Thư ngỏ gửi các đ/c lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các UVTW Khóa XI về vụ giàn khoan 981 của Trung Quốc
Nhân sự kiện Trung Quốc kéo giàn khoan 981 vi phạm vùng đặc quyền
kinh tế nước ta, chúng tôi đã gặp nhiều đồng chí nguyên là Ủy Viên Trung
Ương, Ban Bí Thư và cả một số đồng chí còn đang đương chức. Qua trao
đổi, chúng tôi nhận thấy có vài ý như sau.
Việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào hoạt động ở vùng đặc quyền kinh tế nước ta, từ người dân cho đến các cán bộ Đảng viên đều nhận thức được Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của ta, là bước leo thang nghiêm trọng, đe dọa hòa bình và ổn định khu vực và an ninh của nước ta. Nhận thức thì thống nhất như vậy, nhưng hành động đối phó với Trung Quốc của Đảng, Nhà Nước ta đã bộc lộ có sự khác nhau (không muốn nói là mâu thuẫn). Những tiếng nói của Chính Phủ, Quốc Hội trong những ngày qua đã thể hiện được ý chí của dân tộc, không mơ hồ về sự hữu nghị của Trung Quốc, điều này rất hợp lòng dân và được nhân dân ủng hộ tuyệt đối.
Nhưng tiếng nói của những người đứng đầu Đảng thì sao? Thể hiện rất yếu ớt, phát biểu của người đứng đầu quân đội vừa qua đã phản ánh trong nội bộ ta đang có một xu hướng kiên trì giữ mối quan hệ “láng giềng tốt, đồng chí tốt” với Trung Quốc. Hiện nay trong hàng ngũ cán bộ Đảng viên, các đồng chí nguyên là Ủy viên Trung Ương, Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, thậm chí là các doanh nghiệp đều có chung nhận xét: Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và một số Ủy viên Bộ Chính Trị đã không đủ bản lĩnh và ít hiểu biết thực tiễn nên không đánh giá được bản chất bành trướng và mưu đồ đối với Việt Nam của các nhà lãnh đạo Trung Quốc qua nhiều thế hệ. Có ý kiến còn cho rằng Tổng Bí Thư “sợ Trung Quốc, lệ thuộc Trung Quốc”, bị Trung Quốc “nhốt” trong mấy “chữ vàng” để rồi ảo tưởng viển vông với tình hữu nghị. Gần đây, theo thông tin trong nội bộ được biết Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đang mong chờ Tập Cận Bình mời sang Trung Quốc để giải quyết về Biển Đông, chính vì lý do này, ông Trọng đã dùng quyền hạn của mình để trì hoãn không đưa ra Trung Ương thảo luận các quyết sách.
Đến nay có thể nói mọi người dân Việt Nam đều thấy rất rõ Trung Quốc không bao giờ từ bỏ mưu đồ chiếm biển Đông của nước ta. Tập Cận Bình, Bộ Ngoại giao và Chính phủ Trung Quốc ngang nhiên phát ngôn rằng biển Đông Việt Nam là của họ, cho rằng chính ta là người xâm phạm chủ quyền của họ, ta phải “chấm dứt quấy rối” họ và đưa ra lời đe dọa rất hung hãn. Lời nói và việc làm của họ đang đi đôi với nhau với những gì đang diễn ra trên biển Đông, mặc cho Việt Nam lên án, quốc tế lên án, họ cứ làm và làm cho bằng được.
Năm năm về trước, khi còn tham gia trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang, được biết Bộ Chính Trị đã có đầy đủ thông tin về mưu đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam và nhận thấy không bao lâu nữa Trung Quốc sẽ tiến hành thực thi “chủ quyền” của họ theo đường lưỡi bò. Gần 2 tháng qua, họ đã bắt đầu bằng việc công khai hoạt động của giàn khoan 981 trong vùng biển nước ta, thách thức nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới và họ tin rằng họ sẽ thành công trong mưu đồ thực hiện “bá chủ biển Đông”.
Tham vọng của họ đã rõ, những hành động của ta trong hơn 1 tháng qua chưa thể làm cho Trung Quốc lùi bước, Trung Quốc không thèm để ý tới phản ứng của Nhà Nước và Nhân Dân ta cũng như dư luận quốc tế. Tại sao lại như vậy? Vì nhà cầm quyền Trung Quốc rất hiểu rõ nội bộ ta, họ hiểu từng loại người, họ biết được một số đồng chí lãnh đạo Đảng không nhất trí với biện pháp của Chính Phủ và Quốc Hội mà kiên quyết với chủ trương “giữ” hòa bình, không phá vỡ quan hệ “anh em” với Trung Quốc.
Ảo tưởng và mơ hồ quá, bị u mê quá, Đảng ta từ khi thành lập đến nay luôn luôn biết rõ và cảnh giác trước mưu đồ xâm lược của ngoại bang, đặc biệt là Trung Quốc. Chỉ trong 14 năm từ khi đất nước thống nhất (1975) đến 1990, người “đồng chí anh em” Trung Quốc đã 4 lần sử dụng quân sự tấn công Việt Nam - người láng giềng thân thiện, cùng hệ tư tưởng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thiết tưởng Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng dù có “sinh sau đẻ muộn” cũng phải thấy âm mưu “dạy cho Việt Nam một bài học” của giới cầm quyền Trung Quốc. Hơn thế nữa, phải nhận thấy bản chất của những người lãnh đạo Trung Quốc hiện nay, họ đặt quyền lợi của họ lên trên mọi quan hệ, họ là những con buôn chính trị, bản chất này được ẩn trong câu phát ngôn đầy thực dụng của Đặng Tiểu Bình: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”. Trong quá khứ họ đã bán rẻ chủ quyền của ta cho Mỹ để đổi lấy hiện đại hóa kinh tế của họ từ Mỹ.
Hiểu được bản chất của Trung Quốc như vậy để xóa ngay ảo tưởng Trung Quốc sẽ lùi bước, từ bỏ chiến dịch xâm lược biển Đông. Nếu Việt Nam muốn hữu nghị với Trung Quốc thì chỉ còn cách cứ để Trung Quốc muốn làm gì thì làm ở biển Đông.
Vậy có nên chấp nhận điều này không?
Chúng tôi kêu gọi những người có tư tưởng sợ Trung Quốc, lệ thuộc vào Trung Quốc hoặc nhận thức mơ hồ hãy bình tĩnh lại, nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của lãnh đạo Trung Quốc, đánh giá đúng những gì đang diễn ra hiện nay là nguy hiểm, từ đó đoàn kết lại, tìm ra giải pháp đối phó có hiệu quả với hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc.
Các đồng chí cần tỉnh táo để tiếp tục đưa ra những chủ trương, hành động tiếp theo, vừa qua lòng dân đã được thể hiện, quốc tế đã lên án mạnh mẽ Trung Quốc, đó là điều kiện rất thuận lợi cho ta, ta mạnh hơn hẳn Trung Quốc về các chứng cứ pháp lý và quản lý thực tế. Còn chần chừ gì nữa mà không kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế? Có đồng chí phát ngôn “kiện có thắng được không?”, theo chúng tôi, không nên đặt vấn đề thắng thua làm mục đích, mà qua việc kiện Trung Quốc ta có thể công bố cho cả thế giới biết các chứng cứ chứng minh chủ quyền của ta, kêu gọi các nước ủng hộ ta và tố cáo Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng công ước luật biển quốc tế (UNCLOS 1982), từ đó tạo sức ép đối với họ.
Nếu tình hình quốc tế thuận lợi, ta cần tiếp tục vận động ngoại giao, mở hội nghị quốc tế về biển Đông, kéo Trung Quốc vào bàn hội nghị này, tạo áp lực buộc họ phải chấp nhận các cam kết quốc tế làm cơ sở pháp lý. Đấu tranh với Trung Quốc trong giai đoạn tiếp theo, với mục tiêu phải giữ được nguyên trạng biển Đông hiện nay.
Thực tế chống ngoại xâm do Đảng ta lãnh đạo cho thấy nếu chỉ dựa vào sức mạnh của dân tộc thì chưa đủ, là một nước nhỏ, chúng ta phải biết tranh thủ sức mạnh của thời đại. Mong đồng chí Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng tỉnh táo để thoát khỏi sự ám ảnh và lệ thuộc vào Trung Quốc, nắm bắt thời cơ thuận lợi hiện nay khi chúng ta đang có sự ủng hộ của quốc tế để cùng các đồng chí lãnh đạo khác đưa ra được giải pháp ngăn chặn được hành vi xâm phạm chủ quyền Biển Đông Việt Nam của Trung Quốc, góp phần giữ được hòa bình, ổn định ở khu vực. Làm được như vậy thì dân mới tin Đảng và bản thân đồng chí Tổng Bí Thư mới lấy lại được niềm tin của Đảng và Nhân Dân. Không làm được điều đó thì đồng chí Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sẽ là tội đồ của dân tộc, mang ô nhục suốt đời!
Ý kiến của nhiều đồng chí nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên TW Đảng các khóa
Việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào hoạt động ở vùng đặc quyền kinh tế nước ta, từ người dân cho đến các cán bộ Đảng viên đều nhận thức được Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của ta, là bước leo thang nghiêm trọng, đe dọa hòa bình và ổn định khu vực và an ninh của nước ta. Nhận thức thì thống nhất như vậy, nhưng hành động đối phó với Trung Quốc của Đảng, Nhà Nước ta đã bộc lộ có sự khác nhau (không muốn nói là mâu thuẫn). Những tiếng nói của Chính Phủ, Quốc Hội trong những ngày qua đã thể hiện được ý chí của dân tộc, không mơ hồ về sự hữu nghị của Trung Quốc, điều này rất hợp lòng dân và được nhân dân ủng hộ tuyệt đối.
Nhưng tiếng nói của những người đứng đầu Đảng thì sao? Thể hiện rất yếu ớt, phát biểu của người đứng đầu quân đội vừa qua đã phản ánh trong nội bộ ta đang có một xu hướng kiên trì giữ mối quan hệ “láng giềng tốt, đồng chí tốt” với Trung Quốc. Hiện nay trong hàng ngũ cán bộ Đảng viên, các đồng chí nguyên là Ủy viên Trung Ương, Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, thậm chí là các doanh nghiệp đều có chung nhận xét: Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và một số Ủy viên Bộ Chính Trị đã không đủ bản lĩnh và ít hiểu biết thực tiễn nên không đánh giá được bản chất bành trướng và mưu đồ đối với Việt Nam của các nhà lãnh đạo Trung Quốc qua nhiều thế hệ. Có ý kiến còn cho rằng Tổng Bí Thư “sợ Trung Quốc, lệ thuộc Trung Quốc”, bị Trung Quốc “nhốt” trong mấy “chữ vàng” để rồi ảo tưởng viển vông với tình hữu nghị. Gần đây, theo thông tin trong nội bộ được biết Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đang mong chờ Tập Cận Bình mời sang Trung Quốc để giải quyết về Biển Đông, chính vì lý do này, ông Trọng đã dùng quyền hạn của mình để trì hoãn không đưa ra Trung Ương thảo luận các quyết sách.
Đến nay có thể nói mọi người dân Việt Nam đều thấy rất rõ Trung Quốc không bao giờ từ bỏ mưu đồ chiếm biển Đông của nước ta. Tập Cận Bình, Bộ Ngoại giao và Chính phủ Trung Quốc ngang nhiên phát ngôn rằng biển Đông Việt Nam là của họ, cho rằng chính ta là người xâm phạm chủ quyền của họ, ta phải “chấm dứt quấy rối” họ và đưa ra lời đe dọa rất hung hãn. Lời nói và việc làm của họ đang đi đôi với nhau với những gì đang diễn ra trên biển Đông, mặc cho Việt Nam lên án, quốc tế lên án, họ cứ làm và làm cho bằng được.
Năm năm về trước, khi còn tham gia trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang, được biết Bộ Chính Trị đã có đầy đủ thông tin về mưu đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam và nhận thấy không bao lâu nữa Trung Quốc sẽ tiến hành thực thi “chủ quyền” của họ theo đường lưỡi bò. Gần 2 tháng qua, họ đã bắt đầu bằng việc công khai hoạt động của giàn khoan 981 trong vùng biển nước ta, thách thức nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới và họ tin rằng họ sẽ thành công trong mưu đồ thực hiện “bá chủ biển Đông”.
Tham vọng của họ đã rõ, những hành động của ta trong hơn 1 tháng qua chưa thể làm cho Trung Quốc lùi bước, Trung Quốc không thèm để ý tới phản ứng của Nhà Nước và Nhân Dân ta cũng như dư luận quốc tế. Tại sao lại như vậy? Vì nhà cầm quyền Trung Quốc rất hiểu rõ nội bộ ta, họ hiểu từng loại người, họ biết được một số đồng chí lãnh đạo Đảng không nhất trí với biện pháp của Chính Phủ và Quốc Hội mà kiên quyết với chủ trương “giữ” hòa bình, không phá vỡ quan hệ “anh em” với Trung Quốc.
Ảo tưởng và mơ hồ quá, bị u mê quá, Đảng ta từ khi thành lập đến nay luôn luôn biết rõ và cảnh giác trước mưu đồ xâm lược của ngoại bang, đặc biệt là Trung Quốc. Chỉ trong 14 năm từ khi đất nước thống nhất (1975) đến 1990, người “đồng chí anh em” Trung Quốc đã 4 lần sử dụng quân sự tấn công Việt Nam - người láng giềng thân thiện, cùng hệ tư tưởng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thiết tưởng Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng dù có “sinh sau đẻ muộn” cũng phải thấy âm mưu “dạy cho Việt Nam một bài học” của giới cầm quyền Trung Quốc. Hơn thế nữa, phải nhận thấy bản chất của những người lãnh đạo Trung Quốc hiện nay, họ đặt quyền lợi của họ lên trên mọi quan hệ, họ là những con buôn chính trị, bản chất này được ẩn trong câu phát ngôn đầy thực dụng của Đặng Tiểu Bình: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”. Trong quá khứ họ đã bán rẻ chủ quyền của ta cho Mỹ để đổi lấy hiện đại hóa kinh tế của họ từ Mỹ.
Hiểu được bản chất của Trung Quốc như vậy để xóa ngay ảo tưởng Trung Quốc sẽ lùi bước, từ bỏ chiến dịch xâm lược biển Đông. Nếu Việt Nam muốn hữu nghị với Trung Quốc thì chỉ còn cách cứ để Trung Quốc muốn làm gì thì làm ở biển Đông.
Vậy có nên chấp nhận điều này không?
Chúng tôi kêu gọi những người có tư tưởng sợ Trung Quốc, lệ thuộc vào Trung Quốc hoặc nhận thức mơ hồ hãy bình tĩnh lại, nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của lãnh đạo Trung Quốc, đánh giá đúng những gì đang diễn ra hiện nay là nguy hiểm, từ đó đoàn kết lại, tìm ra giải pháp đối phó có hiệu quả với hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc.
Các đồng chí cần tỉnh táo để tiếp tục đưa ra những chủ trương, hành động tiếp theo, vừa qua lòng dân đã được thể hiện, quốc tế đã lên án mạnh mẽ Trung Quốc, đó là điều kiện rất thuận lợi cho ta, ta mạnh hơn hẳn Trung Quốc về các chứng cứ pháp lý và quản lý thực tế. Còn chần chừ gì nữa mà không kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế? Có đồng chí phát ngôn “kiện có thắng được không?”, theo chúng tôi, không nên đặt vấn đề thắng thua làm mục đích, mà qua việc kiện Trung Quốc ta có thể công bố cho cả thế giới biết các chứng cứ chứng minh chủ quyền của ta, kêu gọi các nước ủng hộ ta và tố cáo Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng công ước luật biển quốc tế (UNCLOS 1982), từ đó tạo sức ép đối với họ.
Nếu tình hình quốc tế thuận lợi, ta cần tiếp tục vận động ngoại giao, mở hội nghị quốc tế về biển Đông, kéo Trung Quốc vào bàn hội nghị này, tạo áp lực buộc họ phải chấp nhận các cam kết quốc tế làm cơ sở pháp lý. Đấu tranh với Trung Quốc trong giai đoạn tiếp theo, với mục tiêu phải giữ được nguyên trạng biển Đông hiện nay.
Thực tế chống ngoại xâm do Đảng ta lãnh đạo cho thấy nếu chỉ dựa vào sức mạnh của dân tộc thì chưa đủ, là một nước nhỏ, chúng ta phải biết tranh thủ sức mạnh của thời đại. Mong đồng chí Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng tỉnh táo để thoát khỏi sự ám ảnh và lệ thuộc vào Trung Quốc, nắm bắt thời cơ thuận lợi hiện nay khi chúng ta đang có sự ủng hộ của quốc tế để cùng các đồng chí lãnh đạo khác đưa ra được giải pháp ngăn chặn được hành vi xâm phạm chủ quyền Biển Đông Việt Nam của Trung Quốc, góp phần giữ được hòa bình, ổn định ở khu vực. Làm được như vậy thì dân mới tin Đảng và bản thân đồng chí Tổng Bí Thư mới lấy lại được niềm tin của Đảng và Nhân Dân. Không làm được điều đó thì đồng chí Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sẽ là tội đồ của dân tộc, mang ô nhục suốt đời!
Ý kiến của nhiều đồng chí nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên TW Đảng các khóa
(Dân luận)
Tô Văn Trường - Phải kiện nhưng kiện cái gì như thế nào khi nào
Việt
Nam chúng ta tuy có đông dân, nhưng kinh tế, và nhiều mặt còn chưa phù hợp với
vai trò mà chúng ta nên có trong một thế giới sôi động ngày nay. Người làm
chính trị có thể coi như lái thuyền giữa biển khơi, sự tỉnh táo, linh hoạt, là
không thể thiếu.
Sự
kiện giàn khoan khổng lồ Haiyang Shiyou (HS) 981 của Trung Quốc ngang nhiên đặt
vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam hơn tháng này kèm theo
các hành động ngang ngược tấn công bằng vòi rồng phun nước, đâm thủng các
thuyền chấp pháp và ngư dân của ta gây nên làn sóng phẫn nộ phản đối của nhân
dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Có nhiều ý kiến khác nhau về kiện hay không
kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế và thời điểm kiện cần chờ ý kiến của Bộ Chính
trị?
Kiện Trung Quốc, được là ai cũng biết Việt Nam dám phản đối.
Mất là mất cơ hội xác định rõ hướng đi với dân Việt và nước ngoài Việt Nam sẽ
làm gì nếu Trung Quốc đưa tiếp dàn khoan vào những nơi khác. Người ta chỉ thấy
Việt Nam không biết mình sẽ làm gì, thậm chí người ta còn thấy sự mất đoàn kết
trong lãnh đạo.
Là con dân nước Việt, ai cũng đau đáu mối họa cho đất
nước. Vấn đề kiện hay không kiện là sự quan tâm lớn của cả trong và ngoài
nước. Phát biểu về những cái này, nếu không hợp với xu thế chung, sẽ dễ bị “ném đá” vì lòng yêu nước là sức
mạnh vô địch nhưng nếu không hướng đúng, không sử dụng đúng thì chủ nghĩa dân
tộc sẽ thành con dao hai lưỡi giống như vụ Bình Dương – Hà Tĩnh vừa qua.
Không có một Nhà nước nào lại từ bỏ chủ quyền của mình một cách dễ
dàng, chịu lệ thuộc vào nước khác cả. Nhà nước Việt Nam cũng đã chuẩn bị cho
các giải pháp từ nhiều năm nay cho dù còn có nhiều lúc chúng ta chủ quan, “nước
chưa đến chân chưa nhảy” hay làm chưa đạt được chất lượng mong muốn.
Điều này xảy ra trong cả quân đội khi không tận dụng được thời
gian để trở thành chính quy hiện đại, xảy ra trong cả nền kinh tế của chúng ta,
khi không đa dạng hóa bạn hàng, không cổ phần mạnh các doanh nghiệp chuyển sang
cơ chế thị trường.
Sử dụng giải pháp pháp lý
Sử
dụng giải pháp pháp lý là một ứng xử văn minh mà các quốc gia phương Tây nơi có
nền luật pháp vững chắc lâu đời thường cậy đến. Với châu Á, từ chỗ coi các Tòa
án quốc tế là sản phẩm của phương Tây, sau nhiều cải tổ của chính Tòa, bổ sung
thêm các thẩm phán từ các quốc gia nhỏ khác, nên các nước châu Á cũng có xu
hướng sử dụng Tòa trong một số trường hợp như Thái Lan và Campuchia qua vụ kiện
đền Preah Vihear. Mailaysia và Indonesia vụ đảo Sipadan, Lipadan. Malaysia và Singapore vụ đảo đá trắng vv...
Các
nước đưa nhau ra Tòa với điều kiện là Tòa phải có thẩm quyền trên cơ sở các
quốc gia cùng chấp nhận. Tòa án Luật biển có tiến bộ trong Phụ lục VII đưa thêm
một cơ chế Quốc gia có thể đơn
phương đưa vụ việc ra Tòa trong những vấn đề liên quan đến giải thích và áp
dụng UNCLOS. Các vụ việc trên thế giới khá đa dạng, liên quan đến chủ quyền
lãnh thổ lại càng phức tạp. Hầu hết những vụ như vậy lại đòi hỏi thiện chí thực
hiện các phán quyết của Tòa.
Thông
thường phán quyết của Tòa chỉ tạo cơ sở để giải quyết vấn đề chứ không thể giải
quyết hết được mà cần đến giải pháp tổng hợp chính trị, ngoại giao, pháp lý,
quân sự. Điều bất thường là các cường quốc đều có lịch sử bất hợp tác, không
tôn trọng phán quyết của Tòa như Mỹ trong Mỹ/Nicaragua, Pháp trong các cuộc thử
vũ khí hạt nhân...và đều rút khỏi tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của tòa. Điều
đó, giải thích Trung Quốc, nước vẫn coi mình bị các cường quốc phương tây bắt
nạt, bị đối xử bất bình đẳng, sẽ khó chấp nhận thẩm quyền của Tòa.
Thủ tục và nội dung
Các
vụ kiện ra Tòa sẽ phải giải quyết vấn đề thủ tục và nội dung. Thường Tòa sẽ tổ
chức hai phiên riêng biệt. Phiên thứ nhất về thủ tục, các bên sẽ phải đưa ra lý
lẽ chứng minh, Tòa có thẩm quyền còn việc quyết định có hay không là do Tòa.
Phiên thứ hai về nội dung. Toà sẽ chỉ có
thẩm quyền xem xét đúng câu hỏi mà các bên yêu cầu với điều kiện phải rõ ràng,
không ảnh hưởng đến quyền lợi bên thứ ba và phán quyết của Tòa chỉ có hiệu lực
với các bên chấp nhận thẩm quyền, không có đối với bên thứ ba.
Tuy
nhiên, phán quyết của Tòa cũng có thể tạo ra một “opinio juris” tạo xu thế trong các phán xử các vụ tương tự
sau này và dễ định hướng cho công luận. Trong một số trường hợp, Tòa không thể
quyết định có thẩm quyền hay không, nếu không xem xét nội dung. Tòa sẽ phải kết
hợp cả hai phiên để xem xét. Đây có thể là trường hợp của Biển Đông.
Điều
kiện
Rất tiếc là nhiều người không hiểu để kiện thì Việt Nam phải chứng
tỏ rằng mình đã làm hết cách trong việc giải quyết song phương. Đấy là yêu cầu
của Luật Biển.
Khi xem xét vấn đề thủ tục tức xác định thẩm quyền. Điều
kiện đầu tiên để sử dụng công cụ pháp lý là phải sử dụng hết các hình thức hoà
bình khác như đàm phán, trung gian hoà giải, uỷ ban điều tra...nếu các biện
pháp này bế tắc thì mới dùng đến Tòa. Vì vậy, có những vụ Tòa đã
trả lại hồ sơ hoặc khuyến nghị
các bên áp dụng biện pháp trung gian hòa giải.
Điều kiện thứ hai là các bên phải đồng ý đưa ra Tòa thì Tòa mới
có thẩm quyền và chỉ xét đúng trong phạm vi câu hỏi các bên thống nhất đưa ra.
Một
khi ra Tòa là nhằm mục đích giải quyết tranh chấp nhưng đằng sau của các bên
đều muốn Tòa chứng minh mình thắng. Rất ít nước nghĩ đến mình thua. Nhưng điều
kiện của Tòa thì rất khắc nghiệt, dù được hay không các bên đều phải chấp nhận
không bác bỏ. Đây là điều cả Trung Quốc và Việt Nam đều phải cân nhắc vì lòng
tự hào dân tộc cao và chưa có
truyền thống văn hóa pháp lý như phương Tây. Vì vậy, việc cân nhắc thời điểm
kiện, câu hỏi kiện, chọn tòa kiện, hệ quả kiện, so sánh tương quan, thực thi
phán quyết...là gánh nặng đối với những người chịu trọng trách với đất nước.
Trong thời gian vừa qua, hình như dư luận chỉ muốn nói đến kiện và tin tưởng
đương nhiên ta thắng, địch thua mà chưa đề cập đến tất cả các khía cạnh của các
câu hỏi trên, tạo một áp lực lớn cho lãnh đạo.
Phải kiện và 5 khả năng lựa chọn pháp lý
Rõ
ràng đến nay, các các biện pháp khác không mang lại kết quả, chúng ta phải dùng
biện pháp pháp lý tức là kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế. Việc chuẩn bị ra
đòn, phải thực sự bài bản, kín kẽ, thuyết phục.
Đi vào cụ thể, chúng ta có 5 khả năng lựa
chọn pháp lý:
1. Kiện để Trung Quốc rút dàn khoan HS 981
2.
Kiện Trường Sa tham gia với Philipines
3.
Kiện chủ quyền Hoàng Sa
4.
Kiện chủ quyền Trường Sa
5. Kiện chủ quyền Hoàng
Sa-Trường Sa
Để
chọn tòa ta có Tòa án CLQT La Hay, Tòa án trọng tài thường trực quốc tế, Tòa án
luật biển, Tòa trọng tài, Một số luật sư còn nói đến Tòa trọng tài thương mại
trong nước đòi bồi thường thiệt hại. Nhưng Tòa này chỉ có thẩm quyền với các vụ
việc xảy ra trên lãnh thổ quốc gia.
Vùng
đặc quyền kinh tế không phải là lãnh thổ quốc gia, đó là một vùng biển có quy
chế đặc thù (lưỡng tính) trong đó quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về
tài nguyên thiên nhiên, các quyền tài phán về thiết lập các đảo nhân tạo, công
trình trên biển, về bảo vệ môi trường biển, về nghiên cứu khoa học biển. Trong
khi các quốc gia khác có các quyền tự do biển cả về đi lại, hàng không, đặt dây
cáp và ống dẫn ngầm. Vì vậy, một số báo chí nói đó là vùng biển của Việt Nam
hay Trung Quốc hàm ý “ownship” chưa thật chính xác. Cột nước không thuộc chúng
ta mà là phần biển cả trước kia thuộc toàn bộ cộng
đồng quốc tế. Ta chỉ có một số quyền, quan trọng nhất là quyền chủ quyền trong
đó để đổi lại ta cũng phải tôn trọng các quyền tự do khác của các nước. Để đơn
giản ta chỉ còn có Tòa La Hay và Tòa án luật biển mà thẩm quyền đã được trình
bày ở trên.
Kiện riêng vụ HS 981 do Trung Quốc đơn
phương triển khai dàn khoan trong vùng tranh chấp, làm thay đổi hiện trạng pháp
lý, đe dọa hoà bình và an ninh, đề nghị trong lúc toà xem xét toà có thể yêu
cầu áp dụng các biện pháp phòng ngừa yêu cầu rút dàn khoán.
Không tính đến Hoàng Sa thuộc ai và có quy
chế đảo như thế nào (có 12 hải lý hay 200 hải lý) thì địa điểm đặt giàn khoan đều
nằm trong vùng overlapping giữa bờ biển Việt Nam (130 hải lý) và đảo Hải Nam
(180 hải lý). Cả Trung Quốc và Việt Nam vì những lý do riêng đều tuyên bố đây
không phải là vùng tranh chấp. Nếu thực hiện một đường trung tuyến giữa bờ biển
Việt Nam và Hải Nam thì điểm dàn khoan nằm bên này trung tuyến phía Việt Nam.
Hành động đơn phương mang dàn khoan sang quá đường trung tuyến vì vậy được coi
là khiêu khích. Các ủng hộ của thế giới cũng vì cái lớn là hòa bình ổn định,
ủng hộ sự kiềm chế của Việt Nam nhưng không có ủng hộ nào về chủ quyền thuộc ai
cả. Đó là điều các báo chí khai thác một phía, còn lãnh đạo phải hiểu rõ mới ra
quyết sách đúng được.
Kiện HS 981 ít nhất Việt Nam phải hội tụ 3 điều kiện
Thứ nhất chứng minh Việt nam đã bị tổn hại
những gì?. Dàn khoan di động, tàu thuyền kể cả quân sự đều được hưởng quyền tự
do hàng hải. Chỉ khi bắt đầu khai thác thực sự hay tàu cá bị đâm như hôm 4/6
mới có đủ bằng chứng tổn hại vật chất. Khác với Philipines, họ bị mất
Scarborough thực sự nên là cớ để kiện Trung Quốc. Có ý kiến cho rằng đưa ra Tòa
yêu cầu Tòa tuyên bố biện pháp ngăn ngừa
trước khi xét đơn nghĩa là rút dàn khoan giữ nguyên trạng. Điều kiện là bên yêu
cầu phải chứng minh được tính cấp thiết của biện pháp phòng ngừa. Trung Quốc
rất giảo hoạt chỉ giới hạn ở đâm va chưa có đổ máu chiến sự. Cuộc đấu tranh của
Việt Nam ở đây là nhằm mục đích bẻ gãy ý chí của Trung Quốc không cho kéo giàn khoan
vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Tư Chính hay 9 lô miền
Trung. Nhưng ra Tòa, không thể nói ý định chính trị vì đây là vụ kiện pháp lý
mà phải chứng minh có tổn hại vật chất.
Thứ hai là thời gian xem xét của Toà nhanh
cũng một vài tháng. Vụ Philipines kiện Trung Quốc, tháng 2 năm 2013 đưa đơn ra
Tòa đến 30/3/2014 nộp bản memoire, Tòa yêu cầu Trung Quốc nộp bản phản bị vong lục
trình bày quan điểm của mình trước ngày 15/12 nghĩa là mở cho Trung Quốc tham
gia nhưng Trung Quốc không tham gia. Có nghĩa là thủ tục một vụ kiện từ 18-22
tháng, Tòa mới bắt đầu xét phiên có thẩm quyền hay không.
Giàn khoan có thời hạn hoạt động theo công
bố 15/8/2014 lúc đó tàu và giàn khoan đã
rút, Toà có thể nói đối tượng kiện không còn nên hủy vụ kiện (giống như trong vụ thử vũ khí hạt nhân 1974 giữa
Pháp, Newzeland, Úc). Khi
ta làm xong hồ sơ thì cũng là thời điểm họ rút. Khi đó Trung Quốc đương nhiên
cho rằng không còn đối tượng xem xét nên bác đơn. Nếu kiện Việt
Nam phải kiện ngay từ những ngày đầu, song lúc
đó lại vướng phải điều kiện thứ 3 chưa hoàn thành.
Thứ ba là ta phải chứng minh đã sử dụng hết
các biện pháp đàm phán hoà bình. Hiện Trung Quốc rất xảo trá, họ không dồn đến
cùng vẫn nói là sẵn sàng đàm phán nhưng lại không chịu nhận đàm phán với ta.
Mức giao thiệp hai bên mới ở mức Bộ trưởng Bộ ngoại giao, còn chưa đến mức Thủ
tướng hay Tổng bí thư.
Việt Nam và Trung Quốc lại còn Thỏa thuận nguyên tắc về các vấn đề
trên biển mới ký 2012 trong đó thỏa thuận sẽ đàm phán song phương để giải quyết
các bất đồng đối với các vấn đề song phương, đàm phán đa phương đối với các vấn
đề đa phương. Ngoài ra, cũng phải tính đến khả năng Trung Quốc đưa lý luận vu
cáo ta sử dụng lực lượng quân sự vì cảnh sát biển hiện thuộc Bộ quốc phòng nếu
nó được tách ra là một lực lượng dân sự như những nhà phác thảo Pháp lệnh Cảnh
sát biển 1998 ban đầu dự tính thì tốt hơn. Toà cũng có thể khuyến cáo
quay về thủ tục hoà giải bắt buộc nghĩa là hai bên đàm phán quay lại từ đầu.
Đòn tấn công của Trung Quốc
Điều cần lưu ý là tại sao phải sửa soạn
cẩn thận, tức là phải chấp nhận những gì đã thật sự xảy ra và có phương pháp
đối phó. Về kiện chủ quyền, Việt Nam có nhiều điều phải lo, bởi vì Trung Quốc có
nhiều nguồn tài liệu chứng tỏ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nhường Hoàng Sa cho
Trung Quốc.
Những
gì Trung Quốc nói hôm nay, họ đã đăng trong tài liệu của họ năm 1980, trên
Beijing Review (lúc đó là tờ báo chính thức duy nhất của Trung Quốc bằng tiếng
nước ngoài) và được lập lại ở nhiều nơi khác, có thể coi ở đây:
http://www.marxists.org/subject/china/peking-review/1980/PR1980-07.pdf
http://www.marxists.org/subject/china/peking-review/1980/PR1980-07.pdf
Tiếng
Tầu gọi Hoàng Sa là Xisha (Tây Sa) và Trường Sa là Nansha (Nam Sa).
Những điểm chính trong tài liệu trên:
- Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng in cả
trên báo Nhân Dân. (Bản đăng này đã có trên internet)
- Báo nhân dân VN đăng luật về hải phận của
Trung Quốc
- Các phát biểu của ông Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Ngoại giao VN và một
cán bộ khác về Hoàng Sa/ Trường Sa là của Trung Quốc trong cuộc họp ở Hà Nội.
- Bản
đồ World Map của Việt Nam (1960) do cục Bản đồ ( thuộc Bộ Quốc phòng VN) xuất
bản ghi Hoàng Sa /Trường Sa bằng tiếng Tầu và đóng ngoặc là của Trung Quốc
- Bản
đồ năm World Atlas 1972 của Văn phòng Thủ tướng ghi Hoàng Sa/Trường Sa bằng
tiếng Trung. (Có in lại trong tạp chí này).
- Sách giáo khoa lớp 9 năm 1974 do Bộ giáo dục xuất bản, ghi Hoàng
Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc (đã được Trung Quốc mới đây chụp và đưa lên
internet).
Và họ lý luận là cho đến 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận
Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc. Với những tài liệu như thế thì khó lòng
bác bỏ được họ về lập trường của VNDCCH. Ngoài ra có thể có những tài
liệu quan trọng khác mà Trung Quốc chưa đưa ra.
Để phản bác thì phải chấp nhận:
- Nước VN có hai quốc gia trước năm 1975: VNDCCH và VNCH.
-. VNCHXHCNVN là nước kế thừa, không cần phải thừa kế hiệp
định/lời hứa nhường lãnh thổ. Bài viết của TS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt “Công
ước Kế tục quốc gia đối với Hiệp ước 1978” là theo hướng này. Nhưng họ
chỉ là chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra vấn đề chứ còn lập luận đứng vững hay
không phải cần chuyên gia thật sự về luật này và các luật quốc tế khác.
Kiện HS 981 chỉ là tình huống- lâu dài phải kiện đường
lưỡi bò
Kiện HS 981, Việt Nam có thể đạt
được thắng lợi để tuyên truyền mục đích chính nghĩa về Việt Nam nên Trung Quốc sợ không dám ra toà, động viên được nhân dân chung
sức một lòng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Nhưng kiện chỉ để Trung Quốc rút dàn khoan HS 981
thì là mục tiêu quá hẹp. Việt Nam cũng phải có biện pháp phương án lường trước
các đòn thù xấu chơi của họ nhất là trong lĩnh vực kinh tế .
Việt Nam cũng
phải chuẩn bị cả những tình huống nảy sinh tiếp theo, những cái ta không
mong muốn như Toà sẽ phê phán cả Việt Nam và Trung Quốc,
xét không chỉ công thư của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng mà cả các ứng xử tiếp theo
như báo Nhân Dân, Bản đồ của Cục bản đồ, sách giáo khoa trong quá khứ vv…mà ta đã thừa
nhận chủ quyền của Trung Quốc. Đó
là một suy nghĩ văn minh nhưng với công chúng thì chưa hẳn đã thông.
Bây giờ Liên Hiệp Quốc đứng
ra giúp đàm phán thì Việt Nam phải nhanh chóng hoan nghênh. Nhưng Liên Hiệp
Quốc không có trách nhiệm giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ mà chỉ
khuyến cáo hai bên đàm phán. Điều đó có nghĩa là còn có những biện pháp hòa
bình khác mà các bên chưa tận dụng hết. Và ngay từ giai đoạn thủ tục, nếu ta không hội đủ ba điều
kiện thì việc kiện HS 981 chưa chắc đã là một điều hay khi Tòa tuyên không có
thẩm quyền.
HS 981 là một hiện
tượng, còn đường lưỡi bò 9 đoạn mới là lâu dài. Chẳng lẽ hôm nay họ kéo đến đây ta kiện, ngày mai họ kéo đến
kia ta lại kiện, sẽ dễ bị nhàm. Kiện là một giải pháp pháp lý cần thiết và đối
tượng kiện phải là đường lưỡi bò. Chúng
tôi cho rằng phải kiện, còn khi nào nộp đơn thì phải sửa soạn kỹ lưỡng. Nếu
không tham gia sẽ bị cho là bỏ lỡ cơ hội. Không tham gia sẽ đánh mất lòng dân và khó giải
thích với cộng đồng quốc tế. Có ý kiến cho rằng không tham gia thì nếu sau này
sử dụng biện pháp pháp lý thì Tòa sẽ cho rằng anh không có quan tâm nên coi như
đã từ bỏ. Tuy nhiên, khi xem xét dù các bên vắng mặt Tòa cũng phải chú trọng
đến quan điểm của họ. Chỗ này sẽ phải chờ đến bản lĩnh của lãnh đạo và các tính
toán về chính trị, kinh tế chứ không đơn thuần là pháp lý nữa.
Mặt thuận : VN có cơ sở pháp lý lâu đời,
kêu gọi được sự ủng hộ quốc tế, đáp ứng được tình cảm nhân dân trong ngoài nước
và quốc tế, tài liệu chuẩn bị những năm qua có thể tương đối. Tuy nhiên cũng
cần điểm qua khả năng và các hạn chế để có phương án đối phó.
Điều khó nhất là Trung Quốc không chấp nhận
ra Toà.
Sẽ có hai nội dung kiện a) Về chủ quyền b) Về
các quyền sử dụng biển theo UNCLOS.
Nếu Trung Quốc chấp thuận ra Tòa.
Trung Quốc có hạn chế chiếm nhóm phía Đông
Hoàng Sa bằng vũ lực. Việt Nam có lịch sử quản lý Hoàng Sa mạnh từ thế kỷ XVII
đến 1858. Từ 1858 đến 1925 khi Pháp quay lại công nhận chủ quyền Việt Nam trên
Hoàng Sa là một khoảng lặng. 1946 sau chiến tranh Pháp quay lại chiếm nhóm phía
đông còn Tưởng Giới Thạch trước đó ở nhóm Tây. 1956 Trung Quốc đuổi Tưởng Giới
Thạch chiếm phía Tây cả VNCH và VNDCCH không có ý kiến!?
Từ 1956 đến 1974 mớí có sự lên tiếng từ
VNCH và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong thời gian
1956 đến 1975 VNDCCH cũng có một số động
thái không có lợi như đã nói ở trên.
Nếu Tòa có thẩm quyền, không phụ thuộc mong
muốn các bên, theo các nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng sẽ có những khả năng sau:
1. Toà tuyên có lợi cho cả hai bên. Trung
Quốc trả lại nhóm phía Đông đánh chiếm bằng vũ lực cho Việt Nam.
2. Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng vùng
biển xung quanh sử dụng chung như trường hợp của Na uy và Ixơ len sau Thế chiến
II.
3. Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng quần
đảo chỉ có vùng biển hạn chế.
4. Quần đảo thuộc Trung
Quốc có đủ đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
5. Quần đảo hoàn toàn thuộc Việt Nam.
Trong trường hợp TQ từ chối thẩm quyền về xét xử chủ
quyền lãnh thổ
VN buộc phải lựa chọn Tòa
nào có thể thụ lý vụ kiện khi chỉ có một
bên đơn phương đưa ra và chỉ về sử dụng vùng biển. Trung Quốc cũng không có
trách được vì họ gây hấn HS 981 trước. Không thể nói VN theo Mỹ vì VN đã cố gắng
chứng minh mong muốn đàm phán, thậm chí còn nhờ đến cả Liên Hiệp Quốc điều mà Philippines
chưa làm hết. Chỉ có toà trọng tài luật biển ITLOS với Phụ lục VII cho phép một
bên đưa ra và câu hỏi chỉ là giải thích và áp dụng công ước luật biển. Đây là
cách Philippines áp dụng. Trung Quốc đã bảo lưu các vụ kiện liên quan đến chủ
quyền, phân định theo Điều 298.
VN có thể áp dụng Điều
279 về hòa giải bắt buộc nhưng cũng sẽ khó
khăn. Vụ HS 981 nếu đơn phương đưa dàn khoan vào vùng biển tranh chấp là hành
động đáng bị lên án. Muốn xác định vùng tranh chấp lại phải giải quyết vấn đề
chủ quyèn. VN không từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa còn Trung Quốc cho rằng
Hoàng Sa thuộc họ không có tranh chấp. Vị trí giàn khoan cách Lý Sơn 120 hải
lý, cách Hải Nam 180 hải lý tạo thành vùng chồng lấn. Còn nếu Phú Lâm có đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa thì khoảng cách 80 lý. Vì vậy Trung Quốc cho rằng
nếu Hoàng Sa thuộc họ vùng biển dàn
khoan thuộc họ.
Tuy nhiên, Trung
Quốc có điểm yếu sử dụng
vũ lực chiếm Hoàng Sa phi pháp nên Việt
Nam không chấp nhận. Ngoài ra, còn
vấn đề quy chế đảo đá. Triton chắc Toà sẽ cho chỉ có 12 hải lý. Nhưng Phú Lâm
từ thời Pháp đã có người sinh sống nên dễ có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Nếu giả thiết đảo không thuộc VN (đây là điều không muốn nhưng chỉ nêu ra để
tính), đảo sẽ có một phần hiệu lực 1/4, 1/3, 1/2...đường phân định thì vị trí
dàn khoan có thể rơi vào phần đường trung tuyến phía Việt Nam (Cái này phải có sự kết hợp giữa chuyên gia Luật
biển và chuyên gia bản đồ để tính toán. Đây là điều công chúng cũng ít phát
biểu đến). Các vấn đề này cuối cùng vẫn quay lại chủ quyền và Tòa không có thẩm
quyền. Toà chỉ sử dụng Điều 279 khi có khác biệt về giải thích và áp dụng các
bên sẽ quay về áp dụng Phụ lục II hoà giải bắt buôc tức các bên lại ngồi
đàm phán.
Theo quan điểm luật quốc tế và định nghĩa
quốc gia phải hội đủ 4 yếu tố: lãnh thổ, dân cư, chính quyền và khả năng chủ
thể thì dù về mặt chính trị các Bên có tranh cãi Nam Bắc là một mối, sự tồn tại
de facto VNDCCH và VNCH trong một hoàn ảnh đặc biệt là điều khó có thể phủ
nhận. Công ước này bàn về các trách nhiệm và nghĩa vụ kế thừa
giữa hai quốc gia trong các mặt hiệp định, vay nợ, lưu trữ...nhưng vấn đề biên
giới lãnh thổ không thuộc diện điều chỉnh của Công ước. Năm 1976 Quốc hội đã thông
qua bầu cử thành lập CHXHCNVN trên cơ sở VNDCCH và Chính phủ Cách mạng lâm thời
cộng hòa miền Nam Việt Nam là bên thừa kế các vấn đề lãnh thổ của cả hai thực
thể trước.
Vấn
đề ở đây lại là “bên
thắng cuộc” như mọi người ngầm hiểu là VNDCCH trước kia lại có lập trường “thụ
động” trong các tuyên bố chủ quyền. Tòa sẽ cho phép CHXHCNVN chọn lấy những gì tốt
nhất cho mình hay phải kế thừa cả mặt tích cực và tiêu cực của những hành động
trong quá khứ. Đâu là thời điểm kết tinh tranh chấp…Đó là những vấn đề rất khó
tiên lượng Tòa sẽ phán quyết thế nào?
Trường hợp kiện Trướng
Sa thì Tòa có thể gộp vụ kiện của Philippines với vụ kiện của Việt
Nam do có cùng đối tượng kiện là đường
lưỡi bò. Kiện cả Hoàng Sa- Trường Sa cũng có những vấn đề tương tự
Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng Trung Quốc có thể
tính đến việc rút khỏi UNCLOS. Làm vậy họ cũng mất uy tín nhưng họ sẽ bất
chấp.
Lãnh đạo phải sáng suốt lựa chọn
Chuẩn bị tốt cho các vụ kiện Việt Nam cũng
phải thống nhất nội bộ về quy chế pháp lý của đảo và đường cơ sở phù hợp với
Công ước luật biển. Ngoài ra, khi quyết định, không chỉ đơn thuần pháp lý mà
phải hiểu pháp lý là một vũ khí, một biện pháp nhằm tác động tới cái đích cuối
cùng là chính trị.
Bàn cờ chính trị thế giới đang thay đổi với
sự đi lên của Trung Quốc, sự
đi xuống hay ngang của Mỹ, sự trở lại của Nga. Biển Đông đang dần trở thành vũ
đài giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quôc.
Ai cũng muốn độc tôn và lôi kéo liên minh. Hiện Việt Nam đang vất vả
chống Tàu. Sắp tới nếu Mỹ, Nhật, Philippines đồng ý thành lập một liên minh
chống Trung Quốc thì Việt Nam có tham gia không? Nếu xảy ra chiến sự thì họ sẽ
làm gì, sẽ giúp vũ khí để Việt Nam chiến đấu?. Lịch sử cho thấy mỗi khi Việt
Nam nghiêng về một cường quốc nào thì chính Việt Nam phải chịu biết bao đau
thương, mất mát.
1954-1975 chúng ta tự hào trên tuyến đầu
của CNXH chống Mỹ, 1979 Việt Nam ký Hiệp định liên minh với Nga và chịu trận
trên biên giới Việt-Trung. VN đồng thời phải giải quyết hai yêu cầu bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để tăng cường tiềm lực
bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Làm thế nào để thoát thế kẹt giữa hai siêu cường?.
Một quyết định dựa trên cân nhắc đầy đủ các thông tin, tình thế, vận mệnh dân
tộc buộc những người lãnh đạo phải sáng suốt lựa chọn.
Nhìn ra bên ngoài, dù không
ở trong tình trạng cấp thiết như VN nhưng Mailaysia
đã xử lý rất tốt trong quan hệ với Mỹ và Trung
Quốc. Malaisia vừa kiên quyết với Trung
Quốc vừa công nhận vai trò đi lên của Trung
Quốc nhưng đó phải là sự đi lên với
trách nhiệm của một cường quốc, chứ không
phải là kẻ lớn bắt nạt nước bé.
Trong khi chờ quyết định kiện, cũng nên
thấy VN đã hành động đúng khi chỉ cho cảnh sát biển và kiểm ngư ra đấu tranh
tuyên truyền buộc Trung Quốc rút khỏi giàn khoan. Trong những ngày đầu tiên tàu Kiểm ngư
VN còn dùng súng nước bắn trả nhưng những ngày sau VN đã xác định chỉ dùng biện
pháp hòa bình. Ngoại giao VN đã có những hoạt động đáng kể, dù hai bên đã cáo
buộc nhau lên Liên Hiệp Quốc, đều đã tung ra các lập luận, bằng chứng của mình.
Có thể coi gần như một cuộc tập dượt kiện nhau ra Tòa. Sự kết hợp chính trị,
ngoại giao, pháp lý và thực địa là một giải pháp tốt. VN đã lựa chọn chiến
thuật, cách đối phó phù hợp với lực của mình, lấy yếu chọi mạnh, lấy nhàn hạ
chọi kẻ nôn nóng.
Vụ HS 981 này, VN cần kiên trì quấy
đảo. Trung Quôc sẽ không rút ngay vì sợ mất thể diện, trừ khi có điều kiện bất
khả kháng như bão hoặc họ tuyên bố hoàn thành mục tiêu trước thời hạn. Đê lâu
họ cũng mệt mỏi vì chi phí dàn khoan và hơn 130 tàu là rất lớn dù họ giầu. Họ
sẽ thay đổi chiến thuật sử dụng tàu cá vỏ sắt nhiều hơn để thay thế. Việt Nam kiên
trì thực địa kết hợp đấu tranh và tuyên bố kiên quyết đưa ra tòa án quốc tế là
hay nhất. VN có thể yêu cầu Liên Hiệp Quốc cử Ủy Ban điều tra hoà giải. Uỷ ban chỉ có tính
khuyến nghị nhưng là biện pháp hai bên có thể chấp nhận trong tình hình hiện
nay.
Hy vọng trong những lúc nguy nan, trí tuệ
Việt Nam bao giờ cũng tìm được đường ra. Một giải pháp chiến tranh không ai
muốn nhưng nếu cần thì Việt Nam chắc cũng sẵn sàng. Việt
Nam sẽ là bên chịu tổn hại kinh tế nhiều nhất nhưng lâu dài Trung Quốc sẽ mất
thế chính trị và sa lầy trong cuộc chiến, hủy hại giấc mơ Trung Hoa của họ. Một
cuộc chiến tranh du kích trên biển là tốt nhất với Việt Nam. Một nhóm cướp biển
Xomali với tàu nhỏ cao tốc và AK mà bao năm nay thế giới có khống chế được đâu.
Với chiều dài bờ biển của mình, Việt Nam có thể bố trí tên lửa và thủy lôi, mìn
dày đặc, đánh mạnh vào các đoàn tàu vận tải dầu. Một chiến thuật như Trần Khánh
Dư diệt đoàn thuyền lương Trương Hổ vậy. Lịch sử cho thấy chưa bao giờ Trung
Quốc bước qua được Việt Nam để xuống phía Nam bằng vũ lực. Nếu Trung Quốc nghĩ
lại thì hai bên bắt tay nhau chung sống hòa bình. Việt Nam công nhận vai trò
cường quốc châu Á của Trung Quốc trên cơ sở họ tôn trọng độc lập của Việt Nam.
Sẽ rất cần tìm cách để chúng ta “thoát lú” và hữu nghị viển
vông, an toàn bằng tất cả các biện pháp cần thiết bao gồm cả ngoại giao và pháp
lý. Tin rằng, chúng ta sẽ thắng và giải pháp pháp lý cần phải xúc tiến ngay
trên cơ sở chuẩn bị kỹ lưỡng.
Thay cho lời kết
Đọc Kim Dung " Thiên long bát bộ
" nhớ lại ván cờ vây trên đỉnh Thiên sơn của Tô Tinh Hà. Bao nhiêu cao
nhân anh hùng trong thiên hạ được mời đến đều phải bó tay trước nước cờ bí hiểm
và đầy huyền thoại này. Người giải được nước cờ này cuối cùng lại là một nhân
vật rất bình thường, một tiểu tăng không tên tuổi của phái thiếu lâm Hư Trúc.
Nhân vật này không phải là cao thủ chơi cờ và vô tình đã gạt bỏ được
những nguyên lý tri thức cao siêu “viển vông mơ hồ” của cờ vây để đi một nước
cờ rất sơ đẳng và hết sức bình thường mà chẳng cao nhân nào nghĩ tới. Chính lối
chơi này đã phá được nước cờ vây bí hiểm một cách thần kỳ và ngoạn mục.
Phải chăng trong chuyện này, Kim Dung muốn nhắc tới một nguyên lý cơ bản, trí tuệ nhân dân và cơ hội lịch sử sẽ tạo nên
sự thần kỳ.
Tô Văn Trường
(Quê choa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét