Thủ tướng: Không quân luôn phải cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu cao (Dantri) - ….Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nhắc nhở, Trung đoàn phải thường xuyên giáo dục cán bộ, chiến sỹ đề cao cảnh giác, tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính trị-tư tưởng, coi trọng việc giáo dục về mục tiêu lý tưởng, phẩm chất, đạo đức và nhân cách, bảo đảm toàn Trung đoàn là một khối thống nhất ý chí và hành động, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa….
3 tháng, thu phí bảo trì đường bộ hơn 1.000 tỉ đồng (TT)
Quận Long Biên (Hà Nội) ép gia đình chính sách? -(Petrotimes ) —-Sở Tài nguyên Môi trường HN bị đánh giá tiêu cực nhất (ĐV)
Cho phép mang thai hộ nhưng cấm… đẻ thuê (ĐV) —Những bức ảnh hiếm về chiến tranh ở Việt Nam (Dantri)
Cuộc đời khốn khổ của cụ già sống độc thân (Dân trí) – Ở cái tuổi gần đất xa trời, mắt mờ, chân yếu, cụ vẫn cô độc chống gậy lê từng bước chân khắp mọi ngõ làng, chợ nhặt nhặn túi ni lông, chai lọ… để bán kiếm dăm ba đồng tiền lẻ mua gạo, mua thuốc sống tạm qua ngày.
Làm ăn với Trung Quốc: Mất ít và mất trắng! (Dantri) -Không ít lần các doanh nghiệp Việt Nam dính “quả đắng” vì quá tin đối tác người Trung Quốc.
Người dân trắng tay vì quyết định trái khoáy của UBND tỉnh Bình Dương -(Dân trí) – Sử dụng phần diện tích 2,4ha đất lúa ở phường Bình Thắng, thị xã Dĩ An, Bình Dương từ năm 1973. Năm 2000, một phần diện tích đã được cấp sổ đỏ. Đến năm 2002, các hộ dân tá hỏa phát hiện đất đã bị “bán chui” khi doanh nghiệp đưa máy về san lấp.
Bất thình lình… sung sướng (Dantri) -Chưa đầy một tuần sau khi sốc vì cú “đánh úp” tăng giá xăng, người dân lại được phen bất thình lình sung sướng vì thông tin sắp được đóng thêm phí.
Sa Pa (Lào Cai) chuyển rét 9,1 độ C (DV) —“Phát điên” vì nắng nóng (NLĐ) - Nhiều nơi lên đến 39 độ C, nước sông lại cạn, khiến mọi sinh hoạt trở nên bức bối hơn
Sống giữa thủ đô… người dân vẫn phải đi “cầu khỉ” – Dân Việt – Đã từ nhiều năm nay, người dân sống ở đầu phố Thanh Nhàn, đoạn đối diện bệnh viện Thanh Nhàn( Hà Nội) phải sống chung với cảnh ngày ngày dò dẫm qua những cây cầu làm bằng những tấm ván cốt pha tạm bợ bắc qua mương nước quanh năm đen ngòm, bốc mùi xú uế.
Ông Trần Thanh Hải được bầu làm Chủ tịch LĐLĐ TPHCM (NLĐO) - >>>Những thành tựu của tổ chức Công đoàn rất đáng trân trọng >>>Dấu ấn sâu, thành tựu lớn >>>Đưa hoạt động về cơ sở, nâng chất cán bộ Công đoàn
Sao tổ chức Công đoàn của Giai cấp Búa ở ta tốt như thế này mà Thanh niên qua mấy Quốc gia Tư bổn như Nhật,Đại Hàn….làm chi cho nó “bóc lột”- Đi mà còn tranh,không lẽ “tự nguyện đút đầu ” cho nó bóc lột. rồi ai Đấu Tranh vì Giai Cấp cho???- Bậy thật.
Triều Tiên lấy ảnh Bộ trưởng QP Hàn làm bia tập bắn, huấn luyện chó(GDVN)
Nhật ra lệnh bắn hạ tên lửa của Triều Tiên - (PN) —“Nhật hạ lệnh bắn tên lửa Triều Tiên” (Dân trí) – Báo chí Nhật hôm nay 7/4 cho hay Nhật sẽ hạ lệnh cho các lực lượng vũ trang bắn bất kỳ tên lửa Triều Tiên nào hướng về phía lãnh thổ Nhật. Thông tin được đăng tải khi Triều Tiên được cho là đã sẵn sàng phóng tên lửa. >> Triều Tiên sẽ bắn tên lửa để tìm lối thoát danh dự?
Hàn Quốc tin chắc Triều Tiên sẽ thử hạt nhân - Dân Việt – Ngày 7.4, Chính phủ Hàn Quốc cho biết, gần như chắc chắn, Bình Nhưỡng sẽ thử một tên lửa mang hạt nhân trong thời điểm xoay quanh ngày 10.4
“Đột nhập” khu công nghiệp đặc biệt nhất thế giới tại Triều Tiên (DV)
Tu-95MS của Nga bốc cháy trên đường băng (ĐV)
Dấu tích miếu thờ Nguyễn Hoàng ở Gio Linh, Quảng Trị (VHNA) —-Đại đao 500 năm tuổi của Mạc Đăng Dung – đâu là sự thật? (DT) —Theo dấu người xưa – Kỳ 43: Huyền thoại bộ ván linh (TN)
Đừng đổ hết cho sách giáo khoa (TT)
Thất vọng với cách xử sai của Bộ Giáo dục (VNN) —-Học trò yêu ngay trong lớp học - (VNN)
“Không nên “ném đá” đứa trẻ 11 tuổi” – (Dantri) -Việc tuổi thơ của bé Đỗ Nhật Nam có bị đánh mất hay không thì chỉ có cậu biết. Người ta “ném đá” mà quên rằng cậu mới 11 tuổi. Người lớn còn dễ bị tổn thương huống hồ gì là một cậu bé. >> Cậu bé lớp 5 “hạ gục” 4 sinh viên lập kỷ lục thứ 2 >> “Choáng” với thành tích của “ông cụ non” Đỗ Nhật Nam >> Gặp cậu bé 11 tuổi lập 2 kỷ lục Việt Nam
SGK chưa phù hợp vì thiếu chuyên gia? (DV) - Trên 30 ngàn Tiến sĩ Giáo sư mà thiếu!!!
<<<===Kate Upton và 6 ảnh bìa nóng bỏng nhất -Zing
Hiện tượng “thành phố ma” ở Trung Quốc (LĐ) -Những gì Trung Quốc làm trong cuộc bùng nổ kích thích tín dụng là tạo ra nhiều ”thành phố ma”.
Kẻ giết nữ sinh mang bầu thuộc nhóm San Bằng Tất Cả (ĐV) -Ánh dùng con dao bấm nhọn mang sẵn trong người đâm liên tiếp nhiều nhát vào ngực và cổ Hằng làm Hằng chết ngay tại chỗ.TP.HCM: 11 phòng trọ bị thiêu rụi do cháy cỏ (Infonet) —Cuộc tháo chạy khỏi biển lửa ở Bắc Giang (LĐ)
“Sống chung” với mại dâm: Biện pháp hành chính: Bất lực (NLĐ) – Việc quản lý hoạt động mại dâm cùng các đối tượng liên quan hiện đang gặp nhiều khó khăn, bế tắc, gây bức xúc trong dư luận. Vì vậy, cần mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật để có biện pháp quản lý hiệu quả
Sa tặc đánh bể đầu dân (NLĐ) -Trước đây, người dân nghe nói chỉ lấy cát cách bờ 100 m và lấy sâu 0,5 m nhưng bây giờ, múc sâu đến 2 m và múc luôn gần bờ sông tạo những hố sâu kéo dài mà chẳng thấy cơ quan nào ngăn cản
Nhiều khách Việt hống hách khi vào quán ăn phố ‘Tây’ (VnEx) —Cẩn trọng khi dùng hộp xốp đựng thức ăn nóng (VnEx)
Trắng đêm dập biển lửa (VnEx) -0h sáng nay, lửa vẫn cháy dữ dội trong kho thành phẩm của Công ty may Hà Phong. Cảnh sát đứng trên nóc xe cứu hỏa cầm vòi rồng phun xối xả, trong khi nhiều người dùng xe cẩu phá tường trong nỗ lực dập lửa gần như tuyệt vọng.>>> Hỏa hoạn ở Bắc Giang thiêu rụi cả nghìn xe máy/ Cuộc tháo chạy khỏi biển lửa ở Bắc Giang
Vụ cháy ở Bắc Giang: Thiệt hại hàng trăm tỉ đồng (NLĐO)- Cháy rụi toàn bộ các khu nhà kho, nhà sản xuất và khu để xe của Công ty may Hà Phong, trong đó có khoảng 1.500 xe máy của công nhân, vụ cháy lớn nhất từ trước tới nay ở tỉnh Bắc Giang này gây thiệt hại ước tính hàng trăm tỉ đồng.
Lộ clip nữ sinh dùng ghế ‘phang’ liên tiếp mặt bạn (Zing) — Đại Đoàn Kết -Bắt giữ 20 tấn sản phẩm từ gà quá hạn sử dụng
Người Việt hại người Việt, đừng ăn gia cầm lậu Trung Quốc (ĐV) —Dịch vụ cho thuê chú rể hét giá… 100 triệu (DT)
Thêm một vụ nhảy cầu Hùng Vương tự tử (Dantri) —Nữ sinh lớp 8 lội sông tự tử (Dantri) –Máy đánh bạc “Sư tử” tàn phá miền quê(Dantri)
TP.HCM: Gần trăm cảnh sát đột kích quán bar đang say nhảy nhót (DV) —Dừng đèn đỏ, xe tải đâm 1 xe tải và 1 xe mô tô(DV) —Ly hôn vì lệch pha tình dục(DV) —Vẽ bản đồ tìm mộ từ nơi cách xa cả ngàn cây số (DV)
Thảm sát phu trầm: Không chỉ là bóng tối -(Dân Việt) – Vụ thảm sát 5 người nông dân Quảng Bình đi tìm trầm trong rừng biên giới Việt Lào đang làm dư luận kinh hoàng. Kinh hoàng không chỉ là một vụ giết người hàng loạt. Một vụ giết người theo kiểu quá dã man.
“Cái bang” nhí hoành hành Quốc lộ 1A (NLĐ)
Vụ án Đoàn Văn Vươn: Quân đội bị công an ức hiếp
Sau bốn ngày xét xử vụ án "giết người" và "chống người thi hành công
vụ", ngày 5/4/2013 Tòa án Nhân dân Hải Phòng tuyên phạt gia đình ông
Đoàn Văn Vươn những bản án như sau :
- Về tội giết người : các ông Đoàn Văn Vươn (50 tuổi) và Đoàn Văn Quý
(47 tuổi) 5 năm tù, Đoàn Văn Sịnh (56 tuổi) 3,5 năm tù và Đoàn Văn Vệ
(39 tuổi 2 năm tù) ; tổng cộng 16,5 năm tù.
- Về tội chống người thi hành công vụ : các bà Phạm Thị Báu (tức Hiền,
31 tuổi, vợ ông Đoàn Văn Quý) 18 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách
36 tháng và bà Nguyễn Thị Thương (43 tuổi, vợ ông Đoàn Văn Vươn) bị 15
tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng ; tổng cộng 33 tháng tù
treo và 66 tháng thử thách.
Trước những bản án nghiêm khắc này, gia đình ông Đoàn Văn Vươn tuyên bố sẽ kháng cáo và nội vụ sẽ không ngừng ở đây.
Thấy gì qua vụ án này và hậu quả của nó sẽ ra sao ?
Hải Phòng huy động quân đội và công an can thiệp trong vụ cưỡng chế đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn (huyện Tiên Lãng), 05/01/2012. Trong ảnh, đại tá Đỗ Hữu Ca – Giám đốc Công an Hải Phòng (bên trái). |
Bản chất của vụ án
Theo dõi và đọc kỹ những phóng sự của báo chí trong nước liên quan đến
vụ án, rõ ràng đây là một vụ án khiên cưỡng, có sự đồng lõa của những cơ
quan chính quyền địa phương, nhằm chiếm đoạt công lao và tài sản của
gia đình một cựu quân nhân.
Là cựu quân nhân và kỹ sư nông nghiệp, năm 1993 ông Đoàn Văn Vuơn được
ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng giao 21 ha đất bãi tại khu vực nam Cống
Rộc, xã Vinh Quang, để quai đê lấn biển nuôi trồng thủy sản (tôm cá)
trong thời hạn 14 năm. Năm 1997, ông được huyện Tiên Lãng giao bổ sung
19,3 ha phần diện tích lấn biển ngoài diện tích được giao trong thời hạn
14 năm. Tổng cộng ông Vươn được sử dụng 40,3 ha đất để nuôi trồng thủy
sản. Trong quá trình sử dụng, ông Vươn đã xây được một con đê cao tạo
thành bờ bao cho một vùng đầm rộng lớn với hàng ngàn cây sú, vẹt mọc lên
tạo thành cánh rừng chắn sóng và một số đoạn đê để bảo vệ đầm thủy sản
của mình, trong đó có một vài đoạn đê công vụ tặng không cho huyện.
Mọi việc tiến hành một cách tốt đẹp. Sau nhiều năm đầu tư tiền bạc và
sức người, gia đình ông Đoàn Văn Vươn bắt đầu gặt hái hoa lợi do việc
trồng thủy sản mang lại. Nguồn lợi của gia đình ông Vươn đã gây sự thèm
thuồng của các cấp lãnh đạo địa phương và khiến họ tìm cách chiếm đoạt.
Năm 2009, viện cớ là thời điểm giao đất đã hết hạn, huyện Tiên Lãng đã
làm thủ tục thu hồi toàn bộ 40,3 ha mà ông Đoàn Văn Vươn đang khai thác.
Dĩ nhiên, ông Vươn làm đơn khiếu nại việc thu hồi đất lên huyện, sau đó
khởi kiện lên tòa án huyện.
Ngày 27/1/2010, Tòa án huyện Tiên Lãng bác đơn khởi kiện của ông Vươn và
giữ nguyên quyết định thu hồi. Không đồng ý, ông Đoàn Văn Vươn kháng
cáo lên Tòa án Nhân dân thành phố Hải Phòng. Sau khi thụ lý hồ sơ, Tòa
án tỉnh lập một "Biên bản thỏa thuận" : nếu ông rút đơn thì ủy ban nhân
dân huyện Tiên Lãng sẽ tiếp tục cho thuê đất. Ngày 19/4/2010, ông Vươn
rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Ba ngày sau, không hiểu vì lý do gì, Tòa
án tỉnh Hải Phòng trở mặt và đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án hành
chính này. Liền tức thì huyện Tiên Lãng hối thúc ông Vươn trả lại diện
tích đất đã hết thời hạn sử dụng trong khi ông Vươn yêu cầu huyện cho
ông thuê tiếp tục đất để nuôi trồng thủy sản. Sự giằng co này kéo dài
trong suốt hai năm, gia đình ông Vươn sống trong lo âu và căng thẳng vì
chính quyền địa phương có thể chiếm đoạt công lao khó nhọc của gia đình
bỏ ra trong gần 20 năm qua bất cứ lúc nào.
Sáng ngày 5/1/2012, chính quyền huyện Tiên Lãng (thực ra là công an Hải
Phòng) huy động một lực lượng đông đảo hơn 100 người bao gồm cả công an
và bộ đội đến cưỡng chế đầm nuôi cá của ông Đoàn Văn Vươn, lúc đó đang
vắng mặt vì bận lên Viện Kiểm sát nhân dân Hải Phòng kháng cáo. Không
chấp nhận bị cướp của một cách dễ dàng, thân nhân của gia đình ông Vươn
tổ chức đẩy lui lực lượng cưỡng bằng cách ung khói, cho nổ mìn tự chế
để áp đảo tinh thần đối phương và bắn súng hoa cải làm 4 công an và 2 bộ
đội bị thương nhẹ.
Cái không bình thường trong vụ cưỡng chế này là chính ông Đỗ Hữu Ca,
giám đốc sở công an Hải Phòng xuống trực tiếp chỉ huy "cuộc hiệp đồng
tác chiến" như tiến công vào kẻ thù, mà ông rất hãnh diện và dự trù sẽ
viết thành sách để làm tài liệu học tập. Theo đó, lực lượng công an cơ
động dùng thuyền nan để chèo vào đầm, bí mật áp sát nhà ông Vươn mai
phục trước ; tiếp theo là bộ đội địa phương từ bên ngoài tiến vào đồng
loạt tiến công, bắt người, đốt phá nhà ông Đoàn Văn Vươn.
Tin vụ tấn công phá sập nhà ông Đoàn Văn Vươn ngày 5-1-2012 không ngờ đã
gây xúc động lớn trong dư luận cả nước. Những người ủng hộ gia đình ông
Vươn xuống đường, viết bài, trả lời phỏng vấn tố cáo vụ chiếm đoạt tài
sản và phá hoại tài sản công dân của chính quyền huyện Tiên Lãng và công
an thành phố Hải Phòng.
Trước những phản ứng dữ dội này, ngày 7/2/2012, Ban thường vụ thành ủy
Hải Phòng đã tổ chức họp báo và ra quyết định kiểm điểm tập thể Ban
thường vụ huyện ủy Tiên Lãng : đình chỉ công tác ông Lê Văn Hiền, phó bí
thư huyện ủy kiêm chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng, và ông Nguyễn Văn
Khanh, phó chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng và là những người trực tiếp chỉ
đạo vụ cưỡng chế thu hồi đất, để kiểm điểm trách nhiệm cá nhân. Ngày
23/2/2012, cả chủ tịch lẫn phó chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng bị thành ủy
Hải Phòng cách chức.
Vụ Đoàn Văn Vươn đã gây tiếng vang lớn đến chính phủ. Ngày 10/2/2012,
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã họp với các bộ ngành và cơ quan chức năng
địa phương về vụ cưỡng chế đầm và phá nhà ông Đoàn Văn Vươn tại Tiên
Lãng và đưa ra những kết luận như sau :
Về việc giao đất cho gia đình ông Đoàn Văn Vươn, quyết định thứ nhất
giao 21 ha đất là đúng, nhưng quyết định thứ hai giao thêm 19,3 ha (thời
hạn 14 năm) là chưa đúng với quy định Luật đất đai.
- Quyết định thu hồi đất của ông Vươn với lý do hết thời hạn sử dụng là
trái luật. Luật đất đai quy định 5 trường hợp thu hồi đất, nhưng gia
đình ông Vươn không nằm trong 5 trường hợp trên và yêu cầu chính quyền
địa phương thi hành các thủ tục cho phép gia đình ông Vươn tiếp tục được
sử dụng đất đã giao.
- Huyện Tiên Lãng huy động lực lượng quân đội của Ban chỉ huy quân sự huyện tham gia cưỡng chế là không đúng.
· Công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế cũng có nhiều sai sót, gây thương
tổn cho lực lượng tham gia. Việc phá nhà có sự chỉ đạo của một số lãnh
đạo địa phương.
Một năm sau, ngày 21/2/2013, chính quyền Hải Phòng đã tiến hành thu hồi
các quyết định thu hồi đất, quyết định cuỡng chế trái pháp luật đã ban
hành trước đó (Quyết định thu hồi đất số460/QĐ-UBND, Quyết định số
461/QĐ-UBND, Quyết định cưỡng chế số 3307/QĐ-UBND) và thẩm định trị giá
căn nhà của ông Vươn. Đi xa hơn, chính quyền Hải Phòng cho tiến hành rà
soát lại đất đai bãi bồi ven sông, những vụ cưỡng chế đã xảy ra tại Tiên
Lãng những năm trước đó và xem xét lại những quyết định thu hồi đất của
cấp huyện có đúng trình tự, thủ tục hay không.
Qua những dữ kiện vừa kể trên, ông Đoàn Văn Vươn rõ ràng là nạn nhân của
lòng tham của các cấp chính quyền địa phương. Mặc dù đã được các cấp
chính quyền trung ương bênh vực và những cấp lãnh đạo địa phương làm
việc sai trái bị cách chức, gia đình ông Vươn vẫn bị truy tố ra tòa về
những tội không đúng sự thật như giết người và chống lại người thi hành
công vụ. Thêm vào đó, gia đình ông Đoàn Văn Vươn vẫn sống trong cảnh màn
trời chiếu đất vì căn nhà bị đốt và phá sập chưa được đền bù. "Vụ án
Đoàn Văn Vươn" này đáng lẽ không thể xảy ra và ngược lại những người có
tình gây thiệt hại cho gia đình Đoàn Văn Vươn phải bị đưa ra tòa. Thực
tế đã diễn ra ngược lại, những nạn nhân bị đem ra xét xử trong khi những
thủ phạm - các ông Lê Văn Hiền và Nguyễn Văn Khanh, cựu chủ tịch và phó
chủ tịch huyện Tiên Lãng, Phạm Xuân Hoa, cựu trưởng phòng tài nguyên và
môi trường huyện, Lê Thanh Liêm, cựu chủ tịch xã Vinh Quang, Phạm Đặng
Hoan, cựu bí thư xã Vinh - chỉ bị cách chức và không bị truy tố hình sự
về việc lạm dụng chức quyền phá hoại tài sản công dân.
Bất chấp những đề nghị của chính quyền trung ương, vụ án Đoàn Văn Vươn
đã vẫn xảy ra. Công an, tòa án và các cấp chính quyền địa phương đã ép
cung và truy tố thân nhân gia đình ông Đoàn Văn Vươn ra tòa về những tội
mà họ không hề gây ra, để sau đó kết tội với những bản án nặng nề.
Không ai trong gia đình ông Đoàn Văn Vươn phạm tội "giết người" vì không
có người nào chết. Không ai trong gia đình ông Đoàn Văn Vươn "chống
người thi hành công vụ", trong khi ngược lại chính gia đình ông Vươn là
nạn nhân của những người thi hành công vụ (hai căn nhà của gia đình ông
Vươn bị lực lượng này đốt và đập phá). Về phía những người bị hại (4
công an và 2 bộ đội), không ai yêu cầu bồi thường thiệt hại về tổn thất
sức khỏe, vật chất và tinh thần, thêm vào đó bộ chỉ huy quân sự huyện
Tiên Lãng cũng rút lại việc đòi bồi thường. Điều này chứng tỏ gia đình
ông Vươn là nạn nhân của vụ cưỡng chế và không hề vi phạm pháp luật.
Phản ứng của gia đình ông Vươn là phản ứng tự vệ của những người không
muốn công lao mồ hôi nước mắt trong suốt gần 20 năm qua bị những người
tham lam chiếm đoạt.
Có cái gì không bình thường trong vụ án này. Các cấp chính quyền địa
phương để lộ nguyên hình thành cường hào ác bá, bất chấp mệnh lệnh của
cấp trên và bất chấp luôn cả quân đội, lạm dụng luật pháp để trấn áp và
chiếm đoạt tài sản công dân.
Hậu quả của vụ án Đoàn Văn Vươn
Đối với dư luận bình thường, đây là một vụ án giả tạo nhằm chiếm đoạt
tài sản công dân của những cường hào ác bá địa phương. Nếu là một hộ dân
bình thường, chắc chắn tài sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn đã bị
chiếm đoạt từ lâu và gia đình của ông phải ra Hải Phòng hay Hà Nội để
khiếu kiện như hàng chục ngàn gia đình dân oan khác đã và đang làm. Việc
thu hồi đất đai của công dân mà không bồi thường xứng đáng là bất hợp
pháp, là lạm dụng quyền lực để chiếm đoạt tài sản công dân.
Tội mà tòa án có thể kết tội ông Đoàn Văn Vươn và gia đình là "tàng trữ
vũ khí bất hợp pháp" : 1 bình ắc quy, 1 làn nhựa, 4 vỏ đạn, 1 ống nhòm,
nhiều đoạn dây điện, 2 bình gaz, 2 kíp nổ, 1 túi nylông thuốc nổ, nhiều
bao đá, 1 bình xăng, 3 điện thoại di động, 2 súng bắn đạn hoa cải
(shotgun). Súng shotgun, còn gọi súng bắn đạn hoa cải, súng bắn đạn
ghém... là loại súng được thiết kế thường dùng để bắn khi tựa vào vai,
bắn ra một tập hợp các viên đạn nhỏ như hạt tiêu. Các mảnh của đạn hoa
cải sẽ tỏa ra các hướng sau khi ra khỏi nòng súng và sức bắn được chia
đều cho từng mảnh đạn đều, do đó sức công phá của từng mảnh đạn rất thấp
vì các mảnh đạn sẽ tỏa đi các hướng (thậm chí nếu trúng mục tiêu chúng
cũng chẳng xuyên thủng được vì quá yếu) nên ở khoảng cách xa loại đạn
này gần như vô dụng.
Có dư luận tố cáo đây là một vụ án vi phạm nhân quyền vì thiếu vắng
những thủ tục tố tụng bình thường, những nhân chứng tại tòa không khách
quan vì người làm chứng đều là những người tham gia vào lực lượng cưỡng
chế, nghĩa là công an và bộ đội địa phương, không có người dân địa
phương nào được mời đến làm chứng vào thời điểm xảy ra sự việc. Không
những thế, ban chấp pháp sử dụng những thủ thuật lường gạt tiền (30
triệu VND) để được nhẹ tội, ép cung để sau đó gán ghép nạn nhân những
tội không hề vi phạm như "giết người" và "chống người thi hành công
lệnh".
Một luồn dư luận khác cho đây là một vụ án bất công, chính quyền dồn gia
đình một công dân tới mức đường cùng để chờ đợi những phản ứng tuyệt
vọng, rồi lấy đó làm bằng chứng buộc tội và chiếm đoạt tài sản. Nhưng ở
đây gia đình ông Đoàn Văn Vươn đã là nạn nhân trước khi bị truy tố có
những hành vi tự vệ bất hợp pháp.
Có luật gia đối chiếu vụ án này với những vụ án đất đai tương tự thời
Pháp thuộc. Trả lời cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 30-3, luật sư Trần
Vũ Hải so sánh vụ án ở Cống Rộc, huyện Tiên Lãng của chế độ hiện nay với
vụ án Nọc Nạn ở tỉnh Bạc Liêu thời thực dân Pháp. Những nông dân Việt
Nam tại Nọc Nạn đã kháng cự hành động đàn áp, cưỡng đoạt ruộng đất do
cường hào ác bá địa phương : họ đã giết chết 5 người của chính quyền
thực dân Pháp và chủ đất phong kiến ở Nam Kỳ. Tất cả can phạm đều được
tha bổng. Ông Hải kết luận : "Trong phiên xử này, nhân dân hy vọng rằng
tòa án của Việt Nam, nhà nước công nông Việt Nam, sẽ bảo vệ tốt hơn
quyền của nông dân so với tòa án thực dân Pháp hoặc ít nhất là bằng. Đây
là phiên xử thể hiện tính công minh của hệ thống tư pháp Việt Nam và là
dịp để so sánh với hệ thống tư pháp của chế độ cũ".
Nhưng cho dù có thế nào, đây là một vụ án nghiêm trọng ảnh hưởng đến
tương lai của chế độ cộng sản Việt Nam, trong đó một quân nhân lương
thiện bị một tập đoàn công an và đảng ủy địa phương chèn ép để chiếm
đoạt tài sản. Từ trước đến nay các tập đoàn cường hào ác bá công an và
đảng ủy địa phương chỉ chèn ép những người dân bình thường để làm tiền
hay chiếm đoạt nhà đất. Lần này, có lẽ vì lòng tham đã vượt qua trí khôn
nên họ đã bằng mọi cách chiếm đoạt tài sản của một cựu quân nhân, bất
chấp những khuyến cáo của các cấp chính quyền trung ương. Tuy không dám
tịch thu đầm nuôi tôm cá của ông Vươn và mặc cho các viên chức cấp huyện
bị cách chức hay thuyên chuyển đi nơi khác, chính quyền Hải Phòng vẫn
tiếp tục truy tố gia đình ông Đoàn Văn Vươn về những tội danh "giết
người" và "chống người thi hành công vụ". Sự thách đố đã quá rõ ràng,
đây là một bằng chứng công an uy hiếp quân đội.
Không biết trong quân ngũ ông Đoàn Văn Vươn đảm nhiệm cấp bậc nào, nhưng
chắc chắn phải là một người thông minh, có nhiều sáng kiến để vượt qua
mọi chướng ngại. Bằng chứng là với những dụng cụ thô sơ (bình gaz, xăng,
rơm rạ, hàng rào và bao đá), ông Vươn đã chỉ vẽ cho người thân cách chế
tạo vũ khí thô sơ đủ để làm khiếp sợ những kẻ muốn hại gia đình ông.
Tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp, ông Vươn chắc chắn là một người tài giỏi,
có nhiều sáng kiến để phát triển ngành nông lâm ngư nghiệp. Ông Đoàn Văn
Vươn đã một thời được báo chí Hải Phòng vinh phong "anh hùng lấp biển"
và đúng như vậy. Chỉ trong vài năm, từ 1993 đến 1995, ông Vươn và vài
người thân trong gia đình đã nới rộng khu vực chăn nuôi thủy sản ra
ngoài biển bằng những đập chắn nước và hàng ngàn cây sú để giữ đập, với
một giá khá đắt : đứa con gái đầu lòng (8 tuổi) đã bị chết đuối khi theo
cha mẹ ra đầm xây đập.
Trong thực tế, có lẽ các cấp chính quyền địa phương có phần e sợ ông
Vươn nên đã nhờ một đại tá công an Hải Phòng lập một kế hoạch hiệp đồng
tác chiến với hơn một trăm công an và bộ đội để đột nhập vào… nhà dân.
Gia đình ông Vươn đã chống trả như những nông dân thời trước chống càn
quét của thực dân. Cũng may là gia đình ông chưa lập những hầm chông và
bẫy sập để chống đột nhập. Ông Đoàn Văn Vươn quả là một quân nhân đúng
với danh nghĩa (hiên ngang và bất khuất), rất tiếc là ông sinh nhầm thế
hệ nên đang bị những cường hào ác bá địa phương cướp đoạt nguồn sinh
sống với sự đồng lõa của công an. Trong phiên tòa ngày 2-4, luật sư bảo
vệ đã kiến nghị chuyển vụ án Đoàn Văn Vươn sang Tòa án Quân sự xét xử,
nhưng không được chấp thuận. Trong vụ án này, bộ chỉ huy quân sự huyện
Tiên Lãng có lẽ biết lo sợ vì đã đi quá trớn nên đã rút lại yêu cầu đòi
gia đình ông Vươn bồi thường những người bị thương.
Cái không bình thường trong vụ án này là không một viên chức quân đội
đương nhiệm nào lên tiếng bênh vực gia đình ông Đoàn Văn Vươn, một cựu
quân nhân, trừ một vài cựu sĩ quan già cả đã về hưu và ông Lê Đức Anh,
cựu đại tướng và chủ tịch nước. Trả lời một cuộc phỏng vấn của báo Lao
Đông điện tử ngày 5/4/2013, ông Lê Đức Anh nói sử dụng quân đội vào việc
tấn công vào một nhà dân là sai và đây là bài học mà chính quyền cả
nước phải rút kinh nghiệm. Ông nghiêm khắc cảnh cáo "thành ủy Hải Phòng
và ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng phải có trách nhiệm xử lý, làm
sai chỗ nào thì phải nhận sai ở chỗ đó, không được trả lời loanh quanh
và không được che giấu sai phạm và sử dụng bộ đội để cưỡng chế với dân
là tuyệt đối sai".
Chắc chắn trong những ngày sắp tới quân đội không để yên cho công an tự
tung tự tác trên đời sống của những cựu quân nhân. Nhiệm vụ của người
lính là bảo vệ tổ quốc, nhiệm vụ của công an là gìn giữ an ninh. Trong
thực tế, do tiếp cận với nhân dân người công an có nhiều cơ hội để làm
tiền người dân trong khu vực cai quản, trong khi người lính phải cực
nhọc chống trả với bệnh tật và thiếu thốn trên những vùng sâu và vùng xa
ở các vùng biên giới hay ngoài khơi. Khi về hưu, lợi tức của người quân
nhân chỉ là khoản tiền hưu còm cỏi không đủ ăn, trong khi một công an
về hưu nhờ hối lộ sống trong sung túc với nhà cửa cao sang và gia đình
êm ấm.
Từ trước đến nay, quân đội thường giữ im lặng trước những bất công trong
xã hội vì đó là trách nhiệm của dân sự của những cán bộ đảng ủy địa
phương, trong khi trách nhiệm của quân đội cao cả hơn nhiều là bảo vệ tổ
quốc chứ không bảo vệ quyền lợi cá nhân. Nhưng lần này, vụ án Đoàn Văn
Vươn đã làm giọt nước làm tràn ly. Hy vọng những người trách nhiệm trong
quân đội lên tiếng để gia đình ông Đoàn Văn Vươn được trả tự do và được
bồi hoàn xứng đáng để trở về cuộc sống bình thường. Danh dự của một
quân nhân tại chức hay đã về hưu là bảo vệ đồng đội, các cấp lãnh đạo
quân đội không thể tiếp tục im lặng trước những bất công trong xã hội,
vì im lặng đồng lõa với lòng tham và tội ác. Tin rằng trong những ngày
sắp tới quân đội phải làm một cái gì đó để công an và đảng ủy địa phương
không thể tiếp tục hà hiếp cựu quân nhân, những người đã một thời hiến
dâng xương máu của mình để bảo vệ hạnh phúc của nhân dân và an ninh của
tổ quốc.
Nguyễn Văn Huy
(Thông luận)
Nghệ An: Một lũ quan tham
Thanh Chi là xã miền núi của huyện Thanh Chương, Nghệ An, đây là
vùng đất nghèo, dân tình bơ phờ quanh năm mới đủ cơm ăn, áo
mặc. Trước thực trạng của địa phương,cán bộ xã không chịu
nghĩ cách để dân đỡ khổ mà ngược lại chỉ tìm đủ mưu ma chước
quỷ để cướp hàng loạt chế độ ít ỏi của những người có công
với cách mạng, người già, tàn tật.
Năm 2008 đến năm 2011 trên có có chủ trương chung hộ trợ người
cao tuổi (80 tuổi trở lên) được trợ cấp 180.000 đ/người/tháng.
Lợi dụng chủ trương này cán bộ xã Thanh Chi đã nổi máu tham,
cấu kết với nhau, thay đổi độ tuổi, ngày tháng năm sinh trong
CMND, sổ hộ khẩu của 8 trường hợp đều là người thân của cán
bộ xã để hưởng chế độ. Đó là bà Đậu Thị Nhị (thôn Kim
Thượng) là mẹ của Phan Thanh Lan cán bộ tư pháp xã, dù chưa
đến tuổi nhưng được hưởng trợ cấp từ năm 2008 với số tiền 6
triệu đồng. Cũng với cách nâng tuổi, bà Nguyễn Thị Nhâm, mẹ
vợ của phó chủ tịch xã là Lê Văn Thủy được hưởng 6.200.000 đ.
Bà Lê Thị Thuật mẹ của Trần Thị Trúc cán bộ văn phòng xã
hưởng 7.200.000 đ…
Hoàn cảnh nghèo khổ của vợ chồng ông Mậu, bà Ngọ do con bị bệnh tâm thần ( Nguyễn Văn Đồng) ở xã Thanh Chi mà quan xã ăn chặn tiền chế độ. |
Không chỉ tự ý nâng tuổi cho người thân (cha, mẹ) hưởng tiền
chế độ, cán bộ xã Thanh Chi còn cướp tiền người có công với
cách mạng bằng cách các đối tượng đã qua đời nhưng danh sách
không báo cáo lên cấp trên, mà ém lại để đều đều hưởng chế
độ rót về rồi chia nhau bỏ túi ăn tiêu. Với ma chước này cán
bộ xã Thanh Chi đã nhiều năm nuốt được 16 trường hợp, với tổng
số tiền 62.800.000 đ. Ăn trên thân còm già nua của người sống,
đến cả người đã mất cán bộ xã Thanh Chi cũng tranh thủ vơ
vét. Theo chế độ hiện hàng những người có công với cách mạng
sau khi chết đều được hưởng tiền mai táng phí. Để lấy tiền
“người chết” cán bộ xã Thanh Chi đã “báo tử” nhiều trường hợp
vẫn đang còn sống khỏe mạnh. Ông Nguyễn Văn Phượng có mẹ là
bà Trần Thị Nhung (người có công với cách mạng) bức xúc kể “
Đến tháng 6/2012 mẹ tôi mới qua đời, tôi làm hồ sơ để lấy tiền
mai táng phí, nhưng tôi được thông báo là mẹ tôi đã chết và
đã nhận tiền chế độ từ năm 2007. Đến nay đã gần 10 tháng tôi
vẫn chưa nhận được tiền mai táng phí của mẹ tôi”. Bà Nguyễn
Thị Ba (xóm 3 xã Thanh Chi) mặc dù vẫn còn sống khỏe mạnh với
con cái, nhưng xã Thanh Chi đã khai tử cho bà từ lâu để lấy
tiền chế độ...
Ông Nguyễn Văn Phượng con trai của bà Trần Thị Nhung (người có
công với cách mạng) bức xúc trình bày việc cán bộ xã ăn chặn
tiền chế độ của mẹ mình.
“ Khai sinh, rồi khai tử” để trục lợi của cán bộ xã Thanh Chi
vẫn chưa dừng lại. Tại xã này đã có 37 đối tượng người cao
tuổi đã qua đời nhưng cán bộ xã vẫn báo lên trên là vẫn còn
sống để cấp trên tiếp tục rót tiền về…túi cán bộ xã. Nuốt
của người sống lẫn người chết. Lại cướp cả của người bệnh
tâm thần. Theo phản ánh của nhân dân trong và ngoài xã, vào
những năm 2008 đến năm 2011 những người cao tuổi thực sự, người
tàn tật, người mắc bệnh tâm thần đã được UBND huyện Thanh
Chương 2 lần ra quyết định nâng mức trợ cấp nhưng UBND xã Thanh
Chi không cho dân biết mà chỉ phát mức trợ cấp của những năm
trước.
Tệ hại hơn, gần 2 năm, từ 2008- 2009 cán bộ xã không phát chế
độ cho các đối tượng. Mãi khi dân phát hiện kéo nhau lên trụ
sở xã truy đòi gay gắt thì cac ông quan xã Thanh Chi mới thực
hiện truy phát. Đơn cử trường hợp anh Nguyễn Văn Đồng ở xóm 7
đã bị bệnh tâm thần 12 năm. Năm 2007 mức trợ cấp là 65.000 đ/
tháng, đến năm 2008 mức trợ cấp được nâng lên 240.000 đ/tháng.
Tuy nhiên từ năm 2008 UBND xã chỉ trả cho anh Đồng 120.000
đ/tháng, cướp của người bệnh tâm thần này 120.000 đ/tháng…
Bà Nguyễn Thị Ba (người có công với cách mạng) đang sống khỏe mạnh với con cháu mà quan xã Thanh Chi đã “ khai tử” để bỏ túi tiền mai táng phí (ảnh) |
Tạm dừng những mưu ma chước quỷ của các quan xã để nói đến
các quan huyện Thanh Chương. Trước những phản ánh đầy bức xúc
của dư luận, huyện ủy Thanh Chương đã thành lập đoàn thanh tra
và công nhận những sai trái của cán bộ xã Thanh Chi, ngoài ra
đoàn thanh tra còn phát hiện những sai trái tương tự ở một số
xã khác (các số liệu cụ thể đoàn thanh tra không cung cấp cho
báo chí vì không có lệnh của trên). Đủ kiểu, nhiều ma
chước,có bàn bạc tập thể để cướp của người có công với cách
mạng, người cao tuổi, người bị bệnh tâm thần…nhưng lạ thay
không có một cán bộ nào bị kỷ luật trên mức nhẹ nhất : Khiển
trách ! Một câu hỏi “tại sao” lại làm đau đầu dư luận ?!
Thật đau buồn thay pháp luật Việt Nam, một người dân nào đó do “
Túng thì tính” trót ăn cắp vì nghèo khổ thì bị xử tội
nghiêm khắc, đúng pháp luật, còn các quan xã nói riêng như đã
nêu trên cướp của ngân sách, của dân nghèo, bệnh tật có hệ
thống thì chỉ bị khiển trách ? Liều thuốc khiển trách này
chắc các căn bệnh “cướp” của quan xã nói riêng đang tủm
tỉm…cười, còn dân đen thì đau lòng và tiếp tục…lo sợ lắm.
Bảo Nam
(CTM)
Con giun ông Bá phun lửa!
Hình minh họa |
Sau khi ông Nguyễn Bá Thanh bí thư, chủ tịch TP Đà Nẵng ra ngoài TW ngồi
chơi xơi nước thì người dân lại loạn cào cào với di chứng của ông ta để
lại. Người khen có và người chê ông cũng có. Người khen thì nói nhờ có
ông Thanh mà Đà Nẵng có diện mạo như hôm nay? Người chê thì nói ông chém
gió khi tuyên bố hốt hết đám tham quan thủ đô nhưng hình như ông ra
cũng đã lâu nhưng chưa ai bị… hốt!?
Đi ngược lịch sử Đà Nẵng thời Pháp được gọi là Tourane, tại đây thiên
nhiên đã ban tặng cho người dân nhiều thắng cảnh thiên nhiên như Ngũ
hành Sơn, phố cổ Hội An,bán đảo Sơn Trà, Bà Nà và không khó gì khi quy
hoạch thành một thành phố du lịch.
Còn về chê ông Thanh thì dư luận đồn đãi ông chưa kịp hốt ai thì đã bị
anh 3D phang cho một nhát 4000 tỷ tiền bán đất phải nộp cho TW đang còn
bàn cãi ngược xuôi!
Bỏ qua mấy chuyện đó mấy hôm nay thiên hạ râm ran về cây cầu có hình con
rồng dưới thời của ông. Thành thật mà nói nhé ông Thanh, người dân đi
khắp cùng trời cuối đất, từ dưới Nam bán cầu Australia cho đến xứ thằng
đế quốc cờ hoa mà chưa hề thấy có cây cầu nào… cải lương chi bảo như
vậy. Cây cầu để làm gì? Để các phương tiện qua sông, biển dể dàng thuận
tiện, có cái cầu đúc bê tông, có cái dây văng, có cái cầu treo, có cái
cầu khỉ nhưng cầu rồng thì phải nói thế giới này chỉ có mình ông với cái
tư duy… đỉnh cao trí tuệ nghĩ ra. Và cây cầu của ông nó lại không giống
con rồng… lộn mà nó dài thòn lòn cho nên nhìn giống con giun trườn thì
đúng hơn,mà hình như cái đó là điềm báo cho con đường quan lộ của ông
thì phải?
Đã vậy nó còn phun lửa để hù ai đó,hay là để cho ai ghiền thuốc là mà không có hộp quẹt mồi thuốc chăng!?
Còn ban ngày nó lại phun nước èo èo như mưa làm bà con tối mắt. Nhưng dù
sao cũng phải khen ông một cái vì đã có công ngu dân xứ mình, chỉ có
cây cầu hình con rồng mà bọn thầy dùi báo lá cải bàn ra tán vào ngày này
qua ngày khác! Nếu tầm nhìn của ông chỉ là con giun biết phun lửa thì
người dân nghĩ chắc mấy khu du lịch họ cần đấy, nhưng được biết ở vùng
Westminter bang California phía sau chợ Mỹ Thuận của bọn đế quốc cũng có
dấu tích của ông thì phải!
Một ngôi nhà có 5 cái móng bê tông chỉa ra góc ngã tư đại lộ Westminter
và đường Magnolia được gọi là nhà bank mà người dân tại đó gọi là lầu
ông Thanh Việt Nam, không biết ông Thanh vào vậy ta? Hy vọng không phải
là ông Nguyễn Bá Thanh xứ mình nhé.
Nguyên Anh(DLB)
'Cần xóa bỏ ngay cơ chế độc quyền vàng miếng'
Cho rằng cơ chế độc quyền vàng miếng đã khiến cho nhu cầu về SJC tăng đột biến, đẩy giá của thương hiệu này chênh cao ở mức nghịch lý, các chuyên gia khuyến nghị Ngân hàng Nhà nước nên để vàng vận hành theo cơ chế thị trường.Tại hội thảo "Đẩy mạnh phát triển thị trường vàng trang sức Việt Nam trong tiến trình hội nhập" chiều 6/4, Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai cho rằng, vì Việt Nam là nước nhập khẩu vàng nên giá cả thời gian qua tăng cao theo xu hướng thế giới là điều tất yếu.
Tuy nhiên, theo ông Lai, một thực tế ghi nhận tại thị trường trong nước là khoảng cách giữa giá vàng nội địa và thế giới ở mức nới rộng quá mức đến nghịch lý. Trong đó, giá vàng thương hiệu SJC duy trì mức cao hơn 3-4 triệu đồng, còn các thương hiệu khác ngang bằng, thậm chí rẻ hơn thế giới. Một lý do khác lý giải việc cầu tăng bất thường gây hiệu ứng đẩy giá lên như hiện nay là do tăng nhu cầu về vàng SJC từ các ngân hàng chứ không phải là cầu vàng nói chung. Bên cạnh đó, nợ xấu vàng cũng đang gia tăng do sự không đồng nhãn hiệu giữa vay và trả càng tạo thêm áp lực tăng giá SJC.
Các chuyên gia khuyến nghị Ngân hàng Nhà nước nên xóa bỏ cơ chế độc quyền vàng miếng. Ảnh: Lệ Chi |
Các loại vàng còn lại, kể cả là vàng với tư cách ngoại hối thông thường lẫn hàng hóa mỹ nghệ, trang sức trên thị trường theo ông Lai nên được tự do trao đổi, mua bán, bao gồm cả tự do nhập và xuất. "Ngân hàng Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý Nhà nước mà ở đó không có việc kinh doanh vàng, trừ trường hợp muốn thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối để bảo toàn giá trị và không vì mục đích lợi nhuận", ông Lai bày tỏ.
Mặc khác, theo Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai, việc đo đếm giá trị, giá vàng cần căn cứ vào tuổi và nhanh chóng loại bỏ việc kỳ thị giữa các loại vàng miếng phi dự trữ ngoại hối. 'Đồng thời, Nhà nước cần xóa bỏ ngay cơ chế độc quyền vàng miếng và tôn trọng quy luật thị trường", ông Lai nhấn mạnh.
Tự do hóa nhưng không để vàng hóa nền kinh tế, theo Tiến sĩ Lai cần phải nghiêm cấm tuyệt đối việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán. Trước sau chỉ coi vàng như một hàng hóa được rộng rãi giao lưu bình thường và mọi giao dịch đều phải làm nghĩa vụ thuế.
Song song đó, ông Lai kiến nghị Nhà nước nên cho phép mở sàn vàng và giao Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế quản lý. Sàn vàng đúng nghĩa ra đời vừa chống được độc quyền, vừa tạo nguồn thu cho ngân sách thông qua nghĩa vụ nộp thuế, lại liên thông được với thị trường quốc tế mà không lo "chảy máu vàng" đối với một quốc gia nghèo vàng như Việt Nam.
Tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, Chuyên gia kinh tế cao cấp cũng chia sẻ, giống như các biện pháp hành chính đang gây méo mó và rủi ro đạo đức cho hệ thống ngân hàng, việc quản trị vàng sẽ gây hỗn loạn một thị trường vốn linh hoạt nhất từ ngàn xưa trong tập quán kinh tế và văn hóa của người dân Việt vốn quen giữ vàng.
Theo Tiến sĩ Chí, Ngân hàng Nhà nước nên trở về với các nhiệm vụ cố hữu của một ngân hàng Trung ương trong việc điều tiết chính sách tiền tệ và cải thiện tình trạng vĩ mô. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, cần đến vai trò sáng suốt của cơ quan này để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, giải quyết món nợ xấu khổng lồ là những vấn đề cấp bách nhất.
Ông Phạm Đỗ Chí cũng nhìn nhận, việc Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi và hằng ngày đứng ra định giá vàng (mà đa phần còn chưa biết có nắm bắt thị trường đúng hay không?) thay vì lo nghiên cứu chính sách cho các vấn đề nóng bỏng trên, cũng có thể được ví như "đang ở trong một cái nhà bị cháy mà không lo vác vòi chữa lửa, lại lo đi vác chổi quét nhà cho sạch".
Tiến sĩ Chí tỏ ra lo ngại các hành động của Ngân hàng Nhà nước trong những năm qua như độc quyền Nhà nước về vàng, khống chế ngân hàng, điều khiển thị trường tín dụng theo mệnh lệnh hành chính… đã và đang làm nghẽn mạch hệ thống tiền tệ. "Nếu cứ ra sức can thiệp bằng biện pháp hành chính thì nền kinh tế càng lâm vào thế tê liệt", ông nói.
Đồng tình quan điểm với hai chuyên gia trên, Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho rằng nên để vàng vận hành theo cơ chế thị trường. Còn với tình hình hiện nay, muốn ổn định thị trường vàng Ngân hàng Nhà nước nên chú trọng vào hai vấn đề chính là cố gắng làm cho khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới không quá cao. Biên độ dao động giữa hai thị trường cũng không nên quá lớn để tránh đầu cơ (hiện nay lúc gia vàng trong nước biến động một triệu, lúc 2 triệu so với thế giới dễ tạo đầu cơ).
Lệ Chi
(VnExpress)
Những chuyên gia kinh tế Việt Nam thành danh ở nước ngoài
Họ là những người có nhiều đóng góp trong lĩnh vực kinh tế Việt Nam và đã thành danh tại nước ngoài.
Giáo sư Trần Hữu Dũng - nhà kinh tế học của Đại học Wright State tại Dayton
Trần Hữu Dũng là giáo sư kinh tế học của Đại học Wright State tại
Dayton, Ohio, Mỹ. Ông chuyên về nghiên cứu kinh tế vùng Đông Á, đặc biệt
là Việt Nam.
Ông từng là chuyên viên của Trung tâm Nghiên cứu nguyên tử Đà Lạt.
Hiện nay, ông giảng dạy môn kinh tế vĩ mô, kinh tế quản lý và kinh tế
thế giới cho bằng thạc sĩ (MBA) tại Đại học Wright State.
Ngoài ra, giáo sư Trần Hữu Dũng còn biên tập viên quản lý của cổng web
nổi tiếng Arts & Letters Daily, trang website được tờ New York
Times khen tặng là “Điểm hẹn của trí thức toàn cầu” dành cho trang web www.aldaily.com sau khi trang web này được trao giải webbys trong lĩnh vực Internet.
Giáo sư Trần Hữu Dũng còn được biết đến là chủ nhân của website
Viet-studies thường xuyên cập nhật các bài báo, báo cáo nổi bật trong
và ngoài nước về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam.
Cũng như nhiều trí thức Việt kiều khác, ông có những đóng góp không
nhỏ cho Việt Nam cũng như những tư duy kinh tế trong việc hoà nhập với
nền kinh tế thế giới.
Giáo sư Trần Hữu Dũng còn viết bài cho các tờ báo kinh tế ở trong nước
đồng thời hàng năm ông cùng một số trí thức Việt kiều, trí thức ở
trong nước tổ chức các hội thảo khoa học đánh giá về tình hình kinh tế -
xã hội của Việt Nam.
Giáo sư Trần Văn Thọ – nhà nghiên cứu tại Đại học Waseda
GS Trần Văn Thọ hiện đang giảng dạy và nghiên cứu kinh tế tại Đại học
Waseda (Tokyo), Nhật Bản. Ông là một trong ba nhà khoa học nước ngoài
từng được mời làm thành viên chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn Kinh tế
của Chính phủ Nhật Bản trong gần 10 năm.
Từ những năm 1990 khi nền kinh tế Việt Nam đã mở cửa, ông có nhiều bài
viết phân tích về nền kinh tế Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa, các
góp ý của ông được trình bày dưới dạng văn bản gửi tới các cơ quan thẩm
quyền của chính phủ. Cùng với đó, GS Trần Văn Thọ cũng có nhiều bài
viết về kinh tế.
Tiến sĩ Vũ Quang Việt – chuyên gia kinh tế
Ông là nhà kinh tế gốc Việt, từng là vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia
thuộc Cục Thống kê Liên Hợp Quốc. Ông là người có nhiều công trình
nghiên cứu và đóng góp cho tư tuy kinh tế của Việt Nam.
Công việc chuyên môn của TS Vũ Quang Việt là nghiên cứu hệ thống ý niệm
và cấu trúc thống kê kinh tế, điều hành việc ước tính một số thống kê
kinh tế cho 191 nước thành viên của Liên Hợp Quốc.
Trong thời gian làm việc ở Cục thống kê Liên Hợp Quốc, ông là thành
viên trong nhóm xây dựng Hệ thống Tài khoản Quốc gia 1993 (TKQG93) của
Liên Hợp Quốc, có bảng phân tích “vào - ra” nhằm đo lường toàn bộ các
hoạt động sản xuất và sự liên hệ của chúng trong một nền kinh tế.
Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành
Chuyên gia Bùi Kiến Thành là một nhà tài chính người Mỹ gốc Việt.
Ông được biết đến là người Việt đầu tiên được đào tạo về tài chính tại
Hoa Kỳ. Ông có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam và được
vinh danh trong chương trình Vinh danh nước Việt năm 2004.
Chuyên gia Bùi Kiến Thành từng làm trưởng Phòng Ngoại hối, Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam từ 1954 đến 1956 và được xem như chính khách trẻ
nhất thường xuyên ra vào Dinh Gia Long, hiện là Viện bảo tàng Cách
mạng.
Ông làm đại diện Ngân hàng Quốc gia Việt Nam Cộng hòa tại New York năm
24 tuổi là người trẻ tuổi nhất trong hơn 60 đại diện Ngân hàng nhà
nước tại Hoa Kỳ từ 1956 đến 1958.
Ngoài ra chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành còn làm chủ tịch, tổng giám
đốc Công ty Bảo hiểm quốc tế Mỹ American International Underwriters,
Vietnam, Inc., là chủ tịch công ty trẻ tuổi nhất, 27 tuổi, trong hệ
thống các công ty thành viên của tập đoàn từ 1959 đến 1965.
Ông trở thành nhà tư vấn độc lập về các vấn đề Việt Nam, sau đó là cố
vấn cao cấp thường trú tại Việt Nam (resident senior advisor) của AIG
(1993 – 1996) , và là cố vấn cao cấp của Công ty TNHH Bảo hiểm Quốc tế
Mỹ AIA Vietnam, công ty thành viên của AIG.
Không những thế ông Bùi Kiến Thành còn được biết đến với tư cách là người sáng lập và là thành viên Ban quản trị Tập đoàn AMERICAN BHT (Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ) phát triển xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam qua thị trường Mỹ năm 2003.
Không những thế ông Bùi Kiến Thành còn được biết đến với tư cách là người sáng lập và là thành viên Ban quản trị Tập đoàn AMERICAN BHT (Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ) phát triển xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam qua thị trường Mỹ năm 2003.
Thúy Nguyễn (tổng hợp)
(Người Đưa tin)
Hà Nội tố tàu cá Trung Quốc do thám Việt Nam
“Hiện tàu cá Trung Quốc ngày càng gia tăng, đánh bắt sâu vào vùng biển
miền Trung. Không loại trừ việc các tàu này trinh sát nắm tình hình khả
năng phòng thủ của ta.”
Báo Ðất Việt hôm Chủ Nhật tường thuật lời một viên chức cao cấp của Bộ
Tư Lệnh Vùng 3 Hải Quân CSVN đóng tại Ðà Nẵng, hôm 5 Tháng Tư, 2013, nói
như vậy trong một cuộc họp được mô tả là “hội nghị rút kinh nghiệm thực
hiện kế hoạch hiệp đồng phối hợp quản lý bảo vệ chủ quyền vùng biển khu
vực miền Trung giai đoạn 2010-2012.”
Tàu cá Trung Quốc ồ ạt ra khơi. (Hình minh họa: AP Photo) |
Một bản báo cáo tại hội nghị này nói từ năm 2010 đến 2012, lực lượng
tuần biển của Việt Nam “phát hiện 740 tàu, 126 lượt máy bay Trung Quốc
xâm phạm chủ quyền các khu vực biển Việt Nam, trong đó nhiều lần vượt
qua khu vực Thăng Long, Tri Tôn (đảo phía Nam của quần đảo Hoàng Sa) vài
chục hải lý, xâm phạm vùng biển Quảng Bình...”
Chỉ riêng năm 2012 “đã phát hiện 717 tàu cá Trung Quốc xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam (tăng 533 lượt so với năm 2011).”
Dù vậy, không hề thấy Hà Nội lên tiếng phản đối hay đưa công hàm đòi Bắc
Kinh chấm dứt hành động bất hợp pháp. Cũng không thấy nhà cầm quyền
CSVN loan báo một vụ bắt giữ nào trong số những tàu Trung Quốc xâm phạm
chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, ngoài những từ “tuyên truyền và xua đuổi.”
Nhưng những chiếc tàu đó có đi hay không, không thấy nói.
Một trong những lý do các vụ “xua đuổi” tàu Trung Quốc không có tác dụng
được báo Ðất Việt thuật lời ông Ðại Tá Nguyễn Quốc Bình của Bộ Tư Lệnh
Hải Quân Vùng 3 tại Ðà Nẵng nói
“Thủ đoạn hoạt động của các tàu này liên tục thay đổi, đi thành từng tốp
có số lượng đông, sử dụng tàu cá có công suất lớn đi trước hỗ trợ cho
hoạt động của tốp đi sau; hoặc sử dụng tàu sắt lớn đi giữa bảo vệ cụm
tàu 4-10 chiếc ngang nhiên tranh lấn ngư trường, xua đuổi tàu cá của ngư
dân Ðà Nẵng.”
Ngoài chuyện ngang nhiên đánh cướp thủy sản trên vùng biển chủ quyền
Việt Nam với số lượng ngày càng nhiều về “số lượng và mật độ,” ông Bình
cáo buộc tàu đánh cá của Trung Quốc có thể còn đóng vai trò gián điệp,
dò dẫm khả năng phòng thủ các vùng biển của Việt Nam.
Bắc Kinh, từ giữa năm ngoái đến nay, thường xuyên mở các cuộc tập trận
trên Biển Ðông, xua các đoàn tàu hải giám và hải tuần tới các vùng biển
tranh chấp với các nước trong khu vực để thách đố phản ứng.
Gần đây nhất, một đoàn 4 chiến hạm trang bị hỏa tiễn gồm cả tàu đổ bộ
Tĩnh Cương Sơn đã đi suốt chiều dài Biển Ðông, xuống sát Brunei và
Malaysia tập trận từ đổ bộ chiếm đảo đến bắn đạn thật trên biển.
Một số chuyên viên về tranh chấp Biển Ðông từng cảnh cáo phải đề phòng
cái lực lượng tàu đánh cá đông hàng chục ngàn của Trung Quốc. Không
những chúng tranh cướp thủy sản của các nước khác mà còn được sử dụng
như đội quân tiền phong của Hải Quân Trung quốc cho các chủ đích không
phải kinh tế.
(Người Việt)
Một chùm tính cách Việt: Khởi thủy là đàn bà (1)
Phụ nữ sexy ngày xưa |
"Khởi thủy là Lời – Kinh Thánh"
Có người cho văn hóa Việt Nam (tức người Việt) không có huyền thoại. Tôi
không nghĩ vậy. Dân tộc nào mà chẳng trải qua một “thời đại lớn” (chữ
của M.Eliade”). Thưở ấy, người ta sống bằng huyền thoại, “suy nghĩ” và
cảm nhận thế giới bằng huyền thoại, lưu giữ và truyền gửi thông điệp cho
nhau và cho hậu thế cũng bằng huyền thoại. Có điều, không hiểu vì sao,
khi từ tiền sử bước vào hữu sử, tổ tiên người Việt đã đánh vỡ hệ thống
huyền thoại của mình. Bằng chứng là những mảnh vỡ của kim âu đó văng đi
và còn găm vào những truyền thuyết, cổ tích.
Người ta cũng thường nói đến yếu tố nữ tính, thậm chí nguyên tắc nữ,
trong văn hóa Việt Nam qua lễ nghi, phong tục và văn chương nghệ thuật.
Nguyên lý này, nếu có, hẳn phải ảnh xạ vào huyền thoại, khởi điểm của
mọi khởi điểm? Tôi thử lần tìm điều đó bằng việc lấy ba người đàn bà đầu
tiên mà những mảnh vỡ của huyền thoại còn lưu giữ được. Dĩ nhiên, khái
niệm “đầu tiên” chỉ là tương đối, Mỵ Nương trong “Sơn Tinh- Thủy Tinh”,
Mỵ Châu trong “Mỵ Châu – Trọng Thủy” và Mỵ Nương trong “Trương Chi”
Mỗi thời đại đều “đọc” huyền thoại theo một cách riêng, và tìm thấy ở đó
có những gì mà nó cần. Bởi lẽ, xét đến cùng, mỗi thời đều có cách sử
dụng huyền thoại của nó và cho nó. Điều này vừa làm phong phú cho huyền
thoại, bồi thêm sức sống cho nó, đồng thời cũng đẩy xa thông điệp ban
đầu, thậm chí còn gây nhiễu. Chuyện kể về “tam Mỵ” nói trên, tôi nghĩ
hẳn cũng không tránh khỏi số phận đó. Sự giải mã huyền thoại hiện nay
chính là quá trình bóc tách những vỏ bọc đó để đi đến cái nhân đích
thực, ban đàu.
Truyện “Sơn Tinh – Thủy Tinh” trước đây thường được hiểu như là một câu
chuyện tình, “năm năm báo oán, đời đời đánh ghen” (Tản Đà), sau đó lại
được hiểu như là cuộc đấu tranh của nhân dân chống lại thiên tai lũ lụt…
Có lẽ, đó là những ý nghĩa được gia ban về sau, hậu nghiệm. Thực ra
người ta có thể tìm thấy ở đây mảnh vỡ của huyền thoại về Đại Hồng Thủy,
ký ức xa xôi của nhân loại về thời kỳ tan băng hà. Cũng cảnh nước ngập
mênh mông, gieo rắc ta họa, tưởng như ngày tận thế; cũng một đôi trai
gái (Sơn Tinh và Mỵ Nương) còn sống sau nạn nước (hoặc chiến thằng nó),
trở thành vợ chồng, thành tổ của một tộc người; ngọn núi Ba Vì nơi họ
đến trú ngụ chơ vơ giữa biển nước như một con thuyền (Noé trong Kinh
Thánh hay Vỏ trấu trong Sự tích hồ Ba Bể). Đồng thời, qua việc Thủy Tinh
đánh đuổi Sơn Tinh để cướp lại Mỵ Nương cũng còn lưu lại ảnh xạ của tục
cướp dâu, hiện tượng đọng lại trong phong tục của người Mông.
Mỵ Châu- Trọng Thủy không chỉ là câu chuyện cảnh giác, “trái tim lầm chỗ
để trên đầu” (Tố Hữu), câu chuyện chiến tranh gián điệp…, mà thông qua
câu chuyện tình bi thảm này, người ta thấy vai trò của người phụ nữ
trong gia đình cũng như trong xã hội. Mỵ Châu được cha giao cho giữ nỏ
thần – vật thiêng liêng và quan trọng nhất trong cả nước. Nàng đã sống
nặng vì mình, vì tình yêu của mình, còn Trọng Thủy thì nặng vì cha, vì
đất nước của anh ta. Bi kịch của những người không xử lý được hài hòa
mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tình và lý.
Cũng vậy, bi kịch Mỵ Nương- Trương Chi không phải là bi kịch của sự giàu
nghèo, của giai cấp, giữa một anh dân chài và một cô tiểu thư con quan
thừa tướng mà là bi kịch của kẻ cầu toàn, kẻ đi tìm cái tuyệt đối. Mỵ
Nương mê tiếng hát của Trương Chi nhưng lại không chấp nhận khuôn mặt
xấu xí của anh ta. Cô muốn một sự hoàn thiện hoàn mỹ, cả cái này lẫn cái
kia, mà cuộc đời lại chỉ cho phép chọn một.
Lược qua câu chuyện Tam Mỵ trên, tôi muốn gảy ra đây một vài thông điệp mà người xưa nhắn gửi trong huyền thoại Việt Nam.
Trước hết, ba người đàn bà đều có tên bắt đầu bằng chữ Mỵ. Mỵ có nghãi
là đẹp. Mỵ còn được đọc là “mế”, “mệ”, chỉ người đàn bà trong tiếng tiền
Việt – Mường, hoặc Việt cổ. Hơn nữa, Mỵ Nương, Mỵ Châu vốn không phải
tên riêng, mà là tên chung chỉ đàn bà. Bởi vậy có thể đi đến hai kết
luận: người đàn bà là đẹp. Người đàn bà là đẹp, đã đành, nhưng còn giữ
vai trò quan trọng nữa. Mỵ Châu được giao giữ nỏ thần, một vật thiêng.
Truyền thống “nội tướng”, “lệnh ông không bằng cồng bà”, “đội quân tóc
dài” của người phụ nữ Việt Nam, có lẽ bắt đầu từ đây.
Nếu đặt ba truyện theo thứ tự Sơn Tinh – Thủy Tinh, Mỵ Châu- Trọng Thủy,
Trương Chi, chúng ta thấy diện mạo bên ngoài và diện mạo nội tâm của
người phụ nữ ngày một rõ rệt hơn. Ở Sơn Tinh – Thủy Tinh, mặc dù là đối
tượng của sự tranh chấp giữa thần núi và thần nước, nhưng người ta khong
thấy rõ phản ứng, cũng như tâm lý của Mỵ Nương. Ở Mỵ Châu – Trọng Thủy,
sự cá nhân hóa của người phụ nữ đã tiến lên một bước, bởi vì nhân vật
phải đối diện với quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Và ở chuyện Trương
Chi thì sự cá nhân hóa ở người phụ nữ đã phát triển đầy đủ. Câu chuyện
giữa Mỵ Nương và Trương Chi là câu chuyện cá nhân với cá nhân. Trong
cuộc đấu tranh với chính mình, thế giới nội tâm của Mỵ Nương đã bộc lộ
đầy đủ, sâu sắc.
Người ta thường nói đến “cảm giác mức độ” của người Việt Nam, đến sự
nhận thức về “ngưỡng” của văn hóa Việt nam. Những câu chuyện trên truyền
đạt thông điệp đó một cách rõ ràng, sinh động và đầy sức thuyết phục.
Mỵ Châu thì sống vì cá nhân mình (tức là tình yêu với Trọng Thủy) nên đã
mất nỏ thân, dẫn đến mất nước, chết hàm oan dưới lưỡi gươm của cha.
Trọng Thủy sống vì cộng đồng của anh ta, theo lời cha phản bội tình yêu
của Mỵ Châu, cuối cùng cũng hối hận đâm đầu xuống giếng tự vẫn. Con
đường sống của ncon người là đi tìm hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng,
điều mà Mỵ Châu, Trọng Thủy chỉ đạt được sau khi chết qua hình tượng lấy
ngọc trai rửa nước giếng thì ngọc sáng ra. Trong Trương Chi, Mỵ Nương
say mê tiếng hát, yêu vẻ đẹp tâm hồn của anh chàng dân chài nhưng lại
không yêu nổi vẻ mặt xấu xí của anh ta. Nàng muốn sự hoàn thiện, đẹp cả
người lẫn nết. Điều này đã gây ra cái chết của Trương Chi và sự đau khổ
của nàng. Sự tận thiện tận mỹ, có lẽ chỉ có trong lý tưởng, trong ý niệ.
Thực tế là trần tục, đầy sự khiếm khuyết. Nếu không chấp nhận, cầu
toàn, ảo tưởng cũng dẫn đến sự hủy diệt ở hương diện này hay phương diện
khác.
Sống hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lý tưởng và thực tế không
phải là thứ “triết lý để tồn tại” mà là một minh triết, một túi khôn dân
gian. Thông điệp quan trọng này được tổ tiên nhắn gửi qua huyền thoại,
truyền thuyết và cổ tích, qua số phận của những người đàn bà, của phụ nữ
Việt nam, từ khởi thủ.
GS Đỗ Lai Thúy
Trích từ Book Hunter
Trích “Phân tâm học và Tính cách dân tộc”
Một chùm tính cách Việt: Thứ nhất sợ kẻ anh hùng (2)
Chí Phèo |
Trong phần 2 của loạt bài “Một chùm tính cách Việt”, giáo sư Đỗ Lai Thúy
phân tích về hiện tượng Chí Phèo trong xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó,
ông cũng đưa ra những nhận định về cơ cấu làng xã – một cơ cấu mang tính
bền vững đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt Nam cho dù các thể chế
xã hội có thay đổi.
Cơ cấu sản sinh hiện tượng Chí Phèo
Khởi đầu thực sự của truyện Chí Phèo là hình ảnh – biểu tượng chiếc lò
gạch cũ và kết thúc cũng bằng hình ảnh – biểu tượng đó, hiện thoái trong
tâm trí Thị Nở. Chí Phèo bởi thế có kết cấu đóng. Tính chất đóng kín là
một hằng số nghệ thuật của truyện ngắn này. Nó chẳng những đổ bóng vào
không gian và thời gian truyện, hằn dấu trên số phận của các nhân vật mà
còn khớp đúng với thực tiễn của làng xã Việt Nam, nhất là ở đồng bằng
và trung du Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Câu chuyện Chí Phèo xảy ra trên mảnh đất chật, khép kín sau lũy tre xanh
của làng Vũ Đại. Nhưng chặt chẽ hơn, ràng buộc hơn cả và cũng ít hữu
hình hơn là sự đóng kín của bản thân cấu trúc làng xã. Ở đay mỗi dân
làng không tồn tại như một cá thể, mà chỉ như một yếu tố vừa phụ thuộc
vào cộng đồng, vừa phụ thuộc lẫn nhau, và bị phân cấp theo hệ thống
thang bậc xã hội. Chiếm giữ vị trí hàng đầu trong bảng giá trị đó là các
vị tiên chỉ, thứ chỉ – một dạng tha hóa của chế độ già làng; sau đó là
lý trưởng và các hào lý khác, cuối cùng là thứ dân các hạng. Như vậy,
giá trị của người dân không chỉ ở phẩm cách đích thực của cá nhân anh
ta, mà ở chỗ anh ta ở ngôi thứ nào, chức vị gì, tài sản ra sao, họ hàng
với ai… Điều đó đã mặc nhiên được luật lệ hóa bởi cách xưng hô không gọi
tên trần trụi, mà phải kèm theo những từ nêu rõ danh phận: Lý Cường, Bá
kiến, Đội Tảo, anh cu, chi đĩ… Đó là thân phận xã hội của người nông
dân. Chính sự khép kín của cấu trúc này đã đóng vai trò “cơ chế” để
chuyển những giới hạn của không gian địa lý lũy tre, con đê, dòng sông…
thành giới hạn của không gian tâm thức của các nhân vật trong làng. Với
họ, làng là vũ trụ, là đơn vị đo giới hạn (hách nhất làng, giàu nhất
làng) làng đóng dấu lên mọi vật “cổng làng, ruộng làng, giếng làng…) tạo
ra khuôn mẫu sống, khuôn mẫu tư tưởng… Như một chiếc bào nang, làng xã
do tính chất khép kín của nó không vận động trong thời gian. Những “lớp
sóng phép hưng” của lịch sử chỉ bấm móng lên bề mặt của nó, chứ không
thay đổi gì được nội bộ cấu trúc. Làng xã vẫn cứ tồn tại và vận động
theo những quy luật của riêng bản thân nó và trong bản thân nó.
Cái ước mơ được “lột xác” như con rắn trong cổ tích được hóa kiếp để
chuyển kiếp trong vòng luân hồi của thứ đạo phật được dân gian hóa là sự
khúc xạ của ước vọng day dứt hàng ngày được thay thân đổi phận của đa
số những người dân ở chót bảng giá trị, ở vành ngoài cấu trúc. Họ tiết
kiệm để làm giàu, tìm mọi cách gắn được mình vào bộ máy làng xã; thậm
chí bán cả mành vườn sào ruộng do ông cha để lại cốt mua lấy một cái
danh vị hão để thoát khỏi chân bạch đinh, hạng người mà ai cũng có quyền
bạt tai đá đít, và được ăn một miếng giữa làng. Cuộc đua tranh này đã
làm họ ghen ghét, tị hiềm và kiện tụng lẫn nhau. Bọn cường hào trong
làng thường khuyến khích tâm lý đó, để thừa cơ “đục nước béo cò”. Thế là
mỗi lần người nông dân muốn ngoi lên thì họ lại tụt xuống thêm một bậc
nữa. Kinh nghiệm đó làm nảy sinh ở họ tâm lý an phận, đèn ai nấy rạng.
“chỉ nghĩ đến sự yên ổn của mình”, và đối với bọn hào lý, thì mang một
cái sợ cố hữu trong lòng. Đó là cái sợ bị hất ra khỏi cộng đồng làng xã,
bị lột hết các lớp “áo xiêm” giá trị, phơi ra cái cá nhân trần trụi vô
giá trị của mình. Cảnh sống vất vưởng của những kẻ ngụ cư, của những Chí
Phèo ở nơi ngoài đê, ngoài bãi với họ là một ám ảnh, một “địa ngục miền
nhân gian”
Một kẻ có lý lịch “bốn đời làm tổng lý” có con đang làm lý trưởng, bản
thân ăn tiên chỉ làng như Bá Kiến đã nhận ra và lợi dụng quy luật đó.
“Một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng… Đè nén con em đến nỗi nó
không chịu đựng được phải bỏ làng đi là dại…”, bởi lẽ thoát khỏi sự kiềm
chế của tư tưởng công xã, người nông dân lưu tán được suy nghĩ tự do
hơn. Thời loạn, họ dễ theo các toán ướp. Thời yên ổn, nếu không sống nổi
ở thành thị hay kiếp sống ngụ cư ở làng khác, họ buộc phải quay đầu trở
về làng, nhưng “với cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được ở
phương xa” và cái đầu quen được tự do suy nghĩ.
Tuy nhiên, Bá Kiến cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt. hắn
cũng có những cái ghen, cái tức, cái hống hách thường tình, cho nên nhận
ra quy luật mà vẫn cứ phạm như thường. Do đó mới có những Năm Thọ, Binh
Chức và Chí Phèo. Nhưng Bá Kiến hơn người ở chỗ “không cần thở than” và
biết cười “cái cười Tào Tháo” để xoay đảo tình thế. Lấy độc trị độc,
hắn dùng ngay bọn họ để trị lại những phe nghịch như đội Tảo, tư Đạm,
bát Tùng…
Trong số những đồng loại sống ngoài cấu trúc làng xã, nếu Binh Chức còn
có vợ con thì Chí Phèo “trắng tay” hơn, trần trụi hơn cả với con người
cá thể vô giá trị của hắn. Nhưng, thật là nghịch lý, đúng lúc hắn mất
tất cả ấy, hắn lại được giải phóng khỏi sự trói buộc của những giá trị
làng xã. Không còn gì để mất nữa, hắn trở thành không biết sợ. Hắn trở
thành kẻ mạnh, cái mạnh của kẻ cố cùng liều thân. Trong chế độ cũ còn
một loại người nữa cũng thoát khỏi bảng giá trị làng xã nhưng thoát ra ở
đầu trên: đó là kẻ anh hùng. Anh hùng cá nhân bao giờ cũng đứng trên xã
hội: “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng/ Thứ nhìn sợ kẻ cố cùng liều thân”. Ngạn
ngữ của phương Tây có nói: điểm đầu và điểm cuối thì gặp nhau. Chí Phòe
là anh hùng của làng Vũ Đại. Sau khi ở nhà đội Tảo về, hắn vỗ ngực: “Anh
hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Đó là cái oai của hắn, cái triết
lý tồn tại của kẻ khốn cùng. Bá Kiến đã biết hướng sự nổi loạn chính
đáng và cái mãnh lực tối tăm ở con người Chí Phèo vào những mục đích tối
tăm. Thế là từ đó cuộc đời hắn trượt dài trên những cơn say. “Những cơn
say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài mênh mông,
hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, dập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa
nạt trong lúc say, uống trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận… hắn
đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui,
đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu
người lương thiện”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Nhưng Chí Phèo không phải là câu chuyện về kẻ say, kẻ khùng, của những
con thú người. Là một nhà nhân đạo lớn, Nam Cao thích đi sâu vào những
nhân vật tưởng như đã mất hết tính người như Trương Rự (“Nửa đêm”) để
chứng minh cho được nhân tính con người, dù bị tha hóa đến đâu, vẫn còn
là một cái gì đó khá bền chặt, bởi lẽ nó cũng có nguồn gốc khá sâu xa,
từ lúc con người nguyên thủy đứng được trên hai chân mình để ngẩng mặt
lên nhìn thấy cái đẹp của bầu trời. Nhưng ở truyện ngắn này cũng không
hẳn nguyên tắc. Trên kia chúng ta đã thực sự bắt đầu từ chỗ “một anh đi
thả ống lươn” vậy thì đoạn “hắn vừa đi vừa chửi..” chỉ là một thủ pháp
tiểu thuyết quen thuộc gẩy từ giữa truyện ra và để lên đầu một đoạn gây
ấn tượng nhất để câu sự chú ý của độc giả. Nhưng ở truyện ngắn này không
chỉ đơn giản có vậy. Trong những lời chửi của Chí Phèo, Nam Cao có cất
giấu chìa khóa – mã để giúp bạn đọc tìm ra ẩn số về nhân vật của mình.
Trong dân gian những lời chửi rủa, nguyền rủa cũng là một loại hình
folklore, nghĩa là chúng cũng có những sắp xếp nghệ thuật phù hợp với
nội dung triết lý xã hội mà chúng chuyển tải. Lời chửi của Chí Phèo cũng
vậy, nó được xếp đặt theo một logic chặt chẽ: từ cái khái quát nhất đến
cái cụ thể nhất, từ cái rộng nhất đến cái hẹp nhất, từ chửi trời, chửi
đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những kẻ không chửi nhau với hắn đến chửi
cái đứa đẻ ra hắn, tức chửi cha hắn. Theo tập quán kiêng kỵ của người
Việt, chửi cha là một tội đáng nguyền rủa, bởi vì nó xúc phạm nặng đến
tục thờ tổ tiên của mỗi người và của cả cộng đồng. Người cha còn là
người trực tiếp cho ra đời một người con – con người không chỉ với tính
cách là một sinh vật, mà quan trọng hơn là một thân phận xã hội bị chế
định bởi những tài sản, chức tước, địa vị và cả quan hệ họ hàng mà hắn
được kế thừa. Chí Phèo chửi cha nghĩa là chửi vào chính bản thân hắn,
bởi sự không cha không mẹ không họ hàng thân thích đã đẻ ra cái số phận
khốn nạn của hắn. Rõ ràng, ngôn ngữ của Chí Phèo ở đây không phải là thứ
ngôn ngữ lộn xộn, chuyện nọ xọ chuyện kia, của kẻ say hoặc điên. Đó là
ngôn ngữ tỉnh lạnh của kẻ đang tự nguyền rả mình, đang tự đối thoại với
chính mình.
Người nông dân trong làng xã vốn chưa từng quen sống với cái tôi của
mình, thậm chí có khi cũng không ý thức được sự tồn tại của nó, cho đến
khi bị đẩy ra ngoài cộng đồng. Khi có ý thức về mình như một cá nhân,
Chí Phèo cũng ý thức được toàn bộ sự bế tắc của mình. Hắn muốn lảng
tránh bản thân bằng rượu, bằng triết lý anh hùng của kẻ liều, thậm chí
bằng cả hành động tội ác. Đó là bi kịch của sự tự ý được cái bế tắc của
thân phận xã hội của một kẻ bị đẩy ra ngoài hệ thống gái trị. Nhưng
chính sự cảm nhận bi kịch đó đã ngăn giữ Chí Phèo ở lại bên này ranh
giới con người – con vật và luôn luôn chờ cơ hội để tỉnh thức
Cơ hội đó là một ánh sáng. Đây là ánh sáng duy nhất trong cái làng Vũ
Đại tối tăm. (“Mấy cái ngõ tối xung quanh đùn ra biết bao nhiêu người”.)
ở Nam Cao, ánh trăng bao giờ cũng đi liền với một sự thức nhận một điều
gì đó (“Trăng sáng”). Soi vào “ánh trăng chảy trên tường trắng tinh”,
Chí Phèo nhận ra được cái “vật đen, xệch xọc, cứ quần quật dưới chân
hắn” chính là cái bóng của hắn, chính là diện mạo của bản thân hắn. Hắn
“đứng lại và nhìn nó và ngả nghiêng cười”. Đối mặt với mình, cái ý thức
về mình sống dậy.
Sau đó, trong cuộc đối ẩm với Tự Lãng, Chí Phèo hoàn toàn tỉnh táo, mặc
dù hắn uống rất hăng, thậm chí “càng uống càng tỉnh”, “tỉnh ra, chao ôi
buồn”. Y lẳng lặng nghe Tự triết lý về cuộc đời, vật ngửa lao Tự đang
say bò lê bò càng rồi bỏ đi, cảm giác về bản thân liên tiếp trỗi xuống
bờ sông, Chí Phèo “tò mò nhìn những tàu lá chuối… nằm ngửa, ưỡn cong lên
hứng lấy trăng xanh rời rợi như ướt nước, thỉnh thoảng lại bị gió lay
lại giãy lên đành đạch như hứng tình”. Bút pháp phân tích nội tâm sâu
sắc, tinh tế của Nam Cao đã mô tả được quá trình thức tỉnh ý thức về bản
thân của Chí Phèo, mà cuộc giao tình với Thị Nở là đỉnh điểm.
Được nếm trải cuộc sống “vợ chồng” bình thường nhỏ mọn với Thị Nở, Chí
Phèo khát khao được trở lại cộng đồng, làm một người bình thường “chồng
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải (…) một con lợn nuôi để làm vốn liếng.
Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Và Thị Nở chính là cái phao đưa kẻ
chết đuối như Chí Phèo cập mình vào cái bến của mọi người. Nhưng hóa ra
muốn được làm một người “lương thiện” cũng rất khó. Không ai chấp nhận
cho hắn được làm người lương thiện, thậm chí cả một kẻ cùng khổ như bà
cô Thị Nở, phải sống ở rìa làng, cũng cậy mình là kẻ trong đê không chịu
để cho cô cháu gái dở hơi quá lứa lấy một kẻ ngoài đê như Chí Phèo.
Không được cộng đồng chấp nhận, Chí Phèo lại sa vào một sự chấn động
lớn. Lần này thì có lẽ không một thứ rượu nào có thể làm hắn say được,
không có thứ gì có thể làm hắn ngủ quên trong dòng đời được. Chí Phèo
giết Bá Kiến, kẻ trực tiếp tạo ra số phận hắn. Giết Bá Kiến rồi sau đó
tự sát là một hành động nổi loạn một cách tuyệt vọng, bởi vì hành động
đó không phá vỡ được cấu trúc làng xã – nguyên nhân của những nguyên
nhân tạo ra những bi kịch Chí Phèo. Nam Cao đã chỉ ra điều đó rất sinh
động, sáng rõ qua lời bàn tán của dân làng. Có người nói: “Thằng mọt già
ấy chết, anh em mình nên ăn mừng”. Những người biết điều thì hay ngờ
vực, họ chép miệng nói: “Tre già thì măng mọc”, thằng ấy chết còn thằng
khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu…”
Nam Cao kết thúc truyện ngắn của mình bằng cái chết của Chí Phèo và sự
lặp lại hình ảnh chiếc lò gạch cũ. Nhưng không vì thế mà Chí Phèo của
ông gây ấn tượng là câu chuyện của một con người cụ thể ở một làng cụ
thể. Bởi lẽ Chí Phèo tuy chết nhưng đã kịp để lại một Chí Phèo con, một
sự “tre già măng mọc” theo nghĩa trực tiếp, mặt khác, quan trọng hơn là
hiện diện phổ biến của chiếc lò gạch ở một làng quê – một yếu tố tượng
trưng cho sự lặp lại của cấu trúc làng xã. Hơn nữa, Việt Nam xưa là đất
nước của những người nông dân bởi sự áp đảo tuyệt đối của họ về dân số
và diện tích địa bàn cư trú đối với các thành thị phương Đông tiền tư
bản chủ nghĩa, thường chỉ là nơi đầu não hành chính, cho nên cơ sở kinh
tế của nó là kinh tế tiểu nông, cấu trúc xã hội của nó là cấu trúc làng
xã. Và chính cái cấu trúc của làng xã tiểu nông này là cơ chế đẻ ra Chí
Phèo, đẻ ra hiện tượng Chí Phèo.
Được chiếu rọi bởi ánh sáng của cái nhìn đó, hình tượng Chí Phèo bỗng
vụt lớn lên, bước ra khỏi mảnh đất chật hẹp của một làng nói chung nào
đó, để rồi lấy vóc dáng tạo nên xã hội. Đồng thời và ngược hướng với sự
phát triển theo chiều kích vĩ mô trên, hình tượng Chí Phèo còn phát
triển theo chiều kích vi mô. Nó thu nhỏ lại từ diện mạo cụ thể đến vô
diện mạo, từ hữu hình đến vô hình. Nó tạo thành một cái gọi là chất chí
phèo, gia nhập họ hàng với những chất AQ, chất Oblomob, chất Đông Ky
Sốt… lẩn quẩn đâu đó trong mỗi con người, mà đôi khi trong những điều
kiện nhất định, người ta thoáng nhìn thấy, thoáng nghe thấy một hình
dáng, một hành vi, một sự ăn nói kiểu Chí Phèo… Chí Phèo sống với chúng
ta, sống giữa chúng ta, sống trong chúng ta vậy.
Giáo sư Đỗ Lai Thúy
Trích “Phân tâm học và tính cách dân tộc”
(Tạp Chí Phía Trước)
Trình bản dự thảo Hiến pháp mới
Hôm nay (8/4), bản dự thảo Hiến
pháp mới nhất sẽ được trình Ủy ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Trong tuần qua, ban biên tập đã
khẩn trương phân loại, tổng hợp các ý kiến đóng góp của nhân dân. Bản dự thảo
mới nhất sau khi trình lên Ủy ban dự thảo sẽ tiếp tục được phân tích, góp ý
trước khi trình Ủy ban Thường vụ QH giữa tháng này.
UB TƯ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức nhiều hội nghị lấy ý kiến góp ý về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Ảnh: Minh Thăng |
Cũng theo kế hoạch, bản dự thảo
sẽ được trình tại Hội nghị Trung ương đầu tháng 5 tới, sau đó sẽ được xem xét,
cho ý kiến tại kỳ họp Quốc hội.
Thường trực Ban Biên tập dự kiến
sẽ có báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh sửa, bước đầu sẽ đưa ra một dự thảo mới
trên cơ sở tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân.
Tháng trước, tại Hà Nội, ban biên
tập dự thảo đã trình phiên họp đại biểu QH chuyên trách bản báo cáo giải trình
sau 2 tháng tiếp nhận ý kiến nhân dân. Theo lập luận của ban biên tập, hầu hết
các ý kiến đều đồng tình cơ bản với những nội dung chính của dự thảo. Với những
góc nhìn khác (về điều 4, sở hữu tư nhân về đất đai, Tòa án Hiến pháp…), ban
biên tập cho rằng cứ giữ nguyên như dự thảo là phù hợp. Gần như, chỉ có một vấn
đề duy nhất được ban biên tập đưa vào “diện” sẽ nghiên cứu, tiếp thu là câu
chuyện thu hồi đất vì dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Song cho đến thời điểm hiện nay, đã có hơn 20 triệu lượt ý kiến của các tầng lớp nhân dân góp ý cho bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Người dân đã đọc rất kỹ
từng điều khoản Hiến pháp và bổ sung nhiều ý mới.
Như truyền thông đã đưa tin, ngay
tại phiên họp mới nhất của ban biên tập dự thảo Hiến pháp sửa đổi, nhiều nội
dung mà người dân góp ý đã được tiếp thu, với những thay đổi đáng chú ý. Gần đây
nhất, bản kiến nghị của Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương cũng đã được
chuyển tới Ủy ban dự thảo với nhiều đề xuất mới mẻ và cụ thể như làm rõ vai trò Chủ tịch nước; trao thực quyền cho Hội đồng Hiến pháp; viết điều 4 ngắn gọn,
đúng kỹ thuật lập hiến.
Như vậy, có cơ sở để tin rằng
hình hài bản đạo luật gốc sắp tới sẽ phản ánh được ý nguyện của nhân dân, với
những chỉnh lý và tiếp thu phù hợp. Như Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng lưu ý, việc tiếp thu ý kiến dân cần nêu rõ cơ sở, lý lẽ, có sự lập luận chặt chẽ. Đối
với những ý kiến chưa tiếp thu cần có sự giải trình với đầy đủ lý lẽ.
Lê Nhung
(VNN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét