Mỗi năm có
hàng chục nghìn người Trung Quốc sang Mỹ làm ăn, học tập... Rất nhiều
người ở lại và Trung Quốc hóa nước Mỹ. Tuy nhiên, cũng rất nhiều người
không về lại TQ.
Đến Australia, đến Na Uy, đến Mỹ...ở đâu tôi cũng
mang cảm giác bị "thập diện mai phục" bởi hàng hóa và những người Trung
Quốc. Trong chuyến đi Mỹ tháng 6 vừa qua, tôi như lục tung một số siêu
thị khổng lồ ở Mỹ để tìm mua mấy món quà cho bạn bè mà không có dòng chữ
"made in China" nhưng tôi thất bại...
Khoảng 10 năm trở lại đây, nỗi ám ảnh về hàng hóa
"made in China" làm tôi ngạt thở. Nỗi ám ảnh này gây nên bởi những cuộc
"xâm lược" của hàng hóa độc hại và rẻ tiền Trung Quốc qua biên giới Việt
- Trung. Đấy không phải là cơn hoảng sợ vô căn cứ của tôi. Đấy là sự
thật mà chính không ít những người Trung Quốc cũng phải thừa nhận.
Những cuộc tấn công của hàng nghìn tấn thực phẩm tươi
sống ướp hóa chất mà báo chí mấy năm gần đây nói đến như những đợt sóng
thần khổng lồ vượt qua những dãy núi cao ngất ở phía Bắc đổ vào các
thành phố Việt Nam.
Những người buôn bán tham lam và ngốc nghếch Việt Nam
tiếp sức đẩy những con sóng thần ấy lan rộng. Nhiều lúc, tôi nghĩ rằng,
hàng trăm nghìn tấn thực phẩm "chết người" đó chẳng khác gì những quả
bom sinh học ném xuống mảnh đất của chúng ta. Và hậu quả của nó như thế
nào trong tương lai gần thì ai cũng hiểu.
Lou - một sinh viên Trung Quốc theo học nhạc ở Mỹ. |
Sau vài chục năm theo dõi, ông nhận thấy rằng, 10 năm đầu khi một China Town nào đó được thành lập, những người Australia đến thăm với cảm giác họ đi thăm một hội chợ hàng Trung Quốc ở Australia. Nhưng sau 10 năm, họ đến China Town và nhận ra đó là đất Trung Quốc nằm trong lãnh thổ Australia. Cái giật mình về một điều gì đó bắt đầu từ đấy.
15 năm trước, tôi có đọc một cuốn sách xuất bản tại
Mỹ viết về những dòng người Trung Quốc đến Mỹ học tập và nghiên cứu. Tác
giả cuốn sách cho biết: mỗi năm (vào những năm đầu 1990) có khoảng
70.000 sinh viên và nghiên cứu sinh Trung Quốc đến Mỹ học tập và nghiên
cứu.
Rồi những người này tìm cách vào làm việc trong các
công sở, viện nghiên cứu, ĐH... của Mỹ và tìm cách ở lại và bắt đầu cuộc
hành trình vào sâu trong nước Mỹ. Tác giả cuốn sách dự báo rồi đến một
ngày nào đó, những người Mỹ tỉnh dậy và nhận thấy Mỹ bị Trung Quốc hóa
hay nói cách khác là bị Trung Quốc ăn rỗng bên trong.
Tôi từng viết về một thanh niên Trung Quốc bán trứng ở
Australia. Anh ta kiên nhẫn ngày ngày xách một khay trứng đi bán. Sự
kiên nhẫn của anh làm cho tôi nghĩ rằng sẽ không có gì có thể làm cho sự
kiên nhẫn của anh ta gục ngã.
Dù anh ta không nói nhưng tôi biết bên trong đôi mắt một mí kia là một tham vọng ghê gớm và một sự kiên nhẫn kinh hoàng. Có những người Trung Quốc nhẫn nại bán từng gói lạc rang húng lìu, từng chiếc bánh bao nhân thịt...trở thành những tỷ phú. Và người thanh niên bán trứng kia cũng mang tham vọng ấy.
Dù anh ta không nói nhưng tôi biết bên trong đôi mắt một mí kia là một tham vọng ghê gớm và một sự kiên nhẫn kinh hoàng. Có những người Trung Quốc nhẫn nại bán từng gói lạc rang húng lìu, từng chiếc bánh bao nhân thịt...trở thành những tỷ phú. Và người thanh niên bán trứng kia cũng mang tham vọng ấy.
Và lúc này, tôi bắt đầu muốn nói về Lou, một sinh
viên Trung Quốc theo học nhạc ở Mỹ. Tôi gặp Lou ở nhà một giáo sư Mỹ.
Lou được một giáo sư Mỹ dạy nhạc xin cho học bổng một phần sang Mỹ học.
Người giáo sư bạn tôi thấy gia đình Lou khó khăn giúp đỡ cậu bằng cách
đưa cậu về ở nhà mình. Lou ở trong một căn phòng nhỏ dưới tầng hầm.
Cậu nói bố mẹ cậu làm công nhân và thật khó để kiếm
được 5.000 USD cho cậu đóng tiền học trong một năm. Nhưng sau một năm,
cậu tìm cách xin được học bổng toàn phần. Cậu cứ lặng lẽ gặp từng giáo
sư Mỹ dạy cậu và những người có liên quan ở trường và cuối cùng cậu đã
"thắng" từng giáo sư dẫn đến "thắng" tất Hội đồng giáo sư và họ đồng ý
trao học bổng toàn phần cho cậu. Và hàng ngày, cậu vẫn lặng lẽ lên xe
của con cái chúng ta để đi nhờ đến trường trong tuyết lạnh.
Một buổi sáng tôi nhìn thấy cậu ăn mỳ tôm với sườn
nướng mà chúng tôi nướng từ chiều hôm trước chưa ăn hết. Cậu ngồi ăn
kiên nhẫn không để lại một chút thịt nào trên dẻ sườn đó. Đó là mỳ tôm
Hảo Hảo mà chúng tôi mang từ Việt Nam sang và sườn nướng ướp theo kiểu
Mỹ mà vị giáo đã nướng.
Có thể, mỳ tôm và sườn nướng kia không hợp với khẩu
vị của cậu như há cảo, vằn thắn, màn thầu... Nhưng mỳ tôm của ai, sườn
nướng ướp gia vị gì không quan trọng với cậu lúc này. Cậu cần phải ăn và
cần phải đi tiếp con đường đã vạch trong đầu cậu và có thể cả những
tham vọng phía sau đôi mắt một mí ấy.
Trong mấy ngày ở trong ngôi nhà người bạn giáo sư,
tôi thấy cậu mang dáng vẻ của một cậu bé con nhà ngèo và yếu thế qua
cách ăn nói, đi đứng. Nhưng có thể đến một ngày nào đó, cậu bỗng hiện ra
là một người khác và mua một biệt thự sang trọng, giành lấy một trang
trại... chứ không phải ở trong một phòng dưới tầng hầm mà người ta dành
cho cậu với sự chia sẻ và biến những người khác thành kẻ cầu xin mình.
Nhưng bây giờ, cậu chỉ là một sinh viên như con cái chúng ta. Cậu đang
cầu xin người khác hãy thương cậu, hãy giúp cậu. Và với lòng nhân ái,
những người tốt đưa bàn tay về phía cậu.
Khi viết về cậu sinh viên Lou, tôi lại nhớ về một
người Trung Quốc mà tôi gặp ở Đài Bắc năm 2007 khi tôi đến đó dự Liên
hoan thơ quốc tế. Người đàn ông đó là Lưu Kiến Sinh. Ông từ Chợ Lớn, Sài
Gòn sang định cư ở Pháp rồi về Đài Bắc. Với tôi, ông là một Trung Quốc
khác. Sau chuyến đi ấy, tôi viết về ông. Bây giờ, tôi xin trích một số
đoạn trong bài viết về người đàn ông Trung Quốc này 5 năm về trước:
Lưu Kiến Sinh đọc báo thấy có một nhà thơ Việt Nam
đến Đài Bắc dự Liên hoan thơ Đài Bắc 2007. Ông đến để gặp một người từ
mảnh đất ông sinh ra và lớn lên. Buổi tối ấy, Lưu Kiến Sinh chọn một chỗ
ngồi gần cuối hội trường. Ông lặng lẽ nghe các nhà thơ đọc thơ. Khi tôi
kết thúc phần đọc thơ, ông không đến bắt tay chúc mừng tôi như những
người Đài Loan khác có mặt ở đó. Ông vẫn ngồi im lặng và nhìn về phía
tôi.
Chỉ khi đêm thơ kết thúc và những người bạn Đài Loan
đến dự đêm thơ đó chia tay tôi, ông mới đến trước tôi và nói rằng ông đã
im lặng để nghe tiếng Việt qua giọng đọc thơ của tôi. Tôi cố tìm kiếm
một sự xúc động trên gương mặt ông. Nhưng tôi vẫn chỉ thấy ánh buồn từ
đôi mắt ông. Lúc đó, tôi cảm giác như ông là một cái gì đó xa xôi và
khuất một nửa trong bóng tối.
Sau đêm thơ, mấy người bạn nghệ sĩ Đài Bắc rủ tôi đi
chợ đêm. Chợ đêm ở Đài Bắc là một "đặc sản" không chỉ dành cho những
người du lịch mà cả những người Đài Bắc. Chúng tôi đi lang thang và trò
chuyện về mọi thứ.
Thi thoảng tôi chợt nhớ đến Lưu Kiến Sinh đi cùng,
tôi quay lại kiếm tìm ông và vẫn thấy ông lặng lẽ đi sau chúng tôi. Hình
như ông chẳng tham gia vào bất cứ câu chuyện nào của chúng tôi. Nhưng
ông không rời bỏ chúng tôi nửa bước. Trong chuyến đi chơi chợ đêm đó,
Lưu Kiến Sinh chỉ hỏi tôi một câu là Hà Nội bây giờ ra sao và có chợ đêm
như ở Đài Bắc không.
Lưu Kiến Sinh đến thăm Hà Nội hai lần sau năm 1975.
Trước năm 1975, ông chỉ biết qua những trang viết của Nhất Linh. Ông nói
với tôi cho đến bây giờ ông vẫn giữ mãi hình ảnh của Hà Nội qua văn của
Nhất Linh. Gần 30 năm sống ở nước ngoài, ông chưa một lần trở về Trung
Quốc cho dù đó chính là nơi cụ kị ông sinh ra và lớn lên. Nhưng cứ vài
năm ông lại trở về Việt Nam và tìm cách đi Hà Nội khi nào có thể.
Sau khi phải rời Việt Nam, Lưu Kiến Sinh định cư ở
Đài Loan một thời gian. Nhưng ông vẫn cảm thấy trống vắng và hoang mang.
Một cái gì đó làm cho ông cảm thấy ông không thể nào yên lòng. Cái gì?
Ông cũng không biết một cách rành mạch và đầy đủ. Thế rồi ông quyết định
sang Pháp làm ăn và sinh sống. Ông yêu một cô gái Trung Quốc sống ở Bắc
Kinh sang Pháp du học. Rồi họ lấy nhau và sinh một cậu con trai. Nhưng
ông vẫn không một lần trở về Trung Quốc. Ông nói ông sợ với một nỗi sợ
vừa rành rọt vừa mơ hồ.
Sau gần 10 năm sống ở Paris, ông vẫn thấy ông chưa ở
đâu cả mà vẫn lang thang trên con đường nào đó trên mặt đất này. Ông nói
với tôi rằng mỗi tối trở về ngôi nhà ở Paris ông vẫn thấy gió lạnh thổi
vào lưng. Có lẽ đó là cách nói của ông để nói về sự trống vắng nào đó
chăng? Và gần mười năm ở Paris, theo ông, công việc có ý nghĩa nhất của
ông là dịch tác phẩm của Nhất Linh sang tiếng Hoa và in trên một tờ
Trung Hoa Báo xuất bản ở Pháp.
Khi còn ở Chợ Lớn, ông dịch Nhớ rừng của Thế Lữ sang
tiếng Hoa và xuất bản trên tờ báo tiếng Hoa ở Sài Gòn năm 1972. Tôi tự
đoán lý do vì sao ông lại yêu bài thơ Nhớ rừng như thế. Có một khoảng u
tối và một khát vọng mạnh mẽ trong thân xác mong manh và gương mặt yếu
đuối của người đàn ông là Lưu Kiến Sinh. Thế là sau nhiều năm ở Paris,
ông lại trở về Đài Bắc. Ông vẫn đi tìm một nơi trú ngụ. Một nơi mà mỗi
tối để ông trở về không còn thấy gió lạnh thổi vào lưng nữa.
Trong những ngày ở Đài Bắc, buổi nào có tôi đọc thơ
là ông lại đến. Vẫn như lần đầu tôi nhìn thấy, ông lặng lẽ tìm một chỗ
ngồi hơi khuất ánh sáng và nghe thơ. Tôi không biết ông đến để nghe thơ
hay nghe giọng nói tiếng Việt. Ông cũng sáng tác thơ nhưng không nhiều
và sáng tác bằng tiếng Trung Quốc. Mấy năm nay ông viết ca khúc. Ông có ý
định xuất bản một đĩa nhạc gồm những ca khúc của ông ở Việt Nam. Ông
hỏi tôi ông có thể thu âm những ca khúc của ông ở Việt Nam không? Ông
vẫn ao ước lời những ca khúc của ông được dịch ra tiếng Việt và được hát
ở Việt Nam.
Một chiều được nghỉ, tôi và ông lang thang dọc một số
đường phố ở Đài Bắc. Trời có gió và bắt đầu se lạnh. Khi chúng tôi ngồi
nghỉ trên một chiếc ghế ở khu phố đi bộ, tôi đề nghị ông hát một bài
hát của ông cho tôi nghe. Ông cúi đầu một lát rồi cất giọng hát. Có một
người đi vào trong rừng và không bao giờ trở lại...Đấy là lời bài hát mà
ông dịch ra tiếng Việt cho tôi nghe. Trong gió lạnh ở một chốn xa lạ và
với đôi mắt lúc nào cũng buồn và xa xôi.
Cho đến lúc này, lòng tôi mỗi lúc một vang lên câu
hỏi: Lưu Kiến Sinh, ông là một người Trung Hoa. Cố hương của ông là ở
chốn đó sao ông lại sợ trở về?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét