QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC QUA HỒI KÝ CỦA CỰU ĐẠI SỨ VIỆT NAM
Xuandienhannom (Tễu blog)Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc qua hồi kí cựu đại sứ Việt Nam:
TƯỚNG NGUYỄN TRỌNG VĨNH KỂ CHUYỆN LÀM ĐẠI SỨ Ở TRUNG QUỐC
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh,
nguyên là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974
đến năm 1987. Dưới đây là câu chuyện của ông về thời gian ông làm Đại
sứ tại Bắc Kinh.
1.
Đầu năm 1974, thấy tôi xong nhiệm vụ ở Lào rồi mà chưa có việc gì
khác, nhân đồng chí Ngô Thuyền đau ốm xin về, trên Trung ương Đảng mới
quyết định cử tôi sang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc. Lúc đó Việt Nam
còn coi Liên Xô, Trung Quốc như anh cả anh hai cho nên để tỏ ý trọng
thị, ta vẫn cử Ủy viên Trung ương Đảng làm Đại sứ hai nước đó. Trước khi
lên đường đi sứ, nhân còn thời gian rỗi, tôi tranh thủ đi thăm một số
tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để nắm bắt một số tình hình cần thiết
cho việc làm Đại sứ, hơn nữa tôi cũng muốn biết tình hình đất nước mình
nói chung vì từ khi nhận nhiệm vụ giúp bạn Lào, tính ra đã mười năm xa
rời thực tế của đất nước mình rồi. Lúc đó đất nước còn đang chiến tranh,
đời sống nhân dân còn rất khó khăn, ở đâu quang cảnh cũng đìu hiu, trầm
trầm không có gì là khởi sắc. Ngay cả những nơi bây giờ là khu du lịch
nghỉ mát nổi tiếng như Tam Đảo, Sa Pa cũng thưa thớt bóng người, dân chỉ
trông vào trồng lúa, nuôi lợn, nuôi gà đủ ăn và làm nghĩa vụ giao nộp
sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh thôi. Nhà cửa lâu đài biệt thự ở
Tam Đảo, Sa Pa bỏ hoang phế, đổ nát, mặc cho dơi bay cú rúc… Nhưng lúc
đó cũng có cái hay là môi trường còn nguyên sơ trong lành lắm, động vật
hoang dại còn chưa bị săn lùng ráo riết như bây giờ. Còn nhớ khi lên Tam
Đảo, một bác nông dân đang chăm ruộng lúa, bắt được con rùa vàng, bác
liền vui vẻ tặng ngay cho cu Dũng nhà tôi vì thấy nó có vẻ lạ lùng và
thích thú lắm. Một tối chúng tôi và trú nhờ ở huyện lỵ Bảo Thắng (lúc đó
thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn), ăn cơm với huyện ủy, đồng chí Bí thư huyện
còn tỏ ý rất tự hào vì “cả huyện tôi không có một cái chợ nào”, cho rằng
quản lý như vậy là chặt chẽ và giữ được địa bàn trong sạch, không để
cho việc buôn bán làm vẩn đục môi trường xã hội, chỉ có sản xuất mới là
việc làm đúng đắn cần thiết. Lúc đó cả tôi cũng chẳng lấy thế làm ngạc
nhiên, mà cũng chưa biết rõ rằng không có chợ buôn bán thì chính sản
xuất cũng không thể phát triển nổi, chỉ quẩn quanh trong vòng tự cấp tự
túc mà thôi.
Khoảng giữa năm 1974, tôi lên đường sang Trung Quốc. Từ khi đó cho
đến tháng tư năm 1975 thì quan hệ Việt – Trung vẫn còn bình thường. Sau
ngày thắng lợi của ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, Trung Quốc có cử
một đoàn đại biểu cao cấp do ông Đặng Tiểu bình dẫn đầu đến Sứ quán ta
chúc mừng thắng lợi. Ngày hôm sau, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh
lớn ở Quảng trường Thiên An Môn để chào mừng chiến thắng của Việt Nam.
Trong cuộc mít tinh đó, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn, tôi đọc đáp từ.
Trong đáp từ tôi cũng có nói “nhân dân Việt Nam rất biết ơn Đảng, Chính
phủ và nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam.
Thắng lợi của Việt Nam không tách rời khỏi sự giúp đỡ của nhân dân Trung
Quốc”. Trong thực tế, khách quan mà nói Trung Quốc giúp ta nhiều thật:
vũ khí, lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, nếu không có sự
giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, ta cũng khó thắng Mỹ. Nhưng
việc đánh ta, giết hại đồng bào ta, phá sạch nhà cửa của cải của ta năm
1979 đã xóa sạch ân nghĩa đó.
Cũng trong thời gian đó, ông Xi-ha-núc (Quốc vương Cam-pu-chia) và
bà hoàng Mô-nic cùng sống ở Bắc Kinh, họ được Trung Quốc dành cho một
biệt thư riêng. Họ quan hệ khá tốt với Đại sứ quán ta, với tôi. Có lúc
ông Xi-ha-núc mời tôi và một số Đại sứ thân tình đến đánh cầu lông trong
biệt thự riêng. Ngày Quốc khánh của Việt Nam, ông ta cũng đến chúc
mừng. Cũng có lúc tôi viết thiếp mời hai ông bà sang Sứ quán ta ăn cơm.
Trước đây đã có thời Xi-ha-núc ở Việt Nam khá lâu, cũng được dành một
biệt thự ở phố Nguyễn Du Hà Nội, ăn Tết Nguyên đán ở Việt Nam do Thủ
tướng Phạm Văn Đồng mời, ông ta có vẻ thân và kính trọng Thủ tướng lắm.
Có lần ở Bắc Kinh, ông ta còn ngỏ ý với tôi là muốn được sang Việt Nam
ăn Tết. Tuy ăn ở tại Trung Quốc nhưng xem ra ông ta thích ở Việt Nam hơn
Trung Quốc. Ngay cả bọn Pôn-pốt Yêng-sa-ri sau này phản bội đem quân
đánh Việt Nam, thi hành tội ác diệt chủng ở Cam-pu-chia, nhưng trước đó
cũng có quan hệ tốt với Việt Nam, vì cùng chung kẻ thù là bọn Mỹ xâm
lược. Khi Mỹ dựng lên chính phủ Lon-non, lật đổ Xi-ha-núc thì Đảng của
Pôn-pốt đứng ra đánh Lon-non. Đã có vài lần chính Yêng-sa-ri sang xin
viện trợ của Trung Quốc đã phải đến Sứ quán ta nhờ tôi điện về xin Chính
phủ ta chuyển giúp vũ khí của Trung Quốc vào Cam-pu-chia giúp họ; cũng
có lúc tôi đã mời Yêng-sa-ri ăn cơm ở Sứ quán. Nhớ lại lúc tôi còn làm
việc ở Lào, ba nước còn chiến đấu chống Mỹ và bọn tay sai của Mỹ, đồng
chí Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã từng mời đồng chí Kay-xỏn Phôm-vi-hản và
Pôn-pốt (lúc đó gọi là đồng chí Thanh) sang hội đàm giữa ba Tổng bí
thư. Hôm chiêu đãi hai Tổng bí thư Đảng Lào và Cam-pu-chia, tôi cũng
được mời đến dự.
Lại nói chuyện Trung Quốc đối với Việt Nam, năm 1976, không khí
quan hệ đã bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do
đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là để cảm ơn Trung Quốc.
Trước khi đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo
cáo tình hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó
còn quá lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin, khi sang đến Trung Quốc
đồng chí gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình
xấu đi, đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung
Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm Tỉnh Cương sơn (di
tích cách mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân
đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn
ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm
chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ
Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, thì cả đoàn đều bất bình, đồng chí
Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để
nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng
tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng,
không giải quyết được vấn đề gì. Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý
với tôi và ra về. Trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ
xấu, cố dọn cho đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng (thật chẳng xứng mặt
nước lớn chút nào?).
Tiếp đó lại đến vụ “nạn kiều”, ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc
dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam
bắt tay với Mỹ để tìm kiếm nguồn vốn là kỹ thuật từ Mỹ và đồng minh, để
họ thực hiện mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” của họ. Nói cho khách quan, thì
phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội
quân thứ 5 của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh.
Không những gây ra vụ “nạn kiều”, lên án Việt Nam xua đuổi Hoa kiều,
Trung Quốc còn ngầm xui Khơ-me đỏ (Pôn-pốt Yêng-sa-ri) quay giáo đánh
vào biên giới Tây Nam của ta, khiến Việt Nam vừa kết thúc cuộc chiến
tranh lâu dài gian khổ với đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với chiến
tranh Tây Nam, đánh nhau với người “bạn cũ”, hòng làm cho Việt Nam không
bao giờ đủ mạnh để thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Xét về nguyên
nhân sâu xa, có thể nói: với tư tưởng bá quyền nước lớn vốn thâm căn cố
đế, đã từ lâu, Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng của họ, bắt ta
phải thuần phục họ. Hơn nữa, những người cầm quyền Trung Quốc cũng
thường có thói quen đối xử với các nước nhỏ theo phương châm “thuận ngã
giả xương, nghịch ngã giả vong” (theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại
ta thì ta cho chết). Tuy biết họ như vậy nhưng phía ta mà khôn khéo hơn
thì khó để họ lấy cớ gây hấn với ta, bởi vì Trung Quốc lại còn cái bệnh
giả nhân giả nghĩa, rất muốn và rất cần che đậy dã tâm của mình. Trong
thời gian sau năm 1976, ở Việt Nam cũng có những cái đầu nóng, khi Trung
Quốc cố ý gây hiềm khích qua vụ “nạn kiều” thì phía ta lại cũng có ý
“tát nước theo mưa”, thành kiến với người Hoa, kỳ thị người Hoa ở Việt
Nam, bất kể có người đã là Đảng viên là anh hùng đã đóng góp thực sự cho
cách mạng Việt Nam. Tiếp đó ta lại vội vã ký hiệp ước hợp tác hữu nghị
với Liên Xô (vào tháng 11 năm 1978) nên cũng góp thêm phần làm cho Trung
Quốc ra mặt thù địch với Liên Xô). Cho đến khi Việt Nam buộc phải đánh
cho Pôn-pốt một đòn đau, tiến quân vào tận Nông-pênh thì Trung Quốc càng
có cớ để động binh, thực sự gây chiến tranh với Việt Nam mà theo Trung
Quốc nói công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” (về “tội” câu kết
với Liên Xô và đánh Cam-pu-chia), Trung Quốc nói cần phải “chi viện” các
đồng chí Khơ-me đỏ. Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 tuy trên phương diện
quân sự thì Trung Quốc thua, buộc phải rút quân về nước còn bị ta bắt
sống nguyên một đại đội; nhưng Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều mục
đích riêng của họmà mục đích hàng đầu vẫn là để cầu thân với Mỹ (vốn là
kẻ thù số một của ta vừa bị Việt Nam đánh cho thua đến “lấm lưng trắng
bụng”) và phá hoại ba tỉnh của ta là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.
2.
…Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, thì thấy:
ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì
họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều
con đường như sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta
cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc
đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch
Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như
việc cải cách ruộng đất đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức cũng
tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ. Sau này, khi phát hiện cải
cách ruộng đất là sai lầm, gây tổn thất nghiêm trọng, ta mới tỉnh ngộ,
từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông và không tổ chức thực tiễn theo phương
pháp của Trung Quốc nữa. Thất bại trong việc chinh phục bằng lý luận tư
tưởng, Trung Quốc chuyển sang chính sách chinh phục ta bằng kinh tế. Từ
năm 1954 về sau. Trung Quốc đã giúp ta xây dựng hàng loạt nhà máy xí
nghiệp (như Gang thép Thái Nguyên, Phân đạm Bắc Giang, Cao su – xà phòng
– thuốc lá Thượng Đình Hà Nội, Bóng đèn phích nước Rạng Đông v.v….)
nhưng chất lượng sản phẩm không cao bằng được Trung Quốc, một mặt vì họ
cung cấp thiết bị và công nghệ cũ, mặt khác dù có công nghệ tốt họ cũng
không chuyển giao cho ta.
Giúp nhiều như vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo;
mặt khác, buộc ta phải lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ
tiếp tục giúp ta về tiền và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng
hoàn toàn miền Nam. Cũng còn một mục tiêu là giúp Việt Nam là để giữ an
toàn cho phía Nam Trung Quốc (nếu để Mỹ chiếm được cả Việt Nam thì sẽ
diễn ra việc như vụ Mỹ ném bom sông Áp-lục sát biên giới và cả vào đất
Trung Quốc hồi chiến tranh Triều Tiên). Sau khi ta ký hiệp định
Giơ-ne-vơ, nước ta chia làm hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền
Bắc trước và thực hiện trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ
là giữ chúng ta luôn ở thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một
nửa nước). Họ không muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay
Trung Quốc. Nhưng khi Mỹ đã gây hấn ném bom ra miền Bắc, đổ quân vào
miền Nam thì Trung Quốc vẫn giúp ta về vũ khí trang bị, về quân nhu hậu
cần để an toàn cho họ. Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ giao động quyết tâm, ta
cũng thấy có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán
mà muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt
quệ vừa để Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.
Qua nhiều sự việc Việt Nam chỉ làm theo ý mình mà không làm theo ý
họ, rồi các nhà máy giúp Việt Nam cái thì kém hiệu quả, cái thì bị chiến
tranh làm hư hại… Trung Quốc thấy việc lấy kinh tế để điều khiển Việt
Nam có vẻ không thành công họ bèn chuyển sang thời kỳ ép ta về quân sự
từ hai phía hòng khiến ta phải quy phục: phía Bắc nước ta thì họ làm
nhiều con đường ra sát biên giới Việt Nam, phía Nam nước ta thì họ giúp
tài chính và trang bị cho Pôn-pốt để nắm vững quân bài, hình thành hai
gọng kìm kẹp hai đầu đất nước ta và đồng tình cho Pôn-pốt đánh ta làm
cho ta tổn thất và không yên ổn để xây dựng lại đất nước.
Trong bối cảnh như vậy, quá trình tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc đúng
là một quá trình chủ yếu là tranh cãi và đối phó. Thường xảy ra việc như
thế này: Mỗi khi có đoàn đại biểu nào của Việt Nam sang Trung Quốc thì
tối hôm đó, trên đài truyền hình và phát thanh của Trung Quốc đều nói
đến vấn đề “chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam
Sa là không thể tranh cãi” (tức các quần đào Trường Sa, Hoàng Sa của
Việt Nam). (Đối với các đoàn từ cấp Phó thủ tướng là họ đều làm như
thế). Từ khi xảy ra vụ “nạn kiều” và việc ta ký hiệp ước hợp tác hữu
nghị với Liên Xô thì các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc
lúc nào cũng ra rả lăng mạ “tập đoàn Lê Duẩn”. Khi tôi cho trưng bày
hình ảnh Pôn-pốt đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của
sứ quán (đặt ngoài hàng rào) từ phía Trung Quốc mời tôi lên Bộ Ngoại
giao để gặp Thứ trưởng Hàn Niệm Long, ông ta lên tiếng phản đối, đòi ta
phải dỡ bỏ những hình ảnh và lời tố cáo đó. Nhưng tôi lại nói: “Những
việc mà tôi trưng bày ra, đó đều là sự thật, chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ
sự thật? Hơn nữa, cái bảng thông tin mà chúng tôi treo ảnh trên hàng rào
Sứ quán đó là nằm trong phạm vi chủ quyền của nước tôi, tôi không dỡ
bỏ”. Ông ta nói: “Trung Quốc không cho phép nước nào nói xấu nước thứ ba
trong lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Tôi nói: “Đồng chí
nói sai rồi, cách đây ba hôm, tôi thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của
Pôn-pốt họp báo nói xấu Việt Nam chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều
cán bộ Trung Quốc làm phiên dịch cho họ”. Nói xong tôi ra về.
Ngày đến ngày 19-5, Sứ quán ta dự định chiếu phim Hồ Chủ Tịch vào
buổi tốm hôm 19-5, đúng ngày sinh nhật Người. Ta đã gửi giấy mời đến Sứ
quán các nước (lúc đó ở Bắc Kinh có độ trăm Sứ quán nước ngoài) trước đó
bảy ngày. Đúng buổi chiều hôm ta đã mời, Trung Quốc lại điện tất cả các
Sứ quán, mời đích danh các vị Đại sứ đúng 17 giờ đến Đại lễ đường nhân
dân ở Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Thong thông lệ
quốc tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế
nên cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm giấy mời,
rời buổi chiếu phim của ta sang 18 giờ chiều tối hôm sau. Thật là vất
vả với cái trò trẻ con của phía Trung Quốc!
Rồi lại rất buồn cười là dạo đó Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô
con luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình
đi đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ đi nó cũng đi theo.
Một lần nữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên, đưa công hàm
phản đối Chính phủ Việt Nam xua đuổi và tước đoạt “nạn kiều” Trung Quốc.
Tôi nói: “Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước đã
làm lỡ cả một số công việc của chúng tôi tại nơi mà họ đang đảm nhiệm
trong cơ sở sản xuất và công sở. Hơn nữa, vào năm 1953, Chủ tịch Mao
Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thỏa thuận với nhau là người Hoa ở
Việt Nam được coi như công dân Việt Nam, do Việt Nam quản lý. Do đó, ở
miền Bắc nước tôi đã không có Hoa kiều nữa. Vậy lẽ nào chúng tôi lại xua
đuổi công dân của chúng tôi, cho dù họ là gốc Trung Quốc. Còn ở miền
Nam, trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, người Hoa đều đã đăng ký
quốc tịch Việt Nam. Vậy cho đến nay trên cả nước Việt Nam đều không có
ai là Hoa kiều nữa”. Hàn (Niệm Long) nói: “Vậy các ngài cũng công nhận
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu à?” – Rồi cuộc đối thoại cũng kết thúc.
Trong năm 1977, lại một lần nữa Trung Quốc mời tôi, cũng lại tranh
cãi vấn đề Hoa kiều và người Hoa, không bên nào chịu bên nào. Sau khi
đấu khẩu như vậy, Trọng Hi Đông (Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên là tướng
trong quân đội) nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh
thì phức tạp đấy”. Tôi nói: “Tôi cũng đã là tướng, tôi cũng biết thế nào
là chiến tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và thắng Mỹ”.
Một lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ
trưởng Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng
thời thông báo: “Do chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh
Hoa vào cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”.
Tôi nói: “Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi
nói ở Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét,
tàu Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và thành phố Hồ
Chí Minh hay không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam,
không ai được tự tiện vào”.
Khi tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí
quốc tế xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng
thành phố Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung
Quốc mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã
đưa tin ra thế giới và tỏ ra thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt
Nam không phải là cái ao nhà của Trung Quốc”.
Ngoài những lần như vậy, còn có nhiều lần khác nữa, Bộ Ngoại giao
Trung Quốc luôn mời tôi lên, ngoan cố vu cáo Việt Nam ta, lần nào tôi
cũng phải đấu lý với họ. Về nguyên tắc, lập trường thì mình rất kiên
quyết giữ vững, nhưng về thái độ mình phải đúng mực. Thường là họ phải
chịu mình vì họ đuối lý.
3.
Một lần tôi về nước báo cáo (lúc đó muốn về Việt Nam, phải bay từ
Bắc Kinh sang Mát-xcơ-va mới bay về được Hà Nội). Ra sân bay Bắc Kinh,
nhân viên sân bay muốn bắt tôi đi vào cửa kiểm tra hành lý, tôi không
chịu, tôi nói: “Tôi là Đại sứ, tôi được “miễn trừ ngoại giao” theo
nguyên tắc quốc tế, nên không ai được kiểm tra khám xét. Nếu các ngài
ngăn cản không cho tôi đi, tôi sẽ họp báo tố cáo các ngày vi phạm công
ước quốc tế”. Nhân viên sân bay chạy đi đâu đó, ý chừng là đi báo cáo
thỉnh thị cấp trên. Sau đó mở cho tôi đi theo đường cửa không soát hành
lý.
Lần khác, tôi cũng ra sân bay về nước, họ lại định bắt tôi đưa hành
lý vào cửa kiểm soát có chiếu tia X, tôi không chịu. Họ nói đây là kiểm
tra an ninh thôi mà. Tôi nói: “Kiểm tra gì tôi cũng không đồng ý, các
người nghĩ tôi là không tặc à? Từ trước tới nay tôi chưa hề được biết có
nhà ngoại giao nào làm không tặc cả. Nếu nghĩ tôi là không tặc, tại sao
lại chấp nhận tôi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Chủ tịch nước
các người? Tôi nói cho các người biết, là phía Trung Quốc cũng có Sứ
quán ở nước tôi, mà nguyên tắc ngoại giao là đối đẳng, nếu các người cố
tình kiểm tra hành lý của tôi, tôi sẽ báo cáo về chính phủ, để bên Việt
Nam cũng kiểm tra hành lý của Đại sứ các người khi xuất cảnh. Mà nước
tôi thì chưa có phương tiện kiểm tra hiện đại, nhân viên Việt Nam sẽ
phải mời Đại sứ các người đồng ý như vậy thì hãy làm bừa đi”. Nhân viên
Trung Quốc lại phải chịu lý của tôi, lại phải mời tôi đi theo cửa tự do,
không kiểm tra hành lý nữa.
Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ Sứ quán ta ra, đến một đoạn
đường nọ, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh đúng luật, thế
mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, nói rằng anh đã vi
phạm luật giao thông, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả !
Đồng chí lái xe nói: “Tôi đi đúng luật, không vượt đèn đỏ, không lấn
sang phần đường của xe khác?”. Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không
biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa (chủ yếu là họ làm
chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với Đại sứ nước nào đó).
Trong trường Đại học Bắc Kinh có nhiều sinh viên nước ngoài, có lần
Trung Quốc đã xúi bẩy số sinh viên các nước thân Trung Quốc đến biểu
tình trước Sứ quán ta. Ta đối phó việc đó bằng cách tuyên truyền vận
động để họ hiểu biết sự thật, ai phải ai trái, phần lớn họ hiểu ra và
thôi không tụ họp ở đó nữa. Nhưng cũng còn có 4,5 sinh viên cả trai lẫn
gái còn ở lại chỗ gốc cây bên kia đường đối diện của Sứ quán ta. Tôi
phải cho người đóng cửa Sứ quán vào và cử đồng chí Lê Công Phụng (lúc đó
làm phiên dịch tiếng Anh) ra giải thích cho đám sinh viên đó. Vì cửa
đóng sinh viên không vào được bên trong, họ ném trong bì thư (có lẽ bên
trong viết nhưng nội dung phản đối Việt Nam) vào sân của Sứ quán. Đồng
chí Phụng cầm phong bì ném ra, họ lại nhặt ném vào, đồng chí Phụng lại
ném ra và nói: “Các bạn đã bị Trung Quốc lừa rồi, hãy về mà chăm chú học
đi thôi”…
Cứ cái cách như vậy thật mệt. Sau này gặp đồng chí Ngô Thuyền,
người tiền nhiệm của mình, tôi nói đùa: “Anh thì sang Trung Quốc uống
rượu, tôi thì sang cãi nhau!”.
Trong thời gian quan hệ hai nước căng thẳng thì các đường đi lại
giữa ta và Trung Quốc bị cắt hết: cả máy bay, tàu hỏa, điện thoại. Chúng
tôi ở Sứ quán giữa Bắc Kinh mà cứ như ở đảo. Hàng ngày chỉ có hai ca
liên lạc VAC, một ca buổi sáng, một ca buổi tối để liên hệ và nhận chỉ
thị từ trong nước. Thành thử có nhiều việc xảy ra, chúng tôi phải tự
động đối phó. Cũng vì vậy, nên mỗi lần tôi hết nhiệm kỳ Đại sứ, Bộ Ngoại
giao báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì đồng chí lại bảo: “Cứ để đồng
chí Vĩnh ở đấy”. (Hơn nữa, trong tình hình khó khăn như vậy, chẳng ai
muốn sang thay. Lúc ấy lương tôi chỉ được có 90 đô la một tháng, trong
khi lương Đại sứ Thái Lan cùng ở Bắc Kinh là 3.000 đô la. Đến năm 1990,
đồng chí Đặng Nghiêm Hoành sang làm Đại sứ ở Bắc Kinh, lương được 600 đô
la một tháng. Lái xe của sứ quán Lào cũng được 400 đô la một tháng).
Do đã ở liền vài nhiệm kỳ ở Bắc Kinh, nên theo thông lệ quốc tế,
tôi trở thành Trưởng đoàn ngoại giao một thời gian khá dài. Ngoại giao
đoàn rất coi trọng chức trưởng đoàn đó, các Đại sứ mới đến Trung Quốc,
sau khi đi chào các vị lãnh đạo của nước chủ nhà thì đều phải đến chào
trưởng đoàn ngoại giao; khi tổ chức ngày Quốc khánh nước mình thì cũng
đến mời trưởng đoàn ngoại giao, mà lại bố trí ngồi chỗ trang trọng nhất
trước mặt mình. Khi có Đại sứ nào rời nhiệm, nếu có tổ chức gặp gỡ để
chào từ biệt ngoại giao đoàn, thì cũng mời trưởng đoàn ngoại giao và
trưởng đoàn ngoại giao sẽ thay mặt các Đại sứ phát biểu ý kiến tiễn
biệt. Trong suốt thời gian làm Trưởng đoàn ngoại giao, tôi đã phải làm
đến 60 bài diễn văn ngắn để chào mừng hoặc tiễn biệt những người đồng
nghiệp. Tuy ngắn vậy thôi, nhưng cũng không phải dễ làm, bởi vì mỗi vị
Đại sứ đại diện cho mỗi nước khác nhau, quan hệ với ta cũng khác nhau,
60 bài đòi hỏi phải sát hợp với những hoàn cảnh khác nhau đó. Có lần ông
Đại sứ Thụy Điển đã nói với tôi: “Tôi theo dõi thấy ngài phát biểu
không lần nào giống lần nào”.
Có chuyện ông Đại sứ Mỹ, khi đến nhận chức thì không đến chào tôi,
nhưng khi rời chức, tổ chức gặp gỡ để từ biệt thì lại đến Sứ quán ta
thông báo cho tôi là đã hết nhiệm kỳ và mời tôi đến dự. Tôi nói: “Khi
ngài mới đến, hoặc là ngài còn hận Việt Nam, hoặc ngài sợ Trung Quốc nên
đã không đến chào tôi. Nhưng hôm nay ngài đã đến và mời tôi tới dự buổi
gặp mặt từ biệt, tôi nhận lời và sẽ phát biểu ý kiến tiễn chân ngài”.
Cái khó là trong trường hợp này là, ca ngợi ông ta thì không được mà nói
xấu ông ta cũng không xong. Tôi phải tìm những câu vô thưởng vô phạt để
nói, cuối cùng thì cũng chức sức khỏe ông ta và gia đình, chúc ông ta
lên đường gặp mọi sự may mắn. Các Đại sứ khác nghe vậy cũng thấy là
được.
Mặc dù Trung Quốc lúc đó chẳng ưa gì Đại sứ Việt Nam, lại càng
không ưa gì một người luôn đấu lý (và lại hay làm họ cứng họng) như tôi,
nhưng cũng vì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nên dịp mừng Quốc khánh
của họ hay dịp các nguyên thủ các nước đến thăm mà Trung Quốc mở tiệc
chiêu đãi trọng thể, bao giờ họ cũng phải mời tôi ngồi bàn danh dự.
Rõ ràng phía Trung Quốc không muốn tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao
nhưng không có cách gì truất chức đó của tôi, nên lắm khi họ bày ra
những chuyện nực cười, rất trẻ con để chọc phá tôi.
Cái lần đoàn ngoại giao đi thăm tỉnh An Huy của Trung Quốc, khi kết
thúc hành trình, lãnh đạo địa phương tổ chức tiệc chiêu đãi tại một
công viên. Trước khi vào phòng tiệc, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc
đến nói với tôi: Những lần trước ngài đã phát biểu rồi, lần này nên làm
khác đi, để ông Đại sứ Tan-za-nia (người thứ hai sau trưởng đoàn) phát
biểu ý kiến. Tôi nói: “Nếu không cần phải phát biểu ý kiến gì thì thôi,
còn nếu có, thì theo thông lệ quốc tế, tôi sẽ phát biểu chứ không phải
người khác. Nếu các ngài cố ý làm trái, tôi sẽ không dự bữa tiệc này. Vả
lại tôi cũng chẳng nói xấu gì về nước các ngài”. Cán bộ Trung Quốc nói:
“Sẽ không có ai phát biểu cả”. Vậy mà ngay lúc đó, phía Trung Quốc lại
đi vận động ông Đại sứ Tan-za-nia phát biểu trong bữa tiệc. Nhưng ông
Đại sứ Tan-za-nia nói: “Không được! Phát biểu là quyền của ông Đại sứ
Việt Nam. Chỉ khi nào ông ấy ủy quyền cho tôi thì tôi mới được nói”.
Trong khi các Đại sứ khác đều đi vào phòng tiệc, tôi vẫn đi ở vườn hoa
chưa vào. Lúc sau, cán bộ ngoại giao Trung Quốc ra mời tôi vào ngồi ở
bàn số Một, đối diện với Tỉnh trưởng An Huy. Bên cạnh tôi vẫn còn chỗ
trống, thì ra ông Đại sứ Tan-za-nia cũng ngại nên vẫn loanh quanh ngoài
vườn hoa chưa vào. Họ lại phải đi tìm và mời vào chố trống đó. Lúc khai
tiệc, chắc theo đạo diễn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tỉnh trưởng
không nói gì. Tôi vẫn chủ động đứng lên nâng cốc, cảm ơn về chuyến đi,
chúc sức khỏe Tỉnh trưởng cùng Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đi cùng
và tôi quay lại chúc sức khỏe các bạn đồng nghiệp. Tôi chúc xong mọi
người mới bắt đầu cầm đũa.
Trong thời kỳ làm Đại sứ, thỉnh thoảng tôi có tổ chức họp báo, lúc
thì để giới thiệu tình hình nước ta, lúc thì để tố cáo bọn Pôn-pốt khiêu
khích đánh phá biên giới Việt Nam. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi cũng họp
báo và tố cáo rằng: “Trung Quốc đang dùng 3 sư đoàn tiến đánh Việt
Nam”. Một nhà báo Mỹ đứng lên nói: “Ngài Đại sứ nói quá lên thế chứ, còn
theo tình báo của chúng tôi thì đâu có nhiều quân đến thế?”. Tôi nói:
“Việc chúng tôi thì chúng tôi biết hơn ai hết. Còn tình báo của các ngài
thì chúng tôi cũng đã biết. Tết Mậu Thân năm 1968, quân chúng tôi vào
đánh khắp nơi, đánh cả vào Sứ quán Mỹ, mà trước đó tình báo Mỹ có biết
gì đâu!”. Các nhà báo cười ồ cả lên. (Đến đây tôi chợt nhớ một chuyện về
ngài Đại sứ, cũng là Mỹ ở Trung Quốc: Khi đến nhận chức ở Bắc Kinh, ông
ta không đến chào tôi, vì vậy sau đó mỗi khi đứng cương vị Trưởng đoàn
ngoại giao có việc gì cần gửi thông báo đến các Đại sứ, tôi không gửi
cho Sứ quán Mỹ và cho ông ta. Một số Đại sứ khác ở Trung Quốc thấy tôi
có thái độ “tẩy chay” Đại sứ Mỹ, đã đến vận động tôi đừng làm như vậy.
Nhưng tôi nói, khi đến ông ta cậy thế nước lớn không đến chào tôi, vì
vậy tôi cũng không việc gì phải giao thiệp với ông ta. Không biết có
phải ông Đại sứ Mỹ đã được chuyển đến tai câu nói đó của tôi hay không,
mà khi tổ chức chiêu đã rời nhiệm sở, ông ta lại phải đến tận nơi mời
tôi?).
4.
Làm Đại sứ ở Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu
khích và biến Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh
và hao tổn thể chất; nhưng với tôi, cũng không phải là hoàn toàn chỉ có
vất vả gian khổ. Cũng có những khi được “đắc ý” chứ. Ấy là niềm vui sau
những cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng hùng hổ hổ, đập bàn đập
ghế, dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng trợn và đe dọa ta.
Tôi thì vận hết “nội công” cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào cái
kiểu hùng hổ bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn
từ đích đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù. Sau mỗi cuộc như vậy, tôi
thấy như người đánh cờ, thắng được một ván là có được một niềm vui.
Hơn nữa, cũng có những lúc mình được hưởng cái sung sướng thực sự,
đó là vào những cuộc “lữ hành ngoại giao” mà phía Trung Quốc, với cương
vị nước chủ nhà đã tổ chức cho đoàn ngoại giao đi chơi thăm thú các nơi
phong cảnh đẹp hoặc lạ ở trên đất nước họ. Tôi nghĩ nếu không có dịp làm
Đại sứ thì đã mấy khi mình được du lịch không mất tiền nhiều như vậy?
Năm 1974, khi mới sang Trung Quốc, tôi được đi chuyến “lữ hành
ngoại giao” thăm Côn Minh, đó là một thành phố đẹp và loại nhất của
Trung Quốc, thuộc tỉnh Vân Nam sát với Việt Nam ta. Côn Minh còn được
người Trung Quốc gọi là “Xuân Thành” vì khí hậu rất tốt, quanh năm mát
mẻ như mùa xuân. Ở Côn Minh có rất nhiều phong cảnh đẹp và kỳ lạ như
Thạch Lâm, Hồ Điền Trì, Ôn Tuyền v.v… rất nhiều chùa chiền đẹp và khuôn
viên rộng lớn, sạch sẽ. Vì Côn Minh ở độ cao trên 1.500m nên người dân
lúc nào cũng mặc áo len, trông lại càng nhiều màu sắc bắt mắt, ở đây
cũng lưu truyền câu nói “nhất vũ thành đông” (tức là hễ có một trận mưa
là rét như mùa đông). Ở đây có hai vị thuốc quý là đông trùng hạ thảo và
tam thất (ở Vân Nam trồng thì gọi là Điền thất, Điền thất là thứ tam
thất hàng đầu của Trung Quốc). Ở Côn Minh, chúng tôi được thưởng món đặc
sản “bún qua cầu” rất lạ. Một sợi bún dài như vô tận được cho đi qua
một bát nước dùng mà trên mặt có váng mỡ để giữ cho được nóng lâu. Người
ăn cứ việc hút sợi bún đó mà ăn đến no thì dừng lại. (Phải mở ngoặc là
lúc đó Trung Quốc còn chưa trở mặt với ta, tôi còn được vợ đồng chí Lý
Thế Thuần đưa đi và làm phiên dịch – Khi tôi đã nghỉ hưu, đồng chí Lý
Thế Thuần làm Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội).
Năm 1975, tôi lại được cùng đoàn ngoại giao đi Tân Cương, đó là nơi
biên giới xa xôi, giáp với Liên Xô. Ở đây cuộc sống và phong tục rất
khác lạ. Họ cho ăn thịt cừu và uống sữa ngựa. Thứ sữa đó mùi vị như bia,
uống vào thấy hơi say say, họ nói chỉ có khách quý mới được uống, còn
thì chỉ dành cho bệnh viện, nhất là cho người bị bệnh lao. Ở Tân Cương
có giống dưa lưới và đào bẹt (gọi biển đào), ăn cực ngon. Chúng tôi đến
Tân Cương đúng vào mùa đào chín, họ cho vào vườn tha hồ hái, ăn chán thì
thôi. Chúng tôi cũng gặp nhiều người dân địa phương ở đây, họ ăn mặc
rất rực rỡ, đàn ông thì cao lớn, phụ nữ thì xinh đẹp như tiên, trông họ
có vẻ như lai Á lai Âu, nét mặt thật sáng sủa.
Năm 1976, lại được đi chơi núi Thái Sơn (thuộc tỉnh Sơn Đông). Mặc
dù không phải núi cao và lớn hàng đầu của Trung Quốc, nhưng Thái Sơn
(cao 1.500m so với mặt nước biển) lại rất nổi tiếng, đã đi vào câu nói
hàng ngày và văn thơ của Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta thường nói
“có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn” hoặc “nặng như Thái Sơn”… Ngay cả
trong thơ ca Việt Nam cũng có câu “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra” v.v… Phong cảnh ở đây rất đẹp, y như trong
tranh thủy mặc ở Trung Quốc vậy. Và rất tự hào là trong chuyến đi đó,
cả đoàn ngoại giao, chỉ có tôi và hai vợ chồng ông Đại sứ Hung-ga-ri là
trèo được mấy ngàn bậc đá lên tận đỉnh Thái Sơn, đứng đó để ngắm ra tận
biển Đông của Trung Quốc được xem mặt trời mọc từ biển lên rất hay. Tận
trên đỉnh cao như vậy mà người Trung Quốc từ xưa đã xây được lâu đài
đình các nguy nga, kể cũng đáng nể.
Năm 1980, sau khi Trung Quốc đã gây hấn đánh Việt Nam rồi, nhưng vì
vẫn có chuyến “lữ hành ngoại giao” và vì tôi là Trưởng đoàn nên họ phải
mời tôi cùng đoàn đi chơi tỉnh An Huy, thăm thắng cảnh Hoàng Sơn, cũng
là một trong những cảnh đẹp hàng đầu của Trung Quốc, có nhiều cây thông
cổ thụ mọc trên vách đá cheo leo, đủ hình đủ thế, theo đường núi lên đến
đỉnh thì thấy đền đài cổ kính, xây cất rất đẹp và công phu. Từ cổ xưa,
các triều đại phong kiến Trung Quốc đã hay tìm những nơi có cảnh thiên
nhiên đẹp, cho xây dựng lên những công trình tráng lệ và cũng may cho
đất nước Trung Quốc là ít bị chiến tranh tàn phá nên bây giờ các công
trình còn lại khá nhiều.
Thông thường đoàn ngoại giao đi đến tỉnh nào thì Tỉnh trưởng ở đó
tiếp đón và khi kết thúc chuyến đi thì Tỉnh trưởng lại đãi tiệc. Trước
bữa tiệc, sau khi Tỉnh trưởng phát biểu thì đến Trưởng đoàn ngoại giao
thay mặt các Đại sứ đọc đáp từ. Thời kỳ quan hệ hai nước đang căng thẳng
thì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao, khi nói đều phải tránh không ca
ngợi lãnh đạo và thành tích của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chỉ ca
tụng cảnh đẹp của địa phương, sự đón tiếp của những nơi đoàn đến thăm,
các sản vật quý của địa phương, chúc sức khỏe các vị lãnh đạo địa phương
để lãnh đạo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân trong địa
bàn… (Riêng lần đi An Huy này thì có chuyện buồn cười như đã thuật ở
phần trên).
Thời gian ở Bắc Kinh, tôi cũng tạo được điều kiện cho vợ chồng Minh
Hà (con gái thứ 3 lấy chồng người Đức là Verner) từ Đức sang thăm Trung
Quốc. Và một lần từ Trung Quốc bay sang Mát-xcơ-va, tôi và bà xã cũng
tranh thủ đi xe lửa sang chơi bên Đức, thăm nhà con gái.
Cũng nhờ việc làm Đại sứ ở Bắc Kinh nên tôi còn được biết cả thủ đô các nước Triều Tiên, Ap-ga-nit-xtan, Pa-kit-xtan nữa.
Vào mùa hè năm 1977, có Hội nghị quốc tế về nông nghiệp do Triều
Tiên đăng cai. Bên nước điện sang cử tôi và anh phiên dịch tiếng Anh đi
dự, vì vậy có dịp thăm quan thành phố Bình Nhưỡng thủ đô Triều Tiên.
Thành phố đó không gọi là lớn nhưng rất đẹp, các công trình kiến trúc
cũng đẹp, có vẻ phô trương, đồ sộ. Ví dụ có một nhà hát chỉ độ 500 chỗ
nhưng khuôn viên khá lớn và trang trí rất lộng lẫy. Đường phố hai bên
trồng toàn cây ngô đồng, đang mùa hè nên lá rất xanh tốt. Tôi được ăn
một bữa tiệc ngồi cùng bàn với ông Kim Nhật Thành và lần đầu tiên được
biết món “kim chi” nổi tiếng của Triều Tiên, rất ngon.
Một lần tôi đi tháp tùng đồng chí Nguyễn Duy Trinh (Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao) đi thăm Ap-ga-nit-xtan, đến thủ đô Ca-bun, thật tiếc là thủ
đô đó chẳng gây cho mình ấn tượng và cảm xúc gì. Sau khi đi thăm
Ap-ga-nit-xtan (lúc đó có chính quyền thân Liên Xô), đoàn sang thăm
Pa-kit-xtan nhưng chẳng được việc gì, họ đối xử rất nhạt nhẽo vì họ đang
theo Trung Quốc, mâu thuẫn với Ap-ga-nit-xtan. Ở Pa-kit-xtan không được
uống bia rượu và ăn thịt lợn, vì nước đó theo đạo Hồi. Pa-kit-xtan lúc
đó rất nghèo và phụ thuộc Trung Quốc. Có một con đường lớn nối từ thủ đô
Is-la-ma-bat đến Trung Quốc men theo sườn dãy Hi-ma-lay-a, được biết là
do Trung Quốc làm giúp. Thành phố Ca-ra-si, nơi có sân bay quốc tế, gọi
là lớn nhưng lúc đó cũng rất lèo tèo.
Có một việc dường như cả những người thân cũng ít biết đến, đó là
thời gian tôi được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại
Trung Quốc, thì cũng kiêm luôn cả chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
Việt Nam ở Pa-kit-xtan. Khi bay từ Bắc Kinh sang Is-la-ma-bat, qua dãy
Hi-ma-lay-a nóc nhà thế giới, nhìn thấy tuyết phủ dày trắng, mấy người
cũng đã nói đùa với nhau: giá mà rơi xuống đây thì đố có ai tìm được!
Đến thủ đô Pa-kit-xtan tôi phải đi trình quốc thư; rất ấn tượng với nghi
lễ của nước này: họ cho xe song mã, có lính bồng súng rất trang trọng
và rất oai đến đón. Đại sứ được ngồi xe song mã, đằng sau có 6 người
lính cưỡi ngựa cầm giáo hộ tống vào phủ Tổng thống.
Lại nói chuyện về đi lại ở Trung Quốc, ngoài những chuyến đi với
đoàn ngoại giao, còn có một chuyến đi đáng nhớ nữa. Đó là chuyến đi theo
đường sắt Côn Minh – Thành Đô vào năm 1977. Dạo đó ở thành phố Côn
Minh, ta có một cơ quan Tổng lãnh sự, lại có khá đông các gia đình Việt
kiều. (Số bà con đó trước làm thợ hỏa xa phục vụ đường sắt Hải Phòng –
Côn Minh từ thời Pháp, sau ở lại Côn Minh). Vì vậy tôi có xuống thăm cơ
quan và bà con. Bình thường xuống Côn Minh, tôi vẫn đi theo đường xe lửa
phía Đông, từ Bắc Kinh qua Trịnh Châu, Vũ Hán, Trường Sa, Quý Dương rồi
đến Côn Minh và ngược lại. Đồng thời, theo quy định của Trung Quốc thì
khách nước ngoài muốn mua vé xe lửa phải mua qua “lũ hành xã” (kiểu như
du lịch quốc doanh bên ta) mới được. Những lần đó không hiểu sao anh em ở
cơ quan Lãnh sự quán lại tự đi mua được vé, mà lại mua được vé theo con
đường phía Tây. (Tức đường từ Côn Minh đến Thành Đô rồi qua Tây An,
Thái Nguyên về Bắc Kinh). Tôi cũng thích đi theo con đường đó vì chưa đi
lần nào, hơn nữa lại nghe nói rất nhiều về việc hoàn thành đoạn đường
Thành Đô – Côn Minh mới làm, Trung Quốc coi là thắng lợi lớn vì đoạn đó
rất khó thi công… Tôi đi cùng hai đồng chí Bí thư ở Sứ quán. Trên đường,
qua quan sát thì thấy quả là “danh bất hư truyền”, không thể không ngạc
nhiên thán phục công trình hoành tráng như thế. Xe lửa phải đi trên
sườn núi đá dài rất hiểm trở, vì vậy có nhiều hầm tuy-nen chui qua núi,
nhiều cầu cạn chênh vênh bắc giữa hai ngọn núi và nhiều đoạn leo đèo dốc
quanh co. Có đoạn qua sông Kim Sa nổi tiếng hung dữ (đã được nhắc đến
trong truyền thuyết thày trò Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đi Tây Trúc lấy
kinh). Trên tàu, chúng tôi vô tư dùng tiếng Việt nói chuyện với nhau
nên đã gây chú ý cho nhân viên xe lửa Trung Quốc, có lẽ vậy họ mới đi
gọi điện báo cho người ở đâu đó. Một lúc sau, thấy hai nhân viên ăn mặc
sắc phục đường sắt đến ngồi bắt chuyện với chúng tôi. Khi đến Thành Đô,
họ nói: “Xe lửa bị hỏng, đề nghị các vị xuống phòng đợi”, họ xách hộ
hành lý cho chúng tôi. Sau đó họ nói tầu bị nghẽn còn lâu mới sửa xong.
Họ đưa chúng tôi vào một khách sạn trong Thành Đô. Ngày hôm sau chúng
tôi đường dẫn đi xem thành phố, được thăm nhà lưu niệm thi hào Đỗ Phủ.
Tối về họ nói: “Thôi các vị phải đi máy bay về Bắc Kinh thôi”. Tôi nói:
“Chính phủ chúng tôi cấp tiền có hạn, không đủ tiền mua máy bay”. Họ
nói, sẽ giúp đòi lại tiền tàu của cơ quan đường sắt để các vị mua vé máy
bay. Tôi nói, dù có lấy lại được thì số tiền đó cũng không đủ mua vé
máy bay, chúng tôi còn nghèo, phải tiết kiệm. Chúng tôi sẽ đợi đến bao
giờ xe lửa thông thì chúng tôi sẽ về Bắc Kinh. Không còn cách nào, cuối
cùng họ phải nói thẳng: “Tuyến đường xe lửa này, Chính phủ nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa không cho phép người nước ngoài đi”. Lúc này chúng
tôi mới biết họ là công an mật đã lên kèm chúng tôi từ giữa đường đến
Thành Đô. Sau đó phía Trung Quốc phải bỏ tiền lấy vé máy bay cho đoàn
chúng tôi về Bắc Kinh. Thì ra đường sắt Thành Đô – Côn Minh mà Trung
Quốc cố làm cho bằng được đó là con đường chiến lược bí mật của họ. Năm
1979 khi Trung Quốc tấn công ta thì cũng có một cánh quân xuất phát từ
Đại quân khu Thành Đô vào đánh ta ở hướng Lào Cai. Ta bắt sống được một
Đại đội, họ khai rằng, họ là quân của sư đoàn 150, quân đoàn 50 thuộc
Đại quân khu Thành Đô, được chở bằng xe lửa từ Thành Đô đến biên giới
Việt Nam qua Côn Minh.
5.
Khoảng cuối năm 1985 (tức cuối kỳ làm Đại sứ), bỗng nhiên tôi bị
những cơn tim đập nhanh (140 nhịp một phút), phải đến bệnh viện Trung
Quốc để khám. Nhưng đi đến giữa đường thì cơn tim đó lại dừng nên đến
bệnh viện khám không thấy gì. Lần thứ hai cũng vậy, lần thứ ba thì cùng
với cơn tim đập nhanh lại kèm theo sốt nhẹ, tôi phải vào nằm viện để
điều trị. Bệnh viện cũng làm đủ mọi động tác xét nghiệm cần thiết như:
đo điện tim, siêu âm tin phổi thận, rửa ruột, xét nghiệm máu, soi dạ dày
v.v… Sau một loạt khám nghiệm cẩn thận như thế mà họ cũng chỉ kết luận
được là “tim đập nhanh đậu tính kèm theo sốt”. Tôi đề nghị điều trị theo
cách Đông – Tây y kết hợp. Họ chấp nhận nên hàng ngày cho thuốc viên
đồng thời sắc thuốc bắc cho tôi. Họ bố trí tôi nằm riêng một phòng có
điều hòa nhiệt độ và mắc vào người tôi những dụng cụ để theo dõi nhịp
tim thường xuyên, có màn hình hiện lên trước mặt, nằm ở giường cũng có
thể trông thấy. Hễ hơi động cựa mình hoặc dãy chân một tý là màn hình
hiện lên con số 150 nhịp/ phút ngay. Về ăn uống bệnh viện cũng lo rất
khá, 5 bữa một ngày. Sáng sớm thì bánh bao hoặc sủi cảo, giữa buổi uống
sữa, trưa ăn cơm, 2-3 giờ chiều ăn bánh ngọt hoặc hoa quả, tối ăn cơm.
Điều trị được ba, bốn ngày, bệnh tim vẫn không chuyển biến. Thế là lại
phải nhịn ăn, lấy máu xét nghiệm, lại rửa ruột… vẫn không tìm ra nguyên
nhân gì. Rồi đến một lúc tôi không ăn được, không ngủ được, thỉnh thoảng
lại còn bị cảm (sau mới biết là nằm trong phòng có điều hoà nhiệt độ
thường xuyên, tôi không quen nên mới bị cảm lạnh). Tình hình cứ thế kéo
dài, tôi ngày càng gầy sút, chân tay trở nên uể oải không có lực. Đến
nỗi việc tắm rửa cũng không tự mình làm được, phải nhờ anh em trong Sứ
quán mình vào tắm giúp. Rồi đến lúc giơ tay lên đánh răng rửa mặt cũng
thấy mỏi rã ra. Sau một tháng tôi sút mất 10 cân, chân tay lẩy bẩy, đi
lại phải vịn, phải lần. Tôi nghĩ nếu cứ nằm đây thì sẽ suy sụp đến chết
mất. (Trong khi đó ở Sứ quán, anh em đã họp bàn với nhau, nói đến việc
nếu Đại sứ chết thì chôn ở Bắc Kinh hay đưa thi hài về nước). Tôi nói
với bệnh viện là mình đỡ rồi, xin về Sứ quán chữa ngoại trú, tôi không
dùng máy điều hoà nhiệt độ, chỉ dùng quạt ở mức nhẹ nhất, cho quay đi
quay lại phe phẩy thôi. (Ngoài trời lúc đó đang là nóng nhất trong năm).
Về ăn uống thì chú Quế (nấu cơm cho tôi đã lâu năm rất tận tình) thường
đi mua thịt bò về làm cho chín tái đi rồi ép lấy nước cho tôi, hoặc chú
nấu cháo gà cho, nhưng tôi vẫn chỉ ăn được một chút. Tôi thấy ngủ được
hơn trong bệnh viện và uống được chút nước thịt cũng hấp thu tốt hơn.
Hàng ngày tôi vào bệnh viện cho họ bắt mạch và cắt thuốc bắc về uống, vì
hàng ngày vẫn còn sốt âm ỷ. Tôi xem đơn thuốc họ kê cho thì thấy trong
đó có nhiều vị tác dụng tư âm thanh nhiệt, lần nào cũng thế. Từ trước
tôi đã có mua và đọc nhiều sách thuốc của Trung Quốc, đã có chút hiểu về
Đông y; vì vậy khi đọc đơn thuốc đó, tôi suy nghĩ: đã tư âm thanh nhiệt
mãi mà không khỏi sốt, ắt trong người phải có chỗ viêm nhiễm nào đấy
(mà có thể nó chưa đủ lớn để thày thuốc phát hiện được). Tôi nhờ anh
Bảng phiên dịch tiếng Trung Quốc ra hiệu thuốc mua cho vị kháng sinh
thực vật là bồ công anh, kim ngân hoa vàliên kiều về bỏ vào thang thuốc
của bệnh viện sắc uống trong ba ngày. Uống xong ba ngày thì hết sốt, sau
đó tôi thấy trong người ngày càng khá hơn lên, dần dần ăn được ít cơm.
Tuy vậy người vẫn còn yếu. Tôi định rủ bà xã về nước (tôi nghĩ nếu có
chết thì chết trong nước cho khỏi phức tạp, phiền hà đến cơ quan, tổ
chức). Vừa lúc đó, chị Lan bác sĩ của Sứ quán lại phát hiện bà xã tôi bị
vàng da, vàng mắt; đưa đi bệnh viện khám thì ra viêm gan cấp tính, phải
nằm viện chuyên khoa cách ly điều trị một tháng. Khi bà xã tôi khỏi
bệnh ra viện, chúng tôi cùng rời Bắc Kinh về nước. Khi ra sân bay, bác
sĩ của Sứ quán vẫn phải đưa tôi đến tận chân thang máy bay. Về đến Hà
Nội, bác sĩ của Bộ Ngoại giao ta phải ra tận máy bay đón tôi. Khi tôi có
việc lên Bộ Ngoại giao, chỉ có thể đứng dưới nhắn người của vụ Trung
Quốc xuống mà gặp. Tôi không còn đủ sức trèo lên tầng ba để làm việc.
May mắn là tôi có đem về được hai hộp bột tam thất Vân Nam (là thứ tốt
nhất hồi đó, ở Việt Nam hầu như không thể kiếm được). Tôi uống bột tam
thất, đồng thời động viên bà vợ cùng ăn gạo lứt để chữa bệnh. Kiên trì
ngày một bữa gạo lứt trong hơn hai tháng thì sức khoẻ tôi đã hồi phục
như bình thường.
Người ta nói “trong cái rủi có cái may”, bị một trận ốm thập tử
nhất sinh ở Bắc Kinh như trên đã nói, rõ ràng là chẳng ai muốn, nhưng
qua trận ốm đó tôi lại học được nhiều việc, tôi trở nên chú ý suy ngẫm,
rút kinh nghiệm về bảo vệ sức khỏe và thêm hứng thú đi sâu nghiên cứu
Đông y hơn. Sau này khi có điều kiện, tôi đã mầy mò nghiên cứu học hỏi
cho có bài bản và trở thành thày lang của gia đình, chữa được nhiều bệnh
cho vợ con, cháu chắt, bạn bè….
Cái thời những năm 80 thế kỷ trước, ở trong nước mọi thứ hàng hóa
đều khan hiếm. Mỗi lần về nước là cán bộ nhân viên Sứ quán ta đều tranh
thủ mua các thứ hàng tiêu dùng đem về, kỳ cho hết tiêu chuẩn trọng lượng
hàng được phép theo quy định của hàng không mới thôi. Chú Quế đầu bếp
của tôi cũng vậy, mua cả táo tàu (thứ táo nhỏ của Tàu sấy khô, quả nhăn
nheo màu đỏ nâu hoặc đen) đem về ngâm vào phích nước nóng để uống. Một
hôm chú khoe với tôi: “Cái ruột phích của em ngâm táo tự nhiên lại sáng
choang như mới”. Nghe vậy, tôi bèn nghĩ: có lẽ trong táo tàu có chất
a-xít gì đánh tan được cặn can-xi bám trong ruột phích nước. Rồi một lần
về nước tôi cũng mua theo mấy cân táo tàu, về qua Thái Lan, ngủ ở nhà
khách Sứ quán ta ở Băng-cốc cùng với một đồng chí cán bộ của ta cũng đi
qua, tôi đem táo tàu mời đồng chí đó ăn. Đồng chí nói: “Trước đây tôi bị
sỏi thận, có người bạn cũng cho tôi một cân táo tàu. Sau khi ăn ít hôm
thì thấy đau bụng dưới nhiều, hai ba hôm mới khỏi”. Tôi hỏi: “Từ đó đến
nay anh còn thấy đau nữa không?”. Đồng chí nói không. Thế là liên hệ
việc này với việc cái ruột phích của chú Quế, tôi phát hiện ra rằng
trong táo tàu có chất làm tan sỏi can-xi, khi ăn táo tàu nó bào mòn viên
sỏi làm sỏi nhỏ đi đến mức có thể bài tiết ra ngoài qua đường niệu,
trên đường đi ra, nó chà xát vào niệu quản làm đau. Đến lúc đồng chí
Bảng được điều sang làm phiên dịch cho tôi thay một đồng chí khác đã hết
nhiệm kỳ. Gặp tôi, Bảng nói: “Em bị sỏi thận đang điều trị thì Bộ bắt
sang đây”. Tôi bảo Bảng ra ngoài hiệu thuốc mua lấy một cân rưỡi táo
tàu, hai buổi, buổi sáng chiều trước bữa cơm đều ăn lấy một vốc. Mấy hôm
sau Bảng nói với tôi: “Em có cảm tưởng sỏi nó đi đến gần xương cụt
rồi”. Vài hôm sau nữa thì sỏi ra ngoài. Từ đó trở đi Bảng không bị đau
thận nữa. Thế là chắc chắn “phát hiện” được thứ thuốc vừa ngon vừa lành
là táo tàu nên dùng đủ liều lượng thì có thể làm tan sỏi can-xi trong
thận!
Tôi nghĩ, 13 năm ở Bắc Kinh, vừa phải đấu tranh căng thẳng với Bộ
Ngoại giao Trung quốc, vừa phải chống đỡ bệnh tật, nếu mình không đọc
sách và biết về thuốc, cứ phó thác thân mình cho các giáo sư bác sĩ ở
bệnh viện Bắc kinh thì có lẽ đã chết từ lâu rồi. Tự mình cứu mình nên đã
sống thêm được vài chục năm nữa. Vào năm 1985, sau khi quan hệ
Trung Quốc – Việt Nam đã bình thường hoá trở lại, Hiệp hội Ngoại giao
Trung Quốc đã mời tôi với đồng chí Ngô Minh Loan, đồng chí Nguyễn Minh
Phương là ba Đại sứ cũ ở Trung Quốc sang thăm nước họ. Tôi lại làm
Trưởng đoàn, Đại sứ Lý Thế Thuần lại hỏi tôi muốn đi thăm nơi nào? Tôi
nói tôi đi thăm đã gần hết các tỉnh của Trung Quốc, chỉ còn Hàng Châu và
Thâm Quyến là chưa được đi. Hiệp hội Ngoại giao đã đáp ứng một cách
nhiệt tình mấy nguyện vọng của tôi, mời cả đồng chí Hứa Pháp Thiện (tên
Việt Nam là Thanh) vốn là cố vấn của Cục Tổ chức chúng tôi trong kháng
chiến chống Pháp đến dự buổi chiêu đãi của họ (trong bữa tiệc có cả Thứ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc đến dự). Cuộc gặp rất vui vẻ. Phó Thủ tướng
Trung Quốc cũng có buổi tiếp chúng tôi. Sau đó Hiệp hội cử một nữ
Trưởng phòng là Trịnh Nại Linh tháp tùng chúng tôi đi thăm quan các nơi
như Hàng Châu, Thâm Quyến. Đi đến đâu họ cũng bố trí cho chúng tôi ở
khách sạn 5 sao, riêng tôi được bố trí ở phòng VIP bằng tiêu chuẩn Phó
thủ tướng có phòng ngủ, phòng khách riêng. Ở địa phương nào cũng có Phó
tỉnh trưởng đến tiếp đón. Tôi thấy chỉ mới cách 8 năm thôi mà Trung Quốc
thay đổi ghê gớm. Thâm Quyến xưa chỉ là bãi đất hoang mà nay trở thành
một thành phố hiện đại hoàn chỉnh. Trong thành phố có một công viên rất
rộng lớn gọi là tiểu Trung Hoa, họ xây dựng tất cả các danh lam thắng
cảnh (thu nhỏ) tiêu biểu của các tỉnh Trung Quốc (ví dụ trong đó có Cố
Cung, Trường Thành, Tây Hồ, Thái Hồ…). Còn Quảng Châu, Bắc Kinh tựa hồ
như đã lột xác, trở thành những thành phố tráng lệ sầm uất gấp hàng chục
lần so với lúc tôi làm Đại sứ.
Khi tôi đã thôi nhiệm vụ Đại sứ về nước, thì ở Việt Nam, Trung Quốc
đã lần lượt thay mấy đời Đại sứ: Lý Thế Thuần, Trương Đức Duy, Lý Gia
Trung, Tề Kiến Quốc đến Hồ Càn Văn. Họ đều biết tôi từ khi họ còn là các
cán bộ phiên dịch của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dịch cho quan chức
ngoại giao Trung Quốc “đấu đá” với tôi. Vì biết tôi là Đại sứ kỳ cựu nên
mỗi khi có dịp chiêu đãi nhân Quốc khánh Trung Quốc hay nhân dịp kỷ
niệm thành lập quan hệ ngoại giao hai nước, họ đều nhớ mời tôi.
Năm 1987, tôi được chính thức cho phép rời Sứ quán ở Bắc kinh sau
khi đã hoàn thành tốt nhiệm kỳ Đại sứ dài dặc nhất trong lịch sử các Đại
sứ Việt Nam ở nước ngoài: mười ba năm. Nghỉ ngơi trong một thời gian
thì Bộ Ngoại giao yêu cầu tôi viết Hồi ký 13 năm làm Đại sứ ở Trung
Quốc. Tôi đã viết xong và nộp cho Bộ Ngoại giao. Đến năm 1990 thì thực
sự nghỉ hưu.
Khi về nước được hai năm, tôi gặp một đồng chí quan lúc đó là cán
bộ của Ban Tổ chức Trung ương. Đồng chí hỏi: “Anh được tặng Huân chương
Hồ Chí Minh năm 1987, anh đã nhận được chưa?”. Tôi bảo tôi không biết
gì! Ban Tổ chức Trung ương bèn hỏi bên Bộ Ngoại giao. Thì ra Vụ Tổ chức
Bộ Ngoại giao đã nhận, đem cất đi rồi quên mất (!) Vì vậy cho nên mãi
đến năm 1990 trước khi tôi nghỉ hưu, Bộ Ngoại giao mới mời tôi lên. Đồng
chí Bộ trưởng trao huân chương cho tôi và tặng một số tiền kèm theo là
100.000 đồng trong cuộc họp mặt có đông đủ cán bộ từ Vụ trưởng, Vụ phó
trong Bộ. Lúc đó tôi mới tức cảnh làm bốn câu thơ:
“Vừa rồi được tấm Huân chương
Xa xôi nó phải đi đường hai năm
Bộ Ngoại giao tặng thêm một trăm
Đủ tiền làm một bữa nem ăn mừng!”.
Như vậy, năm 1990 đã kết thúc một quãng đời quan trọng của tôi mà
tôi gọi là “thanh niên ba sẵn sàng”. Tôi luôn sẵn sàng chấp hành mọi sự
điều động của Đảng, Nhà nước, không tính toán thiệt hơn, không hề có đề
nghị, yêu cầu gì, nhận được mệnh lệnh là lên đường đi làm nhiệm vụ thậm
chí không đợi cả làm đủ giấy tờ thủ tục, chẳng ngại sự thiệt thòi về
lương bổng, về chế độ đãi ngộ, về nhà cửa. Với việc nào, tôi cũng chỉ
đinh ninh một điều là làm sao cho tốt nhất so với năng lực của mình.
Trong thời gian từ khi kết thúc kháng chiến chống Pháp đến năm 1990, tôi
được phân công làm nhiều công tác như đã thuật ở trên, nhưng có thể nói
có hai việc lớn và làm thời gian dài nhất là làm Cố vấn cho Bạn Lào và
làm Đại sứ ở Trung Quốc (tổng cộng hơn 20 năm) và cũng là hai việc tôi
có nhiều kỷ niệm đáng nhớ hơn cả và về cơ bản có thể nói là “đã đạt yêu
cầu”. Vì vậy, tôi có thể mượn lời của con gái Nguyên Bình trong câu đối
nôm na nó viết tặng tôi nhân buổi mừng sinh nhật 80 tuổi để làm câu kết
cho câu chuyện đi sứ nước người của tôi:
Làm Cố vấn miền Tây, ghi lời Bác, không làm “lão Toàn quyền”*, luôn nhớ chữ “chủ quyền của bạn”.
Đi Đại sứ nước Tàu, theo ý Đảng, chẳng ngại “người Đại quốc”, giữ trọn điều “Quốc thể về ta”.
*Trước khi đi Lào nhận nhiệm vụ mới (làm Trưởng đoàn cố vấn giúp
Lào – cuối 1964), Hồ Chủ tịch cho gọi ông Nguyễn Trọng Vĩnh tới ăn cơm
và dặn dò một số điều. Người nói vui với Nguyễn Trọng Vĩnh: “Chú sang
bên ấy, chú có ý kiến gì thì chú góp với Bạn để Bạn làm, chú không được
làm thay và chú không được làm “Lão toàn quyền” đấy nhé!” – Chú thích
của Bà Nguyễn Nguyên Bình, con gái Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh.
Nguyễn Trọng Vĩnh
CHUYỆN NƯỚC TÀU
Phan liên Khê (Tễu blog)
Lẳng lặng mà nghe chuyện nước Tàu
Mưu thâm, kế hiểm có từ lâu
Khua môi, múa mép, gào thân thiện
Diễu võ, dương oai, dọa đánh nhau
Đối mặt bá quyền, cần chí lớn
Chặn tay bành trướng, phải tài cao
Đi làm đại sứ nhiều gian khổ
Chứng kiến bao lần cuộc bể dâu.
Phan Liên Khê, Thượng tá CCB, TP Hồ Chí Minh
Trích từ một Còm trên Bài “Hồi ký của Cụ Nguyễn trọng Vĩnh” ở Tễu blog.Giai thoại về sứ thần Giang Văn Minh
Vinhanonline
Vua nhà Minh hôm ấy rất bất bình. Vào ngày khánh thọ nhà vua, các sứ giả các nước đến cống lễ thiên triều, đều mũ áo chỉnh tề, đem phẩm vật đến mừng đúng theo phép tắc. Chỉ mỗi sứ thần Việt Nam là không thấy đâu cả. Vua nổi giận, cho thị vệ đến nơi công quán, đòi sứ giả đến hỏi nguyên do.
Bọn lính đến nơi thấy sứ thần Việt Nam đang nằm trên giường, ôm mặt khóc nức nở. Đem lệnh tuyên triệu ra bắt buộc, ông mới gắng gượng thất thểu đi theo chúng và triều kiến nhà vua. Trả lời câu hỏi và cũng là lời trách cứ vì tội vô lễ, sứ thần Đại Việt quỳ xuống tâu trình:
- Chúng tôi tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, vắng mặt thật là điều trọng tội, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, gia đình ở quê thì neo đơn, đến ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ. Vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui.
Nói xong, ông lại khóc ầm lên. Vua Minh bỗng bật cười:
- Tưởng làm sao chứ như thế thì việc gì phải khóc. Cũng đáng khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì đáng phải băn khoăn cho lắm. Người khuất, chuyện xa đã đến mấy đời, thì cũng có thể “miễn nghị”.
Vị sứ giả Việt Nam lau nước mắt, ngẩng đầu lên, giọng trầm và kiên quyết:
- Muôn tâu, lời dạy của thánh hoàng thật là quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy, mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm chuyện xa xôi mà không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều bắt nước Nam của thần phải cống nạp người vàng để trả nợ Liễu Thăng chết cách đây hàng mấy trăm năm. Mãi đến bây giờ cũng chưa miễn nghị. Nay được lời thánh hoàng ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với buổi khánh tiết này. Cúi xin thánh hoàng từ đây “miễn nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu…
Vua Minh ngớ người ra! Lý lẽ của sứ thần thật mềm mỏng, ôn hòa mà chặt chẽ, kín không khe hở. Vua đành gật đầu, cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Tuy vậy, phải đến triều nhà Thanh, vua Quang Trung mới bắt chúng chấm dứt vĩnh viễn cái lệ này.
Vị sứ thần ấy tên là Giang Văn Minh ở làng Mông Phụ, Đường Lâm, trước đây thuộc tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thị xã Sơn Tây – tỉnh Hà Tây. Ông đỗ Thám hoa năm 1628. Cuộc đi sứ hồi đó vào năm 1637. Câu chuyện vẫn còn tiếp tục. Những ngày ở lại kinh đô nhà Minh, Giang Văn Minh vẫn cứ tỏ thái độ cứng cỏi, đôi lúc cũng ngông cuồng. Có lần sau những ngày mưa gió ẩm ướt, trời nắng to, thiên hạ ai cũng đi dạo chơi, ngắm cảnh, sưởi ấm, riêng ông lại nằm nhà, ra sân, phanh bụng để… phơi nắng! Bọn quan chức Tàu hỏi tại sao, thì ông nói:
- Lâu nay học hành, sách vở thiên hạ có bao nhiêu, đều thu cả vào trong bụng này. Bên nước Nam, thời tiết hanh khô, chứ bên Trung Quốc thì ẩm ướt quá. Hôm nay được trời nắng to phải phơi bụng ra cho chữ trong ấy khỏi mốc!
Câu trả lời nghịch ngợm, hóm hỉnh thôi. Nhưng bọn quan lại hiểu ra là ông có ý khinh bỉ, ngạo đời. Cái nước An Nam nhỏ bé thế mà có người lại dám ngông nghênh xấc xược! Chúng tâu lại với vua Minh, nhà vua cũng tự ái, cứ muốn nhắc lại cho sứ giả biết rằng xưa kia nước Nam đã có thời gian nội thuộc thiên triều lâu dài. Bởi vậy nhân một dịp thử tài ứng đối, nhà vua đã ra cho Giang Văn Minh một vế đối như sau:
Cột đồng nay rêu đã bám xanh! (Đồng trụ chí kim đài dĩ lục)
Ý muốn nhắc chuyện Mã Viện chôn cột đồng để khoe khoang chiến công xâm lược. Cột đồng còn đó thì chiến công thiên triều còn lưu lại bây giờ.
Giang Văn Minh thấy họ chỉ thích thú với tội ác mà quên đi bao nhiêu nhục nhã từ xưa, nên cứng cỏi đáp lại:
Sông Đằng từ lâu máu vẫn đỏ! (Đằng giang tự cổ huyết do hồng!)
Máu vẫn đỏ là vì máu loang ra từ những trận Ngô Quyền diệt Hoằng Thao, Lê Hoàn diệt Hầu Nhân Bảo, Trần Hưng Đạo diệt Thoát Hoan.
Bị chạm nọc vì Giang Văn Minh ngang nhiên nhắc lại những trận thua đau của họ, vua Minh nổi cáu, bất chấp cả luật lệ bang giao, cho bắt giam, trám mắt, trám miệng và mổ bụng Giang Văn Minh xem sứ thần Việt Nam to gan đến thế nào. Cuộc sát hại hèn hạ này xảy ra vào năm 1639./.
Nguyễn Duy Cách
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét