Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

“Việt Nam 1945-1995 – Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử”

LỜI MỞ ĐẦU – “Việt Nam 1945-1995 – Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử”

LỜI MỞ ĐẦU

GS Lê Xuân Khoa
Cuộc chiến hai mươi năm ở Việt Nam vừa là nội chiến vừa là chiến tranh ủy nhiệm mà rốt cuộc là tất cả mọi phe đều thua: Hoa Kỳ chi phí 200 tỉ đô-la và thiệt hại trên 58,000 binh sĩ nhưng vẫn phải chịu thất bại và bỏ cuộc; Việt Nam Cộng Hòa chết hơn một trăm ngàn quân và gần nửa triệu dân để rồi bị Hoa Kỳ bỏ rơi và sụp đổ thảm thương; Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam toàn thắng nhưng đã phải trả giá bằng hơn một triệu sinh mạng bộ đội và cán bộ tại chiến trường miền Nam và khoảng hai triệu thường dân ở miền Bắc,[3] nhất là sau đó còn phải chiến đấu với hai cựu đồng minh và nhận lãnh những hậu quả tai hại khiến cho đất nước bị lâm vào tình trạng tụt hậu và nghèo đói trong mười mấy năm liền do chính sách sai lầm về cả hai mặt đối nội lẫn đối ngoại“.
Lịch sử Việt Nam trong hơn nửa sau thế kỷ XX là lịch sử của chiến tranh, tị nạn và những biến đổi lớn về chính trị ở trong nước. Bắt đầu là cuộc xâm nhập Đông Dương của đế quốc Nhật Bản vào tháng Chín 1940 bắt buộc Pháp phải nhường Đông Dương cho Nhật làm căn cứ quân sự nhưng Pháp vẫn được tiếp tục cai trị về hành chánh. Sau khi Nhật tuyên chiến với Hoa Kỳ bằng cuộc tấn công Trân Châu Cảng tháng Mười Hai 1941, toàn cõi Việt Nam bắt đầu phải chịu sự oanh tạc của không lực Hoa Kỳ nhắm vào các căn cứ quân sự và các tuyến đường giao thông vận tải của Nhật. Không có số thống kê về các nạn nhân Việt Nam của những vụ oanh tạc này nhưng con số thương vong của thường dân vô tội trong hơn ba năm trời nhất định không phải là nhỏ. Trong khi đó, nhân dân Việt Nam phải tiếp tục chịu ách thống trị “một cổ hai tròng” cho tới tháng Ba 1945 khi Nhật lật đổ chính quyền thực dân Pháp, trao trả “độc lập” cho Việt Nam nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát về an ninh, quân sự và ngoại giao. Tháng Tám 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, Mặt trận Việt Minh giành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, đất nước lại lâm vào hai trận chiến thảm khốc trong thời gian ba mươi năm (1945-1975), trừ vài năm chuyển tiếp sau khi đất nước bị chia đôi năm 1954.
Trong những hậu quả của chiến tranh, đặc biệt phải nói đến hai cuộc tị nạn lớn nhất trong lịch sử dân tộc: lần thứ nhất, năm 1954-1955, với gần một triệu dân di cư từ Bắc vào Nam; lần thứ hai, năm 1975 và những năm kế tiếp, với khoảng hai triệu người rời bỏ quê hương đi lánh nạn ở nước ngoài.[1] Những đợt tị nạn liên tiếp từ 1975 đến cuối thập kỷ 1980 đã gây nên nhiều cuộc khủng hoảng quốc tế về vấn đề tạm dung và cưỡng bách hồi hương khiến cho Liên Hiệp Quốc phải hai lần triệu tập hội nghị quốc tế tại Genève, năm 1979 và 1989, để tìm giải pháp thích hợp. Kế hoạch Hành động Toàn điện (Comprehensive Plan of Action – CPA) năm 1989 của Liên Hiệp Quốc dự liệu hoàn tất trong vòng ba năm nhưng dai dẳng mãi đến 1995 mới chính thức chấm dứt. Ngoài ra, không thể không nhắc đến hai trận chiến khác của Việt Nam sau khi đất nước thống nhất: chiến tranh bốn năm với Khờ-me Đỏ (1975-1979) và tiếp tục trấn giữ Cam-pu-chia cho tới 1989, và chiến tranh ngắn ngủi 16 ngày với Trung Quốc ở các tỉnh vùng biên giới đầu năm 1979.
Giai đoạn hơn nửa thế kỷ này có rất nhiều bài học chính trị, quân sự và ngoại giao cần phải được tìm hiểu và rút ra những kinh nghiệm khôn ngoan để cho dân tộc có thể tồn tại và phát triển, tránh khỏi trở thành nạn nhân của những chính sách cai trị sai lầm hoặc lại trở thành công cụ của những thế lực quốc tế trong những hình thức tranh chấp nóng hay lạnh trong tương lai. Ngạn ngữ Đông, Tây đều dạy rằng trong cái rủi có cái may.[2] Cuộc chiến thảm khốc do mâu thuẫn ý thức hệ đã khiến cho hai triệu người phải bỏ nước ra đi nhưng nay đã trở thành một nguồn tài chánh và trí tuệ quan trọng có khả năng phục hồi sinh lực của dân tộc, giúp cho đất nước sớm trở nên giàu mạnh và có một vị thế xứng đáng trong cộng đồng thế giới. Những người đang nắm giữ vận mệnh của quốc gia đã thấy rõ khả năng và triển vọng ấy nhưng vẫn chưa vượt ra khỏi những ràng buộc của quá khứ để thật sự thực hiện công cuộc hoà giải dân tộc và nắm bắt được những cơ may trước mắt.
Cuối năm 1997, khi biết chắc rằng chương trình định cư cuối cùng của chính phủ Mỹ cho tị nạn Việt Nam —“Cơ hội Định cư cho Người Việt Hồi hương” (Resettlement Opportunity for Viet­namese Returnees, ROVR)— đang tiến hành với kết quả tốt hơn dự liệu, tôi quyết định rời bỏ công việc hoạt động cho tị nạn mà tôi đã phụ trách hơn hai mươi năm để trở về cuộc đời dạy học với dự định viết một cuốn sách về lịch sử tị nạn Việt Nam và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vì môn dạy của tôi ở Đại học không liên quan đến Việt Nam, và công việc soạn bài lại chiếm mất khá nhiều thì giờ, cho nên tới giữa năm 2001 tôi mới thực sự bắt đầu công việc viết sách.
Lúc đầu tôi có ý định viết bằng Anh văn cho đối tượng độc giả chính là người ngoại quốc và thế hệ trẻ không đọc được tiếng Việt, vì sách vở và tài liệu viết bằng tiếng Việt đã khá nhiều. Ngoài ra, sách viết bằng tiếng Anh cũng sẽ giúp cho những độc giả ngoại quốc và thế hệ trẻ gốc Việt hiểu biết lịch sử Việt Nam một cách chính xác, tránh lập lại những nhận định sai lầm hay thiếu sót về văn hoá và chính trị mà nhiều tác giả ngoại quốc đã phạm phải khi họ viết về chiến tranh và cộng đồng tị nạn Việt Nam. Sau khi gửi bản tóm lược dự án và bản phác thảo các tiết mục của cuốn sách tới hai nhà xuất bản Mỹ và được sự góp ý của các chủ biên, tôi nhận thấy nội dung phức tạp của cuốn sách không nên bao gồm hết vào một tập mà cần phải được chia làm hai, đề cập tới hai thời kỳ với những sự kiện có liên quan nhân quả với nhau nhưng khác hẳn nhau: thời kỳ thứ nhất (1945-1979) gồm bốn cuộc chiến tranh trước và sau đợt tị nạn 1954 với những bài học về chính sách sai lầm và cơ hội bỏ lỡ của tất cả các phe lâm chiến; thời kỳ thứ hai (1975-1995) là lịch sử tị nạn 1975 với những kinh nghiệm đặc biệt về những cuộc vượt thoát, các biện pháp phát sinh ra tị nạn và phản ứng của quốc tế, những nỗ lực cứu trợ, bảo vệ tị nạn và tìm kiếm giải pháp công bằng và nhân đạo. Kết quả của tị nạn 1975 là sự hiện diện của các cộng đồng người Việt Nam ở gần một trăm quốc gia trên thế giới mà hầu hết đã trở thành công dân nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ, có những quan hệ phức tạp đối với chính quyền và các thành phần nhân dân ở trong nước.
Tuy nhiên, sau khi gửi bản tóm lược dự án cho một số thân hữu và qua những buổi tiếp xúc với nhiều nhóm khác nhau trong cộng đồng, kể cả ở Pháp và Canada, tác giả đã bị thuyết phục về ưu tiên viết cuốn sách này bằng tiếng Việt. Lý do chính được nêu ra là nội dung cuốn sách, với những sự kiện và nhận định khách quan về hai cuộc chiến tranh trong giai đoạn vừa qua, có thể góp phần đáng kể cho những cuộc thảo luận về các quan hệ giữa cộng đồng người Việt hải ngoại và chính quyền trong nước. Đây là một yêu cầu khá bức xúc sau khi chiến tranh đã chấm dứt ba mươi năm và thực tế trước mắt là các quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế càng ngày càng phát triển, và những đóng góp không chính thức nhưng rất quan trọng của cộng đồng người Việt hải ngoại cho đồng bào và xứ sở vẫn tiếp tục gia tăng. Như vậy đối tượng độc giả trước hết là tất cả mọi người Việt Nam trong và ngoài nước có những quan tâm chung, dù rằng trong những điều kiện hiện tại, do việc trình bày trung thực các sự kiện và nhận xét thẳng thắn về những sai lầm của mỗi bên trong quá khứ, cuốn sách khó có hi vọng được lưu hành ở trong nước. Bản dịch Anh văn, vì không còn phải mất công tìm tòi và nghiên cứu tài liệu, sẽ được thực hiện và xuất bản không bao lâu sau ấn bản tiếng Việt.
Mặc dù tập trung vào thời gian 50 năm giữa hai mốc lớn trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX là 1945 và 1995, cuốn sách sẽ phải nhắc đến một số sự kiện từ nhiều năm trước đã đưa đến Cách mạng tháng Tám 1945 và sự thắng lợi của Mặt trận Việt Minh, cũng như những biến chuyển trong quan hệ Việt-Mỹ và trong cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ sau khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995, chuẩn bị cho những quan hệ song phương mới trong thế kỷ XXI. Vì những bài học chiến tranh cần được lần lượt thảo luận trong cùng một phần, các nhận xét về những cuộc xung đột giữa Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với Khơ-me Đỏ và với Trung Quốc sau 1975 cũng được trình bày trong tập I này (xem Chương 9). Ngoài ra, vì chủ đích của cuốn sách là tìm hiểu kinh nghiệm của quá khứ để giúp ích cho hiện tại và tương lai cho nên các trận đánh, ngay cả những trận lớn, sẽ không được mô tả chi tiết mà chỉ được nhắc đến để nhận định về những ưu khuyết điểm trong sách lược của mỗi phe lâm chiến và hậu quả của những sách lược ấy.
Tập Một, Tị Nạn 1954 và Bài học Bốn Cuộc Chiến (1945-1979), gồm mười chương chia làm ba phần chính:
Phần thứ nhất tìm hiểu những nguyên nhân gốc rễ của tị nạn. Cộng đồng người Việt định cư tại gần một trăm quốc gia trên thế giới ngày nay trước hết là cộng đồng của những người tị nạn từ 1975. Tuy nhiên, mọi sự mô tả và giải thích về lịch sử cộng đồng hải ngoại này sẽ bị thiếu sót lớn nếu không nhắc đến những nguyên nhân phức tạp của cuộc di cư tị nạn năm 1954, khi gần một triệu người từ miền Bắc ào ạt kéo nhau vào miền Nam trong thời hạn ba trăm ngày ấn định bởi thỏa hiệp Genève. Việc tìm hiểu những nguyên nhân gốc rễ của cuộc tị nạn đầu tiên này sẽ cho thấy rằng, ngoài những yếu tố chính trị quốc nội như những cuộc tranh chấp quốc gia-cộng sản, cải cách ruộng đất và chỉnh huấn trí thức, có những yếu tố bên ngoài —Trung Hoa Quốc Gia, Pháp và Hoa Kỳ— đã ảnh hưởng sâu đậm tới số phận của dân tộc Việt Nam, trước và sau Đệ nhị Thế chiến.
Phần thứ hai nói về hoạt động của tứ cường (Mỹ, Pháp, Anh, Liên Xô) và Trung quốc trước và trong hội nghị Genève đưa đến việc chia đôi nước Việt Nam với hai chính thể đối nghịch nhau. Tiếp theo là phân tích những sai lầm và cơ hội bỏ lỡ của Pháp và Hoa Kỳ, nguyên nhân thất bại của phe quốc gia, và lòng ngưỡng mộ cùng với món nợ quá lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam đốì với Trung Quốc trong cuộc chiến tranh chống Pháp khiến cho phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã phải bàng hoàng trước sự trở mặt và áp lực trắng trợn của Trung Quốc tại hội nghị Genève. Sau hết là lịch sử cuộc di cư tị nạn năm 1954-1955 với những nỗ lực ngăn chặn người ra đi, những kinh nghiệm chuyển vận và định cư thành công gần một triệu dân miền Bắc ở các tỉnh miền Nam trong một thời gian kỷ lục.
Phần thứ ba tập trung vào cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam, Bắc với sự hậu thuẫn của hai thế lực quốc tế tranh giành ảnh hưởng bằng chiến tranh ủy nhiệm: Hoa Kỳ tham chiến ở miền Nam, Liên Xô và Trung Quốc trợ lực cho miền Bắc. Những hiểu biết thiếu sót về văn hoá và lịch sử của bạn và thù, những sai lầm trong chính sách và những cơ hội hòa bình bỏ lỡ của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Sản và Việt Nam Quốc Gia đều được phân tích và nhận định khá kỹ lưỡng trong phần này. Tất cả những nhận định đó đưa đến kết luận tất yếu là cuộc chiến hai mươi năm ở Việt Nam vừa là nội chiến vừa là chiến tranh ủy nhiệm mà rốt cuộc là tất cả mọi phe đều thua : Hoa Kỳ chi phí 200 tỉ đô-la và thiệt hại trên 58,000 binh sĩ nhưng vẫn phải chịu thất bại và bỏ cuộc; Việt Nam Cộng Hoà chết hơn một trăm ngàn quân và gần nửa triệu dân để rồi bị Hoa Kỳ bỏ rơi và sụp đổ thảm thương; Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam toàn thắng nhưng đã phải trả giá bằng hơn một triệu sinh mạng bộ đội và cán bộ tại chiến trường miền Nam và khoảng hai triệu thường dân ở miền Bắc,[3] nhất là sau đó còn phải chiến đấu với hai cựu đồng minh và nhận lãnh những hậu quả tai hại khiến cho đất nước bị lâm vào tình trạng tụt hậu và nghèo đói trong mười mấy năm liền do chính sách sai lầm về cả hai mặt đối nội lẫn đối ngoại.
Nội dung của tập II, chủ yếu là lịch sử tị nạn 1975 và cộng đồng người Việt Nam ở Hoa Kỳ, sẽ được trình bày chi tiết sau. Đại cương, cuốn sách sẽ mô tả những đợt tị nạn kéo dài từ 1975 cho đến những năm đầu của thập kỷ 1990 ghi dấu những biến cố bi thảm và lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam khiến cho hơn bảy chục quốc gia trên thế giới phải chia nhau trách nhiệm giải quyết. Công cuộc tranh đấu bảo vệ thuyền nhân tị nạn, những giải pháp của quốc tế và Hoa Kỳ, chương trình định cư hơn một triệu rưỡi người Việt Nam ở mấy chục tiểu bang của nước Mỹ là những nguồn tài liệu và kinh nghiệm đặc biệt về di dân, thích ứng và hội nhập, có tác dụng lâu dài vào xã hội Mỹ, vào cộng đồng người Mỹ gốc Việt và đất nước Việt Nam. Trong quá trình tị nạn và định cư này, phải nói đến những tổ chức và sinh hoạt chính trị phức tạp trong cộng đồng tị nạn, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, quan hệ giữa cộng đồng người Mỹ gốc Việt với chính quyền và các thành phần dân chúng ở trong nước. Cuối cùng là vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng người Mỹ gốc Việt đối với quốc gia mà mình đã nhập tịch và đối với quê hương nguồn cội của mình.
Khi nói đến những kinh nghiệm và bài học của quá khứ tất nhiên phải kiểm điểm những ưu khuyết điểm, đặc biệt là những quyết định sai lầm của mỗi phe liên hệ và hậu quả của những quyết định ấy đối với dân tộc Việt Nam. Việc kiểm điểm này đòi hỏi một thái độ khách quan, trình bày sự kiện một cách trung thực, tránh những lời lẽ ca ngợi hay chỉ trích do thiên kiến hay cảm xúc. Thực tình mà nói, khó có thể thấy một thái độ tuyệt đối khách quan ở một người vừa là nhân chứng vừa là người trong cuộc, nhưng ngay cả những người ngoài cuộc như các tác giả và phóng viên ngoại quốc cũng không ít người mang sẵn định kiến hay tình cảm thiên vị đối với phe bên này hay bên kia. Dù sao, cuốn sách này vẫn là kết quả của những nỗ lực nghiên cứu khoa học và khách quan đến tối đa. Nhờ đó, những nhận định trong sách sẽ đính chính được nhiều sự ngộ nhận hay quan điểm sai lầm của nhiều quan sát viên ngoại quốc đối với các phe liên hệ trong cả hai cuộc chiến ở Việt Nam. Không có gì đảm bảo tất cả mọi sự kiện trình bày trong sách đều đúng một trăm phần trăm nhưng chúng đã được gạn lọc kỹ càng, căn cứ vào những nguồn tài liệu đáng tin cậy. Điều chắc chắn là thái độ vô tư khi phân tích và nhận định sự kiện sẽ khó tránh khỏi làm phật lòng một số người liên hệ, hoặc không phù hợp với những khung ý thức hệ đã có sẵn, do đó quan điểm của tác giả trong nhất thời vẫn có thể bị phía bên này hay phía bên kia gán cho những nhãn hiệu chính trị đối lập nhau.
Ôn lại lịch sử là để “trả lại cho César cái gì của César”, tức là phục hồi sự thật trong tinh thần bình thản vô tư của những người đã vượt lên khỏi những xúc động và phản ứng chủ quan trong những tình huống nhất định. Trong tinh thần đó, kiểm điểm những sự việc đã qua không phải để khích động lại những mâu thuẫn và thù hận cũ, mà để nhận ra được những kinh nghiệm đau thương, những sai lầm cần phải tránh. Đáng chú ý là những sai lầm quan trọng thường được phát xuất từ phe có sức mạnh hoặc phe đã thắng trận nhiều hơn là phe yếu thế và bại trận. Bởi vậy, nếu trong sách này công việc phân tích và nhận định sai lầm có phần nặng hơn về phía các nhà làm chính sách của Hoa Kỳ và các nhà lãnh đạo miền Bắc Việt Nam thì cũng không nên bị chê trách là thiên vị hay thiếu công bằng. Quan trọng hơn hết vẫn là “ôn cố tri tân”, học kinh nghiệm quá khứ để làm được chuyện tốt hơn cho hiện tại và tương lai. Không ai có thể thay đổi được quá khứ nhưng ai cũng có thể và cần phải vượt lên khỏi những sai lầm của quá khứ. Đó chính là bài học tích cực của lịch sử. Đó cũng là đức tính cần phải có ở những nhà lãnh đạo sáng suốt sẽ được đánh giá xứng đáng bởi nhân dân và những nhà viết sử.
Nhiều nguồn tài liệu khác nhau đã được tham khảo khi viết cuốn sách này. Tất cả những tác giả, tác phẩm và những nguồn cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung cuốn sách đều được liệt kê trong mục “Tài Liệu Tham Khảo” ở phần cuối sách. Điều đó không có nghĩa là tác giả đã đọc và khai thác trực tiếp tất cả những tài liệu liệt kê mà chỉ muốn giúp cho những độc giả muốn tra cứu sâu hơn đỡ mất công tìm kiếm. Chỉ khi nào thấy có những chỗ khác nhau trong các tài liệu đã tham khảo hoặc có điều gì còn ngờ vực cần được kiểm chứng, tác giả mới phải tìm kiếm văn kiện gốc để đối chiếu và nhận xét. Tất cả những lời dẫn chứng hay ý kiến không phải của tác giả đều được để trong dấu ngoặc kép và được ghi rõ xuất xứ trong phần chú thích. Nhiều khi vì cần giới hạn nội dung mỗi chương sách trong phạm vi cần thiết của nó, tác giả đã đưa thêm vào phần chú thích một số thông tin hay những nhận định bổ túc của mình. Chính vì sự giới hạn này mà tác giả rất tiếc đã phải lược bỏ nhiều sự kiện liên hệ với ước mong là chúng sẽ được những nhà nghiên cứu khác khai thác khi viết về những vấn đề nhất định trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này.
Phần Phụ lục gồm một số ít văn bản đã được nhắc đến hoặc trích dẫn ở trong sách, được chọn để in lại và sắp xếp theo thứ tự thời gian vì chúng là những dấu tích lịch sử quan trọng hay vì tương đối không dễ dàng kiếm được.
Mặc dù đã cố gắng làm việc trong tinh thần vô tư và thiện chí xây dựng, tác giả chắc chắn vẫn không tránh khỏi những sai lầm hay sơ suất trong việc trình bày các sự kiện và nhận định. Tác giả sẽ rất cám ơn và tôn trọng mọi ý kiến thảo luận, những điều đính chính hay bổ túc của qúi vị độc giả trong và ngoài nước.
Bethesda, Maryland, Mùa Xuân 2004
—–
[1] Tổng số người Việt Nam định cư ở nước ngoài gồm tị nạn, di dân từ 1975 và thế hệ trẻ ra đời những năm về sau, kể cả những người đi từ miền Bắc chọn ở lại Nga và các nước Đông Âu, tính đến nay được ước lượng khoảng gần ba triệu người.
[2] Đồng phương: “Hoạ trung hữu phúc”. Tây phương: “A quelque chose malheur est bon”.
[3] Xem xuất xứ các con số ở chương 8.

“Việt Nam 1945-1995 – Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử”


01-02-2013
GS LXK
Gần đây, có hai sự kiện khiến dư luận sôi nổi: Đó là bộ sách “Bên Thắng Cuộc” với hai tập của nhà báo Huy Đức, tức blogger Osin, và việc kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris 1973. Những tranh cãi quanh vấn đề “quốc-cộng”, ôn lại các sự kiện đã qua sẽ chỉ có ý nghĩa nếu chúng ta rút ra được những bài học và kinh nghiệm cần thiết cho tương lai của đất nước và dân tộc.
Vào năm 2005, đã từng xảy ra một cuộc tranh cãi tương tự, sau khi Giáo sư Lê Xuân Khoa (*) có bài viết về tên gọi cuộc chiến đăng trên trang web của BBC. Bài này bị Biên Tập viên Nguyễn Hòa của báo Nhân Dân phản bác rồi trở thành một cuộc tranh luận kéo dài nhiều tháng trên diễn đàn talawas với sự tham gia của nhiều độc giả ở trong và ngoài nước. Về sau, ông Nguyễn Hoà ngưng bút chiến, khi một cựu chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam lên tiếng phản bác ông qua bài Gửi Nguyễn Hoà, người đồng đội.
Nhìn chung, gần 40 năm sau khi đất nước thống nhất, những người lãnh đạo Cộng hòa XHCN Việt Nam, hay “Bên Thắng Cuộc” theo cách gọi của nhà báo Huy Đức, vẫn không đếm xỉa gì tới những bài học lịch sử vì tin là “đã đánh thắng Mỹ thì chuyện gì cũng làm được”. Chưa kể do thiếu kiến thức mà lại không chiụ nghe trí thức, chỉ thực thi một số giáo điều, họ trở thành thiển cận trước những xu hướng và tương quan chính trị, kinh tế toàn cầu. Hậu quả là đất nước không hoàn toàn độc lập và toàn vẹn về chủ quyền, nhân dân thì bị tước đoạt các quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nếu bên trong, tham nhũng đã trở thành quốc nạn hết thuốc chữa thì bên ngoài, sự lệ thuộc vào Trung Quốc càng ngày càng rõ. Trách nhiệm đối với vận mạng của đất nước nay lại trở thành vấn đề khẩn thiết đối với trí thức và người dân Việt Nam.
Qua vài sự kiện vừa dẫn, trước nhu cầu thay đổi cơ chế và chính sách phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và lợi ích của đất nước, chúng tôi tin rằng, ôn lại kinh nghiệm trong bốn cuộc chiến tranh trước và sau ngày thống nhất Bắc-Nam là điều cần thiết. Đó cũng là lý do chúng tôi quyết định giới thiệu cuốn sách “Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử”, tập I, của Giáo sư Lê Xuân Khoa.
Trong “Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử”, tập I, Giáo sư Lê Xuân Khoa giới thiệu những nghiên cứu và nhận định của ông về bốn cuộc chiến tranh liên tiếp, với những thiệt hại chưa từng có về tài sản và sinh mạng của người Việt. Ngoài ra, ông còn phân tích khá kỹ lưỡng những sai lầm về chính sách và những cơ hội mà hai chủ thể quốc gia và cộng sản cũng như các cường quốc được coi là đồng minh của mỗi bên đã bỏ lỡ. Theo ông: “Có rất nhiều bài học chính trị, quân sự và ngoại giao cần phải được tìm hiểu và rút ra những kinh nghiệm khôn ngoan để cho dân tộc có thể tồn tại và phát triển, tránh khỏi trở thành nạn nhân của những chính sách cai trị sai lầm hoặc lại trở thành công cụ của những thế lực quốc tế trong những hình thức tranh chấp nóng hay lạnh trong tương lai. Ngạn ngữ Đông, Tây đều dạy rằng trong cái rủi có cái may. Cuộc chiến thảm khốc do mâu thuẫn ý thức hệ đã khiến cho hai triệu người phải bỏ nước ra đi nhưng nay đã trở thành một nguồn tài chánh và trí tuệ quan trọng có khả năng phục hồi sinh lực của dân tộc, giúp cho đất nước sớm trở nên giàu, mạnh và có một vị thế xứng đáng trong cộng đồng thế giới”.
Chúng tôi tin rằng, “Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử”, tập I của Giáo sư Lê Xuân Khoa sẽ có ích cho những ai mong mỏi bảo vệ chủ quyền và xây dựng một Việt Nam, giàu, mạnh, dân chủ. Chúng tôi đã đề nghị Giáo sư Khoa tái bản cuốn sách này nhưng ông cho hay, bản CD dùng để in sách đã bị thất lạc khi ông dọn nhà từ Washington D.C đến California. Vì lợi ích chung, ông đã cho phép chúng tôi được phổ biến cuốn sách trên blog Ba Sàm. Chúng tôi đã đánh máy lại toàn bộ cuốn sách và kể từ hôm nay, sẽ bắt đầu giới thiệu “Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử”, tập I, khoảng 600 trang, gồm 10 chương và phụ lục, của Giáo sư Lê Xuân Khoa. Mời độc giả đón đọc.
——-
(*) Vài dòng về tác giả: Trước 1975, Giáo sư Lê Xuân Khoa giảng dạy Triết học Đông phương ở Đại học Văn Khoa và là Phó Viện trưởng Đại học Saigon. Sau 1975, ông là Chủ tịch Trung tâm Tác Vụ Đông Nam Á (Southeast Asia Resource Action Center) và Giáo sư Thỉnh giảng tại trường Cao Học Nghiên cứu Quốc tế (SAIS) và Viện Chính sách Đối ngoại (FPI) thuộc Đại học Johns Hopkins, Washington, DC. Năm 1996, Giáo sư Lê Xuân Khoa về hưu. Hiện cư ngụ tại Irvine, California. Nếu cần trao đổi thêm với tác giả về nội dung liên quan đến cuốn sách “Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử”, độc giả có thể gửi email về: le.khoa@cox.net.
———
MỤC LỤC
Lời Cám ơn                                                                                                                             xv
Bảng Chữ tắt                                                                                                                        xviii
Lời Mở đầu                                                                                                                             21
Phần I             Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn                                                 31
Chương 1        Quốc Gia và Cộng Sản                                                                                   33
Các phong trào chống Pháp giành độc lập và mầm mống xung đột quốc gia-cộng sản. Nguyễn Ái Quốc với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội và OSS. Chính phủ Trần Trọng Kim và Cách mạng tháng Tám. Hồ Chí Minh, Bảo Đại và Pháp. Cuộc đối đầu giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia. Hành động bội ước của Lư Hán và Tiêu Văn và sự tan rã của phe quốc gia. Nguyên nhân thất bại của các lãnh tụ quốc gia.
Chương 2        Những Yếu T Bên Ngoài                                                                              75
Những lỗi lầm của Pháp: Charles de Gaulle và đầu óc thực dân ngoan cố của giới lãnh đạo Pháp. Hồ Chí Minh và bản tạm ước 4.9.1946. Chiến tranh và những cơ hội bỏ lỡ. Pháp và giải pháp Bảo Đại: đồng sàng dị mộng. Pháp làm mất chính nghĩa của phe quốc gia. Chính sách mâu thuẫn của Hoa Kỳ.
Chủ thuyết Roosevelt và hai đường lối đối nghịch trong Bộ ngoại giao. Pháp bắt chẹt Mỹ và nghịch lý trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Đông Dương từ Truman đến Eisenhower.
Chương 3        Chính sách Cải Cách Ruộng Đất                                                                    122
Đường lối của Lenin: từ tư bản lý tưởng đến vô sản chuyên chính. Trường hợp Việt Nam. Các văn kiện pháp lý và các biện pháp áp dụng trước khi đất nước chia đôi: giảm tô giảm tức, qui định thành phần nông thôn, phân chia ruộng đất, vận động quần chúng, tòa án nhân dân. Chỉnh huấn trí thức và chỉnh đốn tổ chức. Luật cải cách ruộng đất 1953. Ảnh hưởng và áp lực của Trung quốc. Thí điểm áp dụng và kết quả. Đợt cải cách triệt để 1955-1956 và hậu quả khủng khiếp của nó. Những biện pháp sửa sai.
Phần II           Chiến Tranh chống Pháp và Tị Nạn 1954                                        159
Chương 4        Hội Nghị Genève và Hai Nước Việt Nam                                                     161
Hội nghị Genève và “cú sốc” chính trị của Mendès France. Những ý đồ của Trung Quốc và Liên Xô và áp lực đối với đồng minh Cộng sản Việt Nam. Phản ứng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Bảy điều kiện của Anh-Mỹ cho những cuộc thương thuyết ở Genève. Cuộc hội kiến Mendès France-Dulles và thành công ngoại giao của thủ tướng Pháp. Sự thất bại của Bidault về giải pháp “hòa bình trong danh dự”. Mendès France công kích cộng sản Pháp. Kết quả hội nghị Genève. Phản ứng của Quốc Gia Việt Nam.
Chương 5        Bài học Chín Năm (1945-1954)                                                                      192
Cái giá của chiến thắng 1954. Những sai lầm chủ yếu của Pháp và Hoa Kỳ và các cơ hội bỏ lỡ. Ảnh hưởng đối với Quốc gia Việt Nam. Nguyên nhân thất bại của các đảng phái chính trị quốc gia và những trí thức yêu nước. Sự lựa chọn bất đắc dĩ của Hồ Chí Minh và món nợ quá lớn đối với Trung Quốc. Những lý do Trung Quốc ủng hộ Việt Minh chống Pháp. Vai trò của các cố vấn quân sự Trung Quốc. Những sai biệt cần phải giải quyết giữa tài liệu của Bắc Kinh và hồi ức của Võ Nguyên Giáp về các chiến thắng Cao Bằng, Tây Bắc và Điện Biên Phủ.
Chương 6        Di tản và Định cư Tị nạn 1954                                                                 235
Những điều khoản trong hiệp định Genève và bản Tuyên cáo chung về thời hạn di cư và quyền chọn lựa nơi cư trú. Định nghĩa của Liên Hiệp Quốc: Tị nạn hay “di tản nội địa”? Những vi phạm hiệp định Genève trong công cuộc di tản. Vấn đề chuyên chở, tiếp cư và định cư. Phủ Tổng ủy Di Cư Tị Nạn. Sự giúp đỡ của Pháp và Hoa Kỳ. Chính sách và công cuộc định cư ở miền Nam. Các giai đoạn và địa điểm định cư. Vấn đề hội nhập của dân tị nạn miền Bắc. Vấn đề tập kết quân đội Việt Minh và số dân di cư từ Nam ra Bắc. Các chương trình cứu trợ và định cư tị nạn của quốc tế.
Phần III          Nội Chiến hay Chiến Tranh ủy Nhiệm?                                           271
Chương 7        Sự Sụp Đổ của Việt Nam Cộng Hòa                                                           273
Việt Nam Cộng Hòa và vấn đề thi hành hiệp định Genève. Chính sách hậu Genève của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Liên Xô đối với Việt Nam. Những chuẩn bị chiến tranh của hai miền Nam, Bắc. Mặt trận Giải phóng miền Nam. Thất bại của sách lược chống du kích của Kennedy và lợi thế cửa Hà Nội sau Hội nghị Genève về Lào. Khủng hoảng lãnh đạo ở miền Nam. Thất bại của sách lược “cây gậy và củ cà-rốt” của Johnson. Hòa đàm Paris và những mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và VNCH. Tình trạng nguy kịch của VNCH sau Hiệp định Paris. Những ngày cuối cùng của VNCH.
Chương 8        Sai lầm của Hoa Kỳ                                                                                     314
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và Ngô Đình Diệm. Những sai lầm của “Mỹ hóa chiến tranh”. Kiểm điểm năm nguyên nhân thất bại của Hoa Kỳ theo McNamara: thuyết domino; tin tưởng sai lầm vào miền Nam; Cộng sản là yêu nước; thiếu hiểu biết về lịch sử và văn hóa Việt Nam; sức mạnh giới hạn của vũ khí. Vấn đề trung lập hóa miền Nam. Sáu cơ hội chấm dứt chiến tranh: Mayflower hay Bốn điểm của Hà Nội; Tín hiệu Mai Văn Bộ; Pinta hay mười bốn điểm của Mỹ; Tín hiệu Nguyễn Duy Trinh; Sunflower hay giải pháp Kosygin Wilson; Pennsylvania và vai trò Kissinger-Aubrac.
Chương 9        Sai lầm của Việt Nam Cộng Sản                                                                 361
Đối với Hoa Kỳ: hiểu sai mục đích và lề lối làm việc của Mỹ từ hội nghị Genève 1954. Nạn nhân của Liên Xô và Trung Quốc. Óc đa nghi và thái độ “lên gân”. Nhu đạo quân sự và nhu đạo ngoại giao. Lỡ cơ hội bang giao với Carter. Đối với VNCH: yêu nước hay yêu chủ nghĩa cộng sản? Bù nhìn của Mỹ hay bù nhìn của Trung Quốc? Chính sách học tập cải tạo. Đối với MTGPMN: đặc tính địa phương và quan niệm Nam, Bắc về vấn đề thống nhất. Chính sách “cưỡng bách thống nhất trong hòa bình”. Đối với Trung Quốc: “hậu phương lớn” và đầu óc bá quyền, vấn đề biên giới. Mâu thuẫn 1975-1979. Chính sách đối với người Hoa. Đối với Kam-pu-chia: so sánh quan hệ Việt-Trung và quan hệ Việt-Khmer. Lịch sử quan hệ Việt-Khmer và nguyên do xung đột. Bài học Trương Minh Giảng. Bài học chiến tranh Kam-pu-chia 1979-1989.
Chương 10      Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia                                                                 410
Thất bại của quốc gia trước sức mạnh tuyên truyền của cộng sản. Bảo Đại và Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp: cơ hội bỏ lỡ. Nhược điểm của các lãnh tụ quốc gia chống Pháp. Ngô Đình Diệm: thân thế và thành tích chống Pháp, dẹp Bình Xuyên và truất phế Bảo Đại. Những sai lầm của Ngô Đình Diệm: quan niệm trị quốc phong kiến và sứ mệnh thiêng liêng, độc tài gia đình trị và đàn áp đối lập, cải cách điền địa, khu trù mật và ấp chiến lược. Vụ Phật Giáo và kết thúc bi thảm của Đệ Nhất Cộng Hòa. Khủng hoảng lãnh đạo và bất ổn chính trị sau Ngô Đình Diệm. Đệ nhị Cộng hòa và liên danh “đồng sàng dị mộng” Thiệu- Kỳ. Kiểm điểm thành tích và sai lầm của Nguyễn Văn Thiệu. Sai lầm lớn lao và trách nhiệm chung của các tướng lãnh làm chính trị.
Lời Kết                                                                                                                                      485
Phụ Lục                                                                                                                                    499
A. Tờ chiếu của Vua Bảo Đại sau ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh.
B. Tờ chiếu thoái vị của Vua Bảo Đại.
C. Bài diễn văn của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường về Cải cách Ruộng đất.
D. Thư của Tổng thống Lyndon B. Johnson gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, và Thư trả lời của Hồ Chí Minh cho Johnson.
E. Hiệp định Paris (Chương IV và V): Quyền Tự quyết của Nhân dân miền Nam Việt Nam và vấn đề Thống nhất đất nước.
Tài Liệu Tham Khảo                                                                                                             535
Danh Mục

Việt Nam 1945-1995 – Chương 1: Quốc gia và Cộng sản

Phần 1: Những Nguyên Nhân Gốc của Tị Nạn

Chương 1: Quốc gia và Cộng sản

GS Lê Xuân Khoa
Ưu điểm lớn nhất của Việt Minh là khả năng tuyên truyền vận động quần chúng.53 Việt Minh đã khéo che dấu được lai lịch cộng sản dưới hình thức một mặt trận đoàn kết toàn dân với mục tiêu duy nhất là chống Pháp để đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Nhờ có thành tích chống cả Pháp lẫn Nhật, nhất là biết khai thác tối đa các quan hệ hợp tác với OSS, chủ thuyết Roosevelt và triển vọng hỗ trợ của Hoa Kỳ, Việt Minh đã dễ dàng đem lại cho mọi người niềm tin tưởng là có sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Đó cũng là một trong những lý do khiến chính phủ Trần Trọng Kim không dám chống lại Việt Minh và vua Bảo Đại sẵn sàng thoái vị.
Lịch sử Việt Nam vào nửa sau của thế kỷ XX là lịch sử của đất nước bị chia đôi và bốn cuộc chiến tranh trước và sau sự chia cắt ấy. Cuộc chiến thứ nhất là kháng chiến chống Pháp và chống Quốc Gia Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Mặt trận Việt Minh) lãnh đạo (1945-1954). Cuộc chiến thứ nhì là nội chiến giữa miền Bắc cộng sản và miền Nam quốc gia (1956-1975) với sự tham gia của hai khối đối đầu trong cuộc Chiến tranh Lạnh: Hoa Kỳ chiến đấu sát cánh với miền Nam, Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn cho miền Bắc. Hai cuộc chiến tiếp theo xảy ra giữa Việt Nam và hai đồng minh cộng sản: Trung Quốc (tháng Hai 1979) và Cam-pu-chia (1979-1989).
Đây không phải là lần đầu đất nước bị chia đôi và có nội chiến. Vào thế kỷ thứ XVI, sau khi Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông rồi lập ra triều đại nhà Mạc, một số cận thần nhà Lễ chạy vào Thanh Hóa lập người con út của Chiêu Tông lên kế vị và mở cuộc chiến tranh chống nhà Mạc. Cuộc chiến khôi phục nhà Lê kéo dài 52 năm (1540-1592) mới đạt được thắng lợi. Các sử gia gọi giai đoạn này là chiến tranh giữa Nam triều và Bắc triều, với lằn ranh không rõ rệt là Thanh Hóa (thời đó lãnh thổ miền Nam chỉ mới xuống đến Quảng Nam, sát với Chiêm Thành.) Giới cận thần của nhà Lê lại chia làm hai phe họ Trịnh và họ Nguyễn với thực quyền trong tay họ Trịnh, vì vậy có danh xưng là Chúa Trịnh. Từ 1558, họ Nguyễn bắt đầu vào phía Nam lập nghiệp và đến 1627 thì cắt đứt liên hệ với họ Trịnh. Giang sơn của Chúa Nguyễn bắt đầu thành lập, lấy sông Gianh tỉnh Quảng Bình làm giới tuyến. Hai miền từ nay được gọi là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Cuộc nội chiến lần này kéo dài 45 năm, tổng cộng bảy trận đánh lớn trong đó sáu trận do miền Bắc tấn công. Kết quả bất phân thắng bại, chúa Trịnh rút quân luôn về Bắc năm 1672. Đất nước tiếp tục chia đôi cho đến khi Nguyễn Huệ nổi lên đánh chúa Nguyễn, diệt nhà Trịnh, lấy đất Bắc và lập ra triều đại Tây Sơn năm 1788.
Việc hiệp định Genève chia đôi Việt Nam năm 1954 đưa đến cuộc di cư tị nạn của gần một triệu người từ Bắc vào Nam bắt nguồn từ những nguyên do sâu xa và phức tạp. Tìm hiểu những nguyên do đó sẽ giúp cho ta có một cái nhìn đầy đủ, khách quan và công bình về giai đoạn lịch sử này của dân tộc. Tổng hợp các yếu tố trong và ngoài nước, ta có thể ghi nhận ba nguyên nhân gốc rễ (root causes) của tị nạn 1954:
1. Cuộc tranh chấp giữa hai phe quốc gia và cộng sản trong quá trình đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc từ những năm cuối thập kỷ 1920;
2. Những yếu tố bên ngoài gồm sự bội ước của tướng lãnh Quốc Dân Đảng Trung Hoa, chủ nghĩa thực dân lỗi thời của Pháp, và chính sách bất nhất của Hoa Kỳ đối với Đông Dương trong cuộc chiến tranh 1945-1954; và
3. Hậu quả của chính sách “cải cách ruộng đất” và phong trào “chỉnh huấn ” được chuẩn bị và phát động từ trước 1954 nhằm tiêu diệt giới địa chủ và khủng bố trí thức ở miền Bắc một cách có hệ thống.

Chương 1: Quốc gia và Cộng sản

Tiếp nối truyền thống yêu nước chống xâm lăng từ ngày lập quốc, công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được tiếp tục ngay sau khi Pháp hoàn tất cuộc chinh phục Việt Nam bằng hòa ước Patenôtre năm 1884, gần nửa thế kỷ trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập. Phong trào cần Vương dưới sự lãnh đạo của Vua Hàm Nghi từ 1885 vẫn hoạt động ngay cả sau khi nhà vua bị Pháp bắt được và đầy sang Algérie năm 1888. Hai cuộc khởi nghĩa khác do Nguyễn Thiện Thuật và Phan Đình Phùng chỉ huy bị dẹp tan trước cuối thế kỷ, nhưng cuộc nổi dậy của Hoàng Hoa Thám đã kéo dài được 30 năm cho đến khi ông bị giết năm 1913. Khi đã thiết lập được guồng máy thống trị vững vàng, chính quyền thực dân Pháp vẫn phải đương đầu với các phong trào giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu kiệt xuất như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Thân Cường Để, Trần Cao Vân và Nguyễn Thượng Hiền. Một trong những phong trào này được cầm đầu bởi Hoàng đế Duy Tân, mười sáu tuổi, do chính người Pháp đưa lên ngôi từ năm lên bảy thay cho vua cha là Thành Thái bị Pháp đầy sang đảo Réunion vì âm mưu chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1916, vua Duy Tân bị Pháp bắt và cũng bị lưu đày ở đảo Réunion. Những tổ chức quốc gia chống Pháp sau đó đều phát xuất từ giới trí thức được đào tạo dưới nền giáo dục Pháp, đáng kể nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) ở miền Bắc, hai giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam cùng với các nhóm chính tri và báo chí của một số trí thức du học ở Pháp về.
Hồ Chí Minh, người cộng sản Việt Nam đầu tiên, sang Pháp năm 1911 với tên gốc là Nguyễn Tất Thành, sau đó sống lưu vong ở nhiều nước Phi châu, Á châu, Nam Mỹ, Hoa Kỳ và Anh quốc. Trong những lá thư viết về Pháp cho bạn của thân phụ ông là Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành thường phàn nàn về đời sống cực nhọc của mình nhưng vẫn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước. Năm 1917, ông trở lại Pháp và từ đó chuyên tâm vào hoạt động chính trị với các đảng viên Xã Hội. Năm 1920, Nguyễn Tất Thành, khi đó đã đổi tên là Nguyễn Ái Quốc, là một trong những sáng lập viên của đảng Cộng Sản Pháp trong một kỳ đại hội do đảng Xã Hội triệu tập. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc được đưa sang Nga để làm việc tại Ban Phương Đông của tổ chức Cộng Sản Quốc Tế (Comintern) đồng thời được huấn luyện về tổ chức và kỹ thuật cách mạng. Cuối năm 1924, ông được gửi sang Trung Hoa1 để làm việc cho hãng thông tấn Xô-viết ROSTA dưới sự điều động của Mikhail Borodin, trưởng đoàn cố vấn Comintem cho tổ chức Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên. Để che mắt mạng lưới mật thám Pháp, Nguyễn Ái Quốc cải danh là Lý Thụy và những bản báo cáo của ông gửi về Nga được ký dưới bút hiệu Nilovskii. Hơn nửa năm sau, ông đã kết hợp được với nhóm Tâm Tâm Xã của Lê Quang Đạt, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu để thành lập nhóm Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (VNTNCM). Nhóm này xuất bản tờ báo Thanh Niên và mở trường huấn luyện cách mạng giải phóng dân tộc, giảng dạy chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên cùng với chủ thuyết cách mạng thế giới của Lê-Nin. Nhờ liên hệ với những phần tử ái quốc từ Việt Nam chạy sang Trung Hoa trong thời gian này và những cơ hội về sau, Nguyễn Ái Quốc đã có kinh nghiệm thuyết phục họ bằng cách lồng chủ nghĩa cộng sản vào tinh thần yêu nước, mặt khác hiểu rõ được lập trường của những người bất đồng chính kiến để có thể tìm cách hợp tác hay đối phó thích hợp.
Sau khi Tôn Dật Tiên qua đời năm 1925, mối quan hệ thân thiện giữa đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng ở Trung Hoa bị tan rã mau chóng. Khi Tưởng Giới Thạch dùng bạo lực thanh trừng cộng sản năm 1927 thì Nguyễn Ái Quốc phải trốn sang Hồng Kông để từ đó trở về Nga rồi lại trở sang Âu châu. Giữa năm 1928 ông đáp tàu đi Thái Lan, liên lạc được với đoàn viên của nhóm VNTNCM và bắt đầu hoạt động trong cộng đồng Việt kiều ở Thái. Trong thời gian này, VNQDĐ từ bên Việt Nam có tiếp xúc với VNTNCM tính phối hợp hoạt động nhưng không thành vì đường lối cách mạng không hợp nhau. VNQDĐ áp dụng Tam Dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc)2 nhưng không chấp nhận chủ trương đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lê.
Chính trong nội bộ của VNTNCM cũng có sự rạn nứt ngấm ngầm và đã bùng nổ công khai trong kỳ đại hội tháng Năm 1929 ở Hồng Kông. Nhóm đại biểu từ Việt Nam qua do Trần Văn Cung cầm đầu bỏ đại hội trở về nước để phản đối Chủ tịch Đại hội Lâm Đức Thụ, và ngay sau đó lập ra Đông Dương Cộng Sản Đảng (ĐDCSĐ) để cạnh tranh với VNTNCM. Mấy tháng sau, nhóm Hồ Tùng Mậu, Lê Quang Đạt, Lê Hồng Sơn ở Trung Hoa lại lập ra An Nam Cộng Sản Đảng (ANCSĐ) và đề nghị họp với ĐDCSĐ để bàn chuyện thống nhất nhưng Trần Văn Cung từ chối đề nghị này. Trong khi đó, một số đảng viên cũ của Tân Việt Cách Mạng Đảng, một tổ chức thành lập sau khi Phan Bội Châu bị Pháp bắt năm 1925, lại lập thêm một đảng khác lấy tên là Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn (ĐDCSLĐ). Trước tình trạng chia rẽ của cộng sản Việt Nam thành ba phe, Comintern thông báo không thừa nhận phe nào và đòi hỏi phải có một hội nghị thống nhất dưới sự điều hợp của đại diện Comintem. Đầu tháng Hai 1930, hội nghị thống nhất này được triệu tập tại Hồng Kông dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc và kết quả là sự giải tán cả ba phe để thành lập một tổ chức duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN).
Trong lúc đó, VNQDĐ đang chuẩn bị cuộc khởi nghĩa Yên Báy. Do lời mời của VNQDĐ, một số đảng viên cộng sản có ý định tham gia nhưng Trần Văn Cung không đồng ý vì cho rằng cuộc khởi nghĩa thiếu chuẩn bị và chưa có được thời cơ. Nguyễn Ái Quốc sau này cho biết trong lúc hội nghị thông nhất ở Hồng Kông đang họp, ông cũng đã tìm cách ngăn cản cuộc khởi nghĩa này nhưng không thể liên lạc được với VNQDĐ. Tuy nhiên, theo Hoàng Văn Đào, tác giả Việt Nam Quốc Dân Đảng 1927-1954, thì các đảng viên cộng sản đã phát truyền đơn để cho Pháp biết được âm mưu khởi nghĩa.3 Dù thực hư ra sao, cuộc khởi nghĩa Yên Báy (10-15 tháng Hai 1930) đàng nào cũng thất bại vì lực lượng cách mạng còn yếu và tổ chức còn có nhiều khuyết điểm lớn. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng mười hai đồng chí bị Pháp bắt được, kết án tử hình và đem lên máy chém ngày 17 tháng Sáu 1930. Sau khi khởi nghĩa thất bại, VNQDĐ vẫn còn cố gắng hoạt động dưới sự lãnh đạo của Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Thị Giang (tự tử ngay sau khi người yêu là Nguyễn Thái Học bị hành hình,) Hoàng Đình Gị, Vũ Tiến Lữ, Vũ Vạt nhưng lần lượt kẻ bị bắt, người bị giết, đến năm 1932 thì hầu hết các lãnh tụ còn lại đều phải trốn sang Trang Hoa. Ngày 1 tháng Năm 1930, ĐCSVN phát động nhân dân nổi dậy ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, mệnh danh là Phong trào Sô-viết Nghệ Tĩnh, cướp chính quyền ở nhiều nơi nhưng cũng bị Pháp đàn áp dã man đến năm 1931 thì phong trào hoàn toàn bị dập tắt.
Mầm mống xung đột giữa quốc gia và cộng sản bắt đầu khi Nguyễn Ái Quốc từ Nga sang Trung Hoa năm 1924 để hoạt động cho Comintern. Ông đã khéo đưa lòng yêu nước lên hàng đầu để liên kết những cá nhân và đảng phái lưu vong chống thực dân Pháp, ngoại trừ một số lãnh tụ đã sớm bất đồng ý với ông như Nguyễn Hải Thần, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn An Ninh. Theo Duiker, Nguyễn Ái Quốc “thường nhận định rằng những cuộc liên kết như vậy với các đảng phái quốc gia có thể hữu ích nhưng chỉ cho mục tiêu chiến thuật mà thôi.”4 Nhận định này cũng tương tự như quan điểm của Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của ĐCSVN, trong một thông tư giải thích rằng sự giúp đỡ của tư sản và địa chủ là cần thiết, nhưng những thành phần này sẽ phản bội sự nghiệp cách mạng vì căn bản của họ là phản động.5 Do sự suy yếu của VNQDĐ sau cuộc thất bại Yên Báy và tình trạng chia rẽ giữa các lãnh tụ lưu vong của đảng này ở Trung Hoa, ĐCSVN là đoàn thể chính trị cách mạng có tổ chức qui củ và mạnh mẽ nhất dưới sự lãnh đạo vằ giúp đỡ của Comintem.
Chỉ tám tháng sau ngày thành lập, do yêu cầu của Comintem, ĐCSVN lấy lại tên cũ là Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) để phù hợp với ưu tiên quốc tế là đấu tranh giai cấp còn mục tiêu độc lập dân tộc chỉ là thứ yếu. Điều này khác với chủ thuyết Lê- Nin mà Nguyễn Ái Quốc hằng theo đuổi, nhưng ông vẫn lặng lẽ tuân hành trong vai trò của một đại diện Comintern ở Hồng Kông. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác giữa Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú không còn được tốt đẹp. Trần Phú thường chỉ trích Nguyễn Ái Quốc là có khuynh hướng “dân tộc” không theo đúng đường lối chính thống của Comintern. Tình trạng bất hòa này không kéo dài vì trong một chiến dịch truy lùng của mật thám Pháp, Trần Phú bị bắt ở Sàigòn vào tháng Tư 1931 rồi chết ở trong tù mấy tháng sau đó. Do sự sơ hở của Serge Lefranc, một cán bộ người Pháp của Comintern, Nguyễn Ái Quốc cũng bị lộ hình tích và bị cảnh sát Anh bắt ở Hồng Kông vào tháng Sáu năm ấy. Nhờ sự biện hộ cuả luật sư Frank Loseby, Nguyễn Ái Quốc không bị Anh trao trả cho nhà cầm quyền Pháp. Cũng nhờ sự giúp đỡ của Loseby, ông đã có thể trốn thoát sang Nga năm 1934.
Ở Việt Nam, sau những cuộc đàn áp tàn bạo của Pháp năm 1930-31, các hoạt động cách mạng đều phải lùi vào bóng tối. Một số lãnh tụ cộng sản bị bắt hay bị giết, số còn lại phải sang Trung Hoa để tìm cách phục hồi tổ chức. Một số cán bộ huấn luyện ở Nga được gửi về tăng cường cho ĐCSĐD. Trong số này, Lê Hồng Phong cùng với Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên lập Ban Chỉ huy Hải ngoại ở Nam Ninh, Trần Văn Giàu trở về nước đảm nhiệm việc xây dựng lại cơ sở đảng ở miền Nam. Tháng Sáu 1934, một hội nghị được triệu tập tại Macao để xác định đường lối đấu tranh. Hội nghị kết án những phần tử ôn hòa có khuynh hướng quốc gia đều là những kẻ đồng lõa với chủ nghĩa đế quốc. Trong số những người này có những nhà ái quốc tên tuổi như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn An Ninh, Huỳnh Thúc Kháng và luôn cả những đoàn viên cũ của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng hay Tân Việt Cách Mạng. Tháng Ba 1935, một Đại hội cộng sản được triệu tập ở Macao và Hà Huy Tập được bầu làm Tổng Bí thư. Cùng một lập trường với Trần Phú, trong những báo cáo gửi cho Comintern, Hà Huy Tập tố cáo Nguyễn Ái Quốc duy trì quan điểm “cách mạng dân tộc”, một di sản nguy hiểm của nhóm VNTNCM.
Một cơ may bất ngờ đã đến với Nguyễn Ái Quốc. Đó là Đại hội Cộng sản Quốc tế lần thứ Bảy năm 1935 ở Moscow. Trong Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc chỉ tham dự với tư cách quan sát viên, đại diện cho Ban Phương Đông của Comintern. Đoàn đại biểu chính thức từ Việt Nam sang do Lê Hồng Phong cầm đầu với hai đoàn viên là Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Non. Mục đích chính của Đại hội là thông qua sự thay đổi căn bản về chiến lược Cộng sản quốc tế trước một tình thế mới. Sự kiện Đảng Quốc Xã của Hitler lên nắm chính quyền ở Đức và viễn tượng thành công của chủ nghĩa Quốc gia cực đoan do Kita Ikki đề xướng ở Nhật là những đe dọa lớn cho Comintern, do đó các đảng cộng sản cần tìm cách liên minh với những đảng phái quốc gia thành những mặt trận rộng lớn chống đế quốc. Sự thay đổi chiến lược này mặc nhiên công nhận chủ trương của Nguyễn Ái Quốc muốn áp dụng ở Việt Nam. Sau Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc xin được trở về nước hoạt động nhưng mãi đến tháng Chín 1938 mới được Comintern chấp thuận. Lúc đó ông vừa làm việc cho Comintern vừa theo học một khóa bổ túc tại Viện Nghiên cứu các vấn đề Quốc gia và Thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đi xe lửa tới biên giới Trung Hoa, dùng đường bộ đi thăm căn cứ đảng cộng sản ở Diên An, rồi xuôi nam cho tới Quế Lâm. Tại đây ông làm việc cho Đệ Bát Lộ Quân của Tưởng Giới Thạch với nhiệm vụ kiểm soát y tế nhưng cũng viết báo cho Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc, một tổ chức liên minh cộng sản và quốc dân đảng ở Trung Hoa để chống Nhật. Thỉnh thoảng ông cũng gửi bài về nước đăng trong tờ báo Pháp văn La Voix do ĐCSĐD xuất bản ở Hà-nội ký tên là p.c. Line (có lẽ do tên Linov của ông khi ở Nga, còn P.C. có thể là chữ tắt của Parti Communiste?) Đáng chú ý nhất là một bài viết hồi tháng Bảy 1939 khuyến cáo uỷ ban Thường trực ĐCSĐD trên quan điểm chiến lược đã được chấp thuận trong Đại hội Comintern kỳ thứ bảy, trong đó nhấn mạnh đến sự cần thiết thành lập một mặt trận dân chủ rộng rãi ở Đông Dương, kết hợp cả hai thành phần lao động và tư sản. Theo ông, Đảng không cần giành vai trò lãnh đạo mà chỉ cần tranh thủ đa số ủng hộ quan điểm lãnh đạo linh động của Đảng. Quan điểm này được Ban Thường trực tán thành, nhất là khi Hà Huy lạp đã bị thay thế bởi Nguyễn Văn Cừ trong chức vụ Tổng Bí thư trong một phiên họp của uỷ ban Trung ương tại Hóc Môn vào tháng Ba 1938.
Khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ ở Âu châu vào tháng Chín 1939 thì ở Đông Dương, Toàn Quyền Georges Catroux ra lệnh chấm dứt tất cả hoạt động của các đảng phái chính trị. Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn lần lượt bị bắt. Hà Huy Tập thì đã bị giam từ tháng Năm 1939 trong cuộc biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Ngày 19 tháng Sáu 1940, năm ngày sau khi Paris đầu hàng quân Đức, Toàn Quyền Catroux nhận được điện văn của Đại sứ Pháp ở Tokyo là Arsène Henry chuyển tối hậu thư của chính phủ Nhật đòi hỏi Pháp phải đóng cửa biên giới Đông Dương, cắt đứt đường dây tiếp tế dầu xăng và quân nhu cho Trung Hoa đồng thời phải để cho Nhật kiểm soát biên giới này. Ngày 20 tháng Bảy, Đô Đốc Decoux đến thay thế cho tướng Catroux thì ngày 2 tháng Tám lại nhận được một tối hậu thư khác của Nhật đòi Pháp phải để cho quân đội Nhật vào Đông Dương chống quân đội Tưởng Giới Thạch, sử dụng các phi trường và gìn giữ an ninh. Sau hai tháng điều đình, một trận đụng độ ở biên giới Lạng Sơn xảy ra ngày 22 tháng Chín nhưng chỉ ba ngày sau Pháp đã phải đầu hàng. Kết cuộc là Pháp chính thức nhìn nhận sự hiện diện của quân đội Nhật tại Đông Dương và Nhật bằng lòng để cho Pháp tiếp tục cai trị về hành chánh.6
Lợi dụng sự yếu thế của chính quyền thuộc địa Pháp, nhất là sau vụ đụng độ ỡ Lạng Sơn, ĐCSĐD tổ chức vào cuối tháng Chín một cuộc nổi dậy của dân sắc tộc Tày, Nùng, Giao, đánh phá các đồn binh của Pháp ở vùng biên giới, cướp được nhiều vũ khí và tiến về Bắc Sơn cách phía tây Lạng Sơn chừng bốn mươi cây số”. Cuối tháng Mười, trong lúc các cán bộ đang hội họp với dân chúng trong vùng thì Pháp được mật báo đem quân đến tàn sát và dẹp tan cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Ở trong Nam, đảng bộ cộng sản cũng chuẩn bị từ tháng Ba một cuộc khởi nghĩa khác rộng lớn hơn và được phát động vào tháng Mười Một. Tuy nhiên vì thiếu phối hợp và kế hoạch bị Pháp phát giác sớm nên cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bất thành,ngoại trừ ở một số tỉnh như Long Xuyên và Mỹ Tho nghĩa quân có đốt phá và chiếm đóng được một số cơ quan trong vài tuần. Cuộc đàn áp của Pháp hết sức dã man, trên hai ngàn người bị giết tại chỗ còn số người bị bắt lên đến tám ngàn. Nhà tù không đủ chỗ chứa, nhiều người bị giam trên tàu bè đậu trên sông Saigon. Để phòng ngừa tù nhân bỏ trốn và cũng vì không có đủ xiềng xích, Pháp đã cho xâu bàn tay và bàn chân của tù nhân bằng dây thép.
Trong năm 1940, ĐCSĐD đã bị thiệt hại nặng nề nhất về đảng viên lãnh đạo. Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt ở Saigon, đến tháng Ba 1941 thì bị đem xử bắn cùng với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và cựu Tổng Bí thư Hà Huy Tập. Đảng viên cao cấp Lê Hồng Phong, chồng của Nguyễn Thị Minh Khai, bị hành hạ trong nhà tù Côn Đảo và chết năm 1942. Đáng để ý là quân đội chiếm đóng Nhật không hề giúp đỡ những lực lượng cách mạng chống Pháp, mặc dù trước đó Nhật đã khuyến khích những lực lượng này. Ngay cả nhóm Phục Quốc của Hoàng thân lưu vong Cường Để cùng về nước với quân Nhật năm 1940 và tham gia trận đánh quân Pháp ở Lạng Sơn, cũng bị bỏ rơi. Nhóm này âm mưu với Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) cùng với một số binh lính yêu nước khởi nghĩa ở Đô Lương, Nghệ An vào tháng Giêng 1941, nhưng cuộc khởi nghĩa này thất bại vì không được yểm trợ. Đội Cung và một số nghĩa quân bị Pháp xử bắn ngay sau đó. Rõ ràng là đế quốc Nhật thời đó đã chỉ muốn sử dụng các lực lượng chống Pháp làm phương tiện nhất thời để đem quân vào chiếm đóng Đông Dương và sẵn sàng bỏ rơi tất cả khi đã đạt được mục tiêu.
Trong thời gian xảy ra những biến cố này, Nguyễn Ái Quốc còn đang ở Quế Lâm và mới móc nối được với nhóm đảng viên trẻ từ Việt Nam qua trong đó có Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Nhận định về sự hợp tác dù bất đắc dĩ giữa thực dân Pháp và quân phiệt Nhật ở Đông Dương và rút kinh nghiệm thất bại của những cuộc nổi dậy ở trong nước, Nguyễn Ái Quốc càng thấy cần phải cho ra đời một mặt trận kết hợp mọi lực lượng yêu nước để cùng đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Ông đem ý tưởng này ra tham khảo với các đồng chí thân cận và đề nghị đặt tên cho mặt trận là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (VNĐLĐMH). Đây là tên đã có sẵn của một tổ chức do Hồ Học Lãm, một đoàn viên cũ của Phan Bội Châu đã trở thành sĩ quan cấp tá trong quân đội Trung Hoa Dân Quôc, thành lập năm 1936 để kết hợp những người cách mạng lưu vong hồi đó. VNĐLĐMH cũ được sự giúp đỡ của chính phủ Tưởng Giới Thạch, nhưng vì những khó khăn nội bộ và chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ nên cũng không có thành tích gì đáng kể. Cuối năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn liên kết được với Trương Bội Công, một lãnh tụ VNQDĐ và cũng là sĩ quan cấp tướng trong quân đội Trung Hoa, lập thêm một tổ chức mới mang tên là Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Đồng Minh. Tổ chức này đến cuối năm 1941 thì tan rã vì những lãnh tụ quốc gia tố cáo Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp huấn luyện đoàn viên mới theo đường lối cộng sản. Hai ông Đồng và Giáp phải về nước để tăng cường cho lực lượng quốc nội.
Nguyễn Ái Quốc đã bí mật trở về Việt Nam từ Tháng Hai 1941, lập căn cứ trong hang Pắc Bó thuộc tỉnh Cao Bằng, sát biên giới Trung Hoa. Tại đây, trong Đại hội thứ Tám của ủy ban Trung ương ĐCSĐD từ 10 đến 19 tháng Năm 1941, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) chính thức ra đời. Đại hội ra nghị quyết ấn định nhiệm vụ của mặt trận Việt Minh là đánh đuổi thực dân Pháp và quân xâm lược Nhật để giành lại độc lập cho xứ sở. Để bảo toàn bí mật cho cơ sở hoạt động, Nguyễn Ái Quôc viết Lá Thư Hải Ngoại để cho đài phát thanh Liễu Châu phóng về Việt Nam ngày 6 tháng Sáu 1941, thông báo thời cơ đã đến để toàn dân tham gia công cuộc giải phóng dân tộc ra khỏi vòng nô lệ Pháp và Nhật. Mặt trận tổ chức các khóa đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự và các kỹ thuật tổ chức, vận động quần chúng. Các đoàn thể nhân dân cứu quốc thuộc mọi thành phần công nhân, nông dân, bộ đội, tôn giáo, phụ lão, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng được thành lập như những tổ chức ngoại vi của mặt trận Việt Minh.
Sau khi lập được cơ sở cho mặt trận Việt Minh ở trong nước, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Hoa vào tháng Tám 1942 với ý định tiếp xúc giới lãnh đạo Quốc Dân Đảng để đề nghị việc hợp tác chống Nhật. Để tránh mật thám Pháp ở biên giới, ông mang giấy tờ giả với tên Hồ Chí Minh là tên đã dùng trong thời gian hoạt động ở Quế Lâm. Chẳng may, ông bị công an Trung quốc khám xét và bắt giữ về tội tình nghi làm gián điệp cho Nhật. Khi cuộc điều tra nhận ra lý lịch của ông là đảng viên Comintem, ông bị đưa về giam ở Liễu Châu. Tháng Mười năm đó, Tổng Đốc tỉnh Quảng Tây là Tướng Trương Phát Khuê triệu tập tại Liễu Châu một hội nghị của các tổ chức quốc gia Việt Nam lưu vong để thành lập một liên minh chống Pháp và Nhật. Kết quả là sự ra đời của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (VNCMĐMH) dưới sự lãnh đạo của một ủy ban Thường trực gồm có những đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh.
VNCMĐMH được Quốc Dân Đảng Trung Hoa tài trợ hàng tháng để thực hiện các hoạt động tình báo và quân sự chống Nhật ở Việt Nam. Trước đó, Đệ tứ Chiến khu của Tướng Trương Phát Khuê cũng đã đào tạo được 702 cán bộ cách mạng Việt Nam trẻ tuổi sẵn sàng phục vụ cho tổ chức. Nhưng vì sự hiềm khích giữa các phe nhóm và đầu óc vị kỷ của một số người lãnh đạo, VNCMĐMH trở nên bất lực và mất uy tín rất nhanh. Do sự vận động từ trước của Chu Ân Lai và một số nhân vật trong liên minh kháng Nhật, Trương Phát Khuê bắt đầu nghĩ đến việc đưa Hồ Chí Minh vào kế hoạch chống Nhật ở Đông Dương thay thế các lãnh tụ quốc gia. Ông giao cho phụ tá là tướng Tiêu Văn nhiệm vụ tiếp xúc thăm dò Hồ Chí Minh tại nhà giam Liễu Châu. Hồ Chí Minh cam kết rằng mục tiêu trước mắt của ông là khôi phục độc lập và tự do cho Việt Nam, và “quả quyết rằng một xã hội cộng sản ở Việt Nam phải ít nhất năm mươi năm sau mới thành lập được.”7 Sau khi xem xét bản dự thảo kế hoạch của Hồ Chí Minh cải tổ cơ cấu kháng chiến và thành lập mạng lưới tình báo ở Việt Nam, Trương Phát Khuê quyết định thả Hồ Chí Minh ngày 16 tháng Chín 19438 và bắt đầu giao cho ông nhiệm vụ thực hiện kế hoạch, dù chỉ với tư cách một thành viên dự khuyết trong uỷ ban Điều hành VNCMĐMH. Được sự hỗ trợ của Trương Phát Khuê và Tiêu Văn, Hồ Chí Minh tổ chức lại cơ cấu VNCMĐMH, tuyển thêm cán bộ gồm một số của mặt trận Việt Minh, mở lớp đào tạo về hoạt động tình báo và tuyên truyền chống Nhật.
Từ đầu năm 1944, khi thấy Nhật đã suy yếu và không tránh khỏi bại trận, chính phủ Tưởng Giới Thạch bắt đầu nghĩ đến vai trò của mình ở Đông Dương. Vì lòng thù hận sẵn có đối với Pháp và các nước Tây phương sau cuộc Chiến tranh Nha Phiến (1839-1842) và cuộc khởi nghĩa thất bại của Nghĩa Hòa Quyền (1898-1901), Trung Hoa muốn lợi dụng thế đồng minh với Mỹ để ngăn chặn Pháp trở lại làm chủ các thuộc địa cũ, và giúp cho Việt Nam độc lập với một chính phủ thân Trung Hoa. Tại Hội Nghị Cairo, Ai Cập, tháng Mười Một 1943, khi Tổng Thống Roosevelt gợi ý để cho Đông Dương sát nhập với Trang Hoa, Thống chế Tưởng Giới Thạch cho biết ông chỉ muốn híup cho những quốc gia trong vùng này được độc lập. Lúc đó, đôi s với họ Tưởng, Nhật chỉ là mối nguy trước mắt còn nguy cơ lâu dài là đảng cộng sản của Mao Trạch Đông, vì vậy ông cần có sự ủng hộ của các nước thân Trung Hoa ở phía Nam.
Để chuẩn bị cho những mục tiêu hàng đầu này có cơ thực hiện, VNCMĐMH cần được tăng cường lực lượng và phương tiện hoạt động. Tháng Ba 1944, Trương Phát Khuê cho triệu tập Đại Hội VNCMĐMH tại Liễu Châu lần thứ hai. Hội nghị lần này ngoài Hồ Chí Minh còn có hai đại biểu Việt Minh là Phạm Văn Đồng và Lê Tùng Sơn tới tham dự. Các đại biểu VNQDĐ đã cố gắng vận động Trương Phát Khuê loại trừ ảnh hưởng của Việt Minh nhưng không thành công. Sau ba ngày họp, Hồ Chí Minh được chính thức bầu vào uỷ ban Điều hành của VNCMĐMH với đầy đủ trách nhiệm về hoạt động của tổ chức này ở Việt Nam. Cuối tháng Tám, Hồ Chí Minh lên đường về nước, được Trương Phát Khuê cấp đầy đủ giấy tờ chứng minh, một số dụng cụ, thuốc men và tiền chi phí cần thiết. Mười tám cán bộ tốt nghiệp trường đào tạo Liễu Châu cũng được cử đi theo Hồ Chí Minh trong chuyến này. Tới biên giới, cả đoàn thay quân phục Trung Hoa bằng quần áo thường dân và về tới Pắc Bó ngày 20 tháng Chín.
Đáng chú ý là vào giữa năm 1944, hệ thống tình báo của chính phủ Tưởng Giới Thạch cũng hỗ trợ cho một phe VNQDĐ của Nghiêm Kế Tổ lập ba trạm truyền tin ở Việt Nam với triển vọng bành trướng lực lượng quốc gia. Nhưng mới hoạt động được vài tháng, Nghiêm Kế Tổ đã bị tướng Tiêu Văn hạ lệnh bắt và sau đó đuổi về thủ đô Trùng Khánh. Thái độ bất nhất của Tiêu Văn đối với mặt trận Việt Minh, lúc đầu ủng hộ sau lại đe dọa khi thấy Hồ Chí Minh tìm cách hợp tác với tổ chức tình báo OSS của Mỹ, đến khi sang Việt Nam để tước khí giới quân đội Nhật năm 1945 thì lại nhận hối lộ của Việt Minh và phản lại phe quốc gia (như sẽ nói đến dưới đây,) cho thấy rằng viên tướng này chỉ là một kẻ mưu cầu cho quyền lợi của riêng mình.
Ngay khi còn ở Trung Hoa, Hồ Chí Minh đã rút được kinh nghiệm trong thế liên minh bất đắc dĩ để chống Nhật giữa Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch, do đó đã chuẩn bị trước cho sự tan vỡ sau này của quan hệ hợp tác giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Đầu mùa Hè 1944, ông bắt liên lạc với Sở Hành Động Chiến Lược (Office of Strategic Services – OSS) và Sở Thông Tin Chiến Tranh (Office of War Information – OWI) của Hoa Kỳ ở miền Nam Trung quốc để đề nghị hợp tác. OWI đã tính đưa Hồ Chí Minh sang San Francisco để phụ trách chương trình phát thanh về Việt Nam nhưng tòa Đại sứ Mỹ ở Trùng Khánh không chịu cấp visa cho ông vì sợ làm mất lòng chính phủ Pháp. Tuy nhiên, khi Nhật đã nắm trọn quyền kiểm soát Đông Dương sau cuộc đảo chính 9 tháng Ba 1945, toàn bộ hệ thống tình báo của chính phủ Pháp và của nhóm tư nhân GBT9 đều phải bỏ chạy sang Trung Hoa. Khi đó, Việt Minh là nguồn tình báo duy nhất ở Đông Dương, không những có thể làm tai mắt cho Mỹ mà còn có ích cho tổ chức Trợ Lực các Họat Động Trên Không và Dưới Đất (Air Ground Aid Services – AG AS) của Đồng Minh trong khu vực này.
Giữa tháng Ba 1945, Trung uý Hải quân Charles Fenn của OSS gặp Hồ Chí Minh lúc đó đã trở qua Côn Minh để bàn về khả năng thiết lập một hệ thống truyền tin ở Việt Nam. Sau ba phiên họp với ông Hồ và được sự chấp thuận của AGAS, Fenn đã cung cấp máy móc và dụng cụ truyền tin cho căn cứ Việt Minh ở Pắc Bó. Trong hồ sơ của năm mươi ba cộng tác viên, Fenn viết tên Hồ Chí Minh là Ho Tchih Ming với bí danh là Lucius.10 Ngày 29 tháng Ba, Fenn đưa Hồ Chí Minh tới gặp Tướng Claire Chennault, tư lệnh phi đoàn “Cọp Bay”. Ông Hồ được Tướng Chennault cám ơn về việc Việt Minh cứu phi công Mỹ Rudolph Shaw bị lâm nạn hồi tháng Mười Một 1944. Trước đó một tháng, ông Hồ đã yêu cầu được gặp Chennault nhưng bị từ chối. Trong cuộc gặp gỡ lần này, do lời yêu cầu của ông Hồ, tướng chỉ huy Cọp Bay đã ký tặng cho ông một tấm hình kỷ niệm. Tấm hình này cũng như sự hỗ trợ của OSS cho Việt Minh trong thời gian chống Nhật đã thuyết phục được nhiều người gia nhập hay ủng hộ mặt trận Việt Minh vì tin tưởng có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Khoảng giữa tháng Tư, trước khi trở về Việt Nam, Hồ Chí Minh gặp Đại úy Archimedes “Al” Patti vừa được OSS cử sang điều khiển hoạt động tình báo ở Đông Dương. Patti có ấn tượng rất tốt về ông Hồ sau buổi họp này và, mặc dầu chưa cam kết cụ thể, Patti hứa sẽ cứu xét việc giúp đỡ lực lượng Việt Minh để đổi lấy những tin tức tình báo và cấp cứu phi công Mỹ lâm nạn. Có khoảng bốn chục người đi theo Hồ Chí Minh về Pắc Bó, trong đó có Frank Tan, thành viên của GBT và Mac Shinn, chuyên viên truyền tin của quân đội Mỹ. cả hai đều là người Mỹ gốc Hoa được Charles Fenn gửi đi để che giấu hình tích của OSS, ngay cả đối với đồng minh Trung Hoa và Pháp. Sau khi nhận được báo cáo tốt của Tan và Shinn, OSS thả dù xuống Pắc Bó thêm một máy truyền tin và bắt đầu tiếp tế khí giới, thuốc men cho Việt Minh. Sự hợp tác giữa oss và Việt Minh bắt đầu từ đó.
Sự hợp tác OSS-Việt Minh có ý nghĩa chính trị hơn kể từ tháng Bảy 1945 khi Trung Tá Allison Thomas cầm đầu “Toán Con Nai” Deer Team)11 nhảy dù xuống Tân Trào, một chiến khu mới ở giữa Tuyên Quang và Thái Nguyên, bắt đầu thời kỳ huấn luyện bốn tuần cho khoảng hai trăm cán bộ chỉ huy bộ đội Việt Minh về cách sử dụng những vũ khí mới nhất và chiến thuật du kích chiến. Trong thời gian này, Hồ Chí Minh bị bệnh sốt rét và kiết lỵ rất nặng, có lúc đã lâm vào tình trạng hôn mê. Ông được một thày thuốc người Tày chữa bằng lá cây nhưng ông được khỏi bệnh có lẽ là nhờ Paul Hoagland, một y tá trong đoàn OSS, đã chích thuốc kí-nin và sulfa cho ông.12 Cũng như Fenn và Patti, Thomas rất có cảm tình với Hồ Chí Minh, nhất là khi ông Hồ tỏ ý muôn gặp một đại diện của chính phủ Pháp ở Côn Minh để bàn về quan hệ Việt-Pháp sau Thế chiến II. Ông đề nghị năm điểm cải cách gồm có việc bầu cử một nghị viện với “một Toàn Quyền người Pháp làm chủ tịch cho đến khi qhúng tôi được độc lập”, trả lại độc lập cho Việt Nam “trong vòng ít nhất là năm năm nhưng không được quá mười năm”, trả lại tài nguyên thiên nhiên cho Việt Nam và được đền bù xứng đáng, cấm buôn bán nha phiến, và cam kết sẽ cho các dân tộc Đông Dương được hưởng mọi quyền tự do như đã qui định trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.13 Thomas chuyển ý kiến của ông Hồ cho Jean Sainteny, khi đó đang cầm đầu phái bộ quân sự Pháp Quốc Tự Do ở Trung Hoa có bí danh là M.5 và đang chuẩn bị cho việc Pháp trở lại Đông Dương. Sainteny đã không trả lời những đề nghị này.
Việc Hồ Chí Minh nhờ OSS chuyển đề nghị cho Pháp là một tính toán chính trị rất cao, dù không có tính cách chính thức ở cấp chính quyền và bất kể phản ứng của Pháp như thế nào. Nếu Pháp đồng ý thảo luận thì uy tín ông Hồ sẽ gia tăng và Việt Minh đương nhiên có chính danh. Nếu Pháp không đồng ý thì Mỹ cũng được yên tâm vì Pháp không có thể trách về việc giúp cho Việt Minh chống Nhật. Ngoài ra, quan điểm của ông Hồ rất phù hợp với chủ trương của Tổng Thống Roosevelt là muốn Pháp trả lại độc lập cho các thuộc địa cũ ở Đông Dương. Kết quả của đề nghị bất thành này là OSS vẫn tiến hành việc tiếp tế và huấn luyện quân sự cho quân du kích Việt Minh, đem lại cơ hội cho Việt Minh gây uy tín và ảnh hưởng trong quần chúng, OSS ủng hộ Việt Minh đến độ Allison Thomas đã viết vắn tắt trong một điện văn gửi về ban chỉ huy ở Côn Minh: “Hãy quên đi con ngáo ộp Cộng sản. Việt Minh không phải là cộng sản. Tranh đấu cho tự do và thoát vòng kiềm chế của Pháp.” Dan Phelan, người của AGAS đã hoạt động với dân quân ở Tân Trào trong nhiệm vụ cứu những phi công lâm nạn, cũng báo cáo rằng Việt Minh “không chống Pháp. Chỉ là những người yêu nước xứng đáng được tin cậy và giúp đỡ hoàn toàn.”14
Tình trạng thù nghịch giữa cộng sản và quốc gia mãi tới sau khi Thế chiến II chấm dứt mới trở nên thật sự gay go và sử dụng bạo lực. Việt Minh, vì là tổ chức duy nhất có qui củ với thành tích chống cả Pháp lẫn Nhật và được sự trợ giúp dù giới hạn của Hoa Kỳ, đã có đủ điều kiện thuận lợi để nắm lấy cơ hội lịch sử sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 14 tháng Tám 1945. Từ đầu tháng, Việt Minh chuẩn bị họp Đại hội Trung ương Đảng Cộng sản lần thứ Chín để thảo luận kế hoạch cướp chính quyền. Lúc đó, Hồ Chí Minh được Phong Trào Pháp Quốc Tự Do ở Côn Minh mời sang họp nhưng máy bay không tới đón ông được vì thời tiết xấu. Khi được tin Mỹ đã ném trái bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima ngày 6 tháng Tám, ông quyết định ở lại Tân Trào họp uỷ ban Trung ương Đảng, bắt đầu ngày 13 tháng Tám. Ngay trong ngày đầu hội nghị, một Ủy Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc được thành lập và đặt dưới sự điều động của Trường Chinh. Uỷ Ban ra Quân lệnh số 1, chỉ thị cho “các tướng sĩ và đội viên quân giải phóng Việt Nam… hãy tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị và các trọng trấn của quân địch, đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước vũ khí của chúng!” Quân lệnh cũng hô hào “đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo quân giải phóng, xung vào bộ đội, xông ra mặt trận đuổi quân thù.”
Thật ra, Việt Minh đã bắt đầu chuẩn bị cướp chính quyền từ nhiều tháng trước, nhất là từ sau khi Đức đầu hàng Đồng Minh ngày 7 tháng Năm 1945. Đầu tháng Sáu, Việt Minh tuyên bố lập vùng giải phóng ở miền núi Việt Bắc rồi từ đó phát động những cuộc nổi dậy lẻ tẻ ở các tỉnh chung quanh. Từ cuối tháng Bảy đến giữa tháng Tám, tình hình càng ngày càng sôi động và lan dần tới những tỉnh gần Hà Nội hơn như Vĩnh Yên, Phú Thọ, Bắc Ninh. Nhiều địa phương báo cáo về trung ương những cuộc hội họp, biểu tình bất hợp pháp, xúi giục lính đào ngũ, bắt giữ viên chức chính phủ, phá cột dây điện, có nơi lập ủy ban giải phóng. Trong khi đó, về phía các đảng phái quốc gia không thấy có hoạt động chuẩn bị nào đáng kể. Nhà cầm quyền Việt Nam lúc đó là chính phủ Trần Trọng Kim, mới hoạt động được mấy tháng và phải đương đầu với quá nhiều khó khăn nội bộ, đã không thể kiểm soát được tình hình sau khi Nhật mau chóng đầu hàng Đồng Minh. Các đảng phái quốc gia cũng không có kế hoạch gì ngoại trừ việc hội họp và bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề nên hay không nên cướp chính quyền, hoặc tổ chức vội vã những cuộc biểu tình chống Pháp, kêu gọi toàn dân đoàn kết như của Mặt trận Đại Việt Quốc gia Liên minh hay nhóm Phụng sự Quốc gia. Nhờ tình trạng gần như vô chính phủ và sự thiếu vắng lực lượng đối lập cho nên, dù cũng rất vội vã vào giờ chót thậm chí phải rút ngắn Quốc Dân Đại Hội triệu tập ngày 16 tháng Tám, Việt Minh đã có thể giành được chính quyền ở Hà Nội một cách dễ dàng trong một cuộc cách mạng không đổ máu ba ngày sau đó (19.8.1945).
Đến đây cần nói thêm về vai trò của chính phủ Trần Trọng Kim trong một giai đoạn rất ngắn nhưng đầy biến cố, đánh dấu một khúc ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Sau ngày đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương (9.3.45), Nhật hứa hẹn với Hoàng Đế Bảo Đại sẽ để cho Việt Nam được độc lập. Ngày 17 tháng Tư, mười ngày sau khi được Bảo Đại yêu cầu, Trần Trọng Kim, một nhà giáo dục và học giả có uy tín, trình diện chính phủ do ông cầm đầu gồm mười Bộ trưởng, tất cả đều là tri thức giàu lòng yêu nước nhưng thiếu kinh nghiệm chính trị. Việt Minh lập tức công kích chính phủ Trần Trọng Kim là “chính phủ bù nhìn” và nền độc lập mà Nhật hứa hẹn là “độc lập bánh vẽ.” Quan điểm chính trị này đã được nhiều tác giả ngoại quốc mặc nhiên chấp nhận. Đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, giai đoạn lịch sử này cần được xem xét lại một cách bình tĩnh và khách quan hơn.
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong một hoàn cảnh rất tình cờ của lịch sử, không do kết quả tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng phái hay một phong trào chính trị nào. Sau gần một thế kỷ bị Pháp đô hộ, lần đầu tiên nước Việt Nam được độc lập (dù mới chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu. Sau khi nước Pháp bị Đức chiếm đóng vào tháng Sáu 1940 và Toàn Quyền Decoux phải nhường cho Nhật quyền làm chủ về quân sự ở Đông Dương vào tháng Chín, thì uy tín và quyền thế của Pháp bị sụp đổ mau chóng đối với các xứ thuộc địa ở Đông Dương. Các đảng phái chính trị Việt Nam bỗng thấy có động lực mới và thời cơ hoạt động để đòi lại độc lập cho đất nước. Trừ những lãnh tụ chính trị đã lưu vong ở Trung Hoa và đang hợp tác với chính phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch để chống Nhật —kể cả Hồ Chí Minh— hầu hết các lãnh tụ chính trị và trí thức ở trong nước đều muốn dựa vào thế lực của Nhật để loại trừ Pháp ra khỏi Đông Dương. Tổ chức có triển vọng nhất lúc bấy giờ là Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội do Hoàng thân Cường Để thành lập ở Nhật (thường được gọi là Nhóm Phục Quốc) đã từng tổ chức lực lượng quân sự mang tên là Việt Nam Kiến Quốc Quân đi theo quân đội Thiên Hoàng về đánh Pháp ở trận Lạng Sơn ngày 23.9.1940. Một số lãnh tụ, trong đó có Ngô Đình Diệm, từ lâu đã liên lạc với Nhóm Phục Quốc để mưu đồ chống Pháp, có nhiều hi vọng sẽ được Nhật ủng hộ thành lập chính quyền trong truờng hợp Pháp bị lật đổ.
Tuy nhiên, vì còn bận chiến đấu với quân đội Đồng Minh, mục đích trước mắt của Nhật là sử dụng Đông Dương vào mục tiêu quân sự nên Nhật đã bằng lòng để cho Pháp tiếp tục cai trị về mặt hành chánh. Năm 1944, Nhật bắt đầu nghĩ đến việc loại bỏ Pháp để phòng ngừa việc Pháp có thể làm hậu thuẫn cho liên quân Anh- Mỹ vì mặt trận đã được mở rộng sang vùng Đông Nam Á. Mặt khác, giải phóng cho các nước Đông Dương khỏi bị lệ thuộc vào nước Pháp cũng sẽ giúp cho Nhật củng cố được ảnh hưởng và thế lực của “khối Đại Đông Á” mà Nhật muốn lãnh đạo để chống lại khối Tây phương. Sau khi lật đổ chính quyền Pháp trên toàn cõi Đông Dương (9.3.1945), Nhật duy trì Hoàng Đế Bảo Đại và hứa hẹn sẽ để cho Việt Nam được độc lập. Bảo Đại cũng không ngờ rằng Nhật lại để ông tiếp tục làm vua thay vì đưa Hoàng thân Cường Để về nước cầm quyền. Ông đã hỏi Đại sứ Marc Masayuki Yokohama về chuyện này và nói: “Tôi gắn bó với dân tộc tôi chứ không phải với ngai vàng.” Nhưng Đại sứ Nhật đã trả lời: “Những người gieo mầm không phải là người gặt hái kết quả.” Điều đó cho thấy lý do Nhật không ủng hộ Cường Để vì không tiện lập một chính phủ Việt Nam tuy chống Pháp nhưng thân Nhật, trong khi Bảo Đại không phải là người của Nhật và có thể được dân chúng tin tưởng nếu ông chống lại mưu toan của Pháp trở lại Việt Nam. Người chuẩn bị cho Cường Để trở về thay thế Bảo Đại và cho Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng là Trung tá tình báo Hayashi Hidezumi. Vào giữa năm 1944, tin đồn về chuyện này được lan truyền trong các giới chính trị khá lộ liễu đến nỗi, để tránh cho Ngô Đình Diệm khỏi bị Mật thám Pháp lùng bắt, Nhật phải cải trang cho ông Diệm thành một sĩ quan Nhật và đưa ông từ Huế vào Sài-gòn ẩn náu trong một nhà thương quân đội Nhật. Đến tháng Giêng 1945, hai tháng trước ngày đảo chánh, Tổng tư lệnh Nhật Tsuchihashi Yuichi quyết định không dùng lá bài Cường Để nữa.16
Đến đây cũng cần nói đến trường hợp của Phạm Quỳnh, Ngự tiền Văn phòng (tương đương với chức Thủ tướng) của Bảo Đại. Chính phủ Nhật giữ Bảo Đại nhưng không muốn giữ Phạm Quỳnh vì ông là người bị coi là thân Pháp. Thật ra, Phạm Quỳnh là một học giả yêu nước nhưng cũng là một nhà chính trị ôn hòa, chủ trương rằng Việt Nam thời đó không thể chống nổi Pháp nên cần phải học hỏi văn minh Tây phương qua văn hóa Pháp để dần dần đòi lại quyền tự chủ. Trong một bản phúc trình cho nhà cầm quyền Pháp ở Huế sau ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đại sứ Yokohama thuật lại buổi yết kiến vua Bảo Đại để báo tin việc chính phủ Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và trao trả độc lập cho Việt Nam. Phạm Quỳnh hiện diện trong buổi tiếp kiến này yêu cầu Nhật Bản thừa nhận nền độc lập của Việt Nam một cách chính thức vì Pháp đã bị tước quyền bảo hộ. Ông nhấn mạnh rằng: “Để chúng tôi có thể hợp tác hữu hiệu với Nhật Bản, chúng tôi cần phải có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, và để đạt được điều đó, uy tín của chính phủ chúng tôi cần phải được tăng cường bằng một hành động long trọng tuyên cáo độc lập.” Yokohama trả lời rằng việc tuyên cáo độc lập để chứng tỏ chủ quyền là hành động nội bộ mà “Ngài có tự do tuyệt đối để hành động theo sự phán xét của chính phủ Ngài.” Tuy nhiên, Yokohama lại cho biết là vì muốn sớm vãn hồi an ninh và trật tự và “bảo vệ xứ này chống lại cuộc xâm lăng của quân địch trong tương lai,” Bộ Tư lệnh quân đội Nhật “mong muốn rằng hiện trạng chính trị và hành chánh được duy trì nhiều chừng nào hay chừng nấy.”17
Những lý do trên cho thấy tại sao Nhật không mời Phạm Quỳnh cũng như không mời Ngô Đình Diệm là những người có kinh nghiệm về chính quyền mà lại mời Trần Trọng Kim, một trí thức không đảng phái, tuy nhiệt tâm yêu nước nhưng không phải là một người làm cách mạng. (Xem thêm chương 10 về lý do Ngô Đình Diệm không được mời, hay được mời nhưng không nhận.) Đối với Trần Trọng Kim, đây là một chuyện rất bất ngờ mà chỉ sau khi gặp Bảo Đại lần thứ hai, sau mười ngày trì hoãn, ông mới nhận trách nhiệm thành lập chính phủ. Bảo Đại thúc giục ông:
Trước kia, người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.18
Chính phủ Trần Trọng Kim thường không được nhắc nhở đến trong lịch sử tranh đấu giành độc lập cho dân tộc, hoặc nếu có thì cũng chỉ được coi như một chính phủ chuyển tiếp trong một thời gian ngắn ngủi không có thành tích gì đáng kể. Việt Minh thì dứt khoát lên án chính phủ Kim là “bù nhìn” do Nhật tạo ra và chỉ đem lại cho Việt Nam một nền “độc lập bánh vẽ.” Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và tác giả ngoại quốc cũng đồng ý một cách thiếu thận trọng như thế. Đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, giai đoạn lịch sử này cần được xem xét lại một cách khách quan về tính chất chính đáng của chính phủ ấy.
Trần Trọng Kim thành lập chính phủ trong tình trạng độc lập nửa vời vì chưa được trao trả trọn vẹn chủ quyền và lãnh thổ, nhưng như lời nhận định nêu trên của Bảo Đại, đây là một cơ hội để cho Việt Nam có thể chuẩn bị đầy đủ khả năng nhận lãnh hay đòi hỏi độc lập hoàn toàn. Nếu không nắm lấy cơ hội này, Việt Nam không tránh khỏi tình trạng bị quân phiệt Nhật thay thế Pháp cai trị một cách khắt khe trong những điều kiện của chiến tranh chống quân đội Đồng Minh. Luật sư Trịnh Đình Thảo, sau này là Chủ tịch của Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình (LMDTDCHB) trong hệ thống Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN,) cho biết Trần Trọng Kim “không tin ở sự thành thật của nhà cầm quyền người Nhật và lo ngại bị lôi cuốn vào những biến cố có hại cho tương lai của xứ sở” nhưng ông Thảo đã thuyết phục được ông Kim nhận lời yêu cầu của Bảo Đại với lý do “phải gấp rút thành lập Chính phủ Việt Nam độc lập để đặt các Lực lượng Đồng Minh, nhất là Pháp, trước một tình trạng pháp lý không thể đảo ngược bằng lời tuyên cáo hủy bỏ những hiệp ước Bảo hộ năm 1862 và 1874, tuyên cáo nước Việt Nam độc lập và thống nhất.”19
Luật sư Thảo cũng cho biết một chuyện đáng lưu ý khác là Trần Trọng Kim đã được một chính khách Thái Lan chia sẻ kinh nghiệm “bắt cá hai tay” (jouer sur les deux tableaux) để có thể tồn tại của Thái Lan. Nhân vật này là Pridi Banomyong, cựu Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Thái Lan, vốn là bạn cùng lớp rất thân của luật sư Dương Văn Giáo tại Đại học Luật khoa Paris và khi làm Bộ trưởng đã mời luật sư Giáo làm cố vấn chính trị. Khi đó chính phủ Thái Lan do Thống Chế Phibul Songram cầm đầu, bắt buộc phải thân Nhật lúc đó đang có 50,000 quân trú đóng ở Thái Lan. Pridi Banomyong khi đó phải sang Sài-gòn để hoạt động cho vai trò trung lập của Thái Lan. Trong thời gian này ông được Dương Văn Giáo giới thiệu với Trịnh Đình Thảo. Pridi cho hay trong khi Phibul Songram đi với Nhật thì một số chính trị gia Thái ở Anh và Mỹ hợp tác với Đồng Minh để tránh cho Thái Lan bị liệt vào phe thua trận khi chiến tranh chấm dứt. Những chính khách lưu vong này thành lập một chính phủ trừ bị để, khi cần thiết, sẵn sàng thay thế chính phủ Phibul Songram và được Đồng Minh thừa nhận. Lời khuyên của Pridi Banomyong cho Trần Trọng Kim là “hãy nắm lấy độc lập mà không theo Nhật.”20
Ngoài hoàn cảnh khó khăn về chính trị, đất nước lại đang gặp phải tình trạng nguy ngập về kinh tế: nạn đói đang hoành hành, các thành phố và trục lộ giao thông đường bộ, đường biển từ Nam ra Bắc bị phi cơ và hạm đội Đồng Minh oanh tạc hay thả mìn. Bộ trưởng Xã hội của chính phủ Kim, Bác sĩ Vũ Ngọc Anh, bị thiệt mạng trong một vụ oanh tạc này. Các cơ sở chính quyền còn ở trong tình trạng giao thời, quân đội chưa thành lập, và guồng máy hành chánh do Pháp để lại chỉ là những thuộc cấp mà hầu hết là “những tham quan ô lại chỉ quen sự thi hành mệnh lệnh của người Pháp, chứ không mấy người có đủ tư cách làm người công chức một nước tự chủ.”21
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong những điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như vậy. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:
1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chánh cho các viên chức Việt Nam.
2. Thâu hồi đất Nam kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.
3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.
6. Thiết lập các Ủy ban Tư vấn Quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chánh và giáo dục.22
Chỉ trong thời gian ngắn ngủi bốn tháng (17.4-16.8) chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này. Kết quả có thể được tóm tắt như sau:
Cứu đói: Bộ Tiếp tế do Bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm đầu nỗ lực điều động việc vận tải thóc gạo từ Nam ra Bắc. Lúc này, Pháp đã mất khả năng ngăn cấm việc tiếp tế gạo và, nhờ sự can thiệp của chính phủ Kim giới quân phiệt Nhật cũng không cùn thi hành chính sách độc đoán về sản xuất nông phẩm. Tuy nhiên, công việc chuyên chở gạo vô cùng khó khăn vì những hoạt động quân sự của Hoa Kỳ nhằm cắt đứt trục giao thông và chuyển vận của Nhật. Không quân Mỹ oanh tạc thường xuyên đường xe lửa và đường bộ trong khi hải quân phong tỏa đường biển bằng thủy lôi. Nhiều đoàn thuyền buồm còn bị nạn hải tặc chặn cướp khiến cho gạo tiếp tế bị thiếu hụt trầm trọng. Nếu không nhờ sự thành lập Tổng Hội Cứu Tế Nạn Đói để phối hợp hoạt động với những hội chẩn tế và những đoàn thanh niên cứu đói trên toàn quốc thì số người chết vì nạn đói còn cao hơn nữa.
Chủ quyền: Để biểu hiệu cho sự thống nhất ba miền lãnh thổ, quốc hiệu “Việt Nam” chính thức thay thế cho quốc hiệu “An Nam” đang được sử dụng. Mặc dù hứa hẹn cho Việt Nam độc lập, Nhật vẫn giữ lại ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là nhượng địa dành cho Pháp, và toàn thể Nam bộ là thuộc địa của Pháp. Ngày 3 tháng Bảy, chính phủ Kim thâu hồi được ba thành phố nhượng địa, nhưng cuộc điều đình về vấn đề Nam Bộ không có kết quả. Ngày 1 tháng Tám, Thủ Tướng Kim phải đích thân từ kinh đô Huế ra Hà Nội gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi Yuitsu, không những yêu cầu trả ngay phần còn lại của lãnh thổ mà còn đòi luôn các công sở thuộc về phủ Toàn quyền Pháp khi trước. Tất cả những đòi hỏi này đều được Tsuchihashi chấp thuận, và hai bên ấn định ngày trao trả Nam bộ là 8 tháng Tám và ngày trao trả các công sở là một tuần sau đó. Cũng trong dịp gặp Tsuchihashi, Trần Trọng Kim đã được Nhật đồng ý chuyển giao lại các binh sĩ Việt Nam, cung cấp bốn ngàn khẩu súng mới và đạn dược để tổ chức đội quân Bảo An.
Cải tổ: Vốn là một nhà giáo dục, Trần Trọng Kim rất chú trọng đến việc cải tổ hệ thống giáo dục, bắt đầu bằng việc sử dụng tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy. Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục. Không những là một nhà khoa học mà còn là một học giả uyên bác, đã hoạch định xây dựng một nền quốc học trên cơ sở dàn tộc và tiến bộ, nhưng chưa kịp thi hành trong một nhiệm kỳ quá ngắn ngủi. Hệ thống và chương trình Trung Học do ông soạn thảo23 đã được các chính phủ quốc gia tiếp tục áp dụng với đôi chút sửa đổi trong nhiều năm về sau.
Về tư pháp, do đề nghị của Bộ trưởng Tư pháp Trịnh Đình Thảo, thủ tướng Kim ký nghị định ân xá ngày 2 tháng Năm với lệnh “Thả ngay tất cả các tù nhân chính trị” và ngày 8 tháng Năm thành lập ủy Ban Soạn Thảo Hiến Pháp trên căn bản thông nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo và nghiệp đoàn.24 Ngoài ra, miễn hay giảm mười ba hạng thuế được thi hành dưới thời Pháp và Nhật.
Chính trị: Với chủ trương “hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố độc lập của quốc gia và gây mạnh cái tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội,”25 chính phủ Kim đã động viên được tinh thần yêu nước của toàn dân qua việc tổ chức lần đầu tiên sau thời Pháp thuộc những buổi lễ vinh danh các anh hùng dân tộc đã chiến thắng quân xâm lược và những nhà cách mạng đã hi sinh cho tổ quốc, thay đổi tên đường phố và triệt hạ những tượng đài biểu thị nền đô hộ của Pháp. Sôi nổi nhất là phong trào Thanh Niên Tiền Tuyến do Bộ trưởng Phan Anh phát động và khuyến khích thanh niên sinh viên tham gia các sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội. Những đoàn thể thanh niên này cũng như Tổng Hội Sinh Viên là những nơi được Việt Minh len lỏi vào và lôi cuốn được nhiều người yêu nước đi theo. Ngoài ra, chính phủ Kim cũng thực hiện tinh thần hoà giải và đoàn kết dân tộc, không phân biệt đảng phái, không chỉ bằng việc thả hết các chính trị phạm và kêu gọi họ hợp tác, mà còn can thiệp với Nhật để cho các thanh niên bị bắt về tội theo Việt Minh chống Nhật cũng được phóng thích.
Những kết quả trên đây cho thấy nội các Trần Trọng Kim, dù không phải là những chính trị gia có thành tích và kinh nghiệm, đều là những nhà trí thức nhiệt tình với đất nước, hết lòng phục vụ cho quyền lợi chung của dân tộc, không tham nhũng, không chia rẽ bè phái, không tham quyền cố vị. Trước tình thế rối ren của cách mạng tháng Tám, thủ tướng Kim được quân đội Nhật cho biết họ “còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân đội Đồng minh đến thay,”26 nhưng ông đã từ chối yêu cầu Nhật bảo vệ chính phủ và duy trì trật tự vì muốn tránh đổ máu và rối loạn. Trước đó, trong chuyến đi ra Hà Nội để điều đình với Tổng tư lệnh Nhật Tsuchihashi Yuitsu để lấy lại Nam Kỳ và các cơ sở chủ quyền còn lại, Trần Trọng Kim đã tìm hiểu kỹ lưỡng về Mặt trận Việt Minh đang gây thanh thế ở miền Bắc. Ông nhận định rằng “Đảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuvên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ Bắc chí Nam ở đâu cũng có người theo… Đảng viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như hội truyền bá quốc ngữ khi mới lập thành ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả. Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm gì mà không mạnh.”27 Chính vị Khâm sai miền Bắc là Phan Kế Toại và một số bộ trưởng trong chính phủ Kim cũng bắt đầu có thiện cảm với Việt Minh.
So sánh một lực lượng cách mạng đã hoạt động lâu năm c ảnh hưởng trong quần chúng và đang có thời cơ với một chính phủ trí thức yêu nước nhưng mới ra đời được bốn tháng, chưa có đủ quyền hành, chưa kịp có quân đội, Trần Trọng Kim đã quyết định đúng khi ông không nhờ quân đội Nhật can thiệp, một quân đội lúc đó đã mất hết tinh thần đang chờ bị tước khí giới và giam giữ. Ông đã thực hiện phương châm “khả hành khả chỉ” trong chính trị học Khổng giáo để biết “lúc nào nên làm, lúc nào nên thôi.” Bởi vậy sau khi giành được chính quyền, mặt trận Việt Minh đã không những không bắt bớ hay trả thù một người nào trong chính phủ Kim mà còn lôi cuốn được một số bộ trưởng gia nhập mặt trận kháng chiến chống Pháp, mặc dù trước đó đã lên án chính phủ này là “bù nhìn” và “Việt gian”. Chính phủ Kim mang tiếng là thân Nhật, nhưng thật ra chỉ là lợi dụng cơ hội Nhật đảo chánh Pháp để nắm lấy quyền cai trị nhằm dần dần phục hồi độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Đó là phương cách thực tế và khôn ngoan nhất mà bất cứ một chính trị gia sáng suốt nào, kể cả Hồ Chí Minh, cũng sẽ chọn lựa vào lúc đó. Khoảng tháng Sáu 1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt khoát trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam kỳ cho Việt Nam, ông đã nói, “Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật… Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin lui.”28 Chỉ tiếc rằng vài tháng sau, lúc gần đạt được mục tiêu thì chính phủ Kim phải ra đi, tiếp theo đó là một thời kỳ lịch sử đầy máu và nước mắt.
Nhiều người trách chính phủ Trần Trọng Kim là nhu nhược, không dám đối phó với Việt Minh sau ngày 19.8.1945 mặc dù nhà cầm quyền Nhật đã báo cho Thủ tướng Kim biết là “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay.”29 Thật ra, quyết định của Bảo Đại và Trần Trọng Kim không nhờ Nhật can thiệp là đúng vì ba lý do chính:
1. Quân đội Nhật đã đầu hàng. Không có một lý do hay động lực nào khiến họ thấy cần phải chiến đấu để bảo vệ một chính phủ địa phương đang thất thế. Trách nhiệm “giữ trật tự” của quân đội Nhật sẽ chỉ có hiệu lực lúc đầu và họ sẽ phải nhượng bộ hoặc xung đột với cao trào đòi độc lập của những đoàn thể thanh niên, sinh viên và dân chúng do Việt Minh tổ chức. Thời gian “giữ trật tự” để chờ quân đội Đồng Minh lại rất ngắn (khoảng hai tuần lễ) và chính phủ Trần Trọng Kim sẽ không thể chối bỏ được trách nhiệm về những cuộc đổ máu của dân Việt Nam do quân Nhật gây ra.
2. Việt Minh đã thành công lớn trong chiến dịch tuyên truyền là được sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Những lời tuyên bố của Tổng thống Roosevelt chỉ trích chế độ thực dân của Pháp, sự thành lập “bộ đội Việt-Mỹ” từ chiến khu Tân Trào với sự hiện diện của các sĩ quan OSS, và tấm hình tướng “Cọp Bay” Chennault ký tặng Hồ Chí Minh ở Côn Minh đã được Việt Minh sử dụng và thuyết phục được đại đa số nhân dân ủng hộ. Luật sư Trịnh Đình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Kim, còn được tin là “đại úy Landsdale, phụ tá của thiếu tá Archimedes Patti, trưởng đoàn OSS ở vùng Đông Nam Á… thay vì tiếp tế cho những nhóm quân của Pháp còn đang chiến đấu (chống Nhật) trong rừng miền biên giới, lại thả dù vũ khí và đạn dược xuống cho Việt Minh để trang bị cho một tiểu đoàn đầu tiên, và phái Aaron Bank tới huấn luyện cho bộ đội của Hồ Chí Minh.”30
3. Việt Minh đã chiếm được các cơ sở chính quyền, Hồ Chí Minh đã thành lập chính phủ lâm thời, Khâm sai Bắc Bộ là Phan Kế Toại đã từ chức, đoàn Thanh niên Tiền tuyến và lính Bảo An nhiều người đã đi theo Việt Minh. Thư của Bảo Đại gửi cho Truman và de Gaulle kêu gọi ủng hộ chính nghĩa quốc gia đều không được trả lời. Trong tình trạng thất thế và cô đơn và trước khí thế sôi sục của “cách mạng”, Bảo Đại cùng hoàng gia có thể bị lâm vào số phận của Louis XVI sau Cách mạng Pháp 1789 hay Nicholas II hồi Cách mạng Nga 1917. Quyết định thoái vị của Bảo Đại là một quyết định sáng suốt, thức thời, tránh được đổ máu vô ích của nhân dân nếu ông nhờ Nhật dẹp Việt Minh.
Trong một thời gian quá ngắn phục vụ đất nước, chính phủ Trần Trọng Kim không mắc phải sai lầm nào đáng bị chỉ trích, trái lại, đã thực hiện được nhiều thành tích đáng kể, nhất là việc lấy lại được miền Nam và ba nhượng địa quan trọng ở miền Bắc, hoàn thành việc thống nhất đất nước như đã nói ở trên. Tất cả những điều đó cho thấy Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim không phải là “bù nhìn” của Nhật và nền độc lập của Việt Nam, dù chưa hoàn toàn, vẫn là một thực tại chứ không phải “bánh vẽ”, nhất là so với những điều kiện của một “quốc gia tự do” và viễn tượng thống nhất mơ hồ như trong hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phải ký kết với Cao ủy Bollaert.
Sai lầm chính trị, đúng ra là một nhược điểm, đáng nói đến là Trần Trọng Kim đã không thực hiện được sách lược “bắt cá hai tay” của Thái Lan mà Pridi Banomyong đã chia sẻ. Điều đó có nghĩa là trong khi chính phủ Kim giữ thái độ trung lập chính trị đối với Nhật thì đáng lẽ đã phải có những nhân vật chính trị khác đi với Anh, Mỹ để chống Nhật và chuẩn bị thay thế chính phủ Kim khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng khác với Thái Lan, Việt Nam còn phải đối phó với Pháp, khi đó cũng là một thành phần của Đồng Minh, đang quyết tâm trở lại Đông Dương. Công việc vận động Đồng Minh lại rất khó khăn vì Anh là một đế quốc tất nhiên ủng hộ Pháp chinh phục lại các thuộc địa cũ, trong khi mối quan tâm chính của Hoa Kỳ lúc đó là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô ở Âu châu. Dù sao, đó cũng chính là lỗi lầm của các đảng phái quốc gia nói chung, không có một tầm nhìn rộng rãi về chính trị thế giới sau Thế chiến II, không hợp tác được với nhau để có một sách lược vận động thích hợp với Hoa Kỳ và quốc tế —kể cả những cuộc đối thoại với Pháp— cho một nước Việt Nam không cộng sản, không phải chỉ trong thời gian của chính phủ Trần Trọng Kim mà luôn cả những cơ hội về sau.
Cuộc cách mạng 19 tháng Tám 1945 của Mặt trận Việt Minh diễn ra chỉ có mấy ngày trước khi quân đội Tưởng Giới Thạch vào Việt Nam để tước khí giới quân đội Nhật và cũng để thiết lập một chính phủ chống cộng sản thân Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Trước viễn tượng rất đáng lo ngại đó, Hồ Chí Minh vội vã thành lập một Chính phủ Lâm thời mười lăm người trong đó có năm người không phải là đảng viên cộng sản.31 Vua Bảo Đại thoái vị ngày 25 tháng Tám và trong hai tờ chiếu cho quốc dân và hoàng tộc đã nhắc lại một câu nói lịch sử: “Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.”32 Do lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cựu hoàng Bảo Đại nhận lời làm “Cố vấn Tối cao” (với tên công dân là Vĩnh Thụy) trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cuối tháng Tám, tướng Lư Hán, tư lệnh quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng cùng tướng Tiêu Văn, cố vấn chính trị, bắt đầu chuyển quân vào Việt Nam. Các đạo quân 93 và 60 của Lư Hán từ Vân Nam kéo sang qua ngả Lào Cai, đi dọc theo thung lũng sông Hồng tới Hà Nội, Vinh, Đà Nẵng. Các đạo quân 62 và 53 của Tiêu Văn từ Quảng Tây vào chiếm Cao Bằng, Lạng Sơn và các địa điểm chủ yếu dọc bờ biển Đông Bắc tới Hải Phòng. Tổng số quân đội chiếm đóng trước sau khoảng 180,000 người. Trên đường tới Hà Nội, họ tước khí giới của dân quân Việt Minh ở những địa phương họ đi qua và giao quyền kiểm soát những nơi này cho các đảng quốc gia Việt Nam lúc đó chia làm hai phe: VNQDĐ (Vũ Hồng Khanh) và Đại Việt (Nguyễn Tường Tam) theo Lư Hán, VNCMĐMH (Nguyễn Hải Thần) theo Tiêu Văn. Trước tình thế ấy, Võ Nguyên Giáp gấp rút gặp “AI” Patti để cảnh báo rằng đoàn quân Vân Nam là “bọn tham tàn và vô kỷ luật nhất trong quân đội Tưởng Giới Thạch,” và Quốc Dân Đảng Trung Hoa đang chuẩn bị lật đổ chính phủ lâm thời của Việt Nam để thay thế bằng “những kẻ phản động.” Ngày 1 tháng Chín, Hồ Chí Minh mời Patti tới Bắc Bộ Phủ để họp cùng với Võ Nguyên Giáp và Hoàng Minh Giám. Trong buổi họp này, Patti được yêu cầu chuyển tới chính phủ Mỹ mối quan tâm nghiêm trọng của chính phủ Việt Nam trước hiểm họa của một nạn đói thứ hai ở miền Bắc do vấn đề tiếp tế lương thực quá lớn cho đoàn quân Trung Hoa. Nhân dịp này, các nhà lãnh đạo cộng sản cũng đề nghị thiết lập quan hệ thương mại với Hoa Kỳ và kêu gọi giới kinh doanh Mỹ tới đầu tư. Đây là những cố gắng trong cơn tuyệt vọng vì lúc này Hoa Kỳ đã không còn chú ý tới Đông Dương và chính Patti cũng đang bị cơ quan OSS nhận xét là quá thân thiện đối với Việt Minh.33
Khoảng giữa tháng Chín, VNCMĐMH và VNQDĐ đều đã lập được những trụ sở riêng trong thành phố Hà Nội và bắt đầu tung chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ trong dân chúng, tố cáo Việt Minh là cộng sản dưới quyền chỉ đạo của Nga Sô. Việt Minh phản công bằng việc tuyên dương các hoạt động chống Pháp và chống Nhật của mình, đồng thời chỉ trích các lãnh tụ “Việt Cách” (VNCMĐMH) và “Việt Quốc” (VNQDĐ) là phản động. Trong khi đó, Hồ Chí Minh cho tổ chức “Tuần lễ Vàng” và kêu gọi dân chúng đóng góp vàng hay các món đồ trang sức bằng vàng để chính phủ sử dụng vào công cuộc cứu nước. Patti cho biết “số tiền thu được lớn hơn rất nhiều so với số tiền đã được công bố và ít nhất là hai phần ba số đó đã chui vào túi người Trung Hoa qua việc mua khí giới và các ân huệ về chính trị. Điều này được Võ Nguyên Giáp xác nhận khi ông viết vào năm 1975 là số tiền quyên được là “20 triệu đồng và 370 ki-kô vàng”.”34 Dù không có bằng chứng rõ rệt, việc mua bán súng ống và hối lộ các tướng Trung Hoa đều là chuyện dễ hiểu, và được chính Hồ Chí Minh xác nhận. “Al” Patti dẫn lời Hồ Chí Minh nói về Tuần lễ Vàng “không phải chỉ có nghĩa là một sự đóng góp cho quĩ quốc phòng mà còn có một ý nghĩa chính trị quan trọng.” Patti giải thích rằng “Ông (Hồ) nói thế là có ngụ ý cho biết một phần số tiền có thể phải dùng để xoa dịu lòng tham của (tướng) Tàu.” Ngay sau đó, Patti nhắc lại lời ông Hồ than phiền với ông rằng Tuần lễ Vàng chỉ là “một trò hề” vì “mỗi đồng xu” đều vào tay người Tàu, và phần nhiều số vàng là những đồ trang sức nhỏ do các gia đình nghèo đóng góp còn những nhà giàu và địa chủ người Việt và người Hoa chỉ đóng góp tượng trưng.35 Việc hối lộ được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo Trần Trọng Kim, Lư Hán và Tiêu Văn được một số vàng lớn mới đứng ra dàn xếp việc thành lập Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến trước kỳ họp Quốc hội ngày 2 tháng Ba.36 Theo Duiker thì Hồ Chí Minh chỉ thị cho nhân viên cung cấp thuốc phiện cho Lư Hán.37 Stanley Kamow thì cho biết Lư Hán được tặng một bộ khay đèn hút thuôc phiện bằng vàng38 về khí giới, Việt Minh mua được cho Quân đội Nhân dân 3,000 khẩu sung trường, 50 súng tự động, 600 súng liên thanh, 100 súng cối do Mỹ chế tạo, cộng với kho vũ khí do Pháp và Nhật để lại gồm 31,000 súng trường, 700 súng tự động, 36 súng hạng nặng và 18 xe tăng.39
Ngoài ra, Việt Minh cũng biểu dương lực lượng dân chúng để làm áp lực chính trị đối với giới lãnh đạo ở Trùng Khánh. Khi tướng Hà Ứng Khâm, Tham mưu trưởng quân đội Trung Hoa, đến Hà Nội hồi tháng Mười để thúc giục Lư Hán ngăn chặn Việt Minh củng cố quyền hành, chắc chắn ông đã không thể đánh giá thấp Việt Minh trước sự “đón tiếp” của trên 300.000 người với một rừng cờ và biểu ngữ hoan hô tình hữu nghị Việt-Hoa, hoan hô Việt Minh và Hồ Chủ tịch.
Các tướng Lư Hán và Tiêu Văn, mặc dù không ưa nhau, đều được Việt Minh biệt đãi và trước những cơ hội trục lợi to lớn trước mắt, đều không muốn để cho xảy ra một tình hình rối loạn mà họ biết rằng các lãnh tụ của phe quốc gia không thể kiểm soát được. Do đó, họ bỏ ý định lật đổ chính quyền cộng sản và bắt đầu áp lực các lãnh tụ quốc gia phải liên kết với mặt trận Việt Minh. Nhiều cuộc gặp gỡ đã được diễn ra và đến cuối tháng Mười, Nguyễn Hải Thần phải đồng ý với Hồ Chí Minh về việc thành lập tân chính phủ trong đó có đại diện đảng phái quốc gia. Sự thỏa hiệp này bị VNQDĐ và các lãnh tụ quốc gia khác phản đối kịch liệt. Họ nhắc đến những kinh nghiệm liên hiệp với cộng sản của VNCMĐMH khi còn ở Liễu Châu và tố giác âm mưu thao túng của ĐCSĐD. Trước tình thế ấy, ngày 11 tháng Mười Một, ĐCSĐD tuyên bố tự giải tán để được thay thế bằng Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Các Mác ở Đông Dương, với lý do là “để tránh tất cả những hiểu lầm trong nước và ngoài nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng dân tộc.”40 Trên thực tế, ĐCSĐD chỉ rút vào bóng tối và tiếp tục điều khiển mặt trận Việt Minh cho đến khi tái xuất hiện năm 1951 với tên mới là Đảng Lao Động Việt Nam.
Các đảng phái quốc gia vẫn không ngừng công kích Việt Minh bằng báo chí và những cuộc biểu tình. Ngày 19 tháng Mười Một, tướng Tiêu Văn lại triệu tập một phiên họp và ép buộc các phe phải ký một bản thoả thuận trên nguyên tắc về việc thành lập chính phủ liên hiệp, chương trình hoạt động chung và thống nhất quân đội. Nhưng sau nhiều ngày bàn cãi gay go, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ quốc gia vẫn bất đồng ý kiến về thành phần chính phủ và ngày tổ chức bầu cử quốc hội. Nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ do các nhóm quốc gia tổ chức đã đụng độ đến đổ máu với phe Việt Minh. Có tin nói Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu bị VNQDĐ bắt cóc rồi thả ra để cảnh cáo còn Trần Văn Giàu thì bị ám sát hụt. Tình hình Hà Nội rất căng thẳng có thể bùng nổ thành nội chiến bất cứ lúc nào. Lư Hán và Tiêu Văn lại phải can thiệp, đòi hỏi hai bên phải giải quyết bằng đàm phán. Ngày 25 tháng Chạp, hai bên thỏa thuận thành lập Chính phủ Liên hiệp Lâm thời vào ngày 1 tháng Giêng còn cuộc bầu cử quốc hội được hoãn tới ngày 6 tháng Giêng, 1946. Trên tổng số 350 đại biểu, Việt Minh bằng lòng dành 20 ghế cho VNCMĐMH và 50 ghế cho VNQDĐ mặc dù hai đảng này không tham gia bầu cử. Chiến dịch tuyên truyền và biểu tình chống đối lẫn nhau vẫn tiếp tục trong khi hai bên tranh luận gay go về thành phần tân chính phủ, quốc kỳ, quốc ca và thông nhất quân đội. Giữa lúc này, tướng Tiêu Văn bị triệu hồi về nước khiến cho phe quốc gia bị mất chỗ dựa nên phải chấp nhận thoả hiệp.
Ngày 2 tháng Ba, Quốc Hội họp phiên khai mạc cũng là ngày chính phủ lâm thời được thay thế bằng chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch. Vĩnh Thụy (Bảo Đại) tiếp tục làm cố vấn Tối cao. Chính phủ có mười Bộ chia cho ba phe: Việt Minh và Đảng Dân Chủ (bốn Bộ); VNCMĐMH và VNQDĐ (bốn Bộ); không Đảng Phái (hai Bộ). Ngoài ra còn có Kháng chiến ủy viên Hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch và Vũ Hồng Khanh, Phó Chủ tịch.41 Thỏa hiệp 25 tháng Chạp cho thấy sự nhượng bộ của Việt Minh là một tính toán cần thiết để cho chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có hình thức hợp pháp với tư cách một chính phủ liên hiệp các đảng -phái và một quốc hội do dân bầu. Ngoài ra, Việt Minh còn có thêm thì giờ tăng cường binh lực và có thể huy động quần chúng dễ dàng hơn trước nguy cơ tái xâm lược của Pháp.42 Quả thật trong những ngày đầu năm 1946, những nhà lãnh đạo cộng sản rất lo ngại về cường độ chống đốì của các đảng phái quốc gia được chính phủ Tưởng Giới Thạch ủng hộ trong khi Pháp đang chuẩn bị gấp rút việc tái chiếm Việt Nam. Một mặt quân đội Anh hết lòng giúp Pháp giải tán các lực lượng chống đối ở trong Nam; mặt khác, Trung Hoa đang mặc cả với Pháp về các điều kiện cho Pháp đem quân vào thay thế ở miền Bắc. Trước hiểm họa sắp xảy ra, Hồ Chí Minh thấy cần phải ưu tiên giải quyết tình hình nội bộ cho yên ổn để có thể tập trung các nỗ lực vào việc đối phó với Pháp.
Ở đây cần phải nhắc đến một sự kiện đáng lẽ đã xoay chuyển lịch sử sang một tình thế khác. Bảy giờ sáng ngày 23 tháng Hai, Hồ Chí Minh điện thoại cho Bảo Đại báo tin sẽ tới gặp ông vì chuyện gấp. Vừa tới nơi, ông Hồ liền cho biết ý định yêu cầu Bảo Đại làm Chủ tịch thay cho ông và lập một chính phủ mới. Theo lời Bảo Đại, ông Hồ than thở, “Tôi không còn biết làm cách nào hơn. Tình thế đang trong cơn nguy kịch. Tôi biết rõ rằng Pháp không muốn thương lượng với tôi mà Đồng Minh thì không tin cậy tôi. Ai ai cũng thấy tôi quá ‘đỏ.’ Tôi yêu cầu Ngài hãy hi sinh lần thứ nhì và trở lại cầm quyền.” Bảo Đại muốn có chút thì giờ suy nghĩ. Ông cấp tốc tham khảo với Trần Trọng Kim cùng một số người thân và tất cả đều nhận xét là trong trường hợp này Hồ Chí Minh thành thật vì ông không muốn ký bản thoả hiệp đang điều đình với Sainteny, đại diện chính phủ Pháp. Mười giờ sáng, ông Hồ còn điện thoại thúc giục Bảo Đại nhận lời. Trong khi đó, một đại diện của Bảo Đại tiếp xúc với Thiếu tá Buckley của OSS và được ông này cho biết ông không ngạc nhiên về đề nghị của ông Hồ và hứa rằng người Mỹ sẽ giữ thái độ trung lập trong vấn đề nội bộ này của Việt Nam. Mười hai giờ trưa, Bảo Đại báo tin cho Hồ Chí Minh rằng ông nhận lời. Đến một giờ chiều, ông Hồ mời Bảo Đại tới gặp nhưng để nghe ông rút lại lời đề nghị, “Xin Ngài hãy quên đi tất cả những điều tôi nói với Ngài hồi sáng. Tôi không có quyền chối bỏ trách nhiệm vì tình thế khó khăn. Trao lại quyền cho Ngài bây giờ là một sự phản bội về phần tôi. Xin Ngài tha lỗi cho tôi trong lúc nhu nhược đã nghĩ đến việc trút gánh nặng của tôi lên vai Ngài. Tôi đã tính ra đi chính là vì sự chống đối của những đảng phái quốc gia về bản thoả hiệp đang được chuẩn bị ký với Pháp.” Theo nhận xét của Bảo Đại, sự thay đổi quyết định của Hồ Chí Minh vào giờ chót là do việc Tiêu Văn và Lư Hán đã đồng ý thuyết phục phe quốc gia tham gia vào chính phủ liên hiệp, và như vậy sẽ cùng chịu trách nhiệm về việc ký hiệp ước với Pháp.43
Ngày 28 tháng Hai 1946, Trung Hoa ký với Pháp bản thoả ước Trùng Khánh, đồng ý cho quân đội viễn chinh Pháp tới thay thế quân đội Trung Hoa ở miền Bắc Việt Nam để đổi lấy việc Pháp trả lại các đặc quyền và nhượng địa đã chiếm đoạt từ thế kỷ trước. Ngoài ra, Trung Hoa cũng được Pháp dành cho một số quyền lợi về kinh tế ở Việt Nam. Đại tướng Leclerc, tư lệnh Đoàn quân Viễn chinh Pháp tại Sàigòn, lập tức ra lệnh cho chiến hạm chuyển quân ra Bắc, dự liệu sẽ tới cảng Hải Phòng ngày 6 tháng Ba. Để tránh đụng độ quân sự, Hồ Chí Minh vội chấp thuận các điều khoản trong Hiệp định Sơ bộ, theo đó Việt Nam được nhìn nhận là một nước “tự do” trong Liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp, có chính phủ riêng nhưng chỉ được chia một phần quyền cai trị về đối nội. Việt Nam bằng lòng cho 15,000 quân Pháp tới thay thế quân Trung Hoa. Pháp đồng ý tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba miền đất nước. Ngày ký Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam không chịu tham dự. Phó Chủ tịch Quân ủy Vũ Hồng Khanh phải ký tên cùng với Hồ Chí Minh trên bản hiệp định. Mặc dù đã có sự chia sẻ trách nhiệm như vậy, dư luận đã tỏ ra bất mãn và các đảng phái quốc gia chỉ trích Hồ Chí Minh rất nặng, thậm chí lên án ông là “bán nước cho Pháp.” Ngày hôm sau, Việt Minh phải tổ chức một buổi mít- tinh trước Nhà Hát Lớn thành phố để Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích. Ông kết luận bằng một lời thề: “Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước.”44
Trong khi các lực lượng quốc gia bị suy yếu vì quân đội Trung Hoa rút về nước, các tướng lãnh Trung Hoa nhân dịp này ngoài chuyện vơ vét của cải còn trục lợi bằng việc bán lại cho Việt Minh một số vũ khí và đạn dược tịch thu của Nhật và một số khác của Mỹ mà họ đang sử dụng. Vì không còn bị kiềm chế bởi quân đội Tưởng Giới Thạch và đã tạm thời hòa hoãn được với Pháp, phe cộng sản được rảnh tay thanh trừng và tiêu diệt các phe phái đối lập. Trước hết là cô lập hoá Bảo Đại, người có triển vọng được sự hỗ trợ của quốc nội và quốc tế để trở lại vai trò lãnh đạo. Vào giữa tháng Ba, Hồ Chí Minh yêu cầu Bảo Đại cầm đầu một phái đoàn chính phủ sang thăm viếng xã giao Thống chế Tưởng Giới Thạch tại thủ đô Trùng Khánh, Tổng Thống Trung Hoa đã dành cho Bảo Đại một sự biệt đãi nhưng rất lạnh nhạt với phái đoàn chính phủ. Ngày 15 tháng Tư, Bảo Đại cùng phái đoàn ra phi trường trở về nước. Trước khi lên máy bay, ông được trao cho một bức điện ngắn của Hồ Chí Minh, “Mọi chuyện bên nhà đều tốt đẹp, xin Ngài cứ thong thả. Việc Ngài ở lại Trung Hoa rất có lợi ích cho nước nhà. Xin Ngài đừng bận tâm, tôi sẽ báo tin ngay để Ngài rõ khi nào thuận tiện cho Ngài trở về nước…” Bảo Đại than phiền rằng ông bị bỏ lại phi trường một mình, không một đồng xu dính túi và hành lý thì đã đi theo phi cơ về Hà Nội. Ông may mắn gặp được một luật sư Trung Hoa đã từng du học và hành nghề ở Pháp mời về nhà ở. Trong thời gian này ông cũng có dịp quen biết với Đại Tướng Long Vân, thượng cấp của Lư Hán. Một tháng sau, ông được Tổng Bí thư Quốc Dân Đảng Trung Hoa mời về cư ngụ tại Trùng Khánh. Đến tháng Chín, khi Tưởng Giới Thạch dời đô về Nam Kinh, Bảo Đại được mời đi theo nhưng ông quyết định sang trú ngụ ở Hong Kong.45
Trong thời gian Bảo Đại ở Trung Hoa, mối mâu thuẫn quốc gia-cộng sản càng ngày càng trầm trọng. Các lãnh tụ VNQDĐ, VNCMĐMH và Đại Việt tiếp tục chống đối Hiệp định Sơ bộ. Nhiều cuộc ám sát, bắt cóc, thủ tiêu lẫn nhau đã xảy ra. Nguyễn Tường Tam từ chối cầm đầu phái đoàn sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau cùng với Hồ Chí Minh. Phạm Văn Đồng được cử đi thay. Việt Minh quyết định phát động chiến dịch tổng tấn công các lực lượng quốc gia. Trước khi tung ra chiến dịch này, Việt Minh thành lập Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt, nhằm lôi cuốn sự ủng hộ của mọi thành phần dân chúng. Chiến dịch do Võ Nguyên Giáp (khi đó là Bộ trưởng Nội Vụ) chỉ huy, bắt đầu ngay sau khi phái đoàn Hồ Chí Minh lên đường ngày 31 tháng Năm. Các trụ sở của VNQDĐ và VNCMĐMH bị triệt hạ và các bằng chứng thủ tiêu cán bộ Việt Minh được phơi bày trước công chúng. Các chiến khu của những đảng phái quốc gia này ở trên hai mươi tỉnh miền Bắc và miền Trung lần lượt bị tiêu diệt. Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam đều phải bỏ chạy sang Tàu. Nhiều lãnh tụ nổi tiếng khác như Trương Tử Anh (Đại Việt Quốc Dân Đảng), Lý Đông A (Đại Việt Duy Dân), Khái Hưng (VNQDĐ) đều mất tích. Đáng chú ý là trong chiến dịch này có sự tham gia của Pháp, một phần vì cũng muốn loại trừ những phần tử quốc gia chống Pháp hăng hái hơn cả Việt Minh và đang phá hiệp định sơ bộ. Như Philippe Devillers đã nhận xét, “Sainteny không ưa gì một số phần tử chống Pháp mạnh mẽ hơn trong hàng ngũ quốc gia, và trong một bản phúc trình về Paris ông đã nhận định rằng nếu những nhà lãnh đạo mới của Việt Nam (như Hồ Chí Minh) phải lưu vong thì có thể họ sẽ về nước với sự hỗ trợ của Pháp để trở thành ‘những đồng minh tốt nhất của chúng ta’.”46 Nhận xét của Sainteny về giới lãnh đạo cộng sản quá chủ quan nhưng cũng nói lên được khía cạnh chống Pháp cực đoan của những lãnh tụ quốc gia hồi đó.
Tại miền Nam, chiến dịch diệt trừ đối lập cũng được thi hành song song với miền Bắc ngay từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Những thủ lãnh Đệ tứ Quốc tế như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu,47 Lương Đức Thiệp, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch đều bị thủ tiêu. Nhiều lãnh tụ chính trị không cộng sản của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất (thành lập ngày 14 tháng Tám) như Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Dương Văn Giáo, và hai vợ chồng bác sĩ Hồ Vĩnh Ký cũng bị giết, mặc dù đã kết hợp với Việt Minh để lập thành ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ (4 tháng Chín). Bùi Quang Chiêu, lãnh tụ đảng Lập Hiến, năm đó đã 72 tuổi và không còn hoạt động chính trị, bị bắt cùng bốn người con trai đem đi thủ tiêu. Cuộc truy lùng và diệt trừ đối lập ở miền Nam còn tiếp tục sau khi các lực lượng đảng phái quốc gia ở miền Bắc đã bị quét sạch. Đáng kể nhất là những vụ tàn sát các chức sắc, tín đồ và binh sĩ của đạo Cao Đài và Phật giáo Hoà Hảo. Theo tài liệu của hai tôn giáo này, tổng số người bị giết lên đến hai chục ngàn người. Giáo chủ Phật giáo Hoà Hảo Huỳnh Phú Sổ bị bắt cóc và thủ tiêu năm 1947. Phối sư Thượng Vinh Thanh Trần Quang Vinh, Tổng Tư lệnh quân đội Cao Đài, bị bắt tháng Mười 1945 nhưng trốn thoát tháng Giêng 1946, sau đó tham gia vào các chính phủ Nguyễn Văn Xuân (1948), Ngô Đình Diệm (1954) và Thượng Hội đồng Quốc gia (1965). Theo tin tức của thân nhân tị nạn ở Hoa Kỳ, Phôi sư Trần Quang Vinh bị chính quyền cộng sản bắt và xử tử vào tháng Chín 1975.
Chiếc tuần dương hạm Dumont d’Urville đưa Hồ Chí Minh từ Pháp về tới bến Hải Phòng ngày 20 tháng Mười 1946 và ngày hôm sau ông đáp xe lửa về Hà Nội. Ngày 28, Quốc Hội nhóm họp nhưng chỉ có 291 trên tổng số 444 đại biểu có mặt. Trong số 70 đại biểu của VNQDĐ và VNCMĐMH chỉ có 37 người hiện diện. Khi một đại biểu hỏi lý do vắng mặt của những nguời đối lập, Bộ trưởng Canh nông Cù Huy Cận trả lời từ hàng ghế chính quyền là “họ đã bị bắt với sự chấp thuận của ủy ban Thường trực về những tội thường phạm”.49 Sau đó, người đặt câu hỏi và 34 đại biểu đối lập biến mất luôn, chỉ còn lại hai người. Khi quốc hội bỏ phiếu chấp thuận bản Hiến pháp đầu tiên ngày 8 tháng Mười Một, chỉ còn 242 đại biểu hiện diện với số phiếu 240 trên 2.50 Quốc hội cũng chấp thuận danh sách một chính phủ mới gồm mười hai bộ trưởng, chín thứ trưởng và hai quốc vụ khanh. Không có một người nào thuộc đảng đối lập, chỉ có hai người không đảng phái.51 Đáng chú ý là chức Cố vấn tối cao vẫn còn giữ cho Vĩnh Thụy (Bảo Đại) mặc dù ông đang ở Trung Hoa và được ông Hồ yêu cầu ở lại bên đó. Mục đích việc này là để cầm chân Bảo Đại cho khỏi vội nhảy sang hàng ngũ đối lập đồng thời cũng để cho chính phủ mới tiếp tục có tư cách danh chính ngôn thuận đối với quốc tế. Đây cũng là chính phủ kháng chiến đầu tiên vì chỉ hơn một tháng sau, toàn bộ chính phủ rút ra khỏi thủ đô Hà Nội khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ (19.12.1946).
Cuộc tranh chấp quốc gia-cộng sản, như trình bày trên đây, cho thấy rằng chủ nghĩa cộng sản, tự bản chất và phương pháp thực hiện, không thể chấp nhận sống chung hay hợp tác với các chủ thuyết khác. Trong một tài liệu kỷ niệm cuộc cách mạng Yên Bái ngày 9 tháng Hai 1931, Đảng Cộng sản nhìn nhận rằng “làn sóng cách mệnh nổi lên bắt đầu từ cuộc bạo động ở Yên Bái do Việt Nam Quốc Dân Đảng tổ chức và chỉ huy,” nhưng phê bình VNQDĐ không có khả năng tổ chức và yếu kém về lực lượng. Đảng hô hào:
Hỡi anh chị em công nông, ta nên lấy ngày 9 tháng Hai làm một ngày kỷ niệm cách mạng Đông Dương. Nhưng chớ hiểu lầm rằng ta kỷ niệm Yên Bái là ta tán đồng quốc gia chủ nghĩa và hoàn toàn kính phục những người lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng đâu. Ta nên nhân dịp ngày kỷ niệm này để giãi tỏ trước mặt quảng đại quần chúng công nông trong toàn xứ biết rằng cộng sản chủ nghĩa với quốc gia chủ nghĩa là một trời một vực và không bao giờ hai chủ nghĩa ấy có thể dung hợp được với nhau.52
Những hình thức liên minh hay thỏa hiệp của đảng cộng sản với các đảng phái quốc gia, do đó, chỉ là những bước đi chiến thuật để tiến đến mục tiêu tối hậu là đồng hóa hay tiêu diệt mọi thành phần khác biệt hay đối lập. VNQDĐ và VNCMĐMH là những đảng cách mạng đã có nhiều kinh nghiệm hoạt động với Hồ Chí Minh và các đảng viên cộng sản Việt Nam ở Trung Hoa. Bởi vậy, khi theo đoàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa trở về nước năm 1945, hai đảng quốc gia này đã tin tưởng có thể giành được chính quyền và cương quyết không chịu hợp tác với Việt Minh. Tuy nhiên, do những nhược điểm về tổ chức và lãnh đạo và cũng do áp lực của tướng lãnh Trung Hoa, cả hai đảng rốt cuộc vẫn phải chấp nhận tham gia vào chính phủ liên hiệp và quốc hội của Việt Minh. Trong cuộc tranh chấp quyền hành với Việt Minh, các đảng phái quốc gia hiểu biết rất rõ khả năng và kế hoạch nguy hiểm của đối thủ nhưng không có điều kiện và phương tiện để đôi phó.
Trước hết, không ai thấy rõ lực lượng quân sự của VNQDĐ và VNCMĐMH như thế nào. Lực lượng này chắc không quá mấy trăm đảng viên đã được huấn luyện quân sự ở Trung Hoa cùng với một số chí nguyện quân mới tuyển mộ trước và sau ngày trở về nước. Kinh nghiệm tổ chức và chiến đấu chưa có, kinh nghiệm hành chánh cũng không, tài chánh và vũ khí cũng chẳng có được bao nhiêu. Một số cơ sở địa phương chiếm giữ được trên đường từ biên giới Việt-Hoa về Hà Nội và một số chiến khu lập được sau này đều còn lỏng lẻo sơ sài, không đủ sức chống chọi với lực lượng Việt Minh. Thiệt thòi nhất là số vũ khí đáng lẽ được các tướng lãnh Trung Hoa cung cấp như đã sắp đặt trước thì lại bị họ đem bán cho Việt Minh.
Ngoài ra, VNQDĐ và VNCMĐMH là những đoàn thể cách mạng lưu vong ở Trung Hoa đã lâu và không có cơ sở hoạt động ở trong nước, do đó không có hậu thuẫn của nhân dân. Riêng việc đi theo quân Tàu về để giành lấy chính quyền đã là một bất lợi chính trị rất lớn cho hai đảng này. Hồ Chí Minh trước đó cũng đã nhờ Trương Phát Khuê và Tiêu Văn giúp cho về nước với danh nghĩa VNCMĐMH mà Việt Minh là một thành viên, nhưng ông đã khéo tẩy xóa được hình tích đó. Tổ chức chính trị đáng kể đang hoạt động ở trong nước lúc bấy giờ là đảng Đại Việt lại chia thành hai ba nhóm và không có thực lực để tiếp tay cho hai đảng quốc gia từ hải ngoại. Tất cả những đảng phái này, mặc dù hợp tác với nhau để cùng đối phó với đảng cộng sản, vẫn có những tị hiềm giữa cá nhân các lãnh tụ, vì vậy không có được một bộ máy chỉ đạo nhất trí và có kỷ luật như mặt trận Việt Minh. Chính vì sự chia rẽ giữa các lãnh tụ quốc gia mà VNCMĐMH đã gần như tan rã từ khi còn ở Liễu Châu, Trung Quốc, để cho Hồ Chí Minh được Trương Phát Khuê giao cho tổ chức lại VNCMĐMH và có cơ hội củng cố lực lượng Việt Minh ở trong nước.
Lòng yêu nước của các lãnh tụ quốc gia thực sự rất cao, thể hiện tinh thần độc lập truyền thống của dân tộc. Dưới thời Pháp thuộc, trước và sau khi đảng cộng sản ra đời, đã có biết bao nhiêu nhà cách mạng yêu nước bị tù đày, hành hạ và xử tử. Nhiều nhà trí thức đáng lẽ dùng mảnh bằng của mình để hưởng vinh hoa phú quí thì lại chọn con đường gian khổ tranh đấu cho quyền làm dân của một nước độc lập và tự do. Tuy nhiên, chính cái đặc tính tự do và đa nguyên (nhưng thiếu dân chủ) của những tổ chức cách mạng không cộng sản đã khiến các lãnh tụ không thể kết hợp thành một lực lượng có đủ khả năng đối phó với đảng cộng sản về cơ sở lý thuyết và phương pháp hành động. Các lãnh tụ của hai đảng nòng cốt hồi đó là VNQDĐ và VNCMĐMH đều ở Trung Quốc đã quá lâu, khả năng và tầm nhìn chính trị rất giới hạn và lệ thuộc vào Trung Quốc, nên khi cơ hội đến tay thì chỉ biết trông cậy vào sự giúp đỡ của đám tướng lãnh tham nhũng Tiêu Văn và Lư Hán. Một thí dụ điển hình là Nguyễn Hải Thần, người được Quốc Dân Đảng Trung Hoa giúp cho về nước để lãnh đạo một nước Việt Nam không cộng sản. Mọi người Việt Nam yêu nước năm 1945 đều thất vọng đối với nhà cách mạng lão thành này qua hình ảnh của một ông già không nói rành tiếng Việt và bị đồn là hút thuốc phiện. Không còn mấy ai biết đến một Nguyễn Hải Thần anh dũng đã từng ám sát hụt toàn quyền Albert Sarraut bằng lựu đạn năm 1912.
Trong khi đó, Hồ Chí Minh đã bôn ba nhiều nước trên thế giới, được huấn luyện ỏ Nga, tranh đấu lâu năm với các đảng Xã Hội và Cộng sản Pháp, rồi đại diện cho Ban Phương Đông của Nga để tổ chức và phối hợp các hoạt động cộng sản ở Đông Nam Á và Trung Hoa, thường xuyên điều động các hoạt động ở Việt Nam và đã trở về nước lập cơ sở cho mặt trận Việt Minh năm 1941. Trong thời gian một năm ở Liễu Châu, từ sau khi được Trương Phát Khuê thả tự do cho đến ngày trở về Việt Nam nhân danh VNCMĐMH (tháng Chín 1944), Hồ Chí Minh lại thường lui tới Phòng Thông Tin Chiến tranh (OWI) của Hoa Kỳ để tham khảo sách báo và bắt liên lạc với cơ quan tình báo OSS. Nhờ thành tích và kinh nghiệm quốc tế cùng với việc lấy được lòng tin của Trương Phát Khuê và móc nối được với OSS, Hồ Chí Minh đã có một lợi thế vượt xa các nhà cách mạng đương thời. Lực lượng quân sự của Việt Minh tuy chưa mạnh nhưng có tổ chức, có kỷ luật, được hỗ trợ bởi các đoàn thể quần chúng và nhất là được lãnh đạo bởi những đảng viên sẵn sàng sống chết với chủ nghĩa cộng sản.
Sự so sánh trên đây cho thấy các lực lượng quốc gia có quá nhiều nhược điểm nên đã không thể giành được chính nghĩa và vai trò lãnh đạo nhân dân. Ưu điểm lớn nhất của Việt Minh là khả năng tuyên truyền vận động quần chúng.53 Việt Minh đã khéo che dấu được lai lịch cộng sản dưới hình thức một mặt trận đoàn kết toàn dân với mục tiêu duy nhất là chống Pháp để đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Nhờ có thành tích chống cả Pháp lẫn Nhật, nhất là biết khai thác tối đa các quan hệ hợp tác với OSS, chủ thuyết Roosevelt và triển vọng hỗ trợ của Hoa Kỳ, Việt Minh đã dễ dàng đem lại cho mọi người niềm tin tưởng là có sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Đó cũng là một trong những lý do khiến chính phủ Trần Trọng Kim không dám chống lại Việt Minh và vua Bảo Đại sẵn sàng thoái vị. Hồ Chí Minh đã tự chứng tỏ là một lãnh tụ có tài tổ chức, một chính trị gia đầy mưu lược và một nhà ngoại giao uyển chuyển biết lợi dụng thời cơ nên đã tạo được cho mình hình ảnh của một nhà cách mạng suốt đời hi sinh cho đất nước. Vì thế, đa số dân chúng và nhiều trí thức yêu nước đã ủng hộ mặt trận Việt Minh. Ngay cả trong hàng ngũ đảng phái quốc gia cũng có một số người bị Việt Minh thuyết phục. Ưu điểm này đã giúp cho các nhà lãnh đạo cộng sản nắm được chính nghĩa và động viên được đại khối nhân dân trong suốt cuộc chiến tranh chống Pháp cho đến hoàn toàn thắng lợi.
——–
Ghi chú:
1. Trong sách này, quốc hiệu “Trung Hoa” được sử dụng cho tới khi Mao Trạch Đông thống nhất được lục địa thì gọi là “Trung Quốc”.
2. Sau cách mạng tháng Tám 1945, chính thể “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” được thành lập có kèm theo khẩu hiệu “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”. Khẩu hiệu này có nguồn gốc từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên với ba mục tiêu: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Sự vay mượn này cho thây Hồ Chí Minh có khuynh hướng chuyển chủ nghĩa “tam dân” thành một thứ chủ nghĩa “cộng sản dân tộc” mà cả hai Tổng bí thư Trần Phú (1930-1931) và Hà Huy Tạp (1935-1938) đã công kích là sai lệch đường lối chính thông của Comintern, và cũng đã khiến cho Hồ Chí Minh bị Stalin nghi ngờ, ngay cả sau khi Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ Bảy (1935) ra chỉ thị cho các đảng cộng sản tìm cách liên minh với các đảng phái quốc gia chống đế quốc Đức và Nhật.
3. Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng: Lịch sử tranh đấu cận đại, 1927-1954 (Saigon: VNQDĐ tái bản kỳ II), 108. Trong tập tài liệu về VNQDĐ từ ngày thành lập đến ngày bị dẹp tan (1927-1932), Chánh sở mật thám Pháp L. Marty mô tả chi tiết kế hoạch và diễn biến cuộc khởi nghĩa Yên Báy, Phú Thọ, Hà Nội và Kiến An từ 9 đến 16 tháng Hai 1930, có nhắc đến “Một bản tuyên cáo kêu gọi dân chúng nổi dậy được in ra một số rất lớn mà hàng nghìn tờ đã được tìm thấy ở Lục Nam (Bắc Giang). Nhưng trước đó, sở mật thám đã báo tin cho tất cả chính quyền các nơi đề phòng một cuộc tổng nổi dậy có thể xảy ra vào ngày đó. Những biện pháp đề phòng này đã cho những người chủ mưu biết rằng kế hoạch của họ bị bại lộ, vì vậy họ đã sắp đặt lại.” Marty cho biết Nguyễn Thái Học quyết định dời ngày tổng khởi nghĩa tới 15 tháng Hai thay vì ngày 9, nhưng các nơi không trì hoãn kịp. (L. Marty, Le “Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng” ou “Parti National Annamite” au Tonkin, 1927-1932 [Hanoi: Gouvernement Général de l’Indochine. Docu­ments Vol. n, 1933], 17-18.)
4. William J. Duiker, Ho Chi Minh (New York: Hyperion, 2000), 141.
5. Ibid., 186.
6. Chi tiết về việc Nhật đem quân vào Đông Dương, xem Amiral Decoux, A La Barre de l’Indochine (Paris: Pion, 1949), 59-122.
7 Duiker, 272.
8 Theo Wolfgang Appel, một tác giả người Đức, thì việc thả Hồ Chí Minh là do các đại diện Hoa Kỳ ở Trùng Khánh can thiệp với Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Dẫn bởi Bernard Fall, The Two Vietnams: A political and mili­tary analysis (New York, London: Frederick A. Praeger, 2nd edition, 1963), 99.
9 GBT là tên tắt của ba người: Lawrence Gordon (Canada), cựu giám đốc chi nhánh công ty Cal-Texaco ở Hải Phòng, Harry Bernard (Anh) và Frank Tan (Mỹ gốc Hoa), hai thương gia làm ăn ở Đông Dương. Ba người này lập thành một tổ tình báo tư nhân với sự giúp đỡ tài chánh lúc đầu của một linh mục người Pháp thuộc Đoàn Mục vụ Công giáo Đông Dương, sau hợp tác với OSS. Nhờ giao thiệp rộng rãi với mọi giới tại địa phương, GBT rất đắc lực trong việc cung cấp cho Đồng Minh những tin tức về hoạt động của Nhật ở Đông Dương.
10 David Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley and Los Ange­les: University of California Press, 1995), 23. Marr được Charles Fenn cho xem hồ sơ của 53 người này. Fenn dùng một bản câu hỏi rất tỉ mỉ gồm 35 đề mục để lấy tin tức về các hoạt động và thái độ của Nhật, kể cả những thói hư tật xấu như chơi bời, cờ bạc, rượu chè.
11 OSS thành lập hai toán đặc vụ là Toán Con Nai do Thomas chỉ huy và Toán Con Mèo do Holland chỉ huy, có trách nhiệm huấn luyện quân kháng chiến Pháp ở biên giới Việt-Hoa. Vì Pháp chống lại việc OSS liên lạc với Việt-Minh và không nhận sự giúp đỡ của OSS, hai toán này được chuyển sang huấn luyện cho quân du kích Việt Minh. Toán Con Nai của Thomas tới trước sau được tăng cường bởi Toán Con Mèo. Để có lợi cho việc tuyên truyền, Hồ Chí Minh gộp luôn huấn luyện viên Mỹ vào quân du kích và đặt tên là “bộ đội Việt-Mỹ”. Viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Minh qua OSS rất nhỏ so với viện trợ của Anh cho quân kháng chiến Pháp ở Đông Dương qua Lực lượng 136 (Force 136), từ giữa năm 1944 cho đến khi Pháp bị Nhật đảo chánh ngày 9.3.1945. Lực lượng 136 cũng đã tuyển một số tù chính trị Việt Minh bị Pháp giam giữ ở Madagascar, đưa sang Calcutta huấn luyện về tình báo và thả xuống hoạt động ở vùng Việt Bắc. Trong số này có những người trở thành những nhân vật cao cấp trong chính quyền Việt Minh như Hoàng Đình Rong, Lê Giản. Xem thêm chú thích số 6, chương Hai.
12 Duiker, 302. trích dẫn một đoạn văn của Võ Nguyên Giáp mô tả tình trạng hôn mê của Hồ Chí Minh và cho biết ông khỏi bệnh nhờ sự nhiệm màu của chén thuốc lá cây do một thày thuốc người Tày cho uống. Trong chú thích số 59, trang 633, Duiker thuật lại lời của Paul Hoagland cho biết anh tin rằng chính thuốc của anh đã cứu mạng ông Hồ. Ngày nay, phía Việt Nam đã có vẻ xác nhận điều này là đúng, theo lời phát biểu của Triệu Đức Quang tại hội nghị tái ngộ OSS-Việt Minh ở Hà Nội ngày 22 tháng Chín 1997.
13 Archimedes L.A. Patti, Why Vietnam? (University of California Press, 1980), 129.
14 Duiker, 301.
16 Marr, Vietnam 1945: the Quest for Power (California: University of Cali­fornia Press, 1995), 89-90.
17 CAOM, HCI-101. Marc Masayuki Yokohama viết bản phúc trình 112 trang đánh máy cho nhà cầm quyền Pháp, nhan đề “Mémoires personnels écrits en réponse au questionnaire des autorités françaises de Hué sur lesévénements survenus en Indochine en Mars 1945” (Hồi ký cá nhân viết ra để trả lời bản câu hỏi của nhà chức trách Pháp ở Huế về những sự việc xảy ra ở Đông Dương vào tháng Ba 1945”. Marc Yokohama có vợ Pháp tên là Jeanne A. Vicart và một con trai tên Jean-Marie Masayumi Yokohama sinh tại Paris năm 1926. Ngày 13.12.1946, vợ và con của Marc được chính phủ Pháp cho phép hồi hương vì có công giúp đỡ kiều dân Pháp ở Hà Nội sau vụ đảo chính. Không thấy nói gì tới biện pháp đối với Marc Masayuki Yokohama.
18 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi (Sài-gòn: Vĩnh Sơn, 1969), 51.
19 Trịnh Đình Khải, Décolonisation du Vietnam: Un Avocat Témoigne (Paris: L’Harmattan, 1994), 62. Tác giả cuốn hồi ký bằng Pháp văn này là luật sư Trịnh Đình Thảo, viết sau năm 1975 và trước khi ông mất năm 1986 nhưng tới năm 1994 mới được xuất bản ở Pháp, do trưởng nam của ông là luật sư Trịnh Đình Khải đứng tên tác giả.
20 Ibid., 62-63.
21 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, 56.
22 Trịnh Đình Khải, 63.
23 Hữu Ngọc và Nguyễn Đức Hiền (sưu tầm), La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục, 1998), tập I, 775-850. Với sự đóng góp bài vở của 59 người quen biết cố học giả họ Hoàng, các tác phẩm của Hoàng Xuân Hãn về Khoa học và Giáo dục được in lại trong tập I này, các tác phẩm về Lịch sử được in trong tập II và về Văn học trong tập III.
24 Đạo luật đầu tiên cho phép tổ chức nghiệp đoàn là do chính phủ Trần Trọng Kim soạn thảo và ban hành ngày 5 tháng Bảy 1945. Tổng Liên Đoàn Lao Động của Việt Minh tới tháng Bảy 1946 mới được thành lập (Alice w. Shurcliff, “Trade Union Movement in Vietnam” trong Monthly Labor Re­view, U.S. Department of Labor, Washington, D.C., January 1951, 31).
25 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, trong “Lời tuyên cáo của nội các Trần Trọng Kim”, phần Phụ lục, 193.
26 Ibid., 93.
27 Ibid., 13-14.
28 Ibid., 78-79.
29 Ibid., 93.
30 Trịnh Đình Khải, 66.
31 Chính phủ này lúc mới thành lập (24.8.1945) chỉ có mười đảng viên cộng sản, bốn ngày sau thì thêm năm người gồm 1 công giáo, 2 thuộc đảng Dân chủ và 2 không đảng phái. Chính phủ do Hồ Chí Minh làm chủ tịch và 14 bộ trưởng là: Võ Nguyên Giáp, nội vụ; Chu Văn Tấn, quốc phòng; Trần Huy Liệu, thông tin tuyên truyền; Phạm Văn Đồng, tài chánh; Nguyễn Mạnh Hà, kinh tế; Vũ Trọng Khánh, tư pháp; Lê Văn Hiến, lao động; Vũ Đình Hoè, giáo dục; Phạm Ngọc Thạch, y tế; Nguyễn văn Tố, xã hội; Dương Đức Hiền, thanh niên; Đào Trọng Kim, công chánh; Cù Huy Cận và Nguyễn văn Xuân, bộ trưởng không giữ bộ nào. Nên lưu ý Nguyễn Văn Xuân ở đây không phải Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng chính phủ Bảo Đại năm 1948.
32 Câu nói lịch sử này được phát biểu lần đầu trong tờ chiếu của Bảo Đại cho quốc dân ngày 17.8.1945 sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh. Tờ chiếu thoái vị ngày 25.8 chỉ nhắc lại câu này. Xem Phụ lục A và B trong sách này.
33 Patti bị giải nhiệm và trả về quân đội sau khi đưa tướng Philip Gallagher, cố vấn của Lư Hán, đến gặp Hồ Chí Minh vào tháng Chín và Gallagher được ông Hồ mời cùng sáng lập Hội Thân Hữu Việt-Mỹ.
34 Patti, 338. Vì kết quả đóng góp thực ra chưa được như mong đợi, Hội đồng chính phủ quyết định gây thêm quĩ bằng thuế đánh vào thực phẩm. Bảo Đại kể lại rằng khi một bộ trưởng đề nghị đánh thuế gà, vịt và trâu bò, ông không nhịn được nói thêm vào: “Anh còn quên món thịt chó”. Người đầu tiên phá lên cười là Hồ Chí Minh (Bảo Đại, Le Dragon d’Annam [Paris: Pion, 1980], 136).
35 Patti, 338.
36 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, 104.
37 Duiker, 338.
38 Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Viking, 1991), 167.
39 Bemard Fall, 65.
40 Trần Thục Nga (chủ biên), Lịch sử Việt Nam (Hà Nội: NXB Giáo Dục, 1991), 10.
41 Danh sách mười bộ trưởng gồm: Huỳnh Thúc Kháng (không đảng phái), nội vụ; Phan Anh (không đảng phái), quốc phòng; Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân Chính sát nhập với VNQDĐ), ngoại giao; Chu Bá Phượng (VNQDĐ), kinh tế; Trương Đình Tri (VNCMĐMH), y tế; Bồ Xuân Luật (VNCMĐMH), canh nông; Đặng Thái Mai (Việt Minh), giáo dục; Lê Văn Hiến (Việt Minh), tài chánh; Vũ Đình Hoè (Dân Chủ), tư pháp; Trần Đăng Khoa (Dân Chủ), công chánh.
42 Duiker, 349, trích dẫn một đoạn đối thoại giữa một đảng viên cộng sản và Hồ Chí Minh về lý do tại sao phải thỏa hiệp với Việt Cách và Việt Quốc: “Thưa Bác, tại sao phải để cho bọn phản quốc giết người ấy sống làm gì? Chỉ cần Bác ra lệnh là tụi cháu sẽ tiêu diệt hết chúng nó nội trong một đêm.” Bác mỉm cười, chỉ tay vào phòng rồi hỏi lại, “Giả sử có con chuột chạy vào đây thì chú lấy đá ném nó hay tìm cách bắt nó hay tống khứ nó đi?” Thưa nếu ném đá thì có thể làm vỡ đồ quí trong phòng.” Bác nói “Đối với bọn phản cách mạng cũng vậy. Chỉ riêng chúng nó thì không có gì đáng sợ, nhưng chúng nó có chủ. Muốn làm được chuyện lớn thì phải biết tiên liệu.”
43 Bảo Đại, 150-151.
44 Trần Thục Nga, 13.
45 Bảo Đại, 153-161.
46 Philippe Devillers, Paris-Saigon-Hanoi: Les Archives de la Guerre, 1944- 1947 (Paris: Gallimard/Julliard, 1988), 98. Al Patti, trong Why Vietnam? (tr. 126), cũng cho biết ông ta rất ngạc nhiên khi được tin Sainteny đã gặp Nguyễn Tường Tam, “một người quốc gia quá khích.” Cũng nên biết thêm rằng ngày 12.10.1945, Sainteny và Léon Pignon đã gặp Nguyễn Hải Thần nhưng không có kết quả; ba ngày sau, Sainteny đến gặp Hồ Chí Minh.
47 Trong thời gian Hồ Chí Minh dự hội nghị Fontainebleau, đảng viên xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi ông về tin Tạ Thu Thâu bị giết. Ông Hồ tỏ ý đau buồn về cái chết của “một nhà đại ái quốc” nhưng nói thêm rằng “tất cả những người không theo đường lối mà tôi đã vạch ra đều sẽ bị đập tan.” (Jean Lacouture, Ho Chi Minh [Penguin Books, 1969], 130).
48 “Đôi lời kết luận” của Trần Quang cảnh, trong Trần Quang Vinh, Hồi Ký Trần Quang Vinh và Lịch sử Quân đội Cao Đài (Washington DC: Thánh thất vùng Hoa Thịnh Đốn tái bản, 1997), 194.
49 Fall, 131, trích dẫn báo Cứu Quốc, Hà Nội, ngày 1.11.1946.
50 Ibid., 131.
51 Danh sách chính phủ mới gồm có: Chủ tịch kiêm Bộ trưởng ngoại giao: Hồ Chí Minh, thứ trưởng: Hoàng Minh Giám; Bộ trưởng nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng, thứ trưởng: Hoàng Hữu Nam; Bộ trưởng quốc phòng: Võ Nguyên Giáp, thứ trưởng: Tạ Quang Bửu; Bộ trưởng tư pháp: Vũ Đình Hoè, thứ trưởng: Trần Công Tường; Bộ trưởng kinh tế: Phan Anh, thứ trưởng: Phạm Văn Đồng; Bộ trưởng tài chánh: Lê Văn Hiến, thứ trưởng: Trịnh Văn Bình; Bộ trưởng giáo dục: Nguyễn Văn Huyên, thứ trưởng: Nguyễn Khánh Toàn; Bộ trưởng canh nông: Ngô Tấn Nhơn, thứ trưởng: Cù Huy Cận; Bộ trưởng giao thông công chánh: Trần Đăng Khoa, thứ trưởng: Đặng Phúc Thông; Bộ trưởng lao động: Nguyễn văn Tạo; Bộ trưởng xã hội: Chu Bá Phượng; Bộ trưởng y tế: Hoàng Tích Trí; hai Bộ trưởng không giữ bộ nào: Nguyễn Văn Tô và Bồ Xuân Luật.
52 Văn Kiện Đảng Toàn Tập, Cuốn 3 (Hà Nội: NXB Chính tri Quốc gia, 1999), 232
53 Để biết rõ hơn về công cuộc chuẩn bị của Việt Minh trong giai đoạn 1940- 1945 nhằm nắm lấy vai trò lãnh đạo nhân dân, qua phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, các đoàn thể cứu quốc và mặt trận văn hóa với ba nguyên tắc cơ bản: dân tộc, khoa học, đại chúng, xem thêm: Nguyễn Thế Anh, “The Formulation of the National Discourse in 1940-45 Vietnam”, Journal of In­ternational and Area Studies, Vol. 9, No. 1, June 2002.
Copyright © 2004 by Lê Xuân Khoa
Bản Word © blog BS 2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét