng sản phát triển cực nhanh, nhanh đến độ dường như không có ai và không có cái gì có thể ngăn cản được. Ra đời tại Nga năm 1917, năm năm sau, 1922, Liên bang Xô Viết được thành lập với vai trò nòng cốt của Nga, châu tuần bởi các nước láng giềng nhỏ của Nga, như Ukraine, Belarus, Georgia, Armenia và Azerbaijan. Sau đó, một số nước khác bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết, như Estonia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Đến giữa thập niên 1980, Liên bang Xô Viết, với diện tích trên 22 triệu cây số vuông và đường biên giới trên 60.000 km, chiếm đến một phần sáu diện tích trái đất, rộng bằng cả Bắc Mỹ. Năm 1945, sau Đệ nhị thế chiến, một số nước thuộc Trung Âu và Đông Âu lần lượt rơi vào tay Cộng sản: Albania, Ba Lan, Bosnia, Bulgaria, Croatia, Đông Đức, Hungary, Macedonia, Montenegro, Romania, Serbia, Slovakia, Slovenia, Tiệp Khắc, Nam Tư. Sau đó nữa là các nước thuộc châu Á và châu Phi, như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Afghanistan, Campuchia, Congo, Mông Cổ, Yemen, Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Somalia, Eritrea và Mozambique. Vào giữa thập niên 1980, khối Cộng sản rất mạnh, chiếm một phần ba dân số thế giới. Cho đến lúc ấy, câu khẩu hiệu chủ nghĩa Marx-Lenin hoặc chủ nghĩa Cộng sản bách chiến bách thắng vang lên khắp nơi. Dân chúng ở các nước Cộng sản, vốn bị nhồi sọ, tin điều đó, đã đành. Ngay phần lớn dân chúng ở Tây phương, tuy biết tất cả những mặt trái đầy tiêu cực của chủ nghĩa Cộng sản, vẫn không tin là Tây phương có thể đánh bại được Cộng sản.
Thứ hai, dù cả hai bên, tư bản và Cộng sản, lúc nào cũng cố gắng tự kiềm chế, nhưng ít nhất cũng có hai nơi cuộc chiến tranh lạnh đã biến thành chiến tranh nóng: Ở Triều Tiên trong ba năm, 1950-1953, và ở Việt Nam, từ 1954 đến 1975. Ở trận chiến đầu, hai bên hòa nhau, Triều Tiên bị chia đôi, Nam và Bắc. Điểm phân cách vẫn là vĩ tuyến 38, đúng với quyết định của phe Đồng Minh trong hội nghị Potsdam vào tháng 8 năm 1945. Ở trận chiến sau, Mỹ tự nhận là thua sau khi rút khỏi Việt Nam vào tháng 4 năm 1975. (Về điểm này, tôi có phân tích khá kỹ trong bài “1975: Việt Nam có thắng Mỹ?”. Ở đây, tôi tạm thời chấp nhận cách nhìn quen thuộc và phổ biến để khỏi bị gián đoạn mạch lý luận trong bài viết này.)
Có điều, từ nhận xét nêu ở đầu bài viết, không ai có thể đánh bại được Cộng sản, người ta lại chứng kiến một sự kiện oái oăm vào thời điểm bản lề giữa hai thập niên 1980 và 1990: chủ nghĩa Cộng sản đã bị sụp đổ trên phạm vi toàn cầu. Cái gọi là “sụp đổ” ấy có hai mức độ: sụp đổ hoàn toàn và sụp đổ một phần, hơn nữa, phần lớn. Nhưng dù sụp đổ hoàn toàn hay sụp đổ một phần thì cũng vẫn là sụp đổ. Một sự sụp đổ lớn lao, nhanh chóng, và đặc biệt, hoàn toàn nằm ngoài dự kiến của mọi người ở mọi phía.
 Sự sụp đổ hoàn toàn diễn ra ở Nga, Đông Âu, Trung Âu, Trung Đông, Trung Mỹ và châu Phi.
Trước hết, ở châu Âu, chỉ trong vòng chưa tới ba năm, toàn bộ các đảng Cộng sản đang nắm quyền sinh sát gần như tuyệt đối ở Đông Âu và Trung Âu đều mất sạch quyền hành; chế độ độc đảng trở thành đa đảng; bầu cử tự do được tổ chức khắp nơi, các thành phần đối lập hoặc lên cầm quyền hoặc được chia quyền (ở Ba Lan, ngày 4/6/1989; Turkmenistan 7/1/1990; Uzbekistan 18/2/1990; Lithuania 24/2/1990; Moldova 25/2/1990; Kyrgyzstan 25/2/1990; Belarus 3/3/1990; Nga 4/3/1990; Ukraine 4/3/1990; Đông Đức 18/3/1990; Estonia 18/3/1990; Latvia 18/3/1990; Hungary 25/3/1990; Kazakhstan 25/3/1990; Slovenia 8/4/1990; Croatia 24/4/1990; Romania 20/5/1990; Armenia 20/5/1990; Tiệp Khắc 8/6/1990; Bulgaria 10/6/1990; Azerbaijan 30/9/1990; Georgia 28/10/1990; Macedonia 11/11/1990; Bosnia & Herzegovina 18/11/1990; Serbia 8/12/1990; Montenegro 9/12/1990; và Albania 7/4/1991). Liên bang Xô Viết tan rã. Hầu hết các quốc gia trước đây bị sáp nhập vào Liên bang đều tuyên bố độc lập hoặc tự trị. Ngay cả ở Nga, đảng Cộng sản không những bị mất quyền mà còn bị khinh bỉ và tẩy chay, không còn đóng vai trò gì trên bàn cờ chính trị quốc nội.
Xin lưu ý; sự sụp đổ của chế độ Cộng sản ở các nước trên đều diễn ra rất gọn gàng, không gây xáo trộn và đặc biệt, không đổ máu, trừ Romania, nơi Ceaușescu bị lật đổ và giết chết, kéo theo cái chết của khoảng 1.100 người khác.
Sự sụp đổ ấy nhanh chóng lan sang các vùng khác, đặc biệt các vùng Trung Mỹ, Trung Đông và châu Phi. Năm 1990, ở Nicaragua, sau một cuộc bầu cử tự do, đảng Cộng sản mất quyền; ở Angola, cuộc chiến giữa Cộng sản và phe chống Cộng chấm dứt; năm 1991, ở Ethiopia, Trung tá Mengistu Meriam, nhà độc tài Cộng sản từng thống trị đất nước suốt gần 15 năm, chạy trốn khỏi đất nước, và Eritrea tuyên bố tách khỏi Ethopia, trở thành độc lập và từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản. Ở Trung Đông, năm 1990, chế độ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Yemen bị sụp đổ, sau đó, hợp nhất với Nam Yemen, thành lập nước Cộng hòa Yemen; ở Afghanistan, chế độ Cộng sản của Najibullah sụp đổ vào mùa xuân 1992.
Sự sụp đổ một phần diễn ra ở Trung Quốc, Lào, Cuba và Việt Nam.
Chế độ Cộng sản, như nó từng tồn tại từ năm 1917 đến cuối thập niên 1980, dựa trên ba nền tảng chính: Về ý thức hệ, dựa trên chủ nghĩa Marx-Lenin; về kinh tế, dựa trên chính sách quốc hữu hóa và nguyên tắc kế hoạch hóa tập trung; và về bộ máy quyền lực, dựa trên sức mạnh độc tôn của đảng, công an và quân đội. Ở cả bốn quốc gia kể trên, từ đầu thập niên 1990, nền tảng ý thức hệ coi như đã bị phá sản; nền tảng kinh tế cũng bị biến chất theo chiều hướng tư bản hóa. Trên cái thế kiềng ba chân của chế độ, hai chân đã bị sụp. Chỉ còn một chân là bộ máy quyền lực. Gọi chế độ Cộng sản ở bốn quốc gia này bị sụp đổ một phần, thậm chí, phần lớn, là vậy.
Trên thế giới hiện nay, chỉ có một quốc gia duy nhất còn giữ được chế độ Cộng sản chính thống và “truyền thống” trước năm 1990, đó là Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, không ai xem đó là điều đáng tự hào. Ngược lại. Nó chỉ bị xem là một thứ quái thai.
Như vậy, chúng ta chứng kiến một nghịch lý: một mặt, có cảm tưởng như không ai có thể đánh bại được Cộng sản; mặt khác, chỉ trong vòng mấy năm thật ngắn ngủi, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều thi nhau ngã gục. Vậy thì ai đánh bại nó?
Có nhiều câu trả lời đã được đưa ra. Nhưng câu trả lời được nhiều học giả đồng tình nhất là: Không có ai đánh bại Cộng sản cả. Chỉ có Cộng sản mới đánh bại được Cộng sản.
Cộng sản đánh bại Cộng sản bằng cách nào?
Bằng nhiều cách. Thứ nhất, bằng các sai lầm có tính hệ thống trong kinh tế khiến nước Cộng sản nào cũng nghèo đói xơ xác. Giữa thập niên 1980, phần lớn các cửa hàng quốc doanh, kể cả cửa hàng thực phẩm, ở phần lớn các nước Cộng sản, bao gồm cả Liên Xô, đều trống không. Nợ nước ngoài chồng chất. Riêng Ba Lan, nơi chế độ Cộng sản sụp đổ đầu tiên, nợ các nước Tây phương đến trên 100 tỉ đô la và đối diện với nguy cơ không thể trả được. Thứ hai, tình hình kinh tế tồi tệ ấy càng tồi tệ thêm nữa do nạn tham nhũng tràn ngập ở mọi cấp. Thứ ba, những thất bại về kinh tế, sự hoành hành của tham nhũng và những chính sách độc tài tàn bạo của chính quyền làm dân chúng bất mãn và nổi dậy tranh đấu đòi thay đổi chính sách, đặc biệt, dân chủ hóa. Cuối cùng, đối diện với tất cả các vấn đề ấy, hầu như mọi người, kể cả các cán bộ cao cấp nhất, đều mất hẳn niềm tin vào chủ nghĩa Cộng sản. Họ biết chắc chắn một điều: họ không thể tiếp tục tồn tại được nếu họ không tự thay đổi. Chính sách glasnost và perestroika của Mikhail Gorbachev ra đời là để đáp ứng lại nhu cầu đó. Nhưng ngay cả khi đưa ra chính sách cải tổ và tái cấu trúc như vậy, giới lãnh đạo vẫn không an tâm hẳn. Họ biết đó chỉ là những biện pháp vá víu. Tự thâm tâm, tất cả đều mất niềm tin vào chế độ.
Chính vì mất niềm tin như vậy nên ở những thời điểm quan trọng nhất, mọi người đều đâm ra hoang mang, không ai dám quyết định điều gì. Ngày 9 tháng 11 năm 1989, khi dân chúng đổ xuống đường biểu tình trước bức tường Bá Linh, bộ đội và công an, dù đông hơn hẳn, không biết đối phó thế nào. Họ gọi điện thoại lên cấp trên. Các cấp trên của họ sợ trách nhiệm, cứ đùn qua đẩy lại với nhau: Cuối cùng bức tường bị đổ. Ở Nga cũng vậy, trước các cuộc xuống đường của dân chúng, không ai dám ra lệnh quân đội hay công an nã súng vào dân chúng: cuối cùng, chế độ sụp.
Không phải cán bộ, công an hay giới lãnh đạo bỗng dưng nhân đạo hơn. Không. Ở đây không phải là sự thay đổi trong tính khí. Mà ở nhận thức. Tất cả đều nhận thức được sâu sắc mấy điểm chính: Một, ngày tàn của chế độ Cộng sản đã điểm; nó không thể tồn tại thêm được nữa. Hai, nó cũng không thể cứu được. Mọi nỗ lực cứu vớt đều tuyệt vọng và chỉ gây tai họa không những cho đất nước mà còn cả cho chính bản thân họ. Cuối cùng, như là hệ quả của hai điều ấy, chọn lựa tốt nhất mà họ nên làm là buông tay bỏ cuộc.
Cả ba nhận thức ấy đều không thể có nếu không có hai điều kiện: Thứ nhất, người ta có dịp so sánh với sự giàu có, tự do và dân chủ ở Tây phương và thứ hai, các nỗ lực tranh đấu không ngưng nghỉ của dân chúng, đặc biệt giới trí thức, trong việc vạch trần các sai lầm và tội ác của chế độ. Cả hai điều kiện đều quan trọng, nhưng điều kiện thứ nhất chỉ có thể phát huy được tác dụng là nhờ điều kiện thứ hai. Những sự phê phán và tranh đấu cho dân chủ liên tục càng ngày càng làm nổi bật sự khác biệt sâu sắc giữa tự do và toàn trị, càng làm lung lạc niềm tin ngay cả ở những kẻ cuồng tín và mê tín nhất, cuối cùng, cô lập những kẻ lì lợm bám víu vào bộ máy độc tài. Khi sự cô lập đến mức độ nào đó, người ta chỉ còn hai lựa chọn: hoặc trở thành Gorbachev hoặc trở thành Ceaușescu (hay gần hơn, Muammar Gaddafi ở Libya).
Nguyễn Hưng Quốc
10.06.2013
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA)

Bộ máy chuyên chính có căm ghét gì cô gái trẻ?

Bộ máy của công an Việt Nam liên tục đàn áp các công dân phản kháng bất bạo động của mình. Một vụ bạo hành của công an lại vừa mới xảy ra.
Cô Hòang Vy, người bị công an TP HCM đánh đập là làm nhục hồi tháng 12 năm ngóai, lại bị công an hành hung vào thứ sáu tuần rồi. Năm ngóai cô bị đánh đập là làm nhục khi đến dự phiên tòa goi là công khai xử các thành viên của câu lạc bộ nhà báo tự do. Cô kể với chúng tôi chuyện xảy ra vừa rồi.
Khỏang 11h tối bạn em là Vương Các chở qua quận 12 có chút việc thì bị một nhóm an ninh gồm năm người đi trên ba chiếc xe máy chặn tụi em lại rồi đánh em rất là nhiều. Thời gian gần đây em bị an ninh canh chừng rất là gắt. Họ lôi em xuống rồi đánh em ngã lăn ra đất, khi bà con xung quanh mở cửa nhà xem chuyện gì thì họ bỏ chạy.
Blogger Nguyễn Hoàng Vi (2012)
Blogger Nguyễn Hoàng Vi (2012)
Em đi báo công an trước rồi đến bệnh viện, bác sĩ khuyên em nên ở bệnh viện để dưỡng thương, giờ này em cũng còn rất đau. Em nhận ra hai người an ninh trong số năm người đó. Hôm 6/6 em theo giấy mời lên thanh tra công an quận nhứt làm việc về đơn tố cáo của em về vụ em bị làm nhục hồi tháng mười hai năm ngóai.
Khi về thì tụi em bị hai người đó bám theo. Họ vượt đèn đỏ nên bị giao thông bắt dừng lại. Sau đó ít phút họ chỉ đạo cho giao thông bắt bọn em, hốt xe của bạn em về đồn công an.
Nguyên nhân trực tiếp của vụ hành hung này có vẻ như bắt nguồn từ lá đơn Hòang Vy tố cáo công an về vụ hành hung và làm nhục năm ngóai.
Em cũng không biết là vì sao, nhưng em thấy căng thẳng hơn từ khi có vụ làm việc với thanh tra công an quận nhứt. Và gần đây là họ có động thái kêu em lên để làm việc về vụ lá đơn tố cáo của em hồi năm ngòai mặc dù thời hạn giải quyết đã qua lâu rồi. Mà khi làm việc với em về vụ lá đơn, họ có thái độ xem em như là tội phạm chứ không phải là người đi tố cáo.
Hòang Vy cũng là một trong những người đề xướng buổi dã ngọai nhân quyền vừa qua, và hình như hành động đó đã huy động cả một bộ máy chuyên chính, theo dõi một cô gái không một tấc sắt trong tay.
Sau buổi dã ngọai nhân quyền hầu như ngày nào an ninh cũng canh và theo dõi em hết, thậm chí là cuối tuần còn gắt hơn. Đến đầu ngõ nhà em gần chùa Giác Tâm thì họ ngồi đấy rất nhiều và ngày nào cũng như vậy.
Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-06-10

Thực hư yểm bùa, giải bùa ở Đền Hùng?

Cột đá thề (cũ) ở khu di tích Đền Hùng, Phú Thọ
Chuyên gia còn có khác biệt khi đánh giá giá trị, nguồn gốc của 'Cột đá thề'

Dù khó xác định nạn trấn yểm, hay giải bùa ở một số địa điểm mang yếu tố tâm linh ở Việt Nam có bàn tay của người trong nước, hay nước ngoài hay không, những tin tức này đang tiếp tục làm nhiễu loạn dư luận ở nước này, theo ý kiến của một số nhà quan sát.

Trao đổi với BBC Việt ngữ hôm 06/5/2013, Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng hiện nay chưa có cơ sở để nói có việc yểm bùa này hay không, tuy trong lịch sử có thể có.

Giáo sư Thịnh nói: "Chuyện yểm trong lịch sử thì có, nhưng có phải người ta làm cái đó không thì bây giờ không có cơ sở nào để khẳng định cả.

"Tôi hoàn toàn bác bỏ việc nói rằng trong Đền Hùng trước kia quân Nguyên Mông từ hồi thế kỷ thứ 13 đã yểm.

"Tôi nói cái đó vô căn cứ vì di tích Đền Hùng mới có từ thời Nguyễn thôi. Cho nên những lời đồn đó không có cơ sở nào cả."

Nhà nghiên cứu cho hay thêm việc cho rằng ở Việt Nam hiện nay có những địa điểm tâm linh, long mạch, có thể có nguy cơ bị yểm hay không, cũng chỉ đều là những lời đồn đoán, có thể gây hoang mang trong cộng đồng.

Ông nói:

"Nói chỗ này, chỗ kia, thí dụ chỗ Hồ Tây chẳng hạn, tôi nghĩ chưa chắc đã phải. Đó hoàn toàn là những lời đồn thôi chứ không có bản đồ nào chỉ những điểm có những cái huyệt hoặc những điểm nào đó mà có thể điểm, cái đó chỉ là những lời đồn thôi."

Gần đây trên truyền thông mạng rộ lên các bàn luận đặt vấn đề liệu ở khu di tích Đền Hùng, thuộc tỉnh Phú Thọ, có thực sự bị xáo trộn không gian thờ cúng, tâm linh hay không, xung quanh một số hiện tượng, chẳng hạn có một "hòn đá yểm" hay "giải yểm" đã được đưa vào khu di tích, trong khi một "cột đá thề" có "uy lực tâm linh" đã bị thay thế và mang đi chỗ khác.


"Khi kiểm kê Di tích Đền Hùng, người ta không có vật đó, hoàn toàn trong hồ sơ kiểm kê không có, và bây giờ bỗng nhiên nó có, và gây nên những xì xào, thì tốt nhất phải đưa cái đó ra khỏi"
Giáo sư Ngô Đức Thịnh
Về điều này, Giáo sư Trần Lâm Biền, chuyên gia tôn giáo học từ Hà Nội cho BBC biết ý kiến:

"Ở khu vực Đền Hùng không có những chuyện xáo trộn đâu. Nếu nó có một hiện tượng gì gây xáo trộn, thì nó nằm ngoài khu di tích Đền Hùng."

'Đưa đá bừa bãi'

Tuy nhiên, theo Giáo sư Biền, nếu có những rắc rối nào đáng bàn liên quan tới Đền Hùng, thì cần cương quyết xử lý:

Ông nói thêm:

"Trong đó, ngành văn hóa họ ứng xử rất cẩn thận, từng tí một. Chỉ có điều ai đó đưa vào trong Đền Hùng những thứ không phải của Đền Hùng, thì cương quyết bỏ ra ngoài, để không gây thêm rắc rối.

"Chẳng hạn việc đưa vào Đền Hùng cái hòn đá, cứ đưa bừa đi, nghệ thuật không phải nghệ thuật, triết học không phải triết học, nó là hình tượng của một cá nhân sáng tạo ra để đưa vào đấy, chứ không có một giá trị gì."

Giáo sư Biền khẳng định nguyên tắc xử lý: "Cái gì không phải của Đền Hùng mà đưa vào không có phép và vô nguyên tắc thì nhất định phải đưa ra."

Về việc một hòn đá "yểm" sau khi được đưa vào đã bị chính quyền chuyển ra khỏi khu di tích, Giáo sư Ngô Đức Thịnh nêu quan điểm:

"Bây giờ cứ chiểu theo pháp luật, Luật Di sản thôi, tức là khi kiểm kê Di tích Đền Hùng, người ta không có vật đó, hoàn toàn trong hồ sơ kiểm kê không có, và bây giờ bỗng nhiên nó có, và gây nên những xì xào, thì tốt nhất phải đưa cái đó ra khỏi.

"Tôi được biết hiện nay hòn đá đã được đưa ra ngoài rồi và chỉ đạo của Bộ Văn hóa cũng là như vậy."

Về việc được cho là một cột đá thề bị thay thế tùy tiện, Giáo sư Thịnh nói qua điện thoại từ Hà Nội:

"Về mặt niên đại mà xét, thuộc về lĩnh vực kiến trúc, nó là sản phẩm của cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Trước trường hợp như thế, thì không thể đánh lừa dân được và cái cột đó nhất đinh phải bỏ ra"
Giáo sư Trần Lâm Biền
"Sau một thời kỳ, khi tu sửa, các anh thay vào đó một cột đá khác, bằng đá granit, trông có vẻ đẹp hơn nhưng nó là đá mới.

"Còn cột đá cũ, các anh nói cho vào Bảo tàng Đền Hùng, nhưng chính tôi vào Bảo tàng Đền Hùng cũng không nhìn thấy cột đá ấy. Thì không biết cột đá ấy đi đâu."

Giáo sư Thịnh cho rằng việc làm này là có chủ trương, có sự đồng tình của Chính quyền và nhà quản lý văn hóa, nhưng ông cho rằng việc làm này là không nên.

'Lãnh đạo cũng tin'

Tuy nhiên, việc đánh giá về giá trị và nguồn gốc của cột đá được cho là "Đá thờ" này ở các chuyên gia có điểm khác biệt.

Giáo sư Trần Lâm Biền bình luận với BBC:

"Rất may mắn là tôi đã làm (nghiên cứu) Đền này từ đến hơn 50 năm, hơn nửa thế kỷ rồi, trước đây chẳng có cái cột đá nào cả gọi là Cột Đá thề.

Giáo sư Biền cho rằng cột đá thề là một sản phẩm của nhân thức dân gian và truyền thuyết:

"Và từ truyền thuyết ấy, một thời người ta cũng đưa bừa vào và khi đưa vào, chúng tôi nhìn thấy cái cột ấy, đấy là một cột của một kiến trúc bị bỏ ra, người ta đưa lên đấy,

"Mà cột đá vuông ấy có những lỗ mộng, như vậy tính về mặt niên đại mà xét, thuộc về lĩnh vực kiến trúc, nó là sản phẩm của cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20."

Theo Giáo sư Biền: "Trước trường hợp như thế, thì không thể đánh lừa dân được và cái cột đó nhất đinh phải bỏ ra"


"Việc quá chú ý tới các hiện tượng tâm lý mà nhiều người gọi là thuộc về cõi âm, dù dưới các lý cớ về thờ phụng hay nghiên cứu văn hóa tâm linh, mà thái quá, thì cũng có thể là một dấu hiệu bất cập trong xã hội"
Ý kiến nhà tâm lý học tôn giáo
Câu chuyện 'đền Hùng bị đạo sỹ Phương Bắc yểm bùa' từng rộ lên hồi tháng 4 năm nay rồi tưởng như đã lắng xuống.

Nhưng hôm 05/6/2013, tờ Đời sống và Pháp luật, thuộc Hội Luật Gia Việt Nam có bài viết đưa trường hợp cột đá thề tranh cãi này tới một góc độ nhìn nhận khác của pháp luật:

"Việc di dời cột đá thề ở Đền Hùng có thể khép vào hành vi phá hoại di tích lịch sử."

Sự quan tâm đến chủ đề tâm linh hoặc mê tín dị đoan ở Việt Nam còn lan cả vào các hoạt động mang tính kinh doanh và đầu cơ chính trị và thậm chí gây ra nhiễu loạn dư luận.

Cũng hôm nay 6/5, một chuyên gia về tâm lý học tôn giáo từ Hà Nội nhận xét với BBC Tiếng Việt:

"Tất cả các hiện tượng này cho thấy Việt Nam, từ một bộ phận người dân tới một bộ phận lãnh đạo, trong đó có quần chúng và các nhà quản lý đang có chung một khuynh hướng quan tâm đặc biệt tới đời sống tâm linh

"Tuy nhiên, việc quá chú ý tới các hiện tượng tâm lý mà nhiều người gọi là thuộc về cõi âm, dù dưới các lý cớ về thờ phụng hay nghiên cứu văn hóa tâm linh, mà thái quá, thì cũng có thể là một dấu hiệu bất cập trong xã hội,"

"Chưa kể tới việc chúng có thể gây ra những rối nhiễu trong tâm lý đám đông, quần chúng, mà lo lắng, bất an, gây tổn phí, lãng phí tinh thần, vật chất khi xử lý, có thể là một trong những hiện tượng đó," chuyên gia không muốn tiết lộ danh tính này nói với BBC.
(BBC)
 

Ông Nguyễn Phú Trọng không tin tưởng kết quả ‘lấy phiếu tín nhiệm’

Quốc hội VN lấy phiếu tín nhiệm lãnh đạo
Lấy phiếu tín nhiệm là một trong những nội dung được quan tâm nhất tại kỳ họp Quốc hội thứ 5
Gần 500 đại biểu Quốc hội Việt Nam đã tiến hành ‘lấy phiếu tín nhiệm’ các chức danh lãnh đạo chủ chốt trong bộ máy chính quyền do Quốc hội bầu vào chiều thứ Hai ngày10/6.
Trong số này có Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và toàn bộ các bộ trưởng thuộc nội các của ông Dũng.
Kết quả cuộc bỏ phiếu này, theo truyền thông trong nước, sẽ được ‘công bố công khai với đồng bào cử tri cả nước’ vào sáng ngày mai 11/6, theo truyền thông trong nước.
Bỏ phiếu kín
Tổng cộng có 47 vị phải trải qua thử thách này vốn là lần đầu tiên diễn ra trong nền chính trị độc đảng của Việt Nam.
Đối với mỗi vị được đưa lên bàn cân tín nhiệm, các đại biểu Quốc hội sẽ chọn lựa một trong ba mức độ là ‘tín nhiệm cao’, ‘tín nhiệm’ và ‘tín nhiệm thấp’ ghi trên lá phiếu.
Đây là quy trình bỏ phiếu kín nên dư luận sẽ không biết mỗi đại biểu Quốc hội thể hiện thái độ như thế nào đối với các chức danh được lấy phiếu.
Trong một lần trả lời BBC hôm Quốc hội khai mạc kỳ họp thứ 5 hôm 20/5, đại biểu tỉnh Đồng Nai Dương Trung Quốc từng bày tỏ quan ngại việc bỏ phiếu kín khiến người dân không thể giám sát được các vị đại biểu do họ bầu lên.
Ông Quốc cũng cho biết Quốc hội cũng có lo lắng về tình trạng ‘chạy phiếu’, ‘mua phiếu’. Bản thân ông cũng thừa nhận rằng ‘quan hệ xã hội gắn liền với lợi ích’ có thể ‘chi phối phần nào lá phiếu’.
Ông Quốc giải thích rằng bỏ phiếu kín là để giúp cho các vị bị bỏ phiếu không biết ai đã tín nhiệm thấp mình nên các đại biểu Quốc hội có thể bỏ phiếu khách quan.
Tuy nhiên, nếu quả thật có tình trạng ‘chạy phiếu’ như ông Quốc quan ngại thì việc bỏ phiếu kín càng tạo điều kiện cho việc này xảy ra.
Trong tổng số 47 chức danh được Quốc hội xác định phải đưa ra lấy phiếu tín nhiệm, có hai vị được miễn trong đợt này vì mới được bổ nhiệm chưa được bao lâu. Đó là tân Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng và tân Tổng Kiểm toán Nhà nước Nguyễn Hữu Vạn.
Riêng ông Vương Đình Huệ mặc dù đã làm việc lâu trên cương vị bộ trưởng Tài chính nhưng vừa được Quốc hội miễn nhiệm để nhận công tác mới bên Đảng nên cũng được miễn lấy phiếu tín nhiệm.
Tứ trụ triều đình
Các ông Sang, Hùng, Dũng đều nằm trong danh sách lấy phiếu tín nhiệm
Căn cứ bỏ phiếu
Phát biểu trong buổi sáng trước khi lấy phiếu tín nhiệm, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng có nhắc nhở với các đại biểu Quốc hội một số căn cứ giúp họ quyết định, Thông tấn xã Việt Nam cho biết.
Đó là báo cáo tự đánh giá kết quả làm việc của tất cả những vị được đưa ra bỏ phiếu gửi đến các đại biểu Quốc hội.
Ngoài ra, ông Hùng cũng yêu cầu các đại biểu Quốc hội cân nhắc tình hình mọi mặt của đất nước để biết các vị có chức trách có làm tròn trách nhiệm của mình hay không.
Ông đề nghị các đại biểu cũng nghĩ tới kiến nghị của cử tri cả nước trên mọi lĩnh vực đã được báo cáo trước Quốc hội trước khi bỏ phiếu.
Ông yêu cầu các đại biểu phải ‘khách quan, thận trọng, chính xác và hết sức công tâm’.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng có phát biểu cảnh báo kết quả không chính xác của cuộc lấy phiếu tín nhiệm này.
“Có khi người tốt bị loại, anh cơ hội lại có phiếu cao,” ông Trọng nói với cử tri Hà Nội hôm 13/5.
Quy trình phức tạp
Mặc dù một trong những mục đích của việc đánh giá tín nhiệm này là để loại bỏ những vị chưa làm tròn chức trách, nhưng để làm được điều này không phải dễ mà phải trải qua nhiều công đoạn.
Sau vòng lấy phiếu tín nhiệm, phải cần đến 2/3 đại biểu Quốc hội đánh giá ‘tín nhiệm thấp’ hoặc bị hơn một nửa Quốc hội đánh giá ‘tín nhiệm thấp’ hai năm liên tục, một vị nào đó mới đứng trước nguy cơ mất chức.
Tuy nhiên, vị bị tín nhiệm thấp này không mất chức ngay mà còn phải trải qua thêm một vòng nữa là ‘bỏ phiếu tín nhiệm’, nhưng không phải tại kỳ họp đang diễn ra của Quốc hội mà phải đến kỳ họp sau.
Trong vòng này các đại biểu Quốc hội chỉ chọn lựa hoặc ‘tín nhiệm’ hoặc ‘không tín nhiệm’. Nếu vị đó bị quá nửa các đại biểu ‘không tín nhiệm’ thì lúc đó Quốc hội mới xem xét miễn nhiệm, cách chức.
Với quy trình như trên, khả năng một chức danh nào đấy có thành tích yếu kém phải ra đi sớm là rất thấp.
Trước cuộc lấy phiếu tín nhiệm ở cấp trung ương này, Hội đồng nhân dân các thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh cũng tiến hành lấy phiếu trong phạm vi quyền hạn nhưng kết quả là ‘hòa cả làng’.
Nói với BBC hôm 9/6, với tư cách cử tri, nhà văn, blogger Phạm Viết Đào bày tỏ quan ngại liệu các đại biểu Quốc hội có đầy đủ thông tin về các chức danh mà họ đánh giá hay không.
Ông Đào cũng lo ngại ảnh hưởng của các vị trưởng đoàn đại biểu Quốc hội đối với các đại biểu riêng rẽ.
(BBC)

Bỏ phiếu tín nhiệm: Những ai xếp hạng "nhất"?

Thêm chú thích
4 người có số phiếu “tín nhiệm cao” cao nhất:
 
1. Nguyễn Thị Kim Ngân – Phó chủ tịch Quốc hội 372 104 14
2. Trương Thị Mai – Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội 335 151 6

3. Phùng Quang Thanh – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng 332 144 13
4. Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước 330 133 28

4 người có “tín nhiệm thấp” cao nhất:

 
1. Nguyễn Văn Bình – Thống đốc Ngân hàng Nhà nước 88 194 209
2. Phạm Vũ Luận – Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo 86 229 177
3. Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng Chính phủ 210 122 160
4. Nguyễn Thị Kim Tiến – Bộ trưởng Bộ Y tế 108 228 146

4 người có số phiếu “tín nhiệm cao” thấp nhất:

 
1. Phạm Vũ Luận – Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo 86 229 177
2. Nguyễn Văn Bình – Thống đốc Ngân hàng Nhà nước 88 194 209
3. Hoàng Tuấn Anh – Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch 90 288 116
4. Phạm Thị Hải Chuyền – Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội 105 276 111

209 đại biểu không tín nhiệm Thống đốc Nguyễn Văn Bình

Kết quả lấy phiếu tín nhiệm 47 chức danh chủ chốt do QH bầu hoặc phê chuẩn vừa được Trưởng ban Kiểm phiếu Đỗ Văn Chiến công bố cho thấy Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình có 209 phiếu không tín nhiệm.
Cụ thể ông Nguyễn Văn Bình được 88 phiếu tín nhiệm cao, 194 phiếu tín nhiệm và tín nhiệm thấp là 209 phiếu.
Tổng số ĐBQH tham gia bỏ phiếu là 498 người.
Được biết quy trình lấy phiếu tín nhiệm lần này dựa trên 4 bước, trước hết là biểu quyết thông qua danh sách các vị lấy phiếu; tiến hành thảo luận ở các đoàn; Ủy ban TVQH giải trình báo cáo thảo luận này; bước cuối cùng là bầu ban kiểm phiếu, bỏ phiếu.
(Thanh niên)

Tín nhiệm không thể là “bán tín, bán nghi”

Nói một cách bình dân thì tín nhiệm là tin.

Bàn về niềm tin thì chỉ có hai khía cạnh là tin hoặc không tin. Khi chưa đủ cơ sở để tin hoặc xác quyết là không đáng tin thì người ta “bán tín, bán nghi”.

Xét cho cùng, chuyện “lấy phiếu tín nhiệm” của đại biểu Quốc hội đối với lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo Chính phủ cũng không thể nằm ngoài quy luật này.

Sự khác biệt, nếu có, chỉ là cách gọi.

“Tín nhiệm cao” có nghĩa là “tin”. “Tín nhiệm” là “bán tín, bán nghi” và kế đó, “Tín nhiệm thấp” có nghĩa là “không tin chút nào”.

Đã là lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo Chính phủ mà tỷ lệ “tín nhiệm” = “bán tín, bán nghi” và tỷ lệ “tín nhiệm thấp” =  “không tin chút nào” cao quá thì còn để đó làm gì?

“Lấy phiếu tín nhiệm” có giúp gầy dựng lại được niềm tin trong nhân dân hay không là ở chỗ đó đó.

Cũng phải nói thêm là thông thường, nếu có tập thể nào đó, trong một dịp nào đó phải bày tỏ niềm tin mà đa số không bảo họ không tin, cũng chẳng khẳng định họ vững tin, chỉ “bán tín, bán nghi”.

Và “bán tín, bán nghi” chiếm tỷ lệ áp đảo thì rõ ràng là có rất nhiều thứ phải bàn.
Đồng Phụng Việt
11-06-2013
(Blog Đồng Phụng Việt) 

Vài suy nghĩ ban đầu về việc dàn dựng và công bố kết quả bỏ phiếu tín nhiệm

Jonathan London 
Đó là một sự phát triển đáng kể. Nó chứng tỏ rằng mặc dù Việt Nam vẫn là một nền chính trị độc đoán thì cũng là một hệ thống chính trị, mà về một số mặt, đang tiến triển theo một cách đáng khích lệ nếu không xác định gì về tương lai. Sự bỏ phiếu tín nhiệm là mới ở Việt Nam và một quá trình tương đương sẽ là không thể tưởng tượng trong Trung Quốc.
Những kết quả này là tương đối so sánh được với những gì chúng ta có thể thấy trong một hệ thống chính trị đa nguyên, như Hàn Quốc, chẳng hạn. Vì thế, dù kết quả bỏ phiếu có lẽ không đáng ngạc nhiên, nó bao hàm chính trị ở Việt Nam đang diễn biến.
Ngoài những kết quả riêng, việc dàn dựng và công bố kết quả bỏ phiếu tín nhiệm không chỉ có ý nghĩa tượng trưng, mà có sự quan trọng trong riêng của nó. Tôi đánh giá là một bước ngoặt trong sự phát triển của Quốc hội riêng, trong khi kết quả tự nhắc nhở chúng ta đến những rẽ sâu sắc trong Quốc hội và mở rộng Đảng.
Một hệ quả không mong muốn cũng có thể là dân Việt Nam nghĩ là họ có một Thủ tướng Chính phủ, người đã chỉ đặt được 67 phần trăm trên một kỳ thi, thấp hơn các nhà lãnh đạo đánh giá cao và công chúng đã quen với. (Tôi cũng ghi và nhận thấy ngoài Thổng Độc Ngân Hàng, kết quả “thi” của các Bộ trưởng Giáo Dục và Bộ Y Tế cũng không được cao lắm.)
Mặt khác, theo tôi biết, đã chưa có một chuyện như thế này trong chính trị công khai của Việt Nam. Nền chính trị của Việt Nam vẫn còn có những hạn chế cơ bản. Quyền của Quốc Hội Việt Nam chưa nhiều và không tự chủ. Nếu nói là một thể chế dân chủ thì rõ rằng không đúng chính vì cách tuyển cử đại biểu là hầu như một quá trình bổ nhiệm. Thế nhưng kết quả phiếu tín nhiệm cũng là một tín hiệu đáng chú ý nếu không muốn nói là khích lệ.
11:00 AM
June 11, 2013
Jonathan London 

Chữ "Tín" và lòng dân?

Đã bao năm nay, những kết luận chung chung như "đại bộ phận nhân dân vẫn tin tưởng" đã trở thành một cách nói vô thưởng vô phạt để giữ thể diện và trốn tránh một sự thật. Đó tuyệt đối không phải một cách tiếp cận đúng đắn.
Trong lúc kỳ họp Quốc hội đang diễn ra và vấn đề lấy phiếu tín nhiệm với nhân sự cấp cao đang trở thành chủ đề "nóng", thiết nghĩ câu chuyện xoay quanh chữ Tín của chính quyền rất đáng suy ngẫm để có cái nhìn thấu đáo hơn.
"Dân mất niềm tin, nước không giữ được"
Trước hết, cần nhắc lại rằng trong tư tưởng Nho giáo, Tín là một trong "ngũ thường", cùng với Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí cấu thành nên năm yếu tố nền tảng của nhân cách người quân tử. Tín nghĩa là niềm tin, là giữ điều hẹn ước. Chữ Tín được kết hợp bởi bộ "Nhân" và chữ "Ngôn", hàm ý rằng lời nói của người có đức tín phải phù hợp với hành vi, nói sao phải làm vậy để tạo lòng tin nơi người khác.
Không chỉ dừng lại ở mức độ là chuẩn mực đạo đức, chữ "Tín" còn trở thành yếu tố then chốt trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, từ khoa học cho tới kinh doanh. Riêng đối với chính trị, chữ Tín có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó ảnh hưởng tới việc xây dựng và gìn giữ lòng tin của người dân vào chính quyền.
Sách Luận ngữ chép chuyện Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử về những yếu tố làm nên thành công trong việc trị nước. Đức Khổng Tử đã kể ra ba điểm quan trọng:"Đủlương thực, đủ binh lính, được dân tin." Tử Cống nói: "Nếu bất đắc dĩ phải bỏ, trong ba thứ đó, bỏ thứ nào trước?". Khổng Tử đáp: "Bỏ binh lính". Tử Cống lại hỏi: "Nếu bất đắc dĩ phải bỏ, trong hai thứ còn lại, bỏ thứ nào trước?" Khổng tử trả lời: "Bỏ lương thực. Từ xưa ai cũng phải chết; nhưng dân mà mất niềm tin thì nước không đứng vững được"
Ý nghĩa sống còn của chữ "Tín" nằm ở chỗ, nếu có được lòng tin của nhân dân sẽ có tất cả và không có được lòng tin của nhân dân sẽ mất tất cả. Về vấn đề này, Nguyễn Trãi từng nói: "Đẩy thuyền đi là dân mà lật thuyền cũng là dân". Bởi lẽ sức mạnh của nhân dân là vô bờ bến nhưng khiến dân đẩy thuyền, hay ngược lại, đều tùy thuộc vào xem có thu phục được lòng dân hay không.
chữ tín, lòng dân, yêu nước, Quốc hội, lấy phiếu tín nhiệm
"Cần một cái nhìn về thực trạng lòng tin trong dân". Ảnh: Hùng Anh
Chữ "Tín" trong pháp luật...
Xung quanh chuyện chữ "Tín", hãy thử đặt câu hỏi xem các cơ quan công quyền nhận thức về tầm quan trọng của chữ "Tín" tới đâu. Nguồn cội của việc xây dựng niềm tin phải xuất phát từ đạo đức, năng lực, trách nhiệm và sự trung thực. Cho nên khi chính quyền nhấn mạnh vào những điều đó, chính là gián tiếp đề cập tới việc xây dựng và giữ gìn chữ "Tín" với dân.
Nếu hiểu như vậy thì điểm qua hệ thống pháp luật của nước ta, nhiều người sẽ thấy hình như tầm quan trọng của chữ "Tín" đã và đang được được đặt lên hàng đầu. Có lẽ không có luật pháp nước nào đề cập nhiều tới những yếu tố để xây dựng niềm tin như ở Việt Nam.
Chẳng hạn, dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 yêu cầu xây dựng các lực lượng vũ trang "tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu". Điều đó cho thấy, việc giành được lòng tin của nhân dân không chỉ được xem như một nhiệm vụ chính trị mà còn được luật hóa ở tầm cao nhất.
Có lẽ vì coi trọng chữ "Tín", coi trọng sự "tin yêu" của người dân nên Luật Cán bộ, công chức (2008) nhắc tới từ "đạo đức" tổng cộng 12 lần. Luật Giáo dục (2005) đề cập tới từ "năng lực" 20 lần. Luật Thống kê (2003) cũng nhấn mạnh từ "trung thực" tới 07 lần.
Cá biệt, năm 2012 ngành hải quan còn xây dựng "Tuyên ngônphục vụ khách hàng" với các tiêu chí "chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả". Khi đọc lên, người ta thấy được tất cả những yêu cầu cần thiết để có được lòng tin của doanh nghiệp và người dân. Đó là "nhiệt tình, tận tụy với công việc; thông thạo nghiệp vụ, xử lý công việc tuân thủ đúng quy trình, thủ tục quy định; văn minh lịch sự trong hoạt động và ứng xử."
Riêng ngành y tế, dù không phải do văn bản luật hay dưới luật nào quy định, nhưng suốt bao năm nay, gần như tất cả các bệnh viện từ trung ương tới địa phương đều treo cao khẩu hiệu "lương y như từ mẫu" để nhấn mạnh vào thái độ cần có đối với người bệnh.
... Và trong thực tiễn
Thiết nghĩ, chỉ cần làm được một phần của những điều luật, tuyên ngôn, khẩu hiệu này thì chữ "Tín" của chính quyền đã định hình vững chãi trong lòng người dân tự bao giờ. Tuy vậy, chỉ tiếc rằng khi nhìn vào thực tiễn, có những nhiều điều tốt đẹp vẫn chỉ nằm trên văn bản.
Năm 2012, bất chấp những nỗ lực bằng tuyên ngôn và khẩu hiệu, hải quan và y tế vẫn là hai trong số năm ngành có tỷ lệ tham nhũng nhiều nhất. Và chắc hẳn, việc nhóm ngành cảnh sát giao thông đứng đầu bảng xếp hạng tham nhũng, sẽ là một trở ngại đối với việc thực hiện mục tiêu "được nhân dân tin yêu" của lực lượng vũ trang.[1]
Nhiều người sẽ phải đặt câu hỏi không biết ngành thống kê đã thực hiện yêu cầu về sự "trung thực" trong luật ra sao khi vấn đề số liệu được công bố thiếu chính xác, không đáng tin cậy, thậm chí sai lệch giữa các bộ, ngành, địa phương đã trở nên rất đáng báo động. Các chuyên gia kinh tế đã phải thốt lên rằng nếu cứ "nặn" số liệu cho đẹp, nhà điều hành không thể biết thể trạng nền kinh tế và sẽ không thể cứu chữa khi căn bệnh của nền kinh tế đã di căn, bộc lộ ra ngoài.[2]
Đối với ngành giáo dục, câu chuyện buông lỏng quản lý và chất lượng giáo dục, cùng với những tiêu cực trong thi cử khiến chúng ta phải đặt câu hỏi, phải chăng 20 từ "năng lực" trong Luật Giáo dục còn chưa đủ để nâng cao năng lực quản lý, giảng dạy cũng như đổi mới tư duy giáo dục? Chưa kể, lời hứa hẹn năm nào của lãnh đạo ngành này về việc giáo viên có thể sống bằng lương từ năm 2010 dường như đã chìm vào quên lãng.
Còn câu chuyện y đức của ngành y tế từ lâu đã trở thành vấn đề gây nhức nhối trong dư luận. Mới đây thôi, một lần nữa lòng tin vào hai chữ "từ mẫu" của người dân lại bị thử thách bởi việc một bệnh nhi qua đời do sự tắc trách của kíp trực chỉ được đổi bằng hình thức kiểm điểm hạ bậc thi đua của bác sĩ [3]
Như vậy, cần thẳng thắn thừa nhận rằng sự "tin yêu" của người dân không dành cho những lời nói suông hay những chuẩn mực "mười phân vẹn mười" trong luật pháp mà phải xuất phát từ thực tiễn. Những gì người dân đang hằng ngày chứng kiến không chỉ thách thức sự nghiêm minh của pháp luật mà còn đe dọa xói mòn lòng tin của người dân vào chữ "Tín" mà các cấp, bộ, ngành trong bộ máy công quyền luôn treo cao.
Thực chất, vấn đề xây dựng lòng tin phải xuất phát từ hành động, việc làm cụ thể đối với nhân dân không hề mới, có điều chúng ta đối diện với nó khá muộn màng. Xin được nhắc lại rằng trong buổi bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ 6 ngày 18/1/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ 'cộng sản' là ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức."
Không nên sợ chữ "Tín"
Một vấn đề khác cần đặt ra, bên cạnh những hiện tượng làm ảnh hưởng tới chữ "Tín" của chính quyền, là thái độ của những người có trách nhiệm trước sự suy giảm niềm tin của nhân dân. Từ trước tới nay, nhiều lãnh đạo thường có xu hướng xuê xoa, lấp liếm mỗi khi động chạm tới vấn đề này. Bởi thế, đã bao năm nay, những kết luận chung chung như "đại bộ phận nhân dân vẫn tin tưởng" đã trở thành một cách nói vô thưởng vô phạt để giữ thể diện và trốn tránh một sự thật. Đó tuyệt đối không phải một cách tiếp cận đúng đắn.
Nên nhớ rằng sự sụt giảm mức độ tín nhiệm của người dân vào chính quyền là vấn đề xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thế nhưng nhìn vào những nước phát triển nơi mà chỉ số ủng hộ của nhân dân với các chính khách dù có thể rất thấp nhưng vẫn được công khai, chúng ta thấy rằng Việt Nam cần một cách tiếp cận khác.
Sự sụt giảm tín nhiệm không nên được coi như một vấn đề nhạy cảm mà phải trở thành một sự cảnh báo, và cơ quan công quyền cần chấp nhận để từ đó sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp dưới sự giám sát của nhân dân. Niềm tin không thể được xây dựng bằng cách trốn tránh thông qua những lời biện minh về "đại đa số nhân dân" mơ hồ hay bằng những con số đẹp mắt nhưng không trung thực.
Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, điều đầu tiên cần làm để cải thiện niềm tin của nhân dân, từng bước xây dựng và củng cố chữ Tín của cơ quan công quyền có lẽ là sự tôn trọng, tiếp thu những ý kiến đa chiều và một cái nhìn trực diện hơn vào thực trạng niềm tin của người dân.
Khương Duy
(Tuần VN)

Nguyễn huy Canh - Những điều băn khoăn, và những câu hỏi

Học thuyết Marx-Lenin đã có nhiều hạn chế lịch sử và lỗi thời. Việc chúng ta học và vận dụng nó vào trong đời sống chính trị đã đem lại những thất bại, và hệ lụy cay đắng. Đó là điều đã được  nhiều người  thấy rõ, và phê phán nó. Việc quyết tâm duy trì học thuyết này làm nền tảng cho lí luận và hành động tổ chức thể chế và, quản trị xã hội của đảng là một quyết tâm có tính giáo điều, kinh viện, bảo thủ và nguy hiểm.
   
Nhiều chính trị gia, nhiều nhà khoa học lớn của đất nước đã phê phán nó ở cấp độ “Hình nhi hạ học”, giờ đây tôi muốn nói đến điều cốt lõi của hệ tư tưởng ấy.Triết học Duy vật biện chứng là thế giới quan của học thuyết Marx-lenin. Nó là nền tảng, là hạt nhân của lí luận ấy. Đó là điều mà các nhà lí luận trong HĐLLtw hẳn đã biết.
   
Học thuyết về Vật chất được hiểu với tư cách là bản thể luận, tức là học thuyết coi vật chất là nền tảng, là tính qui định chung nhất của Tồn tại, của Thế giới. Xin được đặt câu hỏi với các vị rằng, Marx, và Ph.Ăngghen đã khi nào cho chúng ta biết rõ được vật chất là gì ở cấp độ phạm trù bản thể học? Đã khi nào hai ông cho chúng ta biết về cơ cấu tồn tại tổng quát của Tồn Tại là gì? Chưa, chưa khi nào những nhà sáng lập này làm rõ được điều đó, ngoài cách diễn đạt của Ăngghen rằng, nó là một khái niệm không định nghĩa được sau vô tận phép loại trừ.
   
Vì thế, căn cứ vào đâu, học thuyết này nói, cây, con lừa, nước, mặt trăng, các nguyên tử... là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất,là những cái riêng, là hình thái xác định của nó? Và do đó thế giới này là vô cùng, vô tận, và thống nhất ở tính vật chất? Đó là câu hỏi thứ nhất tôi xin hỏi các vị.
   
V.L.Lê nin, sau này nói Vật chất là thực tại khách quan, được đem lại trong cảm giác. Nhưng đây lại chỉ là phạm trù của Nhận thức luận. Và ngay trong nội dung này, trong phạm trù này, tuy ông có thừa nhận việc “tràn” qua nhau, sự thâm nhập và tác động lẫn nhau giữa chúng thông qua hoạt động thực tiễn, nghĩa là với ông, được nhìn qua góc độ bản thể học (chưa được ý thức) thì, giữa chúng (vật chất, ý thức) không có sự phân chia, tách rời tuyệt đối. Nhưng trong nội dung , trong giới hạn chật hẹp của phạm trù nhận thức luận, ông vẫn coi giữa chúng có một sự tách rời, một sự phân chia trước-sau tuyệt đối giữa vật chất,và ý thức.
   
Đây là một sai lầm lịch sử của V.L.Lê nin vì như thế, thứ nhất, ông đã thực hiện việc tách đôi, tách rời một cách vô thức, giữa bản thể học và nhận thức luận, và thứ hai, ngay trong giới hạn chật hẹp này của lí luận nhận thức cũng không thể có sự tách rời, phân chia tuyệt đối trong ngoài, trước sau giữa chúng được. Vì sự tách rời này, nếu có sẽ không thể nào so sánh được vật chất có trước, và bên ngoài, độc lập đối với ý thức, bởi vì ý thức được xem trong tình huống, trong hình thái trừu tượng như thế thì không có tính thời gian, và không gian, và do đó nó là cái không cùng dãy, cùng hàng với vật chất để mà so sánh.
    
Cũng xin nói thêm một chút, rằng điều đó không có nghĩa, tôi  đã xóa bỏ đi tính khách quan đối với Tồn tại trong ý nghĩa vật chất, và tính bị qui định đối với ý thức trong định nghĩa ấy...Trong “Đời sống hay khát vọng đa nguyên” (xem trên trang Basam, ngày 6/6/2013) tôi đã phê phán đầy đủ những hạn chế, và vạch ra những sai lầm có tính lịch sử đó của triết học, cũng như tư duy của các nhà sáng lập ra nó.
     
Tôi xin hỏi các vị, đâu là tính đúng đắn, và đỉnh cao trí tuệ trong việc giải quyết vấn đề đầu tiên, và cốt lõi này của triết học DVBC, cũng như của bản thể học, mà nói theo cách nghĩ chưa đúng của tư duy truyền thống, là học thuyết về tính qui định chung nhất của tồn tại?
     
Xin nói, và hỏi với các vị lí luận hàng đầu của đảng trong HĐLLtw, nếu các vị không phản biện được cách đặt v/đ của tôi, và những câu hỏi đặt ra, thì điều đó chỉ chứng tỏ các vị không hiểu, và chưa bao giờ hiểu được cách tư duy và nội dung triết học ấy, cái nền tảng lí luận của nó như thế nào.
     
Không biết, không hiểu  được cái hạt nhân, cái nền tảng sai lầm và lỗi thời của nó,thì như thế, các vị cứ tự cho mình là uyên thâm, rồi cố tình duy trì ngọn cờ học thuyết Marx-Lenin bách chiến, bách thắng để bắt đảng CS và dân tộc này đi theo trong Hiến pháp như một sự mặc định. Như thế là bá đạo, là cực quyền và coi thường nhân dân cũng như các đảng viên của đảng mình nếu như không muốn nói các vị cố tình mị dân.
      
Lối tư duy ấy sẽ chỉ đưa đất nước này vào ngõ cụt không lối thoát mà thôi.
(Quê Choa)
 

Hạ Đình Nguyên - Thà bị giết chết chứ không tự chết

Tâm sự của người không quen biết gởi tù nhân Cù Huy Hà Vũ
Theo dõi trên mạng, tôi biết không nhiều về cuộc đấu tranh của anh, nhưng khi đọc thư tuyệt mệnh của anh về cuộc tuyệt thực mà anh đang tiến hành trong tù, tôi thật sự xúc động.
Vì là người cũng đã trải qua tù đày, nên tôi hiểu và tin lời lẽ trong thư của anh, anh rất quyết liệt với hành động tuyệt thực này. Tôi lo cho anh quá, và khá buồn vì nhiều lẽ.
Tôi mạo muội có đôi lời chia sẻ cùng anh.
Chắc anh đã từng nghe nói về cảnh tù tội trong Nam đối với những người kháng chiến “chống Mỹ cứu nước” của một thời gian khổ Mặt trận Giải phóng Miền Nam, mà tôi cũng là một thành viên bé mọn trong ấy. Tôi có trải qua nhưng cũng không thể nào biết hết các kiểu đau thương của cái gọi là tù tội, tuy có thể tạm biết thế nào là hậu quả của chiến tranh, một cuộc đọ sức có tính chất định mệnh, và những gì ở bên dưới các chiến thắng, dù là chiến thắng của phía nào. Tôi nghe nói về những cách tra tấn, cách giam cầm hết sức khủng khiếp của chế độ Miền Nam vào thập niên 1955-1965. Nhưng sau đó, tôi có trải qua “thực nghiệm” nên có vài ghi nhận, theo cái biết của mình, một số điều sau đây.
Khi tôi vào tù, thì “chế độ tù” được mô tả ở giai đoạn trước1965, nay đã có phần thay đổi, có cải tiến khá hơn, so với thời Ngô Đình Diệm. Tôi có hưởng được chế độ tù cải tiến ấy, không nghiệt ngã như giai đọan trước. Nhưng vì lý do gì đưa đến sửa đổi này? Do sự đấu tranh của người tù? Do sự quan tâm và áp lực của dân chúng? Do sự “tự tiến bộ” của nhà cầm quyền lúc ấy? Tôi không tin nhiều về lý do thứ ba. Hay là do sự hiện diện trực tiếp nhiều hơn của người Mỹ, từ khi họ ào ạt đổ quân vào Việt Nam từ 1965 trở về sau? Tôi không quá ngây thơ để tin rằng “Đế quốc Mỹ” là thuần khiết tốt với Việt Nam, hay “vì Việt Nam”. Họ vì chiến lược chống Chủ nghĩa Cộng sản bành trướng, họ nghĩ thế, và muốn có một cơ chế xã hội ở miền Nam tương đối giống họ, nằm trong khung Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, với lý tưởng của Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền. Họ muốn có một xã hội Miền Nam có tự do, dân chủ và phát triển để người dân không theo Cộng sản, họ nghĩ thế. Họ lật đổ nhà Ngô vì cho là độc tài không chinh phục được lòng dân. Họ làm nhiều việc để nâng tầm chế độ ấy lên, tuy kết quả toàn cục không đến đâu, nhưng riêng về chế độ lao tù có nhiều cải tiến. Năm 1970, một phái đoàn Nghị sĩ Mỹ qua Việt Nam điều tra và tố cáo chế độ hà khắc ở nhà tù Côn Đảo, sau đó, chế độ “chuồng cọp” khốc liệt nhất tại đây bị bãi bỏ (Tôi chỉ nêu một thí dụ sơ sài, trong phạm vi bức thư này).
Về sự tra tấn tù nhân và chế độ giam giữ tù nhân
Tôi thấy có một vài cách biệt đáng nói.
- Điều tra, tra tấn
Ngành an ninh điều tra của họ có nhiều phương pháp và thủ thuật tra tấn rất dã man, nhất là đối với đối tượng Cộng sản mà họ “đặt ra ngoài vòng pháp luật” theo Hiến pháp của họ. Họ nhằm vào tra tấn thể xác với nhiều đòn tàn độc, cũng uy hiếp và trấn áp tinh thần, cũng tấn công vào tình cảm thiêng liêng của người thân, với mục đích moi thông tin từ đối tượng cho bằng được. Họ rất cần chứng cứ. Chứng cứ thật sự đối với họ là quan trọng, vì họ phải ứng xử, đối phó với thanh tra ngành, với cấp trên, với tòa án, với báo chí, với các phe nhóm khác, bởi Miền Nam lúc bấy giờ đã bước đầu hình thành một xã hội công dân, với thiết chế chính trị cơ bản là Tam quyền phân lập, dù không thể nói là hoàn hảo. Đối với đối tượng chính trị được cho là “nguy hiểm”, tuy cấp trên có thể cho phép họ tra tấn đến chết nhưng xác định người nào được giao quyền này, chứ không phải ai cũng có quyền đánh, có quyền tra tấn, có quyền hành hạ tù nhân. Và khi tra khảo, họ không căm thù “con người”, mà căm tức cái đầu của đối tượng, cái niềm tin lý tưởng ở trong đó mà họ không hiểu nổi, không cảm hóa được, nên họ gọi đối tượng ấy là “bị tẩy não”. Nhưng sẩy tay, sai người, sai quy định lập tức bị cách chức, hạ cấp bậc, thi hành kỷ luật theo luật định, không có sự thu xếp tự bên trong; họ không dám hành xử cẩu thả do không có sự độc quyền lãnh đạo của một đảng nào. Họ rất dè dặt với dư luận quần chúng, rất ngại giới báo chí, rất sợ các cơ quan lập pháp (Nghị sĩ, Quốc hội) và cơ quan Tư pháp (Tòa án các cấp). Ví các cơ quan này độc lập với cơ quan Hành pháp, theo Hiến pháp quy định. Cũng có những hiện tượng chạy chọt qua mối thân quen, hoặc đút lót tiền bạc, để cứu vớt những đối tượng bị bắt có chứng cứ mơ hồ. Nhưng đối với tù chính trị có bằng chứng thì khó thoát.
Sau khi qua giai đoạn điều tra, tra tấn, kết cung ra tòa án, họ trở thành người tù chính thức thì có quy chế cho tù nhân khá rõ ràng. Họ có quy chế riêng về tù binh, về tù chính trị, về tù dân sự. Người tù bị mất quyền công dân, chứ không mất quyền làm người. Trong tù, không bị đánh đập, nhục mạ về nhân phẩm, không bị thù hằn, không bị biệt lập với gia đình. Nhưng đối với tù đặc biệt, như tù ở Côn đảo thì khó có chế độ thăm nuôi thường xuyên và nhiều hạn chế mối quan hệ xã hội. Đối với tù dân sự, thì không có sự hà khắc đặt biệt nào, càng không có chuyện người chết khơi khơi, hoặc chết thình lình trong đồn công an, khi bị “lịch sự” mời đến làm việc, bởi vi phạm nào đó, như không đội mũ bảo hiểm, chọc gái, gây lộn, ăn cắp, trộm chó, hoặc vì một sự kiện xung đột nào đó, v.v. Cái hỗn độn kiểu này ngày ấy hiếm có, dù là thời ấy đang chiến tranh, mà thời nay là hòa bình gần 40 năm.
Anh Hà Vũ,
Anh làm luật sư, chắc anh biết rành về chuyện này, thật đáng phẫn nộ!
Ở xã hội miền Bắc trước 75, tội về chính trị, sai quan điểm hay lập trường thế nào đó, không bị đánh đập dã man như “Đế quốc”, mà chỉ “nhẹ nhàng” đi “cải tạo” lâu dài, hay suốt đời ở xó xỉnh nào đó, bị cô lập không được giao du với ai, “tự do” bươi kiếm cái ăn, trong một xã hội mà thực phẩm thì được phân phối và quản lý chặt chẽ. Hoặc biện pháp cô lập tại chỗ với nhiều hình thái khác nhau, từng bước giảm nguồn lương thực, giảm thiểu dần đến số không, kể cả nước uống, cho đến lúc “tự chết”, chứ không ai mó tay vào. Đối với người tù, xã hội vẫn còn đó, nhưng không chạm được vào tay, cô độc như ở trong một cảnh giới khác. Người ta hãi hùng về hai chữ “cô lập”. Sống mà là đang chết, mà sau cùng chết theo cách khốn cùng của một con vật, chứ không còn là con người, nghiệt ngã thảm thương như chuyện bên Tàu, chắc anh rõ, như chuyện Chủ tịch nước Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ, là điển hình cho hàng vạn, hàng triệu con người. Cách giữ tù mà không cần nhà tù cố định, mà trong một không gian vô định, và thời gian vô định, xã hội và người thân không biết được, kể cả bản thân người tù. Đó được gọi là “nhà tù kín” mà ngày nay còn đang hiện diện nhiều ở Trung Quốc.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã từng theo mô hình ấy.
Cách nào tàn độc, đau đớn, tinh vi hơn cách nào? Cách nào là sự thù hận “con người”, cách nào là bảo vệ luật pháp?
Tôi tin là thời kỳ khủng khiếp đó không còn nữa.
Những thế hệ đi trước đã để lại những dấu vết khó phai.
Nhưng ngày nay chúng ta có một chế độ lao tù rõ ràng hơn không, và sinh mạng tù nhân có được bảo vệ bởi luật pháp? Và ai có thể biết những gì xảy ra trong tù? Mọi việc chỉ có Đảng làm, Đảng biết, và Đảng xử lý. Cái ghế của Đảng ngồi có phép thuật, như Tề Thiên Đại Thánh có thể biến thành trăm vạn cái ghế khác mang nhiều khuôn mặt khi cần. Người dân mà còn bị cô lập từng cá nhân đơn lẻ (không cho tụ họp) thì nói chi đến người tù!
-   Chức năng người giữ tù
Trong nhà tù, tù nhân được “tự do” trong khuôn khổ được quy định của mỗi loại tù. Chức năng của trại tù và người giữ tù được quy định, có vai trò quan trọng trong cách xử sự.
Người giữ tù, với tư cách là một viên chức, họ phải hành xử theo quy định của luật pháp. Không có vấn đề tư tưởng, tôn giáo, chính kiến, chủ nghĩa, hay các thứ khác dính vào đây. Họ không có trách nhiệm và không có tư cách để giáo dục, dạy dỗ ai cả, về cái gì cả cho tù nhân. Họ không có quyền đánh đập, hành hạ tù nhân, truy bức tư tưởng, triệt hạ nhân cách, khủng bố tâm lý. Họ chỉ có một chức trách là giữ đúng quy chế của trại tù. Nhà tù có thể tạo điều kiện cho tù nhân được thỏa mãn một số nhu cầu tinh thần và vật chất mà không trái với luật pháp. Tùy theo điều kiện khách quan của từng nơi, họ cho phép tù nhân có thể tiến hành những nghi lễ tôn giáo, như xưng tội, cầu nguyện, lạy Phật, đọc kinh… Người giữ tù phi chính trị trong vai trò của mình. Cá nhân người giữ tù có thể có lập trường chính trị, theo đảng phái hay tôn giáo nào đó là chuyện riêng, không liên quan đến chức năng trong công việc mà họ được giao phó. Vì thế, người giữ tù cũng có được sự “tự do” theo nhân cách của mình, không bị o ép phải hành động theo xu hướng nào, ngoài quy chế của trại tù. Dĩ nhiên cũng có tiêu cực vặt vãnh trong những chuyện vặt vãnh đời thường khó tránh khỏi. Đôi khi cũng có sự lạm quyền, hà khắc do cá nhân và tư cách của anh trưởng trại tù nào đó khi chưa bị phát hiện.
Đặc biệt, đối với tù chính trị, người giữ tù thường tôn trọng về mặt tinh thần hơn đối với tù hình sự như du côn, cướp giật, hiếp dâm. Vì dù sao, người tù chính trị, cũng vì việc chung của xã hội, dù khác chính kiến với nhà cầm quyền, vẫn ở hệ giá trị cao hơn. Tù chính trị Cộng sản vẫn có một quy chế rõ ràng, nghĩa là có luật pháp bảo vệ, dù bị “đặt ngoài vòng luật pháp” như Hiến pháp của họ quy định.
Ngày nay, Điều 4 Hiến pháp là cái gốc rễ căn bản có thể xóa nhòa mọi ranh giới.
Chức năng người giữ tù cũng giống chức năng của quân đội. Người thanh niên bước chân vào quân ngũ, có hai điều phải thực hiện: hệ thống kỷ luật của quân đội, và không được phản quốc, tức là trung thành với Tổ quốc, một khái niệm chung không cụ thể, có tính chất tượng trưng và thiêng liêng. Nhân sinh quan là thuộc quyền của mỗi người. Nhưng Điều 4 Hiến pháp là gốc rễ để biến Đảng thành “Thượng Đế”, có thể đặt “ngoài vòng luật pháp” mọi thứ mà Đảng muốn.
Anh Hà Vũ quý mến,
Anh có tin rằng chế độ lao tù trong xã hội ta đang sống có hà khắc không? Sẽ được cải tổ để tốt hơn không? Tôi tin rằng có, nhưng không biết đến bao giờ! Sẽ do áp lực của quần chúng nhân dân và áp lực quốc tế, và có sự “tự chuyển biến” theo hướng tiến bộ của nhà cầm quyền?
Thời gian là quả thật vô định.
Tôi lo cho anh.
Anh Hà Vũ, anh là người tù thuộc loại nào?
Anh lớn lên trong lòng chế độ, có truyền thống yêu nước từ Ông Cha, và anh đã tiếp nối con đường ấy.
Tôi nghĩ, anh không đứng trong một tổ chức chính trị hay đảng phái nào khác, anh còn là một trí thức trưởng thành trong chế độ này – Tiến sĩ, Luật gia. Anh đấu tranh cho sự tiến bộ xã hội về dân chủ, về luật pháp và nóng lòng với giặc ngoại xâm, với phương thức hòa bình, bất bạo động. Thế rồi anh bị bắt, bị xử tội về sự khác chính kiến, theo cách không sòng phẳng và trở thành người tù. Bản án của anh làm dư luận rộng rãi bất bình, và dành cho anh nhiều chia sẻ, cảm mến và kính phục.
Tôi cho đó là hạnh phúc của người đấu tranh.
Bản án của anh, được tiếp nối những bản án khác, cùng với sự đàn áp liên tục những người biểu tình, chỉ để bày tỏ sự bất bình về hành động xâm lược của Trung Quốc đang chiếm đóng biển đảo và bức hại ngư dân.
Đất nước đang đứng trước tình thế khó khăn bởi sự đe dọa chủ quyền, Nhà nước lại tự mình làm khó khăn thêm bằng những biện pháp không thích đáng, mất lòng dân, gây phẫn nộ, nó đang báo hiệu một tương lai đi xuống, chứ không “đi lên” đâu cả. Dân chúng cũng không chịu nổi như anh, mà đang ráng chịu, cũng đang quằn quại như anh, vì các chữ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc có từ Tuyên ngôn Độc Lập vào mùa Thu năm 1946, mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã long trọng hứa hẹn.
Chừng nào mà Hiến pháp được thay đổi theo hướng dân chủ, tiến bộ hơn, phù hợp hơn, không còn toàn trị, hơi thở của trí tuệ nhân dân được tôn trọng, thì lúc ấy mọi sự sẽ khác đi, quyền sống của tù nhân cũng được minh định rõ ràng hơn. Nhưng điều đó chưa đến, nó đang được thử thách.
Lời bày tỏ thật tình
Tôi biết đã có bao người như anh, và đang có những người như thế, rất tâm huyết như trong lá thư anh viết, tôi hiểu như một lời tuyệt mệnh, và tôi đang xót xa.
Nhưng có đôi điều tôi suy nghĩ khác, rất chân thành với anh.
Tôi không muốn anh chết, vì không muốn mất đi một người yêu nước, biết đấu tranh cho độc lập, và tiến bộ xã hội.
Tôi muốn anh có cách chấm dứt tuyệt thực.
Không bỏ cuộc, không đầu hàng trong ý chí của mình, và anh cần giữ mạng sống. Hai điều này không mâu thuẫn nhau.
Tôi đã trải qua nhà lao Chí Hòa, Côn Đảo, học tập những người đi trước, cùng đồng đội chịu đựng qua tra tấn, không đầu hàng, nhưng sau đó nâng niu từng giọt thở, tiết kiệm từng chút năng lượng còn lại để duy trì sự sống, với tâm nguyện dành cho cuộc đấu tranh tiếp tục, lâu dài, trừ khi họ chủ động ra tay giết chết, thì chịu!
Nhưng ở đây, cuộc đấu tranh này là có tính chất nội bộ dân tộc, dù hết sức gay go, nhưng chúng ta cũng không thể hành xử theo cách bạo động. Tôi cho rằng anh đang bạo động với bản thân mình. Ông Gandhi, ông Nelson Mandela đấu tranh bất bạo động, có tuyệt thực để bày tỏ, chứ không tuyệt thực đến chết. Chúa Jesus không khuyên tín đồ của mình tự sát. Đức Phật cũng thế. Trong mọi loại đấu tranh, sự hy sinh là không tránh khỏi, nhưng phải đúng lúc. Vì mạng sống của một con người thật đáng quý. Như Ngài Thích Quảng Đức tự thiêu, là một sự cúng dường cao cả, đã làm bật nút đúng thời điểm cho một sự chuyển động đầy ý nghĩa.
Nhưng chúng ta không thể biến bán cầu não trái của ai đó thay đổi nhanh chóng được.
Những người tù Côn Đảo thuộc nằm lòng những câu thơ này:
Thân anh, anh bắc nên cầu
Để mai em bước lên lầu Tự do.
Nhưng hàng hàng lớp lớp đã trải thân ra bắt cầu, cầu vẫn chưa xong mà ngày mai thì vẫn ở tận chân trời. Bao người đã ra đi, đã chết trong giấc mơ đẹp mà đau của mình, đáng trân trọng và thân thương biết bao, nó để lại nỗi hoài cảm u uất trong lòng người sống, không thể không xót xa.
Anh Hà Vũ,
Tinh thần đấu tranh của anh được sự trân quý của nhiều người, anh không có ý định lao vào một cuộc đấu tranh “ăn thua đủ” rất không cân xứng này, phải không? Và cũng không xứng đáng với đối tượng là một anh cai tù cấp nào đó? Nhưng họ đang “ăn thua đủ” với anh, vì sự hãnh tiến quyền lực, nó đơn thuần về sức mạnh vật chất, và họ có dư thứ của cải này. Còn anh thì nặng về bày tỏ, cảnh tỉnh, và mục tiêu là sự cảm hóa. Điều này thì anh đã làm được rất nhiều rồi. Trường hợp anh Chí Đức – người bị khiêng như khiêng một con heo, lại bị giẫm giày vào mặt – để làm nhục tính cách “con người” của anh ấy, nhưng sau cùng, anh không phải là người thua cuộc, mà vẫn là con người đàng hoàng tiếp tục đấu tranh hàng ngày, và cũng vì không có mục đích là thua thắng với ai; nhưng đằng kia, ông Đại úy Thanh không phải là người thắng cuộc, mà là người “tự thua”, thua trắng, thua đậm và thua vĩnh viễn trong đời sống xã hội, thậm chí thua trong gia đình, trong đầu con cháu và cả trong tâm của ông ta nữa. Thái độ thù hận “con người”, thích hủy hoại “nhân phẩm” của ông ta còn là tấm gương mà đồng đội ông ta đang soi vào.
Anh Hà Vũ,
Anh nên tự tuyên bố chấm dứt cuộc tuyệt thực.
Đây thuần túy chỉ là lời đề nghị.
Nếu họ lùi cho một bước, là anh thắng cuộc sao? Là chẳng phải quyền lực và bạo hành đang lên ngôi đó sao?
Anh không nên phung phí ý chí của anh lúc này và ở chỗ này.
Nếu tôi ở phía quyền lực, tôi sẽ lùi cho anh mười bước, anh sẽ là người thua, tôi mới là người thắng.
“Thắng nhân giả hữu lực. Tự thắng giả cường”
Câu chân lý này đang thích hợp cho cả đôi bên.
Anh cần thực hành đức nhẫn nhục của một người tu sĩ lúc này, để sau đó, có thể cùng mọi người tiếp tục dấn bước trong cuộc hành trình dài hơi của dân tộc. Hãy cứ để cho họ lên ngôi và thưởng thức sự đắc thắng.
Thử xem “lòng tin chiến lược” sẽ đặt ở đâu, nếu không đặt trong lòng nhân dân qua từng sự việc cụ thể này?
Tôi trân trọng và quý mến anh.
Kính nhờ chị Dương Hà chuyển bức thư này đến tay anh Cù Huy Hà Vũ nếu có thể.
Hạ Đình Nguyên, một người Sài Gòn không quen biết.
Ngày 8-6-2013
Theo BVN

137.100 tỷ đồng nợ xấu: Một con số ‘vô nghĩa’

Trong báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn tại 2 kỳ trước của Quốc hội khóa XIII, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình khẳng định: đến cuối tháng 4/2013, tổng nợ xấu toàn hệ thống là 137.100 tỷ đồng, tương đương 4,67% tổng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, đây là con số lấy từ báo cáo của các tổ chức tín dụng (TCTD), trong khi báo cáo lên Chính phủ hồi tháng 2, Thống đốc lại dùng con số của Thanh tra NHNN và không đưa ra bất cứ lời giải thích nào.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình trích dẫn rành mạch từ báo cáo của các tổ chức tín dụng (TCTD) rằng đến cuối tháng 4/2013, tổng nợ xấu toàn hệ thống là 137.100 tỷ đồng, tăng 18.700 tỷ đồng (15,8%) so với cuối năm 2012, chiếm 4,67% tổng dư nợ tín dụng, tăng so với mức 4,08% của cuối năm 2012 và 3,07% cuối năm 2011. Không thấy nêu so sánh với cùng kỳ, dù đây mới là so sánh thường dùng nhất và có ưu điểm lược bớt các yếu tố thời vụ gây nhiễu. Chẳng hạn, đầu năm nhiều ngày nghỉ lễ khiến người lao động hay có xu hướng nghỉ ngơi hơn là làm việc.

Nhưng điều khó hiểu không dừng lại ở đó. Tại cuộc họp báo hồi tháng 7/2012, Quyền Chánh thanh tra giám sát NHNN Nguyễn Hữu Nghĩa đã dùng con số nợ xấu tính đến ngày 31/3/2012 là hơn 202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ, gần gấp đôi con số hơn 117.000 tỷ đồng, chiếm 4,47% tổng dư nợ tính theo báo cáo của các tổ chức tín dụng (TCTD). Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam khi trả lời báo chí tại phiên Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 2/2013 cũng dẫn lại báo cáo của Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình trình lên Chính phủ khẳng định dù VAMC chưa ra đời song hệ thống ngân hàng đã giảm được tỷ lệ nợ xấu từ hơn 8% xuống còn 6%. Thống đốc Nguyễn Văn Bình có tỏ ra e ngại có khi phải 10%. Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành (VERP) cho biết dựa trên căn cứ 6% mà NHNN công bố thì nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng nằm trong khoảng 180-300 ngàn tỷ đồng. Như vậy, dù cùng nói về một vấn đề, cùng một cơ quan tuyên bố, song tại mỗi buổi họp khác nhau thì lại đưa ra những con số mà chỉ cần chênh đi 1% cũng tương đương với hàng chục tỷ đồng.
Khi bị hỏi vì sao lại để xảy ra tình trạng mỗi cơ quan lại có con số riêng, ông Nguyễn Hữu Nghĩa lý giải là vì NHNN có hệ thống giám sát từ xa và không loại trừ một số TCTD “cố ý vi phạm” trong việc vi phạm phân loại nợ và trích lập dự phòng theo quy định, có thể hiểu rằng con số của NHNN “đương nhiên” sâu sát hơn. Nếu đã vậy, dù cho còn bị giới phân tích hoài nghi và Thông tư 02 nghiễm nhiên bị trì hoãn, đáng ra NHNN phải tiếp tục làm nhiệm vụ “từ xa” mà trình lên Quốc hội con số nợ xấu do tự bản thân quan sát và phân tích. Vậy nhưng, bất chấp thống kê và số liệu từ lâu đã được nhận định là một nguồn thông tin quan trọng để có thể ra quyết định quản lý nhà nước một cách ít sai sót nhất. Với Quốc hội, cơ quan đại diện cho tiếng nói của người dân, càng phải được lắng nghe những con số được thu thập một cách tỉ mỉ và cẩn thận nhất. Vậy nhưng,trong báo cáo vừa qua NHNN vẫn dùng con số “nhẹ nhàng” hơn những gì mà cơ quan này từng hùng hồn tuyên bố. Hậu quả là, dù được tiếng là “thẳng thắn” thừa nhận nợ xấu vẫn tăng, song thực chất đã tự ý “giảm” một cách ngấm ngầm. Như vậy, 137.100 tỷ đồng đã biến thành con số vô giá trị nhưng đã biến thành “nợ công xấu” khi tiêu tốn cơ sở vật chất in ấn ra một bản báo cáo dài 13 trang (hơn 8.000 chữ), tốn nhân lực (vốn lúc nào cũng than ít) để ngồi thu thập, gõ gõ,… và cả thời gian “vàng bạc” của các đại biểu ngồi đọc một báo cáo không thể dùng để ra bất cứ quyết định nào hay tường trình lại cho các cử tri.
Trong buổi buổi thảo luận về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và NSNN năm 2012; việc triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và NSNN những tháng đầu năm 2013 diễn ra sáng 30/5, đại biểu Nguyễn Văn Hiến (Bà Rịa-Vũng Tàu) đã cảm thán: "Đã từ nhiều năm nay, chúng ta chấp nhận một thực tế vô lý về số liệu GDP của các địa phương luôn cao hơn gấp 1,5-2 lần GDP quốc gia. Vấn đề sinh tử hiện nay là giải quyết nợ xấu, tồn kho bất động sản nhưng mức độ tin cậy của số liệu này là rất thấp” (Theo TTXVN). Như vậy, dù đã “tỉa cành” cho đẹp, hay có ấn, dúi, nén thế nào, những cái rễ “nợ xấu” vẫn còn bám sâu và chắc, để thỏa sức hút cạn kiệt sức sống của nền kinh tế quốc dân.
Lục Dương
(Sống Mới) 

Luật sư Lê Quốc Quân ra tòa ngày 9/7/2013

http://www.viet.rfi.fr/sites/viet.filesrfi/imagecache/rfi_43_large/sites/images.rfi.fr/files/aef_image/lequocquan5.jpg
Gia đình luật sư Lê Quốc Quân cho biết đã được thông báo Tòa án Hà Nội sẽ đưa Luật sư Lê Quốc Quân sẽ được đưa ra xử vào ngày 9/7/2013.
Thông tin do thư ký Tòa gọi điện báo cho luật sư Hà Huy Sơn là người bào chữa cho bị cáo.
Chủ tọa phiên tòa là thẩm phán Lê Thị Hợp.
Luật sư Lê Quốc Quân bị bắt ngày 27/12/2012, bị khởi tố về tội trốn thuế. Tuy nhiên, dư luận đều cho rằng, Luật sư Lê Quốc Quân bị bắt có lý do thực là liên quan đến chính trị.
Gia đình Ls Lê Quốc Quân cũng cung cấp cho chúng tôi một số đơn xung quanh vụ án. Qua đó, cho thấy cơ quan cảnh sát điều tra đã làm việc hết sức tùy tiện, bất chấp qui định của luật pháp như:
Thu giữ con dấu của công ty trái với qui định của pháp luật, gây khó khăn cho hoạt động của công ty, gây nên tổn thất về vật chất “vô cùng to lớn và trầm trọng”.
Từ khi bị giam giữ đến nay đã gần 6 tháng nhưng trại giam không cho gia đình gặp Ls Lê Quốc Quân, trái với qui định hiện hành. Tòa Hình sự Tòa án Hà Nội đưa ra lý do không thể chấp nhận được rằng “không có báo cáo nào về tình hình sức khỏe của bị can cần phải được gia đình thăm gặp”
Cơ quan cảnh sát điều tra còn tùy tiện thu giữ một số tài sản của gia đình không liên quan đến vụ án. Gia đình làm đơn yêu cầu trả lại nhưng không được trả lời.

YÊU CẦU TRẢ CON DẤU VÀ TÀI SẢN CỦA CÔNG TY:

ĐƠN KHIẾU NẠI VỀ VIỆC THU GIỮ TÀI SẢN
ĐƠN KHIẾU NẠI VỀ VIỆC THĂM GẶP PHẠM NHÂN
10/6/2013
TƯỜNG THỤY
(Blog Nguyễn Tường Thụy

Chuyện nhỏ về ông tướng công an nhân vụ cháy cây xăng ở Hà Nội

Tôi vẫn kể cho vài người bạn nghe chuyện về một ông tướng công an, nhưng các bạn luôn coi chuyện đó quá là "nhỏ hơn con thỏ", quá là "chuyện thường ngày ở huyện" so với đời sống hàng ngày ở VN. Nhưng sau vụ cháy cây xăng ở phố Trần Hưng Đạo HN vừa rồi, sau một số hình ảnh xuất hiện trên báo chí đã khiến tôi muốn được kể lại chuyện này trên Dân Làm Báo để nói về lực lượng Phòng cháy Chữa cháy (PCCC) của VN.
Cách đây 7-8 năm, rất tình cờ, tôi được đi cùng vài người bạn lên Sóc Sơn, thăm trang trại của một vị tướng công an. Ông tên là Ngần, lúc đó là Thiếu tướng Cục trưởng Cục PCCC thuộc Bộ Công an, bà vợ hình như tên là Thuận, người nhà quê đặc.
Trang trại của ông ở Sóc Sơn rất rộng, chừng vài héc ta, chắc là ở gần nhà ca sỹ Mỹ Linh mà dạo này báo chí liên tục đưa tin.
Tôi nói chắc là, bởi vì khi đó có một trào lưu đầu tư mua nhà đất ở Sóc Sơn được rất nhiều đại gia hay quan chức ở HN thực hiện.

Nhóm khách chúng tôi gồm 7-8 người, được bà Thuận, vợ ông, dẫn đi giới thiệu trang trại, gồm biệt thự, vườn cây, hồ cá, khu chăn nuôi, nơi nào cũng cực kỳ khang trang, hoành tráng. Sau đó là bữa trưa cũng cực kỳ hoành tráng, với các loại đặc sản có sẵn trong vườn nhà. Ngồi uống rượu trong sân nhà râm mát, ông tướng công an tiếc rẻ nói: "Ra ngồi uống rượu ở nhà thủy tạ bên hồ thì sướng hơn nhiều, nhưng tối qua cũng có đoàn khách đông hai chục người ăn uống ở ngoài đó, hôm nay chưa kịp dọn dẹp".
Trong bữa ăn, bà Thuận cũng khoe với chúng tôi về chuyến đi chơi đến mấy nước Tây Âu trước đó, cũng như vài chuyến tiếp theo trong tương lai gần, đó là những chuyến bà được đi "ké" trong các đoàn công tác của ông Ngần cùng các lãnh đạo của Cục PCCC và của Bộ Công an để tìm mua trang bị PCCC cho VN.
Điều tôi hay kể lại với bạn bè về trang trại của ông Ngần, không phải là về sự hoành tráng của nơi đó, mà là về việc khi đó ở VN đang có lệnh cấm nuôi gấu, nhưng trong trang trại của ông vẫn có vài ba con gấu. Một thằng bạn của tôi đã kịp "dân vận" với bà Thuận để được mang về cái lọ nhỏ đựng 1-2 cc mật gấu, sau đó hắn có biếu lại mấy trăm ngàn đồng, gọi là để bồi dưỡng cho những con gấu của ông bà chủ. Nhưng giờ đây, khi vụ cháy cây xăng để lộ ra những nhược điểm, yếu kém chết người cũng như sự nghèo nàn trang bị của lực lượng PCCC, cũng như sau phát biểu của lãnh đạo công an HN về giá tiền mỗi bộ quần áo cho lính cứu hỏa là đắt nhất thế giới, thì kỷ niệm về trang trại của tướng Ngần hồi 7-8 năm trước lại hiện về trong tôi.
Chắc là bây giờ ông Ngần đã nghỉ hưu, nhưng cái giầu có của ông, cũng như của các lãnh đạo Cục PCCC trước đó và đương nhiệm, chính là một phần lý do của sự nghèo nàn yếu kém của lính cứu hỏa hiện nay.
Nếu lính cứu hỏa không nghèo nàn thiếu thốn, thì Cục trưởng PCCC làm gì có tiền mua sắm hàng hecta đất và xây dựng trang trại hoành tráng như vậy? Tại sao bọn châu Âu tư bản giãy chết lại mời các bà vợ của vài lãnh đạo PCCC và Bộ Công an đi du lịch miễn phí nếu không phải để bán các loại trang thiết bị cứu hỏa với giá trên trời, nơi mà những người dân đóng thuế không bao giờ biết được, vì ở đó không thang máy cứu hỏa hiện đại nào có thể vươn tới được?
Tôi biết đâu kể đấy, còn các bạn tha hồ kiểm chứng, tên tuổi của tướng Ngần, Cục trưởng Cục PCCC và cái trang trại rộng vài hecta ở ngay gần sân bay Nội Bài thì dễ kiểm tra thôi mà.
(DLB)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét