Nhiều bao biện, thanh minh về dự báo bão Sơn Tinh
SGTT.VN -
Lại một lần nữa ngành dự báo khí tượng thủy văn Việt Nam phải tổ chức
họp báo thanh minh và lý giải về công tác dự báo. Lần đầu, hồi bão
Chanchu năm 2006 và giờ là bão Sơn Tinh, 2012.
Loay hoay dự báo điểm bão đổ bộ là vô nghĩa
Chúng tôi xin thưa, dự báo bão cũng như thời tiết nói chung là luôn bất thường, người dân không cần biết nó bất thường vì sao, chỉ muốn biết, cũng như hồi Chanchu, tại sao thế giới đều dự báo được và dự báo đúng được đường đi cũng như cấp bão từ ngày 25 nhưng dự báo của Việt Nam đến chiều 27 vẫn cứ lừng khừng không thông báo gì rõ ràng? Trong khi đó ở ảnh mây vệ tinh trưa, 12g, ngày 27 đã xuất hiện rõ tâm bão, tức sức gió đã đạt cấp cao nhất của Việt Nam là cấp 12.
Ta thấy lúc này, cho dù bão đi theo hướng nào đi nữa thì nó cũng xứng đáng được phát tin báo động cấp 1, cấp cao nhất cho toàn vịnh Bắc bộ. Nếu lệch về phía tây một chút thôi thì cả vệt ven biển từ Quảng Bình đến Hải Phòng sẽ bị cày xới ở cấp gió 12. Vẫn rất may mắn là tâm bão ở xa bờ. Thế nhưng các bản tin phát đi từ TTDBKTTVTƯ lúc này vẫn cứ lừng khừng, không sắc nét.
Ở trường hợp bão Sơn Tinh này thì khái niệm bão vào bờ, bão đổ bộ sẽ không có giá trị, đơn giản vì bão đi dọc bờ nên chuyện loay hoay dự báo điểm bão đổ bộ là vô nghĩa. Thế nhưng toàn bộ máy của TTDBKTTVTƯ vẫn cứ nỗ lực cho điều này, bão vào Vinh, Thanh Hóa hay Nam Định, Hải Phòng? Tin về buổi họp báo cho biết: “Đến chiều tối ngày 26.10, Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn trung ương vẫn chưa thể xác định tâm bão đổ bộ. Đến trưa chiều ngày 28.10, thời điểm cụ thể bão đổ bộ cũng chưa thể dự đoán được”. Chúng tôi không hiểu TT đã nỗ lực cho việc tìm tâm đổ bộ làm gì khi bão ngay từ ngày 26 đã có dấu hiệu và được dự báo thế giới dự báo là sẽ đi dọc bờ. Điều đó đáng báo động và quan trọng hơn điểm đổ bộ chứ?
Kể cả Mỹ với Nhật cũng không dự báo được?!
Về cường độ bão, ông Tăng nói : “Không chỉ lướt dọc bờ biển, cường độ bão cũng rất phức tạp. Từ ngày 23.10, trung tâm khí tượng đã cảnh báo khi vào biển Đông bão sẽ mạnh lên, mạnh nhất đạt cấp 12 khi tới Hoàng Sa vì đây là vùng biển thoáng và nóng, nhiều hơi ẩm. Nhưng khi vào tới nam vịnh Bắc bộ, ngang tỉnh Quảng Trị, chỉ trong buổi chiều 27.10, bão đã ‘nhảy’ từ cấp 12 lên cấp 14. Trong vòng 4 – 5 giờ, việc nhảy cấp này không mô hình đài nào có thể dự báo trước được, kể cả Mỹ và Nhật Bản. Không ai tính toán được là vào tới đó mà bão còn mạnh thêm nhiều như vậy”.
Xin thưa, việc tăng cấp 12-14 liệu có thành là vấn đề để ông có thể làm rối theo kiểu tung hỏa mù rồi kết luận là toàn cục thực sự phức tạp, ngoài khả năng dự báo của TT? Với Việt Nam trước khi có Xangsane, cấp 12 là cấp cao nhất, là báo động đỏ, là báo động cấp 1, cấp cao nhất rồi, việc nó tăng cấp lên 14 hay 16, thậm chí 20 thì cũng là báo động đỏ, báo động cấp 1, maximum rồi; việc nó tăng cấp cao hơn đâu có gì phải đáng nói! Ở dự báo của Hải quân Hoa Kỳ chúng ta thấy việc tăng cấp này không còn quan trọng nữa, vì trong sơ đồ dự báo họ chỉ phân biệt 3 cấp là ít hơn 34KNOTS; 34-63 KNOTS và trên 63 KNOTS. Trên 63 KNOTS là trên cấp 11 ở ta họ còn 5 cấp Typhoon nữa nhưng điều đó không quan trọng với thông báo bão phổ thông, họ chỉ cần trên 63KNOTS là đủ.
Hơn nữa, ngay từ ngày 25, khi Sơn Tinh còn là bão nhiệt đới, tức dưới
63KNOTS, Hải quân Mỹ đã dự báo đến ngày 27 bão sẽ tăng cấp trên 63KNOTS
(xem hình 3, trong hình dự báo đó là vòng đen chứ không phải là vòng
trắng trước đó). Ông Tăng nói không ai dự báo được là nói không đúng!
Ở hình 4 này, ta thấy ngày 27 tất cả các dự báo của các trung tâm dự báo trên thế giới đều dự báo bão sẽ trên 63KNOTS. Ông Tăng nói: “Việc nhảy cấp này không mô hình đài nào có thể dự báo trước được, kể cả Mỹ và Nhật Bản” là không đúng!
Thông báo tù mù, không rõ ràng
Cả ông Tăng và sau đó là ông Bùi Văn Đức, Tổng giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng hủy văn Quốc gia, đều than khó và viện dẫn rất nhiều đến những yếu tố bất ngờ mà thời tiết tác động đến đường đi và cường độ cơn bão số 8 như: “Nguyên nhân khiến bão mạnh lên đột ngột, theo lý giải của vị Giám đốc Trung tâm dự báo Khí tượng là do có rãnh gió Tây Nam trên cao 5.000 m. Ngày 26.10, khi bão đã vào sâu trong biển Đông, rãnh gió này mới xuất hiện. Cường độ của rãnh gió rất mạnh di chuyển từ phía Nam lên. Bão tiến vào gần rãnh gió Tây và bị thổi ngược lên phía Bắc”. Còn ông Bùi Văn Đức cho hay: “thời điểm này, việc dự báo hướng đi của bão trở nên rất khó khăn vì dù đã phát hiện rãnh gió Tây Nam trên cao nhưng rãnh này còn phát triển và thay đổi chứ không phải như “đoàn tàu đi theo một đường cố định”. Người làm công tác dự báo vì thế không thể dám chắc gió Tây xuất hiện thì cơn bão sẽ đi thế nào nên đã tham khảo tất cả các mô hình dự báo khác”.
Chúng tôi không hiểu mô hình nào đã được TT tham khảo nhưng hầu hết các dự báo mà chúng tôi theo dõi đều đã khá chính xác về đường đi và cường độ bão Sơn Tinh. Vấn đề chỉ không hiểu tại sao Việt Nam lại dự báo không đúng! Thực ra thì không phải là sai lắm nhưng không hiểu sao các thông báo lại rất không rõ ràng, nó tù mù khiến người nghe không hiểu bão thực sự đang tác động vào đâu.
Ông Bùi Văn Đức nói: “Khi trình bày trước Ban chỉ đạo PCLB Trung
ương, chúng tôi phải phân tích tất cả khả năng, có thể xác suất rất nhỏ
song vẫn phải nói để ban chỉ đạo lường trước được mọi tình huống. Nhưng
trong bản tin, chúng tôi phải cân nhắc rất kỹ vì nói cho dân thì chỉ
được chọn một cái, đưa ra nhiều tình huống thì bà con biết đường nào mà
chọn. Dự báo chỉ là dự báo thôi” theo chúng tôi đây là điều mấu chốt
nhất cần phải được thay đổi.
Trước đây, cũng vì tư duy “dự báo cho dân cần phải chính xác” nên một thời gian dài ngành dự báo Việt Nam chỉ dự báo 24 tiếng đồng hồ. Với dự báo bão thì đó là thông báo đường đi bão chứ không phải là dự báo! Sau Xangsane dự báo đã tăng lên dài hơn, có khi 2 ngày, có khi 3 ngày nhưng vẫn rất dè dặt. Theo chúng tôi, ngành dự báo đã tự đặt ra cái gánh nặng “dự báo chính xác” rồi tự gánh lấy chứ cả thế giới không ai đòi hỏi sự chính xác trong dự báo. Nhân dân chỉ cần trong khả năng có thể ngành dự báo hãy dự báo càng xa càng tốt rồi sau đó cập nhật chỉnh sửa theo từng diễn biến. Và thế giới đều làm theo kiểu này. Theo dõi dự báo của Hải quân Mỹ chúng tôi thấy họ vẫn thường phóng một dự báo 7 ngày trên những cơ sở dữ liệu ban đầu có được, sau đó hằng ngày hoặc hàng giờ điều chỉnh dự báo. Và người nghe, người dùng dự báo cũng có thói quen luôn cập nhật dự báo. Việc “nói cho dân thì chỉ được chọn một cái, đưa ra nhiều tình huống thì bà con biết đường nào mà chọn” là một tư duy sai lầm, cần sớm thay đổi. Đơn giản là vì khi chọn một cái thì chắc chắn đến 90% cái đó sẽ sai! Trước 3 ngày thì càng sai!
Hồ Trung Tú
Loay hoay dự báo điểm bão đổ bộ là vô nghĩa
<<<===Ảnh rađa vệ tinh cho thấy
lúc 13g trưa ngày 27.10 cho thấy tâm bão đã xuất hiện rất nét cho biết
sức gió đã trên cấp 12. Đây là lúc cần ra báo động đỏ cho toàn vịnh Bắc
bộ thế nhưng dự báo của TTDBKTTVTƯ vẫn cứ còn do dự điểm đổ bộ nào!
Mở đầu buổi họp báo, ông Bùi Minh Tăng, giám đốc Trung tâm Dự báo Khí
tượng thủy văn Trung ương, nói quy luật bất thường của bão Sơn Tinh,
thanh minh rằng: “Đặc điểm của bão ở Việt Nam là từ mùa hè tới tháng 8,
9, bão đổ bộ vào miền Bắc. Từ tháng 10 trở đi, xu hướng bão lệch dần về
miền Trung và tháng 11 lệch dần về miền Nam. Những cơn bão vào miền Bắc
thường xuất phát ở vĩ độ cao, ngang với miền Bắc hoặc thấp là từ vĩ độ
15 trở lên, đi theo hướng Tây Bắc, xuyên qua đảo Hải Nam (Trung Quốc)
vào miền Bắc. Trong khi đó, bão Sơn Tinh hình thành ở vĩ độ rất thấp,
8-9 vĩ độ bắc thuộc miền nam Philippines. Ban đầu bão đi theo hướng Tây
Bắc rồi lệch Bắc, chạy dọc vùng ven biển từ Quảng Ngãi lên tới tận Quảng
Ninh…”Chúng tôi xin thưa, dự báo bão cũng như thời tiết nói chung là luôn bất thường, người dân không cần biết nó bất thường vì sao, chỉ muốn biết, cũng như hồi Chanchu, tại sao thế giới đều dự báo được và dự báo đúng được đường đi cũng như cấp bão từ ngày 25 nhưng dự báo của Việt Nam đến chiều 27 vẫn cứ lừng khừng không thông báo gì rõ ràng? Trong khi đó ở ảnh mây vệ tinh trưa, 12g, ngày 27 đã xuất hiện rõ tâm bão, tức sức gió đã đạt cấp cao nhất của Việt Nam là cấp 12.
Ta thấy lúc này, cho dù bão đi theo hướng nào đi nữa thì nó cũng xứng đáng được phát tin báo động cấp 1, cấp cao nhất cho toàn vịnh Bắc bộ. Nếu lệch về phía tây một chút thôi thì cả vệt ven biển từ Quảng Bình đến Hải Phòng sẽ bị cày xới ở cấp gió 12. Vẫn rất may mắn là tâm bão ở xa bờ. Thế nhưng các bản tin phát đi từ TTDBKTTVTƯ lúc này vẫn cứ lừng khừng, không sắc nét.
Ở trường hợp bão Sơn Tinh này thì khái niệm bão vào bờ, bão đổ bộ sẽ không có giá trị, đơn giản vì bão đi dọc bờ nên chuyện loay hoay dự báo điểm bão đổ bộ là vô nghĩa. Thế nhưng toàn bộ máy của TTDBKTTVTƯ vẫn cứ nỗ lực cho điều này, bão vào Vinh, Thanh Hóa hay Nam Định, Hải Phòng? Tin về buổi họp báo cho biết: “Đến chiều tối ngày 26.10, Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn trung ương vẫn chưa thể xác định tâm bão đổ bộ. Đến trưa chiều ngày 28.10, thời điểm cụ thể bão đổ bộ cũng chưa thể dự đoán được”. Chúng tôi không hiểu TT đã nỗ lực cho việc tìm tâm đổ bộ làm gì khi bão ngay từ ngày 26 đã có dấu hiệu và được dự báo thế giới dự báo là sẽ đi dọc bờ. Điều đó đáng báo động và quan trọng hơn điểm đổ bộ chứ?
Dự báo của TTDBKTTVTƯ lúc 16g ngày 27 tương
đối đúng đường đi của bão số 8 nhưng không đủ cảnh báo về sức gió và
đánh thức được cảnh giác của người dân khu vực ảnh hưởng của bão số 8 là
toàn vịnh Bắc bộ.
|
Về cường độ bão, ông Tăng nói : “Không chỉ lướt dọc bờ biển, cường độ bão cũng rất phức tạp. Từ ngày 23.10, trung tâm khí tượng đã cảnh báo khi vào biển Đông bão sẽ mạnh lên, mạnh nhất đạt cấp 12 khi tới Hoàng Sa vì đây là vùng biển thoáng và nóng, nhiều hơi ẩm. Nhưng khi vào tới nam vịnh Bắc bộ, ngang tỉnh Quảng Trị, chỉ trong buổi chiều 27.10, bão đã ‘nhảy’ từ cấp 12 lên cấp 14. Trong vòng 4 – 5 giờ, việc nhảy cấp này không mô hình đài nào có thể dự báo trước được, kể cả Mỹ và Nhật Bản. Không ai tính toán được là vào tới đó mà bão còn mạnh thêm nhiều như vậy”.
Xin thưa, việc tăng cấp 12-14 liệu có thành là vấn đề để ông có thể làm rối theo kiểu tung hỏa mù rồi kết luận là toàn cục thực sự phức tạp, ngoài khả năng dự báo của TT? Với Việt Nam trước khi có Xangsane, cấp 12 là cấp cao nhất, là báo động đỏ, là báo động cấp 1, cấp cao nhất rồi, việc nó tăng cấp lên 14 hay 16, thậm chí 20 thì cũng là báo động đỏ, báo động cấp 1, maximum rồi; việc nó tăng cấp cao hơn đâu có gì phải đáng nói! Ở dự báo của Hải quân Hoa Kỳ chúng ta thấy việc tăng cấp này không còn quan trọng nữa, vì trong sơ đồ dự báo họ chỉ phân biệt 3 cấp là ít hơn 34KNOTS; 34-63 KNOTS và trên 63 KNOTS. Trên 63 KNOTS là trên cấp 11 ở ta họ còn 5 cấp Typhoon nữa nhưng điều đó không quan trọng với thông báo bão phổ thông, họ chỉ cần trên 63KNOTS là đủ.
Dự báo của Hải quân Hoa Kỳ từ ngày 25 đã cho
thấy họ dự báo ngày 27, lúc bão sát bờ sẽ tăng cấp. Ông Tăng nói không
ai dự báo được điều này là không đúng.
|
Ở hình 4 này, ta thấy ngày 27 tất cả các dự báo của các trung tâm dự báo trên thế giới đều dự báo bão sẽ trên 63KNOTS. Ông Tăng nói: “Việc nhảy cấp này không mô hình đài nào có thể dự báo trước được, kể cả Mỹ và Nhật Bản” là không đúng!
Thông báo tù mù, không rõ ràng
Cả ông Tăng và sau đó là ông Bùi Văn Đức, Tổng giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng hủy văn Quốc gia, đều than khó và viện dẫn rất nhiều đến những yếu tố bất ngờ mà thời tiết tác động đến đường đi và cường độ cơn bão số 8 như: “Nguyên nhân khiến bão mạnh lên đột ngột, theo lý giải của vị Giám đốc Trung tâm dự báo Khí tượng là do có rãnh gió Tây Nam trên cao 5.000 m. Ngày 26.10, khi bão đã vào sâu trong biển Đông, rãnh gió này mới xuất hiện. Cường độ của rãnh gió rất mạnh di chuyển từ phía Nam lên. Bão tiến vào gần rãnh gió Tây và bị thổi ngược lên phía Bắc”. Còn ông Bùi Văn Đức cho hay: “thời điểm này, việc dự báo hướng đi của bão trở nên rất khó khăn vì dù đã phát hiện rãnh gió Tây Nam trên cao nhưng rãnh này còn phát triển và thay đổi chứ không phải như “đoàn tàu đi theo một đường cố định”. Người làm công tác dự báo vì thế không thể dám chắc gió Tây xuất hiện thì cơn bão sẽ đi thế nào nên đã tham khảo tất cả các mô hình dự báo khác”.
Chúng tôi không hiểu mô hình nào đã được TT tham khảo nhưng hầu hết các dự báo mà chúng tôi theo dõi đều đã khá chính xác về đường đi và cường độ bão Sơn Tinh. Vấn đề chỉ không hiểu tại sao Việt Nam lại dự báo không đúng! Thực ra thì không phải là sai lắm nhưng không hiểu sao các thông báo lại rất không rõ ràng, nó tù mù khiến người nghe không hiểu bão thực sự đang tác động vào đâu.
Không chỉ Hải quân Hoa Kỳ, hầu hết các dự báo
trên thế giới đều cho biết từ ngày 27 bão sẽ mạnh trên cấp 12 (trên
63KNOTS) khi vào vịnh Bắc Bộ.
|
Trước đây, cũng vì tư duy “dự báo cho dân cần phải chính xác” nên một thời gian dài ngành dự báo Việt Nam chỉ dự báo 24 tiếng đồng hồ. Với dự báo bão thì đó là thông báo đường đi bão chứ không phải là dự báo! Sau Xangsane dự báo đã tăng lên dài hơn, có khi 2 ngày, có khi 3 ngày nhưng vẫn rất dè dặt. Theo chúng tôi, ngành dự báo đã tự đặt ra cái gánh nặng “dự báo chính xác” rồi tự gánh lấy chứ cả thế giới không ai đòi hỏi sự chính xác trong dự báo. Nhân dân chỉ cần trong khả năng có thể ngành dự báo hãy dự báo càng xa càng tốt rồi sau đó cập nhật chỉnh sửa theo từng diễn biến. Và thế giới đều làm theo kiểu này. Theo dõi dự báo của Hải quân Mỹ chúng tôi thấy họ vẫn thường phóng một dự báo 7 ngày trên những cơ sở dữ liệu ban đầu có được, sau đó hằng ngày hoặc hàng giờ điều chỉnh dự báo. Và người nghe, người dùng dự báo cũng có thói quen luôn cập nhật dự báo. Việc “nói cho dân thì chỉ được chọn một cái, đưa ra nhiều tình huống thì bà con biết đường nào mà chọn” là một tư duy sai lầm, cần sớm thay đổi. Đơn giản là vì khi chọn một cái thì chắc chắn đến 90% cái đó sẽ sai! Trước 3 ngày thì càng sai!
Hồ Trung Tú
Trung Quốc và chiến lược « lãnh địa hóa » Biển Đông
Nhân cuộc hội thảo về Biển Đông do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược
Pháp IRIS phối hợp với Quỹ Gabriel Péri đồng tổ chức ngày 16/10/2012,
Tướng Daniel Schaeffer, một chuyên gia Pháp đã phân tích mưu đồ của
Trung Quốc, đang tìm cách “lãnh địa hóa” – sanctuariser – hay độc chiếm
Biển Đông. Trả lời RFI, Tướng Schaeffer cho rằng Việt Nam cần phải quốc
tế hóa mạnh mẽ hơn hồ sơ này để đối phó với chiến lược của Trung Quốc.
Ngày 16/10/2012, một cuộc hội thảo khoa học về tình hình Biển Đông đã
mở ra tại Paris với chủ đề “Biển Đông phải chăng là một không gian
khủng hoảng mới ? – Mer de Chine méridionale : nouvel espace de crise
?”. Do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp IRIS phối hợp với Quỹ
Gabriel Péri đồng tổ chức, cuộc hội thảo đã tập hợp được nhiều chuyên
gia tên tuổi ở Pháp và châu Âu, cũng nhu thu hút đông đảo những người
quan tâm đến dự thính và thảo luận.
Các bài thuyết trình rất đa dạng, đề cập đến các vấn đề pháp lý, chính trị, ngoại giao, kinh tế và đặc biệt là quân sự, liên quan đến tình hình căng thẳng hiện nay do tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các láng giềng, đặc biệt là Việt Nam. Trong số các diễn giả, có ông Daniel Schaeffer, một viên tướng người Pháp đã về hưu, từng là tùy viên quân sự tại sứ quán Pháp ở Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc, hiện là chuyên gia nghiên cứu độc lập về Biển Đông và châu Á. Bài thuyết trình của tướng Schaeffer đã nêu bật một chiến lược mà theo ông, Trung Quốc đang áp dụng để gọi là sanctuariser, tạm dịch là lãnh địa hóa Biển Đông, tức là độc chiếm khu vực này bất chấp chủ quyền của các nước khác.
Sau buổi hội thảo, tướng Schaeffer đã đồng ý dành cho RFI một bài phỏng vấn để giải thích rõ hơn về ý muốn chiến lược của Trung Quốc, đã bộc lộ rõ ràng qua việc chính thức tung ra tấm bản đồ 9 đường gián đoạn – bị gọi là đường lưỡi bò – khoanh vùng lãnh thổ của họ hầu như chiếm trọn vùng Biển Đông, để rồi buộc các nước khác chấp nhận, cho dù đòi hỏi của Trung Quốc bị cho là phi lý.
Trước hết, tướng Schaeffer xác định là chính qua việc quan sát các động thái hoàn toàn không có cơ sở pháp lý của Bắc Kinh liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thực thể mà họ gọi là quần đảo Trung Sa mà ông cho rằng Trung Quốc muốn lãnh địa hóa toàn bộ Biển Đông.
“Tôi đã bảo vệ quan điểm này từ hơn một năm nay, ngay từ năm ngoái, nhân Hội nghị Quốc tế về Biển Đông lần thứ III do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ở Hà Nội. Tôi đã có quan điểm này sau khi quan sát cách thức Trung Quốc biện minh cho đường 9 đoạn tại Biển Đông, tức là đường trung tuyến giữa phần mà họ cho là lãnh thổ của họ và phần thuộc chủ quyền các nước khác.
Khi xem xét hoạt động của ngành ngoại giao Trung Quốc, và nhất là các hoạt động trong lãnh vực pháp lý liên quan đến vấn đề quyền trên biển, ta thấy rằng Trung Quốc đã vạch ra chung quanh quần đảo Hoàng Sa những đường cơ sở thẳng, cứ như là đây là một quốc gia quần đảo.
Nhưng dựa vào luật biển, thì điều đó hoàn toàn không có bất kỳ một cơ sở pháp lý nào được chấp nhận trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển… Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ nhì liên quan đến Trường Sa.
Khi Trung Quốc phản ứng vào năm ngoái trước công hàm của Philippines gởi đến Liên Hiệp Quốc đề phản đối các đòi hỏi của Trung Quốc liên quan đến đường 9 đoạn, Bắc Kinh đã cho hiểu rõ ý định vạch ra những đường cơ sở thẳng tương tự chung quanh Trường Sa. Tại vì trong công hàm đưa ra để phản bác các đề nghị của Philippines, Trung Quốc cho biết là đối với họ, quần đảo Trường Sa có quyền có lãnh hải, có vùng tiếp giáp và vùng đặc quyền kinh tế.
Cho nên, khi ta tính đến các lập luận đó, cũng như lập luận về một số bãi đá như James Shoal, hay một mỏm đá khác nằm phía Nam quần đảo Trường Sa – không thuộc quần đảo này nhưng lại ở bên trong đường 9 đoạn – và khi ta nhìn những sự cố liên quan đến bãi Scarborough, thì tất cả những yếu tố đó đều nhằm mục tiêu « vật thể hóa », tức là cụ thể hóa các đòi hỏi căn cứ theo đường 9 đoạn đó
Thêm vào đó, vào hạ tuần tháng Sáu vừa qua (23/06/2012), tập đoàn Dầu khí Hải dương Trung Quốc CNOOC đã kêu gọi các tập đoàn quốc tế đấu thầu để cùng với họ thăm dò, khai thác 9 lô nằm ở ngoài khơi Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh tế kinh tế của Việt Nam, nhưng lại thuộc một vùng lãnh thổ mà Trung Quốc cho là của họ. Đây là một điều đáng sửng sốt vì 9 lô đó nằm ở ngoài khơi ngang tầm với Đà Nẵng.
Theo tướng Schaeffer, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên cái mà họ gọi là « Trung Sa Quần đảo » còn phi lý hơn nữa.
“Thêm vào đó, nếu đi ngược lên phiá Bắc, ta thấy cái mà Trung Quốc gọi là Trung Sa Quần đảo mà quốc tế quen gọi là bãi Macclesfield. Đây là một bãi ngầm, không bao giờ nổi lên trên mặt nước kể cả khí thủy triều thấp. Dó đó, trong mọi trường hợp, bãi này không có quyền có lãnh hải, và lại càng không có quyền hưởng khu đặc quyền kinh tế. Trung Quốc cũng có đòi hỏi tương tự đối với một bãi ngầm khác là Truro Shoal.
Do việc bãi Truro, cũng như bãi Macclesfield, đều không thể có được một vùng đặc quyền kinh tế hay lãnh hải, cho nên Trung Quốc đã gộp hai thực thể này với bãi ngầm Scarborough nằm về phía Philippines, và gọi tập hợp đó là « quần đảo Trung Sa, một loại quần đảo hoàn toàn tưởng tượng không hơn không kém.
Chung quanh đó hiện giờ họ chưa vẽ đường cơ sở thẳng nào, cũng chưa nói đến khả năng đó, nhưng ta có thể suy đoán về việc đó dựa vào những gì xẩy ra trước đây. Giữa quần đảo Hoàng Sa và cái gọi là Trung Sa rất có thể có một sự liên tục về mặt pháp lý, điều đó sẽ cho phép Trung Quốc vạch một đường cấm bược tàu chiến đi qua khu vực phải dừng lại.
Dù sao đi nữa, Trung Quốc hiện đang áp dụng ở vùng đặc khu kinh tế của họ những quy định dùng cho vùng lãnh hải trên vấn đề quyền qua lại một cách vô hại của tàu chiến, có nghĩa là tức là mỗi khi đi qua vùng lãnh hải của Trung Quốc, tàu chiến các nước khác phải xin phép. Phải nói thêm là không chỉ có Trung Quốc, mà Việt Nam, Indonesia cũng áp dụng quy tắc như vậy.
Vấn đề là Trung Quốc lại muốn áp dụng quy tắc kể trên cho vùng biển bên trong đường 9 đoạn được họ coi là vùng đặc quyền kinh tế. Điều đó có nghĩa là khi muốn thì Trung Quốc có thể cấm tất cả các tàu chiến nước ngoài vượt qua đường lưỡi bò đó.
Cho đến nay, các nhà quan sát đã nói rất nhiều về mục tiêu kinh tế của Trung Quốc trong việc tìm cách độc chiếm Biển Đông, tức là để chiếm đoạt nguồn dầu khí được cho là dồi dào trong khu vực. Tuy nhiên, như tướng Schaeffer đã phân tích ở trên, vấn đề quân sự là một nhân tố tối quan trọng. Và việc lãnh địa hóa Biển Đông sẽ cho phép Bắc Kinh triển khai hạm đội tàu ngầm của họ một cách an toàn hơn, dự phòng khi phải tấn công vào Mỹ. Ông giải thích :
“Khi nhìn trên bản đồ, ta thấy ở Tam Á (phía Nam đảo Hải Nam) có căn cứ hải quân nơi Trung Quốc đặt các tàu ngầm phóng tên lửa của họ
Giữa căn cứ Tam Á này và vùng sâu đầu tiên ở Biển Đông, nơi mà các tàu ngầm nguyên tử Trung Quốc có thể tuần tra một cách yên ổn, là một khoảng cách dài 430 cây số. Bất kỳ một phi cơ trinh sát nào cũng có thể phát hiện ra tầu ngầm Trung Quốc khi các con tàu này rời cảng và đến nơi tuần tra hay đi xa hơn nữa, ra Thái Binh Dương, lúc các con tàu này đi qua eo biển giữa đảo Luzon của Philippines và vùng phía Nam Đài Loan.
Hơn nữa tàu ngầm loại Tấn (Jin), tức là tàu nguyên tứ phóng tên lửa thế hệ hai hiện nay của Trung Quốc lại rất ồn, do đó rất dễ phát hiện. Cho nên cũng dễ hiểu lý do tại sao Trung Quốc muốn biến cả vùng này thành một lãnh địa của riêng họ.
Ngoài ra, dù muốn hay không, dù có nêu rõ hay không, mục tiêu của Trung Quốc không phải tấn công Mỹ mà là tự bảo vệ mình trước Mỹ, mà muốn tự bảo vệ đối với Mỹ, thì phải làm sao để có thể đưa tàu ngầm của họ đến được nơi mà mục tiêu Mỹ nằm trong tầm bắn của tên lửa phóng đi từ tầu ngầm của họ. Hiện nay, hoả tiễn Cự Lãng (Julang) của Trung Quốc chỉ có tấm bắn 8000 cây số, chưa có khả năng bắn đến Mỹ từ Biển Đông…
Nhìn chung, đó là lý do vì sao Trung Quốc muốn lãnh địa hóa vùng Biển Đông, Trung Quốc cũng không thể chuyển dịch căn cứ tàu ngầm lên phía Bắc, vì Biển Hoa Đông có một thềm lục địa chạy dài đến tận hố Okinawa, không xa bờ biển Nhật Bản lắm, do dó tầu ngầm Trung Quốc khó có thể che giấu hành tung.
Tóm lại nơi kín đáo nhất, hay ít lộ liễu nhất, đối với tàu ngầm Trung Quốc chính là ở phiá Nam, nơi mà họ đang đặt căn cứ Tam Á.
Đấy là tất cả những lý do khiến tôi cho là Trung Quốc muốn lãnh địa hóa, tức là độc chiếm vùng Biển Đông.
Theo tướng Schaeffer, ông không phải là chuyên gia duy nhất nghĩ rằng Trung Quốc muốn lãnh địa hóa vùng Biển Đông. Hiện nay có nhà phân tích đã so sánh chiến lược Trung Quốc đang thực hiện ở Biển Đông với chủ trương Liên Xô trước đây, thiết lập “tiền đồn” tại vùng biển Okhostsk và Barents; người khác thì nói là Trung Quốc đang thực hiện học thuyết Monroe theo kiểu Trung Quốc.
Câu hỏi đặt ra là Việt Nam phải làm gì trước chiến lược đó của Trung Quốc, nhất là khi Việt Nam đang ở trên tuyến đầu. Theo tướng Schaeffer, trong lãnh vực chống lại đường lưỡi bò của Trung Quốc, Việt Nam không lẻ loi, và cần phải vận động, từ khối ASEAN cho đến các nước khác
“Theo tôi thì trước tiên hết Việt Nam không đơn độc. Giờ này thì cả Việt Nam lẫn Philippines đang ở trên tuyến đầu, sắp tới đây tôi cho rằng sẽ đến lượt Indonesia và Malaysia. Vấn đề theo tôi trước hết là giữa các nước trong Hiệp hội Đông Nam Á cần phải có một sự đoàn kết, phải thu hút sự chú ý của quốc tế trên thực tế là các đòi hỏi của Trung Quốc hoàn toàn không phù hợp chút nào với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Cần phải thu hút sự chú ý không chỉ của Hoa Kỳ – nhưng Hoa Kỳ dư biết chuyện này rồi – mà cả của các nước khác trong vùng như Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Liên Hiệp Châu Âu, thậm chí cả các nước châu Mỹ La tinh nữa vì lẽ Biển Đông là một vùng có rất nhiều tuyến hàng hải cực kỳ quan trọng đi qua, và nếu bị Trung Quốc ngăn chặn thì rất phiền.
Dĩ nhiên là Trung Quốc lúc nào cũng thề thốt là họ sẽ không bao giờ ngăn cấm lưu thông hàng hải vân…vân, nhưng mà khi một nước nào có quyền thống trị trên một khu vực, thì ngay cả khi có những lời hứa ngon ngọt, một ngày nào đó mà họ không thích nữa thì họ hoàn toàn có thể cấm tàu bè nước khác qua lại.
Bản thân tôi, tôi không bao giờ tin tưởng vào các cam kết đó của Trung Quốc, cho dù suy cho cùng họ không có lợi lộc gì về mặt kinh tế khi cấm lưu thông hàng hải trên Biển Đông, nhưng điều đó không cấm cản ta đưa ra những giả thuyết, và trong một số trường hợp, giả thuyết về tình huống tệ hại nhất…
Tóm lại, cộng đồng quốc tế cần được hiểu là một ngày nào đó, nếu xảy ra sự cố trong vùng đó, thì không chỉ các nước trong vùng gặp vấn đề, mà tất cả các nước có giao thương với khu vực sẽ bị khó khăn.
Do đó cần phải thuyết phục Trung Quốc cho bằng được là họ phải chấp nhận thương thảo vấn đề chủ quyền trên Biển Đông trên cơ sở Luật biển quốc tế. Nếu cần thì phải đưa ra trước Tòa án Công lý Quốc tế, cho dù phải mất rất nhiều thời gian để chuẩn bị thủ tục hồ sơ – một số người đã nêu ra vấn đề này, nhưng theo tôi thì tranh chấp Biển Đông đã kéo dài cả 60 năm nay rồi, cho nên năm, mười năm chẳng thấm vào đâu…
Theo tướng Schaeffer, Việt Nam phải tiếp tục nỗ lực quốc tế hóa vấn đề. Cho đến nay, Bắc Kinh luôn chống lại điều này vì biết rõ rằng mình bị đuối lý trong lãnh vực pháp lý. Trong những ngày qua, học giả Trung Quốc và Đài Loan loan báo ý định hợp lực với nhau để nghiên cứu cơ sở pháp lý của tấm bản đồ lưỡi bò. Trả lời câu hỏi của RFI về điểm này, tướng Schaeffer không hề ngạc nhiên vì theo ông, trên hồ sơ Biển Đông, Trung Quốc và Đài Loan cùng chung một chiến tuyến :
“Rõ ràng là khi bị tấn công trên vấn đề pháp lý của đường 9 đoạn thì họ phải tìm mọi cách để biện minh. Ở đây tôi rất tâm đắc với câu hỏi của ông vì cho đến nay, khi nói đến tranh chấp Biển Đông, báo chí quốc tế thường liệt kê Đài Loan và các nước Đông Nam Á trong phe những nước chống lại đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc.
Thế nhưng, trong trường hợp Biển Đông, Đài Loan hoàn toàn không đứng về phía các nước Đông Nam Á mà là về phía Trung Quốc, Do đó, trong vấn đề này, phải nói rõ là Đài Loan và Trung Quốc cùng đứng chung chiến tuyến trong cuộc chiến bảo vệ đường 9 điểm !
Hôm qua, ngày 29/10/2012, đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Gary Locke tiết lộ
rằng đã bí mật đến thăm một số tu viện của người Tây Tạng tại tỉnh Tứ
Xuyên, đồng thời kêu gọi chính phủ Bắc Kinh xem xét lại chính sách đối
với người Tây Tạng trong bối cảnh đã có nhiều người Tây Tạng tự thiêu
phản đối chính sách đàn áp của Bắc Kinh.
Các bài thuyết trình rất đa dạng, đề cập đến các vấn đề pháp lý, chính trị, ngoại giao, kinh tế và đặc biệt là quân sự, liên quan đến tình hình căng thẳng hiện nay do tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các láng giềng, đặc biệt là Việt Nam. Trong số các diễn giả, có ông Daniel Schaeffer, một viên tướng người Pháp đã về hưu, từng là tùy viên quân sự tại sứ quán Pháp ở Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc, hiện là chuyên gia nghiên cứu độc lập về Biển Đông và châu Á. Bài thuyết trình của tướng Schaeffer đã nêu bật một chiến lược mà theo ông, Trung Quốc đang áp dụng để gọi là sanctuariser, tạm dịch là lãnh địa hóa Biển Đông, tức là độc chiếm khu vực này bất chấp chủ quyền của các nước khác.
Sau buổi hội thảo, tướng Schaeffer đã đồng ý dành cho RFI một bài phỏng vấn để giải thích rõ hơn về ý muốn chiến lược của Trung Quốc, đã bộc lộ rõ ràng qua việc chính thức tung ra tấm bản đồ 9 đường gián đoạn – bị gọi là đường lưỡi bò – khoanh vùng lãnh thổ của họ hầu như chiếm trọn vùng Biển Đông, để rồi buộc các nước khác chấp nhận, cho dù đòi hỏi của Trung Quốc bị cho là phi lý.
Trước hết, tướng Schaeffer xác định là chính qua việc quan sát các động thái hoàn toàn không có cơ sở pháp lý của Bắc Kinh liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thực thể mà họ gọi là quần đảo Trung Sa mà ông cho rằng Trung Quốc muốn lãnh địa hóa toàn bộ Biển Đông.
“Tôi đã bảo vệ quan điểm này từ hơn một năm nay, ngay từ năm ngoái, nhân Hội nghị Quốc tế về Biển Đông lần thứ III do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ở Hà Nội. Tôi đã có quan điểm này sau khi quan sát cách thức Trung Quốc biện minh cho đường 9 đoạn tại Biển Đông, tức là đường trung tuyến giữa phần mà họ cho là lãnh thổ của họ và phần thuộc chủ quyền các nước khác.
Khi xem xét hoạt động của ngành ngoại giao Trung Quốc, và nhất là các hoạt động trong lãnh vực pháp lý liên quan đến vấn đề quyền trên biển, ta thấy rằng Trung Quốc đã vạch ra chung quanh quần đảo Hoàng Sa những đường cơ sở thẳng, cứ như là đây là một quốc gia quần đảo.
Nhưng dựa vào luật biển, thì điều đó hoàn toàn không có bất kỳ một cơ sở pháp lý nào được chấp nhận trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển… Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ nhì liên quan đến Trường Sa.
Khi Trung Quốc phản ứng vào năm ngoái trước công hàm của Philippines gởi đến Liên Hiệp Quốc đề phản đối các đòi hỏi của Trung Quốc liên quan đến đường 9 đoạn, Bắc Kinh đã cho hiểu rõ ý định vạch ra những đường cơ sở thẳng tương tự chung quanh Trường Sa. Tại vì trong công hàm đưa ra để phản bác các đề nghị của Philippines, Trung Quốc cho biết là đối với họ, quần đảo Trường Sa có quyền có lãnh hải, có vùng tiếp giáp và vùng đặc quyền kinh tế.
Cho nên, khi ta tính đến các lập luận đó, cũng như lập luận về một số bãi đá như James Shoal, hay một mỏm đá khác nằm phía Nam quần đảo Trường Sa – không thuộc quần đảo này nhưng lại ở bên trong đường 9 đoạn – và khi ta nhìn những sự cố liên quan đến bãi Scarborough, thì tất cả những yếu tố đó đều nhằm mục tiêu « vật thể hóa », tức là cụ thể hóa các đòi hỏi căn cứ theo đường 9 đoạn đó
Thêm vào đó, vào hạ tuần tháng Sáu vừa qua (23/06/2012), tập đoàn Dầu khí Hải dương Trung Quốc CNOOC đã kêu gọi các tập đoàn quốc tế đấu thầu để cùng với họ thăm dò, khai thác 9 lô nằm ở ngoài khơi Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh tế kinh tế của Việt Nam, nhưng lại thuộc một vùng lãnh thổ mà Trung Quốc cho là của họ. Đây là một điều đáng sửng sốt vì 9 lô đó nằm ở ngoài khơi ngang tầm với Đà Nẵng.
Theo tướng Schaeffer, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên cái mà họ gọi là « Trung Sa Quần đảo » còn phi lý hơn nữa.
“Thêm vào đó, nếu đi ngược lên phiá Bắc, ta thấy cái mà Trung Quốc gọi là Trung Sa Quần đảo mà quốc tế quen gọi là bãi Macclesfield. Đây là một bãi ngầm, không bao giờ nổi lên trên mặt nước kể cả khí thủy triều thấp. Dó đó, trong mọi trường hợp, bãi này không có quyền có lãnh hải, và lại càng không có quyền hưởng khu đặc quyền kinh tế. Trung Quốc cũng có đòi hỏi tương tự đối với một bãi ngầm khác là Truro Shoal.
Do việc bãi Truro, cũng như bãi Macclesfield, đều không thể có được một vùng đặc quyền kinh tế hay lãnh hải, cho nên Trung Quốc đã gộp hai thực thể này với bãi ngầm Scarborough nằm về phía Philippines, và gọi tập hợp đó là « quần đảo Trung Sa, một loại quần đảo hoàn toàn tưởng tượng không hơn không kém.
Chung quanh đó hiện giờ họ chưa vẽ đường cơ sở thẳng nào, cũng chưa nói đến khả năng đó, nhưng ta có thể suy đoán về việc đó dựa vào những gì xẩy ra trước đây. Giữa quần đảo Hoàng Sa và cái gọi là Trung Sa rất có thể có một sự liên tục về mặt pháp lý, điều đó sẽ cho phép Trung Quốc vạch một đường cấm bược tàu chiến đi qua khu vực phải dừng lại.
Dù sao đi nữa, Trung Quốc hiện đang áp dụng ở vùng đặc khu kinh tế của họ những quy định dùng cho vùng lãnh hải trên vấn đề quyền qua lại một cách vô hại của tàu chiến, có nghĩa là tức là mỗi khi đi qua vùng lãnh hải của Trung Quốc, tàu chiến các nước khác phải xin phép. Phải nói thêm là không chỉ có Trung Quốc, mà Việt Nam, Indonesia cũng áp dụng quy tắc như vậy.
Vấn đề là Trung Quốc lại muốn áp dụng quy tắc kể trên cho vùng biển bên trong đường 9 đoạn được họ coi là vùng đặc quyền kinh tế. Điều đó có nghĩa là khi muốn thì Trung Quốc có thể cấm tất cả các tàu chiến nước ngoài vượt qua đường lưỡi bò đó.
Cho đến nay, các nhà quan sát đã nói rất nhiều về mục tiêu kinh tế của Trung Quốc trong việc tìm cách độc chiếm Biển Đông, tức là để chiếm đoạt nguồn dầu khí được cho là dồi dào trong khu vực. Tuy nhiên, như tướng Schaeffer đã phân tích ở trên, vấn đề quân sự là một nhân tố tối quan trọng. Và việc lãnh địa hóa Biển Đông sẽ cho phép Bắc Kinh triển khai hạm đội tàu ngầm của họ một cách an toàn hơn, dự phòng khi phải tấn công vào Mỹ. Ông giải thích :
“Khi nhìn trên bản đồ, ta thấy ở Tam Á (phía Nam đảo Hải Nam) có căn cứ hải quân nơi Trung Quốc đặt các tàu ngầm phóng tên lửa của họ
Giữa căn cứ Tam Á này và vùng sâu đầu tiên ở Biển Đông, nơi mà các tàu ngầm nguyên tử Trung Quốc có thể tuần tra một cách yên ổn, là một khoảng cách dài 430 cây số. Bất kỳ một phi cơ trinh sát nào cũng có thể phát hiện ra tầu ngầm Trung Quốc khi các con tàu này rời cảng và đến nơi tuần tra hay đi xa hơn nữa, ra Thái Binh Dương, lúc các con tàu này đi qua eo biển giữa đảo Luzon của Philippines và vùng phía Nam Đài Loan.
Hơn nữa tàu ngầm loại Tấn (Jin), tức là tàu nguyên tứ phóng tên lửa thế hệ hai hiện nay của Trung Quốc lại rất ồn, do đó rất dễ phát hiện. Cho nên cũng dễ hiểu lý do tại sao Trung Quốc muốn biến cả vùng này thành một lãnh địa của riêng họ.
Ngoài ra, dù muốn hay không, dù có nêu rõ hay không, mục tiêu của Trung Quốc không phải tấn công Mỹ mà là tự bảo vệ mình trước Mỹ, mà muốn tự bảo vệ đối với Mỹ, thì phải làm sao để có thể đưa tàu ngầm của họ đến được nơi mà mục tiêu Mỹ nằm trong tầm bắn của tên lửa phóng đi từ tầu ngầm của họ. Hiện nay, hoả tiễn Cự Lãng (Julang) của Trung Quốc chỉ có tấm bắn 8000 cây số, chưa có khả năng bắn đến Mỹ từ Biển Đông…
Nhìn chung, đó là lý do vì sao Trung Quốc muốn lãnh địa hóa vùng Biển Đông, Trung Quốc cũng không thể chuyển dịch căn cứ tàu ngầm lên phía Bắc, vì Biển Hoa Đông có một thềm lục địa chạy dài đến tận hố Okinawa, không xa bờ biển Nhật Bản lắm, do dó tầu ngầm Trung Quốc khó có thể che giấu hành tung.
Tóm lại nơi kín đáo nhất, hay ít lộ liễu nhất, đối với tàu ngầm Trung Quốc chính là ở phiá Nam, nơi mà họ đang đặt căn cứ Tam Á.
Đấy là tất cả những lý do khiến tôi cho là Trung Quốc muốn lãnh địa hóa, tức là độc chiếm vùng Biển Đông.
Theo tướng Schaeffer, ông không phải là chuyên gia duy nhất nghĩ rằng Trung Quốc muốn lãnh địa hóa vùng Biển Đông. Hiện nay có nhà phân tích đã so sánh chiến lược Trung Quốc đang thực hiện ở Biển Đông với chủ trương Liên Xô trước đây, thiết lập “tiền đồn” tại vùng biển Okhostsk và Barents; người khác thì nói là Trung Quốc đang thực hiện học thuyết Monroe theo kiểu Trung Quốc.
Câu hỏi đặt ra là Việt Nam phải làm gì trước chiến lược đó của Trung Quốc, nhất là khi Việt Nam đang ở trên tuyến đầu. Theo tướng Schaeffer, trong lãnh vực chống lại đường lưỡi bò của Trung Quốc, Việt Nam không lẻ loi, và cần phải vận động, từ khối ASEAN cho đến các nước khác
“Theo tôi thì trước tiên hết Việt Nam không đơn độc. Giờ này thì cả Việt Nam lẫn Philippines đang ở trên tuyến đầu, sắp tới đây tôi cho rằng sẽ đến lượt Indonesia và Malaysia. Vấn đề theo tôi trước hết là giữa các nước trong Hiệp hội Đông Nam Á cần phải có một sự đoàn kết, phải thu hút sự chú ý của quốc tế trên thực tế là các đòi hỏi của Trung Quốc hoàn toàn không phù hợp chút nào với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Cần phải thu hút sự chú ý không chỉ của Hoa Kỳ – nhưng Hoa Kỳ dư biết chuyện này rồi – mà cả của các nước khác trong vùng như Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Liên Hiệp Châu Âu, thậm chí cả các nước châu Mỹ La tinh nữa vì lẽ Biển Đông là một vùng có rất nhiều tuyến hàng hải cực kỳ quan trọng đi qua, và nếu bị Trung Quốc ngăn chặn thì rất phiền.
Dĩ nhiên là Trung Quốc lúc nào cũng thề thốt là họ sẽ không bao giờ ngăn cấm lưu thông hàng hải vân…vân, nhưng mà khi một nước nào có quyền thống trị trên một khu vực, thì ngay cả khi có những lời hứa ngon ngọt, một ngày nào đó mà họ không thích nữa thì họ hoàn toàn có thể cấm tàu bè nước khác qua lại.
Bản thân tôi, tôi không bao giờ tin tưởng vào các cam kết đó của Trung Quốc, cho dù suy cho cùng họ không có lợi lộc gì về mặt kinh tế khi cấm lưu thông hàng hải trên Biển Đông, nhưng điều đó không cấm cản ta đưa ra những giả thuyết, và trong một số trường hợp, giả thuyết về tình huống tệ hại nhất…
Tóm lại, cộng đồng quốc tế cần được hiểu là một ngày nào đó, nếu xảy ra sự cố trong vùng đó, thì không chỉ các nước trong vùng gặp vấn đề, mà tất cả các nước có giao thương với khu vực sẽ bị khó khăn.
Do đó cần phải thuyết phục Trung Quốc cho bằng được là họ phải chấp nhận thương thảo vấn đề chủ quyền trên Biển Đông trên cơ sở Luật biển quốc tế. Nếu cần thì phải đưa ra trước Tòa án Công lý Quốc tế, cho dù phải mất rất nhiều thời gian để chuẩn bị thủ tục hồ sơ – một số người đã nêu ra vấn đề này, nhưng theo tôi thì tranh chấp Biển Đông đã kéo dài cả 60 năm nay rồi, cho nên năm, mười năm chẳng thấm vào đâu…
Theo tướng Schaeffer, Việt Nam phải tiếp tục nỗ lực quốc tế hóa vấn đề. Cho đến nay, Bắc Kinh luôn chống lại điều này vì biết rõ rằng mình bị đuối lý trong lãnh vực pháp lý. Trong những ngày qua, học giả Trung Quốc và Đài Loan loan báo ý định hợp lực với nhau để nghiên cứu cơ sở pháp lý của tấm bản đồ lưỡi bò. Trả lời câu hỏi của RFI về điểm này, tướng Schaeffer không hề ngạc nhiên vì theo ông, trên hồ sơ Biển Đông, Trung Quốc và Đài Loan cùng chung một chiến tuyến :
“Rõ ràng là khi bị tấn công trên vấn đề pháp lý của đường 9 đoạn thì họ phải tìm mọi cách để biện minh. Ở đây tôi rất tâm đắc với câu hỏi của ông vì cho đến nay, khi nói đến tranh chấp Biển Đông, báo chí quốc tế thường liệt kê Đài Loan và các nước Đông Nam Á trong phe những nước chống lại đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc.
Thế nhưng, trong trường hợp Biển Đông, Đài Loan hoàn toàn không đứng về phía các nước Đông Nam Á mà là về phía Trung Quốc, Do đó, trong vấn đề này, phải nói rõ là Đài Loan và Trung Quốc cùng đứng chung chiến tuyến trong cuộc chiến bảo vệ đường 9 điểm !
Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc kêu gọi Bắc Kinh thay đổi chính sách về Tây Tạng
Ông Gary Locke, đại sứ Mỹ tại Trung Quốc -AFP
Trả lời từ Bắc Kinh cho một diễn đàn mạng tại Hoa Kỳ, đại sứ Gary
Locke cho biết, hồi tháng rồi, nhân chuyến đi công tác tại một số thành
phố ở tỉnh Tứ Xuyên để cổ vũ các doanh nhân Hoa Kỳ đang làm ăn tại Trung
Quốc, ông đã đến thăm một số tu viện ở thị trấn Aba, tỉnh Tứ Xuyên. Ông
cho biết : «Chúng tôi rất lấy làm quan ngại về tình trạng bạo lực và
các vụ tự thiêu thời gian qua ». Nhân đó, đại sứ Locke kêu gọi chính phủ
Bắc Kinh tôn trọng tôn giáo, văn hóa và ngôn ngữ của người Tây Tạng.
Ông nhấn mạnh: “Chúng tôi kêu gọi chính phủ Bắc Kinh gặp gỡ đại diện của
người Tây Tạng để bàn thảo và xem xét lại một số chính sách đã dẫn đến
làn sóng bạo lực và tự thiêu ».
Hoa Kỳ đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi chính phủ Trung Quốc nhẹ tay hơn đối với người Tây Tạng. Tuy nhiên, trường hợp lần này của đại sứ Locke khá đặc biệt, bởi ông đã đi thực địa, và lạ hơn nữa là bởi vì tại Trung Quốc thật hi hữu trường hợp những quan chức hay báo đài nước ngoài có thể tới thăm các địa phương mà không có sự giám sát của chính quyền Trung Quốc.
Ông Locke là người Mỹ gốc Trung Quốc đầu tiên được bổ nhiệm làm đại sứ tại Trung Quốc. Được biết, ông rất được lòng người TrunG Quốc do thái độ khiêm tốn của ông.
Nói về làn sóng tự thiêu tại Tây Tạng, từ tháng 1/2009 đến nay, người Tây Tạng, mà đa số là các nhà sư, đã không ngừng tự thiêu để biểu thị sự phản đối chính sách đàn áp chính trị, tôn giáo và văn hóa của chính phủ Bắc Kinh. Tuần rồi, cũng đã có 7 trường hợp tự thiêu như vậy.
Hoa Kỳ đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi chính phủ Trung Quốc nhẹ tay hơn đối với người Tây Tạng. Tuy nhiên, trường hợp lần này của đại sứ Locke khá đặc biệt, bởi ông đã đi thực địa, và lạ hơn nữa là bởi vì tại Trung Quốc thật hi hữu trường hợp những quan chức hay báo đài nước ngoài có thể tới thăm các địa phương mà không có sự giám sát của chính quyền Trung Quốc.
Ông Locke là người Mỹ gốc Trung Quốc đầu tiên được bổ nhiệm làm đại sứ tại Trung Quốc. Được biết, ông rất được lòng người TrunG Quốc do thái độ khiêm tốn của ông.
Nói về làn sóng tự thiêu tại Tây Tạng, từ tháng 1/2009 đến nay, người Tây Tạng, mà đa số là các nhà sư, đã không ngừng tự thiêu để biểu thị sự phản đối chính sách đàn áp chính trị, tôn giáo và văn hóa của chính phủ Bắc Kinh. Tuần rồi, cũng đã có 7 trường hợp tự thiêu như vậy.
Mỹ quan ngại việc hai nhạc sỹ bị xử tù
– BBC
Sứ quán Mỹ tại Việt Nam vừa bày tỏ quan ngại về việc hai
ông Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình bị Tòa án TP HCM xử 4 và 6
năm tù giam vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước.
Phát ngôn viên của tòa đại sứ, ông Christopher Hodges, nói trong một thông cáo: “Việc kết án tù này là hành động mới nhất trong một loạt các động thái của chính phủ Việt Nam nhằm hạn chế tự do ngôn luận”.
“Chính phủ Việt Nam phải trả tự do cho nhạc sỹ [Việt Khang] cũng như tất cả các tù nhân lương tâm và tuân thủ ngay lập tức các bổn phận quốc tế của mình.”
Hai nhạc sỹ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình đã bị tòa tuyên án lần lượt là 4 và 6 năm tù trong phiên tòa kết thúc sáng thứ Ba ngày 30/10 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra cả hai nhạc sỹ này đều phải chịu 2 năm quản chế sau khi mãn hạn tù, luật sư bào chữa cho Việt Khang là Trần Vũ Hải đã xác nhận với BBC sau khi phiên tòa kết thúc chóng vánh vào lúc 12h30.
Nhạc sỹ Việt Khang, 34 tuổi, tên thật là Võ Minh Trí và nhạc sỹ Trần Vũ Anh Bình, 37 tuổi, nghệ danh là Hoàng Nhất Thống, đã bị bắt hồi cuối năm ngoái và bị giam giữ cho đến nay.
Hai ông bị truy tố theo điều 88 Bộ Luật hình sự về tội Tuyên truyền chống Nhà nước.
Lý do, ông Hải giải thích, là do các luật sư phản bác và đề nghị Viện kiểm sát ‘trưng ra lý do thế nào là đặc biệt nghiêm trọng’ và Viện kiểm sát đã ‘lúng túng trong vấn đề này’.
“Tại phiên tòa tôi đã đề nghị tòa rất thận trọng khi xử vụ
án này. Người ta sẽ nhầm rằng chỉ vì 1,2 bài hát mà xử
nặng như vậy,” ông Hải nói và nói thêm rằng ‘chưa nhìn thấy
nhà nước nào, chế độ nào, kể cả chế độ trước đây’ làm như
thế.
Ông cho biết cơ sở để bên công tố buộc tội nhạc sỹ Việt Khang tội ‘Tuyên truyền chống Nhà nước’ là hai bài hát ông sáng tác có tựa đề là ‘Việt Nam tôi đâu’ và ‘Anh là ai’ và việc ông tham gia vào một tổ chức chống chính quyền có tên gọi ‘Tuổi trẻ yêu nước’.
Tại phiên tòa, Việt Khang đã tự bào chữa rằng hai bài hát đó chỉ ‘nói lên nỗi lòng’ của ông và ‘chống lại việc Trung Quốc đang hoành hành trên Biển Đông’, theo lời kể của luật sư Hải.
“Ông ấy (Việt Khang) khẳng định không có bất kỳ ý đồ chính trị gì. Những bài hát ông viết là từ nguồn cảm hứng và ông cũng mong muốn được đoàn tụ với gia đình,” ông nói.
Tuy nhiên, ông Khang đã thừa nhận khi nghe hai bài hát này ‘người ta sẽ không hài lòng với Nhà nước’ nhưng ông cũng cho biết là câu cuối của ông trong bài hát ‘Việt Nam yêu nước’ đã bị ‘một cộng sự từ nước ngoài đổi lại’.
Ông Khang giải thích rằng câu này ông không viết là ‘chống bè lũ bán nước’ mà là ‘chống quân xâm lược cướp nước’.
Trong khi đó, theo lời ông Hải, Viện kiểm sát lại cho rằng chỉ cần có tham gia vào tổ chức này ‘đã là tuyên truyền chống Nhà nước rồi’ vì đây là hoạt động ‘có tổ chức’ và các bài hát của nhạc sỹ Việt Khang ‘thể hiện thái độ của ông khi tham gia tổ chức này’.
Luật sư Hải đã lập luận bào chữa rằng bài hát ‘Anh là ai’ của Việt Khang chỉ ‘phê phán cách giải quyết của chính quyền đối với người biểu tình bị ngăn chặn’ chứ ‘không phải chống Nhà nước’.
Mặt khác, ông cho rằng kết luận của các giám định viên hai
bài hát nói trên là ‘thiếu chính xác, thiếu căn cứ và cẩu
thả’.
Tuy nhiên, yêu cầu của luật sư triệu tập các giám định viên thì tòa ‘cho rằng không cần thiết và theo luật không bắt buộc’.
Ngoài ra, ông Hải nói ông không có gì phàn nàn về trình tự tố tụng tại tòa. Theo ông thì các bị cáo đều được nói những gì muốn nói và thậm chí còn tạo điều kiện để trình bày thêm khi đã hết giờ.
Về bản án của nhạc sỹ Trần Vũ Anh Bình, ông giải thích nặng hơn là vì ông Bình có vai trò lớn hơn trong tổ chức ‘Tuổi trẻ yêu nước’.
Theo đó, ông Bình đã tham gia quản lý, đăng tải bài hát và tin tức lên trang mạng của tổ chức này. Ông cũng bị cáo buộc tham gia rải truyền đơn và treo cờ vàng ba sọc của chế độ cũ rồi chụp ảnh đưa lên mạng.
Nhận xét về bản án đối với ông Khang, ông Hải nói rằng ‘tạm thời ông ghi nhận việc tòa chấp nhận xử theo khoản 1’ và hy vọng phiên phúc thẩm sẽ có kết quả tốt hơn.
“Chúng tôi chỉ muốn các thân chủ được trả tự do tại phiên
tòa nếu không được thì cũng được mức án thấp nhất,” ông nói.
“Tôi nghĩ bản án này nhà nước Việt Nam cũng cần xem xét lại vì sẽ tạo ra dư luận không tốt cho Việt Nam,” ông nói thêm.
Ngay trước thềm phiên xử, vào chiều hôm qua ngày 29/10, Tổ chức Ân xá quốc tế đã kêu gọi thả tự do ‘ngay lập tức và vô điều kiện’ cho hai nhạc sỹ này.
“Thật lố bịch khi đối xử như vậy với những người này chỉ vì họ sáng tác các bài hát,” ông Rupert Abbott, nhà nghiên cứu về Việt Nam của Ân xá quốc tế, phát biểu trong thông cáo.
“Đây là những tù nhân lương tâm. Họ bị bắt giữ chỉ vì họ đã thực hiện quyền tự do ngôn luận một cách hòa bình bằng những bài hát và những hành động phi bạo lực.”
“Thay vì cố gắng bịt miệng giới trẻ Việt Nam, chính phủ nước này nên cho phép họ bày tỏ ý kiến và có tiếng nói trong quá trình phát triển của đất nước,” ông nói thêm.
Đại biểu Trần Du Lịch cho rằng “vòng kim cô” nợ xấu đang giết chết doanh nghiệp – Ảnh: CTV
Ở các mức độ quan ngại khác nhau, nợ xấu vẫn xuất hiện tại hầu hết các phát biểu tại phiên thảo luận đầu tiên tại hội trường của Quốc hội về tình hình kinh tế, xã hội sáng 30/10.
Trước đó, khi thảo luận tại tổ, liên quan đến tài chính tiền tệ, nhiều đại biểu đã “phê” báo cáo của Chính phủ chưa đánh giá khách quan, cụ thể, minh bạch tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng, thông tin thống kê không thống nhất khi có tới ba loại số liệu khác nhau.
Đại biểu Cao Sỹ Kiêm, mở đầu phiên thảo luận sáng nay cho rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến yếu kém của nền kinh tế hiện nay là một số lĩnh vực chưa được đánh giá đúng và chưa được kiểm soát chặt chẽ, số liệu chưa tin cậy, giải pháp còn nửa vời và hay thay đổi. Động lực phấn đấu đang mất dần, doanh nghiệp trong nước có tư tưởng chờ thời, một số nhà đầu tư nước ngoài rời khỏi thị trường, ông Kiêm quan ngại.
Nhìn nhận tình hình năm 2013 rất khó khăn và nặng nề, đại biểu Kiêm đề nghị phải tìm mọi cách để kiểm soát đánh giá thực chất tình hình nhất là các vấn đề đã được nhận lỗi qua kiểm điểm theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4. Đồng thời công bố nhanh giải pháp cho nợ xấu, tồn kho bằng các chính sách sát đúng để có thể bắt nhập vào thực tiễn.
Ủng hộ chỉ tiêu tăng trưởng GDP 5,5% vào năm sau, đại biểu Trần Du Lịch (Tp.HCM) dành cả thời gian 7 phút đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế.
Ông đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình (đang có mặt tại hội trường) quan tâm đến tình trạng quay vòng nợ xấu, ngân hàng huy động vốn trên 9% và doanh nghiệp đi vay không còn mức lãi suất 15%.
Theo ông “vòng kim cô” nợ xấu đang có dấu hiệu ngày một siết chặt, làm chết không biết bao nhiêu doanh nghiệp, cần sớm được giải quyết.
Đại biểu Lịch cũng đề nghị làm ấm dần thị trường bất động sản bằng tín dụng và chính sách tiền tệ, bên cạnh đó cũng không thể xem thường thị trường vàng, khi thời gian qua dường như việc quản lý thị trường này còn thiếu cân nhắc.
“Ngân hàng Nhà nước cần công khai minh bạch các tiêu chí về tái cơ cấu ngân hàng. Nếu không làm được điều này, dù công tâm đến đâu chúng ta cũng vẫn bị nghi ngờ và mất niềm tin”, ông Lịch phát biểu.
Với chính sách tài khóa, ông Lịch đề nghị Chính phủ nên tiếp tục kéo dài các chương trình hỗ trợ theo tinh thần Nghị quyết 13 đến hết năm sau. Đồng thời, nên áp dụng ngay Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) với mức giảm trừ gia cảnh mới từ 1/1/2013.
Cũng như nhiều ý kiến khác, vị đại biểu này cũng đề nghị cần tăng lương theo lộ trình, đồng thời tiếp tục cắt giảm 10% chi thường xuyên trong năm 2013, so với mức thực chi trong năm 2012.
Nhấn mạnh phải xây dựng bằng được một lộ trình tái cơ cấu trong vòng 3 năm tới chứ không thể ăn đong từng năm một như hiện nay, ông Lịch cũng nhắc lại đề nghị đã được đưa ra tại phiên thảo luận tổ về thành lập ủy ban quốc gia tái cơ cấu nền kinh tế, vì “nếu làm theo kiểu hiện nay tôi không tin từng bộ ngành có thể làm được”.
Quan ngại nợ xấu đã vượt quá kiểm soát, đại biểu Dương Hoàng Hương (Phú Thọ) đề nghị việc này phải được làm khẩn trương và quyết liệt với số liệu thống nhất và làm rõ nguồn gốc phát sinh của các khoản nợ.
Theo đại biểu Bùi Đức Thụ (Lai Châu) để xử lý hàng tồn kho và nợ xấu một cách căn cơ thì cần đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế. Còn việc thành lập công ty mua bán nợ thực chất chỉ chuyển nợ từ hệ thống ngân hàng ra khỏi hệ thống này mà thôi.
Ý kiến của đại biểu Lê Hữu Đức (Khánh Hòa) là cần kiên quyết dừng hoạt động các ngân hàng nhỏ, yếu kém đang gây xáo trộn thị trường.
Còn theo quan điểm của đại biểu Huỳnh Ngọc Đáng thì xử lý nợ xấu khác mua bán nợ xấu. Ủng hộ chủ trương của Chính phủ không dùng ngân sách để xử lý nợ, ông cho rằng không nên lúc nào cũng dựa vào ngân sách. “Tăng lương còn không có nguồn thì sao có thể đem tiền ngân sách đi mua nợ xấu, nếu năng động hơn thì đem nợ xấu “chào hàng” các tổ chức quốc tế”, ông Đáng gợi ý.
Chiều nay, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế xã hội.
Cho rằng xử lý nợ xấu là trách nhiệm của nhiều cơ quan, trong đó có
cả Quốc hội và Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng khẳng định chỉ riêng cá
nhân ông thì không thể hứa gì về quá trình này.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng có mặt trong phiên thảo luận của Quốc
hội ngày 30/10, để lắng nghe ý kiến của các đại biểu về tình hình kinh
tế xã hội 2012-2013. Chưa phải là phiên chất vấn, nhưng do nhiều đại
biểu quan tâm tới lĩnh vực ngân hàng, Thống đốc Nguyễn Văn Bình được Phó
chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị phát biểu. Người đứng đầu
ngành ngân hàng chỉ xin phép nói về 2 vấn đề nhức nhối nhất là xử lý nợ
xấu và tái cơ cấu các tổ chức tín dụng.
Tuần trước, Chánh thanh tra Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Hữu Nghĩa cho biết chưa có con số cập nhật chính xác, nhưng về tỷ lệ, nợ xấu vẫn dao động 8-10%. Từ quý I đến nay, các ngân hàng đã xử lý được 36.000 tỷ đồng nợ xấu, họ cũng trích lập dự phòng rủi ro hơn 70.000 tỷ đồng.
Đề án lập công ty quốc gia về mua bán nợ xấu mà Ngân hàng Nhà nước đang hoàn tất có mục tiêu xử lý 60.000-100.000 tỷ đồng nữa.
Nhắc lại rằng những vấn đề xung quanh việc xử lý nợ xấu đã được trình bày kỹ lưỡng trong phiên chất vấn tại Ủy ban Thường vụ hồi cuối tháng 8, Thống đốc Bình cho biết chỉ đề nghị được “mượn” diễn đàn Quốc hội để tái khẳng định rằng nợ xấu không phải là một con số duy nhất mà “biến động hàng ngày”. Nhận định này được ông đưa ra trước nhiều ý kiến cho rằng các thống kê nợ xấu của cơ quan quản lý hiện không thống nhất.
“Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hiện chưa có một bộ tiêu chí nào được coi là thống nhất để tính toán nợ xấu. Tuy nhiên, người ta đều thống nhất rằng con số do cơ quản quản lý, trong trường hợp này là Ngân hàng Nhà nước, đưa ra là có cơ sở nhất”, ông Bình nói. Theo người đứng đầu ngành ngân hàng, diễn biến nợ xấu từ đầu năm 2012 đến nay rất thống nhất với diễn biến của nền kinh tế: “Tăng mạnh đầu năm, kể từ tháng 6 thì tăng chậm hẳn lại”.
Về trách nhiệm giải quyết nợ xấu, Thống đốc Bình cho rằng nếu chỉ đơn thuần là nợ giữa ngân hàng và doanh nghiệp thì trách nhiệm đương nhiên thuộc về 2 đối tượng này. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng trong số tài sản thế chấp của doanh nghiệp có rất nhiều hàng tồn kho (đã được thế chấp để vay vốn). Do đó việc tiêu thụ hàng tồn cũng có đóng góp quan trọng vào việc giải quyết nợ xấu.
“Hiện nợ đọng tiền xây dựng cơ bản ở các địa phương lên tới hơn 90.000 tỷ đồng. Nếu giải quyết được số này thì nợ xấu cũng giảm được đáng kể. Ngoài ra, nợ đọng vốn bất động sản khác hiện cũng rất lớn”, Thống đốc nói.
Về đề án xử lý nợ xấu, ông Bình cho biết đã được Ngân hàng Nhà nước hoàn thành, và hiện đang ở giai đoạn xin ý kiến Bộ Chính trị do còn liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan khác như Chính phủ, Quốc hội. “Với tư cách là Thống đốc, tôi không thể hứa gì về việc giải quyết nợ xấu. Tuy nhiên, theo đề án, đến năm 2015, sẽ phấn đấu đưa nợ xấu về mức thông thường, tức là khoảng 3%”, ông Bình phát biểu.
Trong phần phát biểu của mình, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng dành thời gian để nói nhiều về tiến độ thực hiện đề án tái cơ cấu ngân hàng. Ông cũng lưu ý rằng bên cạnh việc mua bán, sáp nhập, quá trình này còn bao gồm nhiều nội dung khác như làm lành mạnh hóa tài chính các ngân hàng, vốn đang thu được nhiều kết quả tích cực.
Về việc xử lý các ngân hàng yếu kém Thống đốc cho biết Chính đã thành lập ban chỉ đạo liên ngành, do Phó thủ tướng làm trưởng ban. Tại mỗi ngân hàng được xử lý cũng có ban chỉ đạo riêng “Như vậy, quá trình xử lý ngân hàng thương mại không phải chỉ có ý kiến của Ngân hàng Nhà nước còn nhiều cơ quan, bộ ngành”, ông Bình nói.
Căn cứ vào những tiêu chí đánh giá cụ thể, đã có trong luật, người đứng đầu ngân hàng cho biết một mặt đang thực hiện thanh tra tại chỗ đối với 26 tổ chức tín dụng trong năm nay. Mặt khác, cơ quan quản lý cũng mời các hãng kiểm toán độc lập để đánh giá sức khỏe ngân hàng. “Kết quả ban đầu cho thấy những tổ chức tín dụng yếu kém, cần tái cơ cấu đều rất xứng đáng”, ông nói.
Ngoài ra, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng cho biết Ngân hàng Nhà nước đang trong giai đoạn thống nhất với các tổ chức tín dụng về phương án xử lý, trên cơ sở tôn trọng tính tự nguyện của các nhà băng này. Ông cũng cam kết ngay khi có được kết quả cuối cùng, các con số cũng như phương án tái cơ cấu cụ thể sẽ được Ngân hàng Nhà nước công bố.
Nhật Minh – Thanh Lan
Trong khi đó, có khoảng 6.000 doanh nghiệp được thành lập trong tháng 10. Tính chung 10 tháng, cả nước có hơn 57.000 doanh nghiệp mới được thành lập, trong khi đó có 41.200 doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động. Con số này giảm 7,4% so với cùng kỳ năm 2011.
Tồn kho nặng nề nằm ở lĩnh vực xây dựng và bất động sản.
Cùng với đó, sản xuất công nghiệp phục hồi dần. Chỉ số sản xuất công
nghiệp (IIP) của tháng 10 đã tăng 5,8% so tháng 9, là mức tăng khá so
với 4,6% của tháng 9/2012.
Tuy nhiên, điều này không hẳn là chỉ báo cho thấy tình hình khó khăn đối với kinh tế đã giảm đi. Trong các báo cáo lần này không cho thấy được cầu tiêu dùng có tăng lên hay không thông qua chỉ số bán lẻ.
Đến hôm 29/10, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Công thương, cơ quan này cũng thông báo, tính đến 1/10, chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã tăng 1,3% so tháng trước và tăng 20,3% so cùng kỳ. Mặc dù cho biết, phản ánh của các Hiệp hội ngành nghề trực thuộc Bộ đều cho thấy đây là mức tồn kho chấp nhận được cho hoạt động cuối năm cũng như đảm bảo hàng hóa Tết, song không thể khẳng định tình hình doanh nghiệp đã khá lên.
Vấn đề còn nằm ở việc, mặc dù thanh khoản trong hệ thống ngân hàng được cải thiện đáng kể song dường như nền kinh tế rất khó hấp thụ vốn.
Tổng dư nợ tín dụng (bao gồm cả đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác) của nền kinh tế hiện nay so với thời điểm 31/12/2011 mới chỉ tăng 2,77% – đây là mức rất thấp và còn cách rất xa so với kế hoạch tăng trưởng tín dụng mà NHNN đã đặt ra.
Trong khi đó, vốn huy động chảy vào ngân hàng tăng mạnh. Tính đến ngày 19/10/2012, so với 31/12/2011, tổng dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 14,2%. Lãi suất cho vay ghi nhận giảm 5-8% so cuối năm 2011. Trong đó, cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, lãi suất phổ biến ở mức 11-13%. Lãi suất cho vay ở những lĩnh vực kinh doanh sản xuất khác ở mức 14-17%/năm.
Như vậy, bài toán đặt ra ở đây, nếu như lãi suất cho vay hạ (trên ghi nhận của cơ quan chức năng) nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất cuối năm, song nguồn vốn chảy vào doanh nghiệp vẫn chưa cao, tức mục tiêu mà NHNN đặt ra chưa thật sự đạt được.
Theo một số cảnh báo, nếu phần thanh khoản dư thừa tại các ngân hàng không được sử dụng hợp lý thì sẽ có thể tạo ra những hệ lụy xấu cho nền kinh tế, khi không chảy vào lĩnh vực sản xuất và cũng không giúp doanh nghiệp mở rộng được sản xuất kinh doanh. Đây là yếu tố có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát quay trở lại, hoặc vốn sẽ chảy vào bất động sản và chứng khoán.
Cũng theo ghi nhận của cơ quan thống kê, lũy kế đến 15/10/2012, tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước đạt gần 523,4 nghìn tỷ đồng, bằng 70,7% dự toán, trong khi tổng chi NSNN ước đạt gần 678,6 nghìn tỷ đồng, bằng 75,1% dự toán. Như vậy, tính đến giữa tháng 10, NSNN đang thâm hụt 155,2 nghìn tỷ đồng.
Với tình hình doanh nghiệp vẫn còn khó khăn như hiện nay, thậm chí, nhiều phản ánh cho biết, lãi suất ngân hàng đã bị đẩy lên đến 21%/năm, trong khi chính sách tăng thu của Chính phủ nếu không được thực hiện một cách khéo léo và hợp lý sẽ có thể khiến doanh nghiệp đã khó lại khó hơn. Điều dễ hiểu, doanh nghiệp trong bối cảnh hiện tại, khi đầu ra còn “phập phù” sẽ không dám vay thêm để gánh chi phí lãi. Chính điều này là nguy cơ khiến thu ngân sách năm sau có thể bị ảnh hưởng.
Bích Diệp
Chỉ số tồn kho và sản xuất công nghiệp 10 tháng (VnEc)
Tồn kho tăng cao, thách thức ở phía cầu?(VnEc)
Diễn biến kinh tế, nhìn từ… chỉ số tồn kho(VnEc)
Mỗi chỉ số thống kê khi được công bố đều có lý và có ý nghĩa riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, có những con số thống kê bị xem là bi quan thái quá, tạo hiệu ứng không tốt cho xã hội. Điển hình là chỉ số tồn kho.
Bất đồng, bất phục
Tại kỳ họp giao ban sản xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ số tồn kho được công bố tại thời điểm 1/10/2012 của ngành công nghiệp chế biến tăng 20,3% so với cùng thời điểm năm trước.
Tổng cục Thống kê cho rằng, mặc dù mức tồn kho còn cao nhưng đã có xu hướng giảm dần trong mấy tháng gần đây (thời điểm 1/5 tăng 29,4%; 1/6 tăng 26%; 1/7 tăng 21%; 1/8 tăng 20,8%; 1/9 tăng 20,4%).
Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao, gồm: chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm thủy sản tăng 23,9%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng: 32%; May trang phục tăng 48%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 55,1%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 56,5%; sản xuất xi măng tăng 53,1%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 38%…
Tuy nhiên, con số này đã không được đại diện các bộ nhất trí.
Vị đại diện này lý giải, trong 10 tháng đầu năm, sản xuất xi măng đạt 46,5 triệu tấn so với kế hoạch cả năm (56 triệu tấn), tương ứng đạt được 80% kế hoạch. Theo báo cáo của Bộ Xây dựng thì tồn kho xi măng vào khoảng 2,6 triệu tấn, tương đương 15-18 ngày sản xuất. Đây là một con số bình thường, do đặc thù của ngành là luôn luân chuyển sản xuất. Trong khi, con số tồn kho theo Tổng cục Thống kê tăng những 51,3%, khiến người ngoài không biết nội tình sẽ lo ngại là dư thừa lớn.
Ông này cũng cho biết, trong điều kiện khó khăn hiện nay, các doanh nghiệp đều phải sản xuất cầm chừng, nếu hàng không bán được, thì họ cũng chẳng dại gì mà sản xuất ra quá nhiều.
Trước sự lý giải của Bộ Xây dựng, một đại biểu tại cuộc họp lo ngại, nếu làm kế hoạch theo con số của thống kê thì sẽ phải hạn chế sản xuất, và khi giải pháp thay đường nhựa bằng đường bê tông để thúc đẩy ngành công nghiệp xây dựng thì lúc đó, xi măng không phải dư thừa mà sẽ thành thiếu cung.
Đại diện Bộ Công Thương cũng “không phục” chỉ số tồn kho mà Tổng cục Thống kê đưa ra. Theo vị này, cần kiểm tra lại chỉ số tồn kho. Cần làm rõ chỉ số tồn kho thế nào là chuẩn? Rõ ràng, chỉ số tồn kho do Tổng cục Thống kê đưa ra là cao, nhưng đến hỏi doanh nghiệp, họ lại bảo bình thường. “Điều này khiến việc làm kế hoạch rất khó khăn”, vị này cho biết.
Chia sẻ điều này, ông Bùi Hà, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đề nghị cần phải xem xét lại chỉ số này khi công bố, vì hiện nay vấn đề tồn kho đang được xem là “nút thắt” của nền kinh tế. Vì thế, phải tính toán chính xác thì mới tháo được nút.
Chỉ số tồn kho và…
Trước băn khoăn của đại diện các bộ về tính đúng đắn của chỉ số tồn kho, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm cho biết, không có chuyện sai, vì đã thống kê theo thông lệ quốc tế.
Theo ông Lâm, hiện nay, trên thế giới đang sử dụng rất nhiều chỉ số tồn kho được tính trên các cơ sở khác nhau. Có thể là chỉ số tồn kho so với tổng mức, tồn kho so với công suất thiết kế, tồn kho so với khả năng tiêu thụ…
Còn chỉ số tồn kho do Tổng cục Thống kê công bố là số liệu so với cùng kỳ, tức là chỉ số của 10 tháng năm 2011.
Trước cuộc tranh luận này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh đề nghị Tổng cục Thống kê nên bổ sung thêm hệ thống chỉ tiêu tồn kho so với tổng (để tính chính xác tồn kho các mặt hàng). Có như vậy, sẽ sát với thực tế hơn, dễ cho người lập kế hoạch hơn.
Nhưng, chỉ số tồn kho mà Tổng cục Thống kê đưa ra không phải là không có lý, bởi theo nhiều ý kiến, cơ quan này không tự nghĩ ra mà tính toán theo thông lệ quốc tế.
Nhìn lại trong suốt 10 năm (2000-2010), tồn kho luôn chiếm từ 3-5% trong GDP. Riêng năm 2011, số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê cho thấy, tồn kho cũng chỉ chiếm khoảng 3,2% trong GDP, đây là mức thấp nhất từ năm 2007 đến nay. Song bước sang năm 2012, trong tình hình kinh tế khó khăn, hầu như các doanh nghiệp đều có xu hướng không mở rộng, thậm chí thu hẹp sản xuất. Vậy tại sao tồn kho lại đột ngột tăng vọt tới 20,3% so với cùng kỳ?
Số liệu này khiến các nhà nghiên cứu phải đặt câu hỏi tìm hiểu lại nguồn của các số liệu để xem xét có thật nền kinh tế ứ đọng, tồn kho nhiều đến vậy hay không?
Theo các chuyên gia số liệu, trong GDP “gói gọn” tiêu dùng của hộ gia đình, tiêu dùng của Chính phủ, tích lũy tài sản cố định, thay đổi tồn kho và xuất khẩu, nhập khẩu. Trong 9 tháng năm 2012, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ước tính tăng 4,73% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 5,77% của cùng kỳ năm 2011. GDP tăng trưởng được 4,73% chính là do lượng tồn kho và tăng trưởng nhập khẩu giảm khá sâu.
Nguy cơ nằm ở chỗ, vì bản chất tăng trưởng GDP của thời kỳ trước dựa vào tồn kho, nên thời kỳ sau doanh nghiệp không còn “mặn mà” để mở rộng sản xuất. Hơn thế, sản xuất trong nước lại “ăn theo” nhập khẩu, vì thế khi nhập khẩu giảm sút sẽ kéo sản xuất xuống “đáy” đình đốn.
Rõ ràng, lượng tồn kho lớn của nền kinh tế xuất phát từ nguyên nhân nhu cầu tiêu dùng cuối cùng. Khi nhu cầu giảm sút sẽ không kích thích được phía cung.
Điều này cũng được cơ quan thống kê và các cơ quan quản lý Nhà nước cùng thừa nhận như trong phần cuối của báo cáo phục vụ cuộc họp giao ban sản xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đó là “nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, hàng tồn kho còn nhiều, sản xuất – kinh doanh của các danh nghiệp và đời sống người dân vẫn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức”.
Tại cuộc họp giữa Ngân hàng Nhà nước với lãnh đạo các ngân hàng thương mại cuối tuần tuần qua, một câu hỏi được đặt ra. Đó là nên giãn thời hạn chấm dứt huy động vàng đến thời điểm nào?
Cuối cùng, mốc 30/6/2013 được xác định. Nhưng đây chỉ là một điều chỉnh kỹ thuật. Quan trọng hơn, thị trường chờ đợi có thay đổi hay không quan điểm và cách thức điều hành của Ngân hàng Nhà nước đối với thị trường vàng trong tương lai.
Thăm dò dư luận?
Như bài viết mới đây, Ngân hàng Nhà nước đang thể hiện hướng đi: một mặt tạo và củng cố giá trị hấp dẫn của VND, một mặt tìm cách hạn chế sự hấp dẫn của vàng, qua đó kích thích người dân chuyển đổi vàng sang VND khi cân nhắc lợi ích nắm giữ, xem đó là một cách huy động sức vàng trong dân, tương tự như đã thành công ở USD.
Để góp phần hạn chế sức hút của vàng, Ngân hàng Nhà nước có hướng xem xét đề xuất áp thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Lý do, vàng hiện là một loại hàng hóa, được mua đi bán lại mà không chịu một loại thuế nào ngoài thuế xuất khẩu; Nhà nước không khuyến khích mua và găm giữ bởi một nguồn vốn lớn bị “chôn” ở đây mà không đi vào sản xuất kinh doanh…
Đó mới chỉ là một ý tưởng. Để thực sự trở thành một chính sách, nó phải được đưa ra một cách chính thức, rõ ràng với các cơ sở lập luận cụ thể; được cơ quan chuyên trách xây dựng, tổ chức lấy ý kiến và thảo luận, trình các cấp có thẩm quyền xem xét. Và hơn hết, nó phải thuyết phục được lòng dân.
Được biết, Ngân hàng Nhà nước cũng đã trao đổi với lãnh đạo Chính phủ về ý tưởng này. Hướng chỉ đạo là phối hợp với Bộ Tài chính xem xét và hiện mới chỉ ở mức độ nghiên cứu.
Từ chối bình luận về tính hợp lý của hướng áp thuế, song một chuyên gia nói với VnEconomy rằng: “Ý tưởng của Ngân hàng Nhà nước nên xem là sự gợi mở, một hướng thăm dò dư luận, hay một nỗ lực trong việc nghiên cứu các giải pháp để ổn định thị trường vàng, để điều hành hợp lý hơn. Lắng nghe cũng chính là một yêu cầu trong nghiên cứu và hoạch định chính sách”.
“Thuế là chính sách nhạy cảm, vì liên quan đến lợi ích người dân. Nhưng nếu để tạo ra những giá trị tốt hơn cho nền kinh tế, chứng minh được một cách tâm phục khẩu phục thì tôi tin người dân sẽ ủng hộ và chia sẻ”, chuyên gia này nói thêm.
Trong tương lai, giả sử việc áp thuế được đồng thuận, Ngân hàng Nhà nước củng cố hướng đi nói trên, có thêm yếu tố hỗ trợ kích thích chuyển đổi để huy động sức vàng trong dân. Ngược lại, ý tưởng không thành thì cũng không hẳn là đã hết cách.
Trở lại huy động vàng?
Điều mà Ngân hàng Nhà nước khẳng định gần đây là sẽ không tổ chức huy động vàng như hiện nay, nghiệp vụ mà các ngân hàng thương mại đang làm. Việc giãn thời điểm chấm dứt huy động chỉ là điều chỉnh kỹ thuật, không phải về quan điểm.
Tuy nhiên, nếu không kích thích được sự chuyển đổi như trên, các ngân hàng đã ngừng hẳn huy động, thì nguồn lực từ vốn vàng trong dân sẽ đành để nằm yên?
Thời gian qua, một hướng đánh thức vốn vàng trong dân đã được đặt ra: Ngân hàng Nhà nước đứng ra huy động qua hệ thống đại lý là các ngân hàng thương mại, dùng nguồn vàng đó chuyển đổi thành ngoại tệ, sử dụng bằng nhiều cách để tạo giá trị cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, hướng chuyển đổi trên gắn với nhiều rủi ro, bởi giá vàng biến động khó lường, đã có quá nhiều điển hình thiệt hại. Chuyển đổi ở đây là bán vàng lấy ngoại tệ, sau đó phải mua lại để trả cho dân.
Vẫn theo hướng đó, nhưng có một cách chuyển đổi khác có thể xem xét.
Tham vấn chuyên môn từ TS. Nguyễn Thế Hùng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh vàng Việt Nam, đó là nghiệp vụ hoán đổi thông qua ký gửi vay ngoại tệ.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước tổ chức huy động vàng, nhưng dùng làm tài sản để thế chấp vay ngoại tệ ở nước ngoài chứ không phải bán đứt, dùng ngoại tệ đầu tư cho các dự án hiệu quả trong nước. Nếu vậy, rủi ro từ việc chuyển đổi theo hướng bán đứt vàng và sau đó có thể phải mua lại giá cao để trả cho dân, hay rủi ro trong giao dịch kỳ hạn… được loại trừ.
Bài toán ở đây là một mức lãi suất huy động vàng trong nước thấp (trên dưới 1%/năm), một chi phí chuyển đổi thành vàng tiêu chuẩn quốc tế (khoảng 0,01%), một mức lãi suất vay USD thế chấp bằng vàng ở nước ngoài (khoảng 1,5 – 2%/năm) để tạo một nguồn vốn rẻ hơn nhiều so với chi phí vay vốn của Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua.
Thực tế Chính phủ đã từng phải phát hành trái phiếu vay 750 triệu USD với lãi suất hơn 7%/năm hồi tháng 10/2005; hay tháng 5 vừa qua Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) phải huy động 250 triệu USD bằng trái phiếu quốc tế với lãi suất lên tới 8%/năm… Vậy thì tại sao không thử tìm một cách như trên để có nguồn vốn chi phí thấp hơn, lại tranh thủ được nguồn lực vàng trong dân?
Tất nhiên, theo TS. Hùng, để huy động theo nghiệp vụ này cần có những chuyên gia am hiểu cùng tư vấn nước ngoài, cũng như phải tính toán rất chi tiết các dữ liệu của thị trường để xây dựng các kế hoạch cụ thể.
“Và quan trọng nhất, nguồn ngoại tệ thu về nhờ các nghiệp vụ hoán đổi vàng phải được sử dụng hiệu quả cho phát triển kinh tế – xã hội, thông qua việc đánh giá chính xác, khách quan năng lực sản xuất, chất lượng nhân lực, năng lực quản trị, chi phí sử dụng vốn… trong nước. Từ đó mới duy trì được niềm tin cho người gửi vàng nói riêng, sự đồng thuận của toàn xã hội nói chung và phát huy được giá trị thực tiễn của việc huy động vàng”, ông Hùng nhìn nhận.
Tiến hành kiểm tra một số áo ngực có nhãn mác Trung Quốc thì phát hiện những hạt nhựa cứng trắng được trộn trong dung dịch lỏng trơn như mỡ.
Clip kiểm tra mẫu áo ngực chứa dung dịch và vật lạ:
Dạo quanh các cửa hàng bán quần áo, trang phục tại Hà Nội, PV báo điện tử Infonet phát hiện rất nhiều cửa hàng, shop thời trang và chợ lẻ vẫn bán rất nhiều áo ngực có chứa dung dịch, hạt cứng.
Khi kiểm tra bằng cách nắn mạnh tay những chiếc áo ngực bày bán, người mua cũng dễ dàng nhận ra cảm giác lạo xạo và có những vật thể lạ rắn như đá gồ lên bên trong chiếc áo ngực chứa dung dịch hay đệm mút.
PV đã mua một số sản phẩm có chứa hạt cứng mà có thông tin khẳng định
là thuốc lạ và hạt nhựa tại một cửa hàng trên phố Nguyễn Thái Học và
một cửa hàng trong Chợ Xanh phố Xuân Thủy.
Tiến hành cắt lớp vải bên ngoài để kiểm tra, một số mẫu áo Trung Quốc mang nhãn hiệu Lirenya, Huang Chen chilyr, PV phát hiện bên trong mỗi áo đều chứa những hạt lạ màu trắng và dung dịch trong suốt. Loại hạt này hình tròn đường kính khoảng 5mm. Dung dịch màu trắng trong, chậm thấm ướt vải. Khi chạm tay vào dung dịch tuy không bị ngứa hay mẩn đỏ ngay lập tức nhưng có cảm giác nhầy nhầy, trơn như mỡ và có mùi lạ.
Dạo quanh những quầy hàng bán đồ lót trong chợ Xanh, trên đường Xuân Thủy, Cầu Giấy, loại áo ngực không rõ nguồn gốc và xuất xứ được các chủ ki ốt mời chào nhiệt tình. Tại đây, áo ngực với nhãn mác Trung Quốc chiếm hơn 90%.
Khi người mua dùng tay kiểm tra để tránh mua phải hàng có chứa thuốc và chất lạ như báo chí đã đưa thời gian gần đây thì bị chủ cửa hàng quát mắng ầm ĩ: “Mua thì mua, không thì đi, đừng có sờ nắn đồ như thế”.
Hỏi về xuất xứ của loại áo bày bán, người mua lập tức được nghe bài ca muôn thủa của người bán: “cứ yên tâm, hàng này tốt lắm, nhiều người dùng mà giá lại phải chăng”. Gặp người bán khó tính khách hàng sẽ phải nghe những câu khó chịu: “nhiều tiền thì vào hàng hiệu mà mua, hàng Trung Quốc thì mới có giá đấy chứ không đã vài trăm”. Những loại áo ngực xuất xứ Trung Quốc ở đây được bán với giá dao động từ 25-90 nghìn mỗi chiếc.
Chủ cửa hàng khẳng định không có áo ngực như thế, người mua vẫn cảnh giác và kiểm tra kỹ trước khi mua.
Có mặt tại chợ sinh viên vào buổi tối, tại các quầy hàng bán đồ lót cũng vắng người mua hơn. Đặc biệt, người mua nào biết đến thông tin áo ngực chứa thuốc lạ cũng đều hỏi chủ cửa hàng xem thực hư thế nào. Việc lựa chọn cũng trở nên kỹ càng hơn.
Chị Thu Hương, sinh viên Học viện báo chí cho biết, từ khi có tin áo ngực Trung Quốc có thuốc lạ, bây giờ đi mua áo ngực em phải kiểm tra thật kỹ, thấy có vật lạ bên trong là em chọn loại khác ngay.
“Người mua đều biết là ở đây toàn bán hàng Trung Quốc, chẳng biết chất lượng thế nào nhưng giá nó vừa tầm nên cũng cứ mua về dùng. Vừa rồi, em thấy bảo có chứa thuốc lạ gây ngứa ngáy nên em cũng chỉ ra tham khảo thôi chứ không có ý định mua”, bạn Khuyên ở Nam Định chia sẻ.
Trước đó, kết quả kiểm tra trên một số mẫu áo ngực Trung Quốc của Chi cục Quản lý thị trường Thành phố Đà Nẵng và một số tỉnh thời gian gần đây cho thấy: Xuất hiện những viên thuốc lạ bên trong dung dịch màu trắng đục trong mỗi chiếc áo. Có khi là những viên lạ và màu trắng sữa.
Trao đổi với báo chí, Bác sĩ Nguyễn Thành Hải, thẩm mỹ viện Thanh Bình khẳng định, silicone dùng cần phải có nguồn gốc rõ ràng, bảo đảm chất lượng và đạt tiêu chuẩn quy định. Nếu trong quá trình sử dụng nếu silicone hay bất cứ chất gì bị vỡ khỏi túi bọc thì có thể bị ảnh hưởng. Và để biết chất trong áo nịt ngực đó là chất gì thì cần phải mang chất đó đi kiểm nghiệm.
Trong lúc chưa có kết luận chính thức về chất lượng, sự ảnh hưởng đến sức khỏe (nếu có) của những sản phẩm này, hàng có mác Trung Quốc, không có nhãn phụ Tiếng Việt, không rõ nguồn gốc, xuất xứ và không được kiểm định chất lượng đang bày bán tràn ngập. Người mua biết thì lo sợ và cảnh giác. Ảnh hưởng của những vật thể và dung dịch lạ trong áo ngực tới đâu đang là câu hỏi chờ cơ quan chức năng giải đáp.
Ng.Lan -Q.Anh-L.Hương
Đặc biệt, ông Hải thông tin thêm, qua hoạt động kiểm tra trên thị trường, cơ quan quản lý thị trường đã phát hiện, hiện tại, các thương nhân Trung Quốc đang tập trung thu mua thủy, hải sản ở dọc bờ biển nước ta, mà mặt hàng chính là cá cơm. Hoạt động gây ảnh hưởng đến việc sản xuất nước mắm của đồng bào ở Phú Quốc, Phan Thiết, Khánh Hòa.
Theo sự chỉ đạo của Bộ Công thương, Cục Quản lý thị trường cũng đã cố gắng bám theo các hành vi nói trên, song, theo ông Hải, cho đến nay vẫn chưa phát hiện được những đối tượng là thương nhân Trung Quốc trực tiếp thu mua, vận chuyển. Họ vẫn đang tổ chức thu mua thông qua các hộ gia đình, tức ở đây, người Việt Nam vẫn đang đóng vai trò thu mua, vận chuyển, thanh toán và đưa hàng sang Trung Quốc.
Điều đáng nói, theo phản hồi của báo chí trong thời gian vừa qua, nhiều địa phương đang diễn ra hoạt động thu mua đỉa trâu với giá cao. Sự kiện này diễn ra đồng thời với những tin đồn lan truyền về hiện tượng sinh vật này xuất hiện trong các sản phẩm rau củ quả, thực phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc sang. Điều này nếu không được xử lý một cách quyết liệt và dứt điểm sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm lý người tiêu dùng nói chung cũng như thương mại tại các mặt hàng rau quả, thực phẩm.
Hoạt động gom mua cá cơm của các thương nhân Trung Quốc khiến ngư dân làm mắm điêu đứng (ảnh minh họa).
Muôn nẻo khó xử lý gà thải, nội tạng lậu
Cũng trong phiên họp báo này, ông Hải đề cập đến hoạt động buôn bán gà nhập lậu và nội tạng động vật. Theo đó, gà nhập ở đây là gà loại thải của Trung Quốc có chất lượng thấp, giá rẻ. Theo đánh giá của đại diện Bộ Công thương, gà nhập vào thị trường Việt Nam ngoài việc thẩm lậu, gây thất thu thuế còn mang theo nguy cơ dịch bệnh.
Tuyến nhập khẩu chủ yếu từ Lạng Sơn và Quảng Ninh về Hà Nội. Qua kiểm tra cho thấy, trên tuyến này, nhiều địa phương đã có biểu hiện dịch bệnh trên gia cầm. Chính vì vậy, Bộ Công thương và các cơ quan chức năng đã có chỉ đạo phải ngăn chặn và xử lý đối với mặt hàng này.
Ông Hải cho biết, trong số các đợt ra quân tập trung thì vào ngày 6/10, Đội quản lý thị trường số 30 của Cục Quản lý thị trường Hà Nội đã kiểm tra và phát hiện 3.150 kg gà nhập lậu, đã xử phạt 15 triệu đồng, đồng thời tiêu hủy toàn bộ số gà này.
Hoạt động điều tra vừa qua đang tập trung ở hai điểm chính là điểm lên gà và xuống gà trong toàn tuyến. Tuy nhiên, theo ông Hải, đường vận chuyển gà rất phức tạp và dích dắc, đi qua đường mòn lối mở, hoạt động vào đêm nên đã gây khó khăn cho việc kiểm tra, kiểm soát. “Họ thường thay đổi xe, thay đổi phương thức. Trong khi đó, để kiểm tra từng chuyến xe ở những nơi đông người như chợ Hà Vĩ, Thường Tín là hết sức phức tạp”.
Lãnh đạo Cục Quản lý thị trường cũng giãi bày cái khó, rằng khi triển khai ra quân tại chợ Hà Vĩ, từ chỗ buôn bán hàng chục tấn gà mỗi ngày thì khối lượng đã giảm hẳn, hầu như chỉ còn gà nội địa. Tuy nhiên, ngay sau khi lực lượng rút đi, các hiện tượng này lại quay trở lại.
Với hiện trạng này, trong thời gian tới, hoạt động kiểm soát thị trường sẽ có sự kết hợp chặt chẽ đầu lên – đầu xuống trên cả toàn tuyến, phối hợp đồng bộ giữa các tỉnh từ Quảng Ninh, Lạng Sơn về Hà Nội.
Đối với nội tạng động vật – một sản phẩm đã bị cấm, song vẫn còn một lượng thẩm lậu qua biên giới. Ông Hải cho biết, khi lực lượng quản lý đánh mạnh trên tuyến đường bộ thì sau đó mặt hàng này lại bật sang tuyến đường sắt. Vừa qua ngày 23/10, Đội quản lý thị trường số 11 của Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội đã kiểm tra 15 thùng nhựa chưa đến 1 tấn lòng lợn sơ chế, đã bốc mùi được chuyển vào Hà Nội để tiêu thụ.
Tuy nhiên, theo như ông Hải chia sẻ, đối với cả hai loại sản phẩm này, hiện cơ quan chức năng đang gặp khó khăn trong tiêu hủy – bởi bắt được là một chuyện, còn chuyện tiêu hủy số hàng tịch thu lại là một vấn đề không dễ giải quyết.
Năm 2012 quả là một năm đầy chấn động cho nền chính trị Trung Quốc.
Trong khi vụ Bạc Hy Lai vẫn còn chưa đến hồi kết thúc, thì một vụ tai
tiếng mới lại xảy ra có liên quan đến thủ tướng Ôn Gia Bảo. Vụ tờ báo Mỹ
New York Times cho đăng bài điều tra về tài sản kếch sù của thủ tướng
Trung Quốc Ôn Gia Bảo khiến cho bầu không khí chính trị tại Trung Quốc
thêm căng thẳng hơn bao giờ hết, khi mà chỉ còn có hơn mười ngày nữa là
khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18. Chủ đề này được tờ
nhật báo cộng sản L’Humanité số ra hôm nay đề cập đến qua bài viết đề
tựa « Tại Trung Quốc, đấu đá nội bộ bùng nổ thành các vụ tai tiếng ».
L’Humanité cho rằng ngoài việc phải tìm hiểu mục đích đăng bài của nhật báo Mỹ, thì câu hỏi đặt ra là : ai ngay trong lòng ban lãnh đạo Trung Quốc được lợi khi cho tiết lộ các thông tin đó ? Chưa bao giờ bầu không khí chính trị tại Trung Quốc lại căng thẳng đến như thế.
Theo một số nhà quan sát, việc tiết lộ các thông tin về tài sản gia đình ông Ôn Gia Bảo, người luôn được xem là nhà cải cách, có thể đến từ những người ủng hộ ông Bạc Hy Lai.
Tờ báo cho rằng phe ủng hộ ông cựu Bí thư thành ủy Trùng Khánh đã không mặn mà với các tuyên bố của ông Ôn Gia Bảo. Theo đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải tiến hành cải cách toàn diện, không những về mặt kinh tế mà ngay cả trên phương diện chính trị.
Một mặt, vụ tai tiếng về lối sống xa hoa lần này không những ảnh hưởng đến uy tín của người đứng đầu nhà nước, ông Hồ Cẩm Đào mà còn tác động đến vị chủ tịch nước tương lai Tập Cận Bình. Mặt khác, sự việc còn cho thấy rõ một bầu không khí căng thẳng đang bao trùm lên Bắc Kinh xung quanh việc bổ nhiệm các thành viên mới trong ban lãnh đạo.
New York Times cho đăng bài viết đúng vào lúc xã hội Trung Quốc đang có những bất ổn. Cách biệt thu nhập giữa kẻ giàu, tầng lớp trung lưu và những người sống lay lắt trong đói nghèo ngày càng lớn đang tạo ra những mối căng thẳng xã hội nghiêm trọng.
« Người cha già Ôn Gia Bảo » làm suy yếu đảng Cộng sản Trung Quốc
Đồng quan điểm với L’Humanité, báo Le Monde, trong bài xã luận đề tựa « Người cha già Ôn Gia Bảo làm suy yếu đảng Cộng sản Trung Quốc », cũng nhận định rằng, các cuộc tranh giành quyền lực ngay trong lòng đảng Cộng sản Trung Quốc, không những thể hiện rõ qua vụ án Bạc Hy Lai, mà còn cho thấy các vụ đấu đá để bảo vệ các lợi ích của những gia đình khác nhau trong giới cầm quyền.
Đối với đại đa số người dân Trung Quốc, ông Ôn Gia Bảo được ví như là người « cha già đáng kính». Ông đã chiếm được cảm tình của người dân vì những mối bận tâm mà ông luôn dành cho những người nghèo khổ nhất.
Kể từ khi lên cầm quyền cách đây mười năm, không một cái Tết nguyên đán nào hay một thảm họa thiên nhiên nào xảy ra mà không có sự có mặt của ông để động viên những người công nhân di cư hay để an ủi các nạn nhân trong vụ các thảm họa thiên nhiên. Giản dị, gần gũi là những gì người dân ghi nhận được từ vị thủ tướng.
Ông Ôn Gia Bảo còn nổi bật với các bài diễn văn kêu gọi chống tham nhũng. Vào năm 2007, ông từng kêu gọi các nhà lãnh đạo cao cấp không nên để các thành viên trong gia đình, bạn bè và người thân của mình lợi dụng ảnh hưởng chính trị để trục lợi.
Thế nhưng, bài điều tra do New York Times đăng tải đã giáng vào ông một đòn chí mạng. Theo Le Monde, bài điều tra đó đã xác nhận những gì mà nhiều người nghi ngờ : gia đình thủ tướng đã lợi dụng vị thế của « cha già » để làm giàu. Tác động của vụ việc thật tàn khốc khi chỉ còn có mười ngày nữa là khai mạc đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18.
Sự việc cho thấy rõ con cái của giới « quý tộc đỏ » đang nắm giữ khối kinh tế của đất nước. Và chính sách gia đình trị đang làm suy yếu dần đảng Cộng sản Trung Quốc, hiện phải đối mặt với làn sóng bất bình ngày càng dâng cao và phải tìm cách giảm sự bất công ngày càng rõ nét trong lòng xã hội Trung Hoa.
Nếu như vụ án Bạc Hy Lai cho thấy có sự đấu đá trong nội bộ, thông tin tiết lộ trên nhật báo Mỹ cũng giải thích rõ các cuộc chiến đang xảy ra trong lòng nội bộ Đảng Cộng sản Trung Qu ốc chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của nhiều gia đình quyền lực khác nhau.
Cuối cùng, bài xã luận nhắc lại lời kết luận của Tưởng Giới Thạch, trước khi bị Mao Trạch Đông đánh bại, về thế khó xử mà giới chính khách Trung Quốc luôn phải đối mặt. Ông nói : Chống tham nhũng thì mất đảng ; nhưng không chống thì mất nước ».
Thủ tướng Trung Quốc phản ứng bài điều tra về tài sản của ông
Cũng theo báo Le Monde, thì Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã lên tiếng phản ứng, phủ nhận mọi lời cáo buộc của tờ New York Times, cho rằng các thành viên trong gia đình ông sở hữu nhiều tài sản với tổng trị giá lên đến 2,7 tỷ đô-la. Le Monde còn cho biết là chính quyền Bắc Kinh trước đó đã cố can ngăn việc đăng nhưng không thành.
Hai ngày sau khi nhật báo Mỹ đăng bài điều tra về tài sản kếch sù của thủ tướng Trung Quốc, hôm thứ bảy 27/10/1012 vừa qua, thủ tướng đã có những phản ứng đầu tiên, thông qua hai vị luật sư của mình.
Theo nội dung bản thông cáo, hai vị luật sư tại Bắc Kinh đã phủ nhận hoàn toàn mọi lời cáo buộc cho là mẹ ông Ôn Gia Bảo đang nắm giữ trong tay số cổ phiếu lớn trị giá khoảng 120 triệu đô-la và phủ nhận vai trò của thủ tướng trong các hoạt động kinh doanh của các thành viên trong gia đình. Cả hai vị luật sư tuyên bố sẽ tiếp tục làm sáng tỏ những lời cáo buộc dối trá đó và có thể sẽ kiện tờ báo ra công lý.
Theo Le Monde, những thông tin tiết lộ trên đã bị kiểm duyệt chặt chẽ tại Trung Quốc. Tuy nhiên, trên các trang mạng xã hội trong nước, các cư dân mạng vẫn tiếp tục bình phẩm và nhắc lại tại Trung Quốc, ai cũng biết chuyện bà thủ tướng phu nhân và con trai của ông đang nắm trong tay những ngành kinh doanh béo bở. Một bài điều tra gây phiền hà cho thủ tướng, người chiếm được nhiều cảm tình của dân chúng, theo như nhận xét của Le Monde.
Tờ New York Times còn tiết lộ rằng chính quyền Bắc Kinh đã cố can ngăn tòa soạn đăng bài viết. Lãnh sự Trung Quốc tại Washington đã đến gặp giám đốc tòa soạn trước khi bài viết được đăng lên. Để biện hộ cho việc đăng bài, và phản đối ý kiến cho là đã bị điều khiển bởi phe chính trị đối lập với Ôn Gia Bảo, David Barboza, thông tín viên tờ báo tại Thượng Hải giải thích rằng ông đã làm việc về chủ đề này từ một năm nay và hàng ngàn trang tài liệu đã được tòa soạn New York Times đặt hàng từ các luật sư chuyên về đăng ký doanh nghiệp.
Miến Điện lại xảy ra các vụ tàn sát mới chống người Rohingya
Nhìn sang khu vực Đông Nam Á, báo Le Monde cho biết « Tại Miến Điện, lại xảy ra các vụ tàn sát chống người Rohingya ». Tổ chức Nhân quyền Human Rights Watch e ngại rằng các vụ tấn công nhắm vào sắc tộc thiểu số Rohingya có thể sẽ lan rộng thành bạo động tôn giáo chống cả những người theo đạo Hồi, không thuộc sắc tộc Rohingya.
Liên Hiệp Quốc cho là có đến 26 ngàn người chạy tỵ nạn. Còn theo chính quyền Naypyidaw thì đã có 88 người thiệt mạng. Tuy nhiên, các tổ chức Nhân quyền nghi ngờ rằng con số chính thức sẽ còn cao hơn.
Theo nhận định Human Rights Watch, bạo động sắc tộc giữa cộng đồng theo Phật giáo và cộng đồng thiểu số Rohingya vẫn sẽ tiếp diễn trong vòng luẩn quẩn tấn công – trả đũa do khó có thể xác định trách nhiệm thuộc về bên nào. Nhưng có điều chắc chắn là các vụ tấn công này mang tính chất phân biệt chủng tộc. Tộc người thiểu số Rohingya bị khinh khi, và từ lâu bị đa phần những người Miến Điện xem như là những kẻ « xâm lược » và người « nước ngoài » đến định cư trên mảnh đất của người theo Phật giáo.
Một vị quan chức của Human Rights Watch, phụ trách châu Á cho rằng « nếu chính quyền Miến Điện không giải quyết đến tận gốc rễ của vấn đề, sự việc chỉ có thể trở nên thêm tồi tệ ».
Bên cạnh đó, các nhà quan sát của Liên Hiệp Quốc tại Miến Điện và một số người tỵ nạn Rohingya còn e ngại rằng « bạo động có nguy cơ lan rộng tại Miến Điện, không chỉ riêng chống lại người Rohingya mà còn chống lại tất cả những ai theo đạo Hồi ».
Tổng thống Miến Điện tuyên bố sẽ bố trí thêm quân đội trong khu vực. Tuy nhiên, theo ghi nhận, của báo Le Monde, hồi tháng sáu năm nay, cảnh sát và chính quyền địa phương, đa số theo đạo Phật – chí ít – là đã làm ngơ để cho người dân tỉnh Arakan tấn công những người theo Hồi giáo.
Chữa trị Parkinson bằng liệu pháp gien ?
Về đề tài sức khỏe, Le Figaro mang đến một tia hy vọng cho những ai mắc phải chứng bệnh Parkinson. Trong bài viết đề tựa « Parkinson : những bệnh nhân được chữa trị bằng liệu pháp gien », tờ báo cho biết các nhà nghiên cứu của Pháp đã thu nhặt được nhiều kết quả khích lệ sau khi thử nghiệm điều trị trên 12 bệnh nhân tại Pháp và 3 tại Anh quốc.
Đây chỉ mới là kết quả sơ bộ được công bố ngày hôm qua, thứ hai 29/10/2012, tại Paris, nhân Hội nghị châu Âu về liệu pháp gien và tế bào lần thứ 20, do nhóm nghiên cứu của ông Stéphane Palfi – giáo sư về giải phẫu thần kinh thuộc bệnh viện Henri – Mondor, thành phố Créteil thực hiện.
Theo Le Figaro, dù rằng bản báo cáo của giáo sư chỉ trình bày vài nét chính của nghiên cứu, nhưng mở ra nhiều triển vọng mới trong tương lai. Tuy nhiên, giáo sư Stéphane Palfi cũng khẳng định rằng về lâu dài liệu pháp chữa trị này không gây hại nhưng việc phổ biến rộng rãi vẫn chưa thể nào thực hiện được trong vòng 8 đến 10 năm tới.
Le Figaro cho biết, tại Pháp hiện nay có khoảng hơn 10 000 người mắc chứng bệnh Parkinson. Đây là một dạng bệnh thoái hóa thần kinh mãn tính có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Nguyên nhân căn bệnh là do sự suy giảm hình thành và sản xuất tế bào thần kinh dopaminergic của não giữa (hay còn gọi là Niger locus – tạm dịch là chất đen). Hậu quả là người mắc bệnh có các triệu chứng thiểu năng : run rẩy, cứng cơ, cử động khó khăn…
Thông thường, bệnh nhân sẽ được chữa trị bằng thuốc L-DOPA, nhằm kích thích sự sản xuất dopamine trong tế bào thần kinh não. Thế nhưng, việc điều trị bằng thuốc L-DOPA cũng có bất lợi lớn là gây ra những cử động bất bình thường, cũng gây khó chịu. Nguyên nhân có lẽ bắt nguồn từ sự kích thích không đồng đều của chất dopamine.
Theo nghiên cứu của giáo sư Stéphane Palfi, các nhà khoa học đã thử cấy các gien vào trong não, cho phép duy trì việc tiết chất dopamine liên tục và cục bộ. Nghĩa là về mặt kỹ thuật, sau khi gây tê toàn thân, các bệnh nhân sẽ được tiêm một liều lentivirus có chứa ba bộ gien mã hóa các chất enzyme cần thiết cho hoạt động tiết chất dopamine.
Liệu pháp này đã được nhóm nghiên cứu thử nghiệm trên động vật từ năm 2003. Và thử nghiệm đầu tiên trên người được tiến hành vào năm 2008, trên 15 bệnh nhân nhằm đánh giá mức độ chấp nhận của tiến trình.
Chính quyền Bình Nhưỡng hạ bỏ hai bức hình Karl Marx và Vladimir Lenin
Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh xin kính chào quý thính giả của đài Chân Trời Mới để mở đầu cho tiết mục Từ Á Sang Âu tuần này là đề tài nói đến chuyện chính quyền Bình Nhưỡng cho hạ hai bức hình ông tổ Cộng sản Karl Marx và Vladimir Lenin khỏi quảng đường Kim Nhật Thành mà không nói rõ lý do. Kính mời quý thính giả lắng nghe qua sự trình bày của Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh.
Hai năm trước, khi còn sống, ông Kim Chính Nhật đã ra lịnh cho Ủy ban tu chính Đảng quy của đảng Lao Động Triều Tiên bỏ đi mấy chữ Xã hội chủ nghĩa ra khỏi văn kiện này để cho hợp với thực tại. Trước đây phần mào đầu của Đảng quy viết rằng: Mục đích tối hậu của đảng Lao Động Triều Tiên là xây dựng Xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Chủ Thể.
Bỏ đi mấy chữ Xã hội chủ nghĩa vị chi là đảng Lao Động Triều Tiên từ nay chỉ còn đi theo tư tưởng Chủ Thể của ông Kim Nhật Thành đề ra mà thôi. Theo tư tưởng này thì vận mệnh của mình do chính mình làm chủ, tự túc, tự cường trong việc kiến thiết quốc gia, nguời dân làm chủ vận mệnh đất nước…
Nhiều người thắc mắc rằng tại sao sửa đổi một điều quá quan trọng như vậy mà chính quyền Bình Nhưỡng chẳng có một lời giải thích nào cho người dân của họ và thế giới biết.
Các quan sát viên tình hình bán đảo Triều Tiên nói rằng chính quyền Bình Nhưỡng chẳng coi dân của họ ra gì đâu nên có giải thích hay không cũng vậy, họ chỉ sợ làm mất mặt Bắc Kinh vì dù sao Trung quốc vẫn còn dương cao ngọn cờ Xã hội chủ nghĩa. Thật ra ngay từ đầu ông Kim Nhật Thành đâu có đi theo chủ nghĩa Cộng sản một cách vô điều kiện như ông Hồ Chí Minh của Việt Nam nên bây giờ họ bỏ mấy chữ đó cũng là điều có thể hiểu được. Nói như thế không có nghĩa là bỏ mấy chữ đó là Bắc Triều Tiên muốn trở thành một nước tự do, dân chủ.
Nhiều người không chú ý đến chuyện đó nên hôm 12/10/2012 khi đọc báo, nghe đài của các hãng thông tấn lớn loan tin rằng chính quyền Bình Nhưỡng đã cho hạ hai bức hình ông Karl Marx và Vladimir Lenin ở quảng đường Kim Nhật Thành thì rất đổi ngạc nhiên và tưởng rằng sắp có thay đổi lớn ở Bắc Tiều Tiên. Thật ra nếu để ý kỹ những hình ảnh trong cuộc diễn binh mừng kỷ niệm sinh nhật 100 năm của cố lãnh tụ Kim Nhật Thành vào giữa tháng 4 vừa rồi thì đã không thấy ảnh của hai ông Marx-Lenin nữa. Hình của ông Kim Nhật Thành với nét mặt nghiêm khắc đã được thay bằng tấm hình ông ta đang cười hiền lành. Cũng như lần trước, chính quyền Bình Nhưỡng hoàn toàn không nói rõ lý do vì sao gở bỏ hai bức hình Marx-Lênin, ai muốn nghĩ sao tùy ý.
Việc Bắc Triều Tiên hạ hai tấm hình Marx-Lênin không thể nào so sánh được với chuyện Mông Cổ kéo đổ tượng Lenin vào ngày 14/10/2012 vừa rồi tại thủ đô Ulan Bator. Trong bài diễn văn buổi lễ hạ tượng, ông Đô trưởng Bat Uul đã lên án Lênin và các đồng chí cộng sản của ông ta là những kẻ sát nhân. Mông cổ đã khổ sở dưới chế độ Cộng sản nhưng đã vượt lên để xây dựng một xã hội mới.
Trở lại với đề tài, theo các bình luận gia thì dòng họ Kim ở Bắc Triều Tiên rất tự tín, không cần phải dùng chủ nghĩa Cộng sản như là một lá chắn để cai trị đất nước như các nhà lãnh đạo một vài nước Cộng sản còn sót lại trên thế gian này. Kim Han Sol, người con trai đầu của cậu cả Kim Chính Nam, tức cháu ruột của tân lãnh tụ Kim Chính Ân, hiện đang học tại một trường đại học quốc tế ở Bosna I Hercegovina (trước đây thuộc Cộng hòa Liên bang Nam Tư) khi được một đài truyền hình của Findland phỏng vấn đã nói rằng: Bố tôi khi còn trẻ tuy không quan tâm đến chuyện chính trị, nhưng vẫn thường thưa chuyện với ông nội tôi (tức là ông Kim Chính Nhật) nên cai trị đất nước bằng rằng đường lối cởi mở chứ không nên độc tài. có lẽ đó là lý do tại sao bố tôi không được chọn để kế vị, nhưng bố tôi không hề bất mãn. Bố và ông nội tôi chỉ nói về chuyện đó chứ không bao giờ bàn đến chủ nghĩa Cộng sản vì theo như bố tôi cho biết cả ông cố cũng như ông nội tôi đều coi chủ nghĩa này như là một phương tiện, khi không cần nữa sẵn sàng dứt bỏ.
Khi chú tôi được chọn, bố tôi đã công khai nói rằng nếu còn tiếp tục cai trị theo đường lối độc tài thì chế độ Kim Chính Ân sẽ không bám trụ được lâu vì chú Ân tôi chẳng hề có công trạng gì với đất nước như ông cố hay ông nội tôi. Tôi chưa có lần nào gặp chú tôi cả, nhưng qua các tin tức tôi biết được thì chú Ân bắt đầu học cách cai trị của một nhà độc tài. Tôi đã nghe những người bạn cùng phòng kể lại sự sụp đổ của các chế độ độc tài như Iraq, Lybia, về cái chết thê thảm, nhục nhả của Tổng thống Saddam Hussein, của Đại tá Gadafi. Những người kể cho tôi nghe biết rất rõ chuyện vì họ là bà con ruột thịt của hai lãnh tụ này. Dù gì đi chăng nữa, tôi vẫn không muốn ông chú tôi phải chết như hai nhân vật trên.
Con cháu lãnh đạo đảng CSVN ở nước ngoài nhiều vô kể và chắc chắn họ cũng biết những chuyện như thế, nhưng đến bây giờ chưa thấy ai có lời khuyên cha chú của họ giống như Kim Han Sol, hay là họ cứ tưởng dân tộc Việt Nam không dám đứng lên chống lại bạo lực như người dân Lybia, Tusinia, Ai Cập…
Hoa Kỳ cần phải tu chính lại chiến lược Á châu
Hoa Kỳ cần phải tu chính lại chiến lược Á châu của mình mới mong ngăn chận được sự bành trướng vũ lực quân sự của Trung quốc là đề tài kết thúc tiết mục Từ Á Sang Âu tuần này, kính mời quý thính giả theo dõi qua sự tóm lược của Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh.
Theo kết quả điều tra của cơ quan Nghiên cứu Quốc gia về Á châu của Hoa Kỳ (có tên viết tắt là NBR : National Bureau of Asia Research) vừa mới công bố vào trung tuần tháng 10 vừa qua thì Hoa Kỳ không thể đơn độc ngăn chận sự bành trướng quân sự của Trung quốc ở Á châu-Thái bình dương mà cần phải hợp tác hơn nữa với nhiều quốc gia trong vùng, chẳng hạn như Nhật Bản, Hàn quốc hay Philippines, kể cả Việt Nam. Cơ quan Nghiên cứu này gồm 10 chuyên gia quân sự lổi lạc của Hoa Kỳ như ông Dan Blumenthal (cựu Cục trưởng cục Trung quốc thuộc bộ Ngoại giao Hoa Kỳ) hay giáo sư Andrew S. Erickson (giáo sư trường đại học Hải quân Mỹ). Theo công bố này thì trong 20 năm trở lại đây Trung quốc đã tiếp cận được với kỹ thuật quân sự tân tiến, với chiến tranh tình báo nên sức mạnh quân sự của họ ngày càng mạnh vì vậy Hoa Kỳ không thể đem chiến lựợc từng chiếm ưu thế của mình ra để ngăn chận chiến tranh ở Á châu- Thái bình dương như trước đây được nữa. Tổng thống Obama muốn chuyển trọng tâm chiến lược của Hoa Kỳ sang Á châu- Thái bình dương thì trước tiên phải tu chính lại nhiều điểm trong chính sách trước đây của Mỹ đối với khu vực này. Cũng theo báo cáo này thì sự lớn mạnh về quân sự của Trung quốc đang uy hiếp những đồng minh ở Á châu của Hoa Kỳ. Nhật Bản, Philippines, Đài Loan và ngay cả Hàn quốc đang lo sợ trước sự lớn mạnh về quân sự của Trung quốc, các quốc gia đó vừa đàm vừa phải đối đầu trước sự uy hiếp của Bắc Kinh vì vậy họ rất muốn hợp tác với Hoa Kỳ nhiều hơn để bảo an đất nước. Hiện nay Hoa Kỳ đang thiếu hụt ngân sách thì có thể kêu gọi các quốc gia phụ đảm thêm chi phí phòng vệ.
Bắc Kinh đã gay gắt lên tiếng chỉ trích kết quả điều tra đó là không đúng sự thật, phóng đại. để tạo lý cớ cho Hoa Kỳ bành trướng ảnh hưởng của họ ở Á châu-Thái bình dương. Bắc Kinh kêu gọi các quốc gia trong vùng đừng tiếp tay với Mỹ trong chuyện này để tránh tình trạng xung đột không cần thiết. Trung quốc sẽ không nhân nhượng đối với bất cứ nước nào đi ngược lại lợi ích của toàn vùng Á châu-Thái bình dương.
Lời cảnh cáo này của Bắc Kinh chẳng hù dọa được ai, ngoại trừ chính quyền Hà Nội, bằng chứng là Nhật Bản, Philippines, hai quốc gia đang bị Trung quốc xâm lăng biển đảo, rất tích cực thúc đẩy việc hiệp tác bảo an với Hoa Kỳ. Cả người dân Nhật lẫn người dân Philippines coi sự hiệp tác bảo an với Hoa Kỳ là cần thiết chứ không phải lệ thuộc vào Mỹ.
Việt Nam là nước đang bị Trung quốc xâm lăng biển đảo nặng nhất thế mà lãnh đạo Hà Nội vẫn tuyên bố rằng Việt Nam có cách riêng để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình chứ không bắt tay hiệp tác với bất cứ một quốc gia nào cả, bảo vệ như thế nào không thấy chỉ thấy biển đảo của Việt Nam mất dần về tay Trung quốc. Bảo vệ theo kiểu này thì coi như dâng hiến cho Trung quốc rồi, thưa phải không quý thính giả.
Đến đây đã chấm dứt tiết mục Từ Á Sang Âu, Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh và xin kính chào tạm biệt và kính mời quý thính giả nhớ đón nghe chương trình này vào tuần sau cũng vào giờ này trên làn sóng trung bình 1503 ki lô chu kỳ của đài Chân Trời Mới.
Phát ngôn viên của tòa đại sứ, ông Christopher Hodges, nói trong một thông cáo: “Việc kết án tù này là hành động mới nhất trong một loạt các động thái của chính phủ Việt Nam nhằm hạn chế tự do ngôn luận”.
“Chính phủ Việt Nam phải trả tự do cho nhạc sỹ [Việt Khang] cũng như tất cả các tù nhân lương tâm và tuân thủ ngay lập tức các bổn phận quốc tế của mình.”
Hai nhạc sỹ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình đã bị tòa tuyên án lần lượt là 4 và 6 năm tù trong phiên tòa kết thúc sáng thứ Ba ngày 30/10 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra cả hai nhạc sỹ này đều phải chịu 2 năm quản chế sau khi mãn hạn tù, luật sư bào chữa cho Việt Khang là Trần Vũ Hải đã xác nhận với BBC sau khi phiên tòa kết thúc chóng vánh vào lúc 12h30.
Nhạc sỹ Việt Khang, 34 tuổi, tên thật là Võ Minh Trí và nhạc sỹ Trần Vũ Anh Bình, 37 tuổi, nghệ danh là Hoàng Nhất Thống, đã bị bắt hồi cuối năm ngoái và bị giam giữ cho đến nay.
Hai ông bị truy tố theo điều 88 Bộ Luật hình sự về tội Tuyên truyền chống Nhà nước.
Từ khoản 2 sang khoản 1
Trao đổi với BBC, luật sư Hải cho biết trong phiên xử sáng nay tòa đã chấp nhận chuyển khung hình phạt từ khoản 2 dành cho những ‘hành vi đặc biệt nghiêm trọng’ với mức án từ 10 đến 20 năm sang khoản 1 với mức án chỉ từ 3 đến 12 năm.Lý do, ông Hải giải thích, là do các luật sư phản bác và đề nghị Viện kiểm sát ‘trưng ra lý do thế nào là đặc biệt nghiêm trọng’ và Viện kiểm sát đã ‘lúng túng trong vấn đề này’.
“Tại phiên tòa tôi đã đề nghị tòa rất thận trọng khi xử vụ án này. Người ta sẽ nhầm rằng chỉ vì 1,2 bài hát mà xử nặng như vậy.”
Luật sư Trần Vũ Hải
Ông cho biết cơ sở để bên công tố buộc tội nhạc sỹ Việt Khang tội ‘Tuyên truyền chống Nhà nước’ là hai bài hát ông sáng tác có tựa đề là ‘Việt Nam tôi đâu’ và ‘Anh là ai’ và việc ông tham gia vào một tổ chức chống chính quyền có tên gọi ‘Tuổi trẻ yêu nước’.
Tại phiên tòa, Việt Khang đã tự bào chữa rằng hai bài hát đó chỉ ‘nói lên nỗi lòng’ của ông và ‘chống lại việc Trung Quốc đang hoành hành trên Biển Đông’, theo lời kể của luật sư Hải.
“Ông ấy (Việt Khang) khẳng định không có bất kỳ ý đồ chính trị gì. Những bài hát ông viết là từ nguồn cảm hứng và ông cũng mong muốn được đoàn tụ với gia đình,” ông nói.
Tuy nhiên, ông Khang đã thừa nhận khi nghe hai bài hát này ‘người ta sẽ không hài lòng với Nhà nước’ nhưng ông cũng cho biết là câu cuối của ông trong bài hát ‘Việt Nam yêu nước’ đã bị ‘một cộng sự từ nước ngoài đổi lại’.
Ông Khang giải thích rằng câu này ông không viết là ‘chống bè lũ bán nước’ mà là ‘chống quân xâm lược cướp nước’.
‘Nhận trách nhiệm’
Về việc tham gia vào ‘Tuổi trẻ yêu nước’, ông Hải cho biết bị cáo Khang đã ‘nhận trách nhiệm’ và ‘nhận thức rằng tổ chức này có mục đích tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam’.Trong khi đó, theo lời ông Hải, Viện kiểm sát lại cho rằng chỉ cần có tham gia vào tổ chức này ‘đã là tuyên truyền chống Nhà nước rồi’ vì đây là hoạt động ‘có tổ chức’ và các bài hát của nhạc sỹ Việt Khang ‘thể hiện thái độ của ông khi tham gia tổ chức này’.
Luật sư Hải đã lập luận bào chữa rằng bài hát ‘Anh là ai’ của Việt Khang chỉ ‘phê phán cách giải quyết của chính quyền đối với người biểu tình bị ngăn chặn’ chứ ‘không phải chống Nhà nước’.
“Ông ấy (Việt Khang) khẳng định không có bất kỳ ý đồ chính trị gì. Những bài hát ông viết là từ nguồn cảm hứng và ông cũng mong muốn được đoàn tụ với gia đình.”
Luật sư Trần Vũ Hải
Tuy nhiên, yêu cầu của luật sư triệu tập các giám định viên thì tòa ‘cho rằng không cần thiết và theo luật không bắt buộc’.
Ngoài ra, ông Hải nói ông không có gì phàn nàn về trình tự tố tụng tại tòa. Theo ông thì các bị cáo đều được nói những gì muốn nói và thậm chí còn tạo điều kiện để trình bày thêm khi đã hết giờ.
Về bản án của nhạc sỹ Trần Vũ Anh Bình, ông giải thích nặng hơn là vì ông Bình có vai trò lớn hơn trong tổ chức ‘Tuổi trẻ yêu nước’.
Theo đó, ông Bình đã tham gia quản lý, đăng tải bài hát và tin tức lên trang mạng của tổ chức này. Ông cũng bị cáo buộc tham gia rải truyền đơn và treo cờ vàng ba sọc của chế độ cũ rồi chụp ảnh đưa lên mạng.
Nhận xét về bản án đối với ông Khang, ông Hải nói rằng ‘tạm thời ông ghi nhận việc tòa chấp nhận xử theo khoản 1’ và hy vọng phiên phúc thẩm sẽ có kết quả tốt hơn.
Quốc tế lên tiếng
“Tôi nghĩ bản án này nhà nước Việt Nam cũng cần xem xét lại vì sẽ tạo ra dư luận không tốt cho Việt Nam,” ông nói thêm.
Ngay trước thềm phiên xử, vào chiều hôm qua ngày 29/10, Tổ chức Ân xá quốc tế đã kêu gọi thả tự do ‘ngay lập tức và vô điều kiện’ cho hai nhạc sỹ này.
“Thật lố bịch khi đối xử như vậy với những người này chỉ vì họ sáng tác các bài hát,” ông Rupert Abbott, nhà nghiên cứu về Việt Nam của Ân xá quốc tế, phát biểu trong thông cáo.
“Đây là những tù nhân lương tâm. Họ bị bắt giữ chỉ vì họ đã thực hiện quyền tự do ngôn luận một cách hòa bình bằng những bài hát và những hành động phi bạo lực.”
“Thay vì cố gắng bịt miệng giới trẻ Việt Nam, chính phủ nước này nên cho phép họ bày tỏ ý kiến và có tiếng nói trong quá trình phát triển của đất nước,” ông nói thêm.
- Việt Khang ‘không hoạt động chính trị’
- LHQ chỉ trích án tù ‘nghiệt ngã’
- EU đòi trả tự do cho ba blogger
Trấn áp không dập tắt được những tiếng nói yêu nước phản kháng
Phiên tòa xử hai nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình vừa kết thúc sáng hôm nay 30/10/2012. Giống như nhiều người bày tỏ thái độ chống Trung Quốc xâm lược một cách quyết liệt trong thời gian gần đây, tòa án Việt Nam lại dành cho hai nhạc sĩ nhiều năm tù với tội danh « tuyên truyền chống Nhà nước ».
Bình luận về vụ án Việt Khang trong bối cảnh xẩy ra nhiều vụ bắt bớ và kết án tù những người bất đồng chính kiến tại Việt Nam, từ TP Hồ Chí Minh, luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho biết ý kiến.
Luật gia Lê Hiếu Đằng (Sài Gòn)30/10/2012
Tăng quyền cho ai và để làm gì?
Cập nhật: 13:28 GMT – thứ hai, 29 tháng 10, 2012
Tin về đề xuất để Chủ tịch nước Việt Nam có thêm
quyền hạn đối với bên hành pháp tức Chính phủ đặt lại câu
hỏi về thể chế quyền lực trên thế giới với các mặt hay và
dở của từng mô hình.
Đa số các nước theo chế độ dân chủ đại nghị chấp nhận ba nhánh của quyền lực thuộc về ba cơ quan chính: lập pháp nằm trong tay quốc hội, hành pháp do chính phủ nắm và tư pháp thuộc về hệ thống tòa án.
Không kể các chế độ ‘quân chủ tuyệt đối’ (absolute monarchy – như Ả Rập Saudi), hoặc ‘độc đảng ‘ (single-party state), còn tại các nước có tam quyền phân lập vị trí của tư pháp hay lập pháp thường định hình khá rõ nên chỉ còn hành pháp là cần bàn nhiều.
Ai lo việc gì?
Ở các nước quân chủ lập hiến như Anh, Thái Lan, Nhật Bản, quyền hành pháp nằm trong tay thủ tướng (head of government) .
Thủ tướng cũng điều hành chính phủ và chịu trách nhiệm hàng ngày về việc nước.
Quốc vương (nữ hoàng hoặc vua) đại diện cho quốc gia ra bên ngoài nhưng có quyền chính trị để giải tán chính phủ, quốc hội, ký quyết định lập nội các, phong các chức vụ cao cấp trong quân đội.
Ở các nước cộng hòa nghị viện (parliamentary republic) như ở Ý, tổng thống do quốc hội bầu chọn ra nhưng quyền lực không nhiều bằng thủ tướng.
Còn tại các nước theo có mô hình tổng thống chế (Hoa Kỳ và nhiều nước Nam Mỹ, Philippines), tổng thống cũng nắm luôn quyền điều hành nội các nên là chức vụ cao nhất và hùng mạnh nhất.
Theo hiến pháp các nước này, tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia (head of state), vừa đứng đầu chính phủ (head of government).
Hoa Kỳ và Philippines không có cả thủ tướng nhưng ở những nước như Đài Loan, Hàn Quốc, thủ tướng cũng chỉ đóng vai trò như một siêu chánh văn phòng nội các hoặc bộ trưởng thứ nhất do tổng thống chỉ định.
Thủ tướng Hàn Quốc có một thời chỉ mang chức danh ‘bộ
trưởng nội các thứ nhất’ (chief cabinet minister), và tuy có
quyền giám sát các bộ trưởng nhưng chỉ là ‘trợ lý cho tổng
thống’, theo quy định của hiến pháp.
Tại Pháp, nhìn chung thủ tướng và mọi bộ trưởng đều do tổng thống bổ nhiệm và phải phục tùng nguyên thủ quốc gia.
Tuy thế, Hiến pháp 1958 cho thủ tướng nhiều quyền hơn bình thường và quốc hội Pháp cũng có nhiều tiếng nói để ‘bảo vệ’ thủ tướng của họ nếu cần.
Điều này dẫn đến giai đoạn ‘chung sống’ (cohabitation) đặc biệt một thời khi Tổng thống Francois Mitterrand thuộc phe tả vừa cạnh tranh quyền lực vừa hợp tác với Thủ tướng Jacques Chirac của phe hữu.
Mô hình chuyển đổi
Nếu như các quốc gia dân chủ lâu đời phần nhiều đã có cơ chế tam quyền phân lập ổn định ghi rõ trong hiến pháp, hoặc cũng được thử nghiệm qua cải cách dân chủ từ thập niên 1980 (Hàn Quốc, Đài Loan, Bồ Đào Nha…), nhiều quốc gia Đông Âu đã và đang còn chỉnh sửa mô hình thể chế sau khi chế độ cộng sản sụp đổ vào thập niên 1990.
Ở Ba Lan, cuộc bầu cử quốc hội ‘bán dân chủ’ năm 1989 cho Tướng Wojciech Jaruzelski nắm quyền tổng thống nhưng là quyền do quốc hội chỉ định nhằm dung hòa hai phe gốc cộng sản và Công đoàn Đoàn kết.
Từ sau đó, bầu cử trực tiếp trao cho tổng thống uy tín lớn trong dân nhưng lại có ít quyền hiến định vì các hiến pháp dân chủ Ba Lan đều e ngại ‘dấu vết độc tài’ nên hạn chế quyền lực cho một cá nhân và chuyển nhiều quyền sang cho nghị viện.
Tình trạng này gây ra lộn xộn nghị trường vì các tranh cãi đảng phái gây bất ổn cho chính trị, cản trở các sáng kiến cải cách và về sau này, các đợt chỉnh sửa luật hiến pháp đã dần tăng quyền cho thủ tướng.
Hiện nay, tổng thống Ba Lan tuy có nhiều quyền hơn trước và là nguyên thủ quốc gia nhưng vẫn không nhiều quyền bằng thủ tướng.
Tuy thế, thủ tướng cũng chỉ có thể nắm quyền nếu lập được liên minh các đảng trong quốc hội và có thể bị quốc hội bãi nhiệm bất cứ lúc nào nếu hội tụ đủ số phiếu.
Chỉ cần 46 dân biểu thu thập đủ chữ ký là quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm hoặc bất tín nhiệm thủ tướng.
Tại Nga, ngay từ sau khi Liên Xô sụp đổ, quyền lực tổng thống dưới thời Boris Yeltsin đã được đề cao và còn tăng thêm trong hai nhiệm kỳ đầu của ông Vladimir Putin.
Thủ tướng Nga luôn có vai trò yếu hơn tổng thống và dù là vị trí được Viện Duma Quốc gia bổ nhiệm, chức vụ này có thể bị tổng thống miễn nhiệm bất cứ lúc nào.
Hiến pháp Nga quy định thủ tướng phải điều hành chính phủ ‘theo đúng các sắc lệnh của tổng thống’.
Hiện nằm trong tay ông Dmitry Medvedev, chức thủ tướng Nga chỉ có một ‘ưu điểm’ là trong trường hợp tổng thống đột tử thì thủ tướng sẽ lên làm tổng thống lâm thời cho đến khi quốc hội chọn ra người mới.
Tại Ba Lan, và một số nước Đông Âu hậu cộng sản theo mô hình dân chủ nghị viện, khi tổng thống đột tử (như trường hợp ông Lech Kaczynski năm 2010), thì người lên thay tạm thời lại là chủ tịch quốc hội.
Sự khác biệt này cho thấy xu hướng để thủ tướng ‘là người của tổng thống’ như tại Nga, hay ‘do Quốc hội kiểm soát’ như Ba Lan, mỗi bên đều có mặt hay và mặt dở của nó và là sản phẩm của diễn biến lịch sử mỗi nơi.
Tiến hóa thể chế
Nhìn chung, việc thể chế hóa cuộc đấu tranh giữa các cơ quan nắm quyền lực quốc gia không phải là chuyện lạ trong lịch sử các thể chế.
Ngay ở Anh, đây cũng là một quá trình lâu dài cho dù từ thời Henry VIII hệ thống chính trị luôn có vị quốc vương nắm cả thần quyền (đứng đầu Anh giáo) và thế quyền.
Ví dụ thủ tướng Anh tới giữa thế kỷ 19 chỉ là ‘bộ trưởng thứ nhất’ (primus inter pares) nhưng một luật về nghị viện năm 1911 đã tước đi nhiều quyền lập pháp của Thượng viện (Viện Nguyên lão – House of Lords) và trao cho thủ tướng quyền đề xuất sáng kiến lập pháp trong Hạ viện.
Tại Singapore, Thủ tướng có nhiều quyền hơn cả vì thừa hưởng vị thế của ‘Toàn quyền Singapore’ từ thời thực dân Anh nhưng chức này cũng phải do Tổng thống bổ nhiệm.
Tổng thống Singapore, theo một sửa đổi hiến pháp năm 1991 cũng có thêm quyền giám sát chi tiêu của Thủ tướng.
Hệ thống của Mỹ dù không có thủ tướng nhưng quyền hành
pháp tối cao của tổng thống cũng liên tục bị các đảng trong
Quốc hội tìm cách hạn chế và cân bằng lại.
Nghị viện Mỹ cũng có thể mở các cuộc điều tra nhằm luận tội tổng thống (impeachment) với Chánh án Tối cao Pháp viện chủ tọa mà Bill Clinton là người gần nhất trở thành ‘đối tượng điều tra’ hồi năm 1995.
Với Việt Nam hiện nay, các nỗ lực sửa đổi Hiến pháp 1992, một văn bản bất cập vì mang nhiều dấu ấn của mô hình xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã lỗi thời, là rất cần thiết dù đã khá muộn.
Nhưng chuyển nhiều quyền cho cơ quan Chủ tịch nước cũng có nghĩa là trách nhiệm của vị nguyên thủ quốc gia mà hiện lo nhiều công tác mang tính nghi lễ sẽ nặng nề và khó khăn hơn.
Các quy định mới cũng cần ghi rõ nếu Chủ tịch nước làm sai thì cơ quan nào sẽ giám sát, cảnh báo nếu chưa thể luận tội được như với ‘President’ ở Mỹ.
Vì giới quan sát lịch sử cũng đã chỉ ra rằng mô hình tổng thống chế (khá được ưa thích ở Nam Mỹ và châu Phi) cũng dễ dẫn tới độc tài.
Còn nhìn chung, câu nói của nam tước John
Dalberg-Acton ở Anh từ xưa rằng ‘Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối’ luôn là điều nhắc nhở cho mọi người nắm quyền lo việc nước, bất kể ở đâu.
Tiến lên một bước nữa, nếu thực sự muốn tăng quyền và uy tín cho Chủ tịch nước, Việt Nam cần cho bầu cử trực tiếp chọn người nắm chức vụ này.
Vì nguyên thủ quốc gia do dân bầu trực tiếp (như ở Pháp, Nga, Ba Lan) tự thân có uy tín và quyền chính trị lớn hơn quyền đến từ một cơ quan nào khác trao cho.
Còn nếu Trung ương Đảng sẽ đóng vai trò giám sát Chủ tịch nước đó thì cũng cần đặt hoạt động của Trung ương Đảng vào quy định cụ thể của pháp luật.
Kinh nghiệm ở Anh cho thấy một định chế nắm quyền nghiễm nhiên, không qua bầu cử như Viện Nguyên Lão, tụ họp các dòng họ đại quý tộc hưởng quyền thế tập từ thế kỷ 10 và các giám mục Anh giáo, cũng có thể đặt vào hệ thống pháp luật chung nếu muốn.
Và cho đến ngày nay, Anh Quốc vẫn tiếp tục bàn về cải tổ House of Lords mà hiện có vai trò Thượng viện kiêm chức năng thẩm tra các vụ án vượt cấp với Tòa Tối cao (High Court).
Thời gian trước có ý kiến trong một số giới người Việt ở nước ngoài nói hay là cần lập ra một Thượng viện để lấy chỗ cho Trung ương Đảng.
Đấy chỉ là một quan điểm chưa rõ được hưởng ứng ra sao nhưng cũng không nên vì thế mà cho rằng sửa đổi Hiến pháp đã ‘đụng trần’ khi nói về sự lãnh đạo của Đảng tại Việt Nam.
Vì Đảng cầm quyền ở đâu thì cũng cần tiến hóa theo biến đổi thời sự và nhu cầu cuộc sống.
Ông
Trương Tấn Sang và phu nhân thăm Ấn Độ: dự kiến vai trò chủ
tịch nước Việt Nam sẽ bớt tính nghi lễ và có thêm quyền hạn
Đa số các nước theo chế độ dân chủ đại nghị chấp nhận ba nhánh của quyền lực thuộc về ba cơ quan chính: lập pháp nằm trong tay quốc hội, hành pháp do chính phủ nắm và tư pháp thuộc về hệ thống tòa án.
Không kể các chế độ ‘quân chủ tuyệt đối’ (absolute monarchy – như Ả Rập Saudi), hoặc ‘độc đảng ‘ (single-party state), còn tại các nước có tam quyền phân lập vị trí của tư pháp hay lập pháp thường định hình khá rõ nên chỉ còn hành pháp là cần bàn nhiều.
Ai lo việc gì?
Ở các nước quân chủ lập hiến như Anh, Thái Lan, Nhật Bản, quyền hành pháp nằm trong tay thủ tướng (head of government) .
Thủ tướng cũng điều hành chính phủ và chịu trách nhiệm hàng ngày về việc nước.
Quốc vương (nữ hoàng hoặc vua) đại diện cho quốc gia ra bên ngoài nhưng có quyền chính trị để giải tán chính phủ, quốc hội, ký quyết định lập nội các, phong các chức vụ cao cấp trong quân đội.
Ở các nước cộng hòa nghị viện (parliamentary republic) như ở Ý, tổng thống do quốc hội bầu chọn ra nhưng quyền lực không nhiều bằng thủ tướng.
Còn tại các nước theo có mô hình tổng thống chế (Hoa Kỳ và nhiều nước Nam Mỹ, Philippines), tổng thống cũng nắm luôn quyền điều hành nội các nên là chức vụ cao nhất và hùng mạnh nhất.
Theo hiến pháp các nước này, tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia (head of state), vừa đứng đầu chính phủ (head of government).
Hoa Kỳ và Philippines không có cả thủ tướng nhưng ở những nước như Đài Loan, Hàn Quốc, thủ tướng cũng chỉ đóng vai trò như một siêu chánh văn phòng nội các hoặc bộ trưởng thứ nhất do tổng thống chỉ định.
“Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối”
John Dalberg-Acton
Tại Pháp, nhìn chung thủ tướng và mọi bộ trưởng đều do tổng thống bổ nhiệm và phải phục tùng nguyên thủ quốc gia.
Tuy thế, Hiến pháp 1958 cho thủ tướng nhiều quyền hơn bình thường và quốc hội Pháp cũng có nhiều tiếng nói để ‘bảo vệ’ thủ tướng của họ nếu cần.
Điều này dẫn đến giai đoạn ‘chung sống’ (cohabitation) đặc biệt một thời khi Tổng thống Francois Mitterrand thuộc phe tả vừa cạnh tranh quyền lực vừa hợp tác với Thủ tướng Jacques Chirac của phe hữu.
Mô hình chuyển đổi
Nếu như các quốc gia dân chủ lâu đời phần nhiều đã có cơ chế tam quyền phân lập ổn định ghi rõ trong hiến pháp, hoặc cũng được thử nghiệm qua cải cách dân chủ từ thập niên 1980 (Hàn Quốc, Đài Loan, Bồ Đào Nha…), nhiều quốc gia Đông Âu đã và đang còn chỉnh sửa mô hình thể chế sau khi chế độ cộng sản sụp đổ vào thập niên 1990.
Ở Ba Lan, cuộc bầu cử quốc hội ‘bán dân chủ’ năm 1989 cho Tướng Wojciech Jaruzelski nắm quyền tổng thống nhưng là quyền do quốc hội chỉ định nhằm dung hòa hai phe gốc cộng sản và Công đoàn Đoàn kết.
Từ sau đó, bầu cử trực tiếp trao cho tổng thống uy tín lớn trong dân nhưng lại có ít quyền hiến định vì các hiến pháp dân chủ Ba Lan đều e ngại ‘dấu vết độc tài’ nên hạn chế quyền lực cho một cá nhân và chuyển nhiều quyền sang cho nghị viện.
Tình trạng này gây ra lộn xộn nghị trường vì các tranh cãi đảng phái gây bất ổn cho chính trị, cản trở các sáng kiến cải cách và về sau này, các đợt chỉnh sửa luật hiến pháp đã dần tăng quyền cho thủ tướng.
Hiện nay, tổng thống Ba Lan tuy có nhiều quyền hơn trước và là nguyên thủ quốc gia nhưng vẫn không nhiều quyền bằng thủ tướng.
Tuy thế, thủ tướng cũng chỉ có thể nắm quyền nếu lập được liên minh các đảng trong quốc hội và có thể bị quốc hội bãi nhiệm bất cứ lúc nào nếu hội tụ đủ số phiếu.
Chỉ cần 46 dân biểu thu thập đủ chữ ký là quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm hoặc bất tín nhiệm thủ tướng.
Tại Nga, ngay từ sau khi Liên Xô sụp đổ, quyền lực tổng thống dưới thời Boris Yeltsin đã được đề cao và còn tăng thêm trong hai nhiệm kỳ đầu của ông Vladimir Putin.
Thủ tướng Nga luôn có vai trò yếu hơn tổng thống và dù là vị trí được Viện Duma Quốc gia bổ nhiệm, chức vụ này có thể bị tổng thống miễn nhiệm bất cứ lúc nào.
Hiến pháp Nga quy định thủ tướng phải điều hành chính phủ ‘theo đúng các sắc lệnh của tổng thống’.
Hiện nằm trong tay ông Dmitry Medvedev, chức thủ tướng Nga chỉ có một ‘ưu điểm’ là trong trường hợp tổng thống đột tử thì thủ tướng sẽ lên làm tổng thống lâm thời cho đến khi quốc hội chọn ra người mới.
Tại Ba Lan, và một số nước Đông Âu hậu cộng sản theo mô hình dân chủ nghị viện, khi tổng thống đột tử (như trường hợp ông Lech Kaczynski năm 2010), thì người lên thay tạm thời lại là chủ tịch quốc hội.
Sự khác biệt này cho thấy xu hướng để thủ tướng ‘là người của tổng thống’ như tại Nga, hay ‘do Quốc hội kiểm soát’ như Ba Lan, mỗi bên đều có mặt hay và mặt dở của nó và là sản phẩm của diễn biến lịch sử mỗi nơi.
Tiến hóa thể chế
Nhìn chung, việc thể chế hóa cuộc đấu tranh giữa các cơ quan nắm quyền lực quốc gia không phải là chuyện lạ trong lịch sử các thể chế.
Ngay ở Anh, đây cũng là một quá trình lâu dài cho dù từ thời Henry VIII hệ thống chính trị luôn có vị quốc vương nắm cả thần quyền (đứng đầu Anh giáo) và thế quyền.
Ví dụ thủ tướng Anh tới giữa thế kỷ 19 chỉ là ‘bộ trưởng thứ nhất’ (primus inter pares) nhưng một luật về nghị viện năm 1911 đã tước đi nhiều quyền lập pháp của Thượng viện (Viện Nguyên lão – House of Lords) và trao cho thủ tướng quyền đề xuất sáng kiến lập pháp trong Hạ viện.
Tại Singapore, Thủ tướng có nhiều quyền hơn cả vì thừa hưởng vị thế của ‘Toàn quyền Singapore’ từ thời thực dân Anh nhưng chức này cũng phải do Tổng thống bổ nhiệm.
Tổng thống Singapore, theo một sửa đổi hiến pháp năm 1991 cũng có thêm quyền giám sát chi tiêu của Thủ tướng.
“Hiến pháp phản ánh một triết lý chính trị nhấn mạnh tới sự ổn định của chính quyền”
Thu tướng Singapore Lý Hiển Long
Nghị viện Mỹ cũng có thể mở các cuộc điều tra nhằm luận tội tổng thống (impeachment) với Chánh án Tối cao Pháp viện chủ tọa mà Bill Clinton là người gần nhất trở thành ‘đối tượng điều tra’ hồi năm 1995.
Với Việt Nam hiện nay, các nỗ lực sửa đổi Hiến pháp 1992, một văn bản bất cập vì mang nhiều dấu ấn của mô hình xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã lỗi thời, là rất cần thiết dù đã khá muộn.
Nhưng chuyển nhiều quyền cho cơ quan Chủ tịch nước cũng có nghĩa là trách nhiệm của vị nguyên thủ quốc gia mà hiện lo nhiều công tác mang tính nghi lễ sẽ nặng nề và khó khăn hơn.
Các quy định mới cũng cần ghi rõ nếu Chủ tịch nước làm sai thì cơ quan nào sẽ giám sát, cảnh báo nếu chưa thể luận tội được như với ‘President’ ở Mỹ.
Vì giới quan sát lịch sử cũng đã chỉ ra rằng mô hình tổng thống chế (khá được ưa thích ở Nam Mỹ và châu Phi) cũng dễ dẫn tới độc tài.
Thượng viện Anh được cải tổ từ Viện Nguyên lão do giới quý tộc và tăng lữ nắm qua nhiều thế kỷ
Còn nhìn chung, câu nói của nam tước John
Dalberg-Acton ở Anh từ xưa rằng ‘Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối’ luôn là điều nhắc nhở cho mọi người nắm quyền lo việc nước, bất kể ở đâu.
Tiến lên một bước nữa, nếu thực sự muốn tăng quyền và uy tín cho Chủ tịch nước, Việt Nam cần cho bầu cử trực tiếp chọn người nắm chức vụ này.
Vì nguyên thủ quốc gia do dân bầu trực tiếp (như ở Pháp, Nga, Ba Lan) tự thân có uy tín và quyền chính trị lớn hơn quyền đến từ một cơ quan nào khác trao cho.
Còn nếu Trung ương Đảng sẽ đóng vai trò giám sát Chủ tịch nước đó thì cũng cần đặt hoạt động của Trung ương Đảng vào quy định cụ thể của pháp luật.
Kinh nghiệm ở Anh cho thấy một định chế nắm quyền nghiễm nhiên, không qua bầu cử như Viện Nguyên Lão, tụ họp các dòng họ đại quý tộc hưởng quyền thế tập từ thế kỷ 10 và các giám mục Anh giáo, cũng có thể đặt vào hệ thống pháp luật chung nếu muốn.
Và cho đến ngày nay, Anh Quốc vẫn tiếp tục bàn về cải tổ House of Lords mà hiện có vai trò Thượng viện kiêm chức năng thẩm tra các vụ án vượt cấp với Tòa Tối cao (High Court).
Thời gian trước có ý kiến trong một số giới người Việt ở nước ngoài nói hay là cần lập ra một Thượng viện để lấy chỗ cho Trung ương Đảng.
Đấy chỉ là một quan điểm chưa rõ được hưởng ứng ra sao nhưng cũng không nên vì thế mà cho rằng sửa đổi Hiến pháp đã ‘đụng trần’ khi nói về sự lãnh đạo của Đảng tại Việt Nam.
Vì Đảng cầm quyền ở đâu thì cũng cần tiến hóa theo biến đổi thời sự và nhu cầu cuộc sống.
Nghị trường tiếp tục âu lo nợ xấu
VnEconomy
Đại biểu Quốc hội Trần Du Lịch nói “vòng kim cô” nợ xấu đang có dấu hiệu ngày một siết chặt…
Đại biểu Trần Du Lịch cho rằng “vòng kim cô” nợ xấu đang giết chết doanh nghiệp – Ảnh: CTV
Ở các mức độ quan ngại khác nhau, nợ xấu vẫn xuất hiện tại hầu hết các phát biểu tại phiên thảo luận đầu tiên tại hội trường của Quốc hội về tình hình kinh tế, xã hội sáng 30/10.
Trước đó, khi thảo luận tại tổ, liên quan đến tài chính tiền tệ, nhiều đại biểu đã “phê” báo cáo của Chính phủ chưa đánh giá khách quan, cụ thể, minh bạch tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng, thông tin thống kê không thống nhất khi có tới ba loại số liệu khác nhau.
Đại biểu Cao Sỹ Kiêm, mở đầu phiên thảo luận sáng nay cho rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến yếu kém của nền kinh tế hiện nay là một số lĩnh vực chưa được đánh giá đúng và chưa được kiểm soát chặt chẽ, số liệu chưa tin cậy, giải pháp còn nửa vời và hay thay đổi. Động lực phấn đấu đang mất dần, doanh nghiệp trong nước có tư tưởng chờ thời, một số nhà đầu tư nước ngoài rời khỏi thị trường, ông Kiêm quan ngại.
Nhìn nhận tình hình năm 2013 rất khó khăn và nặng nề, đại biểu Kiêm đề nghị phải tìm mọi cách để kiểm soát đánh giá thực chất tình hình nhất là các vấn đề đã được nhận lỗi qua kiểm điểm theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4. Đồng thời công bố nhanh giải pháp cho nợ xấu, tồn kho bằng các chính sách sát đúng để có thể bắt nhập vào thực tiễn.
Ủng hộ chỉ tiêu tăng trưởng GDP 5,5% vào năm sau, đại biểu Trần Du Lịch (Tp.HCM) dành cả thời gian 7 phút đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế.
Ông đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình (đang có mặt tại hội trường) quan tâm đến tình trạng quay vòng nợ xấu, ngân hàng huy động vốn trên 9% và doanh nghiệp đi vay không còn mức lãi suất 15%.
Theo ông “vòng kim cô” nợ xấu đang có dấu hiệu ngày một siết chặt, làm chết không biết bao nhiêu doanh nghiệp, cần sớm được giải quyết.
Đại biểu Lịch cũng đề nghị làm ấm dần thị trường bất động sản bằng tín dụng và chính sách tiền tệ, bên cạnh đó cũng không thể xem thường thị trường vàng, khi thời gian qua dường như việc quản lý thị trường này còn thiếu cân nhắc.
“Ngân hàng Nhà nước cần công khai minh bạch các tiêu chí về tái cơ cấu ngân hàng. Nếu không làm được điều này, dù công tâm đến đâu chúng ta cũng vẫn bị nghi ngờ và mất niềm tin”, ông Lịch phát biểu.
Với chính sách tài khóa, ông Lịch đề nghị Chính phủ nên tiếp tục kéo dài các chương trình hỗ trợ theo tinh thần Nghị quyết 13 đến hết năm sau. Đồng thời, nên áp dụng ngay Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) với mức giảm trừ gia cảnh mới từ 1/1/2013.
Cũng như nhiều ý kiến khác, vị đại biểu này cũng đề nghị cần tăng lương theo lộ trình, đồng thời tiếp tục cắt giảm 10% chi thường xuyên trong năm 2013, so với mức thực chi trong năm 2012.
Nhấn mạnh phải xây dựng bằng được một lộ trình tái cơ cấu trong vòng 3 năm tới chứ không thể ăn đong từng năm một như hiện nay, ông Lịch cũng nhắc lại đề nghị đã được đưa ra tại phiên thảo luận tổ về thành lập ủy ban quốc gia tái cơ cấu nền kinh tế, vì “nếu làm theo kiểu hiện nay tôi không tin từng bộ ngành có thể làm được”.
Quan ngại nợ xấu đã vượt quá kiểm soát, đại biểu Dương Hoàng Hương (Phú Thọ) đề nghị việc này phải được làm khẩn trương và quyết liệt với số liệu thống nhất và làm rõ nguồn gốc phát sinh của các khoản nợ.
Theo đại biểu Bùi Đức Thụ (Lai Châu) để xử lý hàng tồn kho và nợ xấu một cách căn cơ thì cần đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế. Còn việc thành lập công ty mua bán nợ thực chất chỉ chuyển nợ từ hệ thống ngân hàng ra khỏi hệ thống này mà thôi.
Ý kiến của đại biểu Lê Hữu Đức (Khánh Hòa) là cần kiên quyết dừng hoạt động các ngân hàng nhỏ, yếu kém đang gây xáo trộn thị trường.
Còn theo quan điểm của đại biểu Huỳnh Ngọc Đáng thì xử lý nợ xấu khác mua bán nợ xấu. Ủng hộ chủ trương của Chính phủ không dùng ngân sách để xử lý nợ, ông cho rằng không nên lúc nào cũng dựa vào ngân sách. “Tăng lương còn không có nguồn thì sao có thể đem tiền ngân sách đi mua nợ xấu, nếu năng động hơn thì đem nợ xấu “chào hàng” các tổ chức quốc tế”, ông Đáng gợi ý.
Chiều nay, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế xã hội.
TP.HCM: Hàng loạt dự án trọng điểm nhận ‘tối hậu thư’
– Hàng
loạt dự án trọng điểm tại TP.HCM đang được yêu cầu gấp rút thực hiện kịp
tiến độ vào thời điểm những tháng cuối năm, nhằm giúp thành phố giải
quyết các bất cập về giao thông và môi trường.
Ngày 30/10, UBND TPHCM đã chỉ đạo Tổng Công ty Cơ khí giao thông vận tải Sài Gòn TNHH Một thành viên và Khu Quản lý Giao thông đô thị số 2 phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn tất công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng 3 dự án trọng điểm.
Theo đó, danh sách được yêu cầu gồm: dự án xây dựng tuyến đường sắt
đô thị số 1, dự án xây dựng bến xe Miền Đông và dự án mở rộng xa lộ Hà
Nội trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Thành phố yêu cầu, mặt bằng dự án tuyến đường sắt đô thị số 1, dự án bến xe Miền Đông và dự án mở rộng xa lộ Hà Nội (đoạn đi trùng với tuyến đường sắt đô thị số 1 dài khoảng 450m) phải bàn giao hạn chót là ngày 31/12. Riêng đoạn còn lại của dự án mở rộng xa lộ Hà Nội được gia hạn đến ngày 31/3/2013.
Thông tin mới về tình hình xử lý tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng tại kênh Ba Bò (VietNamNet từng thông tin), TP.HCM và UBND tỉnh Bình Dương mới đây đã thống nhất biện pháp giải quyết đồng bộ tình trạng ô nhiễm.
Trước ngày cuối cùng của quý IV/2012, chủ đầu tư phải hoàn tất việc cải tạo, nâng cấp tuyến cống thoát nước thượng nguồn kênh Ba Bò. Trung tâm Điều hành chương trình chống ngập nước thành phố được giao hoàn tất việc xây dựng hồ sinh học xử lý nước thải và hồ điều tiết trước quý IV/2013.
Việc bổ sung các trạm quan trắc tư động cũng được giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường nhằm kiểm soát và cải thiện chất lượng nước sông Sài Gòn.
• Quốc Quang
http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/94754/hang-loat-du-an-trong-diem-nhan–toi-hau-thu-.html
Ngày 30/10, UBND TPHCM đã chỉ đạo Tổng Công ty Cơ khí giao thông vận tải Sài Gòn TNHH Một thành viên và Khu Quản lý Giao thông đô thị số 2 phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn tất công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng 3 dự án trọng điểm.
Ô nhiễm nghiêm trọng ở một dòng kênh nhỏ đoạn Bình Dương thuộc thượng lưu kênh Ba Bò. |
Thành phố yêu cầu, mặt bằng dự án tuyến đường sắt đô thị số 1, dự án bến xe Miền Đông và dự án mở rộng xa lộ Hà Nội (đoạn đi trùng với tuyến đường sắt đô thị số 1 dài khoảng 450m) phải bàn giao hạn chót là ngày 31/12. Riêng đoạn còn lại của dự án mở rộng xa lộ Hà Nội được gia hạn đến ngày 31/3/2013.
Thông tin mới về tình hình xử lý tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng tại kênh Ba Bò (VietNamNet từng thông tin), TP.HCM và UBND tỉnh Bình Dương mới đây đã thống nhất biện pháp giải quyết đồng bộ tình trạng ô nhiễm.
Trước ngày cuối cùng của quý IV/2012, chủ đầu tư phải hoàn tất việc cải tạo, nâng cấp tuyến cống thoát nước thượng nguồn kênh Ba Bò. Trung tâm Điều hành chương trình chống ngập nước thành phố được giao hoàn tất việc xây dựng hồ sinh học xử lý nước thải và hồ điều tiết trước quý IV/2013.
Việc bổ sung các trạm quan trắc tư động cũng được giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường nhằm kiểm soát và cải thiện chất lượng nước sông Sài Gòn.
• Quốc Quang
http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/94754/hang-loat-du-an-trong-diem-nhan–toi-hau-thu-.html
’Thống đốc không thể hứa gì về xử lý nợ xấu’
VnExpress (VỤ NÀY THÌ MIỄN BÌNH LOẠN LUÔN)
Cho rằng xử lý nợ xấu là trách nhiệm của nhiều cơ quan, trong đó có
cả Quốc hội và Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng khẳng định chỉ riêng cá
nhân ông thì không thể hứa gì về quá trình này.
> Khởi động đề án công ty mua bán nợ quốc gia
Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng có mặt trong phiên thảo luận của Quốc
hội ngày 30/10, để lắng nghe ý kiến của các đại biểu về tình hình kinh
tế xã hội 2012-2013. Chưa phải là phiên chất vấn, nhưng do nhiều đại
biểu quan tâm tới lĩnh vực ngân hàng, Thống đốc Nguyễn Văn Bình được Phó
chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị phát biểu. Người đứng đầu
ngành ngân hàng chỉ xin phép nói về 2 vấn đề nhức nhối nhất là xử lý nợ
xấu và tái cơ cấu các tổ chức tín dụng.
Thống đốc cho rằng riêng ngân hàng không thể giải quyết nợ xấu. Ảnh: Hoàng Hà
Theo số liệu của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, tính đến 31/3, nợ xấu
hệ thống ngân hàng là 202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% dư nợ, thay vì báo cáo
cảu các ngân hàng chỉ là 4,47%.Tuần trước, Chánh thanh tra Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Hữu Nghĩa cho biết chưa có con số cập nhật chính xác, nhưng về tỷ lệ, nợ xấu vẫn dao động 8-10%. Từ quý I đến nay, các ngân hàng đã xử lý được 36.000 tỷ đồng nợ xấu, họ cũng trích lập dự phòng rủi ro hơn 70.000 tỷ đồng.
Đề án lập công ty quốc gia về mua bán nợ xấu mà Ngân hàng Nhà nước đang hoàn tất có mục tiêu xử lý 60.000-100.000 tỷ đồng nữa.
Nhắc lại rằng những vấn đề xung quanh việc xử lý nợ xấu đã được trình bày kỹ lưỡng trong phiên chất vấn tại Ủy ban Thường vụ hồi cuối tháng 8, Thống đốc Bình cho biết chỉ đề nghị được “mượn” diễn đàn Quốc hội để tái khẳng định rằng nợ xấu không phải là một con số duy nhất mà “biến động hàng ngày”. Nhận định này được ông đưa ra trước nhiều ý kiến cho rằng các thống kê nợ xấu của cơ quan quản lý hiện không thống nhất.
“Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hiện chưa có một bộ tiêu chí nào được coi là thống nhất để tính toán nợ xấu. Tuy nhiên, người ta đều thống nhất rằng con số do cơ quản quản lý, trong trường hợp này là Ngân hàng Nhà nước, đưa ra là có cơ sở nhất”, ông Bình nói. Theo người đứng đầu ngành ngân hàng, diễn biến nợ xấu từ đầu năm 2012 đến nay rất thống nhất với diễn biến của nền kinh tế: “Tăng mạnh đầu năm, kể từ tháng 6 thì tăng chậm hẳn lại”.
Về trách nhiệm giải quyết nợ xấu, Thống đốc Bình cho rằng nếu chỉ đơn thuần là nợ giữa ngân hàng và doanh nghiệp thì trách nhiệm đương nhiên thuộc về 2 đối tượng này. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng trong số tài sản thế chấp của doanh nghiệp có rất nhiều hàng tồn kho (đã được thế chấp để vay vốn). Do đó việc tiêu thụ hàng tồn cũng có đóng góp quan trọng vào việc giải quyết nợ xấu.
“Hiện nợ đọng tiền xây dựng cơ bản ở các địa phương lên tới hơn 90.000 tỷ đồng. Nếu giải quyết được số này thì nợ xấu cũng giảm được đáng kể. Ngoài ra, nợ đọng vốn bất động sản khác hiện cũng rất lớn”, Thống đốc nói.
Về đề án xử lý nợ xấu, ông Bình cho biết đã được Ngân hàng Nhà nước hoàn thành, và hiện đang ở giai đoạn xin ý kiến Bộ Chính trị do còn liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan khác như Chính phủ, Quốc hội. “Với tư cách là Thống đốc, tôi không thể hứa gì về việc giải quyết nợ xấu. Tuy nhiên, theo đề án, đến năm 2015, sẽ phấn đấu đưa nợ xấu về mức thông thường, tức là khoảng 3%”, ông Bình phát biểu.
Trong phần phát biểu của mình, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng dành thời gian để nói nhiều về tiến độ thực hiện đề án tái cơ cấu ngân hàng. Ông cũng lưu ý rằng bên cạnh việc mua bán, sáp nhập, quá trình này còn bao gồm nhiều nội dung khác như làm lành mạnh hóa tài chính các ngân hàng, vốn đang thu được nhiều kết quả tích cực.
Về việc xử lý các ngân hàng yếu kém Thống đốc cho biết Chính đã thành lập ban chỉ đạo liên ngành, do Phó thủ tướng làm trưởng ban. Tại mỗi ngân hàng được xử lý cũng có ban chỉ đạo riêng “Như vậy, quá trình xử lý ngân hàng thương mại không phải chỉ có ý kiến của Ngân hàng Nhà nước còn nhiều cơ quan, bộ ngành”, ông Bình nói.
Căn cứ vào những tiêu chí đánh giá cụ thể, đã có trong luật, người đứng đầu ngân hàng cho biết một mặt đang thực hiện thanh tra tại chỗ đối với 26 tổ chức tín dụng trong năm nay. Mặt khác, cơ quan quản lý cũng mời các hãng kiểm toán độc lập để đánh giá sức khỏe ngân hàng. “Kết quả ban đầu cho thấy những tổ chức tín dụng yếu kém, cần tái cơ cấu đều rất xứng đáng”, ông nói.
Ngoài ra, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng cho biết Ngân hàng Nhà nước đang trong giai đoạn thống nhất với các tổ chức tín dụng về phương án xử lý, trên cơ sở tôn trọng tính tự nguyện của các nhà băng này. Ông cũng cam kết ngay khi có được kết quả cuối cùng, các con số cũng như phương án tái cơ cấu cụ thể sẽ được Ngân hàng Nhà nước công bố.
Thực hiện đề án do Ngân hàng Nhà nước xây dựng, tính đến nay có 6 ngân hàng đã tiến hành tái cơ cấu theo lộ trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Đầu tiên là vụ hợp nhất của 3 ngân hàng: Ngân hàng cổ phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Tín Nghĩa, Ngân hàng Đệ nhất và sau đó là thương vụ sáp nhập Habubank và SHB. TienPhongBank cũng là thực hiện tự tái cơ cấu với việc chào đón cổ đông mới là Tập đoàn vàng bạc đá quý DOJI. |
Càng siết quản lý vàng, nền kinh tế càng chịu thiệt
SGTT.VN -
Trong tuần qua, ông Lê Minh Hưng, Phó thống đốc Ngân hàng nhà nước
(NHNN), đã đưa ra một số thông tin về các chính sách mà NHNN có thể thực
hiện nhằm quản lý thị trường vàng trong thời gian tới. Trong số các
chính sách này đáng chú ý nhất các chính sách kéo dài thời hạn đóng
trạng thái vàng, quan điểm của nhà nước về quản lý thị trường vàng, về
huy động vàng trong dân, và khả năng áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối
với việc mua bán vàng.
Vàng là hàng hoá hay tiền tệ?
Dường như NHNN đang cố gắng xây dựng chính sách về vàng theo hướng coi vàng chỉ đơn thuần là hàng hoá thay vì là là một loại tiền tệ đặc biệt.
Thứ nhất, NHNN tiếp tục theo đuổi kế hoạch yêu cầu các NHTM đã huy động vàng trước đây phải đóng trạng thái cho dù thời hạn được đẩy lùi đến 30.6.2013.
Mục đích của hành động này là nhằm hướng đến một thị trường vàng tại đó chỉ có quan hệ giao dịch mua và bán vàng chứ không còn có quan hệ tín dụng với vàng. Theo giải thích của ông Lê Minh Hưng thì cách ứng xử với vàng như thế sẽ tương tự như với các ngoại tệ.
Nếu Việt Nam không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hoạt động mua bán các đồng ngoại tệ, thì việc đánh thuế đối với vàng sẽ là phi lý.=====>>>
Thực tế thì rõ ràng không phải như vậy. Hiện tại mặc dù NHNN đưa ra các chính sách khuyến khích các NHTM mua – bán ngoại tệ và giảm quan hệ tín dụng, nhưng quan hệ tín dụng ngoại tệ vẫn tồn tại. Lãi suất huy động ngoại tệ tuy bị kiểm soát nhưng vẫn luôn duy trì ở mức trần 2%. Trong nhiều thời điểm, các NHTM thậm chí vẫn lách trần để huy động được nhiều ngoại tệ.
Việc tồn tại quan hệ tín dụng với ngoại tệ trên thực tế đơn giản là vì ngoại tệ là tiền tệ chứ không phải là hàng hoá dù NHNN có muốn điều đó hay không. Hay nói cách khác, nếu đối xử với vàng tương tự như các chính sách hiện tại với ngoại tệ thì huy động vàng vẫn nên phải được duy trì, dù lãi suất huy động có thể thấp hơn.
Thứ hai, ý định đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với việc sở hữu vàng miếng càng thể hiện rõ nét quan điểm coi vàng như là một loại hàng hoá. Theo NHNN, vàng miếng là loại mặt hàng mà NHNN không khuyến khích người dân cất giữ. Và nếu như coi vàng miếng là hàng hoá thì đương nhiên việc tiêu thụ vàng phải chịu thuế giá trị gia tăng.
Nhưng rõ ràng từ xưa đến nay vàng miếng không phải là thứ đồ trang sức. Trước việc các ngân hàng trung ương trên thế giới luôn có xu hướng lạm phát in tiền, người dân khắp thế giới đều cần tìm tới một công cụ để phòng vệ lại sự mất giá cả các đồng tiền. Đó là lý do cốt yếu khiến người dân phải nắm giữ vàng. Tất nhiên người dân cũng có thể đầu tư vào các tài sản khác có giá trị như bất động sản… để chống lại sự mất giá của đồng tiền. Nhưng các tài sản này thường có giá trị rất lớn, không đồng nhất, khó vận chuyển, thanh khoản kém hơn vàng rất nhiều.
Các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới dự trữ vàng không phải để làm cảnh. Họ cũng đều ý thức được rằng tiền giấy của bất kỳ một quốc gia nào, dù là đồng đôla, euro, yen, nhân dân tệ v.v. đều không đáng tin cậy. Đó là lý do mà các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đều dự trữ vàng. Do việc coi vàng như là một loại tiền tệ, nên vàng gần như có thể chuyển đổi thành một loại tiền giấy nào đó ngay tức thì với các chi phí chuyển đổi rất thấp.
Vì không có quốc gia nào coi ngoại tệ là thứ hàng hoá xa xỉ để đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, nên một khi vàng miếng được đối xử như là tiền tệ thì không có quốc gia nào đánh thuế tiêu thụ đối với vàng miếng. Nếu Việt Nam không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hoạt động mua bán các đồng ngoại tệ, thì việc đánh thuế đối với vàng sẽ là phi lý.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Anh, Úc v.v. đều chỉ đánh thuế vốn khi đầu tư vào vàng miếng hoặc tín chỉ vàng (capital gains tax). Tức là nếu như một ai đó đầu tư vào vàng miếng hoặc tín chỉ vàng và thu được một khoản lãi nào đó thì anh ta sẽ phải nộp thuế. Việc đầu tư vào vàng trong trường hợp này được xem như tương tự đối với đầu tư trên thị trường ngoại hối hoặc chứng khoán. Nhưng chính phủ chỉ có thể làm được điều này khi quốc gia đó đã xây dựng được một thị trường vàng hiện đại để kiểm soát được trạng thái nắm giữ vàng của một cá nhân nào đó.
Dĩ nhiên, chính phủ có thể đánh thuế đối với vàng trang sức, vì đó thực sự là một loại hàng hoá.
Đi ngược thời đại
Không có được một cái nhìn rõ ràng đối với việc coi vàng miếng là tiền tệ hay hàng hoá, đã khiến cho NHNN lúng túng trong chính sách về vàng trong suốt nhiều năm qua.
Hiện nay các quốc gia trên thế giới đều đang cố gắng xây dựng các thị trường vàng thông thoáng, hấp dẫn để thu hút giới đầu tư, điển hình là Trung Quốc và Singapore. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc không những mua vàng mà còn khuyến khích dân chúng mua vàng để phòng vệ rủi ro đối với đồng USD. Trung Quốc còn chủ động xây dựng chuẩn vàng miếng đạt chuẩn thế giới, để tạo điều kiện biến Thượng Hải trở thành một trung tâm giao dịch vàng hàng đầu thế giới.
Singapore cũng đã có những nỗ lực vượt bậc trong thời gian qua để biến nước này thành một trung tâm giao dịch vàng hàng đầu trên thế giới. Quốc gia này gần đây đã miễn bỏ hoàn toàn các loại thuế đầu tư vào vàng.
Trong khi đó, NHNN cứ loay hoay với các biện pháp không khuyến khích người dân sở hữu vàng miếng, thay vì tập trung vào vấn đề cốt lõi là xây dựng một thị trường vàng hiện đại, liên thông với thế giới cho Việt Nam.
Các chính sách hiện tại đã tạo ra những nghịch lý là người dân phải mua vàng với mức giá cao hơn nhiều so với giá trị thực hiện nay trên thế giới. Ngay từ khi NHNN thực hiện chính sách độc quyền với vàng miếng SJC, người dân đã thiệt thòi khi phải chuyển đổi từ vàng miếng của các thương hiệu khác sang vàng SJC. Giá vàng SJC tính tới điểm 28.10.2012 là 46,35 triệu đồng/lượng, cao hơn so với giá vàng thế giới quy đổi và giá vàng của Bảo Tín Minh Châu là 3,3 triệu đồng/lượng. Nếu áp dụng cả chính sách đánh thuế tiêu thụ dặc biệt thì mức chênh so với giá vàng thế giới sẽ còn lên đến bao nhiêu?
Nếu việc chênh lệch lớn giữa giá vàng SJC với vàng thế giới tiếp tục được duy trì thì công việc sắp tới đối với NHNN có lẽ là tìm cách chống làm giả bao bì vàng SJC. Việc này chắc chắn khó khăn và tốn kém hơn nhiều so với việc chống làm giả tiền đồng.
Việc cấm đoán các NHTM không được nhập khẩu vàng đã khiến cho các NHTM kinh doanh vàng miếng trước đây chịu một sức ép lớn trong việc cân đối trạng thái vàng, và cũng đã có ngân hàng công bố khoản thua lỗ. Có thể việc thua lỗ này không thuần tuý là lỗi kinh doanh, mà một phần quan trọng là lỗi chính sách. Sẽ là sai lầm khi cho rằng thua lỗ do kinh doanh tài chính đối với vàng thì chỉ khu vực tài chính phải gánh chịu mà không ảnh hưởng đến ngành công nghiệp vàng trang sức. Thực ra hai khu vực này liên hệ chặt chẽ với nhau đến mức sự thua thiệt của khu vực này sẽ khiến cho khu vực kia không thể duy trì được hoạt động kinh doanh ổn định như trước đây. Với chính sách bế quan toả cảng đối với vàng như vậy thì e rằng ngành công nghiệp kinh doanh vàng của Việt Nam trong thời gian tới có nguy cơ bị xoá sổ trên bản đồ thế giới.
Như vậy, với việc áp đặt những biện pháp quản lý không phù hợp với vàng miếng trong thời gian qua, NHNN đã không những không ổn định được giá vàng như đã hứa mà còn có nguy cơ khiến cho sự phát triển của thị trường tài chính đối với vàng và cả ngành công nghiệp vàng trang sức bị kìm hãm, khó cạnh tranh được với thế giới. Những chính sách theo chiều hướng cấm, siết, hạn chế đối với vàng trong thời gian tới cần được cân nhắc, mổ xẻ một cách kỹ lưỡng.
Nguyên Minh Cường
Vàng là hàng hoá hay tiền tệ?
Dường như NHNN đang cố gắng xây dựng chính sách về vàng theo hướng coi vàng chỉ đơn thuần là hàng hoá thay vì là là một loại tiền tệ đặc biệt.
Thứ nhất, NHNN tiếp tục theo đuổi kế hoạch yêu cầu các NHTM đã huy động vàng trước đây phải đóng trạng thái cho dù thời hạn được đẩy lùi đến 30.6.2013.
Mục đích của hành động này là nhằm hướng đến một thị trường vàng tại đó chỉ có quan hệ giao dịch mua và bán vàng chứ không còn có quan hệ tín dụng với vàng. Theo giải thích của ông Lê Minh Hưng thì cách ứng xử với vàng như thế sẽ tương tự như với các ngoại tệ.
Nếu Việt Nam không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hoạt động mua bán các đồng ngoại tệ, thì việc đánh thuế đối với vàng sẽ là phi lý.=====>>>
Thực tế thì rõ ràng không phải như vậy. Hiện tại mặc dù NHNN đưa ra các chính sách khuyến khích các NHTM mua – bán ngoại tệ và giảm quan hệ tín dụng, nhưng quan hệ tín dụng ngoại tệ vẫn tồn tại. Lãi suất huy động ngoại tệ tuy bị kiểm soát nhưng vẫn luôn duy trì ở mức trần 2%. Trong nhiều thời điểm, các NHTM thậm chí vẫn lách trần để huy động được nhiều ngoại tệ.
Việc tồn tại quan hệ tín dụng với ngoại tệ trên thực tế đơn giản là vì ngoại tệ là tiền tệ chứ không phải là hàng hoá dù NHNN có muốn điều đó hay không. Hay nói cách khác, nếu đối xử với vàng tương tự như các chính sách hiện tại với ngoại tệ thì huy động vàng vẫn nên phải được duy trì, dù lãi suất huy động có thể thấp hơn.
Thứ hai, ý định đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với việc sở hữu vàng miếng càng thể hiện rõ nét quan điểm coi vàng như là một loại hàng hoá. Theo NHNN, vàng miếng là loại mặt hàng mà NHNN không khuyến khích người dân cất giữ. Và nếu như coi vàng miếng là hàng hoá thì đương nhiên việc tiêu thụ vàng phải chịu thuế giá trị gia tăng.
Nhưng rõ ràng từ xưa đến nay vàng miếng không phải là thứ đồ trang sức. Trước việc các ngân hàng trung ương trên thế giới luôn có xu hướng lạm phát in tiền, người dân khắp thế giới đều cần tìm tới một công cụ để phòng vệ lại sự mất giá cả các đồng tiền. Đó là lý do cốt yếu khiến người dân phải nắm giữ vàng. Tất nhiên người dân cũng có thể đầu tư vào các tài sản khác có giá trị như bất động sản… để chống lại sự mất giá của đồng tiền. Nhưng các tài sản này thường có giá trị rất lớn, không đồng nhất, khó vận chuyển, thanh khoản kém hơn vàng rất nhiều.
Các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới dự trữ vàng không phải để làm cảnh. Họ cũng đều ý thức được rằng tiền giấy của bất kỳ một quốc gia nào, dù là đồng đôla, euro, yen, nhân dân tệ v.v. đều không đáng tin cậy. Đó là lý do mà các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đều dự trữ vàng. Do việc coi vàng như là một loại tiền tệ, nên vàng gần như có thể chuyển đổi thành một loại tiền giấy nào đó ngay tức thì với các chi phí chuyển đổi rất thấp.
Vì không có quốc gia nào coi ngoại tệ là thứ hàng hoá xa xỉ để đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, nên một khi vàng miếng được đối xử như là tiền tệ thì không có quốc gia nào đánh thuế tiêu thụ đối với vàng miếng. Nếu Việt Nam không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hoạt động mua bán các đồng ngoại tệ, thì việc đánh thuế đối với vàng sẽ là phi lý.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Anh, Úc v.v. đều chỉ đánh thuế vốn khi đầu tư vào vàng miếng hoặc tín chỉ vàng (capital gains tax). Tức là nếu như một ai đó đầu tư vào vàng miếng hoặc tín chỉ vàng và thu được một khoản lãi nào đó thì anh ta sẽ phải nộp thuế. Việc đầu tư vào vàng trong trường hợp này được xem như tương tự đối với đầu tư trên thị trường ngoại hối hoặc chứng khoán. Nhưng chính phủ chỉ có thể làm được điều này khi quốc gia đó đã xây dựng được một thị trường vàng hiện đại để kiểm soát được trạng thái nắm giữ vàng của một cá nhân nào đó.
Dĩ nhiên, chính phủ có thể đánh thuế đối với vàng trang sức, vì đó thực sự là một loại hàng hoá.
Đi ngược thời đại
Không có được một cái nhìn rõ ràng đối với việc coi vàng miếng là tiền tệ hay hàng hoá, đã khiến cho NHNN lúng túng trong chính sách về vàng trong suốt nhiều năm qua.
Hiện nay các quốc gia trên thế giới đều đang cố gắng xây dựng các thị trường vàng thông thoáng, hấp dẫn để thu hút giới đầu tư, điển hình là Trung Quốc và Singapore. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc không những mua vàng mà còn khuyến khích dân chúng mua vàng để phòng vệ rủi ro đối với đồng USD. Trung Quốc còn chủ động xây dựng chuẩn vàng miếng đạt chuẩn thế giới, để tạo điều kiện biến Thượng Hải trở thành một trung tâm giao dịch vàng hàng đầu thế giới.
Singapore cũng đã có những nỗ lực vượt bậc trong thời gian qua để biến nước này thành một trung tâm giao dịch vàng hàng đầu trên thế giới. Quốc gia này gần đây đã miễn bỏ hoàn toàn các loại thuế đầu tư vào vàng.
Trong khi đó, NHNN cứ loay hoay với các biện pháp không khuyến khích người dân sở hữu vàng miếng, thay vì tập trung vào vấn đề cốt lõi là xây dựng một thị trường vàng hiện đại, liên thông với thế giới cho Việt Nam.
Các chính sách hiện tại đã tạo ra những nghịch lý là người dân phải mua vàng với mức giá cao hơn nhiều so với giá trị thực hiện nay trên thế giới. Ngay từ khi NHNN thực hiện chính sách độc quyền với vàng miếng SJC, người dân đã thiệt thòi khi phải chuyển đổi từ vàng miếng của các thương hiệu khác sang vàng SJC. Giá vàng SJC tính tới điểm 28.10.2012 là 46,35 triệu đồng/lượng, cao hơn so với giá vàng thế giới quy đổi và giá vàng của Bảo Tín Minh Châu là 3,3 triệu đồng/lượng. Nếu áp dụng cả chính sách đánh thuế tiêu thụ dặc biệt thì mức chênh so với giá vàng thế giới sẽ còn lên đến bao nhiêu?
Nếu việc chênh lệch lớn giữa giá vàng SJC với vàng thế giới tiếp tục được duy trì thì công việc sắp tới đối với NHNN có lẽ là tìm cách chống làm giả bao bì vàng SJC. Việc này chắc chắn khó khăn và tốn kém hơn nhiều so với việc chống làm giả tiền đồng.
Việc cấm đoán các NHTM không được nhập khẩu vàng đã khiến cho các NHTM kinh doanh vàng miếng trước đây chịu một sức ép lớn trong việc cân đối trạng thái vàng, và cũng đã có ngân hàng công bố khoản thua lỗ. Có thể việc thua lỗ này không thuần tuý là lỗi kinh doanh, mà một phần quan trọng là lỗi chính sách. Sẽ là sai lầm khi cho rằng thua lỗ do kinh doanh tài chính đối với vàng thì chỉ khu vực tài chính phải gánh chịu mà không ảnh hưởng đến ngành công nghiệp vàng trang sức. Thực ra hai khu vực này liên hệ chặt chẽ với nhau đến mức sự thua thiệt của khu vực này sẽ khiến cho khu vực kia không thể duy trì được hoạt động kinh doanh ổn định như trước đây. Với chính sách bế quan toả cảng đối với vàng như vậy thì e rằng ngành công nghiệp kinh doanh vàng của Việt Nam trong thời gian tới có nguy cơ bị xoá sổ trên bản đồ thế giới.
Như vậy, với việc áp đặt những biện pháp quản lý không phù hợp với vàng miếng trong thời gian qua, NHNN đã không những không ổn định được giá vàng như đã hứa mà còn có nguy cơ khiến cho sự phát triển của thị trường tài chính đối với vàng và cả ngành công nghiệp vàng trang sức bị kìm hãm, khó cạnh tranh được với thế giới. Những chính sách theo chiều hướng cấm, siết, hạn chế đối với vàng trong thời gian tới cần được cân nhắc, mổ xẻ một cách kỹ lưỡng.
Nguyên Minh Cường
41.200 doanh nghiệp giải thể, tạm đóng cửa từ đầu năm
(Dân trí) – Theo thông tin từ Văn phòng Chính phủ, trong tháng 10, số doanh nghiệp giải thể và tạm ngừng hoạt động trên cả nước đã giảm khá nhiều, khoảng 1.000 doanh nghiệp. Tính chung 10 tháng, cả nước có 41.200 doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động.
Trước đó, tháng 7 có khoảng 4.000 doanh nghiệp giải thể và tạm ngừng hoạt động, tháng 8 có 5.000 doanh nghiệp và tháng 9 cũng có 5.000 doanh nghiệp lâm vào tình trạng này.Trong khi đó, có khoảng 6.000 doanh nghiệp được thành lập trong tháng 10. Tính chung 10 tháng, cả nước có hơn 57.000 doanh nghiệp mới được thành lập, trong khi đó có 41.200 doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động. Con số này giảm 7,4% so với cùng kỳ năm 2011.
Tuy nhiên, điều này không hẳn là chỉ báo cho thấy tình hình khó khăn đối với kinh tế đã giảm đi. Trong các báo cáo lần này không cho thấy được cầu tiêu dùng có tăng lên hay không thông qua chỉ số bán lẻ.
Đến hôm 29/10, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Công thương, cơ quan này cũng thông báo, tính đến 1/10, chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã tăng 1,3% so tháng trước và tăng 20,3% so cùng kỳ. Mặc dù cho biết, phản ánh của các Hiệp hội ngành nghề trực thuộc Bộ đều cho thấy đây là mức tồn kho chấp nhận được cho hoạt động cuối năm cũng như đảm bảo hàng hóa Tết, song không thể khẳng định tình hình doanh nghiệp đã khá lên.
Vấn đề còn nằm ở việc, mặc dù thanh khoản trong hệ thống ngân hàng được cải thiện đáng kể song dường như nền kinh tế rất khó hấp thụ vốn.
Tổng dư nợ tín dụng (bao gồm cả đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác) của nền kinh tế hiện nay so với thời điểm 31/12/2011 mới chỉ tăng 2,77% – đây là mức rất thấp và còn cách rất xa so với kế hoạch tăng trưởng tín dụng mà NHNN đã đặt ra.
Trong khi đó, vốn huy động chảy vào ngân hàng tăng mạnh. Tính đến ngày 19/10/2012, so với 31/12/2011, tổng dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 14,2%. Lãi suất cho vay ghi nhận giảm 5-8% so cuối năm 2011. Trong đó, cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, lãi suất phổ biến ở mức 11-13%. Lãi suất cho vay ở những lĩnh vực kinh doanh sản xuất khác ở mức 14-17%/năm.
Như vậy, bài toán đặt ra ở đây, nếu như lãi suất cho vay hạ (trên ghi nhận của cơ quan chức năng) nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất cuối năm, song nguồn vốn chảy vào doanh nghiệp vẫn chưa cao, tức mục tiêu mà NHNN đặt ra chưa thật sự đạt được.
Theo một số cảnh báo, nếu phần thanh khoản dư thừa tại các ngân hàng không được sử dụng hợp lý thì sẽ có thể tạo ra những hệ lụy xấu cho nền kinh tế, khi không chảy vào lĩnh vực sản xuất và cũng không giúp doanh nghiệp mở rộng được sản xuất kinh doanh. Đây là yếu tố có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát quay trở lại, hoặc vốn sẽ chảy vào bất động sản và chứng khoán.
Cũng theo ghi nhận của cơ quan thống kê, lũy kế đến 15/10/2012, tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước đạt gần 523,4 nghìn tỷ đồng, bằng 70,7% dự toán, trong khi tổng chi NSNN ước đạt gần 678,6 nghìn tỷ đồng, bằng 75,1% dự toán. Như vậy, tính đến giữa tháng 10, NSNN đang thâm hụt 155,2 nghìn tỷ đồng.
Với tình hình doanh nghiệp vẫn còn khó khăn như hiện nay, thậm chí, nhiều phản ánh cho biết, lãi suất ngân hàng đã bị đẩy lên đến 21%/năm, trong khi chính sách tăng thu của Chính phủ nếu không được thực hiện một cách khéo léo và hợp lý sẽ có thể khiến doanh nghiệp đã khó lại khó hơn. Điều dễ hiểu, doanh nghiệp trong bối cảnh hiện tại, khi đầu ra còn “phập phù” sẽ không dám vay thêm để gánh chi phí lãi. Chính điều này là nguy cơ khiến thu ngân sách năm sau có thể bị ảnh hưởng.
Bích Diệp
Khi các bộ không “phục” chỉ số tồn kho
Chỉ số tồn kho và sản xuất công nghiệp 10 tháng (VnEc)
Tồn kho tăng cao, thách thức ở phía cầu?(VnEc)
Diễn biến kinh tế, nhìn từ… chỉ số tồn kho(VnEc)
VnEconomy
Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, có những con số thống kê bị xem là bi quan thái quá…
Chỉ số tồn kho mà Tổng cục Thống kê đưa ra không phải là không có lý, bởi theo nhiều ý kiến, cơ quan này không tự nghĩ ra mà tính toán theo thông lệ quốc tế.Mỗi chỉ số thống kê khi được công bố đều có lý và có ý nghĩa riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, có những con số thống kê bị xem là bi quan thái quá, tạo hiệu ứng không tốt cho xã hội. Điển hình là chỉ số tồn kho.
Bất đồng, bất phục
Tại kỳ họp giao ban sản xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ số tồn kho được công bố tại thời điểm 1/10/2012 của ngành công nghiệp chế biến tăng 20,3% so với cùng thời điểm năm trước.
Tổng cục Thống kê cho rằng, mặc dù mức tồn kho còn cao nhưng đã có xu hướng giảm dần trong mấy tháng gần đây (thời điểm 1/5 tăng 29,4%; 1/6 tăng 26%; 1/7 tăng 21%; 1/8 tăng 20,8%; 1/9 tăng 20,4%).
Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao, gồm: chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm thủy sản tăng 23,9%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng: 32%; May trang phục tăng 48%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 55,1%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 56,5%; sản xuất xi măng tăng 53,1%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 38%…
Tuy nhiên, con số này đã không được đại diện các bộ nhất trí.
Trước
băn khoăn của đại diện các bộ về tính đúng đắn của chỉ số tồn kho, Phó
tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết, không có chuyện sai, vì đã
thống kê theo thông lệ quốc tế.
Cụ thể, tính riêng đối với ngành xi măng, theo Tổng cục Thống kê, con
số tồn kho tăng 53,1%. Nhận định về con số “khủng” này, đại diện Bộ Xây
dựng cho rằng, “nghe có vẻ sợ”, chứ thực tế không đến mức như vậy.Vị đại diện này lý giải, trong 10 tháng đầu năm, sản xuất xi măng đạt 46,5 triệu tấn so với kế hoạch cả năm (56 triệu tấn), tương ứng đạt được 80% kế hoạch. Theo báo cáo của Bộ Xây dựng thì tồn kho xi măng vào khoảng 2,6 triệu tấn, tương đương 15-18 ngày sản xuất. Đây là một con số bình thường, do đặc thù của ngành là luôn luân chuyển sản xuất. Trong khi, con số tồn kho theo Tổng cục Thống kê tăng những 51,3%, khiến người ngoài không biết nội tình sẽ lo ngại là dư thừa lớn.
Ông này cũng cho biết, trong điều kiện khó khăn hiện nay, các doanh nghiệp đều phải sản xuất cầm chừng, nếu hàng không bán được, thì họ cũng chẳng dại gì mà sản xuất ra quá nhiều.
Trước sự lý giải của Bộ Xây dựng, một đại biểu tại cuộc họp lo ngại, nếu làm kế hoạch theo con số của thống kê thì sẽ phải hạn chế sản xuất, và khi giải pháp thay đường nhựa bằng đường bê tông để thúc đẩy ngành công nghiệp xây dựng thì lúc đó, xi măng không phải dư thừa mà sẽ thành thiếu cung.
Đại diện Bộ Công Thương cũng “không phục” chỉ số tồn kho mà Tổng cục Thống kê đưa ra. Theo vị này, cần kiểm tra lại chỉ số tồn kho. Cần làm rõ chỉ số tồn kho thế nào là chuẩn? Rõ ràng, chỉ số tồn kho do Tổng cục Thống kê đưa ra là cao, nhưng đến hỏi doanh nghiệp, họ lại bảo bình thường. “Điều này khiến việc làm kế hoạch rất khó khăn”, vị này cho biết.
Chia sẻ điều này, ông Bùi Hà, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đề nghị cần phải xem xét lại chỉ số này khi công bố, vì hiện nay vấn đề tồn kho đang được xem là “nút thắt” của nền kinh tế. Vì thế, phải tính toán chính xác thì mới tháo được nút.
Chỉ số tồn kho và…
Trước băn khoăn của đại diện các bộ về tính đúng đắn của chỉ số tồn kho, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm cho biết, không có chuyện sai, vì đã thống kê theo thông lệ quốc tế.
Theo ông Lâm, hiện nay, trên thế giới đang sử dụng rất nhiều chỉ số tồn kho được tính trên các cơ sở khác nhau. Có thể là chỉ số tồn kho so với tổng mức, tồn kho so với công suất thiết kế, tồn kho so với khả năng tiêu thụ…
Còn chỉ số tồn kho do Tổng cục Thống kê công bố là số liệu so với cùng kỳ, tức là chỉ số của 10 tháng năm 2011.
Trước cuộc tranh luận này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh đề nghị Tổng cục Thống kê nên bổ sung thêm hệ thống chỉ tiêu tồn kho so với tổng (để tính chính xác tồn kho các mặt hàng). Có như vậy, sẽ sát với thực tế hơn, dễ cho người lập kế hoạch hơn.
Nhưng, chỉ số tồn kho mà Tổng cục Thống kê đưa ra không phải là không có lý, bởi theo nhiều ý kiến, cơ quan này không tự nghĩ ra mà tính toán theo thông lệ quốc tế.
Bước
sang năm 2012, trong tình hình kinh tế khó khăn, hầu như các doanh
nghiệp đều có xu hướng không mở rộng, thậm chí thu hẹp sản xuất. Vậy tại
sao tồn kho lại đột ngột tăng vọt tới 20,3% so với cùng kỳ?
Câu hỏi được đặt ra là, tại sao hầu hết các lĩnh vực sản xuất của nền
kinh tế lại tồn kho “kỷ lục”? Tồn kho thực tế chỉ là một hiện tượng,
còn nguyên nhân sâu xa được “mổ xẻ” cho thấy là do cung nhiều, trong khi
nhu cầu về tiêu dùng trong dân cư, tích lũy tài sản và xuất khẩu ít.Nhìn lại trong suốt 10 năm (2000-2010), tồn kho luôn chiếm từ 3-5% trong GDP. Riêng năm 2011, số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê cho thấy, tồn kho cũng chỉ chiếm khoảng 3,2% trong GDP, đây là mức thấp nhất từ năm 2007 đến nay. Song bước sang năm 2012, trong tình hình kinh tế khó khăn, hầu như các doanh nghiệp đều có xu hướng không mở rộng, thậm chí thu hẹp sản xuất. Vậy tại sao tồn kho lại đột ngột tăng vọt tới 20,3% so với cùng kỳ?
Số liệu này khiến các nhà nghiên cứu phải đặt câu hỏi tìm hiểu lại nguồn của các số liệu để xem xét có thật nền kinh tế ứ đọng, tồn kho nhiều đến vậy hay không?
Theo các chuyên gia số liệu, trong GDP “gói gọn” tiêu dùng của hộ gia đình, tiêu dùng của Chính phủ, tích lũy tài sản cố định, thay đổi tồn kho và xuất khẩu, nhập khẩu. Trong 9 tháng năm 2012, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ước tính tăng 4,73% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 5,77% của cùng kỳ năm 2011. GDP tăng trưởng được 4,73% chính là do lượng tồn kho và tăng trưởng nhập khẩu giảm khá sâu.
Nguy cơ nằm ở chỗ, vì bản chất tăng trưởng GDP của thời kỳ trước dựa vào tồn kho, nên thời kỳ sau doanh nghiệp không còn “mặn mà” để mở rộng sản xuất. Hơn thế, sản xuất trong nước lại “ăn theo” nhập khẩu, vì thế khi nhập khẩu giảm sút sẽ kéo sản xuất xuống “đáy” đình đốn.
Rõ ràng, lượng tồn kho lớn của nền kinh tế xuất phát từ nguyên nhân nhu cầu tiêu dùng cuối cùng. Khi nhu cầu giảm sút sẽ không kích thích được phía cung.
Điều này cũng được cơ quan thống kê và các cơ quan quản lý Nhà nước cùng thừa nhận như trong phần cuối của báo cáo phục vụ cuộc họp giao ban sản xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đó là “nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, hàng tồn kho còn nhiều, sản xuất – kinh doanh của các danh nghiệp và đời sống người dân vẫn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức”.
Huy động sức vàng: Không hẳn hết cách!
VnEconomy
Tưởng như, nhà quản lý đã chọn một con đường gập ghềnh ngay từ những bước đi đầu tiên…
Ngân hàng Nhà nước đang thể hiện hướng đi: một mặt tạo và củng cố giá trị hấp dẫn của VND, một mặt tìm cách hạn chế sự hấp dẫn của vàng.Tại cuộc họp giữa Ngân hàng Nhà nước với lãnh đạo các ngân hàng thương mại cuối tuần tuần qua, một câu hỏi được đặt ra. Đó là nên giãn thời hạn chấm dứt huy động vàng đến thời điểm nào?
Cuối cùng, mốc 30/6/2013 được xác định. Nhưng đây chỉ là một điều chỉnh kỹ thuật. Quan trọng hơn, thị trường chờ đợi có thay đổi hay không quan điểm và cách thức điều hành của Ngân hàng Nhà nước đối với thị trường vàng trong tương lai.
Thăm dò dư luận?
Như bài viết mới đây, Ngân hàng Nhà nước đang thể hiện hướng đi: một mặt tạo và củng cố giá trị hấp dẫn của VND, một mặt tìm cách hạn chế sự hấp dẫn của vàng, qua đó kích thích người dân chuyển đổi vàng sang VND khi cân nhắc lợi ích nắm giữ, xem đó là một cách huy động sức vàng trong dân, tương tự như đã thành công ở USD.
Để góp phần hạn chế sức hút của vàng, Ngân hàng Nhà nước có hướng xem xét đề xuất áp thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Lý do, vàng hiện là một loại hàng hóa, được mua đi bán lại mà không chịu một loại thuế nào ngoài thuế xuất khẩu; Nhà nước không khuyến khích mua và găm giữ bởi một nguồn vốn lớn bị “chôn” ở đây mà không đi vào sản xuất kinh doanh…
Đó mới chỉ là một ý tưởng. Để thực sự trở thành một chính sách, nó phải được đưa ra một cách chính thức, rõ ràng với các cơ sở lập luận cụ thể; được cơ quan chuyên trách xây dựng, tổ chức lấy ý kiến và thảo luận, trình các cấp có thẩm quyền xem xét. Và hơn hết, nó phải thuyết phục được lòng dân.
Được biết, Ngân hàng Nhà nước cũng đã trao đổi với lãnh đạo Chính phủ về ý tưởng này. Hướng chỉ đạo là phối hợp với Bộ Tài chính xem xét và hiện mới chỉ ở mức độ nghiên cứu.
Từ chối bình luận về tính hợp lý của hướng áp thuế, song một chuyên gia nói với VnEconomy rằng: “Ý tưởng của Ngân hàng Nhà nước nên xem là sự gợi mở, một hướng thăm dò dư luận, hay một nỗ lực trong việc nghiên cứu các giải pháp để ổn định thị trường vàng, để điều hành hợp lý hơn. Lắng nghe cũng chính là một yêu cầu trong nghiên cứu và hoạch định chính sách”.
“Thuế là chính sách nhạy cảm, vì liên quan đến lợi ích người dân. Nhưng nếu để tạo ra những giá trị tốt hơn cho nền kinh tế, chứng minh được một cách tâm phục khẩu phục thì tôi tin người dân sẽ ủng hộ và chia sẻ”, chuyên gia này nói thêm.
Trong tương lai, giả sử việc áp thuế được đồng thuận, Ngân hàng Nhà nước củng cố hướng đi nói trên, có thêm yếu tố hỗ trợ kích thích chuyển đổi để huy động sức vàng trong dân. Ngược lại, ý tưởng không thành thì cũng không hẳn là đã hết cách.
Trở lại huy động vàng?
Điều mà Ngân hàng Nhà nước khẳng định gần đây là sẽ không tổ chức huy động vàng như hiện nay, nghiệp vụ mà các ngân hàng thương mại đang làm. Việc giãn thời điểm chấm dứt huy động chỉ là điều chỉnh kỹ thuật, không phải về quan điểm.
Tuy nhiên, nếu không kích thích được sự chuyển đổi như trên, các ngân hàng đã ngừng hẳn huy động, thì nguồn lực từ vốn vàng trong dân sẽ đành để nằm yên?
Thời gian qua, một hướng đánh thức vốn vàng trong dân đã được đặt ra: Ngân hàng Nhà nước đứng ra huy động qua hệ thống đại lý là các ngân hàng thương mại, dùng nguồn vàng đó chuyển đổi thành ngoại tệ, sử dụng bằng nhiều cách để tạo giá trị cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, hướng chuyển đổi trên gắn với nhiều rủi ro, bởi giá vàng biến động khó lường, đã có quá nhiều điển hình thiệt hại. Chuyển đổi ở đây là bán vàng lấy ngoại tệ, sau đó phải mua lại để trả cho dân.
Vẫn theo hướng đó, nhưng có một cách chuyển đổi khác có thể xem xét.
Tham vấn chuyên môn từ TS. Nguyễn Thế Hùng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh vàng Việt Nam, đó là nghiệp vụ hoán đổi thông qua ký gửi vay ngoại tệ.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước tổ chức huy động vàng, nhưng dùng làm tài sản để thế chấp vay ngoại tệ ở nước ngoài chứ không phải bán đứt, dùng ngoại tệ đầu tư cho các dự án hiệu quả trong nước. Nếu vậy, rủi ro từ việc chuyển đổi theo hướng bán đứt vàng và sau đó có thể phải mua lại giá cao để trả cho dân, hay rủi ro trong giao dịch kỳ hạn… được loại trừ.
Bài toán ở đây là một mức lãi suất huy động vàng trong nước thấp (trên dưới 1%/năm), một chi phí chuyển đổi thành vàng tiêu chuẩn quốc tế (khoảng 0,01%), một mức lãi suất vay USD thế chấp bằng vàng ở nước ngoài (khoảng 1,5 – 2%/năm) để tạo một nguồn vốn rẻ hơn nhiều so với chi phí vay vốn của Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua.
Thực tế Chính phủ đã từng phải phát hành trái phiếu vay 750 triệu USD với lãi suất hơn 7%/năm hồi tháng 10/2005; hay tháng 5 vừa qua Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) phải huy động 250 triệu USD bằng trái phiếu quốc tế với lãi suất lên tới 8%/năm… Vậy thì tại sao không thử tìm một cách như trên để có nguồn vốn chi phí thấp hơn, lại tranh thủ được nguồn lực vàng trong dân?
Tất nhiên, theo TS. Hùng, để huy động theo nghiệp vụ này cần có những chuyên gia am hiểu cùng tư vấn nước ngoài, cũng như phải tính toán rất chi tiết các dữ liệu của thị trường để xây dựng các kế hoạch cụ thể.
“Và quan trọng nhất, nguồn ngoại tệ thu về nhờ các nghiệp vụ hoán đổi vàng phải được sử dụng hiệu quả cho phát triển kinh tế – xã hội, thông qua việc đánh giá chính xác, khách quan năng lực sản xuất, chất lượng nhân lực, năng lực quản trị, chi phí sử dụng vốn… trong nước. Từ đó mới duy trì được niềm tin cho người gửi vàng nói riêng, sự đồng thuận của toàn xã hội nói chung và phát huy được giá trị thực tiễn của việc huy động vàng”, ông Hùng nhìn nhận.
Tràn lan áo ngực Trung Quốc chứa thuốc ở Hà Nội
Infonet.vn (bạn vàng là đây)
Trước thông tin áo ngực Trung Quốc chứa thuốc và chất lạ gây ngứa ngáy, tức ngực cho người dùng, PV báo điện tử Infonet đã tìm hiểu các cửa hàng thời trang và không khó tìm ra rất nhiều cửa hàng bán những sản phẩm này.Tiến hành kiểm tra một số áo ngực có nhãn mác Trung Quốc thì phát hiện những hạt nhựa cứng trắng được trộn trong dung dịch lỏng trơn như mỡ.
Clip kiểm tra mẫu áo ngực chứa dung dịch và vật lạ:
Dạo quanh các cửa hàng bán quần áo, trang phục tại Hà Nội, PV báo điện tử Infonet phát hiện rất nhiều cửa hàng, shop thời trang và chợ lẻ vẫn bán rất nhiều áo ngực có chứa dung dịch, hạt cứng.
Khi kiểm tra bằng cách nắn mạnh tay những chiếc áo ngực bày bán, người mua cũng dễ dàng nhận ra cảm giác lạo xạo và có những vật thể lạ rắn như đá gồ lên bên trong chiếc áo ngực chứa dung dịch hay đệm mút.
Một chiếc áo PV Infonet mua tại một shop thời trang tại Hà Nội với giá 50.000 đồng. |
Tiến hành cắt lớp vải bên ngoài để kiểm tra, một số mẫu áo Trung Quốc mang nhãn hiệu Lirenya, Huang Chen chilyr, PV phát hiện bên trong mỗi áo đều chứa những hạt lạ màu trắng và dung dịch trong suốt. Loại hạt này hình tròn đường kính khoảng 5mm. Dung dịch màu trắng trong, chậm thấm ướt vải. Khi chạm tay vào dung dịch tuy không bị ngứa hay mẩn đỏ ngay lập tức nhưng có cảm giác nhầy nhầy, trơn như mỡ và có mùi lạ.
Dạo quanh những quầy hàng bán đồ lót trong chợ Xanh, trên đường Xuân Thủy, Cầu Giấy, loại áo ngực không rõ nguồn gốc và xuất xứ được các chủ ki ốt mời chào nhiệt tình. Tại đây, áo ngực với nhãn mác Trung Quốc chiếm hơn 90%.
Khi người mua dùng tay kiểm tra để tránh mua phải hàng có chứa thuốc và chất lạ như báo chí đã đưa thời gian gần đây thì bị chủ cửa hàng quát mắng ầm ĩ: “Mua thì mua, không thì đi, đừng có sờ nắn đồ như thế”.
Hỏi về xuất xứ của loại áo bày bán, người mua lập tức được nghe bài ca muôn thủa của người bán: “cứ yên tâm, hàng này tốt lắm, nhiều người dùng mà giá lại phải chăng”. Gặp người bán khó tính khách hàng sẽ phải nghe những câu khó chịu: “nhiều tiền thì vào hàng hiệu mà mua, hàng Trung Quốc thì mới có giá đấy chứ không đã vài trăm”. Những loại áo ngực xuất xứ Trung Quốc ở đây được bán với giá dao động từ 25-90 nghìn mỗi chiếc.
Chủ cửa hàng khẳng định không có áo ngực như thế, người mua vẫn cảnh giác và kiểm tra kỹ trước khi mua.
Có mặt tại chợ sinh viên vào buổi tối, tại các quầy hàng bán đồ lót cũng vắng người mua hơn. Đặc biệt, người mua nào biết đến thông tin áo ngực chứa thuốc lạ cũng đều hỏi chủ cửa hàng xem thực hư thế nào. Việc lựa chọn cũng trở nên kỹ càng hơn.
Chị Thu Hương, sinh viên Học viện báo chí cho biết, từ khi có tin áo ngực Trung Quốc có thuốc lạ, bây giờ đi mua áo ngực em phải kiểm tra thật kỹ, thấy có vật lạ bên trong là em chọn loại khác ngay.
“Người mua đều biết là ở đây toàn bán hàng Trung Quốc, chẳng biết chất lượng thế nào nhưng giá nó vừa tầm nên cũng cứ mua về dùng. Vừa rồi, em thấy bảo có chứa thuốc lạ gây ngứa ngáy nên em cũng chỉ ra tham khảo thôi chứ không có ý định mua”, bạn Khuyên ở Nam Định chia sẻ.
Trước đó, kết quả kiểm tra trên một số mẫu áo ngực Trung Quốc của Chi cục Quản lý thị trường Thành phố Đà Nẵng và một số tỉnh thời gian gần đây cho thấy: Xuất hiện những viên thuốc lạ bên trong dung dịch màu trắng đục trong mỗi chiếc áo. Có khi là những viên lạ và màu trắng sữa.
Trao đổi với báo chí, Bác sĩ Nguyễn Thành Hải, thẩm mỹ viện Thanh Bình khẳng định, silicone dùng cần phải có nguồn gốc rõ ràng, bảo đảm chất lượng và đạt tiêu chuẩn quy định. Nếu trong quá trình sử dụng nếu silicone hay bất cứ chất gì bị vỡ khỏi túi bọc thì có thể bị ảnh hưởng. Và để biết chất trong áo nịt ngực đó là chất gì thì cần phải mang chất đó đi kiểm nghiệm.
Trong lúc chưa có kết luận chính thức về chất lượng, sự ảnh hưởng đến sức khỏe (nếu có) của những sản phẩm này, hàng có mác Trung Quốc, không có nhãn phụ Tiếng Việt, không rõ nguồn gốc, xuất xứ và không được kiểm định chất lượng đang bày bán tràn ngập. Người mua biết thì lo sợ và cảnh giác. Ảnh hưởng của những vật thể và dung dịch lạ trong áo ngực tới đâu đang là câu hỏi chờ cơ quan chức năng giải đáp.
Ng.Lan -Q.Anh-L.Hương
Thương nhân Trung Quốc lại “tung chiêu” gom mua cá cơm
(lại trò mới của thằng bạn vàng đây, biết mà không làm gì được, sao vậy ta???)(Dân trí) – Sau hàng loạt đợt thu mua kỳ quặc với móng bò, rễ cây, đỉa trâu… thương nhân Trung Quốc lại tiếp tục gom mua cá cơm – gây ảnh hưởng đến sản xuất nước mắm. Trong khi đó, tình trạng nhập lậu gà thải, nội tạng động vật vẫn đang nhức nhối.
Chiều 29/10, trao đổi với Dân trí tại phiên họp thường kỳ tháng 10 Bộ Công thương, ông Đào Minh Hải – Phó Cục trưởng Cục Quản lý thị trường cho biết, tình trạng thương nhân Trung Quốc ồ ạt gom mua những mặt hàng hết sức kỳ quặc như móng bò, rễ cây…vẫn diễn ra trong suốt thời gian gần đây.Đặc biệt, ông Hải thông tin thêm, qua hoạt động kiểm tra trên thị trường, cơ quan quản lý thị trường đã phát hiện, hiện tại, các thương nhân Trung Quốc đang tập trung thu mua thủy, hải sản ở dọc bờ biển nước ta, mà mặt hàng chính là cá cơm. Hoạt động gây ảnh hưởng đến việc sản xuất nước mắm của đồng bào ở Phú Quốc, Phan Thiết, Khánh Hòa.
Theo sự chỉ đạo của Bộ Công thương, Cục Quản lý thị trường cũng đã cố gắng bám theo các hành vi nói trên, song, theo ông Hải, cho đến nay vẫn chưa phát hiện được những đối tượng là thương nhân Trung Quốc trực tiếp thu mua, vận chuyển. Họ vẫn đang tổ chức thu mua thông qua các hộ gia đình, tức ở đây, người Việt Nam vẫn đang đóng vai trò thu mua, vận chuyển, thanh toán và đưa hàng sang Trung Quốc.
Điều đáng nói, theo phản hồi của báo chí trong thời gian vừa qua, nhiều địa phương đang diễn ra hoạt động thu mua đỉa trâu với giá cao. Sự kiện này diễn ra đồng thời với những tin đồn lan truyền về hiện tượng sinh vật này xuất hiện trong các sản phẩm rau củ quả, thực phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc sang. Điều này nếu không được xử lý một cách quyết liệt và dứt điểm sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm lý người tiêu dùng nói chung cũng như thương mại tại các mặt hàng rau quả, thực phẩm.
Hoạt động gom mua cá cơm của các thương nhân Trung Quốc khiến ngư dân làm mắm điêu đứng (ảnh minh họa).
Cũng trong phiên họp báo này, ông Hải đề cập đến hoạt động buôn bán gà nhập lậu và nội tạng động vật. Theo đó, gà nhập ở đây là gà loại thải của Trung Quốc có chất lượng thấp, giá rẻ. Theo đánh giá của đại diện Bộ Công thương, gà nhập vào thị trường Việt Nam ngoài việc thẩm lậu, gây thất thu thuế còn mang theo nguy cơ dịch bệnh.
Tuyến nhập khẩu chủ yếu từ Lạng Sơn và Quảng Ninh về Hà Nội. Qua kiểm tra cho thấy, trên tuyến này, nhiều địa phương đã có biểu hiện dịch bệnh trên gia cầm. Chính vì vậy, Bộ Công thương và các cơ quan chức năng đã có chỉ đạo phải ngăn chặn và xử lý đối với mặt hàng này.
Ông Hải cho biết, trong số các đợt ra quân tập trung thì vào ngày 6/10, Đội quản lý thị trường số 30 của Cục Quản lý thị trường Hà Nội đã kiểm tra và phát hiện 3.150 kg gà nhập lậu, đã xử phạt 15 triệu đồng, đồng thời tiêu hủy toàn bộ số gà này.
Hoạt động điều tra vừa qua đang tập trung ở hai điểm chính là điểm lên gà và xuống gà trong toàn tuyến. Tuy nhiên, theo ông Hải, đường vận chuyển gà rất phức tạp và dích dắc, đi qua đường mòn lối mở, hoạt động vào đêm nên đã gây khó khăn cho việc kiểm tra, kiểm soát. “Họ thường thay đổi xe, thay đổi phương thức. Trong khi đó, để kiểm tra từng chuyến xe ở những nơi đông người như chợ Hà Vĩ, Thường Tín là hết sức phức tạp”.
Lãnh đạo Cục Quản lý thị trường cũng giãi bày cái khó, rằng khi triển khai ra quân tại chợ Hà Vĩ, từ chỗ buôn bán hàng chục tấn gà mỗi ngày thì khối lượng đã giảm hẳn, hầu như chỉ còn gà nội địa. Tuy nhiên, ngay sau khi lực lượng rút đi, các hiện tượng này lại quay trở lại.
Với hiện trạng này, trong thời gian tới, hoạt động kiểm soát thị trường sẽ có sự kết hợp chặt chẽ đầu lên – đầu xuống trên cả toàn tuyến, phối hợp đồng bộ giữa các tỉnh từ Quảng Ninh, Lạng Sơn về Hà Nội.
Đối với nội tạng động vật – một sản phẩm đã bị cấm, song vẫn còn một lượng thẩm lậu qua biên giới. Ông Hải cho biết, khi lực lượng quản lý đánh mạnh trên tuyến đường bộ thì sau đó mặt hàng này lại bật sang tuyến đường sắt. Vừa qua ngày 23/10, Đội quản lý thị trường số 11 của Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội đã kiểm tra 15 thùng nhựa chưa đến 1 tấn lòng lợn sơ chế, đã bốc mùi được chuyển vào Hà Nội để tiêu thụ.
Tuy nhiên, theo như ông Hải chia sẻ, đối với cả hai loại sản phẩm này, hiện cơ quan chức năng đang gặp khó khăn trong tiêu hủy – bởi bắt được là một chuyện, còn chuyện tiêu hủy số hàng tịch thu lại là một vấn đề không dễ giải quyết.
Bích Diệp
Trung Quốc : Đấu đá nội bộ bùng nổ thành các vụ tai tiếng
L’Humanité cho rằng ngoài việc phải tìm hiểu mục đích đăng bài của nhật báo Mỹ, thì câu hỏi đặt ra là : ai ngay trong lòng ban lãnh đạo Trung Quốc được lợi khi cho tiết lộ các thông tin đó ? Chưa bao giờ bầu không khí chính trị tại Trung Quốc lại căng thẳng đến như thế.
Theo một số nhà quan sát, việc tiết lộ các thông tin về tài sản gia đình ông Ôn Gia Bảo, người luôn được xem là nhà cải cách, có thể đến từ những người ủng hộ ông Bạc Hy Lai.
Tờ báo cho rằng phe ủng hộ ông cựu Bí thư thành ủy Trùng Khánh đã không mặn mà với các tuyên bố của ông Ôn Gia Bảo. Theo đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải tiến hành cải cách toàn diện, không những về mặt kinh tế mà ngay cả trên phương diện chính trị.
Một mặt, vụ tai tiếng về lối sống xa hoa lần này không những ảnh hưởng đến uy tín của người đứng đầu nhà nước, ông Hồ Cẩm Đào mà còn tác động đến vị chủ tịch nước tương lai Tập Cận Bình. Mặt khác, sự việc còn cho thấy rõ một bầu không khí căng thẳng đang bao trùm lên Bắc Kinh xung quanh việc bổ nhiệm các thành viên mới trong ban lãnh đạo.
New York Times cho đăng bài viết đúng vào lúc xã hội Trung Quốc đang có những bất ổn. Cách biệt thu nhập giữa kẻ giàu, tầng lớp trung lưu và những người sống lay lắt trong đói nghèo ngày càng lớn đang tạo ra những mối căng thẳng xã hội nghiêm trọng.
« Người cha già Ôn Gia Bảo » làm suy yếu đảng Cộng sản Trung Quốc
Đồng quan điểm với L’Humanité, báo Le Monde, trong bài xã luận đề tựa « Người cha già Ôn Gia Bảo làm suy yếu đảng Cộng sản Trung Quốc », cũng nhận định rằng, các cuộc tranh giành quyền lực ngay trong lòng đảng Cộng sản Trung Quốc, không những thể hiện rõ qua vụ án Bạc Hy Lai, mà còn cho thấy các vụ đấu đá để bảo vệ các lợi ích của những gia đình khác nhau trong giới cầm quyền.
Đối với đại đa số người dân Trung Quốc, ông Ôn Gia Bảo được ví như là người « cha già đáng kính». Ông đã chiếm được cảm tình của người dân vì những mối bận tâm mà ông luôn dành cho những người nghèo khổ nhất.
Kể từ khi lên cầm quyền cách đây mười năm, không một cái Tết nguyên đán nào hay một thảm họa thiên nhiên nào xảy ra mà không có sự có mặt của ông để động viên những người công nhân di cư hay để an ủi các nạn nhân trong vụ các thảm họa thiên nhiên. Giản dị, gần gũi là những gì người dân ghi nhận được từ vị thủ tướng.
Ông Ôn Gia Bảo còn nổi bật với các bài diễn văn kêu gọi chống tham nhũng. Vào năm 2007, ông từng kêu gọi các nhà lãnh đạo cao cấp không nên để các thành viên trong gia đình, bạn bè và người thân của mình lợi dụng ảnh hưởng chính trị để trục lợi.
Thế nhưng, bài điều tra do New York Times đăng tải đã giáng vào ông một đòn chí mạng. Theo Le Monde, bài điều tra đó đã xác nhận những gì mà nhiều người nghi ngờ : gia đình thủ tướng đã lợi dụng vị thế của « cha già » để làm giàu. Tác động của vụ việc thật tàn khốc khi chỉ còn có mười ngày nữa là khai mạc đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18.
Sự việc cho thấy rõ con cái của giới « quý tộc đỏ » đang nắm giữ khối kinh tế của đất nước. Và chính sách gia đình trị đang làm suy yếu dần đảng Cộng sản Trung Quốc, hiện phải đối mặt với làn sóng bất bình ngày càng dâng cao và phải tìm cách giảm sự bất công ngày càng rõ nét trong lòng xã hội Trung Hoa.
Nếu như vụ án Bạc Hy Lai cho thấy có sự đấu đá trong nội bộ, thông tin tiết lộ trên nhật báo Mỹ cũng giải thích rõ các cuộc chiến đang xảy ra trong lòng nội bộ Đảng Cộng sản Trung Qu ốc chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của nhiều gia đình quyền lực khác nhau.
Cuối cùng, bài xã luận nhắc lại lời kết luận của Tưởng Giới Thạch, trước khi bị Mao Trạch Đông đánh bại, về thế khó xử mà giới chính khách Trung Quốc luôn phải đối mặt. Ông nói : Chống tham nhũng thì mất đảng ; nhưng không chống thì mất nước ».
Thủ tướng Trung Quốc phản ứng bài điều tra về tài sản của ông
Cũng theo báo Le Monde, thì Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã lên tiếng phản ứng, phủ nhận mọi lời cáo buộc của tờ New York Times, cho rằng các thành viên trong gia đình ông sở hữu nhiều tài sản với tổng trị giá lên đến 2,7 tỷ đô-la. Le Monde còn cho biết là chính quyền Bắc Kinh trước đó đã cố can ngăn việc đăng nhưng không thành.
Hai ngày sau khi nhật báo Mỹ đăng bài điều tra về tài sản kếch sù của thủ tướng Trung Quốc, hôm thứ bảy 27/10/1012 vừa qua, thủ tướng đã có những phản ứng đầu tiên, thông qua hai vị luật sư của mình.
Theo nội dung bản thông cáo, hai vị luật sư tại Bắc Kinh đã phủ nhận hoàn toàn mọi lời cáo buộc cho là mẹ ông Ôn Gia Bảo đang nắm giữ trong tay số cổ phiếu lớn trị giá khoảng 120 triệu đô-la và phủ nhận vai trò của thủ tướng trong các hoạt động kinh doanh của các thành viên trong gia đình. Cả hai vị luật sư tuyên bố sẽ tiếp tục làm sáng tỏ những lời cáo buộc dối trá đó và có thể sẽ kiện tờ báo ra công lý.
Theo Le Monde, những thông tin tiết lộ trên đã bị kiểm duyệt chặt chẽ tại Trung Quốc. Tuy nhiên, trên các trang mạng xã hội trong nước, các cư dân mạng vẫn tiếp tục bình phẩm và nhắc lại tại Trung Quốc, ai cũng biết chuyện bà thủ tướng phu nhân và con trai của ông đang nắm trong tay những ngành kinh doanh béo bở. Một bài điều tra gây phiền hà cho thủ tướng, người chiếm được nhiều cảm tình của dân chúng, theo như nhận xét của Le Monde.
Tờ New York Times còn tiết lộ rằng chính quyền Bắc Kinh đã cố can ngăn tòa soạn đăng bài viết. Lãnh sự Trung Quốc tại Washington đã đến gặp giám đốc tòa soạn trước khi bài viết được đăng lên. Để biện hộ cho việc đăng bài, và phản đối ý kiến cho là đã bị điều khiển bởi phe chính trị đối lập với Ôn Gia Bảo, David Barboza, thông tín viên tờ báo tại Thượng Hải giải thích rằng ông đã làm việc về chủ đề này từ một năm nay và hàng ngàn trang tài liệu đã được tòa soạn New York Times đặt hàng từ các luật sư chuyên về đăng ký doanh nghiệp.
Miến Điện lại xảy ra các vụ tàn sát mới chống người Rohingya
Nhìn sang khu vực Đông Nam Á, báo Le Monde cho biết « Tại Miến Điện, lại xảy ra các vụ tàn sát chống người Rohingya ». Tổ chức Nhân quyền Human Rights Watch e ngại rằng các vụ tấn công nhắm vào sắc tộc thiểu số Rohingya có thể sẽ lan rộng thành bạo động tôn giáo chống cả những người theo đạo Hồi, không thuộc sắc tộc Rohingya.
Liên Hiệp Quốc cho là có đến 26 ngàn người chạy tỵ nạn. Còn theo chính quyền Naypyidaw thì đã có 88 người thiệt mạng. Tuy nhiên, các tổ chức Nhân quyền nghi ngờ rằng con số chính thức sẽ còn cao hơn.
Theo nhận định Human Rights Watch, bạo động sắc tộc giữa cộng đồng theo Phật giáo và cộng đồng thiểu số Rohingya vẫn sẽ tiếp diễn trong vòng luẩn quẩn tấn công – trả đũa do khó có thể xác định trách nhiệm thuộc về bên nào. Nhưng có điều chắc chắn là các vụ tấn công này mang tính chất phân biệt chủng tộc. Tộc người thiểu số Rohingya bị khinh khi, và từ lâu bị đa phần những người Miến Điện xem như là những kẻ « xâm lược » và người « nước ngoài » đến định cư trên mảnh đất của người theo Phật giáo.
Một vị quan chức của Human Rights Watch, phụ trách châu Á cho rằng « nếu chính quyền Miến Điện không giải quyết đến tận gốc rễ của vấn đề, sự việc chỉ có thể trở nên thêm tồi tệ ».
Bên cạnh đó, các nhà quan sát của Liên Hiệp Quốc tại Miến Điện và một số người tỵ nạn Rohingya còn e ngại rằng « bạo động có nguy cơ lan rộng tại Miến Điện, không chỉ riêng chống lại người Rohingya mà còn chống lại tất cả những ai theo đạo Hồi ».
Tổng thống Miến Điện tuyên bố sẽ bố trí thêm quân đội trong khu vực. Tuy nhiên, theo ghi nhận, của báo Le Monde, hồi tháng sáu năm nay, cảnh sát và chính quyền địa phương, đa số theo đạo Phật – chí ít – là đã làm ngơ để cho người dân tỉnh Arakan tấn công những người theo Hồi giáo.
Chữa trị Parkinson bằng liệu pháp gien ?
Về đề tài sức khỏe, Le Figaro mang đến một tia hy vọng cho những ai mắc phải chứng bệnh Parkinson. Trong bài viết đề tựa « Parkinson : những bệnh nhân được chữa trị bằng liệu pháp gien », tờ báo cho biết các nhà nghiên cứu của Pháp đã thu nhặt được nhiều kết quả khích lệ sau khi thử nghiệm điều trị trên 12 bệnh nhân tại Pháp và 3 tại Anh quốc.
Đây chỉ mới là kết quả sơ bộ được công bố ngày hôm qua, thứ hai 29/10/2012, tại Paris, nhân Hội nghị châu Âu về liệu pháp gien và tế bào lần thứ 20, do nhóm nghiên cứu của ông Stéphane Palfi – giáo sư về giải phẫu thần kinh thuộc bệnh viện Henri – Mondor, thành phố Créteil thực hiện.
Theo Le Figaro, dù rằng bản báo cáo của giáo sư chỉ trình bày vài nét chính của nghiên cứu, nhưng mở ra nhiều triển vọng mới trong tương lai. Tuy nhiên, giáo sư Stéphane Palfi cũng khẳng định rằng về lâu dài liệu pháp chữa trị này không gây hại nhưng việc phổ biến rộng rãi vẫn chưa thể nào thực hiện được trong vòng 8 đến 10 năm tới.
Le Figaro cho biết, tại Pháp hiện nay có khoảng hơn 10 000 người mắc chứng bệnh Parkinson. Đây là một dạng bệnh thoái hóa thần kinh mãn tính có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Nguyên nhân căn bệnh là do sự suy giảm hình thành và sản xuất tế bào thần kinh dopaminergic của não giữa (hay còn gọi là Niger locus – tạm dịch là chất đen). Hậu quả là người mắc bệnh có các triệu chứng thiểu năng : run rẩy, cứng cơ, cử động khó khăn…
Thông thường, bệnh nhân sẽ được chữa trị bằng thuốc L-DOPA, nhằm kích thích sự sản xuất dopamine trong tế bào thần kinh não. Thế nhưng, việc điều trị bằng thuốc L-DOPA cũng có bất lợi lớn là gây ra những cử động bất bình thường, cũng gây khó chịu. Nguyên nhân có lẽ bắt nguồn từ sự kích thích không đồng đều của chất dopamine.
Theo nghiên cứu của giáo sư Stéphane Palfi, các nhà khoa học đã thử cấy các gien vào trong não, cho phép duy trì việc tiết chất dopamine liên tục và cục bộ. Nghĩa là về mặt kỹ thuật, sau khi gây tê toàn thân, các bệnh nhân sẽ được tiêm một liều lentivirus có chứa ba bộ gien mã hóa các chất enzyme cần thiết cho hoạt động tiết chất dopamine.
Liệu pháp này đã được nhóm nghiên cứu thử nghiệm trên động vật từ năm 2003. Và thử nghiệm đầu tiên trên người được tiến hành vào năm 2008, trên 15 bệnh nhân nhằm đánh giá mức độ chấp nhận của tiến trình.
Trung Quốc dè dặt đàn áp thành phần trung lưu chống đối
NINGBO, Trung Quốc (AP) – Sự
chiến thắng của người biểu tình phản đối việc mở rộng một nhà máy hóa
học mới đây cho thấy chính quyền độc tài Trung Quốc lo ngại thành phần
trung lưu sẽ nổi dậy và sẽ nhượng bộ nếu đòi hỏi của họ không quá đáng
và không có tính cách chính trị công khai.
Cuộc biểu tình phản đối kế hoạch mở rộng một nhà máy hóa học đã lên đến cao điểm hồi cuối tuần qua, khi hàng ngàn người xuống đường tại thành phố Ningbo, xô xát với công an, khiến chính quyền địa phương sau cùng phải nhượng bộ, nhưng người dân vẫn không tin và tiếp tục phản đối.
Ðây không phải là lần đầu tiên nhà nước Trung Quốc lùi bước trước sự phản đối của giới trung lưu.
Trong năm năm qua, giới chức tại cảng Dalia và Xiamen đã phải đình hoãn hoặc hủy bỏ ý định xây các nhà máy hóa học sau khi xảy ra các cuộc biểu tình lớn lao. Trong trường hợp ở Xiamen, vấn đề không chỉ là phương diện y tế mà cả sự lo ngại là giá nhà đất sẽ sút giảm vì có nhà máy nơi đây. (V.Giang)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=157006&zoneid=5#.UJAgNWdPUdU
Công an Ningbo, phía Ðông tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, cẩn thận theo dõi đoàn biểu tình hàng ngàn người. (Hình: Ng Han Guan/AP)
Giới trung lưu ở Trung Quốc, kết quả của một thập niên phát triển
kinh tế vừa qua, hiện đang đòi hỏi phải có một chính quyền hữu hiệu hơn,
chứ không đòi hỏi phải thay đổi chế độ. Họ đặc biệt quan tâm về các vấn
đề như y tế, giáo dục và giá nhà đất, thường chống lại những kế hoạch
“phát triển bằng mọi giá” mà chính quyền Bắc Kinh đưa ra.Cuộc biểu tình phản đối kế hoạch mở rộng một nhà máy hóa học đã lên đến cao điểm hồi cuối tuần qua, khi hàng ngàn người xuống đường tại thành phố Ningbo, xô xát với công an, khiến chính quyền địa phương sau cùng phải nhượng bộ, nhưng người dân vẫn không tin và tiếp tục phản đối.
Ðây không phải là lần đầu tiên nhà nước Trung Quốc lùi bước trước sự phản đối của giới trung lưu.
Trong năm năm qua, giới chức tại cảng Dalia và Xiamen đã phải đình hoãn hoặc hủy bỏ ý định xây các nhà máy hóa học sau khi xảy ra các cuộc biểu tình lớn lao. Trong trường hợp ở Xiamen, vấn đề không chỉ là phương diện y tế mà cả sự lo ngại là giá nhà đất sẽ sút giảm vì có nhà máy nơi đây. (V.Giang)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=157006&zoneid=5#.UJAgNWdPUdU
Chính quyền Bình Nhưỡng hạ bỏ hai bức hình Karl Marx và Vladimir Lenin
- Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh thực hiện – RCTM
Nghe bằng Flash
|
Nghe bằng nhu liệu riêng trong máy của bạn
Nghe bằng nhu liệu riêng (như WMP, Itune, v.v…) Tải về máy/Download - (Bấm nút phải của chuột, chọn Save Target As, hoặc Save Link As) |
Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh xin kính chào quý thính giả của đài Chân Trời Mới để mở đầu cho tiết mục Từ Á Sang Âu tuần này là đề tài nói đến chuyện chính quyền Bình Nhưỡng cho hạ hai bức hình ông tổ Cộng sản Karl Marx và Vladimir Lenin khỏi quảng đường Kim Nhật Thành mà không nói rõ lý do. Kính mời quý thính giả lắng nghe qua sự trình bày của Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh.
Hai năm trước, khi còn sống, ông Kim Chính Nhật đã ra lịnh cho Ủy ban tu chính Đảng quy của đảng Lao Động Triều Tiên bỏ đi mấy chữ Xã hội chủ nghĩa ra khỏi văn kiện này để cho hợp với thực tại. Trước đây phần mào đầu của Đảng quy viết rằng: Mục đích tối hậu của đảng Lao Động Triều Tiên là xây dựng Xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Chủ Thể.
Bỏ đi mấy chữ Xã hội chủ nghĩa vị chi là đảng Lao Động Triều Tiên từ nay chỉ còn đi theo tư tưởng Chủ Thể của ông Kim Nhật Thành đề ra mà thôi. Theo tư tưởng này thì vận mệnh của mình do chính mình làm chủ, tự túc, tự cường trong việc kiến thiết quốc gia, nguời dân làm chủ vận mệnh đất nước…
Nhiều người thắc mắc rằng tại sao sửa đổi một điều quá quan trọng như vậy mà chính quyền Bình Nhưỡng chẳng có một lời giải thích nào cho người dân của họ và thế giới biết.
Các quan sát viên tình hình bán đảo Triều Tiên nói rằng chính quyền Bình Nhưỡng chẳng coi dân của họ ra gì đâu nên có giải thích hay không cũng vậy, họ chỉ sợ làm mất mặt Bắc Kinh vì dù sao Trung quốc vẫn còn dương cao ngọn cờ Xã hội chủ nghĩa. Thật ra ngay từ đầu ông Kim Nhật Thành đâu có đi theo chủ nghĩa Cộng sản một cách vô điều kiện như ông Hồ Chí Minh của Việt Nam nên bây giờ họ bỏ mấy chữ đó cũng là điều có thể hiểu được. Nói như thế không có nghĩa là bỏ mấy chữ đó là Bắc Triều Tiên muốn trở thành một nước tự do, dân chủ.
Nhiều người không chú ý đến chuyện đó nên hôm 12/10/2012 khi đọc báo, nghe đài của các hãng thông tấn lớn loan tin rằng chính quyền Bình Nhưỡng đã cho hạ hai bức hình ông Karl Marx và Vladimir Lenin ở quảng đường Kim Nhật Thành thì rất đổi ngạc nhiên và tưởng rằng sắp có thay đổi lớn ở Bắc Tiều Tiên. Thật ra nếu để ý kỹ những hình ảnh trong cuộc diễn binh mừng kỷ niệm sinh nhật 100 năm của cố lãnh tụ Kim Nhật Thành vào giữa tháng 4 vừa rồi thì đã không thấy ảnh của hai ông Marx-Lenin nữa. Hình của ông Kim Nhật Thành với nét mặt nghiêm khắc đã được thay bằng tấm hình ông ta đang cười hiền lành. Cũng như lần trước, chính quyền Bình Nhưỡng hoàn toàn không nói rõ lý do vì sao gở bỏ hai bức hình Marx-Lênin, ai muốn nghĩ sao tùy ý.
Việc Bắc Triều Tiên hạ hai tấm hình Marx-Lênin không thể nào so sánh được với chuyện Mông Cổ kéo đổ tượng Lenin vào ngày 14/10/2012 vừa rồi tại thủ đô Ulan Bator. Trong bài diễn văn buổi lễ hạ tượng, ông Đô trưởng Bat Uul đã lên án Lênin và các đồng chí cộng sản của ông ta là những kẻ sát nhân. Mông cổ đã khổ sở dưới chế độ Cộng sản nhưng đã vượt lên để xây dựng một xã hội mới.
Trở lại với đề tài, theo các bình luận gia thì dòng họ Kim ở Bắc Triều Tiên rất tự tín, không cần phải dùng chủ nghĩa Cộng sản như là một lá chắn để cai trị đất nước như các nhà lãnh đạo một vài nước Cộng sản còn sót lại trên thế gian này. Kim Han Sol, người con trai đầu của cậu cả Kim Chính Nam, tức cháu ruột của tân lãnh tụ Kim Chính Ân, hiện đang học tại một trường đại học quốc tế ở Bosna I Hercegovina (trước đây thuộc Cộng hòa Liên bang Nam Tư) khi được một đài truyền hình của Findland phỏng vấn đã nói rằng: Bố tôi khi còn trẻ tuy không quan tâm đến chuyện chính trị, nhưng vẫn thường thưa chuyện với ông nội tôi (tức là ông Kim Chính Nhật) nên cai trị đất nước bằng rằng đường lối cởi mở chứ không nên độc tài. có lẽ đó là lý do tại sao bố tôi không được chọn để kế vị, nhưng bố tôi không hề bất mãn. Bố và ông nội tôi chỉ nói về chuyện đó chứ không bao giờ bàn đến chủ nghĩa Cộng sản vì theo như bố tôi cho biết cả ông cố cũng như ông nội tôi đều coi chủ nghĩa này như là một phương tiện, khi không cần nữa sẵn sàng dứt bỏ.
Khi chú tôi được chọn, bố tôi đã công khai nói rằng nếu còn tiếp tục cai trị theo đường lối độc tài thì chế độ Kim Chính Ân sẽ không bám trụ được lâu vì chú Ân tôi chẳng hề có công trạng gì với đất nước như ông cố hay ông nội tôi. Tôi chưa có lần nào gặp chú tôi cả, nhưng qua các tin tức tôi biết được thì chú Ân bắt đầu học cách cai trị của một nhà độc tài. Tôi đã nghe những người bạn cùng phòng kể lại sự sụp đổ của các chế độ độc tài như Iraq, Lybia, về cái chết thê thảm, nhục nhả của Tổng thống Saddam Hussein, của Đại tá Gadafi. Những người kể cho tôi nghe biết rất rõ chuyện vì họ là bà con ruột thịt của hai lãnh tụ này. Dù gì đi chăng nữa, tôi vẫn không muốn ông chú tôi phải chết như hai nhân vật trên.
Con cháu lãnh đạo đảng CSVN ở nước ngoài nhiều vô kể và chắc chắn họ cũng biết những chuyện như thế, nhưng đến bây giờ chưa thấy ai có lời khuyên cha chú của họ giống như Kim Han Sol, hay là họ cứ tưởng dân tộc Việt Nam không dám đứng lên chống lại bạo lực như người dân Lybia, Tusinia, Ai Cập…
Hoa Kỳ cần phải tu chính lại chiến lược Á châu
Hoa Kỳ cần phải tu chính lại chiến lược Á châu của mình mới mong ngăn chận được sự bành trướng vũ lực quân sự của Trung quốc là đề tài kết thúc tiết mục Từ Á Sang Âu tuần này, kính mời quý thính giả theo dõi qua sự tóm lược của Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh.
Theo kết quả điều tra của cơ quan Nghiên cứu Quốc gia về Á châu của Hoa Kỳ (có tên viết tắt là NBR : National Bureau of Asia Research) vừa mới công bố vào trung tuần tháng 10 vừa qua thì Hoa Kỳ không thể đơn độc ngăn chận sự bành trướng quân sự của Trung quốc ở Á châu-Thái bình dương mà cần phải hợp tác hơn nữa với nhiều quốc gia trong vùng, chẳng hạn như Nhật Bản, Hàn quốc hay Philippines, kể cả Việt Nam. Cơ quan Nghiên cứu này gồm 10 chuyên gia quân sự lổi lạc của Hoa Kỳ như ông Dan Blumenthal (cựu Cục trưởng cục Trung quốc thuộc bộ Ngoại giao Hoa Kỳ) hay giáo sư Andrew S. Erickson (giáo sư trường đại học Hải quân Mỹ). Theo công bố này thì trong 20 năm trở lại đây Trung quốc đã tiếp cận được với kỹ thuật quân sự tân tiến, với chiến tranh tình báo nên sức mạnh quân sự của họ ngày càng mạnh vì vậy Hoa Kỳ không thể đem chiến lựợc từng chiếm ưu thế của mình ra để ngăn chận chiến tranh ở Á châu- Thái bình dương như trước đây được nữa. Tổng thống Obama muốn chuyển trọng tâm chiến lược của Hoa Kỳ sang Á châu- Thái bình dương thì trước tiên phải tu chính lại nhiều điểm trong chính sách trước đây của Mỹ đối với khu vực này. Cũng theo báo cáo này thì sự lớn mạnh về quân sự của Trung quốc đang uy hiếp những đồng minh ở Á châu của Hoa Kỳ. Nhật Bản, Philippines, Đài Loan và ngay cả Hàn quốc đang lo sợ trước sự lớn mạnh về quân sự của Trung quốc, các quốc gia đó vừa đàm vừa phải đối đầu trước sự uy hiếp của Bắc Kinh vì vậy họ rất muốn hợp tác với Hoa Kỳ nhiều hơn để bảo an đất nước. Hiện nay Hoa Kỳ đang thiếu hụt ngân sách thì có thể kêu gọi các quốc gia phụ đảm thêm chi phí phòng vệ.
Bắc Kinh đã gay gắt lên tiếng chỉ trích kết quả điều tra đó là không đúng sự thật, phóng đại. để tạo lý cớ cho Hoa Kỳ bành trướng ảnh hưởng của họ ở Á châu-Thái bình dương. Bắc Kinh kêu gọi các quốc gia trong vùng đừng tiếp tay với Mỹ trong chuyện này để tránh tình trạng xung đột không cần thiết. Trung quốc sẽ không nhân nhượng đối với bất cứ nước nào đi ngược lại lợi ích của toàn vùng Á châu-Thái bình dương.
Lời cảnh cáo này của Bắc Kinh chẳng hù dọa được ai, ngoại trừ chính quyền Hà Nội, bằng chứng là Nhật Bản, Philippines, hai quốc gia đang bị Trung quốc xâm lăng biển đảo, rất tích cực thúc đẩy việc hiệp tác bảo an với Hoa Kỳ. Cả người dân Nhật lẫn người dân Philippines coi sự hiệp tác bảo an với Hoa Kỳ là cần thiết chứ không phải lệ thuộc vào Mỹ.
Việt Nam là nước đang bị Trung quốc xâm lăng biển đảo nặng nhất thế mà lãnh đạo Hà Nội vẫn tuyên bố rằng Việt Nam có cách riêng để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình chứ không bắt tay hiệp tác với bất cứ một quốc gia nào cả, bảo vệ như thế nào không thấy chỉ thấy biển đảo của Việt Nam mất dần về tay Trung quốc. Bảo vệ theo kiểu này thì coi như dâng hiến cho Trung quốc rồi, thưa phải không quý thính giả.
Đến đây đã chấm dứt tiết mục Từ Á Sang Âu, Dạ Thảo và Hoàng Đỉnh và xin kính chào tạm biệt và kính mời quý thính giả nhớ đón nghe chương trình này vào tuần sau cũng vào giờ này trên làn sóng trung bình 1503 ki lô chu kỳ của đài Chân Trời Mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét