Gò cỏ may - Vì sao tội “giết người“ được gán cho anh em họ Đoàn?
Suốt mấy ngày qua tôi cứ suy nghĩ mãi về tội danh mà các cơ quan
bảo vệ pháp luật của Hải Phòng đã gán cho anh Đoàn Văn Vươn và những
người liên quan. Cho dù chính những người trực tiếp thụ bản án cũng
thừa biết sự vô lý của nó tới mức nào.
Vụ án lại được xử đúng lúc đảng và nhà nước vẫn kiên định giữ điều 4
qui định quyền độc tôn lãnh đạo duy nhất của đảng. Cũng như muốn giữ
bằng được cái gọi là “đất đai thuộc sở hữu toàn dân…“ thực chất là sở
hữu của những người nắm quyền.
“Tội phạm” Đoàn Văn Vươn đang nghe đọc tuyên án. |
Nếu vụ án diễn ra không phải ở “xứ thiên đường… dân chủ gấp vạn lần“,
nơi có tam quyền phân lập như các “xứ giẫy chết“ thì những người chịu
trách nhiệm cao nhất trực tiếp và gián tiếp vụ cưỡng chế sai pháp luật ở
Đầm Vươn (như Đại tá Đỗ Hữu Ca là ví dụ) phải bị khởi tố và phải cúi
đầu trước vành móng ngựa về các tội xâm phạm và phá hoại tài sản của
công dân. Đó là chưa tính đến việc xả súng bừa bãi (các vết đạn trên
tường nhà) vào nơi ở hợp pháp của công dân…
Nhưng nếu như vậy thì đảng làm sao mà còn một mình một chợ muôn năm
lãnh đạo trên một đất nước có “chỉ số hạnh phúc đứng thứ hai thế giới“
được nữa. Nhiều ý kiến bày tỏ sự cám ơn kết luận của Thủ tướng Dũng.
Nhưng sự lắt léo trong cái câu chỉ đạo (kết luận) đối với lãnh đạo Hải
Phòng: “để xảy ra việc này là rất đáng tiếc”, đồng chí X vẫn không quên thòng cái câu mang tính rất định hướng: “khẩn trương đưa vụ án “giết người và chống người thi hành công vụ” ra xét xử công khai, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật”. Cho nên cái chữ “giết người và chống người thi hành công vụ” đã được đảng và nhà nước Hải Phòng đã nghiêm chỉnh thi hành qua các tội danh được tuyên cho cả gia đình họ Đoàn chăng?
Nay sau khi phiên sơ thẩm kết thúc, ta cũng không thấy ngạc nhiên lắm
khi tòa Hải Phòng vẫn giữ cáo trạng xử phạt vào tội giết người mà áp
khung hình phạt lại nằm ngoài khung tội này. Viện cớ “thân nhân tốt“ ư?
“phạm tội lần đầu và thành khẩn khai báo“ ư? Tất cả chỉ là ngụy biện.
Khi chính những người “bị hại“ (bởi cái lệnh cưỡng chế sai) cũng không
còn đòi bồi thường và không muốn án nặng cho những người đã bắn súng
hoa cải vào mình.
Có người cho rằng cơ quan bảo vệ pháp luật Hải Phòng đã “giơ cao đánh
khẽ“ trong phiên sơ thẩm này. Nhưng nếu ai theo dõi sát mấy ngày xử án
thì đều thấy việc các quan tòa chỉ tập trung vào cáo trạng “giết người“
của anh em ông Vươn mà lờ đi cái nguyên nhân sai trái dẫn tới sự phản
kháng ấy. Những lời khai của bị can như hành vi tra tấn, bức cung, ép
cung và ép ký khống vào bản cung giấy trắng và hành vi nhận hối lộ của
điều tra viên. Cũng như những câu hỏi của luật sư về việc xác định lực
lượng cưỡng chế mang vũ khí và các công cụ hỗ trợ như đi trấn áp tội
phạm chứ không phải đơn thuần là thi hành một công vụ hành chính là
đúng hay sai? Các yêu cầu cụ thể và quan trọng ở một vụ án “giết người“
như: giám định lại kích cỡ vỏ đạn, xác định ai bắn trước và các vết
đạn trên tường nhà ông Qúy được bắn khi nào… đều không được chủ tọa đáp
ứng một cách minh bạch ở một phiên xử được nhiều người quan tâm như
phiên tòa này.
Cụ Lê Hiền Đức và anh chị em ở Hà Nội tới thăm và động viên gia đình anh Vươn ngay sau phiên xử sơ thẩm… |
Chính vì những bất cấp trên mà nhiều ý kiến nhận định rằng còn nhiều hệ
lụy nghiêm trọng nữa. Cho dù chính quyền đã tỏ ra nỗ lực nhiều để “an
dân“ và trấn yên dư luận và khép lại vụ án lịch sử này. Nhưng qua cách
hành xử của chính quyền như thượng dẫn, chắc chắn phiên tòa sẽ không
dừng lại. Khi những lao động chủ lực của họ Đoàn vẫn bị buộc tội “giết
người“ và lâm vào vòng lao lý. Họ sẽ tiếp tục kháng cáo. Đó chính là
điều mà những người cầm quyền không hề mong đợi. Cho dù công lý của
tầng lớp cai trị không bao giờ nương nhẹ với đám con ong cái kiến cứng
đầu. Nhưng bị dồn vào bước đường cùng. Khi cái sợ hãi đã trở nên bão
hòa thì con người ta không còn cảm thấy khiếp đảm nữa. Tức nước vỡ bờ
chắc chắn sẽ xẩy ra. Tới lúc đó những người cầm quyền u mê có hối thì
cũng không còn kịp nữa. Và kết cục của vụ án “Đầm Nọc Nạn mới“ ở Cống
Rộc, Tiên Lãng, Hải Phòng sẽ là tiền đề cho một “cuộc khởi nghĩa nông
dân“ (nhận định của KTS Trần Thanh Vân) chắc chắn sẽ xẩy ra vào một
ngày không xa!
Gò cỏ may
(Blog Gò cỏ may)
Ngô Minh - Một nền Tư pháp không minh bạch
Đoàn Văn Vươn tại tòa |
Thế là bản án “giết người”, “chống người thi hành công vụ” đối với Đoàn
văn Vươn và anh em nhà ông đã được Tòa án Nhân dân Hải Phòng tuyên, qua 3
ngày xử án. 5 năm tù giam đối với Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Quí, 3
năm sáu tháng đối với Đoàn Văn Sinh, hai năm đối với Đoàn Văn Vệ. Hai
người vợ của ông Vươn và ông Quí bị cáo buộc tội chống người thi hành
công vụ, bà Nguyễn Thị Thương lãnh 15 tháng tù treo, bà Phạm Thị Hiền 18
tháng tù treo. Trong chương trình VTV1 tối ngày 5, BTV VTV sau khi
chiếu hình vài người dân, đã bình luận rằng :” Bản án đã được nhân dân
đồng tình”. Đúng là trên hô dưới ủng, nói lấy được. Có điều mức án 5 năm
tù không phải là mức án tối thiểu của tội “giết người”. Đó là một sơ
hở do lúng túng trong “sắp xếp vụ án” để bảo vệ chính thể đã lộ ra.
Thực ra muốn xét xử vụ án Đoàn Văn Vươn phải truy tìm căn nguyên ban đầu là “cố tình cưỡng chế sai để chiếm đất, chiếm đầm của anh Vươn của đám lãnh đạo huyện Tiên Lãng và những người đứng đằng sau- đây mới là tội ác lớn bao trùm lên cả vụ án”. Không có cái sai đó thì sẽ không có chuyện anh em Đoàn Văn Vươn chống đối, cài mìn, bắn sung hoa cải.. Phần hệ quả, tức phần ngọn xử trước với tội “giết người”, “chống thi hành công vụ”. Vậy anh em ông Đoàn Văn Vươn có tội thực không ? Sao TAND Hải Phòng lại chia vụ án thành hai phần, xử riêng, để phi tang tội ác mà những kẻ cầm quyền lộng hành ở Tiên Lãng đã phạm tội với dân – đó là sự thiếu minh bạch của một nền tư pháp không “do dân, vì dân” như tuyên truyền ! Cho nên muốn xử vụ án này phải xử chung 2 phần của vụ án hoặc xử vụ “ăn cướp đất của dân” trước.
Theo tôi, Đoàn Văn Vươn không có tội , mà có thành tích vì đã “báo động cho Đảng và Chính quyền biết có một bọn cướp ngày đã hùng hổ dùng quân đội và công an , công khai giữa ban ngày cướp đầm thủy sản của họ. Đây là sự thật không thể chối cãi vì bọn cướp ấy đã bị bắt tù. Chống cướp để bảo vệ tài sản cũng như nơi ở của mình là quyền tự vệ chính đáng của mỗi người dân được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Dù cho Đoàn Văn Vươn có nổ súng vào bọn cướp gây chết người thì đấy cũng không thể gọi là “vụ án giết người” được, huống chi anh em Đoàn Vươn Vươn chi dùng súng hoa cải để tự vệ.
Hơn nữa bọn cướp có tổ chức ấy đã hùng hổ nổ súng vào căn nhà ông Đoàn Văn Vươn, nằm ngoài khu vực được gọi là “cưỡng chế”, điều này đã không được Viện kiểm sát Hải phòng đưa vào bản án. Tại sao ? Đoàn Văn Vươn và anh em mình “ không những chỉ bị dồn vào bước đường cùng về mặt pháp lí bởi những người cầm quyền ở huyện Tiên Lãng, đã dồn ép họ, thậm chí đã lừa họ kí vào những văn bản để lấy lại đất của họ một cách sai trái" mà "họ còn bị dồn đến đường cùng trong sự việc rất cụ thể vào buổi sáng hôm cưỡng chế" khi hơn 100 người thuộc quân đội và công an có vũ trang, "có cả chó để săn đuổi, và bắt bớ họ." ( ý kiến Luật sư Lê Công Nhân). Bọn này mới phải chịu tội “giết người” chứ không phải anh em nhà ông Đoàn Văn Vươn. Đúng là một bản án ngược !
Từ trong bản chất, vụ cưỡng chế sai trái đối với gia đình anh Đoàn Văn Vươn không thể gọi là “công vụ”. Đây là âm mưu cướp đất của một số quan tham được tính toán từ trước – thì phải gọi tên khác như “vụ cướp” hay ” gì gì đó. Cho nên ghép vợ anh Vươn, anh Quý vào tội :” Chống người thi hành công vụ” là hoàn toàn sai trái. Những chiến sĩ bộ đội công an và cả những con chó thực thi lệnh phá nhà, cướp đất do bọn lãnh đạo Tiên Lãng điều đi không phải là “người thi hành công vụ”. Họ bị cấp trên lừa dối, lợi dụng họ để làm giàu, nên họ thật đáng thương. Vì quan điểm đó mà có người bị dính đạn hoa cải đã không đòi “bồi thường sức khỏe” đối với gia đình anh Vươn như Tòa án gợi ý. Đó là những người đứng về lẽ phải, đáng ca ngợi.
Từ vụ án Đoàn Văn Vươn, suy nghĩ thêm về CẢI CÁCH TƯ PHÁP ở nước ta. Cải cách Tư pháp không phải là việc chuyển dịch cán bộ, không phải là hạn chế hay tăng quyền xét xử của tòa án các cấp. Mà cải cách Tư pháp trước hết là TÒA ÁN PHẢI XÉT XỬ VÌ SỰ THẬT, VÌ CÔNG LÝ. TAND Hải Phòng chia vụ Đoàn Văn Vươn thành hai phần là không minh bạch, không vì công lý. Vụ án tiếp theo sử các quan chức Tiên Lãng sắp tới sẽ là vụ án về tội ”Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” là không đúng với bản chất vụ việc. Bọn chúng là một băng cướp có tổ chức, có bài bản, có trên có dưới, quyết tâm cướp cho bằng được đầm thủy sản của anh Vươn, đuổi anh ra khỏi nơi ở của mình. Cướp thì không thể gọi là “Gây hậu quả nghiêm trọng” được.
Phải phán xử như thế thì mới mang lại công bằng, công lý cho người bị hại thấp cổ bé họng, mới đưa lại chút ít niềm tin của dân đối với Đảng và Nhà nước này.
Từ suy nghĩ về nền tư pháp trong sạch, văn minh , không phải cố ý so sánh vụ án này với vụ án khác , nhưng tôi nghĩ về vụ án Đoàn VĂn Vươn, vụ án Cù Huy Hà Vũ, tôi cứ nghĩ đến một vụ án lớn hơn. Đó là vụ án Nguyễn Ái Quốc- Tống Văn Sơ ở Hồng Kông . Biết Nguyễn Ái Quốc là “ phần tử nguy hiểm”, mật thám Pháp ở Đông Dương và mật thám Anh ở Hồng Kông đã phối hợp vây ráp, bắt lén Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn Sơ ở số nhà 186 Tam Kung - Hương Cảng (6-6-1931). Luật sư Lôdơbi (Francis Henry Loseby) - một luật sư tiến bộ người Anh ở Hồng Kông . Luật sư đã tìm cách bào chữa và ngăn cản âm mưu của chính quyền Hồng Kông giao nộp Nguyễn Ái Quốc cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương
Luật sư Gien Kin (F.C. JenKin), người cộng sự thay mặt luật sư Lôdơbi bào chữa trước toà cho Tống Văn Sơ suốt chín phiên đã vạch ra những điểm sai trái, vi phạm luật của chính quyền Hồng Kông. Và phiên cuối cùng - phiên thứ chín (12-9-1931), Tòa đã cho phép kháng án lên Hội đồng Cơ mật và chỉ thị rằng: hồ sơ phải được chuẩn bị và gửi đi trong vòng ba tháng. Đuối lý, luật sư đại diện Bộ Thuộc địa Anh đã tìm cách thoả thuận với luật sư của Tống Văn Sơ. Kết quả của cuộc thoả thuận (vẫn thực hiện lệnh trục xuất của Thống đốc Hồng Kông, nhưng hủy bỏ lệnh phải đi trên một con tàu của Pháp, đến một địa điểm thuộc lãnh thổ của Pháp, mà được tự do lựa chọn nơi mình đến) đã được trình lên nhà Vua, được nhà Vua đồng ý. Toà án Viện Cơ mật Hoàng Gia Anh đã đồng ý trả tự do cho Tống Văn Sơ.
Không có nền tư pháp minh bạch, vì CON NGƯỜI, vì CÔNG LÝ CAO THƯỢNG, tôn trọng ý kiến của luật sư bào chữa, lấy đạo lý, văn minh làm đầu, mà chỉ có nền tư pháp nhỏ nhen, tòa án xử theo nhũng “bản án bỏ túi ” đã định trước vì những mục tiêu tầm thường , thì Cụ Hồ làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nhà cấm quyền Pháp Ở Đông Dương thời ấy, để trở thành Lãnh tụ Vĩ Đại của Việt Nam !. Tôi nghĩ Bộ tư pháp Việt Nam nên cải cách tự pháp triệt để theo hướng đó.
Đoàn Văn Vươn là một người cựu chiến binh, một người có học, một nông dân chất phác, đã bị bức hại không chịu nổi, phải đứng lên tự bảo vệ mình. Đó là quả bom lớn, bài học lớn cho Đảng và Chính thể này, nếu còn muốn xây dựng một xã hội “ dân chủ, công bằng, văn minh” như đã tuyên truyền. Không nghiêm túc nhìn nhận sự nguy hiểm của vấn đề này, vẫn xử vụ án áp đặt với người bị hại, bảo vệ bọn cướp ngày, thì nhất định sẽ còn nhiều vụ Đoàn Văn Vươn trong tương lai.
Thực ra muốn xét xử vụ án Đoàn Văn Vươn phải truy tìm căn nguyên ban đầu là “cố tình cưỡng chế sai để chiếm đất, chiếm đầm của anh Vươn của đám lãnh đạo huyện Tiên Lãng và những người đứng đằng sau- đây mới là tội ác lớn bao trùm lên cả vụ án”. Không có cái sai đó thì sẽ không có chuyện anh em Đoàn Văn Vươn chống đối, cài mìn, bắn sung hoa cải.. Phần hệ quả, tức phần ngọn xử trước với tội “giết người”, “chống thi hành công vụ”. Vậy anh em ông Đoàn Văn Vươn có tội thực không ? Sao TAND Hải Phòng lại chia vụ án thành hai phần, xử riêng, để phi tang tội ác mà những kẻ cầm quyền lộng hành ở Tiên Lãng đã phạm tội với dân – đó là sự thiếu minh bạch của một nền tư pháp không “do dân, vì dân” như tuyên truyền ! Cho nên muốn xử vụ án này phải xử chung 2 phần của vụ án hoặc xử vụ “ăn cướp đất của dân” trước.
Theo tôi, Đoàn Văn Vươn không có tội , mà có thành tích vì đã “báo động cho Đảng và Chính quyền biết có một bọn cướp ngày đã hùng hổ dùng quân đội và công an , công khai giữa ban ngày cướp đầm thủy sản của họ. Đây là sự thật không thể chối cãi vì bọn cướp ấy đã bị bắt tù. Chống cướp để bảo vệ tài sản cũng như nơi ở của mình là quyền tự vệ chính đáng của mỗi người dân được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Dù cho Đoàn Văn Vươn có nổ súng vào bọn cướp gây chết người thì đấy cũng không thể gọi là “vụ án giết người” được, huống chi anh em Đoàn Vươn Vươn chi dùng súng hoa cải để tự vệ.
Hơn nữa bọn cướp có tổ chức ấy đã hùng hổ nổ súng vào căn nhà ông Đoàn Văn Vươn, nằm ngoài khu vực được gọi là “cưỡng chế”, điều này đã không được Viện kiểm sát Hải phòng đưa vào bản án. Tại sao ? Đoàn Văn Vươn và anh em mình “ không những chỉ bị dồn vào bước đường cùng về mặt pháp lí bởi những người cầm quyền ở huyện Tiên Lãng, đã dồn ép họ, thậm chí đã lừa họ kí vào những văn bản để lấy lại đất của họ một cách sai trái" mà "họ còn bị dồn đến đường cùng trong sự việc rất cụ thể vào buổi sáng hôm cưỡng chế" khi hơn 100 người thuộc quân đội và công an có vũ trang, "có cả chó để săn đuổi, và bắt bớ họ." ( ý kiến Luật sư Lê Công Nhân). Bọn này mới phải chịu tội “giết người” chứ không phải anh em nhà ông Đoàn Văn Vươn. Đúng là một bản án ngược !
Từ trong bản chất, vụ cưỡng chế sai trái đối với gia đình anh Đoàn Văn Vươn không thể gọi là “công vụ”. Đây là âm mưu cướp đất của một số quan tham được tính toán từ trước – thì phải gọi tên khác như “vụ cướp” hay ” gì gì đó. Cho nên ghép vợ anh Vươn, anh Quý vào tội :” Chống người thi hành công vụ” là hoàn toàn sai trái. Những chiến sĩ bộ đội công an và cả những con chó thực thi lệnh phá nhà, cướp đất do bọn lãnh đạo Tiên Lãng điều đi không phải là “người thi hành công vụ”. Họ bị cấp trên lừa dối, lợi dụng họ để làm giàu, nên họ thật đáng thương. Vì quan điểm đó mà có người bị dính đạn hoa cải đã không đòi “bồi thường sức khỏe” đối với gia đình anh Vươn như Tòa án gợi ý. Đó là những người đứng về lẽ phải, đáng ca ngợi.
Từ vụ án Đoàn Văn Vươn, suy nghĩ thêm về CẢI CÁCH TƯ PHÁP ở nước ta. Cải cách Tư pháp không phải là việc chuyển dịch cán bộ, không phải là hạn chế hay tăng quyền xét xử của tòa án các cấp. Mà cải cách Tư pháp trước hết là TÒA ÁN PHẢI XÉT XỬ VÌ SỰ THẬT, VÌ CÔNG LÝ. TAND Hải Phòng chia vụ Đoàn Văn Vươn thành hai phần là không minh bạch, không vì công lý. Vụ án tiếp theo sử các quan chức Tiên Lãng sắp tới sẽ là vụ án về tội ”Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” là không đúng với bản chất vụ việc. Bọn chúng là một băng cướp có tổ chức, có bài bản, có trên có dưới, quyết tâm cướp cho bằng được đầm thủy sản của anh Vươn, đuổi anh ra khỏi nơi ở của mình. Cướp thì không thể gọi là “Gây hậu quả nghiêm trọng” được.
Phải phán xử như thế thì mới mang lại công bằng, công lý cho người bị hại thấp cổ bé họng, mới đưa lại chút ít niềm tin của dân đối với Đảng và Nhà nước này.
Từ suy nghĩ về nền tư pháp trong sạch, văn minh , không phải cố ý so sánh vụ án này với vụ án khác , nhưng tôi nghĩ về vụ án Đoàn VĂn Vươn, vụ án Cù Huy Hà Vũ, tôi cứ nghĩ đến một vụ án lớn hơn. Đó là vụ án Nguyễn Ái Quốc- Tống Văn Sơ ở Hồng Kông . Biết Nguyễn Ái Quốc là “ phần tử nguy hiểm”, mật thám Pháp ở Đông Dương và mật thám Anh ở Hồng Kông đã phối hợp vây ráp, bắt lén Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn Sơ ở số nhà 186 Tam Kung - Hương Cảng (6-6-1931). Luật sư Lôdơbi (Francis Henry Loseby) - một luật sư tiến bộ người Anh ở Hồng Kông . Luật sư đã tìm cách bào chữa và ngăn cản âm mưu của chính quyền Hồng Kông giao nộp Nguyễn Ái Quốc cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương
Luật sư Gien Kin (F.C. JenKin), người cộng sự thay mặt luật sư Lôdơbi bào chữa trước toà cho Tống Văn Sơ suốt chín phiên đã vạch ra những điểm sai trái, vi phạm luật của chính quyền Hồng Kông. Và phiên cuối cùng - phiên thứ chín (12-9-1931), Tòa đã cho phép kháng án lên Hội đồng Cơ mật và chỉ thị rằng: hồ sơ phải được chuẩn bị và gửi đi trong vòng ba tháng. Đuối lý, luật sư đại diện Bộ Thuộc địa Anh đã tìm cách thoả thuận với luật sư của Tống Văn Sơ. Kết quả của cuộc thoả thuận (vẫn thực hiện lệnh trục xuất của Thống đốc Hồng Kông, nhưng hủy bỏ lệnh phải đi trên một con tàu của Pháp, đến một địa điểm thuộc lãnh thổ của Pháp, mà được tự do lựa chọn nơi mình đến) đã được trình lên nhà Vua, được nhà Vua đồng ý. Toà án Viện Cơ mật Hoàng Gia Anh đã đồng ý trả tự do cho Tống Văn Sơ.
Không có nền tư pháp minh bạch, vì CON NGƯỜI, vì CÔNG LÝ CAO THƯỢNG, tôn trọng ý kiến của luật sư bào chữa, lấy đạo lý, văn minh làm đầu, mà chỉ có nền tư pháp nhỏ nhen, tòa án xử theo nhũng “bản án bỏ túi ” đã định trước vì những mục tiêu tầm thường , thì Cụ Hồ làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nhà cấm quyền Pháp Ở Đông Dương thời ấy, để trở thành Lãnh tụ Vĩ Đại của Việt Nam !. Tôi nghĩ Bộ tư pháp Việt Nam nên cải cách tự pháp triệt để theo hướng đó.
Đoàn Văn Vươn là một người cựu chiến binh, một người có học, một nông dân chất phác, đã bị bức hại không chịu nổi, phải đứng lên tự bảo vệ mình. Đó là quả bom lớn, bài học lớn cho Đảng và Chính thể này, nếu còn muốn xây dựng một xã hội “ dân chủ, công bằng, văn minh” như đã tuyên truyền. Không nghiêm túc nhìn nhận sự nguy hiểm của vấn đề này, vẫn xử vụ án áp đặt với người bị hại, bảo vệ bọn cướp ngày, thì nhất định sẽ còn nhiều vụ Đoàn Văn Vươn trong tương lai.
Ngô Minh
(Blog Ngô Minh)
Hiến pháp không nên quy định lực lượng vũ trang phải trung thành và bảo vệ Đảng CSVN
Vì không thấy có lý do gì phải sửa điều này trong Hiến pháp 1992. Quy
định trung thành với Đảng là mâu thuẫn với những Điều 48, 49, Cụ thể là
Điều 48 (sửa đổi, bổ sung Điều 76) Công dân có nghĩa vụ trung thành với
Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. Điều 49 (sửa đổi, bổ sung
Điều 77) Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của
công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự hoặc nghĩa vụ thay thế theo
luật định và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân. Làm nghĩa vụ quân
sự (tức là gia nhập lực lượng vũ trang), là thực hiện các Điều 48, 49
nói trên, thế mà lực lượng đó lại phải trung thành với một thực thể mà
công dân không có nghĩa vụ phải trung thành theo HP. Để giải quyết mâu
thuẫn này thì: Hoặc là, sửa Điều 48, 49 của Dự thảo như sau Điều 48:
“Công dân có nghĩa vụ trung thành với Đảng Cộng sản VN, với Tổ quốc.
Phản bội Đảng và Tổ quốc là tội nặng nhất. Điều 49 Bảo vệ Đảng Cộng sản
Việt Nam và Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công
dân…
Nó phi lý đến nỗi không ai có thể chấp nhận nổi, kể cả những kẻ đang to
mồm nhất về v/đ này cũng không dám. Chỉ còn một cách: Giữ các Điều khoản
này như HP 1992
(Cùng viết HP)
Nhóm Cùng Viết Hiến Pháp gửi đề xuất
Cuộc trưng cầu ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được kéo dài tới tháng 9/2013
Hồi đầu tháng này, nhóm Cùng Viết Hiến Pháp đã gửi một số ý kiến đóng góp và Những đề xuất
bổ sung, sửa đổi các điều khoản cụ thể trong Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp 92 tới Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Quốc hội
Việt Nam.
Nhóm này do các giáo sư Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn và cựu
Tổng Biên tập báo VietnamNet Nguyễn Anh Tuấn khởi xướng, trưng
cầu ý kiến thông qua trang mạng Bấm Cùng Viết Hiến Pháp trong hai tháng qua.
GS Ngô Bảo Châu là một trong những người khởi xướng trang Cùng viết Hiến pháp |
Các đề xuất của nhóm Cùng Viết Hiến Pháp liên quan tới sửa
đổi 29 điều trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và thêm một điều
mới.
Đáng chú ý nhất có thể nói là các đề xuất sửa đổi một số
điều trong Chương I, hiến định Chế độ chính trị của nước
Việt Nam.
Trong đó, trang Cùng Viết Hiến Pháp đề nghị sửa Điểm 1, Điều 2
thành:"Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước chỉ được làm những gì luật
pháp cho phép, người dân được làm tất cả những gì luật pháp không
cấm".
Điểm 2: "Các cơ quan nhà nước phải phối hợp và giám sát nhau trong
việc thực hiện chức năng độc lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp".
Đặc biệt, Điều 4 hiến định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhóm Cùng Viết Hiến Pháp đề nghị sửa ba điểm.
Điểm 1: "Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị nhận trách nhiệm
lãnh đạo nhà nước do nhân dân ủy thác thông qua quá trình bầu cử tự
do. Đảng Cộng sản Việt nam cử đại biểu của mình tham gia tranh cử vào
các chức danh của bộ máy nhà nước".
Điểm 2: "Đảng Cộng sản Việt Nam, các cơ quan và đảng viên của Đảng chấp hành hiến pháp và pháp luật".
Điểm 3: "Các hoạt động của Đảng phải chịu sự kiểm tra, giám sát của
nhân dân. Cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với các hoạt động
của Đảng được luật quy định".
Gây tranh cãi
Ngoài ra, đề xuất của Cùng Viết Hiến Pháp cũng đề nghị bỏ câu
“Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt” trong Điều 5, Chương I.
"Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị nhận trách nhiệm lãnh đạo nhà nước do nhân dân ủy thác thông qua quá trình bầu cử tự do. Đảng Cộng sản Việt nam cử đại biểu của mình tham gia tranh cử vào các chức danh của bộ máy nhà nước." - Đề xuất của Cùng viết Hiến pháp
Kiến nghị đối với Điều 42 về giáo dục có điểm: "Bậc giáo dục
tiểu học là bắt buộc và miễn phí tại các trường công lập".
Điều 70 của Dự thảo Hiến pháp, trong đó viết "Lực lượng vũ
trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam,
Tổ quốc và nhân dân" được đề nghị thay bằng Điều 45 của Hiến
pháp 1992, viết "Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc".
Việc phân tách quân đội và sự lãnh đạo của Đảng là điểm đang
gây tranh cãi. Một số kiến nghị gửi tới Quốc hội Việt Nam,
như Kiến nghị 72 do nhóm nhân sỹ trí thức trong nước khởi
xướng cũng đề xuất điều này; trong khi báo chí nhà nước đăng
nhiều bài chính luận đả phá việc "phi chính trị hóa quân
đội".
Một điểm gây tranh cãi nhiều trên các trang mạng sau khi nhóm
Cùng Viết Hiến Pháp công bố các đề xuất của mình, là sửa
đổi Điều 4 Hiến pháp.
Một số ý kiến mà BBC nhận được cho rằng đề nghị của Cùng
Viết Hiến Pháp về điều này "phi logic" và có nhiều điểm chưa
rõ như "bầu cử tự do" là thế nào; nếu dân không bầu thì "trách nhiệm
lãnh đạo" của Đảng CSVN thực hiện ra sao...
Tuy nhiên cũng có ý kiến nói rằng đây là "giải pháp mềm cho
Điều 4", "dễ được chấp thuận hơn là đề xuất bỏ hoàn toàn"
điều này.
Về sửa đổi này, nhóm Cùng Viết Hiến Pháp giải thích trong một Bấm văn bản khác,
cũng đã được gửi tới Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp
1992: "Chúng tôi cho rằng việc bổ sung Điều 4 vào Hiến pháp 1980 nói về
sự lãnh đạo của Đảng là không thực sự cần thiết, nhưng đã là một thực
tế lịch sử".
Họ viết: "Chúng tôi cũng cho rằng trong hoàn cảnh hiện tại, việc bỏ
Điều 4 có thể dẫn đến những hậu quả chưa thể lượng định đối với tiến
trình phát triển trong ổn định của đất nước".
Hiện chưa rõ phản hồi của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
1992 đối với các đề xuất của Cùng Viết Hiến Pháp.
Trong lúc đó, ngày 28/3, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng -
người cũng là Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp,
được truyền thông trong nước dẫn lời cho biết đã có 20 triệu
lượt góp ý cho Dự thảo Hiến pháp.
(BBC)
Quang Trung đại phá quân Thanh: Chiến thắng của chính nghĩa
Lưỡng đầu thọ địch
Vào thế kỷ thứ 18, xã hội Việt Nam lâm vào một tình thế vô cùng bi đát:
Đất nước đã bị chia cắt hơn 200 năm, ở miền Bắc nhà Lê thì vẫn còn tồn
tại nhưng chỉ là bù nhìn, mọi quyền hạn nằm trong tay chúa Trịnh, còn
tại miền Nam thì do chúa Nguyễn cai trị. Trong bối cảnh đó, vào năm
1771, tại Bình Định-Quy Nhơn, phong trào nông dân Tây Sơn đã nổi lên
dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà họ Nguyễn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và
Nguyễn Lữ.
Nguyễn Nhạc có đầu óc cục bộ, Nguyễn Lữ thì không có chí lớn lại thiếu
năng lực, còn Nguyễn Huệ lại là một người đủ đầy hùng tài thao lược, có
chí muốn thống nhất non sông, có tài kinh bang tế thế. Hầu như tất cả
các trận đánh lớn và mang tính quyết định của quân Tây Sơn đều do Nguyễn
Huệ chỉ huy. Chính Nguyễn Huệ đã ra quân dẹp chúa Nguyễn trong Nam và
tề chúa Trịnh Ngoài Bắc.
Phong trào Tây Sơn đến năm 1787 coi như đã lẫy lừng thanh thế, có thể
tiến tới làm chủ vận mệnh non sông. Thế nhưng, cũng chính năm ấy, anh em
nhà Tây Sơn lại xảy ra mâu thuẩn: Nguyễn Huệ muốn tiếp túc chiến đấu để
thống nhất quốc gia, còn Nguyễn Nhạc thì e ngại Nguyễn Huệ vượt tầm
kiểm soát của mình. Lãnh thổ của nhà Tây Sơn khi ấy được Nguyễn Nhạc
chia làm ba:
- Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Qui Nhơn.
- Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
- Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất Thuận Hóa trở ra đèo Hải Vân.
Mâu thuẫn đi đến mức Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ phải ra quân đánh nhau.
Rồi quân Nguyễn Huệ bao vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc buộc phải chít
khăn tang đứng trên mặt thành khóc than kể lể. Nể tình anh, Bắc Bình
Vương Nguyễn Huệ mới thu binh.
Nhân cơ hội nội bộ Tây Sơn chia rẽ, các thế lực chống Tây Sơn bèn trỗi
dậy. Ở phía nam, Nguyễn Ánh nhờ sự giúp đỡ của người Pháp, toan trở về
đánh chiếm Gia Định. Đông Định vương Nguyễn Lữ bỏ Gia Định chạy về Quy
Nhơn. Còn ở phía Bắc, mẹ con Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh phát binh
đánh Tây Sơn. Vua nhà Thanh lúc bấy giờ là Càn Long bèn nhân cơ hội đó
hạ chiếu phong cho Tôn Sỹ Nghị làm Chinh Man Đại tướng quân, điều động
quân lực của bốn tình Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu bao gồm
29 vạn người (kể cả quân lính tác chiến và dân phu phục dịch hậu cần).
Quân Thanh chia làm ba đạo tiến vào Đại Việt dưới danh nghĩa “Phù Lê
diệt Tây Sơn”. Càn Long còn đặc cử Phúc Khang An chuyên trách hậu cần.
Phúc Khang An cho thiết lập trên 70 đồn quân lương to lớn và kiên cố từ
hai đường Quảng Tây và Vân Nam tới Thăng Long. Riêng chặng đường từ ải
Nam Quan tới Thăng Long, Phúc Khang An cho thiết lập 18 kho quân lương
để phục vụ cho đội quân Nam tiến.
Như vậy, Quân đội Tây Sơn đang đứng trước cái cảnh lưỡng đầu thọ địch:
cái họa Nguyễn Ánh ở miền Nam, và đặc biệt là cái họa ngoại xâm ở miền
Bắc. Vận nước như chỉ mành treo chuông, gánh nặng đè lên vai Nguyễn Huệ
quả thật quá lớn, và nếu không phải một thiên tài quân sự như Nguyễn Huệ
thì khó lòng mà lo liệu vuông tròn cho được.
Tượng Nguyễn Huệ - Quang Trung trong "Tây Sơn Tam Kiệt" - bộ ba tượng anh em Tây Sơn ở Bảo tàng Quang Trung (tỉnh Bình Định) DR Lê Phước |
Tiến quân thần tốc
Nguyễn Huệ đứng trước hai lựa chọn: Nam tiến hoặc Bắc tiến. Cả hai mặt
trận đều nước sôi lửa bỏng và cần đến ông, tuy nhiên, nếu ông quá sa vào
một mặt trận thì mặt trận kia sẽ vỡ. Tuy nhiên cái họa xâm lăng ở
phương Bắc là cần kíp hơn. Nguyễn Huệ bèn sắp đặt người cố thủ tại Gia
Định, đồng thời chuẩn bị xuất quân Bắc tiến cự quân Thanh. Mặc dù nhận
thức được quân Mãn Thanh phía Bắc là nguy cơ lớn hơn và cấp bách hơn
nhưng Nguyễn Huệ không thể đánh địch theo chiến thuật trường kỳ như
triều đại nhà Lý, nhà Trần trước đó đã làm để chống quân phương Bắc. Vì
vậy ông quyết định chọn cách đánh thần tốc để sớm giải quyết chiến
trường miền Bắc.
Ngày 17/2/1788 quân Tây Sơn trấn giữ Thăng Long đã theo kế sách của Ngô
Thì Nhậm làm kế không thành, rút toàn bộ quân thủy bộ về đóng ở Biện Sơn
và Tam Điệp (phía nam tỉnh Ninh Bình). Vì thế quân Thanh vào chiếm
thành Thăng Long một cách dễ dàng, không mất một mũi tên. Do quá dễ dàng
nên quân Thanh bắt đầu kiêu ngạo, Tôn Sỹ Nghị còn chẳng buồn truy kích
Tây Sơn.
Tuy nhiên, trước những cảnh báo của vua tôi Lê Chiêu Thống, Tôn Sỹ Nghị
cũng bắt đầu thấy sợ nên sau khi tiến binh vào Thăng Long đã cho chia
quân ra đóng ở nhiều điểm để tiện bề hỗ trợ nhau khi tác chiến. Đạo quân
Lưỡng Quảng đóng tại những khu bãi rộng hai bên bờ sông Hồng, bắc cầu
phao qua sông. Quân của Sầm Nghi Đống đóng tại gò Khương Thượng (Đống
Đa). Đại bản doanh của Tôn Sỹ Nghị đóng ở cung Tây Long, quân “Cần
Vương” của Lê Chiêu Thống đóng ở nội thành. Đạo quân Vân Nam đồn trú tại
Sơn Tây. Tôn Sỹ Nghị hạ lệnh sẽ tấn công Tây sơn vào ngày mùng 6 tết.
Ngày 29/11/1788 (âm lịch), đại quân của vua Quang Trung ra tới Nghệ An,
dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng
quân số lên tới 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân cùng với 200 voi chiến.
Vua Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ
tinh thần và ý chí quyết chiến quyết thắng của ba quân. Ngay sau lễ
duyệt binh, quân Tây Sơn trực chỉ Bắc Hà, và ngày 20/12/1788 âm lịch thì
đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, vua Quang Trung hẹn ngày mồng 7
Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn tết tại Thăng Long.
Đêm 30 tết, quân Tây Sơn chính thức tấn công và lần lượt hạ các đồn Gián
Khẩu, Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến
đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa
đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng
cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó một cánh quân khác của Tây
Sơn bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng (Đống Đa) khiến quân Thanh không
kịp trở tay. Tướng chỉ huy đồn là Sầm Nghi Đống phải tự vẫn. Sáng mồng
5, vua Quang Trung mới tấn công và hạ đồn Ngọc Hồi. Trước đó, Tôn Sỹ
Nghị cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn
đuổi theo, Tôn Sỹ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông
chết rất nhiều đến nỗi mà sử sách ghi lại là: làm nghẽn cả dòng chảy của
con sông.
Như vậy, chỉ trong vòng 40 ngày kể từ khi hay tin cấp báo từ phía Bắc,
vua Quang Trung đã đập tan 29 vạn quân Thanh, cứu non sông khỏi cái họa
ngoại xâm phương Bắc.
Một chiến thắng của chính nghĩa, được lòng người thuận ý trời
Quân Tây Sơn chỉ có 10 vạn phải chiến đấu với gần 30 vạn quân Thanh, tức
là lấy một chọi ba. Thế nhưng, vua Quang Trung đã dành chiến thắng vang
dội, đánh tan tác quân xâm lược, khiến Tô Sỹ Nghị phải chạy trối chết.
Xác của quân thù ngổn ngang, đến mức mà tương truyền sau chiến thắng,
các xác này được gom lại thành nhiều gò đống lớn, sau đó có đa mọc um
tùm nên mới gọi là Gò Đống Đa. Nhà thơ Ngô Ngọc Du thời đó đã phải thốt
lên thán phục:
Thánh nam xác giặc mười hai đống
Ngời sáng anh hùng đại võ công
Ngời sáng anh hùng đại võ công
Nguyên nhân nào đã dẫn đến chiến thắng vĩ đại này? Ta có thể tóm lược mấy ý như sau:
1) Thần tốc và bí mật
Quân Thanh tiến vào Thăng Long vào ngày 17/11/1788, đến ngày 21/11 thì
tin tức mới về đến Phú Xuân. Ngày 25/11, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế.
Trong khi đó Tôn Sỹ Nghị quyết định ngày mùng 6 tiến binh đánh Tây Sơn.
Như vậy, vua Quang Trung chỉ còn trên dưới 40 ngày để ra để điều binh ra
tới Thăng Long tấn công quân Thanh. Phòng Tuyến đầu tiên của quân Thanh
là Gián Khẩu tại Ninh Bình cách Hà Nội độ khoảng 90 cây số (180 dặm
Trung Quốc). Từ Phú Xuân (Huế) ra đến Hà Nội có khoảng trên 600 km (1
200 dặm). Như vậy, để ra đến được Ninh Bình tấn công đồn Gián Khẩu vào
ngày 30 tháng Chạp, quân đội của vua Quang Trung có trên dưới 35 ngày
đường. Trừ 10 ngày tuyển binh ở Nghệ An, thì quân Tây Sơn chỉ còn có 25
ngày đường cho khoảng hơn 1000 dặm (trên 500 km). Còn nếu lấy Thăng Long
làm đích, thì tính đến ngày mùng 5 tết, quân Tây Sơn phải vượt trên 600
km đường bộ trong 40 ngày, tức phải đi liên tục bình quân 15 km (30
dặm)/ngày.
Ta thấy, điều động một đội quân 10 vạn người và hơn 200 thớt voi mà phải
đi liên tục và nhanh chóng như vậy thật là điều hi hữu. Nhưng vua Quang
Trung đã làm được cái điều hi hữu ấy. Trong khi hành quân, yếu tố bí
mật của quân đội Tây Sơn là tuyệt đối, nó kín đến mức mà các nhà sử học
ngày nay vẫn còn tranh cãi về cách thức hành quân thần tốc của vua Quang
Trung. Thế nhưng cơ bản có hai giả thuyết. Một là cho rằng quân lính đã
chia thành nhiều tốp, mỗi tốp có 3 người, ba người này thay phiên
khiêng nhau để một người được nghỉ, và như thế có thể đi liên tục. Một
số người khác lại cho rằng, vào thời điểm đó, từ Huế ra Thăng Long chỉ
có hai tuyến đường chính: Đó là đường dịch trạm hay đường thiên lý (gần
trùng với Quốc lộ 1A ngày nay) và tuyến Thượng đạo, men theo đồi núi
trung du phía Tây, giãn cách với Quốc lộ 1A từ 30 – 40km đến 70 – 80km,
và vua Quang Trung đã chọn đường Thượng Đạo để tránh tay mắt kẻ thù.
Cuộc tranh cãi vẫn chưa ngã ngũ. Thế nhưng, sự thật càng khó truy tìm
chừng nào, thì ta càng thấy cái thiên tài quân sự của vua Quang Trung
lớn chừng ấy. Và trên thực tế, điều mà thế hệ sau của ông phải vắt óc
suy nghĩ vẫn chưa ra thì ông đã làm được. Chính nhờ hành quân thần tốc
và tuyệt mật, nên quân đội Tây Sơn đã tạo được thế tấn công bất ngờ,
khiến giặc không kịp trở tay. Sử sách vẫn còn ghi lại những lần tấn công
của quân Tây Sơn vào đồn giặc mà quân giặc phải bàng hoàng chưa hiểu
chuyện gì đang xảy ra.
2) Được lòng ba quân và dân chúng
Đây là nguyên nhân chính yếu dẫn đến chiến thắng diệu kỳ của vua Quang
Trung, bởi nếu có hành quân thần tốc cỡ nào mà không được dân ủng hộ,
không được ba quân hết lòng chiến đấu thì cũng không thể thành công cho
được.
Ta nhớ lại rằng, khi ra đến Nghệ An, vua Quang Trung cho dừng binh để
tuyển mộ thêm quân sĩ và tổ chức lễ duyệt binh. Trước ba quân tướng sĩ,
ông đã dõng dạc nói: “Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện đang ở
Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao
nấy, tất cả đều được phân biệt rõ ràng, Bắc Nam hai phương chia nhau cai
trị, người phương Bắc không phải nòi giống ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời
Hán đến nay, chúng đã bao phen cướp bóc nước ta, cho nên người mình
không ai chịu nổi, đều muốn đánh đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ
vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng
Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ... các ngài không nỡ ngồi yên nhìn chúng
làm điều tàn bạo, cho nên đã thuận theo lòng người mà dấy nghĩa binh,
đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về hẳn bên phương
Bắc”.... Lợi hại và được thua đều là chuyện cũ rành rành của các triều
đại trước. Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam ta mà đặt thành
quận huyện của chúng, không biết trông gương các đời Tống, Nguyên, Minh
thuở xưa, vì thế ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng...”.
Lời nói trên đã thể hiện quá rõ ràng tinh thần của vua Quang Trung là:
Nước Việt Nam là của người Việt Nam. Đây cũng là tinh thần xuyên suốt
mấy ngàn năm lịch sử của người Việt Nam, đã từng được danh tướng Lý
Thường Kiệt đời Lý tuyên bố trong bài thơ thần “Nam quốc sơn hà”, và
cũng đã được Nguyễn Trãi đời Hậu Lê nêu bật trong “Bình Ngô Đại Cáo”.
Vua Quang Trung đã thấm nhuần tinh thần đó, và chiến đấu cũng trong tinh
thần đó. Đây là chân lý không thể phủ nhận của dân tộc Việt Nam đã được
khẳng định qua biết bao thế hệ, và đã được vua Quang Trung kế thừa.
Trong lễ duyệt binh nói trên, vua Quang Trung còn tuyên bố trước ba quân mục đích của cuộc Bắc tiến như sau:
Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng,
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Tức là:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó ngựa xe tan tác
Đánh cho nó manh giáp chẳng còn
Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ
Đánh cho để đen răng,
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Tức là:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó ngựa xe tan tác
Đánh cho nó manh giáp chẳng còn
Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ
Đã quá rõ ràng, mục tiêu của vua Quang Trung trong cuộc chiến chống quân
Thanh là để gìn giữ những tập tục riêng của người Việt (giữ tóc dài và
nhuộm răng đen), và đặc biệt là để khẳng định thêm một lần nữa cái chân
lý: Người Việt làm chủ nước Việt, nếu ai xâm phạm sẽ bị đánh cho ngựa xe
tan tác, cho giáp bào tả tơi, hay như Lý Thường Kiệt nói là “sẽ bị đánh
tơi bời”. Sử cũ chép: : “Huệ dứt lời, chư quân dạ ran như sấm, rung
động cả hang núi, trời đất đổi màu. Rồi chiêng trống khua vang, quân
lính gấp rút lên đường ra Bắc”. Chi tiết này thể hiện sự ủng hộ của ba
quân đối với chủ soái Nguyễn Huệ đến dường nào.
Cộng thêm vào sự ủng hộ của ba quân đó chính là sự mong ngóng của lê dân
đối với vua Quang Trung. Sử cũ chép rằng, quân Thanh vào thành Thăng
Long ra sức cướp phá, hãm hiếp, khiến dân tình ta thán. Vua nhà Lê là Lê
Chiêu Thống không lo cảnh mất quyền tự chủ quốc gia mà chỉ biết dựa vào
thế lực ngoại bang để báo tư thù, thanh toán những người từng ủng hộ
Tây Sơn, thảm khốc đến mức mà ngay cả mẹ ông cũng phải lên tiếng than
trách. Lê Chiêu Thống thì phải chầu chực quỳ lụy Tôn Sỹ Nghị làm nhục
quốc thể đến nỗi mà người đương thời phải than với nhau rằng: “Nước nam
ta từ khi có đế vương đến bây giờ, không thấy có vua nào hèn hạ đến
thế”. Trong bối cảnh đó, nguồn hi vọng duy nhất của người dân Việt chính
là vua Quang Trung-Nguyễn Huệ.
Chưa hết, trong trận đánh Ngọc Hồi vào sáng mùng 5 tết, khi quân Tây Sơn
tấn công vào đồn Ngọc Hồi, thấy có gió bắc, quân Thanh liền dùng ống
phun lửa, khói tỏa mù trời, cách gang tấc cũng không nhìn thấy gì. Không
ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió Nam, lửa khói tạt ngược trở lại về
phía quân Thanh, làm cho chúng bị thiệt hại rất nhiều, tạo thuận lợi
cho quân Tây Sơn tấn công vào đồn. Rồi một chi tiết khác được sử cũ ghi
lại là Nguyễn Ánh ở Gia Định nghe tin quân Thanh vào Thăng Long đã sai
người chở 50 vạn cân gạo ra cho quân Thanh nhưng giữa đường gặp bão
biển, cả người và gạo đều bị đắm hết. Phải chăng những chi tiết trùng
hợp này là điềm báo rằng: Quân Tây Sơn được sự ủng hộ của đấng siêu
nhiên, tức là được lòng trời. Nói cách khác, là vua Quang Trung bên cạnh
« nhân hòa », còn được « thiên thời », mà được như thế ấy là bởi vì
cuộc chiến đấu của ông là chính nghĩa, là để bảo vệ chủ quyền thiêng
thiêng của dân tộc.
Kiên quyết chống ngoại xâm, hòa hiếu trong giao thiệp
Không chỉ là nhà quân sự thiên tài, mà trên mặt trận ngoại giao vua
Quang Trung cũng tỏ ra là người quyền biến. Nhận xét về tài năng và đức
độ của vua Quang Trung, Giáo sư sử học Trịnh Văn Thảo thuộc Đại học
Aix-Marseille (Cộng Hòa Pháp) cho rằng ông là người kiêm toàn văn võ:
Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa đánh dấu lịch sử về một người anh hùng, một
vị tướng tài năng đã chiến thắng vẽ vang trong một trận đánh không lâu
dài. Có thể nói, chiến dịch Đống Đa là một chiến dịch nhanh nhất trong
lịch sử quân sự Việt Nam. Nhờ tài điều binh khiển tướng giỏi mà Quang
Trung đã đánh bại 29 vạn quân Thanh.
Cũng xin nhắc lại rằng, trước đó Quang Trung cũng đã thể hiện tài thao
lược của mình. Như ông đã 4 lần vào chinh nam và cũng đã 4 lần chiến
thắng. Một trong những chiến thắng đó là trận đánh Rạch Gầm-Xoài Mút.
Rồi sau đó ông đã ra bắc dẹp chế độ vua Lê chúa Trịnh.
Quang Trung không chỉ là một nhà quân sự, mà ông là người kiêm toàn văn
võ. Ông biết rằng, sau khi đánh bại quân Thanh, thì sẽ có những mưu toan
trở lại của quân địch. Ông đã tìm ra một con đường ngoại giao khôn khéo
để tránh sự xâm lược lần thứ hai của nhà Thanh, tức là của một cường
quốc quá lớn đối với Việt Nam.
Giáo sư Trịnh Văn Thảo cho rằng, tài năng và đức độ của vua Quang Trung để lại nhiều bài học quý giá cho thế hệ ngày nay :
Có những bài học rất quan trọng đối với người Việt chúng ta ngày nay.
Trước tiên, ta thấy Nguyễn Huệ chỉ xưng vương sau khi đã chứng kiến cảnh
vua tôi nhà Lê chạy sang cầu viện nhà Thanh. Yêu cầu tình thế bắt buộc
ông phải xưng Hoàng đế. Đó là một hành động khôn khéo bởi nó giúp ông
đạt được lòng dân.
Thứ hai, mặc dù là một tướng tài đã đánh bại quân Thanh, nhưng ông không
quên đường lối ngoại giao để tránh nạn binh đao triền miên giữa Việt
Nam với Trung Quốc. Bài học ở đây đó là: Chúng ta phải biết dung hòa
giữa võ lực và chính trị.
Kế đến, ta thấy rằng Quang Trung là một người có hòa chí đem lại an ninh
và thịnh vượng cho đất nước. Có ba bằng chứng cho điều này. Thứ nhất,
ông biết sử dụng và lắng nghe người trí thức, tài năng. Quan hệ giữa ông
và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp là một minh chứng cho thấy một nhà cầm
quyền nhà nước biết lắng nghe lời khuyên của một nhà trí thức hoàn toàn
không tham chính. Thứ hai, Quang Trung có hoài bão sửa sang một nền
chính trị đã thối nát ở Bắc Hà dưới thời Lê-Trịnh. Thứ ba, ông muốn chấn
chỉnh lại hệ thống giáo dục đã quá u mê bắt đầu từ thế kỷ 15 dưới ảnh
hưởng của Tống Nho và khoa bảng. Ông có ý muốn dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ
chính của dân tộc, rõ ràng là một việc chưa từng có.
Giáo sư Trịnh Văn Thảo tóm lược về anh hùng Nguyễn Huệ như sau:
Quang Trung là một người bao gồm đủ ba đức tính của người quân tử thời
xưa, đó là : nhân, trí, dũng. Chỉ tiếc một điều là ông chỉ trị vì có 4
năm nên không thể thực hiện những hoài bão đó. Nếu không, tôi nghĩ rằng,
chúng ta có thể tránh được họa xâm lăng xảy đến mấy chục năm sau đó.
Điều mà giáo sư Trịnh Văn Thảo lấy làm tiếc cũng chính là suy nghĩ của
đô đốc Vũ Văn Dũng khi vua Quang Trung mất vào ngày 29/7/1792 (âm lịch):
Bố y phân tích ngũ niên trung
Mai cố thi vi tự bất đồng
Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
Bất y Đường Tống thuyết anh hùng
Mai cố thi vi tự bất đồng
Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
Bất y Đường Tống thuyết anh hùng
Dịch:
Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
Thời trước thời sau khó sánh cùng
Trời để vua ta thêm chục tuổi
Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.
Thời trước thời sau khó sánh cùng
Trời để vua ta thêm chục tuổi
Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.
Anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã bôn ba đánh Nam dẹp Bắc với bao chiến công
lừng lẫy. Thế nhưng, khi nhắc đến ông, thì người ta nghĩ ngay đến chiến
thắng Đống Đa, một chiến thắng của một nước bé nhỏ trước một cường quốc
hùng mạnh có tham vọng bá quyền, một chiến thắng khẳng định thêm một
lần nữa chân lý bất diệt của dân tộc Việt Nam là “Nam quốc anh hùng chi
hữu chủ”.
Lê Phước
(RFI)
Bộ Công an cần sớm truy xét Đại tá Đỗ Hữu Ca
Trên cơ sở những thông tin thu thập được trên các phương tiện thông tin
đại chúng trong vụ án Tiên lãng, tôi đưa ra ý kiến, quan điểm pháp lý
của riêng mình để các độc giả tham khảo, đồng thời cũng mong muốn các cơ
quan có thẩm quyền xem xét, sớm làm sáng tỏ để giải quyết những vấn đề
pháp lý còn tồn đọng, chưa được cơ quan cơ quan tham gia tố tụng quan
tâm trong vụ án.
1. Những phát biểu “lạ” của ông Giám đốc công an TP Hải Phòng
Sau khi hoàn tất việc cưỡng chế đầm nhà ông Vươn, với chiến công hiển
hách và sự “hiệp đồng tác chiến” kỳ tài của các lực lượng tham gia cưỡng
chế, ông Giám đốc công an đầy hứng khởi phát biểu trước báo giới: “Nhận
định những kẻ trong ngôi nhà2 tầng chống đối bằng cáh trải rơm dọc hai
bên đường rồi tẩm xăng, lãnh đạo công an TP đã lên phương án đốt cháy
toàn bộ. Song trên thực tế chưa dùng đến. Sau hàng loạt lượt nhả đạn,
khói bay mù mịt, lực lượng chức năng đã tiếp cận được ngôi nhà2 tầng.
Tuy nhiên 3 người đàn ông trong ngôi nhà đã biến mất từ lúc nào (?!)”.
Qua lời phát biều này, tôi thấy ông Giám đốc nhắc đi nhắc lại từ “ ngôi
nhà” tới 3 lần.Thế nhưng, sau khi dư luận không đồng tình với việc cưỡng
chế và việc phá nhà của đoàn cưỡng chế thì ông đã thay đổi “nhận thức”,
ông chuyển “ngôi nhà” thành cái “ chòi canh cá”. “ Khu vực 40,3 ha của
Đoàn Văn Vươn không được xây nhà ở cho nên dựng lên bất cứ thứ gì thì
đấy cũng chỉ là chòi trông cá … Việc thay đổi tên gọi ngôi nhà thành
chòi canh cá của ông Giám đốc nhằm mục đích gì không cần nói ra thì ai
cũng biết.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 nghị định 56/2010/NĐ –CP ngày
24/05/2010 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2007 ngày
24/06/2007 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật cư trú thì “ Nơi cư trú hợp pháp của công dân là chỗ ở hợp
pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dần là nơi
thường trú hoặc nơi tạm trú”. Gia đình ông Vươn, ông Quý sinh sống ở
đây hàng chục năm trời, mọi người trong xã đều biết, chính quyền xã cũng
biết, thế mà ông Giám đốc lại bảo đó là cái “chòi canh cá”. Cũng theo
Nghị định này, tại mục b, khoản 2 Điều 3 thì họ vẫn được cấp sổ tạm trú
mặc dù nhà của họ xây dựng trên đất nuôi trồng thủy sản, không phải đất
xây dựng nhà, khi họ chỉ cần có “ Văn bản cam kết của công dân về việc
có chỗ ở thuộc quyền sử dụng của mình và không có tranh chấp về quyền sử
dụng …”. Quyền này cũng được cũng được ghi nhận tại Điều 58 Bộ luật
dân sự 2005. Cũng trong Bộ luật này, theo Điều 163, 169, 170 thì tài sản
và quyền sở hữu của họ tại nơi cư trú cũng được pháp luật thừa nhận,
bảo vệ.
Như vậy gia đình ông Vươn, ông Quý dù có xây dựng nhà trái phép, không
phép trên mảnh đất đó thì luật pháp vẫn thừa nhận nơi cư trú là chỗ ở
hợp pháp của họ và tài sản của họ được pháp luật bảo hộ. Và dù ông Giám
đốc công an Hải phòng có thể thay đổi cách gọi “ngôi nhà” là gì đi nữa
thì nó vẫn được coi là nơi cư trú, là chỗ ở hợp pháp của gia đình ông
Quý, ông Vươn và được pháp luật bảo vệ.
Quyền được cư trú còn được quy định rất rõ tại Điều 73 Hiến pháp 1992
của nhà nước CHXHCN Việt nam:“ Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng
ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép”. Bộ luật hình sự cũng quy
định rất rõ vấn đề này tại Điều 124 về tội: “Xâm phạm chỗ ở của công
dân”. Như vậy, đoàn cưỡng chế xông vào nơi cư trú, chỗ ở của ông Quý
(nằm ngoài khu vực cưỡng chế) khi không được pháp luật cho phép, không
được gia đình ông Quý cho phép là vi phạm Điều 73 Hiến pháp 1992 và Điều
124 Bộ luật hình sự nhà nước CHXHCN Việt nam.
Mặt khác, việc xử lý phá dỡ các công trình xây dựng trái phép, không
phép phải tuân thủ theo trình tự thủ tục được quy định trong các văn bản
pháp luật về hành chính chứ không phải khi người dân xây dựng vi phạm
hành chính trong hoạt động xây dựng ..... thì chính quyền thích thì phá,
không thích thì thôi như cách nói của ông giám đốc “ Khu vực 40,3 ha
của Đoàn Văn Vươn không được xây nhà ở cho nên dựng lên bất cứ thứ gì
thì đấy cũng chỉ là chòi trông cá … Chòi trông cá xây dựng trên diện
tích đất bị thu hồi thì việc phá hay không phá không thành vấn đề” (theo
Petrotime). Với cách lập luận như thế này của ông Giám đốc công an
thành phố Hải phòng thì ông đã “quên” quá nhiều kiến thức luật và coi
thường tài sản của dân.
Đại tá Đỗ Hữu Ca |
2. Chính quyết định khởi tố vụ án “Hủy hoại tài sản” của ông Giám đốc công an đã tố cáo sự thiếu trung thực của ông Giám đốc
Cuối cùng thì ông Giám đốc công an thành phố Hải phòng cũng phải ra
Quyết định khởi tố vụ án hình sự “Hủy hoại tài sản”. Dù có hơi muộn
nhưng cũng xóa đi được những vết dơ bẩn do ông Giám đốc phết lên trên
mặt những người dân hiền lành, vô tội của vùng duyên hải đầy sóng dữ.
Lẽ ra, khi ông Giám đốc nhận được đơn tố cáo của gia đình ông Vươn, ông
Quý hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh việc một số
đối tượng phá hủy nhà của họ, lấy đi một số tài sản và trộm cắp cua, cá
trong đầm thì ông phải cho thẩm tra, xác minh để khởi tố vụ án “ Hủy
hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và Tội trộm cắp tài sản” theo
Điều 143, 138 Bộ luật hình sự của nhà nước CHXHCN Việt nam. Có như vậy
ông Giám đốc mới làm tròn trách nhiệm và khách quan trong vụ án. Đằng
này ông lại cho rằng: “ … việc cưỡng chế này được sự đồng tình rất cao
của người dân trong khu vực. Hàng trăm người ra đó chứng kiến sự việc
này đều rất ủng hộ lực lượng công an. Cho nên khi khám nghiệm hiện
trường xong, giao lại cho địa phương thì chính những người dân xung
quanh người ta vào đạp đổ phá đổ. Cho nên việc phá cái chòi ấy chúng tôi
cho kiểm tra lại thì không ai ra lệnh phá và cũng không biết ai làm bởi
nhân dân lúc ấy người ta tràn xuống rất đông” (theo Petrotime). Thật
nực cười trong lời phát biểu này. Nó nực cười ở chỗ người dân dùng chân,
tay không mà đạp đổ, phá đổ được “ngôi nhà 2 tầng” được xây dựng kiên
cố bằng bê tông, cốt thép (chắc dân vùng biển ăn nhiều đặc hải sản nên
chân tay cứng như sắt, như thép). Nó nực cười ở chỗ nhiều người phá nhà
như thế, trước mắt chính quyền địa phương, giữa thanh thiên bạch nhật
như thế mà ông Giám đốc không điều tra được ai là thủ phạm thì quả thật
chuyện chỉ có ở công an Hải phòng thời ông đương nhiệm. Trong nội dung
lời phát biểu này có nhiều vấn đề phải làm rõ. Tuy nhiên tôi chỉ đề cập
tới 3 vấn đề mà tôi quan tâm.
Vấn đề thứ nhất, ông Giám đốc cho rằng việc cưỡng chế là đúng và được
người dân ủng hộ. Nếu đúng như vậy thì việc làm của các ông thật đáng
quý, đáng hoan nghênh. Thế nhưng sự thật không như ông Giám đốc nói. Sau
khi dư luận, người dân lên tiếng, các ông đã không thể bưng bít những
việc làm sai trái của mình. Các ông đã bị lộ. Sự thật đã được lột trần.
Sự giả dối, thiếu trung thực đã bị phơi bày. Và chính quyết định khởi tố
vụ án “Hủy hoại tài sản”của ông Giám đốc đã tố cáo những lời ông nói
không đúng tới 0,000…1% sự thật. Vấn đề thứ hai, là việc đổ lỗi cho dân
phá nhà. Thật đáng hổ thẹn về việc này. Theo phát biểu của ông Giám đốc
thì người dân họ tin tưởng vào ông, ủng hộ ông trong việc cưỡng chế. Thế
mà ông lại quay lưng lại với họ, phụ bạc họ. Ông cho rằng “chính những
người dân xung quanh người ta vào đạp đổ phá đổ”. Nếu những lời ông phát
biểu là đúng sự thật thì sau Quyết định khởi tố vụ án “Hủy hoại tài
sản” của ông, họ sẽ trở thành tội phạm, trở thành các bị can trong vụ
án. Họ phải đối mặt với ông, đối mặt với những bản án phạt tù theo luật
định.
Thật may mắn là sự thật không như ông nói. Nhưng ông sẽ phải đối mặt với
những vấn đề hóc búa khác khi phải thực hiện các Quyết định khởi tố bị
can trong vụ án. Và với cương vị (Giám đốc công an TP Hải phòng) và
kinh nghiệm (trên 10 năm làm công tác điều tra) của ông, ông thừa biết
hành vi của ông có dấu hiệu vi phạm tội “Vu khống” theo Điều 122 Bộ luật
hình sự. Nếu vụ án được khởi tố và đưa ra xét xử thì với chức vụ, quyền
hạn của ông như hiện nay, khung hình phạt tù dành cho ông từ một năm
đến bảy năm theo khoản 2 của tội này. Vấn đề thứ ba, là tôi muốn đề cập
đến nghiệp vụ của ông. Hàng trăm người dân có mặt tại hiện trường chứng
kiến những kẻ phá nhà mà ông “không biết ai làm bởi nhân dân lúc ấy
người ta tràn xuống rất đông” và ông không điều tra được một kẻ nào. Như
vậy nghiệp vụ của ông có vấn đề. Giả sử có hàng trăm tên cướp xông vào
cướp bóc chính ngôi nhà của ông, ông cũng chịu bó tay, không điều tra ra
chúng vì chúng đông quá, không biết thằng nào với thằng nào.
3. Một sai phạm khác của ông Giám đốc công an Hải phòng
Tội giết người là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại Điều 8
và Điều 93 Bộ luật hình sự. Với tội danh này thì người phạm tội có
khung hình phạt cao nhất là tử hình. Do vậy theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật
tố tụng hình sự thì Cơ quan điều tra phải có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật
sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ nếu họ và người
đại diện hợp pháp không mời người nào bào chữa. Thế nhưng ông đã không
thực hiện quy định này để các Văn phòng luật sư phải lên tiếng xin được
bào chữa miễn phí. Và mãi tới một tháng sau Cơ quan điều tra mới cấp
Giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa. Như vậy ông Giám đốc công
an đã vi phạm Bộ luật tố tụng hình sự.
4. Những vấn đề pháp lý của vụ án cần được xem xét
Như chúng ta đã biết, Thủ tướng chính phủ đã có kết luận sơ bộ về vụ án
Tiên lãng. Theo đó, việc ra Quyết định thu hồi đất, Quyết định cưỡng
chế, tổ chức cưỡng chế của UBND huyện Tiên lãng là trái với các quy định
của pháp luật hiện hành. Từ những việc sai trái này họ đã để lại khá
nhiều hậu quả pháp lý. Ngoài những hậu quả pháp lý đã được cơ quan tham
gia tố tụng xem xét thì các cơ quan này cần phải xem xét thêm những vấn
đề pháp lý dưới đây.
Cần phải xác minh có hay không có một số đối tượng tham gia đoàn cưỡng
chế đã lấy đi một số tài sản của gia đình ông Vươn, ông Quý và có hay
không có việc mất cua, cá, hoa mầu trong đầm ông Vươn để xem xét, làm cơ
sở khởi tố vụ án “ Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 Bộ luật hình sự.
Xem xét việc khởi tố bị can về tội “ Xâm phạm chỗ ở của công dân” theo
Điều 124 Bộ luật hình sự đối với những người đã ra lệnh cho đoàn cưỡng
chế xông vào nhà ông Vươn, ông Quý.
Xem xét việc khởi tố bị can về tội “ Vu khống” theo Điều 122 Bộ luật
hình sự đối với những cán bộ đã đổ tội cho người dân phá nhà ông Vươn,
ông Quý.
Xem xét việc thay đổi tội danh đối với các bị can trong vụ án“Giết người
và chống người thi hành công vụ”. Theo quan điểm pháp lý của cá nhân
tôi thì hành vi của họ không cấu thành tội Giết người và tộiChống người
thi hành công vụ. Vì rất đơn giản, nếu đoàn cưỡng chế không xâm phạm bất
hợp pháp vào nơi cư trú, chỗ ở hợp pháp của họ khi không được pháp luật
cho phép (nhà ông Quý nằm ngoài khu vực cưỡng chế), không được gia đình
ông Quý cho phép thì đã không xảy ra vụ việc đáng tiếc này. Ngoài ra họ
không phạm tội Giết người và tội Chống người thi hành công vụ còn bởi
các lý do sau:
- Địa điểm gây án (tại nhà ông Quý), nằm ngoài phạm vi cưỡng chế.
- Họ gài mìn tự tạo để bảo vệ nơi cư trú, chỗ ở hợp pháp và tài sản của họ.
- Họ bắn súng hoa cải vào đoàn cưỡng chế vì đoàn cưỡng chế xâm nhập
bất hợp pháp vào nơi cư trú, chỗ ở hợp pháp để bảo vệ tính mạng tài sản
của họ.
- Họ được pháp luật bảo vệ quyền bất khả xâm phạm nơi cư trú, chỗ ở
hợp pháp và tài sản ghi tại Điều 73 Hiến pháp 1992, Điều 124 Bộ luật
hình sự và Điều 163, 169, 170 Bộ luật dân sự của nhà nước CHXHCN Việt
nam.
Trong vụ án này, nếu họ có phạm tội thì họ chỉ phạm tội “ Chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ”
theo Điều 232 Bộ luật hình sự.
Từ những ý kiến nêu trên, tôi thiết nghĩ, nếu trên đây thực sự là những
lời phát biểu của ông Giám đốc công an Hải phòng thì Bộ công an cần sớm
vào cuộc đối với vụ án Tiên lãng để việc điều tra vụ án được khách
quan, đồng thời làm rõ trách nhiệm của ông Giám đốc công an thành phố
Hải phòng về những sai phạm của ông trong vụ án.
Hà Nội ngày 11 tháng 02 năm 2012
Luật sư Nguyễn Anh Vân
(Đoàn Luật sư Hà Nội)
Bài gửi riêng NXD-Blog
Hoàng Anh - Vụ án Đoàn Văn Vươn: giữa bi kịch và sự thức tỉnh
Khai mở thêm về Nguồn lực
Nguồn lực của một quốc gia không chỉ được đong tính bằng trữ lượng hay
chủng loại của mỗi loại tài nguyên khoáng sản. Vì dù nhiều ít thế nào,
những món đồ được chia không cân bằng này cũng sẽ nhanh chóng cạn kiệt
khi người ta chỉ dựa vào nó để ăn, sống và phát triển. Ở một số nơi,
các kho, mỏ khoáng sản đều bị đóng cửa hoặc cấm khai thác, vì những
người ở đó luôn nghĩ rằng mẹ tự nhiên đã ban cho đất nước họ thứ gì,
không có nghĩa là chúng được ban cho họ. Mỗi thế hệ chỉ là một lần đi
qua và tồn tại ở đó, và họ hiểu trách nhiệm phải gìn giữ nó cho những
thế hệ tiếp theo. Thay vào đó, họ đi vào phát triển và đào sâu vào một
nguồn lực dường như là vô tận: trí tuệ của con người. Theo nghĩa thông
thường của hiện tại, đây là những quốc gia đã phát triển qua giai đoạn
sơ khai, và nhận ra trọng trách đối với sự trường tồn của đất nước
mình, một cách không hề ích kỷ và không thiếu tình thương yêu.
Ngược lai, ở rất nhiều quốc gia chậm phát triển, nhất là các quốc gia
thuộc thế giới thứ 3, theo cách phân chia về thế hệ quốc gia vẫn được
sử dụng hiện tại, tài nguyên thiên nhiên là tất cả những gì có thể nhìn
thấy cho cơ hội của họ. Đa phần, các quốc gia này đều bị cai quản bởi
một hoặc một nhóm người. Họ giới hạn mọi khả năng phát triển của trí
tuệ con người và chọc sâu mũi khoan vào các mỏ dầu, than hoặc khoáng
sản khác. Khi làm như vậy, các nhà lãnh đạo (thường là đại diện cho các
chính thể độc tài, tham nhũng, vô luật) mặc nhiên đã thực hiện hai
việc làm tận diệt khí số của quốc gia họ: Ăn bằng hết những gì thiên
nhiên tạo ra và ngu dốt hóa, vô dụng hóa tất cả con người mà họ có. Khi
tài nguyên hết, với một quần thể người đã trở nên phụ thuộc quá nhiều
vào những gì sẵn có và không có khả năng sáng tạo, đất nước đó sẽ dễ
dàng bị xóa sổ, bởi nội chiến hoặc xâm lược. Đây là cách sống lạc hậu,
tham lam, bất nhân và không kém phần vô trách nhiệm.
Với hàng chục tỷ đô la từ khai thác dầu mỏ; Cộng với hàng tỷ từ việc
khai thác than đá, các loại tài nguyên khác; Và mới đây nhất là nỗ lực
đào khoét kho boxite ở Tây Nguyên, Việt Nam không thể là một người
ngoài cuộc trong nhóm nước thứ hai. Cộng thêm tất cả các yếu tố khác đã
được nhắc đến, ví dụ: Duy trì các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ mọi
nguồn lực quốc gia, nhưng hoạt động như những băng đảng mafia trá hình;
Dùng quyền lực và ý chí chính trị, thao túng luật pháp hạn chế mọi khả
năng phát triển tự nhiên về trí tuệ của người dân; Sử dụng hệ thống
mật vụ, an ninh để bắt bớ ngăn chặn mọi luồng tư tưởng hoặc mọi ý kiến
phản biện, đặng giữ cho được vị thế của một trong những “con vật bình
đẳng hơn những loài vật khác” (G.Owell) và tiếp tục công cuộc vơ vét,
tham nhũng cho phe nhóm hoặc bè cánh. Rõ ràng, không thể có cách nào
khác đẩy một quốc gia đến bờ vực hủy diệt nhanh và tốt hơn thế. Và tuyệt
nhiên, chẳng ai trong số các vị lãnh đạo luôn đặt sẵn lời mở miệng “vì
dân” quan tâm đến sự tồn tại hay cách sống của các thế hệ tiếp theo.
Trong bối cảnh đó, Đoàn Văn Vươn là một cuộc cách mạng hơn chỉ là một
sự cố gắng kiếm tìm cuộc sống tốt hơn cho bản thân anh và gia đình.
Giữa sự thúc ép và trêu ngươi của những cơn bão đến theo chu kỳ hàng
năm cùng với thói quen quét sạch mọi thứ nó nhìn thấy; Và trong một thể
chế chính trị cấm đoán mọi tư duy khác thường hay đột phá, anh sừng
sững tiến ra phía biển và chứng minh được sự kỳ diệu của tính kiên trì
và trí tuệ đầy khao khát. Đây rõ ràng không chỉ là câu chuyện đặc biệt
về một người nông dân lấn biển. Đây là lời giải cho bài toán phát triển
mà một quốc gia như Việt Nam nên nắm lấy và học nằm lòng, như cách
người Nhật từng tự ý thức được về điều thực sự có giá trị nhất trên một
quần đảo nghèo nàn tài nguyên thiên nhiên bậc nhất và dường như lúc
nào cũng là kẻ thù từ sự không hoàn hảo của tự nhiên. Anh đã, bằng máu,
nước mắt và mạng sống của mình và gia đình, gián tiếp khẳng định rằng:
Từng Con Người Việt Nam là thứ Tài Nguyên Quý Giá Nhất mà Việt Nam
đang có.
Bi kịch mở đường
Nhưng có thể một bài học như thế sẽ phải trả một cái giá lớn hơn vô số
lần lẽ ra nó cần phải trả. Công sức và máu xương hàng chục năm trời của
một anh nông dân ngay lập tức trở thành sự thèm muốn của những kẻ sinh
ra từ ngu dốt và được nhào nặn bởi sự dối trá đê tiện. Với công quyền
trong tay và chiếc đũa phù thủy là Luật đất đai vốn không cho người chủ
sở hữu thực tế được chiếm hữu tài sản thuộc về mình. Phép thuật được
tạo ra để tất cả khối tài sản đang bắt đầu sinh lợi hàng chục tỷ kia
trở thành mối chia chác. Và rồi một buổi sáng mùa đông tê tái, một đàn
đông đủ được sự hỗ trợ và bảo kê của lực lượng quân đội với súng ống
trang bị tận răng, kéo xuống dàn trận trước một căn nhà từng là biểu
tượng thách thức bão tố khắc nghiệt. Chúng quyết tâm giằng từ đôi tay
những người nông dân mảnh đất và lợi lộc mà họ đổ máu xương làm ra, và
tuyệt nhiên không có cơ hội cho những người chủ tội nghiệp một cơ hội
công bằng để phân trần.
Rõ ràng, chúng, những kẻ chăn dân không có đủ những phẩm chất mà chúng
cần phải có. Sự tỉnh táo để nhận ra rằng, khuyến khích những người nông
dân như vậy sẽ khơi dậy một sức mạng vô biên từ sức sáng tạo của con
người để tạo ra sự thịnh vượng và của cải một cách chân chính. Sự tỉnh
táo để nhận ra rằng, đó là cách tốt nhất để mở mang bờ cõi, hun đúc vào
ý chí con người một sự đột phá và vươn lên mạnh mẽ. Sự tỉnh táo để
nhận ra rằng, những quy định trong luật về đất đai đã quá lỏng lẻo cho
một cơ chế công bằng giữa bên thu và bên bị thu; quá ưu ái cho những kẻ
nắm công quyền khi chỉ có chúng được nói lên sự thật; và quá cay đắng
cho những con người, mà từ bản chất đã lui về sợ hãi, cố thủ trong cái
không gian ngột ngạt được tạo ra bởi chó săn và mật vụ chìm. Hơn tất
cả, sự tỉnh táo để nhận ra chúng đã đi quá xa trên con đường trở thành
đối nghịch và lừa dối người dân của chúng.
Tấn bi kịch của người nông dân họ Đoàn là một cơ hội chứ không phải là
một sự việc như những thứ cùng tên gọi. Ở đó, những người tỉnh táo và
có lương tri muốn thấy một sự thay đổi, sẽ êm thấm và trong hòa bình.
Họ muốn thấy sự thành tâm của những kẻ cai trị sẽ đến với nhân dân của
nó trong sự mong muốn hòa giải. Họ muốn thấy sự thay đổi để đất đai
trở về tay của những người thực sự hiểu nó, khai thác được nó, và làm
chủ nó. Đất đai phải thuộc về những người mà trước đây, đã từng gác
chuyện gối chăn, bát cơm quả cà để đòi lại quyền tồn tại trong tự
quyết, và trao lại những hy vọng cho cái chính thể hiện giờ đang cai
trị họ. Họ muốn thấy giá trị thực sự của một dân tộc được tôn vinh bởi
sức lao động bền bỉ, sự sáng tạo kiên trì và mong muốn chinh phục đầy
bản lĩnh.
Nhưng thay vào đó, họ phải thấy, tất cả những gì thách thức lương tri,
đạo đức, lẽ phải và sự chà đạp của cường quyền xảo trá lên nhân tính và
hy vọng. Bốn người đàn ông trong thế đường cùng bị bắt giam hơn môt
năm trời vì sự phản kháng mang tính tự vệ trước bầy sói. Hai người đàn
bà tay không tấc sắt bất lực nhìn từ xa bị khép tội chống lại công
quyền. Và bức ảnh của đứa con gái chưa đầy mười tuổi, chết khi cha mẹ
nó đối đầu với sóng và bão biển, trôi theo căn nhà bị phá nát ra chập
chờn trên nước đục. Và một vài ngày nữa, họ, những Người lấn biển, mở
cõi sẽ bị đưa ra trong một phiên tòa được xử bởi những kẻ vốn dĩ khi
ngồi vào mỗi chiếc ghế đó đã trở thành câm điếc, mù lòa và tham lam vô
độ.
Đây là một bi kịch, một bi kịch lý giải tại sao một đất nước lại không
thể tiến về phía trước và chinh phục những giá trị tốt đẹp. Một đất
nước dẫu có muôn vàn cơ hội để trở nên mạnh mẽ, nhưng rút cuộc lại luôn
níu chân nhau trong vũng lầy và hứng chịu nhục nhã ngoại bang vì sự
hèn nhược của chính mình.
Thức tỉnh
Không ai dám chắc một kết cục có hậu cho những người đàn ông họ Đoàn
khi họ bị đặt trước những kẻ kém xa họ về phẩm giá và trí tuệ. Không ai
dám chắc một kết cục nhẹ nhàng, khi mà phía sau những kẻ đần độn sẽ
ngồi trên Chiếc ghế Phán xét kia là những kẻ còn thâm hiểm hơn chúng về
tham vọng, ham muốn và sự cố chấp tham lam đến vô độ. Một kẻ ăn cướp,
sau khi thực hiện xong vụ cướp lại được cho phép đi điều tra để bắt kẻ
phạm tội. Để rồi đây là lúc chúng sẽ hả hê cười vào mũi những ai từng
nghĩ rằng đâu đó trong khuôn mặt đồ tể đao phủ kia còn một chút lương
tâm, và đặt dấu chấm hết cho những nạn nhân của chúng.
Nhưng, hãy hiểu. Khi bản án được tuyên, sự hả hê được thể hiện trên
những khuôn mặt khiến người ta mường tượng đến sự thỏa mãn của lũ lợn
trong truyện Trại Súc Vật. Tất cả không phải là kết thúc. Đó là sự khởi
đầu. Đó là lúc sự thức tỉnh sẽ len lỏi bằng mọi con đường từ đồng cảm
đến tự ý thức: Tiếp tục cưỡng chế và bắn giết người dân; Sự đoạt tuyệt
của mối tương giao giữa dân chúng và nhà nước, khi công quyền một mực
phủ nhận trách nhiệm và tình thương đến con dân; Sự đoạn tuyệt với
công lý, lẽ phải, công bằng và đạo đức để thiết lập một thế trận hành
dân triệt để, hại dân tuyệt cùng…Tất cả, sẽ sớm thức tỉnh được Quyền
Lực Say Ngủ, thứ mà hàng ngàn năm nay vẫn luôn tồn tại trong mỗi thế hệ
được sinh ra trên tổ quốc này. Thứ mà chắc chắn, lại một lần nữa cuốn
cả dân tộc vào một mối quan tâm chung nhất về số phận riêng của mỗi con
người. Một lần nữa.
Người mẹ 85 tuổi của những người nông dân họ Đoàn đã viết một bức thư
khẩn cầu, gửi tới cả một dân tộc vốn có quá nửa đang thờ ơ với số phận
của chính mình. Có lẽ bà không kêu cứu, bà đang kêu gọi và thức tỉnh,
và bức thông điệp ở đó có vẻ đã ẩn chứa một lý lẽ: nếu các bạn tiếp tục
coi chuyện này là việc của người khác và không đáng quan tâm hơn những
mánh lới cơm áo hàng ngày, thì bạn sẽ phải ân hận khi nhận ra rằng,
theo cách đó, tất cả chúng ta đều là những nạn nhân, dù sớm hay muộn.
Phát ra trong đêm tối của sự tuyệt vọng và căm phẫn. Rung động trong sự
khốn cùng của vô số thân phận bị áp bức khắp nơi nơi, đó là một lời
nguyền.
Hoàng Anh
Nguyên nhân và nền tảng của vụ án và phiên tòa Tiên Lãng !
Phiên tòa Tiên Lãng |
Vụ án của thế kỷ 21 (mà đối ảnh của nó là vụ án của thế kỷ 20 ở Nọc Nạn
năm 1928) đã kết thúc hôm nay (05-04-2013)* theo đó ông Đoàn Văn Vươn
(SN 1963) bị tuyên phạt 5 năm tù, Đoàn Văn Quý (1966): 5 năm tù, Đoàn
Văn Sịnh (SN 1957): 3 năm 6 tháng tù; Đoàn Văn Vệ (SN 1974): 2 năm tù về
tội “giết người” theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 93 Bộ luật
Hình sự. Hai bị cáo Phạm Thị Báu (SN 1982, vợ Đoàn Văn Quý) bị 18 tháng
tù cho hưởng án treo, thử thách 36 tháng và Nguyễn Thị Thương (SN 1970,
vợ Đoàn Văn Vươn) bị 15 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng
về tội “chống người thi hành công vụ” quy định tại điểm d, khoản 2, Điều
257 Bộ luật Hình sự.
Suốt 15 tháng trời kể từ ngày họ bị bắt giam hoặc quản chế (từ
05-01-2012), mọi tầng lớp nhân dân quốc nội (trong đó có cả một số quan
chức), đồng bào hải ngoại, người Việt lẫn người ngoại quốc, đều đã chăm
chú theo dõi vụ việc tại cống Rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, tỉnh
Hải Phòng này. Hầu hết đều bênh vực cho các bị can nói trên, coi họ như
những nạn nhân vô tội của một vụ cưỡng chiếm đất đai tài sản do nhà cầm
quyền địa phương thực hiện.
Ai cũng tưởng sau khi sự thật đã bị phơi bày trên hàng trăm tờ báo, hàng
ngàn trang mạng, hàng vạn bài biết, công lý sẽ được thực thi và các
nông dân được hoàn trả tự do, tài sản lẫn danh dự. Thế nhưng công luận
đã hết sức bàng hoàng phẫn nộ khi ngày 04-01-2013, Viện Kiểm sát thành
phố Hải Phòng đã ra một bản cáo trạng nặng nề truy tố anh em nhà ông
Vươn, một bản cáo trạng không có những nguyên tắc xác định sự thật của
vụ án, không làm rõ những chứng cứ quy kết, chẳng lột tả được bản chất
sự việc, nghĩa là nói lấy nói được theo cung cách xưa rày của Cộng sản!
Tiếp đó, ngày 18-03-2013, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết
định đưa họ ra xét xử với các tội danh nói trên.
Theo các chuyên viên luật, phiên tòa xét xử anh em Đoàn Văn Vươn trong 3
ngày qua đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố
tụng Hình sự. Trước nhất là Điều 10: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ
án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.” Đến
Điều 18: “Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều
có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.” Rồi Điều
218: “Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện
cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến…”.
Quả thế, theo Facebook của ông Trần Đình Triển, một trong những luật sư
biện hộ: “Đa số các bị cáo đều tố cáo trong giai đoạn điều tra, họ đã bị
đánh đập, bức cung, mớm cung, dụ cung. Có nhiều trường hợp đưa giấy
trắng ép bị cáo ký khống vào… Nội dung cơ bản chưa cần xác định theo cáo
trạng đúng hay sai về người bị hại và người làm chứng, nhưng nóng lên
tại phiên tòa chính là việc Hội đồng Xét xử và Viện Kiểm sát hỏi theo
hướng buộc tội hoặc mang tính chất để buộc tội. Đến phần luật sư thẩm
vấn thì đa số bị Chủ tọa phiên tòa dùng quyền uy để cắt hoặc dừng câu
hỏi, tạo nên không khí căng thẳng tại phiên tòa không đáng có. Chủ tọa
thì cho rằng mình có quyền cắt hoặc dừng theo ý mình. Luật sư thì cho
rằng: Chủ tọa có quyền nhưng phải trên cơ sở pháp luật được quy định
trong Bộ luật Tố tụng Hình sự…”. Có lúc quan tòa lại đóng vai công tố
nữa, một điều hết sức quái đản đối với pháp chế của nhân loại văn minh!
Sau mấy ngày xét xử, vụ án Đoàn Văn Vươn lại lộ ra nhiều tình tiết mới,
ví dụ như không phải anh em nhà họ Đoàn nổ súng trước, anh Vươn đã chỉ
đạo em trai mình là Đoàn Văn Quý chọn loại đạn 2,5-3mm thay vì đạn 5,5mm
để tránh gây chết người… Rồi cả phòng xử giật mình khi anh Đoàn Văn Vệ
khai trong quá trình thẩm vấn, có một điều tra viên đưa điện thoại để
anh gọi về bảo vợ đưa tiền bạc cho tay này. Lần đầu 20 triệu, lần sau 10
triệu, vì điều tra viên hứa sẽ lo cho anh thoát tội. Nhưng sau đó không
thấy kết quả (vì vẫn tiếp tục bị giam giữ), nên anh Vệ đã đề nghị thay
đổi điều tra viên nhưng chẳng được đáp ứng…
Bên ngoài phòng xử, thì như mọi phiên tòa chính trị mấy năm nay, tuy
luôn được tuyên bố là công khai, nhưng người dân và bạn bè, thậm chí
thân nhân các bị cáo đều bị ngăn chặn từ xa, rào chắn dựng cách tòa án
cả trăm mét, sóng điện thoại bị phá cả vùng. Công an sắc phục lẫn thường
phục dày đặc, côn đồ thì lúc nhúc, nhiều gấp mấy lần số dân đến tham
dự. Bọn này chỉ làm có mỗi một việc là xô đẩy, đánh đập, giật biểu ngữ,
cướp điện thoại và máy chụp ảnh, bị nhân dân chất vấn cho ra lẽ vẫn
không thèm trả lời. Một số blogger nổi tiếng đến lấy tin tức và ủng hộ
nạn nhân của pháp luật đã bị hành hung, có người trọng thương phải vào
bệnh viện nhưng ngay sau đó cũng bị tống ra ngoài, có người bị áp tải
lên Hà Nội như kẻ tội phạm…
Rốt cuộc sau 3 ngày, bất chấp lời kêu gọi mãnh liệt của công luận, đến
từ nhiều chuyên viên pháp luật, nhiều nhân sĩ trí thức, nhiều chức sắc
tôn giáo hoặc từ nhiều dân oan đồng cảnh ngộ, các ông Phạm Đức Tuyên
–Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Hải Phòng, chủ tọa phiên tòa, Trần Mạnh
Hùng – Thẩm phán, Bùi Đăng Dung và Nguyễn Thanh Bình – Kiểm sát viên giữ
quyền công tố, cùng Hội thẩm nhân dân -với lối xét xử coi thường lương
tri và luật pháp- đã biến các nạn nhân thành tội phạm với những bản án
bất công nặng nề. Dẫu có chút kiến thức, nhóm “cầm cân công lý” ấy đã tỏ
ra hoàn toàn vô tư cách! Thay vì can đảm thực hiện đúng vai trò xét xử
cao quý của mình cách khách quan và độc lập, họ đã tối mặt làm theo lệnh
trên, cụ thể là từ Bộ chính trị CS. Những kẻ đó -y như đám thẩm phán
tại mấy phiên tòa xét xử các chiến sĩ nhân quyền Cù Huy Hà Vũ, Trần
Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Hải- là nỗi nhục khôn cùng cho nền công lý
của Việt Nam và cả nhân loại! So với vụ án Nọc Nạn gần 100 năm trước,
thì quả thật Thực dân Pháp còn có ý thức tôn trọng công lý và công luận
hơn nhiều, mặc dầu họ là những kẻ thống trị ngoại chủng. Chưa kể là qua
gần 80 năm cai trị, “bọn Thực dân tàn ác” đó còn làm nhiều điều hữu ích
cho đất Việt và giết sinh mạng của người Việt ít hơn những kẻ cùng bọc
trứng mẹ Âu Cơ, cùng da vàng máu đỏ nhưng đã bị mù quáng vì chủ nghĩa
Mác Lê phi nhân bản phản dân tộc!
- Nguyên nhân của vụ án, phiên tòa và những bản án đang làm cho toàn dân
và quốc tế công phẫn như thế, đó chính là vì nó động tới Cộng sản Việt
Nam, một đảng cầm quyền và một nhà cầm quyền độc tài độc đoán, không do
dân bầu, chẳng được dân chọn, chuyên thao túng quốc hội lẫn tòa án, độc
dụng công an lẫn quân đội, tự tạo Hiến pháp, bày ra luật pháp chỉ có lợi
cho riêng bè đảng, phe nhóm và hoàn toàn thẳng tay đàn áp tất cả những
ai động tới ngai vàng và túi bạc của họ. Cụ thể là họ đã bày ra Luật Đất
đai hết sức bất công phi lý, với lối khẳng định kiểu mị dân lừa bịp:
“đất đai thuộc về toàn dân” rồi kiểu độc chiếm trắng trợn: “…do nhà nước
đại diện sở hữu”, để biến mình thành ông chủ độc nhất của mọi tài
nguyên đất Việt! Hơn 20 năm qua, bộ luật với nguyên tắc quái đản đó đã
khiến cho hàng triệu nông dân bị tước đoạt ruộng vườn, lâm vào cảnh dở
sống dở chết, lếch thếch kiện tụng vô vọng từ địa phương tới trung ương,
từ đời ông đến đời cháu, thậm chí nhiều người còn bị hành hung, bức tử
và tống ngục, hay bị đẩy đến đường cùng phải phản ứng như anh em nhà
Đoàn Văn Vươn. Trong khi đó thì đảng viên và cán bộ ngày càng trở thành
địa chủ đỏ, tư bản đỏ, bóc lột dân lành thì tài, hưởng thụ của cướp thì
giỏi, điều hành kinh tế thì ngu, quản lý quốc gia thì tệ, khiến đất nước
rơi vào cảnh xáo trộn xã hội, bất ổn chính trị, suy sụp mức sống của
toàn dân. Những cảnh tượng tang thương đau lòng đã và đang xảy ra ở
nhiều nơi trên đất nước như Văn Giang, Kiên Giang, Phước Long, Thủ
Thiêm, Vụ Bản, Dương Nội… tại các vườn hoa công cộng lẫn trước các cơ
quan công quyền, nơi hàng vạn vạn dân lành ngang nhiên bị tước đoạt
nguồn sống, tước đoạt tương lai và bị tước đoạt cả quyền lên tiếng,
quyền kêu khổ…
- Nền tảng cho tất cả chính sách cai trị độc đoán, bóc lột trắng trợn và
chà đạp công lý đó chính là bản “Hiến pháp” mà Cộng sản đang đưa ra cho
toàn dân để gọi là “lấy ý kiến” từ đầu năm nay, với một vài thay đổi
râu ria sau khi đã ngồi trên nó 20 năm và nay không thấy êm nữa. Đọc kỹ
“Dự thảo sửa đổi” này, ai cũng thấy đó vẫn là thứ “cương lĩnh của đảng”
(lời mở đầu), vẫn tiếp tục khẳng định đảng là “lực lượng lãnh đạo nhà
nước và xã hội” (điều 4), không chịu quyền kiểm soát từ bất cứ chỗ nào
và không chịu nhường quyền cai trị cho bất cứ ai, vẫn tiếp tục duy trì
nguyên tắc sai trái đã từ lâu đem cho đảng nói chung và đảng viên nói
riêng biết bao quyền lực lẫn của cải: “Đất đai tài nguyên quốc gia thuộc
sở hữu toàn dân cho Nhà nước đại diện chủ sở hữu” (điều 57). Rồi để bảo
vệ độc quyền chính trị và độc hữu tài nguyên này (chưa kể độc tôn văn
hóa qua việc áp đặt chủ thuyết Mác-Lê), Hiến pháp dự thảo sửa đổi lại
ngang nhiên tuyên bố (điều chưa từng có trong các bản HP trước) là: “Lực
lượng vũ trang nhân dân [tức công an, quân đội, dân phòng…] phải tuyệt
đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam” trước cả Tổ quốc và nhân
dân, “có nhiệm vụ bảo vệ Đảng và Nhà nước” trước cả đồng bào và dân tộc
(điều 70). Chưa hết, như để củng cố quyền lực của chính đảng và quyền
hành của công cụ đảng, mới đây lại còn có dự thảo bộ Công an đề xuất cho
bắn kẻ bị coi là “chống cán bộ thi hành công vụ”!
Viết lên những điều như thế, phải chăng đảng và nhà cầm quyền CSVN muốn
hợp pháp hóa những gì họ đã làm trong quá khứ, đặc biệt qua vụ Tiên
Lãng, và sẽ làm trong các vụ Tiên Lãng tương lai mà họ dự đoán sẽ ngày
càng có cơ bùng nổ sau khi tân Hiến pháp và tân Luật đất đai được “đổi
mới như cũ” với nhiều tiềm năng tai hại cho đất nước và dân tộc? Thành
ra, để trừ hậu họa này, toàn dân Việt Nam, ngoài chuyện “biểu tình trên
mạng” qua việc ký vào các bản kiến nghị, các lời tuyên bố, còn phải
“biểu tình trên đường” hàng ngàn, hàng vạn, hàng ức, hàng triệu người để
bày tỏ ý chí và sức mạnh của toàn dân. Ý chí và sức mạnh đập tan áp bức
độc tài, đòi hỏi công lý sự thật, xây dựng tự do dân chủ!
Ban Biên Tập
* Vì một lý do ngoài ý muốn, bài xã luận này được viết sau ngày 01-04-2013
Nghệ sĩ Kim Chi - Anh Là Anh Hùng
Nghệ sĩ Kim Chi |
Đoàn Văn Vươn ơi!
Nỗi đau của anh khiến đời rơi lệ
Chẳng ai nghĩ anh là người có tội
Anh có công khi chống lại cường quyền
Với kẻ ác, ta đâu thể ở hiền.
Chuyện đời anh sẽ đi vào lịch sử
Ôi chàng trai từng một thời đánh Mỹ
Từng dấn thân cho Tổ Quốc yên bình
Vì quê hương anh đâu sợ hy sinh
Nay giành lại miếng cơm manh áo
Lại lần nữa buộc anh tranh đấu
Việc anh làm là thuận ý Trời
Là tấm gương cho cả muôn người.
Người có lương tri phải trừ cái ác
Lũ quan tham chính là lũ giặc
Chúng tôi gọi anh là một ANH HÙNG.
Tôi đã không thể cầm lòng được khi biết tòa án Hải phòng xử anh Đoàn Văn
Vươn và Đoàn Văn Quý 5 năm tù. Vậy còn kẻ chủ mưu cướp đi tài sản của
gia đình anh thì vô tội? Chống lại kẻ cướp mà gọi là "giết người", là
"chống người thi hành công vụ" ư? Đất, Trời ơi, công lý ở Tổ Quốc Việt
Nam dạo chơi đâu mất rồi???
Kim Chi
Sáng 6.4.2013
(FB Nguyễn Kim Chi)
Kinh tế Việt Nam đang chết sẽ kéo theo sự tồn vong của chế độ?
Cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới 2008 đã làm điêu đứng những nên
kinh tế lớn như mỹ và các nước tây phương Việt Nam cũng không ngoại lệ
bởi đã tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc cắt giảm thuế quan
đang diễn ra theo lộ trình từng năm thuế xuất từ 3 đến 5% vào năm 2015
và gia nhập hoàn toàn với thuế xuất bằng 0% vào năm 2018. Để bù vào việc
thu thuế, cộng sản Việt Nam đã gia sức thu thuế trên đầu người dân, với
những chiêu như xe chính chủ, tăng tiền phạt lỗi vi phạm giao thông như
nghị định 71 (thu thuế đường bộ vào phương tiện xe cơ giới),... để lấy
tiền nuôi 3 triệu đảng viên nhằm duy trì chế độ cộng sản lâu hơn nữa.
Bởi cái định hướng XHCN sự sụp đổ, của các tập đoàn kinh tế nhà nước như
Vinasin, VinaLines là điều tất nhiên phải đến, hàng tỷ USD đã bị thua
lỗ do cách làm ăn cửa quyền, và chạy vào túi lãnh đạo các tập đoàn trên.
Mất tiền đã đành, nó như một gáo nước lạnh dội vào mặt các vị lãnh đạo
CS Việt Nam lòi ra sự ngu dốt của đảng, những ngành làm ăn độc quyền mà
đảng ưu ái không mở cửa cho tư nhân và nước ngoài tham gia, mà còn bể nợ
thì thật là bẽ mặt bầu cua. Hậu quả của nó là nhà nước không dám đầu
tư, bởi liên tục thua lỗ còn các công ty tư nhân thì vượt quá tầm, nên
cộng sản Việt Nam bắt buộc phải in tiền, thu thuế cao đánh vào dân để
nuôi đảng viên, dẫn đến lạm phát cao kỷ lục ở mức hai con số từ 2007 cho
đến nay?
Do thất thu thuế bởi gia nhập WTO và để có tiền nuôi ba triệu đảng viên,
rồi cấp một đống sổ hưu, và bù vào các khoản lỗ của các tập đoàn nhà
nước đã vay mượn quốc tế, CSVN đã nghĩ ra nhiều độc chiêu để lấy tiền
dân bằng nhiều cách, rồi đưa lên phương tiện truyền thông của đảng. Nếu
không bị phản đối là sẽ áp dụng ngay như nghị định 71 vừa thông qua. Thu
thuế tiền gửi ngân hàng, đánh thuế tiền lãi cổ phiếu, ngay đầu năm 2013
CS lên giá điện, đất giá nước phí truyền hình... chủ yếu luật ra là
đánh vào dân.
Để lấy tiền tăng lương cho ba triệu đảng viên ngay ngày 2/7 tới ngày 4/4
bộ trưởng Vương Đình Huệ nói: “Theo Bộ trưởng Huệ, mức tăng dự kiến ban
đầu lương tối thiểu chung năm 2013 từ 1.050.000 đồng/tháng lên mức
1.300.000 đồng/tháng. Để đáp ứng nhu cầu chi tăng lương này, nguồn ngân
sách cần chi trong năm 2013 khoảng 60-65 ngàn tỉ đồng, đó là chưa kể cần
thêm khoảng 29.000 tỷ đồng phụ cấp công vụ. Điều này vượt quá khả năng
cân đối thu ngân sách, vì thực tế dự toán thu, mức tăng thu năm 2013
cũng có thể không đạt do dự báo tăng trưởng kinh tế chỉ dừng ở mức
5,8%.” - trích báo dân trí
Mới hôm 28.03.2013, trong lúc dân phản đối vì giá xăng dầu thế giới giảm
thì xăng dầu tại Việt Nam lại tăng thêm 1.400 đồng/1lít, dẫn đến giá cả
tăng theo bởi giá vận chuyển và chi phí nông nghiệp tăng, dẫn đến người
dân lãnh đủ nhất là bộ phận công nhân lao động nghèo.
Các cách khác của CS gần đây cũng bị phản đối nhưng chúng sẽ thực hiện
qua nay mai. Bởi họ buộc phải thu thuế để nuôi bộ máy cầm quyền, như thu
phí đường bộ, thuế đất năm ngoái đến năm nay đã thông qua. Phạt xe
chính chủ để người dân phải đóng thuế trước bạ sang tên xe, phạt mũ bảo
hiểm không đúng chất lượng, thu thuế gửi vàng... và nhiều quái chiêu nữa
chúng sẽ nghĩ ra để đánh thuế lên đầu số đông nhân dân Việt Nam.
Hiện dân tình cả nước đang thất nghiệp lên cao, kỷ lục bởi các tổng công
ty nhà nước tư nhân và cả nước ngoài theo thống kê của báo đầu tư năm
2012 có đến 55.000 công ty đã phá sản và khoảng 50.000 công ty vừa và
nhỏ biến mất (chết mất xác) hoặc không chính thức đăng ký phá sản theo
luật doanh nghiệp. Trong 3 tháng đầu năm 15.300 doanh nghiệp đăng ký phá
sản (1), các công ty phả sản có nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân
chính là do không được sự hỗ trợ của chính phủ về lãi suất vay vốn, lãi
suất hiện nay cao kỷ lục năm 2012 là 20% năm và thuế thu nhập doanh
nghiệp là 25% dẫn đến phá sản. Dự đoán các công ty phá sản năm 2013:
150.000, vậy cộng với 105.000 doanh nghiệp phá sản trong năm 2012 là
khoản 250.000 doanh nghiệp phá sản. Mỗi doanh nghiệp khoản 40 đến 50
người thì lượng công nhân thất nghiệp qua hai năm có thể lên đến hàng
chục triệu người làđiều hiển nhiên. Và số đông đó sẽ đứng lên kết liễu
chế độ cộng sản vào cuối năm 2013 hoặc đầu năm 2014 là điều chắc chắn.
Theo qui luật tự nhiên của động vật thì khi động ăn thịt nhiều lên thì
số lượng động vật ăn cỏ sẽ ít đi, dẫn đến động vật ăn thịt sẽ tự ăn thịt
lẫn nhau? Đó là qui luật sinh tồn của động vật. Còn đối với con người,
khi đảng cướp bóc ngang nhiên hoạt động và gần đây nổi lên khắp các
thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn... mà không ngày nào báo chí
không đưa tin. Khi đảng cướp không còn cướp được của dân nữa, chúng sẽ
tự cướp lẫn nhau và ngày sụp đổ cả hệ thống đảng cướp là ngày không xa.
Còn đối với dân bị áp bức dẫn đến đói khổ, lại phải đóng các khoản thuế
cao để nuôi ba triệu đảng viên thì chế độ cộng sản sẽ sụp đổ là điều
không thể tránh khỏi lửa đã ngút trời chỉ đợi một cơn gió.
Cù Huy Hà Bảo
(DLB)
“Có nhiều thứ xấu hơn cả nợ xấu”
Kiên trì quan điểm cho rằng tình hình kinh tế ngày càng khó khăn, Viện
trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên cho rằng “hiện nay có nhiều
thứ xấu hơn cả nợ xấu”.
Là người đầu tiên đăng đàn tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 2013 do Ủy ban
Kinh tế tổ chức trong hai ngày 5 và 6/4 tại Nha Trang, song bản tham
luận của ông Thiện về tình hình kinh tế vĩ mô 2012 và triển vọng 2013
lại được hoàn thành muộn nhất.
Xin lỗi về điều này, ông Thiên giải thích là do vài suy nghĩ về luận
điểm giải pháp chưa xong. Tuy nhiên, phần trình bày của ông vẫn khá ấn
tượng, cũng không gây nhiều tranh cãi như một số diễn đàn khác.
Nhận diện tổng quát, Viện trưởng Thiên cho rằng không có điểm mới đáng
kể nào trong thực tiễn kinh tế từ 2007 đến nay ngoại trừ xu hướng xấu đi
của tình hình.
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên là người đầu tiên đăng đàn tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 2013 do Ủy ban Kinh tế tổ chức trong hai ngày 5 và 6/4 tại Nha Trang. |
Theo phát hiện của ông Thiên thì, trong các bài viết, bài nói về kinh tế
trên các diễn đàn, hai từ được dùng với tần số cao nhất là “nghiêm
trọng” và “quyết liệt” - dù khác nhau về nội dung diễn đạt, hóa ra chỉ
phản ánh duy nhất một điều: tình thế khó khăn hơn của nền kinh tế, đến
độ gay gắt mà chưa hề phản ánh tính chất quyết liệt của hành động cải
cách thực tế.
Bởi vậy, vị diễn giả này rất mong muốn có sự bàn thảo để tìm câu trả lời
cho câu hỏi cải cách trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng khó khăn,
thậm chí, có nguy cơ khủng hoảng, ở Việt Nam thực sự có nghĩa là gì? Tại
sao suốt mấy năm trời, đã không có một nỗ lực cải cách thực sự nào được
thực thi? Phải chăng động lực và năng lực cải cách của nền kinh tế đã
bị suy yếu nghiêm trọng?
Nhắc lại phát biểu của Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh
vừa qua là có những món nợ không phải xấu mà quá xấu, không thể đòi
được, ông Thiên ngạc nhiên khi “chưa thấy hồi đáp gì cả”.
Việc không biết chính xác số nợ xấu, theo ông Thiên, còn xấu hơn cả nợ
xấu, bởi không có số liệu đáng tin cậy thì không thể xây dựng chiến lược
đúng để giải quyết vấn đề.
Vẫn xấu hơn cả nợ xấu, theo ông Thiên đó là quá nhiều doanh nghiệp - lực
lượng chủ lực của tăng trưởng - đã “chết”. Hiện tượng số doanh nghiệp
đóng cửa của quý một năm nay ngang bằng với số doanh nghiệp đăng ký mới
được ông Thiên cho là sự kiện mang tính lịch sử. Bởi chênh lệch của hai
số liệu này thường ở khoảng 10 nghìn, nghiêng về số doanh nghiệp mới.
Còn nhiều thứ khác, theo Viện trưởng Thiên là xấu hơn hoặc ít nhất cũng
xấu bằng nợ xấu, trong đó có tồn kho bất động sản - một khái niệm mới.
Đồng tình với nhận định về tình hình kinh tế 2013, TS. Bùi Tất Thắng,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cũng cho
rằng sự đáng ngờ của các con số dẫn đến suy giảm lòng tin là điều khá
gay go trong bối cảnh hiện nay.
Hiện tượng số lượng doanh nghiệp giải thể và ngưng hoạt động tăng báo
hiệu một tình huống mới theo chiều hướng xấu trong nền kinh tế, đặc biệt
ở khía cạnh kinh nghiệm ứng phó trong chính sách, ông Thắng quan ngại.
Niềm tin vào triển vọng của môi trường đầu tư kinh doanh bị suy giảm là
điều đáng lo ngại hơn cả, bởi lẽ sẽ còn ảnh hưởng tới nhiều năm tiếp
theo nếu các nhà đầu tư không lấy lại được động lực hoạt động kinh
doanh, Viện trưởng Thắng nhấn mạnh.
Với TS. Nguyễn Hồng Sơn, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia
Hà Nội), thì câu chuyện quan trọng nhất năm 2013 là lãi suất với nghệ
thuật điều hành để không rơi vào bẫy suy giảm tín dụng.
Dù nhấn mạnh yếu tố nào thì các ý kiến thảo luận đều chưa mấy tin tưởng
vào kết quả cuối cùng của mục tiêu tăng trưởng cao hơn và lạm phát thấp
hơn của năm 2013. Và, các khuyến nghị chính sách đều không chỉ nhằm giải
quyết tình thế trước mắt.
Viện trưởng Trần Đình Thiên nhắc lại đề nghị Chính phủ tập trung ưu tiên
trả nợ xây dựng cơ bản cho doanh nghiệp, không nên ưu tiên đầu tư từ
nguồn ngân sách.
Có thể đi vay (nước ngoài) để trả nợ doanh nghiệp vì lợi ích thu được là
rất lớn, giải tỏa một phần đáng kể nợ xấu, kích hoạt quá trình phá “cục
máu đông”, khôi phục lòng tin doanh nghiệp, ông Thiên phân tích.
“Việc tìm kiếm các giải pháp để cùng đồng thời thoả mãn cả mục tiêu
trước mắt lẫn mục tiêu lâu dài thật không dễ. Cho nên, về nguyên tắc,
nên đứng trên quan điểm đại cục, dài hạn để giải quyết vấn đề”, TS. Bùi
Tất Thắng phát biểu.
Cho rằng những vấn đề đặt ra cho nền kinh tế còn rất lớn, “rất mênh
mông”, song Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu trong lời phát
biểu khai mạc đã bày tỏ kỳ vọng các giải pháp hiệu quả hơn sẽ được đưa
ra từ lực lượng chuyên gia hùng hậu tham dự diễn đàn, với nhiều tham
luận được nhận xét là chuẩn bị rất sâu sắc.
(VnEconomy)
Lê Hồng Hà - Góp ý Sửa đổi Hiến Pháp
1- Qua nghiên cứu lại 4 bản Hiến Pháp trước đây của nước ta, trừ bản
Hiến Pháp năm 1946 là đúng đắn, tốt đẹp, còn 3 bản Hiến Pháp sau tuy có
nhiều điểm tốt,nhưng cả 3 bản ( năm 1959,1980,1992) đều mang nặng đường
lối CM XHCN thể hiện thể chế chính trị chuyên chính vô sản ( theo Nghị
quyết của của Đại hội Đảng III,IV,V,VI,VII ) tức là rất nhiều sai lầm .
2- Nội dung đặc trưng của đường lối xây dựng CNXH ở Việt Nam có thể tóm lại :
Về kinh tế: kế hoạch tập trung, phủ nhận kinh tế thị trường, quốc doanh là chủ đạo, xóa bỏ kinh tế tư nhân .
Về chính trị: thực hiện chuyên chính vô sản, Đảng lãnh đạo độc tôn và
Đảng lấy Chủ nghĩa Mác Lê Nin là thống soái, cán bộ, đảng viên và thanh
niên đều phải học tập CN Mác Lê Nin.
Đến Đại hội VI, có đổi mới chút ít, nhưng chỉ là nửa vời và vẫn một mực kiên trì Chủ nghĩa Mác Lê .
Qua thực tế của các nước trên thế giới, sự sụp đổ của Liên Xô và các
nước XHCN cuối thế kỷ 20 đã chứng minh CN Mác Lê Nin là sai lầm, mô hình
CNXH Xô Viết là sai lầm thế nhưng Đảng ta vẫn một mực phải đề cao Chủ
nghĩa Mác Lê Nin kiên trì đường lối CNXH ở Việt Nam .
3- Do mấy chục năm qua, cả nước ta đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa
sai lầm nói trên, nên đất nước ta lâm vào tình trạng suy yếu, xuống cấp
về hầu hết các mặt của đời sống xã hội (không chỉ kinh tế mà cả chính
trị, xã hội, văn hóa, đạo đức vv…) và tụt hậu so với nhiều nước xung
quanh, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm. Chưa bao giờ lòng tin của dân đối
với sự lãnh đạo của ĐCSVN và Nhà nước ta thấp như ngày nay và tình hình
nghiêm trọng tới mức trở thành nguy cơ lớn đối với sự sống còn của chế
độ, của ĐCSVN .
Nguyên nhân gốc rễ của tình hình ấy, chính là do chế độ toàn trị của một
đảng trên thực tế đang chi phối toàn bộ quyền lực Nhà nước và hệ thống
chính trị đứng trên nhà nước và pháp luật, đứng trên nhân dân, vô hiệu
hóa nhiều quyền tự do, dân chủ đã được quy định trong Hiến pháp .
4 – Để cứu đất nước ra khỏi tình hình nghiêm trọng nói trên, phải đổi
mới căn bản thể chế chính trị, chuyển từ độc tài đảng trị sang dân chủ
là cơ hội tốt, là bước đi đầu tiên mở đường cho đất nước đổi mới toàn
diện, phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
5 – Đối với bản “ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” tôi thất vọng vì
nó không góp phần đổi mới căn bản thể chế chính trị, mà lại …! Toàn bộ
những sai lầm của các bản Hiến pháp trước đây không thể là cơ sở để xây
dựng một bản Hiến pháp mới thực sự là của nhân dân.
6 – Trong thư này, tôi đề nghị cụ thể một số vấn đề về nội dung :
a / Không nên dùng từ Nước CHXHCNVN …, mà nên dùng từ ông Hồ đã dùng :
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa …, vì mô hình XHCN là một mô hình sai
lầm.
b / Không nên đề cao chủ nghĩa Mác Lê Nin, vì đó là một học thuyết sai
lầm, không nên nói dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê Nin .
c / Bỏ điều 4 nói về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản vì Đảng chưa xứng
đáng lãnh đạo việc xây dựng và phát triển đất nước ( chưa kể những chính
sách sai lầm như cải cách ruộng đất,cải tạo Xã Hội Chủ Nghĩa,đàn áp
Nhân Văn Giai Phẩm)…
d / Quân đội phải trung thành với Tổ Quốc, với Nhân Dân, không được nêu quân đội trung thành với Đảng.
e / Không nên đặt vấn đề Hiến Pháp nước ta phải thể chế hóa cương lĩnh xây dựng CNXH của Đảng Cộng Sản Việt Nam .
Hà Nội 02/4/2013
Người góp ý
Lê Hồng Hà
Nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an
(Thông luận)
Về thủ đoạn trích dẫn cắt xén, xuyên tạc văn bản
Trong nghiên cứu khoa học, viết báo và nhiều hoạt động văn hóa - xã hội
khác, trích dẫn ý kiến của một cá nhân, trích dẫn từ sách vở, văn
bản,... là thao tác nhằm làm sáng tỏ vấn đề, giúp hoàn thiện sản phẩm.
Tuy nhiên, có một số tác giả khi trích dẫn, lại sử dụng thủ đoạn cắt xén
để xuyên tạc, làm méo mó nội dung, gây ngộ nhận cho người đọc,... Hiện
tượng này cần phải phê phán nghiêm khắc.
Cách đây vài năm, bàn về vấn đề "phê bình văn học cần có tính dân chủ
cao", một tác giả dẫn lời Bác Hồ: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng
phải được tự do. Tự do là thế nào? Ðối với mọi vấn đề, mọi người tự do
bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Ðó là một quyền lợi mà
cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến,
đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục
tùng chân lý". Ðoạn trích trên dễ làm người đọc am hiểu về sự chặt chẽ,
tính logic trong các vấn đề lý luận - thực tiễn mà Bác Hồ đặt ra, sẽ
chưa tin cậy, vì điều Bác Hồ nói không đi kèm với việc xác định thế nào
là "chân lý". Ðúng vậy, ngay sau đó có người chứng minh tác giả trên
trích dẫn cắt xén, và đồng thời đưa ra dẫn chứng việc cần hiểu "chân lý"
trong nội dung này như thế nào đã được Bác Hồ chỉ ra rất cụ thể: "Chế
độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Ðối
với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lý. Ðó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi
mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do
tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi
cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân
lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân
lý" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị Quốc gia, H.2002,
tr.216).
Qua các thí dụ trên có thể thấy, hiện tượng viết và nói xưng xưng, trích
dẫn ý kiến, văn bản bằng thủ pháp cắt xén, mà một số tác giả sử dụng
không chỉ tác động tiêu cực, làm người đọc hiểu sai vấn đề, mà còn cho
thấy mục đích không trong sáng của người trích dẫn. Ðặc biệt, có thể
nhận diện hiện tượng này qua việc một số người đã trích dẫn cắt xén từ
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (Hiến pháp), Tuyên ngôn nhân
quyền của Liên hợp quốc (Tuyên ngôn), Công ước về các quyền dân sự và
chính trị (Công ước) để phê phán Ðảng và Nhà nước Việt Nam. Thí dụ:
- Dẫn lại Ðiều 69 từ Hiến pháp, người ta cắt xén và chỉ đề cập tới nội
dung: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được
thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình", trong khi nguyên văn
Ðiều 69 của Hiến pháp là: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo
quy định của pháp luật".
- Sử dụng Tuyên ngôn để biện hộ cho vấn đề "tự do ngôn luận", người ta
chỉ dẫn lại nội dung Ðiều 19 Tuyên ngôn: "Mọi người đều có quyền tự do
ngôn luận và bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm sự tự do giữ quan điểm
không có sự can thiệp và sự tự do tìm kiếm, tiếp nhận, chia sẻ các ý
tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không có
biên giới". Dẫn như vậy dễ gây ngộ nhận rằng "tự do ngôn luận" là bất
khả xâm phạm, nhưng trên thực tế, họ đã tảng lờ khoản 2 Ðiều 29 của
Tuyên ngôn đưa ra chế định rất cụ thể: "Trong khi thực hiện các quyền và
quyền tự do cho cá nhân mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do
luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng
đối với các quyền và quyền tự do của những người khác, đáp ứng được
những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung
trong một xã hội dân chủ".
- Dẫn lại Ðiều 18 Công ước đề cập tới tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn
giáo, họ chỉ sử dụng nội dung "1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng,
tín ngưỡng và tôn giáo" mà tảng lờ khoản 3 Ðiều 18 viết: "Quyền tự do
bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy
định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an
toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc các
quyền và tự do cơ bản của người khác". Với Ðiều 19 của Công ước cũng
vậy, người ta chỉ dẫn lại nội dung khoản 2: "Mọi người có quyền tự do
ngôn luận...", mà tảng lờ việc Ðiều 19 của Công ước có kèm theo yêu cầu
rất cụ thể: "Việc thực hiện các quyền quy định tại khoản 2 của Ðiều này
kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể dẫn tới
một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp
luật quy định và cần thiết để: a. Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của
người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe
hoặc đạo đức của công chúng"...
Rõ ràng, qua việc cắt xén các trích dẫn, người ta đã làm méo mó một ý
kiến, một văn bản như thế nào. Cần nhận thức rằng, một trong những yếu
tố cơ bản đầu tiên bảo đảm thái độ khách quan, tính hiệu quả, khả năng
thuyết phục, ý nghĩa xã hội rộng rãi của nghiên cứu khoa học, viết
báo,... là tinh thần lương thiện trí thức. Thiếu sự dẫn dắt của tinh
thần lương thiện trí thức, hành vi nghề nghiệp dễ bị cuốn theo mục đích
thiếu trong sáng, và dẫn tới những thủ đoạn thiếu lương thiện. Sự nghiêm
túc trong hoạt động tinh thần thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
trong đó có sự chính xác, trung thực trong việc trích dẫn. Việc trích
dẫn cắt xén nhằm xuyên tạc ý nghĩa của văn bản, tài liệu, xét đến cùng
là có nguồn gốc từ mưu đồ cá nhân không lành mạnh, đó là việc làm cần
được cảnh báo, vạch mặt chỉ tên.
Lê Vũ Tiến Bình
(Nhân dân)
Một chùm tính cách Việt: Khởi thủy là đàn bà (1)
Phụ nữ sexy ngày xưa |
"Khởi thủy là Lời – Kinh Thánh"
Có người cho văn hóa Việt Nam (tức người Việt) không có huyền thoại. Tôi
không nghĩ vậy. Dân tộc nào mà chẳng trải qua một “thời đại lớn” (chữ
của M.Eliade”). Thưở ấy, người ta sống bằng huyền thoại, “suy nghĩ” và
cảm nhận thế giới bằng huyền thoại, lưu giữ và truyền gửi thông điệp cho
nhau và cho hậu thế cũng bằng huyền thoại. Có điều, không hiểu vì sao,
khi từ tiền sử bước vào hữu sử, tổ tiên người Việt đã đánh vỡ hệ thống
huyền thoại của mình. Bằng chứng là những mảnh vỡ của kim âu đó văng đi
và còn găm vào những truyền thuyết, cổ tích.
Người ta cũng thường nói đến yếu tố nữ tính, thậm chí nguyên tắc nữ,
trong văn hóa Việt Nam qua lễ nghi, phong tục và văn chương nghệ thuật.
Nguyên lý này, nếu có, hẳn phải ảnh xạ vào huyền thoại, khởi điểm của
mọi khởi điểm? Tôi thử lần tìm điều đó bằng việc lấy ba người đàn bà đầu
tiên mà những mảnh vỡ của huyền thoại còn lưu giữ được. Dĩ nhiên, khái
niệm “đầu tiên” chỉ là tương đối, Mỵ Nương trong “Sơn Tinh- Thủy Tinh”,
Mỵ Châu trong “Mỵ Châu – Trọng Thủy” và Mỵ Nương trong “Trương Chi”
Mỗi thời đại đều “đọc” huyền thoại theo một cách riêng, và tìm thấy ở đó
có những gì mà nó cần. Bởi lẽ, xét đến cùng, mỗi thời đều có cách sử
dụng huyền thoại của nó và cho nó. Điều này vừa làm phong phú cho huyền
thoại, bồi thêm sức sống cho nó, đồng thời cũng đẩy xa thông điệp ban
đầu, thậm chí còn gây nhiễu. Chuyện kể về “tam Mỵ” nói trên, tôi nghĩ
hẳn cũng không tránh khỏi số phận đó. Sự giải mã huyền thoại hiện nay
chính là quá trình bóc tách những vỏ bọc đó để đi đến cái nhân đích
thực, ban đàu.
Truyện “Sơn Tinh – Thủy Tinh” trước đây thường được hiểu như là một câu
chuyện tình, “năm năm báo oán, đời đời đánh ghen” (Tản Đà), sau đó lại
được hiểu như là cuộc đấu tranh của nhân dân chống lại thiên tai lũ lụt…
Có lẽ, đó là những ý nghĩa được gia ban về sau, hậu nghiệm. Thực ra
người ta có thể tìm thấy ở đây mảnh vỡ của huyền thoại về Đại Hồng Thủy,
ký ức xa xôi của nhân loại về thời kỳ tan băng hà. Cũng cảnh nước ngập
mênh mông, gieo rắc ta họa, tưởng như ngày tận thế; cũng một đôi trai
gái (Sơn Tinh và Mỵ Nương) còn sống sau nạn nước (hoặc chiến thằng nó),
trở thành vợ chồng, thành tổ của một tộc người; ngọn núi Ba Vì nơi họ
đến trú ngụ chơ vơ giữa biển nước như một con thuyền (Noé trong Kinh
Thánh hay Vỏ trấu trong Sự tích hồ Ba Bể). Đồng thời, qua việc Thủy Tinh
đánh đuổi Sơn Tinh để cướp lại Mỵ Nương cũng còn lưu lại ảnh xạ của tục
cướp dâu, hiện tượng đọng lại trong phong tục của người Mông.
Mỵ Châu- Trọng Thủy không chỉ là câu chuyện cảnh giác, “trái tim lầm chỗ
để trên đầu” (Tố Hữu), câu chuyện chiến tranh gián điệp…, mà thông qua
câu chuyện tình bi thảm này, người ta thấy vai trò của người phụ nữ
trong gia đình cũng như trong xã hội. Mỵ Châu được cha giao cho giữ nỏ
thần – vật thiêng liêng và quan trọng nhất trong cả nước. Nàng đã sống
nặng vì mình, vì tình yêu của mình, còn Trọng Thủy thì nặng vì cha, vì
đất nước của anh ta. Bi kịch của những người không xử lý được hài hòa
mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tình và lý.
Cũng vậy, bi kịch Mỵ Nương- Trương Chi không phải là bi kịch của sự giàu
nghèo, của giai cấp, giữa một anh dân chài và một cô tiểu thư con quan
thừa tướng mà là bi kịch của kẻ cầu toàn, kẻ đi tìm cái tuyệt đối. Mỵ
Nương mê tiếng hát của Trương Chi nhưng lại không chấp nhận khuôn mặt
xấu xí của anh ta. Cô muốn một sự hoàn thiện hoàn mỹ, cả cái này lẫn cái
kia, mà cuộc đời lại chỉ cho phép chọn một.
Lược qua câu chuyện Tam Mỵ trên, tôi muốn gảy ra đây một vài thông điệp mà người xưa nhắn gửi trong huyền thoại Việt Nam.
Trước hết, ba người đàn bà đều có tên bắt đầu bằng chữ Mỵ. Mỵ có nghãi
là đẹp. Mỵ còn được đọc là “mế”, “mệ”, chỉ người đàn bà trong tiếng tiền
Việt – Mường, hoặc Việt cổ. Hơn nữa, Mỵ Nương, Mỵ Châu vốn không phải
tên riêng, mà là tên chung chỉ đàn bà. Bởi vậy có thể đi đến hai kết
luận: người đàn bà là đẹp. Người đàn bà là đẹp, đã đành, nhưng còn giữ
vai trò quan trọng nữa. Mỵ Châu được giao giữ nỏ thần, một vật thiêng.
Truyền thống “nội tướng”, “lệnh ông không bằng cồng bà”, “đội quân tóc
dài” của người phụ nữ Việt Nam, có lẽ bắt đầu từ đây.
Nếu đặt ba truyện theo thứ tự Sơn Tinh – Thủy Tinh, Mỵ Châu- Trọng Thủy,
Trương Chi, chúng ta thấy diện mạo bên ngoài và diện mạo nội tâm của
người phụ nữ ngày một rõ rệt hơn. Ở Sơn Tinh – Thủy Tinh, mặc dù là đối
tượng của sự tranh chấp giữa thần núi và thần nước, nhưng người ta khong
thấy rõ phản ứng, cũng như tâm lý của Mỵ Nương. Ở Mỵ Châu – Trọng Thủy,
sự cá nhân hóa của người phụ nữ đã tiến lên một bước, bởi vì nhân vật
phải đối diện với quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Và ở chuyện Trương
Chi thì sự cá nhân hóa ở người phụ nữ đã phát triển đầy đủ. Câu chuyện
giữa Mỵ Nương và Trương Chi là câu chuyện cá nhân với cá nhân. Trong
cuộc đấu tranh với chính mình, thế giới nội tâm của Mỵ Nương đã bộc lộ
đầy đủ, sâu sắc.
Người ta thường nói đến “cảm giác mức độ” của người Việt Nam, đến sự
nhận thức về “ngưỡng” của văn hóa Việt nam. Những câu chuyện trên truyền
đạt thông điệp đó một cách rõ ràng, sinh động và đầy sức thuyết phục.
Mỵ Châu thì sống vì cá nhân mình (tức là tình yêu với Trọng Thủy) nên đã
mất nỏ thân, dẫn đến mất nước, chết hàm oan dưới lưỡi gươm của cha.
Trọng Thủy sống vì cộng đồng của anh ta, theo lời cha phản bội tình yêu
của Mỵ Châu, cuối cùng cũng hối hận đâm đầu xuống giếng tự vẫn. Con
đường sống của ncon người là đi tìm hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng,
điều mà Mỵ Châu, Trọng Thủy chỉ đạt được sau khi chết qua hình tượng lấy
ngọc trai rửa nước giếng thì ngọc sáng ra. Trong Trương Chi, Mỵ Nương
say mê tiếng hát, yêu vẻ đẹp tâm hồn của anh chàng dân chài nhưng lại
không yêu nổi vẻ mặt xấu xí của anh ta. Nàng muốn sự hoàn thiện, đẹp cả
người lẫn nết. Điều này đã gây ra cái chết của Trương Chi và sự đau khổ
của nàng. Sự tận thiện tận mỹ, có lẽ chỉ có trong lý tưởng, trong ý niệ.
Thực tế là trần tục, đầy sự khiếm khuyết. Nếu không chấp nhận, cầu
toàn, ảo tưởng cũng dẫn đến sự hủy diệt ở hương diện này hay phương diện
khác.
Sống hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lý tưởng và thực tế không
phải là thứ “triết lý để tồn tại” mà là một minh triết, một túi khôn dân
gian. Thông điệp quan trọng này được tổ tiên nhắn gửi qua huyền thoại,
truyền thuyết và cổ tích, qua số phận của những người đàn bà, của phụ nữ
Việt nam, từ khởi thủ.
GS Đỗ Lai Thúy
Trích từ Book Hunter
Trích “Phân tâm học và Tính cách dân tộc”
Mời các bạn theo dõi phần tiếp theo: “Một chùm tính cách Việt: Thứ nhất sợ kẻ anh hùng” (2)
"Nợ xấu có thể tăng gấp đôi"
Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế
Trung ương (CIEM) cho biết: Sắp tới chúng ta sẽ áp dụng tính toán nợ xấu
theo tiêu chuẩn mới, hệ thống hạch toán mới, cho nên nợ xấu có thể sẽ
tăng, thậm chí tăng gấp đôi.
Đánh giá về tình hình kinh tế quý I-2013, TS Võ Trí Thành, nhận định:
Kinh tế vĩ mô có sự cải thiện nhất định. Lạm phát giảm dần. Cán cân
thanh toán cải thiện mạnh, dự trữ ngoại tệ tăng nhanh hơn kì vọng, hiện
nay đạt khoảng 30 tỉ USD, đáp ứng 3 tháng nhập khẩu. Đến cuối năm 2013
dự trữ ngoại tệ của Việt Nam có thể đạt 35 tỉ USD.
Đối với sản xuất kinh doanh, xuất khẩu là một điểm tích cực. Trong quý
I, xuất khẩu của doanh nghiệp “nội” đã đạt mức tăng trưởng 10%, cao hơn
mức tăng trưởng 1,3% của năm 2012. Tuy nhiên, mức tăng trưởng xuất khẩu
này nếu trừ đi việc xuất khẩu vàng thì tăng trưởng thực tế chỉ 5-6%.
Ngoài ra, lĩnh vực dịch vụ vẫn giữ được mức tăng trưởng cao hơn năm 2012
trong khi lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp đều giảm so với cùng kì.
Tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vẫn là khó khăn với các DN hiện nay. (Ảnh minh họa,nguồn internet). |
“Như vậy các nhân tố tích cực của nền kinh tế còn rất mờ trong khi khó khăn cơ bản vẫn nguyên” – ông Võ Trí Thành nói.
Theo dự báo của TS Võ Trí Thành, lạm phát sẽ đạt một con số, nhưng kiềm
chế lạm phát ở mức 6-7% không đơn giản. Nguyên nhân là sức ép giá cả mặt
hàng đang kiểm soát còn lớn và các “cú sốc” của tình hình thế giới chưa
lường trước được.
TS Thành cũng tỏ rõ sự băn khoăn khi cung tiền tệ tăng rất mạnh. Tính
đến 21-3, tín dụng chỉ tăng 0,03% nhưng cung tiền (tổng tiền gửi và tiền
lưu thông cho nền kinh tế) tăng rất cao. Năm 2012, cung tiền tăng trên
22%, còn 3 tháng đầu năm 2013, cung tiền vẫn tăng 3,5%. Vậy số tiền cung
ứng ra thị trường đó đã đi đâu, về đâu? Đây là câu hỏi khiến nhiều
người cảm thấy khó lí giải.
Theo TS Võ Trí Thành, rủi ro lớn nhất hiện nay nằm ở hệ thống ngân hàng,
nợ xấu vẫn cao. Sắp tới chúng ta sẽ áp dụng tính toán nợ xấu theo tiêu
chuẩn mới, hệ thống hạch toán mới, nợ xấu có thể sẽ tăng, thậm chí tăng
gấp đôi.
Vị chuyên gia của CIEM cũng chỉ ra những thách thức trong thời gian tới.
Một là, tiếp cận tài chính của doanh nghiệp khó khăn. Nguyên nhân là do
tổng cầu rất thấp, quá trình phục hồi yếu, điều kiện kinh doanh của
doanh nghiệp không có. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 3 tháng đầu năm cũng
giảm. Hai là, các điều kiện để doanh nghiệp được vay tín dụng không có,
nợ xấu còn nguyên. Cùng với nợ xấu, việc cải tổ một số ngân hàng yếu kém
vẫn chưa làm xong.
Ông Thành nhấn mạnh: Tái cấu trúc nền kinh tế nói nhiều làm ít, đến nay vẫn chưa làm được gì.
Điều nền kinh tế mong muốn nhất bây giờ là ổn định. Đó là đóng góp tốt
nhất cho nền kinh tế, vì đó là điều kiện để Nhà nước rút lui khỏi những
biện pháp hành chính, để lãi suất giảm. Nhưng muốn ổn định phải xử lí
được nợ xấu. “Vấn đề này có lẽ phải kéo dài nhiều năm nhưng không bắt
đầu làm từ bây giờ thì bao giờ làm” – ông Thành tỏ vẻ sốt ruột.
Giải quyết nợ xấu khó khăn ở chỗ không được dùng ngân sách, không được
dùng tiền thuế và không được in tiền. “Điều này giống như một chàng trai
hát hay nên tán được gái đẹp. Ngày xưa thì được thế nhưng giờ muốn tán
được cô gái đẹp chàng trai phải có tí tiền”- TS Võ Trí thành ví von.
Lương Bằng
(Báo Hải Quan)
Tác giả gửi bản gốc cho Quê choa
(Quê choa)
Các công ty bị coi là có liên quan đến gia đình tôi thực chất đều là những công ty cổ phần đang niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán như đường Biên Hòa, Bourbon Tây Ninh, Ninh Hòa... mà chúng tôi chỉ là cổ đông, không nắm quyền chi phối. Các công ty này có vay nợ và đều là nợ tốt, vay trả đúng hạn.
Theo quan điểm của HĐQT cũ và đã xử lý như thế từ nhiều năm qua thì những công ty đó không liên quan đến chúng tôi. Sau này HĐQT mới cho là nhóm khách hàng này có liên quan đến chúng tôi, có vấn đề, như thế phải trích lập dự phòng rủi ro, theo tôi, điều này không có lợi cho bản thân Sacombank cũng như cổ đông của ngân hàng.
Và nếu cứ duy trì tình trạng như thế thì tôi cũng chẳng thể cộng tác, vì vậy tốt nhất là giải quyết dứt dạt. Nhận thấy không chỉ có cự ly về quan điểm, và tôn trọng quan điểm của HĐQT mới, tôi quyết định chủ động để cấn trừ.
- Có thông tin nói nhóm công ty có liên quan đến gia đình ông đã vay Sacombank lên đến 4.000-5.000 tỉ đồng?
Ông Đặng Văn Thành: Con số đó bao gồm cả những công ty mà HĐQT mới cho là có liên quan đến chúng tôi, cộng lại mới lên như thế. Nhưng theo tôi được biết, khi Sacombank có quan điểm này, họ đã thanh toán.
Các khoản nợ vay của chúng tôi tại Sacombank đều còn trong hạn, do vậy Sacombank không thể đòi ngang.
Tuy nhiên, do cả hai bên cùng muốn dứt dạt, vì thế đã chọn cách là dùng cổ phần của chúng tôi tại ngân hàng này để cấn qua.
(GDVN)
Bí ẩn trong bài diễn văn của Thủ tướng tại Shangri-la?
Việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người đứng đầu Chính phủ đầu tiên của
Việt Nam sẽ chính thức tham dự và trở thành diễn giả chính tại diễn đàn
An ninh khu vực Đối thoại Shangri-la (SLD) lần thứ 12, do Viện Nghiên
cứu chiến lược quốc tế (IISS) tổ chức tại Singapore vào cuối tháng
5/2013, hiện đang là chủ đề “nóng” thu hút sự quan tâm, theo dõi của
cộng đồng quốc tế. Và nhiều người tự hỏi, liệu nội dung quan trọng nào
được Thủ tướng nhắc đến trong bài diễn văn tại diễn đàn này?
Được biết, đối thoại Shangri-la là một diễn đàn lớn chuyên bàn về các
vấn đề an ninh- quốc phòng, nhất là an ninh trên biển Đông, được tổ chức
thường niên từ năm 2002, năm nay có sự tham gia của rất nhiều đại biểu
quốc phòng, ngoại giao và học giả từ 27 quốc gia trên thế giới. Trong đó
có Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ và có thể Trung Quốc cũng sẽ cử đại diện
cấp cao nước mình tham dự.
Bí ẩn đằng sau cuộc đối thoại Shangri-La của Thủ tướng? |
Nếu như mọi năm Việt Nam chỉ cử lãnh đạo cấp Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng
Quốc Phòng tới tham dự diễn đàn này thì năm nay lại đặc biệt ghi dấu sự
hiện diện của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Sự việc khác lạ này cho thấy sự
quan tâm sâu sắc của Việt Nam trước tình hình an ninh khu vực hiện nay.
Tiến sỹ John Chipman, Tổng giám đốc và CEO của IISS khẳng định: “Sự
tham gia của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và quan điểm của Việt Nam về các
vấn đề quốc phòng hiện tại cũng như các cơ hội giải quyết xung đột sẽ
thêm sức nặng đáng kể cho cuộc thảo luận quan trọng về an ninh khu vực”.
Theo giới phân tích, cuộc đối thoại năm nay hứa hẹn sẽ có nhiều cuộc
tranh luận nảy lửa vì diễn ra trong bối cảnh xảy ra nhiều tranh chấp
giữa các nước. Trong đó, đáng chú ý nhất là chiến lược trở lại Châu Á –
Thái Bình Dương của Mỹ; sự “trỗi dậy bành trướng” của Trung Quốc; Tàu cá
Việt Nam bị tàu tuần tra Trung Quốc bắn cháy, Philippines kiện Trung
Quốc ra tòa án quốc tế…
Thì nội dung bài phát biểu quan trọng tại SLD của Thủ tướng chắc chắn sẽ
nhấn mạnh vấn đề này. Từ đó, để các tổ chức khu vực trở thành cầu nối
giữa các quốc gia, giúp các nước xích lại gần nhau, đối thoại để giải
quyết bất đồng, chung tay góp sức bảo vệ nền hòa bình và an ninh chung.
Đồng thời ngăn chặn những hành động “trỗi dậy bành trướng” gây sóng gió
và bất ổn tại khu vực biển Đông.
Trước đó Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long khi nói về tranh chấp chủ quyền trên biển Đông giữa các nước cũng đã cảnh báo “chúng
ta phải tìm cách ngăn ngừa mọi tính toán sai lầm khiến khu vực Châu Á
đang rất năng động trở nên thụt lùi trong nhiều năm qua”
Điều đặc biệt trong lần mang trọng trách của một nhà diễn giả, Thủ tướng
Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng sẽ mang đến một thông điệp “đanh thép”, trong
đó ẩn chứa các giải pháp để nhận diện đâu là bạn, đâu là thù…? Cũng như
việc trong bóng tối có thể nghe được tiếng cười giúp chúng ta biết cách
nhận diện được đâu là bạn, đâu là những kẻ chứa đầy âm mưu thâu tóm Biển
Đông?
Bạch Dương
(Nguyễn Tấn Dũng)
Kỳ Duyên - Đất… đen, sổ đỏ và ‘lỗi cậu đánh máy’
Một tuần thôi, mà biết bao chuyện dồn nén. Có nỗi bi thương, có niềm bi phẫn, có chuyện bi hài.
Bỗng ước mong, tuần này chỉ là tuần Cá tháng Tư?
Từ ngàn xưa, đất đai vốn được coi là tài sản vật chất lớn nhất của con người trong đời sống. Dân gian có câu tấc đất- tấc vàng. Thế nhưng, xung quanh tấc đất- tấc vàng,
cũng có bao bi kịch. Con người sống vì đất, và chết cũng vì đất. Người
ta giàu có lên, trở thành đại gia bởi đất, mà cũng nghèo mạt rệp,
khuynh gia bại sản bởi đất. Bởi thế đất vàng, nhưng cũng nhiều khi là… đất đen.
Đất vỡ hoang và cuốn sổ đỏ
Và những ngày này, dư luận đang chăm chú dõi theo câu chuyện của
đất…đen. Đó là phiên tòa sơ thẩm vụ án “Giết người”, “chống người thi
hành công vụ” trong vụ cưỡng chế thu hồi đất tại Tiên Lãng (Hải Phòng).
Cái kết cục tù tội cuối cùng đã tới: Đoàn Văn Vươn, và các bị cáo được
đề nghị dưới mức án theo khung hình phạt, trong đó riêng Đoàn Văn Vươn
là 5 năm tù….
Dù vậy, dư âm vụ án vẫn để lại cho số đông người dân vị đắng của sự nghĩ ngợi.
Đất- muôn đời, là niềm yêu, và niềm đau của con người.
Hơn nửa thế kỷ trước, nhà văn Nga M. Sôlôkhôp đã làm điên đảo thế giới những người yêu văn chương bằng tác phẩm nổi tiếng Đất vỡ hoang.
Ông viết bằng mồ hôi lao động, bằng cảm xúc say mê sáng tạo, và nhiệt
thành trước niềm kỳ vọng vào cái mới- “tập thể hóa nền sản xuất nông
nghiệp” của nước Nga.
Hơn nửa thế kỷ sau, có một người nông dân ở Tiên Lãng- Hải Phòng, cũng có một “tác phẩm” Đất vỡ hoang
được viết bằng mồ hôi lao động, có cả nỗi đau riêng máu thịt và nước
mắt của mình, và người nông dân đó cũng “viết” bằng niềm hy vọng về
thành quả khai khẩn đất đai.
Nhưng văn học dù là hiện thực, vẫn lãng mạn và khác xa với đời sống. Bởi đời sống vốn khắc nghiệt hơn nhiều.
Đất vỡ hoang của M. Sôlôkhôp là bước đi tìm tòi, đau khổ, đầy
dằn vặt và mâu thuẫn của con người trước cái mới của sản xuất tập thể.
Sự thật trong trang sách nhiều lúc tàn nhẫn, trần trụi không che giấu,
của con người từ cá thể, sang con người tập thế, với chủ trương “nông
trang hóa”.
Ngược lại, Đất vỡ hoang của Đoàn Văn Vươn, cũng là bước đi tìm
tòi, đầy dằn vặt của đời sống, lại từ con người tập thể, hợp tác xã
sang con người cá thể với quyền được thuê đất, giao đất, quyền sử dụng
đất, gian khổ và lao khổ, thậm chí bi kịch đã xảy ra. Từ một người nông
dân tần tảo, một nắng hai sương để rồi, Đoàn Văn Vươn sa sẩy thành kẻ…
“phạm tội”.
Đọc trang đời Đất vỡ hoang hôm nay, thấy không chỉ mồ hôi, mà còn đẫm nước mắt. Nước mắt chảy xuôi, nước mắt chảy ngược của những số phận người lao động.
Liệu đó có phải là hai mặt của đời sống- chính kịch và bi kịch đều
luôn song hành- trong một thế giới nói chung, một xã hội nói riêng, mà
từ thể chế quản lý, nền tư pháp, đến các chính sách đất đai đều đang
đòi hỏi phải nhanh chóng có những đổi thay để phát triển, rất đáng suy
ngẫm?
Đoàn Văn Vươn là một kẻ “phạm tội”, nhưng là kẻ “phạm tội” để lại nỗi
bi thương ngậm ngùi và sâu sắc. “Phạm tội” vì đâu? Câu trả lời này
không giành cho Đoàn Văn Vươn.
Một vụ án, mà cả cấp chính quyền từ cơ sở, trong mối quan hệ với người
dân, kẻ “phạm tội”, người xét xử, và các nhà luật pháp, quản lý xã hội
đều có thể nghiệm cho mình những bài học đắt giá.
Liên quan đến đất…đen, cũng những ngày này, xã hội không khỏi ngỡ
ngàng trước cái tin ông Lưu Minh Thành, Giám đốc Vườn Quốc gia Phong
Nha- Kẻ Bàng mang 11 sổ đỏ Di sản Thế giới- Vườn Quốc gia (giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất), với diện tích 122. 864 hecta, đi cầm cố cho
Công ty TNHH phát triển Lâm nghiệp Việt Nam có chi nhánh tại Quảng
Bình. Mục đích để “chạy” dự án bảo vệ rừng, với giá 25 triệu đồng/
hecta.
Tấc đất- tấc vàng không chỉ thử thách sự một nắng hai sương, sự
tỉnh táo hay cùng quẫn của con người. Mà còn thử thách cả máu liều,
bất chấp pháp luật của con người, thậm chí là danh dự quốc gia.
Mặc dù, theo luật sư Hà Đăng (Đoàn Luật sư Hà Nội), và thẩm phán Ngô Tự Học (TAND t/p HN), về bản chất, sổ đỏ mang tên cá nhân hay pháp nhân đều có thể sử dụng cầm cố hay thế chấp.
Có điều, trong trường hợp này, hành vi của ông Giám đốc Vườn QG Phong
Nha- Kẻ Bàng, là liều lĩnh. Bởi cách đây hai năm, UBND tỉnh Quảng Bình
đã có quy định, nghiêm cấm các tổ chức cơ quan, doanh nghiệp có đất
rừng đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) đi “cầm cố” cho các
tổ chức, cá nhân để xin dự án.
Liều lĩnh, bởi ông không hề có sự bàn bạc với tập thể ban lãnh đạo Vườn QG theo quy định pháp luật, mà lại âm thầm…đi đêm.
Liều lĩnh, bởi ông “cầm cố” sổ đỏ Vườn QG cho một người không hề có tư
cách pháp nhân. Đó là bà Trần Thị Trường, đại diện chi nhánh Công ty
TNHH phát triển lâm nghiệp VN. Cho đến nay, Vườn QG cũng chưa nhận được
bất cứ đồng tiền nào từ phía đối tác.
Chưa kể, về nguyên tắc, “sổ đỏ” Vườn QG không phải do ông Lưu Minh Thành được quản lý và cất giữ.
Chưa kể, theo thông tin của VietNamNet, giấy giao nhận “sổ đỏ” rất sơ sài, không có ghi chức vụ, lẫn dấu của cơ quan hai phía.
Thông thường trong đời sống, việc cầm cố sổ đỏ của một gia đình đã là
một việc rất phải suy nghĩ, cân nhắc lắm. Vậy mà sổ đỏ Di sản Thế giới-
Vườn QG, ở đây được mang đi “cầm cố” nhẹ nhàng như…bóng đêm. Hay vì đó
cũng là kiểu cha chung, không ai khóc? Còn gì nữa của quốc gia, để con người ta có thể… cầm cố nữa đây?
Vườn QG Phong Nha- Kẻ Bàng |
Đáng chú ý nữa là những trả lời báo chí của bà Trần Thị Trường- đối
tác làm ăn của ông Lưu Minh Thành. Nếu đúng như những gì bà lấp lửng
trả lời, thì vụ việc đáng quan tâm hơn rất nhiều.
Ví như, bà là người “có mối quan hệ” nên chỉ môi giới, chứ không phải là người của công ty hay tổ chức nào hết.
Ví như, nếu vốn về, bên hưởng lợi (Vườn QG) chỉ nhận được 20 triệu,
còn 5 triệu chia cho những người chạy dự án. Nhân với con số diện tích
của Vườn QG, số hưởng lợi của cá nhân những người chạy dự án là hơn 600
triệu đồng. Nhưng đâu phải chỉ có Vườn QG Phong Nha- Kẻ Bàng, mà còn
Bù Đăng (Bình Dương), Hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh)…
Ví như, còn rất nhiều những thông tin quan trọng khác, mà theo bà, nhạy cảm nên không thể nói nhiều! Hoặc, toàn hồ sơ của lãnh đạo các tỉnh nhờ chạy. Thậm chí, vị thế một cán bộ cao cấp của Nhà nước cũng được bà điểm trong đường dây của mình, dễ như “đếm cua bỏ rọ”?
Đây là sự thật kiểu đàn bà dễ có mấy tay? Hay chỉ là thói “ba
hoa”, “chém gió” của một người đàn bà có nhiều mánh mung làm ăn? Nhưng
nó cũng cho thấy, có quá nhiều những con đường dịu dàng…hơi đồng (mượn ý bài thơ của Trần Anh), đang chạy như mắc cửi.
Người dân còn nhớ chuyện “công chức 100 triệu” của Hà Nội cách đây
không lâu. Liệu lần này, chuyện “cầm cố” sổ đỏ Di sản Thế giới- Vườn
QG, và những con đường dịu dàng…hơi đồng, có địa chỉ hẳn hoi, có
thể tìm ra, hay lại tiếp tục chìm xuồng? Và cũng nhân chuyện này, liệu
có nên kiểm kê, bao nhiêu sổ đỏ của các Di sản được khóa kỹ trong tủ
hoặc đã đi cửa sau, chịu thân phận “cầm cố” không nhỉ?
11 sổ đỏ Di sản Thế giới- Vườn Quốc gia bị đem đi cầm cố. Ảnh: Dân trí |
Lỗi “cậu đánh máy” và lỗi “cô tài chính”?
Không phải lúc nào, đời sống cũng chỉ có nỗi buồn đau nhức nhối. Cũng vẫn có những người thích đùa khiến xã hội biết chuyện, ai cũng phải bật cười.
Như mới đây, tỉnh Kon Tum có một công văn đóng dấu KHẨN hẳn hoi, huy
động lực lượng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của các
cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp các quận, huyện và
thành phố đi cổ vũ bóng đá Cúp Tôn Hoa Sen. Công văn KHẨN còn chia ra
hai nhóm A và B ở hai sân vận động tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum, với ngày
giờ cụ thể. Hơn nữa, toàn tỉnh phải đi xem ngay trong giờ làm việc.
Khi công văn có dấu KHẨN to tướng, đỏ chót đưa lên báo, có lẽ cố nhà
văn Nguyễn Công Hoan dưới suối vàng cũng phải tủm tỉm, sung sướng. Tác
phẩm Tinh thần thể dục của ông, được viết năm 1939, không ngờ gần 75 năm sau còn “ngấm” sâu sắc vào đời sống, được tái tạo, phục sinh với tên gọi mới Tinh thần thể dục …Kon Tum. Chỉ không biết, nó có cái kết như trong truyện ngắn của nhà văn không, khi mà “Ông lý trưởng nghiến răng: …- Mẹ bố chúng nó, cho đi xem bóng đá chứ có ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc?”
Huy động khẩn điều người đi xem đá bóng của UBND tỉnh Kon Tum. Ảnh: L.Đ.Dũng/ BLĐ |
Cười chán, đâm nghi nghi. Hay là tại “lỗi cậu đánh máy”? Cái khái niệm
mới ra đời từ sự ngụy biện hài hước một chuyện sai sót nghiêm trọng
của một tạp chí quan trọng, bỗng từ đó đi vào đời sống …công chức, như
một lẽ đương nhiên.
Nó liệu có liên quan gì, đến câu chuyện mà Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc cách đây ít lâu, nhức nhối về năng lực cán bộ công chức các cơ
quan không? Khi mà có tới khoảng 30% cán bộ làm được việc, 30% cán bộ,
công chức phải cầm tay, chỉ việc và hơn 30% còn lại là cầm tay chỉ việc
cũng không biết việc mà làm?
Nó liệu có liên quan gì tới câu chuyện mà Bí thư Thành ủy HN Phạm
Quang Nghị nêu ra trong một cuộc họp, về sự quan liêu và lề mề giấy tờ
đến mức khó tin: Chậm 30 ngày cho một lá thư cảm ơn của ông- Bí thư
Thành ủy HN- với nước bạn Lào. Trong đó, Văn phòng UBND chậm 22 ngày,
Sở Ngoại vụ chậm tám ngày (?). Với công việc của người lãnh đạo cao cấp
nhất TP còn như thế, công việc của người dân chạy có nhanh hơn cụ Rùa
Hồ Gươm không?
“Lỗi cậu đánh máy” có thể đang tìm. Còn “lỗi cô tài chính” ở huyện Cẩm
Thủy (Thanh Hóa) mới đây không biết có xác định được không?
Đó là chuyện cắt xén tiền thu hút ưu đãi của giáo viên, lập danh sách
khống để trình báo lên Sở chủ quản, của phòng Tài chính Cẩm Thủy (Thanh
Hóa), do bà Mai Thị Hà làm Trưởng phòng.
Theo đó, danh sách của Trường THCS Cẩm Giang có 18 giáo viên. Trong
đó 44,4% người được hưởng hệ số 1,0; 16,7% được hưởng hệ số 0,7 và hệ
số 0,5 là 38,9% , thực tế đều là con số ảo. Gần một nửa số giáo viên
Trường THCS Cẩm Giang đã được “phù phép” để đạt thâm niên trên 15 năm
công tác tại vùng đặc biệt khó khăn (hệ số 1,0). Nhưng trên thực tế,
nhà trường chỉ có một giáo viên đạt hệ số 0,7.
Có điều, đưa ra danh sách của phòng Tài chính huyện, thì giáo viên ngơ ngác.
Vì họ chưa đủ tiêu chí thâm niên trong thực tế, và họ cũng không hề
được cầm số tiền thâm niên “ma” này. Được biết, năm 2011 và 2012, Sở Tài
chính Thanh Hóa đã cấp kinh phí theo Nghị định 116 (quy định về phụ
cấp thu hút, phụ cấp công tác lâu năm với cán bộ, công chức, viên chức
vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn) cho huyện Cẩm Thủy
hơn 9.240 tỷ đồng.
30% công chức cầm tay chỉ việc cũng không biết việc mà làm. Ảnh minh họa |
Đó mới chỉ riêng một trường THCS một xã, còn những trường THCS của các xã khác của huyện, và các huyện trong tỉnh sẽ ra sao?
Mặc dù được xã hội tôn vinh với nhiều mỹ từ, và dù được Nhà nước ưu ái
bằng những chính sách đãi ngộ, trợ cấp…, nhưng phải nói thân phận giáo
viên, nhất là ở xã, huyện, vùng khó khăn, còn thua thiệt nhiều lắm. Và
tiếng nói của họ ở cơ sở lại càng…nhỏ, nhỏ đến mức có khi không ai
nghe thấu.
Sự việc ở phòng Tài chính huyện Cẩm Thủy là cá biệt hay không, thì
không ai dám trả lời. Nhưng ngay các trường đại học vào loại danh tiếng
mới đây tại HN, cứ kiểm tra là có sai phạm. Đụng trường nào là trường
ấy sai. Đến nỗi giận thì càng giận, mà thương thì chẳng đáng thương. Thì chuyện phòng Tài chính nọ, với “lỗi cô tài chính” nọ hẳn không phải thiếu cơ sở?
Một tuần thôi, mà biết bao chuyện dồn nén. Có nỗi bi thương, có niềm bi phẫn, có chuyện bi hài…
Bỗng ước mong, tuần này chỉ là tuần Cá tháng Tư?
Kỳ Duyên
——-----
Tham khảo:
(*) Tác phẩm của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Aziz Nesin
(Quê choa)
Ông Đặng Văn Thành lên tiếng về khoản nợ nghìn tỷ tại Sacombank
"Con số đó bao gồm cả những công ty mà HĐQT mới cho là có liên quan đến
chúng tôi, cộng lại mới lên như thế..." - ông Đặng Văn Thành cho hay. Liên quan đến thông tin Sacombank cấn
trừ cổ phiếu, phóng viên đã trao đổi cùng ông Đặng Văn Thành, nguyên chủ
tịch hội đồng quản trị (HĐQT) Sacombank.
- Có tin nói gia đình ông bị xiết nợ, nhưng cũng có tin là cấn nợ. Thực hư thế nào?
Ông Đặng Văn Thành: Thỏa thuận giữa chúng tôi và Sacombank đã được ký kết từ ba tháng qua và nay tôi cũng không quan tâm bởi đang dành thời gian cho các dự án đầu tư của mình. Có lẽ chuẩn bị đại hội cổ đông nên công ty kiểm toán của Sacombank có những thông tin lưu ý về việc cấn trừ cổ phiếu.
Không biết từ đâu ra lại cho đó là việc xiết nợ. Bởi xiết nợ phải là những khoản nợ xấu và việc xiết nợ do một bên - ở đây là Sacombank thực hiện.
- Có tin nói gia đình ông bị xiết nợ, nhưng cũng có tin là cấn nợ. Thực hư thế nào?
Ông Đặng Văn Thành: Thỏa thuận giữa chúng tôi và Sacombank đã được ký kết từ ba tháng qua và nay tôi cũng không quan tâm bởi đang dành thời gian cho các dự án đầu tư của mình. Có lẽ chuẩn bị đại hội cổ đông nên công ty kiểm toán của Sacombank có những thông tin lưu ý về việc cấn trừ cổ phiếu.
Không biết từ đâu ra lại cho đó là việc xiết nợ. Bởi xiết nợ phải là những khoản nợ xấu và việc xiết nợ do một bên - ở đây là Sacombank thực hiện.
Giao dịch tại Sacombank. |
Còn trường hợp này hoàn toàn khác, đó là thỏa thuận giữa hai bên, trong
đó có Sacombank và sự chủ động của tôi. Các khoản nợ vay của chúng tôi
đều có thế chấp, đầy đủ giấy tờ, là nợ trong hạn, được xếp hạng A.
- Nếu là nợ trong hạn thì sao có chuyện Sacombank thu nợ?
Ông Đặng Văn Thành: Khi nhóm cổ đông mới vào Sacombank, tôi vẫn là chủ tịch HĐQT. Nhưng sau một thời gian cảm thấy không hợp quan điểm để tiếp tục cộng tác. Một vấn đề nữa là nhóm cổ đông mới có cách hiểu khác về các khách hàng liên quan đến gia đình chúng tôi và cho là có vấn đề.
- Nếu là nợ trong hạn thì sao có chuyện Sacombank thu nợ?
Ông Đặng Văn Thành: Khi nhóm cổ đông mới vào Sacombank, tôi vẫn là chủ tịch HĐQT. Nhưng sau một thời gian cảm thấy không hợp quan điểm để tiếp tục cộng tác. Một vấn đề nữa là nhóm cổ đông mới có cách hiểu khác về các khách hàng liên quan đến gia đình chúng tôi và cho là có vấn đề.
Các công ty bị coi là có liên quan đến gia đình tôi thực chất đều là những công ty cổ phần đang niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán như đường Biên Hòa, Bourbon Tây Ninh, Ninh Hòa... mà chúng tôi chỉ là cổ đông, không nắm quyền chi phối. Các công ty này có vay nợ và đều là nợ tốt, vay trả đúng hạn.
Theo quan điểm của HĐQT cũ và đã xử lý như thế từ nhiều năm qua thì những công ty đó không liên quan đến chúng tôi. Sau này HĐQT mới cho là nhóm khách hàng này có liên quan đến chúng tôi, có vấn đề, như thế phải trích lập dự phòng rủi ro, theo tôi, điều này không có lợi cho bản thân Sacombank cũng như cổ đông của ngân hàng.
Và nếu cứ duy trì tình trạng như thế thì tôi cũng chẳng thể cộng tác, vì vậy tốt nhất là giải quyết dứt dạt. Nhận thấy không chỉ có cự ly về quan điểm, và tôn trọng quan điểm của HĐQT mới, tôi quyết định chủ động để cấn trừ.
- Có thông tin nói nhóm công ty có liên quan đến gia đình ông đã vay Sacombank lên đến 4.000-5.000 tỉ đồng?
Ông Đặng Văn Thành: Con số đó bao gồm cả những công ty mà HĐQT mới cho là có liên quan đến chúng tôi, cộng lại mới lên như thế. Nhưng theo tôi được biết, khi Sacombank có quan điểm này, họ đã thanh toán.
Các khoản nợ vay của chúng tôi tại Sacombank đều còn trong hạn, do vậy Sacombank không thể đòi ngang.
Tuy nhiên, do cả hai bên cùng muốn dứt dạt, vì thế đã chọn cách là dùng cổ phần của chúng tôi tại ngân hàng này để cấn qua.
Xử lý nợ theo phương án do ông Đặng Văn Thành đề xuất
Ngày 3/4, trao đổi với chúng tôi, ông Phạm Hữu Phú - chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank - STB) - cho rằng thông tin cho rằng Sacombank "xiết nợ" đối với gia đình ông Đặng Văn Thành là chưa chính xác, do hầu hết các khoản vay này vẫn còn trong hạn.
"Việc xử lý số cổ phiếu STB do ông Đặng Văn Thành và ông Đặng Hồng Anh (con ông Thành) để thanh toán một số khoản nợ do nhóm công ty thuộc gia đình ông Thành vay tại Sacombank trước đó là theo nguyện vọng của ông Thành" - ông Phú nói.
Đưa cho chúng tôi đơn đề xuất "phương án giải quyết một số vấn đề giữa Sacombank và gia đình ông Thành cùng một số công ty", do ông Đặng Văn Thành và ông Đặng Hồng Ánh ký ngày 22/11/2012 gửi HĐQT Sacombank, ông Phú khẳng định chính ông Thành tự đề xuất việc chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần Sacombank do ông Đặng Văn Thành và ông Đặng Hồng Anh nắm giữ để cấn trừ nợ.
Cụ thể, theo đơn đề xuất, ông Đặng Văn Thành nêu rõ "được sự đồng ý và ủy quyền của các công ty có liên quan như Công ty CP khai thác và quản lý KCN Đặng Huỳnh, Công ty CP kho vận Thiên Sơn, Công ty CP đầu tư Tín Việt, chúng tôi đề nghị HĐQT Sacombank xem xét và chấp thuận...".
Theo đó, các bên thống nhất về việc nhận chuyển nhượng số cổ phần (79,84 triệu cổ phiếu) Sacombank với tổng giá trị là 1.597 tỉ đồng và toàn bộ khoản tiền này được dùng vào việc "cấn trừ các khoản tín dụng, trái phiếu còn trong hạn". Các khoản tín dụng và trái phiếu này gồm: 180 tỉ đồng trái phiếu Công ty CP đầu tư Thành Thành Công (đến hạn 1/6/2013), 145 tỉ đồng trái phiếu Công ty CP khai thác và quản lý KCN Đặng Huỳnh (18/10), 300 tỉ đồng trái phiếu Công ty Sacomreal (50 tỉ đến hạn 31/.1 và 250 tỉ đến hạn vào 10/12), hợp đồng tín dụng tín chấp của Sacomreal 138 tỉ đồng (9/11), hợp đồng tín dụng (ngắn hạn) của Công ty CP đầu tư Thành Thành Công 102 tỉ đồng (19/2 và 21/2/2013), hợp đồng tín dụng (dài hạn) 100 tỉ đồng của Công ty CP đầu tư Thành Thành Công (30/11/2015) và hợp đồng tín dụng Công ty CP Thành Ngọc 58 tỉ đồng.
Sau thỏa thuận và các bước thủ tục để xử lý tài sản, ngày 11/12/2012 Sacombank đã ký các biên bản thanh lý với các đối tượng vay, phát hành trái phiếu nêu trên đồng thời giải chấp các tài sản đảm bảo liên quan của các công ty nêu trên. Trong văn bản giải trình một số nội dung trong báo cáo tài chính 2012 đã kiểm toán, Sacombank cho biết ngày 12.3 ngân hàng này đã thông báo cho Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM về thỏa thuận cấn trừ này.
Huỳnh Ngọc Chênh - Tuyệt vời gia đình Đoàn Văn Vươn
Nếu như hệ thống nầy không đầy lỗi để từ đó sản sinh ra một đám người
đầy lỗi như Lê Văn Hiền, Đỗ Hữu Ca... thì đại gia đình Đòan Văn Vươn là
những người rất hạnh phúc. Họ hạnh phúc vì có khát vọng vươn lên, vượt
qua bao trở lực để làm giàu chính đáng bằng sức lực, con tim và khối óc
của chính mình.
Đại gia đình họ xứng đáng được hưởng thụ thành quả lao động to lớn do họ
tạo ra. Họ sẽ sống đầy đủ và hạnh phúc, con cái họ sẽ được nuôi nấng và
học hành đàng hoàng. Đại gia đình họ là tấm gương sáng cho mọi gia đình
khác của Việt Nam trong chiều hướng muốn vươn lên làm giàu chính đáng.
Không như kiểu làm giàu bằng chụp giựt gian dối đang rất phổ biến trong
xã hội do hệ thống lỗi lầm hiện nay tạo ra.
Anh chị em gia đình ông Vươn |
Bây giờ thì đại gia đình ấy, ngoài mong muốn của họ, cũng đang là tấm
gương sáng chói cho bao gia đình Việt Nam khác bị áp bức đến cùng cực
bởi những thế lực đen tối phát sinh ra từ sự lỗi lầm của hệ thống. Những
bản án bất công dành cho họ chỉ có thể làm sáng hơn tấm gương chứ không
đe dọa được những gia đình dân oan đang càng lúc càng đông lên ở Việt
Nam đang cần một tấm gương như vậy để noi theo. Sau Đoàn Văn Vươn, đã có
ngay tập thể dân oan Văn Giang, Dương Nội đoàn kết cùng nhau đấu tranh
kiên cường chống lại bọn cướp đất là một minh chứng.
Đại gia đình Đoàn Văn Vươn đã cho thấy họ quá tuyệt vời trong lao động
làm ăn thì qua phiên tòa lại cho thấy họ quá tuyệt vời trong công cuộc
chiến đấu chống lại bất công để bảo vệ thành quả lao động của mình.
Họ đã vận dụng hết lý tình, hết thủ tục pháp lý để chống lại bọn xấu.
Nhưng bọn xấu được hệ thống bao che, đã quá mạnh, quá xảo quyệt đẩy họ
vào bước đường cùng là phải dùng đến vũ lực để chống cự.
Ngay trong việc sử dụng vũ lực để chống cự, họ vẫn tỏ ra rất lương
thiện, rất nhân bản khi toan tính nổ mìn từ rất sớm nhằm cảnh báo và
nhồi thuốc súng rất ít để không gây sát thương cho ai.
Tuyệt vời đại gia đình Đoàn Văn Vươn. Một tượng đài rất lớn về các anh
đang được dựng lên trong lòng nhiều người và sẽ tồn tại mãi mãi ngay cả
sau khi đất nước đã tiến lên tươi sáng.
Huỳnh Ngọc Chênh
(Blog Huỳnh Ngọc Chênh)
Vì sao ông Trương Tấn Thiệu bị miễn nhiệm chức Chủ tịch tỉnh Bình Phước?
Ông Trương Tấn Thiệu, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước trong quá trình
lãnh đạo, quản lý, điều hành đã nhiều lần vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ, ký một số quyết định có nội dung trái quy định của pháp luật,
làm thất thu ngân sách, gây hậu quả nghiêm trọng.
Sáng 5/4, Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Phước khóa 8 nhiệm kỳ (2011 -
2016) đã tổ chức kỳ họp thứ 6 (phiên bất thường) để miễn nhiệm chức chủ
tịch và thành viên Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Phước đối với ông Trương
Tấn Thiệu. Đồng thời bầu bổ sung thiếu tướng Nguyễn Văn Trăm, Chủ
nhiệm Chính trị Quân khu 7 làm tân Chủ tịch UBND tỉnh.
Ông Nguyễn Văn Trăm, tân Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước. |
Trước đó, tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Phước
nhiệm kỳ 2011-2016 đã bầu ông Trương Tấn Thiệu giữ chức Chủ tịch UBND
tỉnh.
Thời gian gần đây, ông Thiệu đã có một số vi phạm về nguyên tắc lãnh
đạo, quản lý và điều hành UBND tỉnh. Những sai phạm của ông Thiệu đã
được Ủy ban Kiểm tra Trung ương chỉ rõ trong cuộc họp kỳ thứ 16 diễn ra
từ ngày 12 đến 19/11/2012.
Sau khi xem xét các báo cáo và thảo luận kết quả kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên, Ủy ban Kiểm tra Trung
ương đã biểu quyết đề nghị thi hành kỷ luật đối với tập thể Ban Cán sự
Đảng UBND tỉnh Bình Phước bằng hình thức khiển trách. Quyết định thi
hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với ông Trương Tấn Thiệu, Phó
bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước.
Đồng thời, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền thi hành kỷ luật cảnh cáo
về chính quyền và cho thôi chức Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước đối với
ông Trương Tấn Thiệu.
Theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh
Bình Phước trong lãnh đạo thiếu kiểm tra, giám sát để một số thành viên
là Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND tỉnh, vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ và Quy chế làm việc của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; làm trái
các quy định của pháp luật trong việc giao đất đối với một số dự án,
thay đổi chủ đầu tư, phương thức đầu tư. Cùng một số sai phạm khác gây
hậu quả nghiêm trọng, làm thất thu nhiều chục tỉ đồng của ngân sách,
gây dư luận bất bình trong cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân.
Ông Trương Tấn Thiệu chính thức bị miễn nhiệm chức Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước từ ngày 5/4. |
Ông Trương Tấn Thiệu, trong quá trình lãnh đạo, quản lý, điều hành đã
nhiều lần vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm quy chế làm việc
của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, quy chế của Ban Cán sự Đảng và quy
định của UBND tỉnh; thiếu trách nhiệm kiểm tra, giám sát trong quá
trình lãnh đạo, quản lý; ký một số quyết định có nội dung trái quy định
của pháp luật, trong đó có một số vụ việc làm thất thu ngân sách, gây
hậu quả nghiêm trọng, phải chuyển cho cơ quan pháp luật xem xét, xử lý
theo quy định của pháp luật.
Tại kỳ họp thứ 6 (bất thường) vào sáng 5/4, ngoài việc biểu quyết việc
miễn nhiệm chức Chủ tịch UBND, thành viên Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình
Phước khóa 8 (nhiệm kỳ 2011 - 2016) đối với ông Trương Tấn Thiệu. Hội
đồng Nhân dân tỉnh Bình Phước còn miễn nhiệm chức vụ thành viên Hội đồng
Nhân dân, Chánh văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh đối với ông Nguyễn Văn
Khánh.
Các đại biểu cũng bầu bổ sung ông Nguyễn Văn Trăm (SN 1959, quê tỉnh
Bình Dương, cử nhân, cao cấp lý luận chính trị, chức vụ Phó bí thư Tỉnh
ủy) giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước; ông Nguyễn Văn Thành (SN
1961, quê tỉnh Bình Dương) giữ chức vụ thành viên Hội đồng Nhân dân,
Chánh văn phòng UBND tỉnh Bình Phước.
Phương Ngọc
(Petrotimes)
(Petrotimes)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét