'Tuổi trẻ không phải cái cớ cho sự thờ ơ'
Ở tuổi 17, cô gái Malala Yousafzai (Pakistan) đã gây chấn động thế
giới khi trở thành người trẻ tuổi nhất đoạt giải Nobel hòa bình. Câu
chuyện phi thường của cô khiến nhiều người suy ngẫm về ý nghĩa của tuổi
trẻ.
Malala Yousafzai - giải Nobel ở tuổi 17
Mười một tuổi, cô bé Malala Yousafzai bắt đầu viết cho chuyên mục
blog của BBC. Những gì cô viết đơn giản chỉ là mô tả lại cuộc sống của
cô tại vùng thung lũng Swat tại Tây Bắc Pakistan và thúc đẩy giáo dục
cho nữ giới tại quê hương cô. Thời điểm đó, tàn quân Taliban đang nắm
giữ vùng này và chúng không cho phép trẻ em nữ được đến trường.
Malala Yousafzai. Ảnh: Facundo Arrizabalaga/EPA
|
Dưới chế độ hà khắc của Taliban thì những gì Malala viết chỉ càng làm
cuộc sống cô bé nguy hiểm hơn. Lo lắng trước những gì Malala cố gắng kể
cho thế giới, Taliban đã tìm cách thủ tiêu cô bằng một phát súng vào
đầu ở cự ly gần. Khi ấy, Malala chỉ vừa 15 tuổi.
Phát súng không thể giết chết Malala, cũng như không thể đập tan đi ý
tưởng về quyền được đến trường của cô. Trái lại, nó đã vô tình tiếp
thêm sức mạnh và sự ủng hộ cho Malala. Thế giới lên án Taliban, cộng
đồng quốc tế đứng về phía Malala và ý tưởng nhỏ bé của cô ấy. Cô bé tỉnh
dậy sau ca phẫu thuật dài.
Vết thương vùng đầu không ngăn được cô đem câu chuyện của mình đến
với nhiều người hơn nữa. Cô phát biểu về quyền được đi học trước Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc, cô được tạp chí TIME đề cử trong danh sách "100
người có ảnh hưởng nhất trong năm 2013", được đề cử giải Nobel Hòa bình
năm 2013, và ngày sinh của cô được LHQ chọn làm ngày để tôn vinh sức
mạnh của giáo dục trên toàn cầu.
Malala không sinh ra đã là một vĩ nhân. Cũng như bao cô gái cùng
trang lứa khác, cô luôn sợ hãi. Đã có lúc cô ám ảnh với cái chết, với sự
rình rập của Taliban. Nhưng bên cạnh đó, cô có một niềm tin mãnh liệt
vào mục tiêu mình theo đuổi. Hơn hết, cô cảm thấy bản thân có một trách
nhiệm to lớn phải tiếp tục cuộc hành trình của mình. "Cháu sẽ lên
tiếng. Nếu cháu không nói, thì ai sẽ nói", "Cháu có quyền lên tiếng. Nếu
họ tìm cách ám sát cháu, cháu sẽ giải thích cho họ hiểu những gì họ làm
là sai và giáo dục là quyền căn bản của chúng ta. Cháu sẽ đi học, cho
dù là học ở nhà, ở trường hay bất cứ nơi đâu. Họ không thể ngăn cả cháu
được".
Malala trở thành người trẻ tuổi nhất được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 2014, khi cô chỉ mới 17 tuổi.
Joshua Wong
Joshua Wong. Ảnh: CNN
|
Joshua Wong trở thành thủ lĩnh phong trào sinh viên Hong Kong từ khi
mới 14 tuổi. Cũng như Malala, mối quan tâm hàng đầu của cậu chính là
giáo dục. Phong trào Scholarism được lập ra chỉ như một tiếng nói phản
biện lại nền giáo dục mà cậu và các bạn cho là rập khuôn, giáo điều của
Hong Kong.
Mười bảy tuổi, cậu trở thành một trong những lãnh đạo cốt cán của
cuộc xuống đường của sinh viên Hong Kong đòi cải cách chế độ bầu cử. Một
tạp chí của Pháp gọi cậu là "thần đồng chính trị". Truyền thông quốc tế
tò mò, chú ý đến cậu như một lãnh đạo của phong trào biểu tình được coi
là lịch sự nhất từ trước đến nay.
Cũng như Malala, cậu cũng chỉ là một con người bình thường. Sinh ra
với chứng đọc khó, không ai có thể nghĩ cậu bé nhỏ người, gầy gò với cặp
kính cận kia giờ đây lại đang có tiếng nói rất quan trọng trong phong
trào sinh viên Hong Kong.
Cũng đã có lúc tuổi trẻ khiến cậu sai lầm, như có lần cậu phải xin
lỗi vì sự chỉ trích chính quyền một cách vô lý của mình. Những gì cậu
đang làm có thể đúng, có thể sai và lịch sử sẽ phán xét, nhưng không thể
phủ nhận sự kiên định và năng lượng dồi dào của Joshua Wong.
Sophie Scholl (người Đức, 1921 - 1943)
Sophie Scholl (ảnh giữa). Ảnh: Ushmm.org
|
Năm 1943, khi mới ngoài 20 tuổi, lẽ ra Sophie Scholl phải đang vui
chơi với bạn đồng trang lứa và mơ mộng về tương lai. Nhưng cô lại đang
đứng trước phiên tòa hình sự của chế độ Quốc xã Đức. Rồi chỉ sau đó
không lâu thôi, cô sẽ bị tuyên xử tử vì tội phá hoại và bị chặt đầu.
Những gì cô làm đơn giản chỉ là tham gia hội Hoa hồng Trắng, một tổ
chức sinh viên chuyên đi rải truyền đơn kêu gọi người dân Đức hãy dùng
lương tri và nhìn rõ bộ mặt của chế độ Quốc xã Đức. Khó có thể biết
Sophie Scholl đã làm gì, nói gì trong những ngày cuối đời của mình, vì
bọn Quốc xã đã đem cô bé đi xử trảm ngay buổi chiều sau khi tuyên án.
Nhưng chúng ta biết được rằng lời cuối cùng cô nói trước tòa án Quốc
xã vẫn thể hiện sự kiên cường và niềm tin vào những gì mình đã làm của
cô: "Sau cùng thì một ai đó cũng phải bắt đầu việc này. Những gì
chúng tôi viết và nói cũng là những gì nhiều người suy nghĩ. Họ chỉ
không dám thể hiện thôi".
Cũng như Malala và Joshua Wong, Sophie Scholl cũng là một cô bé bình
thường, lãng mạn. Cô có người yêu ngoài mặt trận. Cô lãng mạn gọi tổ
chức của mình là Hoa hồng Trắng. Cô thích trượt tuyết, leo núi, âm nhạc
và có tài vẽ tranh. Khi bị bắt, cô mặc một chiếc áo len đỏ và tóc mái
kẹp một bên. Chiếc áo len đó theo cô ra phiên xử và cùng cô đi đến giờ
phút cuối cùng, khi lời nói sau chót của cô được thốt ra: "Và mặt trời vẫn sẽ tỏa nắng".
Sophie Scholl, Malala Yousafzai, và Joshua Wong đều là những người
rất trẻ. Họ đều có xuất thân cũng như cách hành xử rất bình thường, trẻ
trung như lứa tuổi của mình. Điểm chung lớn nhất của cả ba đó chính là
họ từ chối việc chỉ biết lắng nghe và trì hoãn những suy nghĩ của bản
thân.
Cũng như bao người trẻ khác, hẳn họ cũng phải đối mặt với những lời
chỉ trích, răn đe, rằng trẻ tuổi nghĩa là họ không nên nghĩ nhiều đến
chuyện lớn, rằng tương lai là của họ, vì thế họ cần im lặng trong hiện
tại, và rằng trẻ tuổi nghĩa là những suy nghĩ của họ là sai lầm... Nhưng
tất cả đều từ chối làm theo những lời đó. Bởi lẽ họ cho rằng, lương tri và
quyền được nói lên những suy nghĩ của mình không phải là đặc quyền của
một lứa tuổi nào cả.
***
Hai mươi mốt tuổi, Traudl Junge (16/3/1920 - 10/2/2002) trở
thành thư ký riêng của Adolf Hitler [1]. Cô đã ở bên cạnh Hitler cho đến
ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh. Thật khó có thể quy kết những tội
ác của Đức Quốc xã cho cô, bởi lẽ cô chỉ là một thư ký và không biết
những tội ác đang diễn ra.
Nhiều người cho rằng tuổi trẻ đồng nghĩa với việc tương lai thuộc về
bản thân, vì thế họ tự cho phép mình thờ ơ với những gì diễn ra xung
quanh, bằng lý do này hay lý do khác. Những lúc như vậy, tôi thường hay
nhớ lại bài trả lời phỏng vấn cuối cùng trong sự nghẹn ngào của Traudl
Junge [2]:
"Những gì tôi nghe thấy ở Phiên tòa Nuremberg, về cuộc thảm sát
sáu triệu người Do Thái và các chủng tộc khác, những điều ấy khiến cho
tôi bàng hoàng tột độ. Nhưng tôi vẫn không thể thấy mối liên hệ của tội
ác đó và quá khứ của tôi. Tôi đã hài lòng rằng bản thân không bị quy kết
và rằng tôi không biết đến những điều đó đã xảy ra.
Nhưng ngày nọ, tôi đi ngang qua bức tượng người ta dựng lên để
tưởng nhớ Sophie Scholl tại đường Franz Josef. Đứng trước tôi là kí ức
của một cô gái trạc tuổi tôi, và cô ấy bị xử tử cùng thời điểm tôi bắt
đầu làm việc cho Hitler. Chính vào lúc đó, tôi thực sự hiểu rằng tuổi
trẻ không phải là một cái cớ cho sự thờ ơ, vô tâm của bản thân..."
Phải, tuổi trẻ không thể là cái cớ cho sự thờ ơ, vô tâm.
Lê Nguyễn Duy Hậu
(Tuần Việt Nam)
-----
[1] Câu chuyện của Traudl Junge sau này đã đi vào bộ phim do Đức sản
xuất với tựa gốc Der untergang, tựa tiếng Anh Downfall. Bản phim tại VN
có tựa Ngày tàn. Bộ phim đã được đề cử Oscar 2005 cho Phim nước ngoài
hay nhất.
[2] Cuộc phỏng vấn trong phim tài liệu Im Toten Winkel của Áo.
Sản phẩm dối trá: Nguyễn Văn Trỗi
Thầy hiệu trưởng nói về Nguyễn Văn Trỗi, là biệt động quân Sài Gòn, một
người thợ điện còn rất trẻ, mới 24 tuổi, vừa mới lấy vợ chưa có con, đã
xung phong nhận nhiệm vụ đánh bom ám sát Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert
McNanara đang ở thăm Sài Gòn. Dự tính bom sẽ được đặt dưới cầu Công Lý,
nơi phái đoàn cao cấp của Mỹ do McNamara dẫn đầu, đi qua. Kế hoạch bị
bại lộ, Nguyễn Văn Trỗi bị bắt và bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa kết
án tử hình. Ngày 15 tháng 10 năm 1964, bản án được thi hành.
Tôi nhớ, buổi sáng chào cờ hôm ấy, thầy hiệu trưởng đọc lại lời của Hồ
Chí Minh, đại ý là “Liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống
đế quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của anh hùng Nguyễn
Văn Trỗi là tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước - nhất
là các cháu thanh niên, học tập.”
Và thế là phong trào nổi lên. Người ta cho tổ chức thi giỏi văn toàn
miền Bắc với đề bài nói về “anh hùng” Nguyễn Văn Trỗi. Âm thanh kích
động còn được khuếch trương trên báo đảng. Tố Hữu thì làm thơ, mô tả
toàn bộ cuộc hành quyết Nguyễn Văn Trỗi trên báo Nhân Dân qua bài thơ
“Hãy nhớ lấy lời tôi,” trong đó có 3 lần nhắc lại “Hồ Chí Minh muôn
năm!”
Các nhà văn, nhà thơ, đạo diễn thì đồng loạt cho ra đời các tác phẩm
ngợi ca Nguyễn Văn Trỗi, “biểu tượng của ngọn lửa anh hùng cách mạng.”
Chưa hết, phim ảnh cũng xây dựng “hình ảnh” Nguyễn Văn Trỗi; âm nhạc cũng nói về Nguyễn Văn Trỗi.
Vân vân và vân vân...
Trong xã hội miền Bắc, con người sống như bị giam hãm trong “trại súc
vật,” bị tẩy não, bị thuần hóa, mù tịt thông tin, chỉ biết thế giới bên
ngoài qua các phương tiện báo chí truyền thông của đảng. Lúc ấy cũng
chưa có Internet, dường như ai ai cũng tin, tin như đinh đóng cột vào cả
những điều phi lý hiển nhiên. Một con người nơi pháp trường đã bị trói
gập khuỷu tay làm sao có thể giật mảnh băng đen bị mắt. Rằng, đã bị súng
bắn chết gục sao còn có thể “thắng dậy” mà hô khẩu hiệu! Nhưng tuyệt
nhiên không hề có một sự nghi kỵ nào!
Phải đợi tới 34 năm sau, năm 1998 khi cuốn sách “Chân dung và đối thoại”
của Trần Ðăng Khoa phát hành, thì một số ít người mới biết được sự
thật. Diễn biến toàn cảnh Nguyễn Văn Trỗi bị xử tử hình trên không như
Tố Hữu ca ngợi mà bị xiên xẹo, bịa đặt, dối trá. Cả một nửa đất nước đã
bị lừa gạt thảm hại bởi bút pháp “bậc thầy” và nghệ thuật bịa của “nhà
thơ lớn.”
Trong một lần tâm sự với Trần Ðình Khoa, Tố Hữu, lúc này là một con
người thất thế, chán nản nhân tình thế thái, như một lời tự thú, đã nói
ông ngồi nhà bịa như thật khiến người đọc cứ tưởng như ông đang ở ngoài
mặt trận, khi viết bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” và cũng dịp ấy
ông thú nhận: “Tôi hô khẩu hiệu đấy, tôi chả sợ. Tôi muốn nói rằng:
Không có cái gì là không thành thơ được. Tôi cho cả Nguyễn Văn Trỗi hô:
Hồ Chí Minh muôn năm. Mà hô những ba lần kia.”
Cái kim bọc kỹ lâu ngày cũng lòi ra. “Anh hùng” Nguyễn Văn Trỗi bị bắn
chết nhưng “nhà thơ” đã kịp nhét khẩu hiệu vào mồm! Ðể hô. Hô to cho dân
miền Bắc nghe qua báo đảng!
Sau này xem lại clip video mới thấy Nguyễn Văn Trỗi, một kẻ khủng bố
đúng nghĩa với ngôn ngữ ngày nay, chẳng thấy anh ta hô hoán khẩu hiệu
nào, mà cũng chẳng thấy đâu cái tư thế “lẫm liệt”
(https://www.youtube.com/watch?v=wH3RgiZJSaI )
Nhưng cũng hết sức thô bỉ và đáng xấu hổ! Biết là bịa mà Trần Ðăng Khoa củng cố nịnh:
“Tất nhiên, sau ba câu khẩu hiệu Hồ Chí Minh muôn năm, Tố Hữu đã hạ
một câu thơ thật là thần tình: Phút giây thiêng anh gọi Bác ba lần. Và
thế là ngay lập tức, mấy câu khẩu hiệu khô khốc trên kia đã không còn là
khẩu hiệu nữa, nó đã thành tình cảm, xúc cảm, thành nỗi niềm thiêng
liêng của cả một đời người ở cái giây phút hiểm nghèo nhất. Và người đọc
bỗng ứa nước mắt. Ðấy là tài nghệ của một bút pháp lớn. Bút pháp bậc
thầy.”
Sự dối trá về Nguyễn Văn Trỗi cũng tương tự như “ngọn đuốc sống” Lê Văn
Tám trong thời chống Pháp, một nhân vật được Trần Huy Liệu, bộ trưởng Bộ
Tuyên Truyền và Cổ Ðộng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sáng tác, dựng
lên.
Trớ trêu thay, cho đến ngày nay, người ta cũng bất chấp dư luận, sống
sượng và vô liêm sỉ đến mức vẫn lấy tên Lê Văn Tám để đặt tên cho nhiều
trường học và công viên ở Việt Nam. Họ cũng chẳng chỉnh sửa, đính chính
những điều không có về hình ảnh Nguyễn Văn Trỗi.
Các thế hệ sau chiến tranh tiếp tục bị nhồi sọ bằng những biểu tượng
lịch sử gian dối, mà đỉnh cao nhất là nhân vật Hồ Chí Minh, được tuyên
truyền như “một danh nhân văn hóa.”
Chế độ Cộng Sản tồn tại được nhờ vào hai yếu tố: bạo lực và dối trá. Bạo
lực để đàn áp sự chống đối và phủ tâm lý sợ hãi lên toàn xã hội. Dối
trá để nhồi sọ, ngu dân.
Cựu Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Liên Xô Michail Gorbachev đã từng cay đắng
nói: “Cả cuộc đời tôi đi theo chủ nghĩa Cộng Sản chỉ thấy toàn là nói
dối, nói dối và nói dối.”
Lech Walesa, cựu thủ lĩnh Công Ðoàn Ðoàn Kết Ba Lan, người thợ điện đã
làm chập mạch toàn bộ hệ thống Cộng Sản Châu Âu nói rằng, “Người Cộng
Sản là những tổ sư chuyên về phá hoại. Họ có thể biến cái hồ cá thành tô
súp cá dễ như chơi.”
Còn Aeschylus (524 TCN-456 TCN), nhà soạn kịch Hy Lạp cổ đại, cha đẻ của
bi kịch hiện đại, từ xa xưa đã nhận định: “Không có gì tồi tệ hơn sự
dối trá được thể hiện bằng những ngôn từ hoa mỹ.”
Lê Diễn Ðức
(Người Việt)
(Người Việt)
Kẻ chơi dao sẽ chết vì dao
(Tại Việt Nam, cứ nhìn những
người trộm chó bị cả làng đánh đập cho đến chết, thì chúng ta có thể
hình dung ra cái đảng ăn trộm tương lai của dân tộc, sẽ bị nhân dân đối
xử ra sao.)
Cũng giống như Việt Nam, Miến Điện từng là quốc gia độc tài quân phiệt, và đã đàn áp đối lập vô cùng khắc nghiệt. Nhiều tù nhân chính trị, các nhà hoạt động nhân quyền đã bị tù tội. Không riêng gì quần chúng mà nhiều vị tu sĩ cũng đã bị đánh đập dã man và giam giữ bất hợp pháp khi họ tham gia các cuộc biểu tình ôn hoà đòi dân chủ. Tuy nhiên, hiện nay Miến đã thay đổi, quốc gia độc tài “quân phiệt” này, đang từng bước đi đến ngưỡng cửa của dân chủ.
Kể từ năm 2011, khi bắt đầu cải tổ về chính trị, Miến Điện đã trả tự do cho gần 1,300 tù nhân chính trị. Gần đây nhất, Tổng thống Thein Sein đã tuyên bố sẽ trả tự do thêm cho cả ngàn tù chính trị để bảo đảm cho xứ sở của ông được “ổn định và hoà bình”. Tuyên bố này, được cho là bước khởi đầu của Miến Điện trước khi thay đổi bộ mặt của đất nước họ, chuẩn bị cho vai trò làm chủ nhà cho Hội nghị Đông Á, dự trù có nhiều vị nguyên thủ quốc gia tham dự, kể cả Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama.
Nhà cầm quyền Hà Nội nên theo gương “cải cách chính trị” của Miến Điện,
trả tự do cho các tù nhân chính trị, các nhà hoạt động nhân quyền và
dân oan trước khi quá trể. Một chế độ công an trị, chỉ biết dựa trên
bao lực để cai trị, chế độ đó, thực chất sẽ không thể có “ổn định và hoà
bình” lâu dài. Điều này, chính ông Tổng thống Thein Sein đã nhận ra
khi thấy được sức mạnh của các cuộc cách mạng màu, diển ra từ Ukraine
cho tới Libia. Khi một phóng viên ngoại quốc hỏi, động cơ nào đã làm
ông từ bỏ ý định độc tài, quyết tâm đưa đất nước Miến Điện tiến dần đến
quỹ đạo dân chủ. Ông Thein Sein đã thừa nhận như vậy.
Chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân. Khi sức mạnh của quần chúng biến thành cơn bão lửa, sự phẫn nộ của đám đông bị áp bức, có thể giựt xập rất nhanh chế độ độc tài, toàn trị, bất khả vãn hồi. Và kẻ gây tội ác, trong bối cảnh tranh tối tranh sáng, sẽ không có thời gian để trả lời trước công luận. Tại Việt Nam, cứ nhìn những người trộm chó bị cả làng đánh đập cho đến chết thì chúng ta có thể hình dung ra cái đảng ăn trộm tương lai của dân tộc, sẽ bị nhân dân đối xử ra sao.
Nhà độc tài Muammar Gaddafi đã chạy trối chết, trốn chui trốn nhũi vào hầm cống và bị kéo lê lết trên đường phố trước khi bị giết chết. Nhìn Saddam Hussein, chết dưới giá treo cổ một cách nhục nhã thì chúng ta biết số phận của những nhà độc tài sẽ kết thúc bi thãm thế nào, trước cơn phẩn nộ của quần chúng. Kẻ gieo gíó sẽ gặt bảo. Kẻ chơi dao sẽ phải chết vì dao, vì đó là qui luật. Tuy nhiên, không phải nhà độc tài nào cũng khôn khéo và sớm ý thức được số phận của họ như Tổng Thống Miến Điện.
Khác với các nước độc tài chỉ dựa vào một nhà lãnh đạo, độc tài Cộng sản là một hệ thống chính trị vô cùng chặt chẽ. Trong lịch sử các nước cộng sản, ít có nhà lãnh đạo cộng sản nào có thể tự “cải tổ chính trị”, từ bỏ độc tài để đi vào quỹ đạo dân chủ mà không bị hệ thống đảng CS nghiền nát. Trường hợp của Trần Xuân Bách và Trần Độ cũng là những thí dụ điển hình. Riêng cựu Tổng bí thư đảng CS Liên Xô, Ông Gorbachev, không chủ trương từ bỏ quyền lực chính trị của đảng. Trong quá trình cải tổ theo chính sách “đổi mới”, để duy trì quyền lực đảng hữu hiệu hơn, đảng CS Liên Xô đã bị cuốn vào cơn lốc của cách mạng dân chủ Đông Âu. Khi nhân dân Liên Sô xuống đường ở Mạc Tư Khoa, chính trị bộ Liên Sô vẫn còn đang bận họp, bàn cách giữ lại điều 6 Hiến Pháp, một điều khoản tương tự như điều 4 Hiến Pháp của đảng CSVN.
Cựu Tổng bí thư đảng CS Trung Quốc, Triệu Tử Dương đã sớm nhận thức được con đường nguy hiểm của độc tài tuyệt đối. Họ Triệu, khi là Bí thư Quảng Đông, đã bị Hồng vệ binh cho đội mũ tai lừa đi diễn hành trong cuộc Cách mạng Văn hoá. Sau nhờ Đặng Tiểu Bình tin cậy, cất nhắc và dần dần leo đến tột đỉnh quyền lực. Ông chủ trương canh tân, từng bước đưa Trung Quốc cải tổ kinh tế, vừa song hành cải tổ chính trị. Ý tưởng “cải cách” quá cấp tiến của họ Triệu đã bị hệ thống đảng CS Trung Quốc trừng phạt. Hậu quả là họ Triệu đã bị Chính trị bộ Trung Quốc tước quyền lãnh đạo, và giam lõng cho tới chết. Là Tổng bí thư đảng CS, nhưng ông đã đối thoại rất chí tình với sinh viên trong cuộc biểu tình ở Thiên An Môn. Ông nói “Các sinh viên, chúng tôi đến quá trễ. Chúng tôi xin lỗi. Các bạn nói về chúng tôi, chỉ trích chúng tôi, đó đều là việc cần thiết. Lý do tôi đến đây không phải để yêu cầu các bạn tha thứ cho chúng tôi. Tất cả những điều tôi muốn nói là các sinh viên đang trở nên yếu ớt, đây đã là ngày thứ 7 của cuộc tuyệt thực, các bạn không thể tiếp tục như vậy...” Phát biểu trên của ông tại Thiên An Môn, cũng đã chấm dứt sinh mạng chính trị của họ Triệu.
Đối với Việt Nam, tình hình hiện nay cho thấy, đặt kỳ vọng vào một sự cảnh tỉnh chính trị ở các cá nhân lãnh đạo CSVN như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hay Chủ tịch Trương Tấn Sang, thì đó chỉ là “ảo vọng dân chủ”. Cá nhân Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng hay Trương Tấn Sang, có thể chống nhau vì tranh dành quyền lực chính trị, nhưng họ không chống nhau vì khác biệt ý thức chính trị, vì xu hướng cải tổ dân chủ cho tương lai Việt Nam. Cả ba, hay hầu hết các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, đều chủ trương độc tài, độc đảng, chuyên chính vô sản và mù quáng đi theo con đường cộng sản, để duy trì quyền lực tuyệt đối của Đảng.
Quyền lực dễ làm tha hoá con người, và quyền lực tuyệt đối như đảng cộng sản Việt Nam, thì càng làm cho các lãnh đạo Đảng bị lún xâu hơn nữa, vào con đường tha hoá.
© Đỗ Thành Công
© Đàn Chim Việt
Cũng giống như Việt Nam, Miến Điện từng là quốc gia độc tài quân phiệt, và đã đàn áp đối lập vô cùng khắc nghiệt. Nhiều tù nhân chính trị, các nhà hoạt động nhân quyền đã bị tù tội. Không riêng gì quần chúng mà nhiều vị tu sĩ cũng đã bị đánh đập dã man và giam giữ bất hợp pháp khi họ tham gia các cuộc biểu tình ôn hoà đòi dân chủ. Tuy nhiên, hiện nay Miến đã thay đổi, quốc gia độc tài “quân phiệt” này, đang từng bước đi đến ngưỡng cửa của dân chủ.
Kể từ năm 2011, khi bắt đầu cải tổ về chính trị, Miến Điện đã trả tự do cho gần 1,300 tù nhân chính trị. Gần đây nhất, Tổng thống Thein Sein đã tuyên bố sẽ trả tự do thêm cho cả ngàn tù chính trị để bảo đảm cho xứ sở của ông được “ổn định và hoà bình”. Tuyên bố này, được cho là bước khởi đầu của Miến Điện trước khi thay đổi bộ mặt của đất nước họ, chuẩn bị cho vai trò làm chủ nhà cho Hội nghị Đông Á, dự trù có nhiều vị nguyên thủ quốc gia tham dự, kể cả Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama.
Ảnh mang tính minh họa. |
Chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân. Khi sức mạnh của quần chúng biến thành cơn bão lửa, sự phẫn nộ của đám đông bị áp bức, có thể giựt xập rất nhanh chế độ độc tài, toàn trị, bất khả vãn hồi. Và kẻ gây tội ác, trong bối cảnh tranh tối tranh sáng, sẽ không có thời gian để trả lời trước công luận. Tại Việt Nam, cứ nhìn những người trộm chó bị cả làng đánh đập cho đến chết thì chúng ta có thể hình dung ra cái đảng ăn trộm tương lai của dân tộc, sẽ bị nhân dân đối xử ra sao.
Nhà độc tài Muammar Gaddafi đã chạy trối chết, trốn chui trốn nhũi vào hầm cống và bị kéo lê lết trên đường phố trước khi bị giết chết. Nhìn Saddam Hussein, chết dưới giá treo cổ một cách nhục nhã thì chúng ta biết số phận của những nhà độc tài sẽ kết thúc bi thãm thế nào, trước cơn phẩn nộ của quần chúng. Kẻ gieo gíó sẽ gặt bảo. Kẻ chơi dao sẽ phải chết vì dao, vì đó là qui luật. Tuy nhiên, không phải nhà độc tài nào cũng khôn khéo và sớm ý thức được số phận của họ như Tổng Thống Miến Điện.
Khác với các nước độc tài chỉ dựa vào một nhà lãnh đạo, độc tài Cộng sản là một hệ thống chính trị vô cùng chặt chẽ. Trong lịch sử các nước cộng sản, ít có nhà lãnh đạo cộng sản nào có thể tự “cải tổ chính trị”, từ bỏ độc tài để đi vào quỹ đạo dân chủ mà không bị hệ thống đảng CS nghiền nát. Trường hợp của Trần Xuân Bách và Trần Độ cũng là những thí dụ điển hình. Riêng cựu Tổng bí thư đảng CS Liên Xô, Ông Gorbachev, không chủ trương từ bỏ quyền lực chính trị của đảng. Trong quá trình cải tổ theo chính sách “đổi mới”, để duy trì quyền lực đảng hữu hiệu hơn, đảng CS Liên Xô đã bị cuốn vào cơn lốc của cách mạng dân chủ Đông Âu. Khi nhân dân Liên Sô xuống đường ở Mạc Tư Khoa, chính trị bộ Liên Sô vẫn còn đang bận họp, bàn cách giữ lại điều 6 Hiến Pháp, một điều khoản tương tự như điều 4 Hiến Pháp của đảng CSVN.
Cựu Tổng bí thư đảng CS Trung Quốc, Triệu Tử Dương đã sớm nhận thức được con đường nguy hiểm của độc tài tuyệt đối. Họ Triệu, khi là Bí thư Quảng Đông, đã bị Hồng vệ binh cho đội mũ tai lừa đi diễn hành trong cuộc Cách mạng Văn hoá. Sau nhờ Đặng Tiểu Bình tin cậy, cất nhắc và dần dần leo đến tột đỉnh quyền lực. Ông chủ trương canh tân, từng bước đưa Trung Quốc cải tổ kinh tế, vừa song hành cải tổ chính trị. Ý tưởng “cải cách” quá cấp tiến của họ Triệu đã bị hệ thống đảng CS Trung Quốc trừng phạt. Hậu quả là họ Triệu đã bị Chính trị bộ Trung Quốc tước quyền lãnh đạo, và giam lõng cho tới chết. Là Tổng bí thư đảng CS, nhưng ông đã đối thoại rất chí tình với sinh viên trong cuộc biểu tình ở Thiên An Môn. Ông nói “Các sinh viên, chúng tôi đến quá trễ. Chúng tôi xin lỗi. Các bạn nói về chúng tôi, chỉ trích chúng tôi, đó đều là việc cần thiết. Lý do tôi đến đây không phải để yêu cầu các bạn tha thứ cho chúng tôi. Tất cả những điều tôi muốn nói là các sinh viên đang trở nên yếu ớt, đây đã là ngày thứ 7 của cuộc tuyệt thực, các bạn không thể tiếp tục như vậy...” Phát biểu trên của ông tại Thiên An Môn, cũng đã chấm dứt sinh mạng chính trị của họ Triệu.
Đối với Việt Nam, tình hình hiện nay cho thấy, đặt kỳ vọng vào một sự cảnh tỉnh chính trị ở các cá nhân lãnh đạo CSVN như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hay Chủ tịch Trương Tấn Sang, thì đó chỉ là “ảo vọng dân chủ”. Cá nhân Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng hay Trương Tấn Sang, có thể chống nhau vì tranh dành quyền lực chính trị, nhưng họ không chống nhau vì khác biệt ý thức chính trị, vì xu hướng cải tổ dân chủ cho tương lai Việt Nam. Cả ba, hay hầu hết các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, đều chủ trương độc tài, độc đảng, chuyên chính vô sản và mù quáng đi theo con đường cộng sản, để duy trì quyền lực tuyệt đối của Đảng.
Quyền lực dễ làm tha hoá con người, và quyền lực tuyệt đối như đảng cộng sản Việt Nam, thì càng làm cho các lãnh đạo Đảng bị lún xâu hơn nữa, vào con đường tha hoá.
© Đỗ Thành Công
© Đàn Chim Việt
Tập Cận Bình, nhân vật số một đang viết lại luật chơi quyền lực của Trung Quốc
Kể từ thời Mao Trạch Đông cho đến nay chưa có một cá nhân lãnh đạo nào tại Trung Quốc nổi bật trước công chúng hoặc thâu tóm nhiều quyền lực như Tập Cận Bình. Ông đang thay đổi Trung Quốc bằng cách xóa bỏ “đường lối cai trị bằng sự đồng thuận của tập thể lãnh đạo” và nhắm mũi dùi vào xã hội dân sự.
________
Bắc Kinh – Với một tốc độ và sự cứng rắn không ai nghĩ đến vào thời điểm trở thành người đứng đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Tập Cận Bình không những đã củng cố quyền lực của mình mà còn đang chỉ đạo một cuộc thanh trừng rộng lớn khiến một số người thắc mắc liệu ông có thu tóm quá nhiều quyền lực hay không.
Kể từ thời Mao Trạch Đông đến nay chưa có một cá nhân nào tại Trung Quốc trở thành một nhà lãnh đạo xuất hiện thường xuyên trước công chúng hoặc thu tóm nhiều quyền lực đối với một quốc gia đang trỗi dậy với dân số 1,3 tỉ như ông Tập Cận Bình – người có cha là một đồng chí nổi bật của Chủ tịch Mao.
Từ thời Mao đến nay chưa một lãnh đạo Trung Quốc nào đẩy mạnh một chương trình trọn vẹn phục hồi các giá trị cũ và sức mạnh thô bạo của Đảng Cộng sản như Tập Cận Bình đang làm. Từ biến cố Thiên An Môn năm 1989 đến nay chưa một lãnh đạo Trung Quốc nào triệt để chặn đứng thậm chí cả những bước chập chững hướng đến các cởi mở chính trị như Tập Cận Bình đang làm. Dưới bàn tay kìm kẹp của Tập trong những tháng gần đây, thậm chí những những nhà tranh đấu ôn hòa cho một xã hội dân sự cũng bị nghiêm trị khiến phải im tiếng – trong một chiến dịch có vẻ là một chương trình thanh lọc nghiêm khắc áp dụng cho toàn Đảng và toàn xã hội.
Tập đang được gọi bằng mọi thứ tên, từ một “nhà độc tài mới của Đảng” đến một hoàng đế của thời hiện đại. Có người cho rằng ông tự coi mình là một nhân vật do định mệnh lịch sử đặt để đang giám sát sự thức dậy của nước Trung Hoa.
Một cách lặng lẽ, Tập đã xuất hiện trên sân khấu chính trị thế giới như một nhà lãnh đạo có đường lối độc tài không thua gì Vladimir Putin tại Nga. Chắc chắn là, Tập đã đập tan mọi hi vọng về việc khai sinh một xã hội dân sự đa nguyên tại Trung Quốc trong tương lai trước mắt.
Trong 18 tháng qua, Tập đã tóm cổ các đối thủ chính trị của mình trong một chiến dịch chống tham nhũng rộng lớn từ tầng thấp đến tầng cao, lắm lúc nom như một cuộc thanh trừng không đổ máu. Hơn 2000 cán bộ đảng viên các cấp đã bị thay thế. Những cán bộ đảng viên đang vươn lên như Bí thư Thành ủy Quảng Châu Vạn Khánh Lương đã hết sức ngỡ ngàng vì thấy mình mới được tôn vinh hôm trước lại bị rút thẻ Đảng hôm sau.
Các chiến thuật của Tập đã gieo sợ hãi và bất ổn tâm lý trong các cấp đảng viên từ thấp đến cao, theo một số nguồn tin mà chúng tôi có dịp phỏng vấn tại Trung Quốc, tại Châu Á, và tại Mỹ trong tháng Tám và tháng Chín vừa qua về các động thái của Tập Cận Bình.
Người Châu Á có câu “giết gà nhát khỉ” và coi đó là một hình thức cai trị. Nhưng Tập còn thịt luôn cả khỉ. Một tướng có thế lực, Từ Tài Hậu, không bao lâu nữa cũng sẽ bị lôi ra toà án quân sự. Một lãnh đạo Đảng thậm chí có nhiều quyền lực hơn những nhân vật kể trên, đó là Chu Vĩnh Khang – người nắm trong tay một mạng lưới cảnh sát và công an thường hành xử như một chính phủ trong một chính phủ hay như một tập đoàn mafia – cũng bị hạ bệ vào tháng Bảy vừa qua.
“Thông điệp rõ ràng là, ‘Nếu Tập có thể triệt luôn cảChu, thì ai là người mà Tập không thể triệt hạ?” David Kelly thuộc nhóm nghiên cứu Chính sách Trung Quốc tại Bắc Kinh đã nói như vậy.
‘Một quan niệm mới về Trung Quốc’
“Quan niệm mới của Tập Cận Bình về Trung Quốc,” như hãng thông tấn nhà nước Tân Hoa Xã tường thuật vào tháng Tám, “có ý nghĩa sâu rộng hơn thế giới bên ngoài có thể tưởng tượng.” Tập gọi đó là một “nỗ lực trẻ trung hóa” vĩ đại.
Tập không ngớt lời cổ vũ cho một hình ảnh về cái gọi là một “Giấc mơ Trung Hoa” tràn trề của cải, địa vị quốc tế, và niềm tự hào dân tộc, một hình ảnh làm nức lòng giai cấp trung lưu thành thị, nơi ông được rất nhiều người mến mộ. Nó gảy lên cung đàn dân tộc chủ nghĩa trong một đất nước đã lâu ngày cảm thấy bị thế giới coi thường. Nhưng mặt khác, Tập cũng đang thi hành những điều cấm kỵ nghiêm khắc đưa ra trong Văn kiện 9 tháng Tám 2013 luân lưu trong nội bộ Đảng, còn được gọi là văn kiện “Bảy Không.”
Bản tuyên ngôn kêu gọi các đảng viên trung kiên phải xoá bỏ tự do phát biểu ý kiến, các ảnh hưởng từ nước ngoài, hay bất cứ một điều gì phảng phất mùi dân chủ, tính minh bạch, hay quan điểm độc lập.
Trong vấn đề chủ quyền Trung Quốc, Tập đã tỏ ra cứng rắn hơn cả những thành phần cứng rắn nhất trong Đảng: Ông thẳng tay đàn áp những người thiểu số Duy Ngô Nhĩ cứng đầu ở miền viễn tây Tỉnh Tân Cương. Thông điệp ông gửi cho Đài Loan về việc thống nhất với Trung Quốc còn cứng rắn hơn nữa. Ông chôn vùi mọi hi vọng của Hồng Kông về các cuộc tuyển cử tự do và công bằng vào năm 2017 – một ý đồ đã quay đầu lại cắn ông ngay trên đường phố của một thuộc địa Anh trước đây và hiện nay là một trung tâm tài chính Châu Á.
Lần đầu tiên, Trung Quốc, dưới triều đại Tập Cận Bình, đang theo đuổi những lập trường hiếu chiến trong các vùng nước Thái Bình Dương, đối đầu với các cường quốc Đông Á như Nhật Bản, Việt Nam, Phi Luật Tân và Mỹ. Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên những vùng biển và vùng trời rộng lớn.
Ngay sau khi Tổng thống Obama đến thăm Châu Á vào mùa Xuân năm nay để trấn an những đồng minh đang bị nao núng, Trung Quốc đưa một giàn khoan vào ngay trong vùng nước tranh chấp gần bờ biển ViệtNam. Vào ngày 22 tháng Chín sau khi đi thăm Ấn Độ về, Tập được Tân Hoa Xã trích dẫn là đã chỉ thị các đơn vị Quân Giải phóng Nhân dân phải sẵn sàng ở trong thế chiến đấu nếu muốn thắng “một chiến tranh khu vực.”
“Chúng tôi đã không tiên liệu việc này sẽ xảy ra,” một nhân viên an ninh quốc gia tại Nhà Trắng nói với các nhà báo sau khi Trung Quốc bác bỏ một báo cáo của Lầu Năm Góc về cuộc đối đầu trên không [mid-air encounter] giữa một máy bay phản lực của Quân đội Trung Quốc và một máy bay trinh sát của Hải quân Mỹ gần bờ đảo Hải Nam vào tháng trước.
Orville Schell thuộc Chương trình Mỹ-Trung của Asia Society đưa ra câu hỏi: “Liệu Trung Quốc thực sự có bạn bè nào không?” Các học giả Mỹ cho rằng Tập Cận Bình và Barack Obama sẽ có nhiều đề tài để thảo luận tại Hội nghị APEC vào tháng Mười Một tại Thượng Hải.
Mô hình lãnh đạo tập thể mất hết công dụng
Sở dĩ sự trỗi dậy của Tập Cận Bình được coi là một bước ngoặt vì ông và một nhóm lãnh đạo cao cấp yêu nước trên cơ bản đã xóa bỏ mô hình “lãnh đạo tập thể” vào năm 2012. Qua nhiều thập niên, quyền lực tối hậu tại Trung Quốc được chia sẻ theo đường lối phân tán. Các quyết sách được thông qua do sự đồng thuận của chín ủy viên trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị.
Chính sách chia sẻ quyền lực này được thiết kế bởi Đặng Tiểu Bình, nhà cải cách đã mở cửa Trung Quốc, một phần để tránh giẫm lại “tệ sùng bái cá nhân” theo kiểu Mao – hay một cuộc Cách mạng Văn hóa khác. Do đó, mô hình tập thể đã mang một đặc tính trấn an nội bộ. Sẽ không có một cá nhân lãnh đạo nào trở nên quá mạnh. Vì đã có những cái thắng xe.
Nhưng Tập tỏ ra cứng rắn hơn Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào rất nhiều. Các nhiệm kỳ của hai ông này vẽ ra một nước Trung Hoa “thân thiện” muốn học hỏi từ thế giới bên ngoài và trỗi dậy “một cách hài hòa” tại Châu Á. Nhưng ở Trung Quốc bây giờ, Giang và Hồ chỉ được gọi là những người trông coi lâm thời [caretakers] hay là những nhà quản lý đất nước [stewards]. Điều mà Trung Quốc đang chờ đợi, theo đường lối mới của Đảng, là một thủ lĩnh độc tài như Tập – có thể khống chế các thái ấp đang xung đột nhau [các nhóm lợi ích] và nạn tham nhũng đang đe dọa quyền lãnh đạo của Đảng và tiến bộ kinh tế, hai lợi ích bất khả xâm phạm của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Tập thuộc “Thế hệ hồng thứ hai” của Trung Quốc – con cái của những khai quốc công thần. Cha ông, Tập Trọng Huân [Xi Zhongxun], là một trong “Tám công thần bất tử” đã giúp mở đường cho cuộc cách mạng của Mao. “Những thành viên của thế hệ hồng thứ hai” coi Đảng và quốc gia là một. Họ căm phẫn những thành phần cơ hội chủ nghĩa đã trở nên giàu có và tham ô trên sự hi sinh của cha ông họ. Họ muốn chặn đứng những người sống xa hoa mà không đếm xỉa đến đất nước Trung Hoa. những người “chỉ biết nhận mà không biết cho,” như một học giả Trung Quốc mô tả.
“Ông ấy có một ‘trái tim hồng,’ như chúng tôi thường nói,” Lí Đại Đồng [Li Datong], một cựu tổng biên tập nhật báo có trí thức và tiếng tăm, bình luận như thế. “Thế hệ ông cảm nhận một ý thức trách nhiệm rất sâu sắc. Trước hết, họ cảm thấy rằng, khi đối diện một cuộc khủng hoảng, họ phải làm một cái gì.”
Mặc dù cha của Tập bị Mao cho vào ngục, nhưng người con đang hướng đến Mao để tìm nguồn khích lệ. Trong một tập tiểu luận xuất bản ngày 25 tháng Chín, Tập đòi hỏi các đảng viên không được từ bỏ “tinh thần Mao Trạch Đông” hoặc tư tưởng Mao Trạch Đông về một cuộc cách mạng thường trực. Tập là lãnh đạo đầu tiên của Trung Quốc kể từ thời Mao đã xưng “tôi” trong ngôi thứ nhất, nhà Trung Quốc học [Sinologist] Pháp Francois Godement nhận xét. Tập tin tưởng vào lý thuyết “thủ lĩnh độc tài” về lịch sử, và cũng là nhân vật đầu tiên từ thời Mao đã công khai đăng đàn diễn thuyết về vai trò lãnh đạo. Ông nói rằng “vai trò của Thủ lĩnh số một là then chốt.”
Trung Quốc cần một bàn tay mạnh
Các động lực thúc đẩy Tập trỗi dậy chiếm địa vị số một bắt nguồn từ những năm đầu của thập niên 2000, khi các nhà tư bản Trung Quốc được mời gia nhập Đảng. Lời mời gọi đó ngày nay bị coi là rất phức tạp, phúc họa lẫn lộn. Đấy là một nỗ lực vận dụng tính năng động kinh tế của Trung Quốc vào cơ cấu chính trị của thế kỷ 19 được thai nghén bởi cái đầu của Vladimir Lenin.
Các thái ấp kiểu mới, các đại gia, và nhóm được gọi là thái tử Đảng, gồm con trai cũng như con gái của các gia đình thuộc giới lãnh đạo chóp bu Trung Quốc, tất cả đều tranh nhau các móc nối trong Đảng. Lời mời gọi trở thành trái bom tạo mặt bằng cho các “guanxi” hay quan hệ mà giới tư bản cần đến để tiếp cận các nguồn tiền và tín dụng của nhà nước. Các suối tiền khổng lồ đã ào ạt chảy ra từ các khu vực [do nhà nước quản lý] như viễn thông, khoáng sản, sắt thép, và xây dựng. Khoảng năm 2010 tình trạng bát nháo – những tài khoản ngân hàng ở nước ngoài, những bữa tiệc xúp vi cá mập, việc mua dâm và nhậu nhẹt, những lấn lướt và ám hại lẫn nhau – đã tạo ra nguy cơ làm cho Trung Quốc trở thành “đại loạn,” theo nhận định của một nguồn tin.
Hồ Cẩm Đào tỏ ra bất lực, không kềm hãm nổi cao trào các đảng viên lũ lượt chạy theo tiền tài và danh vọng trước khi nhiệm kỳ của ông chấm dứt vào năm 2012.
Đã có nhiều chẩn đoán khác nhau về cuộc khủng hoảng của Trung Quốc. Một số cho rằng Đảng Cộng sản sắp đi đến chỗ diệt vong. Một số khác cho rằng nền kinh tế hoàn toàn thất bại. Một số bảo rằng cả hai đều gặp bế tắc. Một vài chỉ số cơ bản của nền kinh tế là rất đáng lo ngại: Các chính quyền địa phương đã vay mượn ngoài sức chi trả của mình để xây các chung cư, các nhà chọc trời, các trung tâm mua sắm, và các cầu vượt trên các trục xa lộ.
Vấn đề cốt lõi là làm thế nào để Trung Quốc có thể biến một nền kinh tế dựa vào xuất khẩu thành một nền kinh tế tiên tiến công nghệ cao. Liệu Đảng có khả năng tự cải tạo để chấp nhận một đường lối có nhiều sáng kiến hơn – hay Đảng cần tập trung hoá các quyết sách của mình theo đường lối độc tài?
Khi nỗi lo sợ [sụp đổ] trong Đảng trở nên sâu sắc, các lãnh đạo chóp bu đi tìm sự hỗ trợ của Thế hệ đỏ thứ hai. Và họ đã chọn đường lối cứng rắn, hoàn toàn không còn bàn đến một thái độ cởi mở thông thoáng nào nữa.
Thoạt đầu Tập xuất hiện gần như một người xuề xoà trong quần chúng, ăn bánh bao, ở khách sạn rẻ tiền, và có giọng nói ôn tồn trấn an người khác.
Nhưng khi sáu cơ quan cao nhất trong Bộ Chính trị được tái cơ cấu năm 2012, kể cả an ninh quốc gia, tài chính, quân sự, và cải tổ – Tập cầm đầu cả sáu cơ quan. Nhờ đó, ông nhanh chóng có cơ hội đưa kẻ cựu thù không đội trời chung đang bị thất sủng, là Bạc Hi Lai, ra xét xử trong một vụ án công khai cao độ năm 2013.
Khác với Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân, Tập được coi là một người không chỉ nói mà còn hành động nữa. Ông đã quảng diễn Văn kiện số 9 để truy kích cả những nhà cải tổ ôn hòa, đây là điều tương đối mới. Tập đã lo lắng đến mức “ám ảnh” về việc Liên Xô sụp đổ dưới sự lãnh đạo của Mikhail Gorbachev và không muốn chính cái tự do phát biểu có sức xói mòn chế độ hay “glasnost” ấy lật đổ Nhà nước Trung Quốc, học giả thâm niên về Trung Quốc tại Đại học Harvard, ông Roderick MacFarquhar, đã lý luận như thế trong một buổi nói chuyện gần đây về Tập Cận Bình.
Nhắm mũi dùi vào xã hội dân sự
Công an đang gia tăng đàn áp văn nghệ sĩ, các nhà truyền giáo, các luật sư, các blogger, các nhân vật trên diễn đàn xã hội, và các giáo sư tỏ ra chịu ảnh hưởng bởi các tư tưởng xã hội dân sự hoặc bác bỏ quan niệm của Đảng về sự thống nhất Trung Quốc và vai trò tối cao của Đảng.
“Khoảng 300 luật sư nhân quyền đang bị giam giữ, trước đây chưa bao giờ có một con số cao như vậy,” Đằng Bưu [Teng Biao], một luật sư nhân quyền hiện làm nghiên cứu sinh tại Đại học Harvard trong một năm, đã nói như vậy. “Những luật sư này có chủ trương ôn hòa. Họ tránh đả động đến những vấn đề nhạy cảm, hay đứng ra biện hộ cho Lưu Hiểu Ba [người được giải thưởng Nobel Hoà bình đang bị giam giữ], mà chỉ nhúng tay vào các việc như chống phân biệt đối xử và bảo vệ quyền của người tiêu thụ.”
Mục tiêu đánh phá chính của Văn kiện Số 9 là “chủ nghĩa hiến định” [constitutionalism]. Đấy là một nỗ lực thúc đẩy Đảng Cộng sản phải chịu trách nhiệm hơn nữa trước người dân – Đảng phải nằm dưới, chứ không được đứng trên chế độ pháp trị – và phải để cho người dân được tự do bày tỏ hơn nữa. (Hiến chương 08 của Lưu Hiểu Ba, chẳng hạn, kêu gọi việc thử nghiệm các hệ thống quyền lực cạnh tranh nhau và “chấm dứt thủ tục xếp ngôn từ vào tội hình sự.”)
Dưới chế độ Tập Cận Bình, các từ không được ưa chuộng trong từ vựng Leninist – như đối thoại, đàm phán, chia sẻ quyền lực, chế độ pháp trị, NGO [các tổ chức phi chính phủ], nhân quyền, và sự hiểu biết lẫn nhau [mutual understanding] – càng ngày càng bị ngờ vực.
Trong những tháng gần đây, mỗi ngày đều có những tin tức làm cho người dân nghe như đang ở trên con đường trở về ký ức của một nước Trung Hoa Đỏ: Các toán công an và bọn đầu gấu liên tục đóng cửa các thư viện vùng quê chỉ vì một vài cuốn sách trong đó cổ vũ xã hội dân sự và vì các thư viện này cho phép người đọc qui tụ và thảo luận. Các show truyền hình Mỹ không còn được phát sóng. Đảng đã công bố là sẽ cho ra phiên bản thần học Thiên chúa giáo của Đảng. Một đại hội điện ảnh tại Bắc Kinh vốn đã diễn ra trong suốt 10 năm qua không được phép mở ra vào năm thứ 11.
Trong tháng Chín, vào thời điểm có cuộc nổi dậy của người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương, Ilhem Tohti, một học giả Duy Ngô Nhĩ ôn hòa tại Bắc Kinh từng kêu gọi đối thoại và chống cả bạo động lẫn chủ nghĩa li khai, bị kết án tù chung thân.
“Một thư viện ở vùng quê không dính líu đến chính trị,” ông Đằng nói. “Nó hoàn toàn biệt lập. Nhưng Tập Cận Bình đang truy kích xã hội dân sự. Ông đang thực thi Văn kiện 9.”
Putin đến trước, Cận Bình theo sau?
Khác với Mao, người chỉ ra khỏi biên giới Trung Quốc một lần – để viếng thăm Joseph Stalin tại Moskva – Tập được nhìn nhận có một số trải nghiệm quốc tế. Ông đã sống một thời gian ngắn tại Mỹ, từng phục vụ tại tỉnh duyên hải Chiết Giang và tại thành phố Thượng Hải, và từng trông coi việc chuẩn bị Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Ông có một người con gái đang học ở Harvard và vợ ông là một ca sĩ nổi tiếng. Nhưng hiển nhiên là, Tập chống lại việc tổ chức chính phủ theo đường lối phương Tây – như ông Putin.
Putin có thể là một mẫu hình lãnh đạo độc tài mới. Ông chiếmCrimea, o bế giới tư bản thân hữu, và bàn chuyện thành lập một liên bang Slavic đặt cơ sở trên điều mà ông gọi là “các giá trị Á Âu.” Tập Cận Bình được coi là đang chia sẻ nhiều quan niệm của Putin, tin rằng Mỹ và Châu Âu là những nền văn minh sa đọa và đang ở trong vòng xoáy đi xuống – và rằng một trục độc tài mới xuyên qua Châu Á là diễn biến tiếp theo.
Nhưng thế giới không coi Tập là một tên bắt nạt theo kiểu Putin. Tập chỉ lấy “một số trang từ cuốn sách của Putin,” ông Kelly của Viện Nghiên cứu Chính sách Trung Quốc phát biểu. “Ngoại trừ một điều là Tập có mọi nguồn lực và khí tài mà Putin chỉ có thể nằm mơ mà thôi.”
Câu hỏi cần được đặt ra là, liệu Tập có tạo nhiều xáo trộn và nhiều kẻ thù đến nỗi phải trở thành một nhà độc tài ngày một nghiêm khắc hơn để duy trì quyền lực hay không. (Giới trí thức Bắc Kinh nghiêm chỉnh tranh luận, không biết Tập là một lãnh đạo độc tài theo đường lối cứng rắn [hardline authoritarian] hay là một loại độc tài toàn trị mới [a new kind of totalitarian], với những hệ lụy thật sự chưa ai biết được.)
Báo chí Trung Quốc nói rằng Tập tự coi mình như một con người do định mệnh lịch sử đặt để. Và điều này có thể đúng. Ông đã từng nếm trải cuộc Cách mạng Văn hóa bạo động hướng nội và bây giờ đang chứng kiến Trung Quốc vươn ra thế giới để sánh vai cùng Nhật Bản, Mỹ, và Châu Âu.
Trong khi Trung Quốc còn đang phục hồi từ những đổ vỡ do Mao gây ra, Đặng Tiểu Bình có lời khuyên cho cả nước là Trung Quốc phải “che giấu ánh sáng của mình và đợi thời cơ.” Nhưng có lẽ Tập tin rằng những năm tháng ẩn mình đã qua rồi. Ông còn mười năm tại chức để chứng minh điều đó.
“Tập tin rằng mình có thể là một lãnh tụ vĩ đại, đưa ra một viễn kiến vĩ đại,” một chuyên gia am tường thời sự tại Bắc Kinh và là người có những đường dây quen biết trong Đảng đã nói như thế. “Tập nghĩ rằng nhân dân sẽ là ngọn cỏ và ông sẽ là cơn gió lùa. Tập sẽ thổi và nhân dân sẽ uốn theo chiều gió.”
“Vấn đề là, những phẩm chất cá nhân đã giúp Tập cầm quyền hữu hiệu hiện nay là không phù hợp với một giai đoạn kế tiếp hướng đến một nền kinh tế và một xã hội cởi mở hơn và có nhiều sáng kiến hơn. Biết đến khi nào tiêu chí ấy mới trở thành hiện thực?”
Nguồn: The Christian Science Monitor 8/10/2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
Bắc Kinh sợ hiệu ứng đôminô từ Hồng Kông
Biểu tình đòi dân chủ tại Hồng Kông ngày 11/10/2014. Bắc Kinh sợ Cách mạng Dù lan sang Trung Quốc.Reuters
Phong trào biểu tình đòi dân chủ tại Hồng Kông trong những ngày qua đã
bất ngờ được sự ủng hộ của một số người trong cộng đồng người Hoa lục
đang sinh sống tại đặc khu này. Họ đã mạnh dạn thách thức cả chính quyền
Bắc Kinh lẫn các thành phần dân tộc chủ nghĩa cực đoan tại Trung Quốc.
Hiện tượng này không khỏi làm Bắc Kinh lo ngại về nguy cơ lây lan, được
gọi là hiệu ứng đôminô.
Nhìn chung, do thông tin bị kiểm duyệt và bị hệ thống tuyên truyền Nhà
nước tại tác động, người dân tại Trung Quốc nhìn chung, hoặc là thờ ơ,
hoặc là chế nhạo các cuộc biểu tình đang diễn ra tại Hồng Kông, phản đối
việc Bắc Kinh nuốt lời hứa cho vùng lãnh thổ này quyền tự do chọn lựa
người lãnh đạo. Một vài tiếng nói ủng hộ đã lập tức bị guồng máy an ninh
và kiểm duyệt ngăn chặn.
Thế nhưng, theo ghi nhận của hãng tin Pháp AFP ngày 13/10/2014, một số
người đến từ Hoa Lục đã dũng cảm xuất hiện tại các cuộc biểu tình nổ ra
cách đây hai tuần, góp sức cho phong trào đòi dân chủ cả về mặt hậu cần
lẫn tinh thần. Những người này đã bộc lộ công khai những gì bị cấm đoán
nghiêm ngặt tại Trung Quốc : Thái độ cổ vũ cho dân chủ.
Phát biểu với hãng tin Pháp, một nữ sinh viên xã hội học 21 tuổi đến từ
tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc, cho biết : « Tại Hoa lục, ai cũng
có thể bị tống vào tù vì niềm tin của mình ».
Người nữ sinh viên xin được giấu tên này đã tỏ ý hết sức hoan hỉ : «
Xuống đường biểu tình tại Hồng Kông, được hô to các khẩu hiệu dân chủ,
đứng lên đấu tranh cho những gì bạn thực sự tin tưởng, đây quả là một
kinh nghiệm giải tỏa ức chế tuyêt vời !».
Nữ sinh viên này tuy nhiên rất thận trọng khi tham gia biểu tình, cô
không bao giờ trò chuyện bằng tiếng quan thoại, chỉ dùng tiếng Quảng
Đông lơ lớ ‘giọng Đài Loan’, và luôn tập hợp với các bè bạn phương Tây
trong cùng trường đại học của cô ở Hồng Kông, và nhất là che mặt để cha
mẹ của cô ở Quảng Đông không bị « bất kỳ rắc rối nào ».
Ác mộng đối với Bắc Kinh : phong trào từ Hồng Kông lan sang Trung Quốc
Theo AFP, rất khó mà xác định được xem có bao nhiêu người đến từ Hoa Lục
ủng hộ phong trào dân chủ Hồng Kông như trường hợp nữ sinh viên kể
trên, nhưng bản thân sự tồn tại của những người này đã củng cố thêm kịch
bản ác mộng đối với chính quyền Bắc Kinh, vốn hết sức lo sợ về một hiệu
ứng đôminô, với phong trào từ Hồng Kông lan truyền vào đất liền.
Tuy vậy, theo một nữ sinh viên khác thuộc trường Đại học Hồng Kông, khả
năng phong trào dân chủ mở rộng qua Đại Lục rất ít, nếu căn cứ vào các
phản ứng trên mạng Facebook từ nhiều sinh viên tại Trung Quốc, có một số
công khai ủng hộ việc cảnh sát dùng hơi cay tấn công người biểu tình
như sự kiện ngày 28/09 vừa qua đã thu hút sự chú ý của thế giới.
Nữ sinh viên 24 tuổi này thú nhận là trang Facebook của cô đã biến thành
bãi chiến trường từ khi cô bắt đầu công bố hình ảnh của các cuộc biểu
tình từ nơi cô ở tại Hồng Kông.
Những phản ứng từ Hoa Lục rất dữ dội, nào là « Hồng Kông là đồ hư hỏng
và vô ơn », « Hồng Kông có sống nổi một ngày nếu không có Trung Quốc ?
», nào là « Dân chủ gì ? Chúng ta đã cho các người quá nhiều tự do rồi. »
Thậm chí có người đã thể hiện nỗi giận dữ trước việc nữ sinh viên này
ủng hộ cuộc đấu tranh dân chủ tại Hồng Kông bằng việc từ bỏ theo trang
Facebook của cô.
Tuy nhiên cô nữ sinh viên đến từ Hoa Lục này rất thông cảm. Sở dĩ có
nhiều người từ Hoa Lục đả kích phong trào Hồng Kông, đó là vì họ chỉ
được tiếp cận một cách rất hạn chế với thực tế tại Hồng Kông, do chế độ
kiểm duyệt tại Trung Quốc.
Một ví dụ được nữ sinh viên này nêu lên : « Tôi gọi về cho mẹ tôi và bà
ấy tò mò hỏi tôi : Tại sao người Hồng Kông lại hành xử rất tệ như vây ?
Bà ấy hoàn toàn không biết gì về những gì đang xẩy ra ».
Trọng Nghĩa
(RFI)‘Lẽ ra đã có cơ hội ngăn những án oan vừa qua’
Khi qui định quyền thì rất hay nhưng lại không thiết kế một bộ quy chế, thủ tục để đưa quyền đó vào những hành vi cụ thể. Giống như mua cái xe nhưng nhà nước lại không làm đường cho xe chạy.
Nhà báo Thu Hà: Tôi
có thể hiểu là luật sư có vai trò rất quan trọng, không kém các cơ quan
khác như khâu điều tra bên công an, rồi bên kiểm sát hay quan tòa phải
không ạ?
Ông Đinh Thế Hưng: Theo tôi,
tuy Bộ Luật tố tụng hình sự quy định không được sử dụng lời thú tội của
bị can, bị cáo là chứng cứ duy nhất để kết tội nhưng dưới góc độ điều
tra, lời khai nhận tội của bị can là nguồn chứng cứ rất quan trọng.
Và, luật sư tham gia tố tụng để thực hiện quyền chứng minh sự vô tội chứ không phải nghĩa vụ chứng minh sự vô tội.
Chính
vì vậy, quan điểm cho rằng đội ngũ luật sư của chúng ta còn ít nên
không thể thực hiện điều này là không đúng. Theo tôi, không chỉ quy định
quyền im lặng, bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi tới đây cần phải quy
định các giải pháp đồng bộ từ việc xác định mô hình tố tụng hình sự, các
nguyên tắc, quyền của bên bị buộc tội, người bào chữa, vấn đề chứng
minh, chứng cứ…
"Tôi khẳng đinh, quyền bào chữa là quyền tự nhiên của con người" |
Tôi
khẳng định, quyền bào chữa là quyền tự nhiên của con người. Bất cứ ai
khi bị tấn công, phản xạ đầu tiên của họ là không nói gì, thủ thế, hai
là phản xạ lại để bào chữa. Nếu họ không thể tự bào chữa thì họ có thể
mượn luật sư bào chữa giúp. Đó là quyền con người.
Hiến
pháp và Luật tố tụng hình sự Việt Nam đã qui định quyền bào chữa như
vậy. Nhưng có cái dở là khi qui định quyền thì ta qui định rất hay nhưng
lại không thiết kế một bộ quy chế, bộ thủ tục để chúng ta đưa quyền đó
vào những hành vi cụ thể. Giống như mình mua cái xe nhưng nhà nước lại
không làm đường cho xe chạy.
Nhà báo Thu Hà:Để có thể tranh tụng sòng phẳng, minh bạch, luật sư có quyền điều tra độc lập và thu thập chứng cứ độc lập không?
Ông Đinh Thế Hưng:
Có một cái gì đó rất là “bao cấp” trong chuyện này. Rất mừng là tố tụng
hình sự sửa đổi lần này đưa thêm một quyền quan trọng là Luật sư có
quyền thu thập chứng cứ.
Nhưng cái tôi lo ngại ở đây
là phải thiết kế một thủ tục nào đó, để cho luật sư họ thực hiện. Ví dụ,
nếu luật sư phát hiện chứng cứ nào đó ở cơ quan công quyền, họ đến họ
thu thập, thì các cơ quan đó phải có trách nhiệm, nghĩa vụ nào đó để
cung cấp.
Nhà báo Thu Hà: Nghĩa là điều tra của luật sư nên độc lập với điều tra của cơ quan điều tra?
Ông Đinh Thế Hưng:
Ở một phương diện nào đó là đúng. Bên buộc tội đi thu thập chứng cứ,
bên gỡ tội đi thu thập chứng cứ. Nhưng quyền phán quyết cuối cùng là cơ
quan trọng tài đứng ra xác định chứng cứ của bên nào hợp pháp, chứng cứ
của bên nào thiếu thuyết phục. Cơ quan này không ai khác chính là tòa
án.
Hiến pháp 2013 đã đưa vào những tư tưởng rất tiến bộ của
tư pháp là bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, đảm bảo tranh tụng.
Chính vì vậy, bộ Luật tố tụng hình sự sửa đổi tới đây phải thể hiện được
tinh thần này của Hiến pháp 2013.
Cơ quan điều tra
sẽ gặp khó khăn nhưng cách giải quyết là phải nâng cao năng lực điều tra
của chính mình chứ không phải là hạn chế quyền của nghi can!
Có hay không những qui định bó tay luật sư? |
Nhà báo Thu Hà:Điều
bất cập trong quá trình chứng minh một nghi can có hội hay vô tội hiện
nay là gì? Có hay không những qui định bó tay luật sư?
Ông Đinh Thế Hưng:
Lâu nay có người nghĩ luật sư tham gia để gây khó dễ, nhưng có một
nguyên tắc khi đi tìm chân lý, có rất nhiều quan điểm khác nhau của các
bên. Cùng đưa ra để tranh luận thì sẽ gần đến gần chân lý hơn là chỉ để
một bên làm.
Như chị thấy, các vụ án oan sai đáng tiếc vừa
xảy ra vừa rồi, nếu có luật sư cùng tham gia tích cực ngay từ đầu thì có
thể sẽ không dẫn đến những kết cục oan sai đáng tiếc như vậy.
Về rào cản đối với luật sư còn ở chỗ thủ tục cho luật sư gọi là hành chính tư pháp.
Liên quan đến thủ tục hành chính tư pháp cho luật sư tham gia bào chữa hiện nay cũng bị phàn nàn rất nhiều.
Luật
thì qui định rất hay, trong thời hạn 3 ngày phải cấp giấy chứng nhận
bào chữa và giấy chứng nhận bào chữa là thứ giấy gì? Hiện nay cũng rất
rắc rối. Ở đâu đó tôi cũng nói đùa bảo là giấy chứng nhận này giống như
một giấy phép con ảnh hưởng đến việc nhanh chóng tiếp cận nghi can của
luật sư.
Ví dụ, luật qui định 3 ngày nhưng trên thực
tế lâu hơn, có khi cả tuần, cả tháng. Người cấp giấy chứng nhận đó phải
là thủ trưởng cơ quan điều tra, viện trưởng viện kiểm sát, chánh án tòa
án các cấp… qui định này cũng là một bất cập tiếp. Như chị biết, lãnh
đạo họ thường bận rộn, đâu phải đến một cái là được cấp giấy phép ngay.
Nên
chăng thủ tục đó mình nên đơn giản một chút, cho ngay ông điều tra
viên, ông kiểm sát viên và ông thẩm phán có quyền cấp chứng nhận và ở
đây còn một cái dở nữa là tham gia mỗi giai đoạn tố tụng thì lại cần
phải có một loại giấy phép phù hợp với giai đoạn đó.
Nghĩa
là mỗi giai đoạn lại phải đi xin một loại giấy phép tương ứng. Giai
đoạn điều tra thì sang xin điều tra, kiểm sát thì sang xin kiểm sát, ra
tòa phải sang xin tòa… rất, rất nhiều công đoạn.
Thực
ra nó chỉ là một. Hiện nay cũng có ý kiến là đơn giản hóa nó bằng cách
chỉ cần xuất trình thẻ luật sư, chỉ cần xuất trình hợp đồng bào chữa thì
sẽ cho ông tham gia bào chữa. Mục đích chỉ để tiếp cận ngay và nhanh
chóng bảo vệ quyền con người của nghi can.
Ngoài ra
dư luận còn đồn đoán chuyện ngăn cản luật sư bào chữa như dụ dụ dỗ người
nhà bị can, bị cáo đừng mời luật sư, chỉ tốn tiền thôi, không giải
quyết được gì đâu.... Nếu quả đúng như thế thì thật đáng buồn thưa chị
Nói
gì thì nói quyền con người là trục quan trọng trong Luật tố tụng hình
sự mà các quy định cũng như thực tiễn áp dụng nó phải bám vào đó mà vận
hành.
"Thực tế cho thấy trong lĩnh vực tư pháp hình sự, hoạt động điều tra của cơ quan điều tra mới chính là chỗ cần tập trung cải cách nhất" |
Nhà báo Thu Hà: Vậy thì phải làm sao để cơ quan điều tra, luật sư và tòa án có một bằng chung và không ai dẫm lên chân ai?
Ông Đinh Thế Hưng: Câu
hỏi của chị liên quan đến việc phải sửa đổi toàn bộ hệ thống luật tố
tụng hình sự Việt Nam đồng thời chuẩn các điều kiện để thực hiện nó
trong thực tiễn. Nếu không thì quy định của luật thì rất hay nhưng
“treo” để đấy.
Cải cách tư pháp lấy tòa án làm trung tâm.
Nhưng thực tế cho thấy trong lĩnh vực tư pháp hình sự, hoạt động điều
tra của cơ quan điều tra mới chính là chỗ cần tập trung cải cách nhất,
bởi tính chất phức tạp của công việc này và quyền con người dễ bị xâm
phạm bởi nhiều lý do trong đó có sự quá đà trong tư duy của những người
làm công tác này: Đó là chứng minh tội phạm bằng mọi cách.
Xét
cho cùng phát hiện, điều tra để xử lý tội phạm là nhiệm vụ của hệ thống
điều tra. Nhưng cần lưu ý, vẫn còn đó phía bên kia của vấn đề là số
phận của những người bị tình nghi yếu thế. Vừa phát hiện được tội phạm,
vừa bảo vệ quyền con người đó là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn của hoạt động
tố tụng hình sự nói chung và hoạt động điều tra nói riêng. Nhưng tố tụng
hình sự trong nhà nước văn minh và nhân đạo đặt ra đòi hỏi đó.
Từ
những nguyên tắc cơ bản đến những qui định cụ thể. Đầu tiên mình phải
xác định tố tụng hình sự là gì. Thực ra phải rành mạch giữa ba bên, một
bên buộc tội, một bên gỡ tội và bên kia xét xử. Chúng mình phải thống
nhất với nhau như vậy. Gỡ tội, buộc tội phải bình đẳng với nhau. Và ông
tòa ở giữa để phán quyết. Chỉ khi mình thống nhất được với nhau như thế
sẽ giải quyết được các vấn đề khác.
Và cuối cùng thì sẽ đạt được mong muốn là bảo vệ được quyền con người trong tố tụng hình sự.
Quyền
con người trong tố tụng hình sự quan trọng vì có đặc điểm không bị xâm
phạm hàng ngày hàng giờ nhưng hậu quả của nó khi bị xâm phạm thì gây hậu
quả khủng khiếp, buộc người ta bị tù oan, bắn oan…
Điều
đó đã từng xảy ra trong thực tế rồi. Vì vậy, phải tranh luận sòng
phẳng, đến nơi đến chốn thì mới tìm ra được chân lý của vụ án.
Nhà báo Thu Hà:Cám
ơn ông Đinh Thế Hưng đã tham gia tọa đàm với chúng tôi. Cám ơn quí vị
độc giả đã dành thời gian theo dõi. Hẹn gặp lại trong các cuộc trò
chuyện tiếp theo của Tuần Việt Nam.
(Tuần Việt Nam - Ảnh: Lê Anh Dũng)
Khi bác sỹ “văn bất thành cú”
Theo Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến, thì với 3 môn bắt buộc là Toán, Văn,
Ngoại ngữ để xét tốt nghiệp PTTH, các trường Y - Dược hoàn toàn có thể
dùng tổ hợp 3 môn này để xét tuyển sinh viên vào trường.
Ảnh minh họa |
“Việc thi theo khối lâu nay khiến học sinh học lệch. Môn văn rất cần
cho cán bộ ngành y, giúp họ nói năng lưu loát, diễn đạt văn bản rõ ràng,
đúng ngữ pháp… Không nói đâu xa, nhiều đồng chí chuyên viên ở Bộ làm
công văn còn sai ngữ pháp. Có lúc tôi nói vui: Rất dễ đứt mạch máu não
khi đọc nguyên văn những văn bản này”. Đó là lời chia sẻ của Bộ trưởng
Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến tại hội nghị đồng hiệu trưởng các trường đại
học Y -Dược, diễn ra tại Hà Nội mới đây.
Với những người nói năng vấp váp, cộc cằn, và viết văn bản sai ngữ
pháp, dân gian gọi họ là “ăn không nên đọi, nói không nên lời”.
"Ăn", thì hiện nay các bác sỹ đã tỏ ra khá giỏi rồi. Bằng chứng là sau
bao nhiêu nỗ lực của ngành Y tế, kể cả sau lời đề nghị của bà Bộ trưởng
rằng “Ai phát hiện y bác sỹ nhận phong bì, cứ gọi điện cho tôi”, nạn
phong bao, phong bì ở các bệnh viện vẫn chưa chấm dứt, thậm chí ... tiếp
tục phát triển.
Còn “nói không nên lời”, thì lời chia sẻ, cũng là nỗi lo lắng của Bộ
trưởng về trình độ văn phạm của cán bộ ngành Y hoàn toàn có cơ sở. Đến
chuyên viên cấp Bộ làm công văn mà khiến người đọc còn “rất dễ đứt mạch
máu não” thì… “thôi rồi, Lượm ơi”.
Không chỉ thế, những đơn thuốc kê cho bé gái ở Thường Tín (Hà Nội) bị
“phù nề bao quy đầu” và cụ ông 73 tuổi ở Đức Hòa (Long An) “mang thai 16
tuần tuổi”, còn khiến thiên hạ dở khóc dở cười.
Tất nhiên là sau những "tác phẩm" để đời đó, thì những “cậu đánh máy”
hay “cô đánh máy” phải giơ đầu ra mà chịu báng. Dù chỉ có bác sỹ mới
được quyền kê đơn.
Thế nên, tại hội nghị này, một vấn đề hết sức nghiêm túc đã được đặt
ra: Cần đưa môn văn xét tuyển vào các trường Y - Dược. Vấn đề này được
Bộ trưởng Bộ Y tế và nhiều chuyên gia giáo dục ủng hộ.
Môn văn gồm hai phần là Ngữ văn và Văn học. Ngữ văn giúp người học rèn
luyện tư duy lôgic, khiến khẩu khí trở nên mạch lạc, và diễn đạt các văn
bản một cách chặt chẽ, đúng ngữ pháp, khiến văn bản trở nên rõ ràng,
trong sáng, ý tứ tường minh, tránh cho người đọc sự hiểu lầm hay hiểu
lệch (mà đã hiểu lầm hay hiểu lệch trong ngành y thì “sai một ly, đi một
dặm” rồi).
Còn Văn học thì mang ý nghĩa sâu xa hơn, cội nguồn hơn, vì “Văn học là
Nhân học”. Học văn, tức học làm người. Văn học giúp người học bồi dưỡng
tâm hồn, tiếp thu được những giá trị nhân văn từ những tác phẩm văn học.
Người có kiến thức về văn học thường là những người có tấm lòng nhân
hậu, biết cảm thông, chia sẻ với những cảnh đời bất hạnh, những nỗi đau
khổ quanh mình. Với những người thầy thuốc, thì những phẩm chất đó quan
trọng biết bao nhiêu.
Bởi những bệnh nhân mà hàng ngày anh (chị) ta tiếp xúc chính là những
người bất hạnh, đau khổ nhất, cần được chia sẻ nhất. Một lời an ủi, động
viên nhẹ nhàng, tinh tế của thầy thuốc, nhiều khi có hiệu quả còn hơn
cả một liều thuốc, khiến người bệnh vơi đi những âu lo, giúp họ dũng cảm
đối đầu với bệnh tật.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến, thì với 3 môn bắt buộc là Toán,
Văn, Ngoại ngữ để xét tốt nghiệp PTTH, các trường Y - Dược hoàn toàn có
thể dùng tổ hợp 3 môn này để xét tuyển sinh viên vào trường.
Chỉ cần các thí sinh dự thi thêm môn Hóa đối với ngành Dược và môn Sinh đối với ngành Y là đủ.
Làm được như thế, sẽ đỡ khó khăn và tốn kém rất nhiều.
Vũ Hữu Sự
(Nông Nghiệp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét