Đừng để khi quá muộn, như trường hợp ông Lê Đức Thọ
Ông Ung Văn Khiêm là cháu nội cụ Ung Văn Tre, quê huyện Chợ Mới, An
Giang. Cụ Ung Văn Tre là người đầu tiên đến Chợ Mới khai khẩn đất hoang,
lập trang ấp, người xưa gọi cụ là ông Chủ Tre.
Ông Ung Văn Khiêm |
Trong cuộc khởi nghĩa Trương Định 1862-1864, Chủ Tre và con là Ung Văn
Quản (cha của Ung Văn Khiêm) đã đóng góp nhiều của cải và trực tiếp tham
gia nghĩa quân chống thực dân Pháp. Từ nhỏ, Ung Văn Khiêm đã có ý thức
và được giáo huấn về lòng yêu nước.
Với truyền thống yêu nước, Ung Văn Khiêm đã tham gia chống Pháp khi còn
đang học ở trường College de Cantho. Dù là một công tử con nhà giàu, một
trong hai học sinh giỏi nhất, được cấp học bổng toàn phần, nhưng Ung
Văn Khiêm đã tổ chức bãi khóa và tham gia biểu tình biểu tình liên tục.
Năm 17 tuổi, ông theo thầy Châu Văn Liêm dấn thân hoạt động cách mạng.
Ông đến với chủ nghĩa cộng sản, trở thành đảng viên Đảng cộng sản Việt
Nam, làm tới chức Uỷ viên Trung ương đảng, Bộ trưởng Bộ ngoại giao.
Ông từng bị Trưởng ban tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và phe phái trù dập
thẳng cánh, vu cho tư tưởng xét lại và những chuyện oan trái, gây bao
nhiêu cay cực. Với tính khí nghĩa hiệp được truyền lai của “người mở
đất” ông về làm dân không chịu cúi đầu.
Không biết có phải do lương tâm bị day dứt không, mà Lê Đức Thọ đã tìm gặp Ung Văn Khiêm vào lúc cuối đời.
Đầu năm 1991, tôi đến thăm cụ Ung Văn Khiêm, cụ kể cho nghe câu chuyện sau đây:
Một buổi sáng năm 1978, tôi đang chăm đàn heo thì bà vợ báo có ông Sáu
Thọ tới thăm. Trời đất ơi, sao tự nhiên thằng cha mắc dịch tới thăm vào
giờ này? Thôi kệ , tắm cho heo đã!
Tắm heo xong, lên thấy ông Sáu Thọ đang thơ thẩn ngoài sân. Ông cười bắt tay tôi, nói:
- Hôm nay tôi tới mời cụ ra giúp việc cho dân cho nước !
Trời đất ơi, lại chơi trò gì nữa đây! Tôi nghĩ vậy và nói thật lòng:
- Ông không sợ thằng cha xét lại làm hỏng việc của Đảng sao?
Ông Lê Đức Thọ vỗ vai tôi:
-Thời bình cần có người liêm chính như cụ!
Tôi nhìn ông Sáu Thọ vẫn như xưa, da mặt tai tái, miệng cười nhếch nửa
mép, mắt nhọn như kim, một khuôn mặt sắc lạnh không có tình người. Tôi
nói:
- Nếu đất nước còn chiến tranh, ông giao việc gì tôi cũng làm. Bây giờ
hòa bình rồi, tôi đã có tuổi, được ông cho nghỉ việc đã lâu, nhảy ra
làm người ta nói tôi tham quyền cố vị. Vậy xin ông miễn cho!
Ông Lê Đức Thọ cười, nắm tay tôi, nói:
- Tôi có gì không phải mong cụ bỏ qua cho!
Tôi nói:
- Tôi mừng vì ông nói được câu ấy! Với ông là chuyện nhỏ! Nhưng còn với đất nước?
Ông Lê Đức Thọ nói nhỏ nhẹ:
- Thôi thì để cho lịch sử phán xét!
Trần Bạch Đằng, một nhà báo có tài, và là một chính khách, từng làm Bí
thư Thành ủy Sài Gòn – Gia Định, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương cục
miền Nam. Ông là một trong những người bị Lê Đức Thọ ghét, “đì” tới số.
Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Trần Bạch Đằng bị Lê Đức Tho
đẩy sang Cu Ba, không cho tham dự, đồng nghĩa với việc loại khỏi danh
sách nhân sự.
Ông Trần Bạch Đằng có lần kể lại câu chuyện sau đây với tôi và nhà thơ Văn Lê:
Một buổi sáng tao đang ngồi viết trên lầu thì con cháu vào nói: “Chú Tư
có bác Sáu Thọ tới thăm!”. Tao nghĩ chắc con nhỏ nhầm. Xưa nay người ta
tìm tới Sáu Thọ qụy lụy chớ cha ấy thèm tới ai ?
Nhưng khi xuống thỉ thấy đúng là Sáu Thọ. Cha đứng ngoài cửa, không vô
nhà. Tao giựt mình vì mặt Sáu Thọ nhợt nhạt không còn thần sắc. Kiểu này
chắc không được bao lâu nữa!?
Sáu Thọ nhích mép cười, nói:
- Tôi biết cậu là người có tài. Ngày đó nếu cậu đến tôi, nói với anh Sáu
vài lời, thì cậu chắc chắn là Ủy viên Trung ương khóa IV, là Ủy viên Bộ
chính trị. Nhưng cậu là con ngựa bất kham, không điều khiển được.
Dừng một khá lâu, ông Lê Đức Thọ mới nói tiếp, không suồng sã thân mật như trước mà giọng trầm xuống, khách sáo và như nhắc nhở:
- Tôi được biết anh đang viết một quyển sách nói nhiều chuyện về tôi.
Hôm nay tôi tới xin anh một điều, khi tôi còn sống anh đừng xuất bản
quyển sách đó. Sau khi tôi chết, con người tôi lịch sử sẽ phán xét.
Ông Lê Đức Thọ |
Nghe Sáu Thọ nói vậy, tao trả lời ông:
- Quyển sách đã in rồi, nhưng anh nói vậy, tôi sẽ hủy!
Có lẽ ít người biết những câu chuyện như thế về “trái tim thép” Lê Đức
Thọ, người từng thừa nhận mình là “Trần Thủ Độ” của Đảng cộng sản Việt
Nam. Bao năm uy quyền tập trung trong tay ông, những kẻ khéo nịnh bợ
được vinh thân phì gia, những người không chịu cúi luồn bị bạc đãi, bao
nhiêu người từng bị đày đọa không ngóc đầu lên được.
Những tưởng con người ấy kiêu hãnh suốt đời?
Nhưng khi quyền lực đã rời bỏ mình thì hiện hữu lại là một tấm thân mềm
yếu, “trái tim thép” hình như bị nhũn ra như bùn. Không hiểu vì lương
tâm thức tỉnh hay vì nguyên nhân gì, chỉ biết 6 tháng sau buổi gặp ấy,
ông Lê Đức Thọ qua đời. Ông được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, nơi
dành cho những cán bộ cao cấp nhất của Đảng cộng sản và nhà nước Việt
Nam, nhưng nghe nói sau đó gia đình phải chuyển về quê!?
M.Gaddafi, “Vua của các vị vua” từng tàn sát 200.000 người, và những
ngày tháng cuối cùng của chế độ độc tài, đã giết hại 23.000 người, bắt
bỏ tù 50.000 người không ghê tay, mà mềm yếu đến đê hèn khi quỳ lạy
người lính: “ Xin đừng bắn tôi!”.
Lật lại những câu chuyện lịch sử “nhạy cảm” trong chiến dịch Mậu Thân 1968
Đã có nhiều nguồn tin trái chiều về những cuộc thảm sát trả thù
đẫm máu bên trong thành Huế sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
chiếm được cố đô. Chính sự đẫm máu thảm khốc, trong một thời gian dài,
người ta né tránh nhắc đến chiến dịch Mậu Thân năm 1968.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy dịp Tết Mậu Thân năm 1968 của quân và
dân ta đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc chiến với Mỹ. Vào thời điểm
ấy, quân đội Mỹ đã hoàn toàn sa lầy trong cuộc chiến tranh với Việt
Nam. Quân đội Mỹ không thể bình định được miền Nam Việt Nam, cũng không
thể rút quân về nước. Trong tình hình đó, dư luận thế giới, dư luận của
chính nội bộ nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh tại Việt Nam ngày càng
mạnh mẽ, quyết liệt. Nắm lấy thời cơ này, Bộ Chính trị đã quyết định
đánh một trận gây tiếng vang lớn, “Một cú đập lớn để tung tóe ra các khả
năng chính trị” (Lê Duẩn). Chiến dịch Mậu Thân năm 1968 đã bất thần
được quyết định như thế để tạo bước ngoặt lớn trong chiến tranh, buộc Mỹ
phải xuống thang, đi tới đàm phán.
Sáng sớm ngày 31/1/1968, trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân, quân ta
đã đồng loạt tấn công bất ngờ vào nhiều thành phố, trong đó có những
thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế… Cuộc tổng tấn công và nổi dậy
Tết Mậu Thân năm 1968 được đánh giá là một thắng lợi có tầm vóc lớn về
chiến thuật của quân ta, tạo tiền đề quan trọng để Mỹ xuống thang chiến
tranh, đi đến đàm phán tại Hội nghị Paris năm 1973.
Quân ta trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968 |
Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài, nhiều nguồn thông tin nhiễu
loạn đã khiến chiến dịch Mậu Thân năm 1968 trở thành câu chuyện lịch sử
nhạy cảm, ít được nhắc đến. Những thông tin về các ngôi mộ tập thể được
tìm thấy ở Huế, thông tin về những cuộc thảm sát đẫm máu mang tính trả
thù cá nhân sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được thành
Huế… được lan truyền một cách ẩn ức trong dư luận suốt một thời gian.
Khi câu chuyện về chiến dịch Mậu Thân năm 1968 vẫn tồn tại như một
câu chuyện lịch sử nhiều bí ẩn, một nữ đạo diễn Việt Nam đã âm thầm
chuẩn bị tài liệu trong suốt 10 năm để lật lại, để truy tìm sự thật, để
nói đến tận cùng về những câu chuyện “nhạy cảm” năm 1968.
Lính Mỹ trong thành cổ Huế năm 1968. Cuộc giao tranh 26 ngày đêm ở Huế diễn ra khốc liệt. |
Lý do của 10 năm đổ công sức, tiền bạc đi tìm tài liệu, đi tìm nhân
chứng về cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 của nữ đạo
diễn Lê Phong Lan khiến người viết thực sự cảm động. Chị nói, “Có một
động lực vô hình nào đó thôi thúc tôi đi tìm hiểu về chiến dịch Mậu Thân
năm 1968. Trong quá trình đi tìm tài liệu, đi tìm những nhân vật là
chứng nhân lịch sử của cả hai chiến tuyến, tôi đã nhìn thấy những tấm
ảnh tư liệu ghi lại hình ảnh chiến sỹ giải phóng của ta hy sinh như thế
nào, đổ xương đổ máu ra sao… Tôi không tin những người lính ấy lại có
thể tạo ra những cuộc thảm sát”.
Theo đạo diễn Lê Phong Lan, “Lịch sử đã trải qua 45 năm, thời gian đã
có đủ độ lùi để chúng ta nhìn nhận lại về chiến dịch Mậu Thân năm 1968.
Thời thế đã đổi thay. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta nói chuyện với nhau
thật thẳng thắn về tất cả những câu chuyện xảy ra từ 45 năm trước. Trong
10 năm ròng, tôi đã đi, đã tìm kiếm, đã gặp gỡ, phỏng vấn, để xây cất
nên 12 tập phim tài liệu về chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Tôi gặp gỡ cả
những người lính ở hai chiến tuyến, tôi gặp gỡ hỏi chuyện cả những người
chỉ huy ở cả hai chiến tuyến. Ở cấp chỉ huy, ở cấp lính, mỗi người đều
có cái nhìn khác nhau về cuộc chiến. Suốt 10 năm tôi đi và đi, phỏng vấn
và phỏng vấn… Và tôi nghĩ, 12 tập phim tài liệu xây cất trong 10 năm
ròng của tôi sẽ giúp khán giả giải mã được sự thật còn gây tranh cãi của
chiến dịch Mậu Thân năm 1968”.
12 tập phim tài liệu với tựa đề “Mậu Thân- 1968” là sự nhìn nhận,
đánh giá của chính những người trong cuộc sau độ lùi 45 năm thời gian.
Tính đến thời điểm hiện tại, 2/3 số nhân vật được phỏng vấn trong 12 tập
phim tài liệu của đạo diễn Lê Phong Lan đã ra đi. 10 năm không mệt mỏi
để một nữ đạo diễn bươn chải, tìm cho bằng được những sự thật về “Mậu
Thân-1968”.
Và với những gì tìm được, nữ đạo diễn trả lời, “Tôi đã gặp những nhà
báo Mỹ, những người lính bên kia chiến tuyến, họ đã nói, tất cả những
thông tin về vụ thảm sát năm 1968 tại Huế chỉ là sự vu cáo của Mỹ và
chính quyền Việt Nam cộng hòa đổ lên đầu Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam. Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng nề, phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa
đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến tranh
tâm lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự thật là sự thật.
Chiến dịch Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản anh hùng
ca vĩ đại của quân dân Việt Nam”.
“Tôi chỉ có một câu hỏi, “Tại sao cha ông chúng ta, thế hệ những
người trẻ như tôi, như bạn thời ấy lại có thể sẵn sàng hy sinh mạng
sống, hy sinh gia đình của mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc? Vậy, độc
lập, tự do là gì? Tại sao người ta có thể hy sinh ghê gớm đến thế vì độc
lập, tự do. Nếu các bạn cũng như tôi, đã đọc, đã tìm hiểu, đã nhìn tận
mắt những hình ảnh về chiến tranh Việt Nam, các bạn sẽ thấy đó là một
huyền thoại. Lịch sử Việt Nam đã được viết bằng những huyền thoại”- Đạo
diễn Lê Phong Lan chia sẻ sự xúc động.
Nữ đạo diễn tin rằng, thế hệ trẻ bây giờ thờ ơ với lịch sử là vì họ
không hiểu lịch sử, họ gần như không biết gì về lịch sử với những bài
học giản đơn ở trường lớp. Nếu đã hiểu, họ cũng sẽ yêu vô cùng những
huyền thoại đã được viết bằng máu của đất nước mình.
Máu đã viết nên huyền thoại về đất nước, nếu ai đã lắng nghe, đã thấu hiểu, cũng sẽ cúi đầu trước những huyền thoại ấy.
Trích dẫn lời của một trong những nhân vật của 12 tập phim tài liệu- “Mậu Thân- 1968”:
Ông Larry Berman- GS. Sử học Mỹ “Tết Mậu Thân là một bước chuyển mang tính quyết định, chấm dứt leo thang chiến tranh Việt Nam. Người Mỹ sử dụng cụm từ “khủng hoảng lòng tin”. Cuộc tấn công bộc lộ cho người Mỹ thấy rằng, toàn bộ cuộc chiến này dựa trên cơ sở của một lời dối trá”.
Cũng trong nhiều tài liệu nghiên cứu sử học của Mỹ đã phải thừa nhận, những thông tin về vụ thảm sát tại Huế sau khi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được cố đô là hoàn toàn vu cáo./.
(Dân trí)
S. Husen, ria mép giống hệt ria Stalin, nổi tiếng độc tài khát máu, phút
cuối cùng còng lưng rụt đầu vào cổ chiếc áo sơ mi trắng, ôm quyển kinh
Koran, miệng lảm nhảm xin tha chết.
Nicolae Ceausecu, Chủ tịch đảng cộng sản Rumnia, từng mệnh danh
“Conducator” - Lãnh tụ tối cao “Geniul din carpati” – Thiên tài, đã quỳ
khóc sướt mướt khi bị bắt trên đường trốn sang Nga, và sau đó cả hai vợ
chồng đều bị xử bắn sau một phiên tòa kéo dài hai tiếng đồng hồ.
Hơn 2.500 năm trước Đức Phật Thích Ca đã cho ra đời triết lý Vô Thường,
và hình như thuyết Tương đối của Albert Einstein cũng dựa trên ý tưởng
ấy. Đừng ảo tường chế độ tồn tại vĩnh viễn, quyền lực trong tay mình là
tuyệt đối, kẻo hối không kịp.
Ông Lê Đức Thọ là một con người đầy bản lĩnh, nhiều tham vọng, đa nghi và rất thủ đoạn.
Ông sinh năm 1911 tại Nam Trực, Nam Định, từng tham gia bãi khóa , dự lễ
tang nhả chí sỹ Phan Chu Trinh và hoạt động trong phong trào học sinh
yêu nước nên bị Pháp bắt giam hai lần (1936, 1944).
Ông từng làm Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Kỳ (1948-1954).
Nhưng chức vụ mà ông giữ lâu nhất là Trưởng ban tổ chức Trung ương. Ngay
cả khi làm Bí thư Thường trực ông vẫn kiêm Trưởng ban tổ chức.
Người ta nói Lê Đức Thọ là người tạo ra bộ máy lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam suốt bốn thập kỷ (1954-1994) và cho tới bây giờ vẫn còn gốc
gác ấy. Người ta còn nói ông thường vận dụng “Nhân tướng học” để chọn
cán bộ, và bất kỳ ai trái ý ông đều trở thành nạn nhân, tiêu biểu là Đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Ông chuyên trách công tác Tổ chức Đảng, nhưng
khoái cầm quân, ham chiến đấu, xông vào chiến dịch Mậu Thân 1968, chiến
dịch Hồ Chí Minh 1975 và tấn công đánh đuổi Polpot trên đất Campuchia
1-1979.
Ông Lê Đức Thọ nổi tiếng trong vai trò Cố vấn tối cao cho phái đoàn đàm
phán của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Pari, ông đã
từ chối nhận một nửa Giải Nobel hòa bình với tiến sỹ Kissinger.
Ông mất ngày 13-10-1990 để lại nhiều tiếng tốt, không ít điều xấu, nhưng, như ông nói, hãy để cho lịch sử phán xét.
Tôi chỉ kể lại hai mẩu chuyện có thật tôi được nghe, như một chi tiết nhỏ trong cuốn lịch sử chưa viết về ông Lê Đức Thọ.
Khi con người nắm quyền lực trong tay, phần vì hãnh tiến, phần sợ bị kẻ
khác tước đoạt hoặc lợi dụng, trở nên đa nghi, tàn nhẫn, đôi khi mê
muội, mất cả lương tâm, hại cả bạn bè người thân.
Những con người đó đều sẽ rơi vào trạng thái bi kịch, hụt hẫng khi quyền lực tuột khỏi tay, mà không ai tránh khỏi.
Con chim sắp chết hót hay, con người sắp chết nói thật, hình như rất
đúng với trường hợp ông Lê Đức Thọ. Tôi được biết trước khi mất ông gặp
nhiều người chứ không riêng ông Ung Văn Khiêm và Trần Bạch Đằng.
Minh Diện
(Blog Bùi Văn Bồng)
Đường sắt cao tốc ở Lào và tham vọng của Trung Quốc
Bán đảo Đông Dương gần đây đã trở thành điểm nóng đầu tư mới, trong đó
Lào đã trở thành nơi đọ sức của các nguồn vốn Âu-Á, đồng thời cũng dẫn
đến những thị phi chính trị.
Trong khi công trình đường sắt cao tốc nối Lào với Việt Nam đang hừng
hực khí thế thì kế hoạch đường sắt cao tốc nối Côn Minh (Trung Quốc) với
Lào lại bị trở ngại do những chỉ trích của phương Tây. Theo dự kiến,
đến trước năm 2015, các nước Đông Nam Á sẽ tạo thành cộng đồng kinh tế
chung, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với khối này lúc đó có thể
sẽ tăng từ mức 370 tỷ USD hiện nay lên tới trên 500 tỷ USD. Rõ ràng, kế
hoạch của Trung Quốc trong việc hội nhập với khu vực này khả quan hơn
những kế hoạch đầu tư của các nước khác, điều này tất nhiên khiến các
nước phương Tây không thể hài lòng.
Ý nghĩa chiến lược của đường sắt Trung – Lào
Năm 2006, gần 20 quốc gia châu Á ký kết một thỏa thuận đường sắt xuyên
châu Á, dự án đường sắt cao tốc ở Lào là một phần trong đó. Giới phân
tích cho rằng nếu như Trung Quốc có thể lấy đường sắt cao tốc “đả thông”
Đông Nam Á, đưa các nước như Lào và Mianma vào mạng lưới đường sắt cao
tốc của mình, Trung Quốc sẽ có thể trực tiếp vươn tới Ấn Độ Dương bằng
đất liền, có thể vận chuyển các mặt hàng, nguyên vật liệu cũng như dầu
lửa từ Trung Đông và châu Phi về nước… không phải qua eo biển Malacca do
Mỹ kiểm soát, điều này có ý nghĩa chiến lược rất lớn. Ngoài ra, hệ
thống đường sắt cao tốc cũng giúp Trung Quốc tăng cường hợp tác với các
nước ASEAN, trở thành một chiêu bài chống lại chiến lược “quay trở lại
châu Á” của Mỹ. Chuyên gia kinh tế hàng đầu của Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB) Feng Orchids chỉ ra rằng ngoài việc xuất khẩu các mặt hàng
sang các nước Đông Nam Á, ngành xuất khẩu của Trung Quốc cũng phụ thuộc
rất nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và các mặt hàng bán thành
phẩm từ Đông Nam Á. Có thể thấy rằng Trung Quốc có lợi ích rất lớn trong
việc gắn kết với Đông Nam Á.
Sự nghi ngại của phương Tây
Báo giới phương Tây mấy năm gần đây thường hình dung những kỹ thuật,
tiền vốn mà Trung Quốc đổ vào các nước xung quanh cũng như các nước châu
Phi và Mỹ Latinh là “ngoại giao đường sắt”. Năm 2010, Trung Quốc ký kết
với Lào và Thái Lan thỏa thuận hợp tác xây dụng tuyến đường sắt cao tốc
dài 420 km nối liền Côn Minh với Lào và Thái Lan. Tuy nhiên, kế hoạch
đoạn nối Côn Minh với Lào (trị giá 7 tỷ USD) lại khiến dư luận phương
Tây phản đối kịch liệt với những nghi ngại về phá hoại môi trường và
khoản vay quá lớn. Theo thỏa thuận, Ngân hàng Đầu tư Trung Quốc sẽ cung
cấp toàn bộ vốn cho dự án đường sắt cao tốc Trung-Lào với lãi suất thấp
trong vòng 30 năm, điều kiện đổi lại là đến trước năm 2020, mồi năm
Lào sẽ cung cấp cho Trung Quốc tài nguyên khoáng sản trị giá 5 triệu USD, chủ yếu là Kali, gỗ và hàng nông sản…
Mặc dù sau khi tuyến đường sắt xây dựng hoàn thành sẽ do phía Lào toàn
quyền sử dụng, song dư luận phương Tây nghi ngại rằng Lào sẽ “lỗ to”. Tờ
“Thời báo Niu Yoóc” dẫn lời một vị cố vấn giấu tên phụ trách công tác
sắp xếp kế hoạch phát triển của Liên hợp quốc cho rằng các điều kiện cho
vay mà phía ngân hàng Trung Quốc đưa ra quá “khắc nghiệt”, chúng sẽ
khiến sự ổn định của kinh tế vĩ mô Lào đối mặt với nguy cơ, Lào sẽ phải
cung cấp cho Trung Quốc khoáng sản để trả nợ, trong khi công trình đường
sắt xuyên qua miền Bắc của Lào sẽ biến các bản làng nơi đây thành “đống
rác”. Bài báo còn dẫn lời một quan chức ngoại giao châu Á giấu tên cho
biết các đối tác hợp tác khác như ADB hay Ngân hàng Thế giới (WB) đều
bày tỏ “quan ngại”, trong khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cảnh báo Lào
“cần phải thận trọng”.
Tuy nhiên, những chỉ trích bình luận trên đều không đề cập đến tầm quan
trọng của tuyến đường sắt này đối với Lào, quốc gia không có bờ biển.
Phía Lào dự tính thu nhập từ vận tải đường sắt năm đầu tiên sẽ đạt 95
triệu USD, đen năm thứ 50, lãi ròng từ vận tải đường sắt sẽ đạt 16,39 tỷ
USD. Ngoài ra, thu nhập từ các ngành nghề liên quan sẽ chiếm tới 50%
tổng thu nhập. Cơ quan xếp hạng quốc tế Moody’s cũng đánh giá rằng dự án
vay tín dụng xây dựng đường sắt cao tốc Trung-Lào sẽ giúp ích cho kinh
tế Lào phát triển, giúp tăng lượng xuất khẩu tài nguyên của Lào sang
Trung Quốc.
Đọ sức Trung-Mỹ tại Lào
Lãnh đạo cấp cao chính phủ Lào hiện nay đa số là bộ đội Pa Thét từng tác
chiến với miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến tranh Việt Nam , họ vẫn
chủ trương giữ một khoảng cách với Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ gần đây đang có ý
đồ lôi kéo Lào, hồi tháng 7 năm ngoái, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton
đã tới Lào, trở thành quan chức ngoại giao cấp cao nhất thăm Lào kể từ
năm 1950, động thái này đã báo hiệu Lào sẽ trở thành một chiến trường đọ
sức giữa Mỹ và Trung Quốc tại Đông Nam Á.
Trên thực tế, kế hoạch đường sắt cao tốc Trung-Lào đang đối mặt với trở
ngại, trong thời gian tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu tại Lào hồi
tháng 11/2012, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã không thể dự lễ khởi
công tuyến đường này theo kế hoạch. Ngược lại, cũng trong thời gian này
lại diễn ra lễ ký kết thỏa thuận xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Lào –
Việt Nam trị giá 5 tỷ USD do Công ty Giant Consolidated của Malaixia làm
chủ đầu tư. Tuyến đường sắt Lào-Việt dài 220 km, dự kiến được xây dựng
trong 5 năm, là tuyến đường sắt cao tốc đầu tiên nối liền Lào với Việt
Nam. Điều khá ngạc nhiên, phương Tây không tranh cãi nhiều và dường như
đang ưu tiên thúc đẩy tuyến đường sắt Lào-Việt.
Sự mở rộng ảnh hưởng của người Trung Quốc
Trung Quốc mấy năm gần đây thúc đẩy kế hoạch đường sắt cao tốc trên bán
đảo Trung Nam , một mục tiêu lớn trong đó là thúc đẩy thương mại của Khu
thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN, và Lào được coi là một khâu quan
trọng để Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng trong khu vực. Tại thành phố du
lịch nổi tiếng Luang Prabang của Lào, Trung Quốc đã xây dựng và tu bổ
các bệnh viện của địa phương, nâng cấp sân bay… Dọc hai bên bờ sông Mê
Công chảy qua thủ đô Viêngchăn, du khách có thế dễ dàng nhận thấy rất
nhiều biệt thự cao cấp, chúng cũng đều do người Trung Quốc đầu tư xây
dựng.
Không ít thương gia Trung Quốc đã nhìn thấy cơ hội phát triển của đường
sắt cao tốc ở Lào và đang đầu tư dọc theo tuyến đường này. Tại Udom Xay,
một vùng nông nghiệp ở miền núi phía Bắc Lào, các thương nhân Trung
Quốc đã xây dựng một trường học tiếng Hoa với hơn 400 học sinh và 28
giáo viên, một phần lương của các giáo viên ở đây do chính phủ Trung
Quốc chi trả. Vương Quyền, ông chủ người Trung Quốc của một khách sạn
tại địa phương, cho biết đang mong đợi việc hơn 20.000 công nhân đường
sắt Trung Quốc sẽ sớm tới đây để ông có thể kiếm tiền từ đồng bào của
mình. Ông chủ này đến đây được 3 năm và đã mua một xưởng gia công đồ gồ,
ông cho biết dân di cư từ Trung Quốc đã thuê tới một nửa đất nông
nghiệp của Udom Xay, “chỉ cần có tiền, thuê đất bao nhiêu năm cũng được,
người ở đây chỉ biết tiền, không cần biết người”.
Sự đầu tư của Trung Quốc đã thúc đẩy kinh tế Lào, song cũng có không ít
người bất mãn với sự đầu tư này của Trung Quốc. Anne Sophie Gindroz –
người phụ trách Tố chức Phát triển Helvetas của Thụy Sỹ – đã nghi ngờ
việc Chính phủ Lào cưỡng bức nông dân bán đất. Sự nghi ngờ đó đã khiến
cho Gindboz bị trục xuất ra khỏi Lào vì “không thiện chí” với chính phủ
nước này. Tại Viêngchăn, Sombath Somphone – một người quốc tịch Lào phụ
trách một trung tâm đào tạo phát triển – đã bị mất tích hồi tháng trước.
Trước khi mất tích, ông ta đã tham dự hoạt động hội thảo chuyên đề cập
tới vấn đề đất đai hiện nay. Một quan chức ngoại giao cho biết ông ta đã
bị cảnh sát bắt đi.
Tài liệu tham khảo đặc biệt - TTXVN
(Redvn)
Người lãnh đạo, họ vì điều gì, nhân dân hay lợi ích cá nhân?
Dân chúng biết hết, biết rất rõ hành động và việc làm của ai đó có vì
dân vì nước hay không, cho dù hành động đó nhân danh điều gì, che giấu
dưới thức nào. Nhân dân xem thường những ai chỉ vì quyền lợi cá nhân,
đặt quyền lợi đó lên trên việc chung.
Có quá nhiều sự kiện xảy ra dồn dập liên quan đến nhiều lĩnh vực trong
xã hội, đời sống của người dân, cùng với nó là những trăn trở, suy tư về
trách nhiệm công dân và lòng yêu nước trong mỗi cá nhân và cộng đồng.
Mỗi công dân đều phải có trách nhiệm với đất nước, công dân đó có vị trí
cao trong xã hội, có vai trò quản lý, lãnh đạo thì trách nhiệm đó càng
cao hơn. Mỗi hành vi, lời nói, quyết định từ các cá nhân đó đều có sự
ảnh hưởng đến cộng đồng, trong phạm vi một địa phương hoặc cả nước.
Vì thế, trong mỗi hành vi, quyết định của cá nhân hay một nhóm người,
đặc biệt là người có trách nhiệm, quyền lực, cần phải đặt Tổ quốc lên
trên hết. Khi các hành động và quyết định có bóng dáng Tổ quốc, vì lợi
ích của nhân dân thì sẽ có sức thuyết phục dân chúng. Ngược lại, không
vì Tổ quốc, vắng bóng nhân dân, trống rỗng lòng yêu nước mà chỉ vì lợi
ích cá nhân, quyền lực của một nhóm người thì dân chúng quay lưng.
Có thể nói, dân chúng biết hết, biết rất rõ hành động và việc làm của ai
đó có vì dân vì nước hay không, cho dù hành động đó nhân danh điều gì,
che giấu dưới thức nào. Nhân dân xem thường những ai chỉ vì quyền lợi cá
nhân, đặt quyền lợi đó lên trên việc chung.
Tưởng cũng cần nhắc lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, thì dân mới yêu ta, kính ta”.
Lúc này đây, khi đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, hàng ngàn doanh nghiệp
gặp khó khăn hoặc phá sản, hàng vạn công nhân mất việc hoặc bán mồ hôi
trong các nhà máy để nhận đồng lương rẻ mạt, chưa kể nhiều người lao
động kiếm sống lay lắt nơi xứ người. Tất cả đều mong chờ một cuộc sống
no ấm hơn, hạnh phúc hơn.
Lúc này đây, khi biển Đông đang bị rình rập, bị xâm lăng, cho nên giữ
vững chủ quyền biển đảo, bảo vệ vững chắc thước núi tấc sông của Tổ quốc
là việc cấp bách, phải đặt lên hàng đầu.
Lúc này đây, xây dựng và phát triển Việt Nam thành một quốc gia cường
thịnh, ngang hàng với các nước phát triển trên thế giới là một mục tiêu
không thể đặt ở hàng thứ yếu.
Muốn làm được hai việc lớn đó, chỉ khi tất cả mọi hành động, quyết định,
quyết sách mang hình bóng của Tổ quốc, có hình ảnh của nhân dân và chan
chứa lòng yêu nước.
Lê Chân Nhân
(Dân trí)
VN ủng hộ Philippines kiện TQ?
Trung Quốc đã đưa đường lưỡi bò lên tất cả các bản đồ của họ
Lần đầu tiên Việt Nam đã có phản ứng chính thức về việc
Manila đưa Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế để phân xử về
yêu sách đường chín đoạn của nước này trên Biển Đông.
Tuy nhiên, phản ứng chính thức của Việt Nam không phải do người phát ngôn Bộ Ngoại giao đưa ra như thông lệ mà là phát biểu của một vị cấp phó của Ủy ban biên giới quốc gia vốn cũng là một cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao.
‘Quyền của Philippines’
Thông cáo được Bộ Ngoại giao phát đi hôm thứ Năm ngày 24/1 cho biết khi bị phóng viên chất vấn về phản ứng của Việt Nam trước việc Manila chính thức khởi kiện Bắc Kinh về chủ quyền trên Biển Đông, ông Nguyễn Duy Chiến đã nói rằng ‘các quốc gia hoàn toàn có quyền lựa chọn các biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp’.
Phát ngôn này cho thấy lập trường của Việt Nam đã ủng hộ ‘giải pháp hòa bình’ ở tòa án của Chính quyền Philippines.
Ông Chiến cũng nhắc lại ‘lập trường nhất quán’ của Việt Nam là tranh chấp Biển Đông ‘phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982’.
Ngoài ra, thông cáo của Bộ Ngoại giao cũng cho biết phóng viên đã hỏi phản ứng của ông Chiến về việc Cục đo vẽ bản đồ quốc gia Trung Quốc sắp phát hành ‘Bản đồ toàn quốc nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa’ và ‘Bản đồ địa hình Trung Quốc’ vào cuối tháng Giêng năm nay có vẽ yêu sách ‘đường lưỡi bò’ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, theo như báo chí nước này đưa tin.
Ông Chiến trả lời rằng hai bản đồ trên là ‘phi pháp và vô giá trị’.
“Mọi bản đồ thể hiện thông tin sai lệch về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông là phi pháp và vô giá trị,” ông phát biểu.
Ông Chiến khẳng định ‘Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở Biển Đông theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982’.
Tuy nhiên, phản ứng chính thức của Việt Nam không phải do người phát ngôn Bộ Ngoại giao đưa ra như thông lệ mà là phát biểu của một vị cấp phó của Ủy ban biên giới quốc gia vốn cũng là một cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao.
‘Quyền của Philippines’
Thông cáo được Bộ Ngoại giao phát đi hôm thứ Năm ngày 24/1 cho biết khi bị phóng viên chất vấn về phản ứng của Việt Nam trước việc Manila chính thức khởi kiện Bắc Kinh về chủ quyền trên Biển Đông, ông Nguyễn Duy Chiến đã nói rằng ‘các quốc gia hoàn toàn có quyền lựa chọn các biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp’.
Phát ngôn này cho thấy lập trường của Việt Nam đã ủng hộ ‘giải pháp hòa bình’ ở tòa án của Chính quyền Philippines.
Ông Chiến cũng nhắc lại ‘lập trường nhất quán’ của Việt Nam là tranh chấp Biển Đông ‘phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982’.
Ngoài ra, thông cáo của Bộ Ngoại giao cũng cho biết phóng viên đã hỏi phản ứng của ông Chiến về việc Cục đo vẽ bản đồ quốc gia Trung Quốc sắp phát hành ‘Bản đồ toàn quốc nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa’ và ‘Bản đồ địa hình Trung Quốc’ vào cuối tháng Giêng năm nay có vẽ yêu sách ‘đường lưỡi bò’ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, theo như báo chí nước này đưa tin.
Ông Chiến trả lời rằng hai bản đồ trên là ‘phi pháp và vô giá trị’.
“Mọi bản đồ thể hiện thông tin sai lệch về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông là phi pháp và vô giá trị,” ông phát biểu.
Ông Chiến khẳng định ‘Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở Biển Đông theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982’.
Bắc Kinh phê phán
Ngoại trưởng Rosario nói nước ông đã 'hết giải pháp' nên mới đưa tranh chấp ra tòa
Quan điểm của Việt Nam muốn ‘giải quyết tranh chấp trên Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế’ cũng được Ngoại trưởng Phạm Bình Minh xác nhận với BBC trong chuyến thăm đến London tuần này.
Điều này cũng được lặp lại trong Tuyên bố chung Anh-Việt sau chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trước đó hai ngày vào hôm thứ Ba ngày 22/1, Ngoại trưởng Philippines Alberto del Rosario đã thông báo nước ông quyết định đưa tranh chấp quanh Bãi cạn Scarborough và Đường lưỡi bò của Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài quốc tế.
Theo đó, Manila đệ đơn lên Tòa trọng tài trong khuôn khổ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) để khiếu nại về các vi phạm của Trung Quốc đối với vùng biển chủ quyền của Philippines, cùng các cấu thành như thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế đã được UNCLOS quy định.
Philippines cũng yêu cầu Tòa trọng tài phán quyết rằng yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc tại Biển Đông là bất hợp pháp.
Sau đó chỉ một ngày, Bắc Kinh đã có phản ứng qua lời của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hồng Lỗi rằng các tranh chấp trên Biển Đông chỉ nên được các quốc gia có liên quan trực tiếp giải quyết với nhau.
Ông Hồng yêu cầu Manila ‘không làm phức tạp tình hình’.
Cho đến nay Trung Quốc vẫn kiên quyết chỉ đàm phán song phương để giải quyết tranh chấp và phê phán động thái vừa qua của Philippines.
(BBC)Quan điểm của Việt Nam muốn ‘giải quyết tranh chấp trên Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế’ cũng được Ngoại trưởng Phạm Bình Minh xác nhận với BBC trong chuyến thăm đến London tuần này.
Điều này cũng được lặp lại trong Tuyên bố chung Anh-Việt sau chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trước đó hai ngày vào hôm thứ Ba ngày 22/1, Ngoại trưởng Philippines Alberto del Rosario đã thông báo nước ông quyết định đưa tranh chấp quanh Bãi cạn Scarborough và Đường lưỡi bò của Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài quốc tế.
Theo đó, Manila đệ đơn lên Tòa trọng tài trong khuôn khổ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) để khiếu nại về các vi phạm của Trung Quốc đối với vùng biển chủ quyền của Philippines, cùng các cấu thành như thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế đã được UNCLOS quy định.
Philippines cũng yêu cầu Tòa trọng tài phán quyết rằng yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc tại Biển Đông là bất hợp pháp.
Sau đó chỉ một ngày, Bắc Kinh đã có phản ứng qua lời của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hồng Lỗi rằng các tranh chấp trên Biển Đông chỉ nên được các quốc gia có liên quan trực tiếp giải quyết với nhau.
Ông Hồng yêu cầu Manila ‘không làm phức tạp tình hình’.
Cho đến nay Trung Quốc vẫn kiên quyết chỉ đàm phán song phương để giải quyết tranh chấp và phê phán động thái vừa qua của Philippines.
'Không tuyệt đối hóa Bên Thắng Cuộc'
Sử gia Dương Trung Quốc đánh giá cao cuốn sách “Bên Thắng Cuộc” của tác
giả Huy Đức, nhưng nói ‘không nên tuyệt đối hóa sự thật’ trong sách và
cho rằng thông tin trong tác phẩm có thể ‘mới với số đông’ nhưng không
hẳn ‘mới’ với giới sử học trong nước.
Trao đổi với BBC Việt ngữ hạ tuần tháng 01/2013, Tổng thư Ký hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam cho hay ông “không ngạc nhiên” về hiệu ứng của cuốn
sách.
Ông nói: “Trước hết, tôi không lấy làm ngạc nhiên về hiệu ứng của cuốn
sách trước đông đảo công chúng, không chỉ vì anh sử dụng công cụ hết sức
lợi hại là xuất bản trên mạng, khiến cho rất nhiều người có thể tiếp
cận rất nhanh.”
Ông Quốc cho rằng cuốn sách ‘hấp dẫn’ khi khắc phục được một nhược điểm
của sử học chính thống ở trong nước vốn “vô nhân xưng,” khi để xuất hiện
trong tác phẩm điều sử gia gọi là “bóng dáng con người:”
Ông nói: “Cách viết của anh đã khắc phục được một trong những nhược điểm
của các công trình sử học, nhất là ở trong nước Việt Nam, là nó có bóng
dáng con người.
“Sử học chính thống Việt Nam thường tiếp cận nguyên lý nhiều hơn, đề cập
những nguyên lý lớn, những quy luật, nhiều hơn là nói tới số phận, thân
phận và ‘cái con người’ mà chúng tôi hay thường gọi là vô nhân xưng.”
Tuy vậy, sử gia nhận xét rằng cách làm này, về mặt thủ pháp, chưa hẳn là mới. Ông nói:
“Đấy là một cái gây hấp dẫn về phương pháp, cách làm này, tôi nghĩ không phải thật mới với thiên hạ.
“Ở Việt Nam, tôi nhớ đến Đặng Phong cũng là người khai thác phương pháp
này, trên cơ sở sử dụng rất nhiều nguồn tư liệu khác nhau, trong đó có
nguồn tư liệu sống. Nhưng anh chủ yếu đề cập lịch sử kinh tế, như thế nó
ít va chạm vấn đề tế nhị hay nhạy cảm như ở Việt Nam hay nói.”
Sử gia Dương Trung Quốc nói 'Bên Thắng Cuộc' khắc phục được điểm yếu của sử học chính thống trong nước |
Ông Quốc, người cũng là Chủ biên của Tạp chí lịch sử “Xưa và nay,” cho
rằng ‘Bên Thắng Cuộc’ tuy có nhiều ‘tư liệu,’ vẫn thiên về ‘báo chí’
nhiều hơn là ‘sử học,’ và dẫn ra một quan niệm để phân biệt.
Ông nói: “Rõ ràng đối với anh Huy Đức, anh ấy đã biết khai thác (thế
mạnh) của một cây bút nhà báo. Chúng tôi cũng biết, có một quan điểm cho
rằng lịch sử đương đại, lịch sử vẫn còn tác động vào những người, nhân
chứng còn sống, hoặc là hậu duệ của họ, hoặc là những hệ lụy xã hội còn
tồn tại, thì thường thuộc về báo chí chứ không phải là các nhà sử học
kinh điển. Vì thế tôi nghĩ đây là thế mạnh của anh Huy Đức thể hiện
trong cuốn sách của mình.”
Sử gia cho rằng cuốn ‘Bên Thắng Cuộc’ không chỉ khắc phục hạn chế
“ngại,” “né tránh” các chủ đề “phức tạp,” động chạm “nhạy cảm” của sử
học trong nước, hay động chạm tới một diện rộng đối tượng và nhiều lĩnh
vực, chủ đề, mà còn “đáp ứng được một nhu cầu” khi đề cập tới những vấn
đề của lịch sử “chưa xa lắm.”
Ông nói: “Những vấn đề mà anh nêu lên thực ra động chạm tới rất nhiều
con người, thậm chí hàng triệu con người, nhưng dòng sử học chính thống
Việt Nam thường né tránh, ít đề cập, hoặc vì nhạy cảm, hoặc không muốn,
hoặc phức tạp v.v...
“Cho nên, đó cũng là một hạn chế của dòng sử học chính thống, vì thế nên
khi anh đáp ứng được một nhu cầu, đề cập tới những vấn đề lịch sử chưa
xa lắm, tác động tới rất nhiều con người, nhiều gia đình... thì phải nói
đây là cái mảng không phải là tò mò nữa mà người ta cảm thấy hết sức
thiết thực, vì họ có thể nhìn thấy bóng dáng của mình ở trong tất cả
những biến cố, những sự kiện ấy.”
‘Hiệu ứng quan trọng’
Cuốn 'Bên Thắng Cuộc' đề cập 30 năm Việt Nam thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
Ông Quốc nhận xét ‘Bên Thắng Cuộc’ đã “phần nào giữ được khách quan” với
tác giả cố gắng “gửi gắm thiện chí” vào cuốn sách, song quan sát các
phản ứng đa chiều, ông cho rằng việc cuốn sách “chia sẻ sự thông cảm
được tất cả” là rất khó.
Đặc biệt, sử gia nhận xét “hiệu ứng quan trọng nhất” của cuốn sách nằm ở
chỗ đã “đánh thức” mọi người, trong đó có giới sử gia chuyên nghiệp và
các nhà lãnh đạo về “sự thật” và cung cách ứng xử với nó.
Ông nói: “Hiệu ứng quan trọng nhất đối với chúng tôi khi đọc cái này,
nhất là những người làm nghề như chúng tôi là lịch sử là một hiện thực
không thể che đậy được.”
Nhân dịp này, ông nêu quan điểm về lịch sử và nói: “Nó (lịch sử) có thể
bị quên lãng lúc này, hoặc bị ít quan tâm đến, nhưng chắc chắn nó vẫn
tồn tại trong ký ức, trong trải nghiệm của rất nhiều con người. Và nếu
chúng ta không có một ý thức dám nhìn thẳng vào sự thật, để nhìn nhận nó
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó, phân tích để rút ra những bài
học, bài học tốt, bài học không tốt, bài học xấu, thì chúng ta luôn luôn
có nợ với lịch sử.”
Trở lại với ‘Bên Thắng Cuộc’, sử gia nói: “Nó cũng đánh thức những người
có trách nhiệm nên nhìn vào những vấn đề rất phức tạp, rất phong phú
của lịch sử Việt Nam hiện đại, trải qua thời gian không dài, nhưng còn
bề bộn những công việc mà chưa được nhìn nhận một cách thấu đáo.”
“Cuốn sách của anh Huy Đức là một điều nhắc nhở là làm sao cho chúng ta
dám giữ được một quan điểm dũng cảm là nhìn thẳng vào sự thật và nếu mục
tiêu chúng ta mong muốn là những điều tốt đẹp thì chỉ bao giờ giải
quyết được, hóa giải quá khứ, thì chúng ta mới có thể hướng tới một mục
tiêu tốt đẹp như chúng ta mong muốn được mà thôi.”
‘Sự thực lịch sử?’
Khi được hỏi liệu các “sự thực lịch sử” được cuốn sách cung cấp, đề cập
có ‘mới’ hay là không đối với giới sử học về Việt Nam, đặc biệt là giới
sử học trong nước, ông Dương Trung Quốc nói:
“Tôi muốn nói là với số đông (đại chúng), chứ với giới sử học thì chắc
anh em làm lịch sử, trên những lĩnh vực chuyên môn khác nhau, họ đều có
tiếp cận cả, nhất là cái số đông. Bởi vì sử học ngoài việc nghiên cứu
còn vấn đề truyền bá, in ấn, xuất bản nữa.
“Cho nên mới thì không hẳn là mới, cái phương pháp có thể mới một chút
nhưng tư liệu tôi thấy là không có gì mới cả, ít nhất là cá nhân tôi.
Nhưng (với) nhiều số đông thì nó là mới bởi vì các bạn trẻ, các bạn chưa
bao giờ có cơ hội để tiếp cận những vấn đề đó.”
Bình luận về những gì có thể được xem xét là “sự thực lịch sử” hay không
trong cuốn sách, sử gia cho rằng ở đây cần nhắc tới một nguyên tắc là
“cố gắng tiếp cận”, ông nói:
“Những vấn đề mà anh Huy Đức nêu lên là anh đang tiếp cận với cái đó, cố
gắng đưa ra những bằng chứng, đưa ra cách phân tích để có thể chia sẻ
với mọi người, chứ tôi không nghĩ rằng cuốn sách của anh là nói sự thật.
“Mục tiêu muốn tìm ra sự thật thì điều đó tôi cho là có thể có, có thể
thấy được, thế nhưng bảo đấy là sự thật thì chưa hẳn. Nó có thể là một
cuốn sách thôi, cuốn sách của một người viết thôi, về những vấn đề nhiều
người quan tâm.”
Ông Quốc cho rằng cuốn sách có vai trò như “một cú hích,” nhưng ông nhấn mạnh đây mới là “một sự khởi đầu,” sử gia nói:
“Tôi cũng rất muốn là nhân cơ hội này, như cú hích, để mọi người cùng
quan tâm nghiên cứu với sự nghiêm túc, với thiện chí đối với tương lai,
thì tôi nghĩ lịch sử sẽ sáng tỏ hơn. Thế còn cuốn sách này, tôi nghĩ, nó
chỉ là một sự khởi đầu, tôi cũng đánh giá là cao.”
‘Về độ tin cậy’
Nhà báo Huy Đức đã 'đánh thức' những người có trách nhiệm về lịch sử VN đương đại?
Khi được hỏi có chi tiết nào, “sử liệu nào” trong cuốn sách, đối với
riêng sử gia, cần phải được đặc biệt lưu ý để bàn lại về độ chính xác,
chân xác và tin cậy, ông Dương Trung Quốc nói:
“Những vấn đề anh đề cập tới rất nhạy cảm, cho nên việc tiếp cận tương
đối toàn diện các nguồn tư liệu chắc không đơn giản, còn khó khăn đằng
khác.”
Sử gia cho rằng những điều mà ‘Bên Thắng Cuộc’ trình bày và cung cấp
“không dựa trên một nghiên cứu toàn diện,” nhưng theo ông việc tác giả
đã “khơi ra, nêu ra” được các vấn đề “đã là quý.”
Đề cập một trong những khía cạnh gây tranh cãi của cuốn sách là các cuộc
phỏng vấn mà cuốn sách cho hay do tác giả thực hiện, ông Quốc nhận xét:
“Nếu đi vào cụ thể, một trong những mảng mà anh Huy Đức sử dụng nhiều
nhất, mà cũng gây ấn tượng, có hiệu ứng nhiều nhất là những hồi ức và
những phỏng vấn. Chúng ta biết rằng việc sử dụng những lời phỏng vấn là
rất phức tạp.
“Và đầu tiên người ta sẽ đặt một câu hỏi rất đơn giản thôi là có cuộc
phỏng vấn ấy thật không? Cái thứ hai, cuộc phỏng vấn ấy người ta có đồng
ý cho công bố không?
“Hoặc thậm chí công bố như thế có đúng không? Và không những như thế,
những người còn sống và những người hậu duệ của những người đã mất họ
mới có bản quyền đối với cái đó.
Sử gia cho rằng việc vận dụng thủ pháp dựa trên trích dẫn các lời phỏng
vấn này cần phải được “hết sức thận trọng” vì theo ông một mặt nó có thể
“gây hiệu ứng” rất cao với độc giả, nhưng mặt khác cũng đòi hỏi “một sự
thẩm định.”
Ông Dương Trung Quốc nói: “Tôi rất tin cậy anh Huy Đức với tư cách anh
ấy là một nhà báo mà tôi quen biết, nhưng mà khi đã đưa vào một cuốn
sách mang tính chất lịch sử như cuốn sách này, thì sự thận trọng về việc
sử dụng tư liệu, tôi cho là hết sức quan trọng, nhất là bản quyền đối
với những lời trả lời phỏng vấn.”
Cuối cùng, trong một đánh giá có tính tổng quan ông Quốc nói: “Cho nên
tôi nghĩ rằng ở đây, chúng ta ghi nhận những nỗ lực của anh Huy Đức
thôi, nhưng đừng tuyệt đối hóa đó là sự thật. Mà quan trọng là làm cho
mọi người đều quan tâm đến nó và tiếp cận nó một cách hết sức nghiêm
túc.
“Và cùng với thời gian, chúng ta sẽ tiếp cận gần nhất sự thật mà chúng
ta mong muốn, không phải với ý thức là phê phán quá khứ mà quan trọng
nhất là tìm ra những bài học tốt cho hiện tại và tương lai,” sử gia nói
với BBC.
Quốc Phương - BBC Việt ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét