Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Ngày 23/6/2014 - Đưa thêm giàn khoan, Trung Quốc mở “mặt trận” mới

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ

TIN THẾ GIỚI

Để cứu được đất nước, chỉ còn một phương cách: CSVN phải từ bỏ quyền lực


"...Bản chất cố hữu của đảng CSVN là chỉ nghĩ đến quyền lợi của đảng, và coi rất nhẹ quyền lợi của cả dân tộc. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mọi quyết định sai lầm cũng như mọi tội ác tầy trời của đảng CSVN..."

Ông Nguyễn Cơ Thạch khi còn tại chức
Từ khi thành lập tới nay, đảng CSVN đã gây không biết bao nhiêu tội ác đối với dân tộc, và đã có những quyết định hết sức sai lầm trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước. Hiện nay, những quyết định sai lầm ấy đã dẫn toàn bộ dân tộc Việt Nam đến sát bờ vực thẳm.
Từ ngày đảng CSVN nắm quyền lãnh đạo đất nước, đất nước càng ngày càng tụt hậu, và dân tộc Việt càng ngày càng lầm than, đau khổ. Tội ác của CSVN gây ra cho dân tộc đã được nói đến quá nhiều trên các phương tiện truyền thông. Nào là chiến dịch cải cách ruông đất, nào là đánh tư sản mại bản, nào là xua quân miền Bắc vào đánh chiếm miền Nam gây nên cuộc nội chiến khiến hàng triệu thanh niên chết cách oan uổng, đồng thời biến cả hai miền Bắc Nam thành hoả ngục! Nào là bắt các quân cán chính miền Nam vào những trại tù cải tạo! Nào là khiến hàng chục ngàn người chết ngoài biển trong rừng vì đi tìm tự do, vì thấy không thể sống nổi dưới chế độ bạo tàn phi nhân của đảng CSVN! ...!!! Tội ác của CSVN không sao kể hết được!
Những quyết định sai lầm của đảng CSVN không phải là ít. Sai lầm lớn nhất chính là muốn độc quyền cai trị vô thời hạn trên dân tộc Việt Nam. Sai lầm này chính là đầu mối gây ra biết bao nhiêu tội ác kể trên và dẫn đến vô số những quyết định sai lầm nghiêm trọng khác. Chỉ vì muốn “muôn đời trường trị” và chủ trương sẵn sàng dùng tất cả mọi phương tiện miễn sao đạt được mục đích ấy, bất chấp phải dùng những thủ đoạn xấu xa, độc ác hay đê tiện. Chỉ vì muốn “độc quyền trường trị” mà CSVN sẵn sàng bán cả đất nước cho kẻ thù của dân tộc, bất chấp dân tộc rơi vào vòng nô lệ ngoại bang hay tụt hậu nhất thế giới. Chỉ vì tham vọng ấy mà CSVN đã gây nên biết bao tai hoạ cho đất nước.
Chính vì đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi dân tộc, mà CSVN trở nên vô cùng lanh lợi và quỷ quyệt trong việc bảo vệ đảng, nhưng lại hết sức ngu xuẩn và sai lầm trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Hiện nay, dư luận đang sôi sục lên vì nhiều bản tin trên mạng Internet nói đến mật ước Thành Đô được ký kết trong một mật nghị cấp cao giữa hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên các ngày 3-4/9/1990. Tin này đã được tiết lộ từ hai thập niên qua dưới danh nghĩa tài liệu “tối mật” nhưng vì không thể kiểm chứng được nên không được coi là một sự kiện đáng tin cậy. Nhưng mới đây, Wikileak vừa “bật mí” rằng mật ước này là một trong 3100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Điều này khiến dư luận lại sôi sục lên!
Một trong những nội dung quan trọng của mật ước này là đảng CSVN đã thỏa thuận với đảng CSTQ rằng Việt Nam sẽ trở thành một khu tự trị của Trung Cộng tương tự như Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng Tây. Và thời điểm chót để hoàn thành mật ước này là năm 2020. Chính vì thế, ngay sau khi Mật Nghị Thành Đô kết thúc, ông Nguyễn Cơ Thạch, bộ trưởng ngoại giao thời đó đã phải thốt lên: “Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu”, và vì thế sau đó ông đã bị cách chức. Trong tập “Hồi ký Trần Quang Cơ”, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao kế vị ông Nguyễn Cơ Thạch, cũng tiết lộ nhiều điều về mật nghị này, vì thế ông cũng phải làm đơn tự nguyện từ chức.
Sự việc Trung cộng đưa giàn khoan dầu HD-981 vào hải phận vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày 1/5/2014 vừa qua khiến người dân trong nước nhận ra rõ ràng hơn bao giờ hết nguy cơ mất nước đã gần kề. Nếu cứ tiếp tục tình trạng như hiện nay, không có gì thay đổi, thì Việt Nam khó lòng thoát khỏi tình trạng trở thành một tỉnh của Trung cộng.
Vấn đề là liệu có gì thay đổi để kéo Việt Nam ra khỏi tình trạng nguy hiểm “ngàn cân treo sợi tóc” hiện nay không? Sự thay đổi tùy thuộc rất nhiều vào đảng CSVN là tập đoàn đang nắm toàn quyền quyết định trong tay. Điều mọi người hết sức lo ngại là liệu đảng CSVN có đủ thiện chí, đủ khôn ngoan và đủ khả năng để lèo lái con thuyền Việt Nam một cách hữu hiệu ra khỏi tình trạng nguy hiểm hiện nay không? − Kinh nghiệm về khả năng lãnh đạo đất nước của đảng CSVN có thể làm chúng ta thất vọng.
Đất nước hiện nay đã bị CSVN đưa đến bờ vực thẳm; tình trạng nguy hiểm bị mất nước vào tay Tàu cộng hiện nay tựa “ngàn cân treo sợi tóc”. Nếu CSVN đã có vô số những quyết định sai lầm nghiêm trọng trước đây thì chúng ta không thể hy vọng được CSVN lại có thể sáng suốt trong tình trạng hết sức khó khăn hiện nay. Bản chất cố hữu của đảng CSVN là chỉ nghĩ đến quyền lợi của đảng, và coi rất nhẹ quyền lợi của cả dân tộc. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mọi quyết định sai lầm cũng như mọi tội ác tầy trời của đảng CSVN. Vì thế, chừng nào đảng CSVN còn giữ bản chất này thì không bao giờ đảng có thể có được những quyết định sáng suốt để cứu nguy dân tộc, để dẫn đất nước đi lên, cũng như không bao giờ đảng có thể ngừng gây tội ác đối với dân tộc.
Hiện nay, trước tình trạng vô cùng nguy hiểm của đất nước, cũng là nguy hiểm cho cả đảng CSVN (vì “mất nước là mất tất cả”), thì chắc chắn ưu tiên số một của đảng chính là cứu đảng; còn dân tộc có thể nhờ đó mà thoát khỏi họa mất nước thì chỉ là dạng “ăn theo” mà thôi.
Kinh nghiệm về cách xử sự tráo trở của đảng CSVN trước đây đối với Nga Tàu chắc chắn khiến Hoa Kỳ không bao giờ lại tin tưởng vào thiện chí và khả năng trung thành của đảng CSVN. Khi cần sự giúp đỡ của Nga, Tàu để đánh thắng Miền Nam Việt Nam thì CSVN o bế cả Nga lẫn Tàu, đồng thời chửi Mỹ thậm tệ. Đến khi chiếm được Miền Nam thì CSVN bám lấy Nga và tìm cách “đá đít” Tàu, có lẽ để quịt nợ ân nghĩa Tàu đã giúp đủ mọi phương diện để CSVN chiếm được Miền Nam. Thời điểm này CSVN coi Tàu là thù địch trực tiếp và nguy hiểm nhất. Sự thù địch này được ghi trong hiến pháp 1980 ([1]) và cả trong điều lệ đảng CSVN.
Đến khi Nga và Khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ, CSVN lại sẵn sàng liếm lại bãi nước bọt đã nhổ ra để nhận lại Tàu Cộng làm bạn và làm quan thầy bảo trợ cho tham vọng “độc quyền trường trị Việt Nam” của mình. Đương nhiên Tàu cộng không bao giờ lại tin thứ đàn em phản phúc và tráo trở như vậy. Vì thế quan hệ giữa CSVN và Trung cộng chắc chắn không phải là thứ tình bạn chân thật, mà chỉ tương tự như hai tên điếm hay hai tên côn đồ lợi dụng lẫn nhau và đương nhiên phần thua thiệt vẫn là phía CSVN.
Biết rõ CSVN chỉ muốn mình bảo trợ cho tham vọng “độc quyền trường trị Việt Nam” của chúng, Trung cộng lợi dụng điều này để ép buộc CSVN đủ mọi điều. CSVN đành phải “bấm bụng” chịu thua thiệt đủ mọi bề, sẵn sàng ký những mật ước nhượng đất, nhượng biển cho Trung cộng, dành quyền ưu tiên cho Trung cộng trong nhiều lãnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Khi đi với Trung cộng thì CSVN chửi Mỹ như kẻ thù.
Sau khi chiếm Hoàng Sa, Trường Sa cùng nhiều vùng biển và đất liền của Việt Nam, bây giờ Trung cộng đã dồn CSVN đến đường cùng khi ngang ngược xâm phạm chủ quyền Việt Nam một cách trắng trợn và nghiêm trọng bằng việc đưa giàn khoan dầu HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tới nước này, một phần trong Bộ Chính trị CSVN mới mở được mắt để nhận ra nguy cơ mất nước đã đến trước mắt và đương nhiên sẽ mất đảng, nên mới bắt đầu cầu cứu Mỹ. Phần còn lại trong Bộ Chính trị vẫn chưa tỉnh ngộ, vẫn còn muốn bám lấy Trung cộng như một người bạn tốt. Nhưng bây giờ mới bắt đầu cầu cứu Mỹ thì đúng là “nước đến chân mới nhảy”.
Dân Mỹ đâu phải là dân ngu để không nhận ra tính phản phúc của đảng CSVN. Nó đã phản Nga, phản Tàu, thì lẽ nào nó lại chịu trung thành với mình? Vả lại, một nước chủ trương tự do dân chủ như Mỹ làm sao lại chấp nhận hy sinh nhân lực, tài lực để cứu sống một chế độ độc tài sắt máu và phản phúc cố hữu đang lâm bước đường cùng như CSVN?
CSVN đang bị dồn vào bước đường cùng, mà cách giải quyết duy nhất là từ bỏ tham vọng “độc quyền trường trị” của mình. Chính tham vọng này đã biến CSVN trở thành tội đồ của dân tộc, gây nên biết bao nhiêu tội ác tầy trời và trở thành ngu xuẩn tột độ trong việc bảo vệ và phát triển đất nước với bao quyết định sai lầm.
Đây là lúc CSVN nên “đái công chuộc tội”. Hãy từ bỏ quyền lực và trao quyền lại cho toàn dân để toàn dân bầu chọn ra cá nhân hoặc tập thể có tài có đức, có đủ khả năng lãnh đạo đất nước, dẫn đưa đất nước ra khỏi tình trạng nguy hiểm sẵn sàng lao xuống vực thẳm hiện nay. Chỉ có thể chế dân chủ mới bầu ra được người có khả năng lãnh đạo đất nước và mới kêu gọi được các cường quốc trên thế giới cứu giúp đất nước thoát khỏi nanh vuốt của Trung cộng.
Nếu CSVN không sẵn sàng từ bỏ tham vọng “độc quyền trường trị”, thì Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất để tồn tại là toàn dân Việt Nam phải nổi dậy dẹp bỏ chế độ Cộng sản. Không còn con đường nào khác!
Tóm lại, để cứu được đất nước, chỉ còn một phương cách: CSVN phải từ bỏ quyền lực, hoặc tự nguyện từ bỏ, hoặc sẽ bị toàn dân lật đổ!
Houston, ngày 13/6/2014
Nguyễn Chính Kết
ethongluan

[1]Để thực hiện chủ trương “ăn cháo đá bát” đối với Tàu, Hiến pháp 1980 có phần mở đầu như sau: “Vừa trải qua 30 năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hòa bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Kampuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Kampuchia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình…”“

Giáo sư Carl Thayer: Đưa thêm giàn khoan, Trung Quốc mở “mặt trận” mới


"...Bởi nếu Philippines thắng trong vụ kiện, đường 9 đoạn của Trung Quốc sẽ là phi pháp. Mặc dù khi đó vẫn không thể ép Trung Quốc làm gì, nhưng theo luật pháp quốc tế, các nước khác sẽ nhìn nhận: Ồ, Trung Quốc đã đi ngược lại luật quốc tế!..."

Giáo sư Carl Thayer: Trung Quốc đã bực tức trước áp lực đang ngày gia tăng.

Bên lề “Hội thảo Hoàng Sa-Trường Sa: Sự thật lịch sử” diễn ra ở Đà Nẵng từ 19-21/6, phóng viên Dân Trí đã có cuộc phỏng vấn với Giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Úc, chuyên gia về Việt Nam và Đông Nam Á, về tình hình Biển Đông.

Trung Quốc mới vừa đưa thêm giàn khoan vào Biển Đông, xin ngài cho biết bình luận của mình về thời gian, mục đích của động thái này.

Theo thông tin tôi đọc được thì giàn khoan thứ hai của Trung Quốc được đưa đến Vịnh Bắc Bộ, nơi Việt Nam và Trung Quốc đã và đang đàm phán, thảo luận về vấn đề ở đó. Giàn khoan được đưa vào khi Ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì đang ở Hà Nội. Tôi không tin là Trung Quốc hành động theo cách cách mà “tay trái không biết tay phải đang làm gì”. Với tôi có vẻ như nó mở ra mặt trận thứ hai, bởi Việt Nam có nguồn lực hải quân hạn chế so với Trung Quốc.

Trung Quốc luôn có tới cả trăm chiếc tàu vây quanh một giàn khoan (Hải Dương-981-pv), khiến Việt Nam phải huy động, tập trung lực lượng cảnh sát biển và kiểm ngư của mình. Và nếu họ mở thêm một mặt trận nữa, Việt Nam sẽ bị dồn ép. Vịnh Bắc Bộ lại được xem là vấn đề riêng giữa hai nước. Nói cách khác, Trung Quốc đang tiếp tục gây sức ép đối với Việt Nam, muốn Việt Nam ngừng đưa vấn đề ra công luận.

Nếu nhìn vào cả vấn đề với Philippines, mỗi lần nước nào đó quốc tế hóa tranh chấp, Trung Quốc lại càng gây sức ép, nghĩa là khiến nước đó phải “trả giá”. Vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tồn tại từ lâu. Không rõ liệu khi vấn đề được quốc tế hóa, áp lực có tác động đến Trung Quốc hay không. Nhưng có thể “mặt trận” thứ hai được thiết kế là nhằm chia mỏng nguồn lực của Việt Nam.

Mục đích chính của việc phát triển một giàn khoan đắt tiền là thương mại, để đi tìm dầu lửa và khí đốt. Tại Vịnh Bắc Bộ, đã có sự hợp tác chung từ lâu giữa Trung Quốc và Việt Nam, mà năm ngoái việc hợp tác này tăng gấp đôi. Nhưng các chuyên gia cho rằng, hợp tác đó mang ý nghĩa chính trị nhiều hơn, hai bên không tìm được gì trong khu vực. Đó là lý do vì sao giàn khoan tiếp theo hay giàn khoan Hải Dương-981 được triển khai không phải là vì mục đích thương mại mà là mang mục đích chính trị.

Trung Quốc bực tức khi áp lực gia tăng

Nhưng giàn khoan thứ hai có thể đi tới bất kỳ vị trí nào, không chỉ là Vịnh Bắc Bộ, ngài có nghĩ vậy không?

Vâng, có thể. Nhưng với những thông tin ban đầu, chúng ta phải hết sức cẩn trọng, không nên rút ra kết luận vội vàng. Tôi nghĩ trước đây những thông tin tình báo đầu tiên đã nhiều lần sau đó được chứng minh là sai. Và trong một mối quan hệ, nước nhỏ hơn thường nghĩ đến tình huống xấu nhất. Việt Nam phải chuẩn bị cho tình huống Trung Quốc kéo giàn khoan tới một địa điểm khác.

Nhưng Việt Nam có lợi thế khi mùa mưa bão tới vào tháng 9. Tôi nghĩ đó là lý do vì sao Trung Quốc đã nói hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 sẽ kết thúc vào 15/8. Nếu có 100 thuyền quanh một giàn khoan và khi bão lớn tới, Trung Quốc có nguy cơ sẽ bị bẽ mặt khi các tàu bị gió cuốn, bị hư hại. Làm sao có thể bảo vệ được các tàu? Vì vậy mà Trung Quốc cần phải rút các tàu.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng tốn kém nhiều khi duy trì sự hiện diện đông đảo đến như vậy quanh giàn khoan. Hơn nữa Việt Nam cũng cho các nhà báo tiếp cận hiện trường.Và tôi biết giờ đây cả phóng viên Úc cũng đã có mặt. Vì vậy Trung Quốc đã bực tức trước áp lực đang ngày gia tăng.

Chính phủ Trung Quốc tạo điều kiện để ngư dân thành cướp biển!

Ngài có bình luận gì về những vu khống mới đây của Trung Quốc cho rằng tàu Việt Nam đã đâm tàu Trung Quốc hàng ngàn lần?

Việt Nam cũng làm được những điều mà Trung Quốc không làm được. Đó là Việt Nam đã cho công bố các đoạn clip. Khi Trung Quốc nói rằng tàu Việt Nam đã đâm tàu Trung Quốc 1.416 lần, tôi đã tính ra như vậy mỗi tàu Việt Nam đâm tàu Trung Quốc tới không biết bao nhiêu lần. Nếu tàu Việt Nam đâm tàu Trung Quốc nhiều đến vậy, chắc chắn tàu Việt Nam sẽ bị hư hỏng vì tàu Việt Nam nhỏ hơn tàu Trung Quốc rất nhiều. Vì vậy tôi cho rằng con số Trung Quốc đưa ra là hết sức vô lý. Và nếu tàu VN đâm tàu Trung Quốc chắc chắn Trung Quốc sẽ trả đũa. Quan trọng hơn nữa là bằng chứng đâu?

Bảy (7) năm về trước, Trung Quốc đã công bố một đoạn phim tài liệu cho thấy trên tàu của lực lượng chấp pháp nước này thuyền trưởng đã ra lệnh cho tàu đâm vào một tàu khảo sát của Việt Nam. Lệnh đó là “Thủy thủ, chúng ta phải tấn công và đâm nó”. Trong thông tin mới hơn Trung Quốc lại nói tàu Việt Nam đâm tàu Trung Quốc hơn 1.500 lần, vậy hãy cho chúng tôi xem video? Lại một lần nữa Trung Quốc đưa ra tuyên bố với thông tin sai lệch.

Một ví dụ khác, trong khu vực Trung Quốc triển khai giàn khoan Hải Dương-981, Trung Quốc đã nói là họ đã tiến hành các hoạt động ở đây trong suốt 10 năm qua mà không vấp phải phản đối của Việt Nam. Có trường hợp tôi được biết là Trung Quốc đã tiến hành khảo sát bí mật, không công bố với Việt Nam. Việt Nam chỉ có thể phản đối khi Việt Nam biết về điều đó. Hơn nữa, 10 năm trước, Việt Nam không có lực lượng cảnh sát biển, vậy làm sao Việt Nam biết hết được các hoạt động của bọn cướp biển trong khi Việt nam có đường bờ biển rất dài?

Điều quan trọng là các bạn có phản đối trong suốt 10 năm qua.

Chính phủ Trung Quốc còn tạo ra môi trường để thậm chí ngư dân của Trung Quốc cũng có thể trở thành cướp biển, có thể tấn công tàu Việt Nam, đánh các ngư dân Việt Nam, bởi họ biết họ được chính quyền Bắc Kinh bảo vệ. Đây là điều tồi tệ vì chính phủ phải chịu trách nhiệm cho những gì người dân của mình đã làm. Và người Trung Quốc có quyền gì mà đâm tàu Việt Nam và lên tàu của Việt Nam?

Trung Quốc gần đây còn tăng cường các hoạt động như bồi đắp đất ở các bãi ngầm trong quần đảo Trường Sa. Theo ông, hoạt động của Trung Quốc nhằm mục đích gì?

Rõ ràng là có các hoạt động ở Gạc Ma, Gavin…và có thể là Bãi Chữ Thập song một lần nữa vẫn còn quá sớm để có thể khẳng định Trung Quốc sẽ xây đường băng hay đồn quân sự ở đây.

Nhưng không thể phủ nhận được thực tế là có hoạt động cải tạo đất ở những bãi ngầm này. Chúng ta thấy Trung Quốc đang thay đổi hiện trạng, mà trong trường hợp này không phải hiện trạng trên mặt đất mà trên biển trước khi tòa án (trong vụ kiện của Philippines) có thể ra phán quyết. Nhưng việc Trung Quốc biến bãi ngầm thành đảo nhân tạo là vi phạm luật quốc tế.

Trung Quốc đang cố gắng biến Biển Đông thành của riêng của mình. Và nếu bị phản ứng, như trường hợp của Philippines, họ thực hiện các bước để làm cho Philippines bẽ mặt, thấy được điểm yếu của họ. Bạn có thể nhớ là ở Scarborough Philippines đã dùng một tàu từng thuộc Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ được biên chế cho hải quân Philippines, Trung Quốc đã tuyên truyền ầm ĩ: Tàu chiến lớn nhất của hải quân Philippines đang tấn công ngư dân của chúng ta một cách trái phép. Vì vậy trong bài tham luận của tôi tại Hội thảo tôi gọi đó là “cuộc chiến pháp lý” trong 3 hình thái chiến tranh của họ (chiến tranh tâm lý, chiến tranh tuyên truyền và chiến tranh pháp lý – pv). Trong cuộc chiến pháp lý, họ luôn dùng luật của Trung Quốc chứ không phải luật quốc tế để lý giải hành động của mình.

Chúng tôi đang xem xét kiện Trung Quốc, vậy theo ông chúng tôi nên kiện như thế nào?

Tôi e rằng Việt Nam khó có thể đưa ra vấn đề chủ quyền ra tòa án công lý quốc tế vì cả hai bên phải đồng ý. Với tòa trọng tài, họ yêu cầu có một trong các bên phải đồng ý tham gia, nhưng dĩ nhiên Trung Quốc sẽ không tham gia. Nếu Việt Nam nêu ra vấn đề giàn khoan, sự việc sẽ không đi đến đâu. Một số người đề xuất, Việt Nam có thể nêu ra vấn đề ở Hoàng Sa hoặc ở Trường Sa. Nhưng theo theo tôi, Việt Nam nên ủng hộ Philippines trong vụ kiện ở tòa án trọng tài quốc tế về Công ước luật biển, nếu tình hình giữa Việt Nam và Trung Quốc xấu đi.

Bởi nếu Philippines thắng trong vụ kiện, đường 9 đoạn của Trung Quốc sẽ là phi pháp. Mặc dù khi đó vẫn không thể ép Trung Quốc làm gì, nhưng theo luật pháp quốc tế, các nước khác sẽ nhìn nhận: Ồ, Trung Quốc đã đi ngược lại luật quốc tế! Đây là cách tốt nhất để các bạn có thể bảo vệ được chủ quyền của mình.

Xin ngài cho biết viễn cảnh xấu nhất và tốt nhất đối với căng thẳng hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc?

Viễn cảnh xấu nhất là Biển Đông tiếp tục dậy sóng. Trung Quốc tiếp tục đâm và đẩy lui tàu Việt Nam. Hoặc họ sẽ đưa giàn khoan khác vào khu vực như chúng ta đã thảo luận từ đầu. Nhưng tôi nghĩ mùa mưa bão sẽ tạo ra một số cản trở. Và sẽ có một thông lệ mới, cứ mỗi năm vào tháng 8 Trung Quốc lại khiêu khích đối với Việt Nam.

Nhưng viễn cảnh tốt nhất là sau ngày 15/8, lãnh đạo cấp cao Trung Quốc thay đổi quan điểm, Trung Quốc và Việt Nam có thể đàm phán. Người ta không thể chọn láng giềng mà phải cùng chung sống. Vì vậy viễn cảnh tốt nhất là hai nước tìm cách ra cách hiểu nhau, cả hai cùng suy xét xem những gì đang xảy ra có phải là cách mối quan hệ hai nước muốn tiến tới và làm thế nào để hai nước tránh tình trạng này vào năm sau.

Xin cám ơn ông!
Thùy Trang
(Dân Trí)

Hạ Mai - Thủ tướng có thật sự không màng "hữu nghị viễn vông"?

Ngày 2-5-2014, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Haiyang Shiyou-981 (HYSY-981) vào khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tình hình biển Đông nóng lên từng giờ, ý chí bảo vệ chủ quyền biển đảo của người dân Việt Nam dâng ngùn ngụt. Nhân dân khắp nơi sôi sục, mong đợi giới lãnh đạo cấp cao tỏ rõ thái độ, có những bước đi cương quyết, kịp thời, song mặt nước vẫn lặng như tờ. Sự im lặng khó hiểu từ phía những người có trách nhiệm không chỉ làm tích tụ thêm những bức xúc của người dân, mà còn khiến những bực bội bấy lâu kìm nén có nguy cơ bùng phát.
1- Dàn dựng
Ngày 8-5-2014, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khai mạc, TBT Nguyễn Phú Trọng – với chức trách của mình, đọc lời mở màn Hội nghị. Cả nước nín thở trông chờ, hy vọng sẽ được nghe những tuyên bố xứng tầm, hoặc chí ít thì cũng có những động thái nào đó về vấn đề biển Đông. Tuy nhiên, giọng nói có phần rề rà, vẻ bình chân như vại của Tổng Bí thư và chủ đề “lãng nhách” bàn về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trở nên phản cảm trên nền vấn đề Biển Đông đang nóng rẫy (cho dù chắc chắn, Nguyễn Phú Trọng không động chạm đến biển Đông vì Vua tập thể” (BCT) đã quyết định như vậy!). Những hy vọng, trông đợi nhanh chóng chuyển thành ê chề, chán chường và tức giận, kết quả là Nguyễn Phú Trọng hứng đủ mọi rủa xả, thóa mạ.
Trong lúc thái độ, phản ứng của các tầng lớp nhân dân căng như dây đàn, ngày 11-5-2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Myanmar, có bài phát biểu tại phiên họp toàn thể của các nhà lãnh đạo ASEAN. Chưa nguôi nỗi thất vọng vì Nguyễn Phú Trọng, chẳng mấy ai trông đợi ở bài phát biểu của Thủ tướng, song Thủ tướng đã có cú “lật cánh” ngoạn mục khi nhắc đến các cụm từ “biển Đông”, “ngang nhiên”, “hung hăng”, “vi phạm đặc biệt nghiêm trọng”….Trước khung thành không có thủ môn, Thủ tướng chỉ việc co chân và… sút!
Dù đã có một vài cụm từ có vẻ cương quyết, nhưng nếu phân tích kỹ toàn bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đặt trong bối cảnh nguy cơ, hiểm họa từ giàn khoan HYSY-981, sẽ chẳng thấy có nhiều điều đặc biệt: Giọng điệu vừa phải, lời lẽ uyển chuyển, nhẹ nhàng, không động chạm, tránh né, không dám gọi đúng tên sự việc… Sau hơn 10 ngày im lặng, những gì mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Myanmar là chưa đủ, là điều ít nhất có thể làm. Chính kiến, thái độ của Thủ tướng là nhỏ bé trong so sánh với những gì mà Bắc Kinh đang làm. Bất kỳ Nguyên thủ quốc gia bình thường nào cũng có thể phát biểu mạnh mẽ, thuyết phục, cứng rắn hơn thế; nhưng, bài phát biểu đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt – nó đã đánh trúng tâm lý bức bối của người dân. Nó được tung hô hơn giá trị đích thực, nhất là bởi bộ máy báo chí “định hướng XHCN” và đội quân Dư luận viên (DLV) đông đảo.
Tiếp dòng sự kiện, chiều ngày 14-5 -2014, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 bế mạc. Dù đã một lần thất vọng, người dân vẫn mong manh trông đợi những thông điệp mới từ Tổng Bí thư, nhất là khi đã có một trong bốn tứ trụ khai bước, mở đường. Nhưng, như Trần Hữu Dũng đúc kết thì “diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng có 7 đề tài chính. Hai đề tài đầu tiên (và dài nhất) là: 1- Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam; 2- Tích cực đấu tranh với những biểu hiện lai căng. Đề tài thứ 4 là ngắn nhất, nói về quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Không có bất cứ một chữ “Trung Quốc” nào và chỉ có duy nhất một chữ “biển Đông” (còn từ “văn hóa” thì được nói đến hơn 30 lần)”.
Một lần nữa người dân Việt Nam lại ngã ngửa! “Ấn tượng” Myanmar, vì thế, càng khắc đậm dấu ấn. Mưa đá, bão đá tiếp tục trút ào ào về phía Nguyễn Phú Trọng, nhất là khi trước đó (ngày 13-5-2014), thông tin về việc người anh “bốn tốt” khước từ gặp gỡ Nguyễn Phú Trọng đã lan tràn trên thế giới mạng (dù việc đề nghị gặp Tập Cận Bình, coi đó là một kênh để giải quyết vấn đề cũng là lẽ thường).
Khi Nguyễn Phú Trọng (cùng với một loạt nhân vật khác) đã “chết lâm sàng” và mười ngày sau sự kiện Myanmar – thời gian vừa đủ để “ấn tượng Myanmar” bắt đầu nhàn nhạt (trong khi biển Đông ngày càng căng thẳng); đồng thời, sau khi đã thỏa thuê ném đá, nhân dân cần tiếp một cú chích “vitamin liều cao”, thì Manila và Diễn đàn kinh tế Thế giới về Đông Á 2014 là một cơ hội thích hợp. Quả thật, Thủ tướng đã làm một động tác kích đẩy nhẹ nhàng chỉ với cụm từ “hữu nghị viển vông” và đã đạt hiệu suất ngoài mong đợi, trong phút chốc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, trở thành “anh hùng dân tộc” - thần tượng của một đất nước luôn khát khao thần tượng. Biển Đông đã nóng, những lời ca tụng Thủ tướng bằng những mỹ từ chói sáng nhất, vang vọng nhất, ngời ngợi nhất… còn nóng hơn gấp ngàn lần: “Phát biểu của Thủ tướng hội tụ khí phách Việt Nam”; “Thủ tướng nói lời non sông đất nước”; “phát ngôn của Thủ tướng mang sức hiệu triệu”; “tiếng nói dũng cảm của ông Thủ tướng cự tuyệt thứ "hòa bình hữu nghị viển vông" có giá trị như một lời hô thoát Hán”…
Chỉ nghe Thủ tướng nói, chưa cần xem Thủ tướng làm, một bộ phận đông đảo người Việt, trong đó có cả tầng lớp tinh hoa, đã vội vàng “dịch” lời Thủ tướng thành bốn cơ hội/khả năng sau: 1- Thoát Hán; 2- Tổ quốc trên hết!; 3- “Xoay trục” sang phương Tây; 4- Dân chủ. Bốn cơ hội “tự phiên” đã thắp lên niềm tin, hy vọng về một Việt Nam chuẩn bị cất cánh và thậm chí đã nghĩ đến cơ hội được bày tỏ lòng yêu nước, khi chính giới lãnh đạo khẩn thiết “kêu gọi” nhân dân biểu tình…. Và ngần ấy cơ hội cũng thừa để ve vuốt tinh thần, khát khao, ý chí của người Việt trong nhiều ngày qua – điều mà Thủ tướng đã nhếch môi cười mỉm biết trước. Quả thật, để “ghi điểm”, Thủ tướng không tốn nhiều công sức. Chỉ bằng một con tính lớp một và vài ba thao tác kỹ thuật đơn giản, Thủ tướng đã kịp điều chỉnh, định hướng dư luận theo cách có lợi nhất cho các mục tiêu, tính toán của mình.
2- Đằng sau dòng sự kiện
Song, niềm tin và hy vọng chỉ có thể trở thành hiện thực khi được xây trên nền tảng vững chắc là tính khả thi và mong muốn thực thi của chính trị gia, chứ không phải là các thủ thuật hoặc tiểu xảo chính trị. Xếp đặt, sàng lọc, lắng đọng và móc nối các sự kiện, phần chìm của tảng băng dần lộ diện:
Ngày 5-5-2014, vài ngày sau khi HYSY-981 được ông bạn “16 chữ vàng” đặt phịch vào sân nhà hàng xóm, Blogger AnhBaSam Nguyễn Hữu Vinh – chủ một trang điểm thông tin với tinh thần nhà báo phải nói đúng sự thật bị bắt khẩn cấp. Chủ trang mạng “từ khi khởi đầu đến nay đều ưu tiên cho những thông tin về Trung – Việt, cảnh báo và phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc”[1]; đồng thời, dám đăng những bài điểm trúng huyệt đạo[2] bị “tống kho” đã ngầm phản ánh “quyết tâm” chống Trung Quốc của Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu và ý định “đốn phạt” những người có thông tin, có khả năng bình luận sắc sảo, “đi guốc vào trong bụng”.
Ngày 11-5-2014 (cũng là ngày Thủ tướng tới Myanmar và có bài phát biểu trông đợi) – lần đầu tiên người dân Việt Nam được “bật đèn xanh” biểu tình thể hiện lòng yêu nước (dù có hai loại “biểu tình nhân dân” và “biểu tình quốc doanh”). Hai sự việc đặt cạnh nhau, khiến người Việt phần nào quên đi AnhBaSam, bắt đầu tin tưởng ở sự thay đổi của Chính phủ (người Việt Nam vốn cả tin, nhẹ dạ).
Tuy nhiên, sự kiện bạo loạn Bình Dương (12-5), Vũng Áng, Hà Tĩnh (14-5)… đã mang đến những dự cảm chẳng lành. Phóng sự “Đi giữa dòng bạo động” của nhạc sĩ Tuấn Khanh đã giúp giải đáp nhiều nghi vấn. Quả thật, sự lặng thinh và vắng mặt của các lực lượng an ninh theo kiểu thả nổi đám đông, cũng như cách thức tổ chức, kích động biểu tình rất chuyên nghiệp đã chỉ báo về một âm mưu, kế hoạch được sắp đặt tỉ mỉ, tính toán chu đáo “từ trong ruột”. Việc đồn đoán “công an bất ngờ, trở tay không kịp” để bạo động xảy ra đã bị đánh đổ, bị phủ định hoàn toàn bởi “lịch sử hào hùng, vẻ vang” của lực lượng công an từng phá những vụ án hình sự nổi tiếng, từng đánh sập, bóp nghẹt từ trong trứng nước mọi “âm mưu bạo loạn” dù mong manh nhất.
Thêm vào đó, sau nhiều ngày điều tra, bộ máy an ninh tinh nhuệ, khổng lồ, nghiệp vụ cứng đã kết luận Việt Tân là thủ phạm – một kết luận ngô nghê, non nớt, vụng về đối lập với “tài năng” phá án và cùng với kết quả điều tra người cầm đầu gây rối chủ yếu là các băng giang hồ, Bộ Công an đã tự tố cáo. Tư duy “lùn” của bộ máy an ninh đứng dưới “bóng mát” chiếc lọng vàng của Thủ tướng đã không chệch nguyên tắc “chủ nào, tớ ấy” khi phù phép, biến Việt Tân thành “vật tế thần”.
Tuy nhiên, nếu chỉ đổ tội cho Việt Tân thôi thì có vẻ hổng hểnh. Sự đập phá có lựa chọn, mang tính chủ đích “chỉ có 2 doanh nghiệp của Trung Quốc bị đốt cháy” trong số “700 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp bị đe dọa và “trên 460 doanh nghiệp bị đập phá” đã kịp thời lấp đầy lỗ hổng, bẻ quặt một bộ phận dư luận tin rằng có bàn tay của Trung Nam Hải – đó cũng là cách đẩy nghi vấn sang phe Cung vua.
Ngày 17-5-2014 (một ngày trước khi cuộc xuống đường toàn dân được dự kiến), các dòng tin nhắn “Thủ tướng chỉ thị…”; “Thủ tướng yêu cầu…”; “Thủ tướng đề nghị…”, như cơn lũ ập vào hơn 120 triệu thuê bao di động. Việc các nhà mạng (không hiểu vô tình hay hữu ý) “thi nhau sỉ nhục Thủ tướng” (như Huỳnh Ngọc Chênh giễu cợt) đã chính thức phát đi tín hiệu đau thương cho ngày toàn dân xuống đường. Thực vậy, ngày 18-5-2014, câu chuyện biểu tình trở về vạch xuất phát ban đầu. Dưới sự chỉ đạo “xuất sắc” của Thủ tướng, nhân danh tái lập trật tự, an toàn xã hội, người biểu tình bị sách nhiều, bị giam giữ, bị lôi, kéo, khênh vứt lên xe, thậm chí bị đánh đập…
Sau ngày 18-5 đến thời điểm hiện tại, không khí biểu tình xẹp lép. Bình Dương, Vũng Áng đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử! Đến hết năm 2015 (không loại trừ còn lâu hơn nữa), Luật Biểu tình vẫn cứ là giấc mơ của nhân dân Việt Nam. Xin mời Trung Quốc tiếp tục nghênh ngang xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã bị dán băng keo vào mồm theo một cách hết sức “hợp pháp”. Cuối cùng, người dân Việt Nam không chỉ mất sạch cơ hội bày tỏ lòng yêu nước, phải bịt mồm, bịt chính kiến, mà việc bắt bớ và theo dõi “bọn phản động” có tư tưởng dân chủ, tư tưởng chống Trung Quốc cũng trở nên dễ dàng hơn.
Sự kiện ngày 18-5 đẩy sự bức bối vốn có lên một mức mới, nhưng chỉ ba ngày sau, những bức xúc có chiều hướng gia tốc đã bị đè bẹp một cách đĩnh đạc, thuyết phục bởi cụm từ “hữu nghị viển vông” (21-5-2014). Tiếp nối những lời phát biểu được mệnh danh là “mang hồn thiêng sông núi”, Thủ tướng “bồi” thêm vào niềm hy vọng của người Việt bằng một “chưởng” kha khá: “Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế”[3].
Sau một loạt những mánh lới chính trị, đã đến thời điểm lên tiếng của các DLV. Hàng loạt bài báo chỉ trích phe Cung vua hèn kém, cam tâm nô lệ, bán nước cho Tàu, đứng sau các vụ bạo loạn…và tung hô “thần tượng mới”, gọi đó là “hiểm họa đối với Trung quốc trước mắt và lâu dài”…đã dẫn dắt dư luận theo hướng Tuyên bố “hữu nghị viển vông” định sẵn.
Trong hành động “hậu diễn văn”:
Thứ nhất, Thủ tướng lập tức gửi thông điệp trấn an đối phương: 1- "Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác”[4] (Thủ tướng thật khéo “đánh lận con đen”- câu hỏi không hề nói đến “liên minh quân sự để chống lại một quốc gia khác”); 2- “Việt Nam không bao giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ khi bị bắt buộc phải tự vệ”[5].
Tuyên bố của Thủ tướng có thể được hiểu như sau: 1- Trung Quốc hoàn toàn yên tâm, Việt Nam sẽ không “xoay trục”, Mỹ và Nhật có muốn cũng không cản được Trung Quốc ở biển Đông; 2- Trung Quốc bình tĩnh đặt giàn khoan, cứ “nuốt” dần biển Đông, miễn là không nổ súng.
Thứ hai, đối với việc kiện Trung Quốc, Thủ tướng tìm kế hoãn binh: “Về giải pháp đấu tranh pháp lý (…), chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định”[6]. Tóm lại, không kiện là do Bộ Chính trị đấy chứ, không phải do tớ - điều Thủ tướng muốn nói là như vậy. Đổ thừa cho Bộ Chính trị cũng có nghĩa là phe Cung vua hứng tiếp mũi dùi dư luận.
Vài ngày sau, Đại tướng Phùng Quang Thanh nhũn nhặn “phun châu, nhả ngọc” tại Hội nghị Shangri La (31-5-2014) khiến người dân Việt Nam phừng phừng nổi giận, cho dù những gì rơi ra từ miệng Đại tướng đều là ý tứ Bộ Chính trị (trong đó có Thủ tướng), đã được “Vua tập thể” nâng lên, đặt xuống đến bấy bớt. Phát biểu của Phùng Đại tướng không chỉ trấn an các “đồng chí Bốn tốt”, mà còn làm bệ phóng cho Tuyên bố “hữu nghị viển vông” bay cao, bay xa. Nằm trong guồng vận hành của thể chế, khoác áo quan võ, tơi tả trước búa rừu dư luận, Phùng Quang Thanh buộc phải trở thành con tốt thí trên bàn cờ của Thủ tướng.
Như vậy, ngoài những lời tuyên bố, cho đến nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chẳng hề có bất cứ hành động thực tế mạnh mẽ nào trong khi Trung Quốc ngày càng lộng hành trên biển Ðông. Hơn nữa, tuyên bố hay trả lời phỏng vấn cho dù đanh thép và khí phách đến đâu cũng không thể thay thế Tuyên bố chính thức của Chính phủ gửi đến đối phương tuyên ngôn về quan điểm của một Nhà nước có chủ quyền – điều Thủ tướng có thể làm, song vẫn chưa làm và sẽ không làm (nên nhớ, hành động của Trung Quốc, cũng như thái độ, sự ủng hộ hoặc quay lưng của quốc tế phụ thuộc vào phản ứng thực tế của Việt Nam!). Ngay cả đến việc đúng phép ngoại giao và thông lệ quốc tế là triệu Đại sứ Trung Quốc đến để tỏ thái độ, Chính phủ của Thủ tướng cũng không dám làm (trong khi báo chí, ti vi chỉ vừa đưa tin hàng hóa Trung Quốc độc hại, kém chất lượng, Đại sứ Việt Nam đã lập tức bị triệu hồi vào lúc nửa đêm để nghe huấn thị[7]). Việc Thủ tướng “đùn” cho Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trả lời chất vấn về biển Đông chính là dấu chấm cuối cùng trong Tuyên bố đậm tính viển vông.
3- Khi đã là bản chất…
Đến đây, bản thân dòng sự kiện đã là sự trả lời đầy đủ nhất cho câu hỏi: Thủ tướng có thực sự không màng “hữu nghị viển vông”? Tuy nhiên, sau những “phát biểu xứng tầm nguyên thủ quốc gia”, “hợp ý nguyện lòng dân”, “gây xúc động hàng triệu con tim Việt”… của Thủ tướng trước họa phương Bắc, rất có thể có một câu hỏi vẫn được đặt ra: Phải chăng, Thủ tướng đã thức tỉnh tinh thần dân tộc?
Nhưng, tinh thần dân tộc chỉ có thể thức dậy nếu nó có, dẫu chỉ là đôi chút. Người ta không thể tin Thủ tướng có tinh thần dân tộc, bởi lẽ, một trong những căn cứ tối thiểu, cơ bản nhất là dù ở bất cứ vị trí nào (chưa nói đến vị trí Thủ tướng) cũng phải có ý thức làm lợi cho dân, cho nước, hoặc chí ít là không làm hại, “làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân”[8]. Còn Thủ tướng? Những “phát ngôn đanh thép” (?!) thời gian qua thực chất là những tiểu xảo chính trị. Thủ tướng luôn biết chọn vấn đề, thời điểm “ra đòn”, tung hỏa mù, làm nhiễu… để gây uy tín, “ghi điểm”, nhằm củng cố địa vị hoặc bành trướng ảnh hưởng.
Còn nhớ, ngồi vào ngôi vị Thủ tướng nhiệm kỳ đầu, biết rằng tham nhũng đang trở thành bức bối xã hội, Nguyễn Tấn Dũng đã nắm lấy điểm yếu huyệt, lập tức tuyên bố trong Diễn văn nhậm chức: “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi bằng được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”[9]. Thực tế thì gần hết hai nhiệm kỳ Thủ tướng, tình hình tham nhũng trầm trọng thêm với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp. Năm 2013, theo chỉ số tham nhũng, Việt Nam xếp thứ 116/176 quốc gia được khảo sát. Các vụ đại án tham nhũng đều có bóng dáng của quan chức cấp cao, các nhóm lợi ích đặc quyền, nhóm thân hữu. Tham nhũng tiền bạc, đất đai, tham nhũng quyền lực, chính sách là hiện tượng phổ biến, thường ngày. Những tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước làm ăn lỗ với những con số “khủng” là kết quả xâu xé của tham nhũng[10]. Làn sóng “tái cấu trúc” hệ thống Ngân hàng (Eximbank, Techcombank, Phương Nam, Bản Việt, Vietinbank, BIDV, Bắc Á…) hoặc để thôn tính, hoặc để trốn nợ xấu cũng là dưới bàn tay “phù phép” của các nhóm thân hữu.
Tháng 2-2010, khi vụ việc Đoàn Văn Vươn đang gây nên một làn sóng phản đối lan rộng, bức bối vì thiếu dân chủ dâng cao, Thủ tướng ra tay đúng lúc, kết luận một cách “minh quân”: Chính quyền Tiên Lãng ngụy biện, sai lầm, vô cảm... “quanh co khi phải đối diện với sự thật”. Thế là Thủ tướng trở thành “người hùng”, người dân Tiên Lãng, người dân cả nước đặt hy vọng, tin tưởng vào Thủ tướng”. Nhưng cuối cùng thì…Vươn vẫn hoàn Vươn - người dân vào tù, sai nha thăng Tướng!
Năm 2013, biển Đông tiếp tục nóng lên trước những hung hăng gia tăng mạnh mẽ của Trung Quốc[11]; đồng thời, sự kiện 17-2 đang đến gần, lòng dân sôi sục, Thủ tướng – “kịch nghệ” mở màn vở diễn mới. Ngày 30-12-2013, trong cuộc làm việc với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Thủ tướng tuyên bố hùng hồn: Hiện Bộ Ngoại giao Việt Nam đang lên kế hoạch tưởng niệm 40 năm sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (1-1974) và 35 năm sự kiện Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (2-1979). Nhân dân hồ hởi, báo chí hào hứng đợi chờ…. Thế rồi, mọi việc lại rơi tõm vào thinh không và khi dịp kỷ niệm đã qua đi, ngày 19-2-2014, Thủ tướng vớt vát: “Đảng, Nhà nước không bao giờ quên cuộc Chiến tranh biên giới phía Bắc, cũng không bao giờ quên công lao của những đồng chí, đồng bào mình chiến đấu hy sinh để giành thắng lợi trong cuộc chiến chống xâm lược ngày 17-2-1979”[12]. Hãy xem Thủ tướng giải thích về cái sự “không quên” và “quan tâm”: “Tất cả chiến sĩ hy sinh đều nằm ở nghĩa trang, được nhang khói”[13] (?!).
Đầu năm 2014, khi khao khát dân chủ của người dân trở nên thường trực, cấp thiết như cơm ăn, nước uống, trong một động thái lừa mị khác, Thủ tướng lập tức vứt ra cái “phao cứu sinh” – Thông điệp đầu năm với những cụm từ dễ gây hứng khởi: Đề cao hai giá trị “song sinh” của thời đại là "dân chủ" và "pháp quyền" trong xây dựng thể chế chính trị hiện đại. Dù không nhiều tin tưởng, nhưng nhân dân vẫn mong đợi những chuyển dịch của nền chính trị về phía dân chủ với nền pháp trị nghiêm minh. Song, một lần nữa, Thủ tướng vẫn tiếp tục đường ray mòn cũ: Phát biểu chỉ để gây ấn tượng, phát biểu rồi để đó và làm trái ngược.
Cái sự “phát biểu lấy được”, “phát biểu để đó” và “làm ngược lại” của Thủ tướng được phản ánh bằng kết quả trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội Việt Nam từ khi Thủ tướng nhậm chức đến nay:
Về chính trị, đây là thời kỳ tự do ngôn luận bị xiết chặt nhất trong các đời Thủ tướng. Trong hai nhiệm kỳ tại vị, Thủ tướng đã ký hàng loạt Nghị định, Quyết định, Công văn[14]… giáng mạnh vào quyền tự do ngôn luận, đàn áp khốc liệt những người “dám” phản biện, chất vấn hoạt động, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng, 1.000 website bị tấn công trong năm 2009 (tăng lên gấp 10 lần so với năm 2008[15]); 300 trang web và blog "không phù hợp" đã bị đánh sập năm 2010[16]. Mặc dù Việt Nam trúng cử với số phiếu cao vào Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, nhưng năm 2013, tình hình nhân quyền ở Việt Nam lại “xấu đi nghiêm trọng”, một chiến dịch đàn áp khắc nghiệt đối với các ký giả, blogger được tăng cường. Việt Nam đứng thứ năm trong danh sách top 10 quốc gia cầm tù ký giả tệ hại nhất trên thế giới, là nhà tù lớn thứ hai ở châu Á sau Trung Quốc[17]. Thủ tướng đã “thành công” đưa Việt Nam vào trong danh sách Kẻ thù của mạng Internet, xếp ở vị trí thứ 174/180 nước trong bảng danh sách tự do báo chí[18].
Dưới “tài” chấp chính của Thủ tướng, nông dân bị cưỡng chế, đàn áp, bị thu hồi đất; đặc biệt, đằng sau nhiều vụ cướp đất có bàn tay dính lứu của những nhóm đặc quyền dưới ô dù của Thủ tướng với danh sách tên đất, tên làng dài theo thời gian: Văn Giang, Dương Nội, Bắc Giang, Mễ Trì, Mỹ Đức, Bắc Sơn (Thạch Hà, Hà Tĩnh), Vũng Áng, Đắc Nông, Ninh Thuận…. Về tự do tôn giáo, Việt Nam là “nước vi phạm quyền tự do tôn giáo tồi tệ nhất trên thế giới”[19].
Về tình hình nhân quyền Việt Nam, đại diện HRW John Sifton nhận xét: “Một chính quyền tàn ác và đàn áp có hệ thống các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội và tập hợp hòa bình, trấn áp những người dám thách thức chính quyền hay dám kêu gọi dân chủ”[20]. John Sifton cảnh báo: Đừng kỳ vọng “việc đưa ra đối thoại chiến lược quân sự và đàm phán tự do thương mại với Việt Nam có thể khuyến khích đất nước này thay đổi”[21]. Ông nhấn mạnh: “Nhà cầm quyền Việt Nam không hề thả lỏng nắm đấm của họ”[22].
Về kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng, nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam hết sức bất ổn, chứa đựng nguy cơ rủi ro, suy thoái; tăng trưởng GDP giảm mạnh (năm 2007: 8,46%[23], năm 2011: 5,89%[24]; 2013: 5,4%[25]). Nợ công của Việt Nam đã ở mức trên 81,885 tỷ USD, bình quân nợ công theo đầu người là 905,18USD, chiếm 47,7% GDP, tăng 10,9% so với năm 2013 (tính đến ngày 13-6-2014)[26]. Việt Nam là một trong 20 nước có khả năng vỡ nợ lớn nhất trên thế giới[27], người dân Việt Nam có gánh nặng thuế và chi phí cao bậc nhất khu vực[28], tỷ lệ người lao động thu nhập thấp (dưới 2 đôla/ngày) chiếm 18,2% dân số/năm 2011 (16,1 triệu người/)[29]. Mọi yếu kém trên đây của nền kinh tế đã được Thủ tướng thừa nhận, nhận trách nhiệm và xin lỗi trong kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XIII (10-2012)[30].
Về văn hoá- xã hội, xã hội Việt Nam ngột ngạt, tù túng, bế tắc, các giá trị đảo lộn, văn hoá – giáo dục tụt dốc, đạo đức suy đồi, bệnh hình thức, thành tích và giả dối tràn lan, len lách trong mọi ngóc ngách xã hội. Phần lớn lớp trẻ bị chủ nghĩa vật chất chế ngự, giành giật, xâu xé quyền lợi, chìm nghỉm trong ham muốn quyền lực, vùng vẫy trong bãi sình lầy của “văn hóa đấm đá". Cơ chế tuyển dụng, sử dụng cán bộ không minh bạch hình thành nên một lớp “thái tử đỏ”, “thế tử Đảng” bất tài, vô dụng, tham lam, “ăn trên ngồi chốc”, thụ hưởng các đặc quyền, đặc lợi.
Tóm lại, Chính phủ của Thủ tướng đã hoàn thành “xuất sắc” nhiệm vụ đàn áp con người về mặt đạo đức, ý thức chính trị, giết dần phẩm giá và nô dịch tư tưởng, dung túng cho cái phi nhân, khiến người dân hoặc thờ ơ, phó thác, bàng quan, vô cảm trước vận mệnh, tương lai đất nước, hoặc mắc “bệnh sợ hãi chính trị” mãn tính, triền miên.
Về quan hệ với Trung Quốc, dưới hai nhiệm kỳ lãnh đạo của Thủ tướng, Việt Nam lún sâu vào quỹ đạo của người láng giềng phương Bắc:
– Thứ nhất, chống Trung Quốc xâm lược là chống Chính phủ
Những lời nói, bài viết, quan điểm về Trung Quốc gây hấn, về chủ quyền biển đảo Việt Nam, về đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa… đều bị cấm đoán, đều bị quy là tội phạm chính trị.
Mọi hành vi, thái độ lên án Trung Quốc đối với Chiến tranh biên giới 1979, cắt cáp tàu Việt Nam trên biển, xâm hại ngư dân Việt Nam…. bị cấm kỵ, bị theo dõi, rình rập, dọa nạt, quy là phản động… Chính phủ của Thủ tướng ngăn cấm, bắt bớ những người yêu nước biểu tình phản đối Trung Quốc… Đó là những hành động tiếp tay cho Trung Quốc, chà đạp lên lợi ích quốc gia, dân tộc. Chống Trung Quốc là chống Chính phủ - như thế, Chính phủ đã đồng nhất mình với Trung Quốc.
– Thứ hai, kinh tế lệ thuộc vào Trung Quốc
Trung Quốc là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam, tỷ lệ nhập siêu tăng mạnh qua từng năm: 4,4 tỉ năm 2006; 11,5 tỉ năm 2009; 12,7 tỉ USD năm 2011; 16,4 tỉ USD năm 2012; và 23,7 tỉ USD năm 2013[31]. Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm khoảng 50% tổng lượng nhập khẩu của Việt Nam; đồng thời, 60-70% diện tích lúa nông nghiệp gieo trồng giống lúa lai Trung Quốc[32]. Với việc nhập khẩu tràn lan, hàng kém chất lượng, chứa chất độc hại tràn ngập đất nước, đồng Nhân dân tệ khuynh đảo thị trường tài chính Việt Nam.
Trung Quốc trúng thầu tới 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… của các dự án kinh tế Việt Nam trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia và an ninh năng lượng. Các chủ đầu tư đều là trụ cột kinh tế như Tập đoàn Than - Khoáng sản, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực, Tổng công ty Thép, Tổng công ty Hóa chất[33]….
- Thứ ba, an ninh – quốc phòng bị đe dọa
Với 90% các công trình trúng thầu, tại các địa bàn xung yếu về quốc phòng – an ninh (Quảng Ninh, Vũng Áng, Cửa Việt, Tây Nguyên…), người lao động Trung Quốc sang Việt Nam lập làng, thâm nhập sâu, thậm chí lấy vợ, sinh con, đồng hóa dân tộc.
Đến năm 2013, các công ty Trung Quốc được cấp 19 dự án trồng rừng ở 18 tỉnh với diện tích trên 398.374ha[34] - đây đều là các dự án liên quan tới rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn hoặc ở những vị trí, khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh, nơi có nhiều khoáng sản và kim loại quý[35].
Hiệp định vận tải đường bộ Việt Nam – Trung Quốc sửa đổi ngày 11-10-2011 đã mở rộng phạm vi di chuyển, hoạt động các phương tiện vận tải giữa hai nước, cho phép phương tiện vận tải Trung Quốc qua lại 7 cặp cửa khẩu, hoạt động trên 26 tuyến vận tải hành khách và hàng hóa (gồm 17 tuyến giáp biên giới và 9 tuyến vào sâu nội địa)[36]. Từ tháng 8-2012, các tuyến lần lượt được khai thông, có điều, mang tiếng là vận tải hai chiều, song trên thực tế, do Trung Quốc đưa ra quá nhiều quy định khắt khe, nên các doanh nghiệp Việt Nam đành “bó tay”. Cuối cùng, chỉ có các doanh nghiệp Trung Quốc vận tải được hành khách, hàng hóa vào sâu trong lãnh thổ của Việt Nam, biến tuyến vận tải hai chiều thành tuyến một chiều.
Tựu chung lại, mới chỉ điểm qua vài nét khái quát, viện dẫn vài ba con số đã thấy bức tranh chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng Việt Nam hiện tại thật đáng lo ngại, ở mức nguy hiểm. Nó đồng thời cũng cho phép đặt câu hỏi nghi ngờ về các mối liên hệ chặt chẽ của Chính phủ với Trung Quốc. Và quả thật, tình “hữu nghị” mà Thủ tướng nói đến thực không hề “viển vông”.
4-Thực chất đằng sau những tuyên bố…
Đối với đại bộ phận quan chức cấp cao Việt Nam hiện nay, nhất là những quan chức đảm nhiệm vị trí quan trọng, then chốt trong bộ máy Đảng, Nhà nước, mục đích và nhu cầu cấp thiết nhất là kéo dài thời gian tại vị, hoặc nếu không thể kéo dài, thì phải đảm bảo “hạ cánh an toàn”.
Kéo dài thời gian tại vị cũng đồng nghĩa với việc làm phình to thêm khối tài sản cá nhân kếch sù bằng nhiều con đường bất minh khác nhau; đồng thời, tranh thủ thời cơ, gài con, gài cháu, sắp xếp thân tộc vào những vị trí béo bở.
“Hạ cánh an toàn” là sau một quá trình trục lợi bằng quyền lực, rời khỏi chính trường, khối tài sản to lớn phải được bảo toàn và khi không còn chức quyền theo nghĩa chính thống, thì vẫn có thể đứng vào vị trí “cố vấn”- “Thái Thượng Hoàng”.
Trên hai điểm quy chiếu nói trên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là một hiện thân đầy đủ nhất và câu chuyện “hữu nghị viển vông” cũng nằm trong toan tính ấy, khi thời điểm Đại hội XII Đảng CSVN đang đến gần.
Nhìn tổng thể chính trường Việt Nam hiện nay có hai phe phái chính trị, thường được gọi dưới cái tên “Cung Vua” - “Phủ Chúa”. Hội nghị Trung ương 6 (10-2012) được coi là trận dàn quân đấu đá chính trị trong Đảng CSVN căng thẳng, quyết liệt và nổi bật nhất thời kỳ đổi mới. Kết cục là phe Cung Vua tuy giữ thế thượng phong, nhưng đến phút cuối Phủ Chúa thoát hiểm ngoạn mục. Sau cú suýt đại bại trong gang tấc, Phủ Chúa chẳng những không yếu đi, mà ngày càng mạnh lên, tuy nhiên, để giành phần thắng tuyệt đối tại Đại hội XII, vẫn rất cần hạ bệ, làm mất uy tín phe Cung Vua. Bên cạnh đó, mỗi bước đi chính trị, không thể không tính đến phản ứng của nhân dân và quốc tế. Đúng lúc, trùng hợp, giàn khoan HYSY-981 là một cơ may thích hợp.
Với ngần ấy toan tính, chi li trong hành động, trên thực tế, Thủ tướng đã thành công: TBT Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bạc nhược, hoàn toàn mất điểm và rating của Thủ tướng tăng cao bất ngờ.
Không chỉ có vậy, giàn khoan HYSY-981 và “tinh thần dân tộc” của Thủ tướng đã khiến những bức xúc, đè nén về dân quyền tạm nguôi lắng. Khi cả nước đang mê trong giấc mơ “thoát Hán”, thì những người dân mất đất, những blogger, những nhà hoạt động dân chủ bị giam cầm…. dường như cô đơn hơn với nỗi đau của mình.
Cuối cùng, một kết cục nhìn thấy trước:
1-Ngày 15-8, tới đây, Trung Quốc rút trước mùa bão năm như đã định, Việt Nam và Trung Quốc cùng tuyên bố thắng lợi.
2- Năm 2016, tại Đại hội XII, một tam giác quyền lực mạnh nhất mọi triều đại được hình thành: TBT Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Hoàng Trung Hải - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh (hoặc nếu Nguyễn Tấn Dũng không trở thành TBT, thì với hai “quả đấm sắt” Hoàng Trung Hải, Nguyễn Chí Vịnh, Thủ tướng nghiễm nhiên ở ngôi “Thái Thượng Hoàng” buông rèm cùng nhiếp chính).
5- Vĩ thanh
Hơn một tháng rưỡi trôi qua kể từ ngày Bắc Kinh đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cọ xát và va đập phũ phàng với hiện thực khắc nghiệt, đa phần người Việt đã qua cơn ảo vọng “thoát Trung”, “xoay trục”.
Những diễn biến xung quanh giàn khoan HYSY-981 cho thấy: Trung Quốc đang làm chủ bàn cờ, còn bộ máy lãnh đạo cấp cao Việt Nam (cả Cung vua và Phủ Chúa) thì hèn kém, lệ thuộc, quỵ lụy, đặt lợi ích phe nhóm lên trên lợi ích dân tộc, hi sinh thể diện quốc gia. Cả một bộ máy quyền lực không có bất kỳ một nhân vật nào xứng tầm thủ lĩnh. Tuy nhiên, điều đó là logic, vì muốn “thoát Trung”, thì phải có dân chủ, mà dân chủ thì đối lập với độc tài – liệu có lãnh đạo nào vì dân tộc, có đủ can đảm dẹp lợi ích cá nhân, phe nhóm, bỏ qua những đặc quyền, đặc lợi khổng lồ thụ hưởng từ thể chế? Câu trả lời đã có sẵn.
Trong cuộc chạy đua quyền lực, Thủ tướng có thể vượt vũ môn; tuy nhiên, nếu tiếp tục cai trị đất nước theo kiểu “hèn với giặc, ác với dân”, xây nên một Việt Nam nghèo đói, cô đơn, chia rẽ, Thủ tướng liệu có đi xa?
Cần nhớ rằng, lịch sử công bằng và khách quan, non sông, xã tắc sẽ phán xét! Nếu không muốn trở thành tội đồ của lịch sử, nếu không muốn nợ tương lai, Nguyên thủ chỉ có con đường đứng cùng dân tộc.
Ngày 22-6-2014.
Hạ Mai
-------------------------
[1] Nguyễn Trọng Tạo: Nghĩ về anh Ba Sàm khi anh Nguyễn Hữu Vinh bị bắt, Boxitvn, 08-05-2014.
[2] Trang Basam đã từng đăng: “Ngay từ khi Thủ tướng nhậm chức, cho tới nay, không ít lần ông thể hiện là mình không thân Tàu, mà hướng Tây nhiều hơn, dù đằng sau đó là cái gì, có mấy ai tin hay không?” (Nguồn: Dẫn theo Song Chi: Bộ mặt thật của Thủ tướng, Người Việt Online, 14-9-2012).
[3] Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, VGP News, 22-5-2014.
[4] Như trên.
[5] Như trên.
[6] Bộ Chính trị sẽ quyết định thời điểm kiện Trung Quốc, VnEconomy, 29-5-2014.
[7] Trung Quốc, Việt Nam căng thẳng về chất lượng hàng, BBC Vietnamese , 29-8-2007.
[8] Từ chối lời khen của Thủ tướng Dũng, BBC Vietnamese, 9-1-2013.
[9] Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thay mặt Chính phủ nhiệm kỳ khóa XII phát biểu nhậm chức, Thutuongchinhphu.vn, 18-8-2007.
[10] Năm 2010, Vinashin lỗ 4,5 tỉ USD, năm 2011, EVN lỗ 3.500 tỷ đồng, năm 2012, các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước lỗ khoảng 2.253 tỷ đồng… Tính chung hai năm 2011- 2012, tổng số doanh nghiệp rời khỏi thị trường bằng 20 năm trước đó; trong số gần 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động, tỷ lệ thua lỗ cũng rất cao (Nguồn: Chi phí vốn của doanh nghiệp Việt cao gấp 10 lần công ty đa quốc gia, Cafef.vn, 24-11-2012).
[11] Trung Quốc tuyên bố cho khách du lịch đến quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp với Việt Nam hồi đầu năm. Tháng 5-2013, Trung Quốc gửi 30 tàu cá lớn từ đảo Hải Nam đến khu vực quần đảo Trường Sa để đánh bắt cá trong vòng 40 ngày. Tàu hải giám của Trung Quốc liên tục thực hiện các chuyến tuần tra trên biển Đông suốt năm. Trung Quốc cho lập vùng nhận dạng phòng không dù không trực tiếp trên biển Đông nhưng có ảnh hưởng khá lớn; đồng thời đã thực hiện một số cuộc diễn tập trên biển Đông.
[12] Thủ tướng: “Không bao giờ quên cuộc chiến biên giới 1979”, VnExpress.net, 19-2-2014.
[13] Như trên.
[14] Đó là: Nghị định số 136/2006/NĐ-CP (14-11-2006, cấm khiếu nại tập thể); Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg (24-7-2009, không cho phép các nhóm tư nhân nghiên cứu đánh giá về chính sách của Nhà nước); Nghị định 02/2011/NÐ-CP (06-01-2011); Công văn hỏa tốc số 7169/VPCP-NC (12-09-2012, cấm không sử dụng, loan truyền và phổ biến các thông tin đăng tải trên “các mạng phản động”, trong đó có trang Web biển Ðông); Nghị định 72/2013/NĐ-CP (31-7-2013, hạn chế việc sử dụng blog và các phương tiện truyền thông xã hội, tạo điều kiện trấn áp bất đồng chính kiến); Nghị định 174/2013/NĐ-CP (13- 11 -2013, quy định các khoản xử phạt mới đối với cư dân mạng đã phổ biến nội dung “tuyên truyền chống Nhà nước”, hoặc “tư tưởng phản động” trên phương tiện truyền thông xã hội).
[15] Như trên.
[16] RSF gọi Việt Nam là "kẻ thù của Internet", BBC Vietnamese, 13-3-2011.
[17] 2013: Năm đàn áp khốc liệt đối với ký giả, blogger tại Việt Nam, Voatiengviet.com, 21-06-2014. Trong danh sách này, Việt Nam xếp sau Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Trung Quốc và Eritrea với 34 netizen đang bị giam cầm, chỉ sau con số 70 của Trung Quốc.
[18] Như trên.
[19] Việt Nam bị chỉ trích mạnh về nhân quyền, BBC Vietnamese, 5-6-2013.
[20] Như trên.
[21] Như trên.
[22] Như trên.
[23]Tổng cục Thống kê: Kinh tế - xã hội thời kỳ 2006-2010 qua số liệu một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu, www.gso.gov.vn.
[24] Tăng trưởng GDP năm 2011 đạt 5,89%, VnEconomy, 29-12-2011.
[25] GDP năm 2013 tăng hơn 5,4%, VnExpress.net, 23-12-203.
[26] Nợ công ở ngưỡng nguy hiểm: Công bố các khoản nợ để xã hội giám sát, nhanh.net.vn, 16-6-2014. Theo cách tính của Phạm Chí Dũng thì “khối nợ xấu khổng lồ có thể lên đến trên 500.000 tỷ đồng; nợ công quốc gia có thể lên đến 95-106% GDP -theo tiêu chuẩn Liên Hợp Quốc (Nguồn: Phạm Chí Dũng: Liệu sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị ở Việt Nam? Tạp chí Thời đại mới, số 28/tháng 8-2013).
[27] Kinh tế Việt Nam, Wikipedia.
[28] Việt Nam nhiều dân nghèo gần nhất khu vực, BBC Vietnamese, 7-9-2012.
[29] Như trên.
[30] Thủ tướng phát biểu như sau: “Với trọng trách là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, tôi nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn của người đứng đầu Chính phủ và xin thành thật nhận lỗi trước Quốc hội, trước toàn Đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, nhất là những yếu kém, khuyết điểm trong kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; một số tập đoàn, tổng công ty, điển hình là Vinashin, Vinalines, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất và hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt, ảnh hưởng lớn đến uy tín và vai trò của kinh tế nhà nước” (Nguồn: Sáng nay khai mạc kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XIII, VnExpress.net, 22-10-2012).
[31] Giật mình cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc: Nhập siêu tăng 100 lần trong 10 năm, Dân trí, 21-6-2014.
[32] Mỗi năm, Việt Nam chi khoảng 40 triệu USD để nhập khẩu 13.000-15.000 tấn lúa giống từ Trung Quốc, tương đương với xuất khẩu 100.000 tấn gạo cao cấp (5% tấm) (Nguồn: Giật mình cán cân thương mại…, Dân trí, 21-6-2014).
[33] Trung Quốc trúng thầu 90% công trình thượng nguồn của Việt Nam, Vieetnam Economic Forum, 32-7-2010.
[34] Đang hoàn thiện quy hoạch đất quốc phòng an ninh, Đất Việt, 11-6-2014
[35] Đó là các tỉnh: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định, Kon Tum, Khánh Hòa, Quảng Nam và Bình Dương, cụ thể là: Quảng Ninh 100.000ha, Nghệ An 70.000ha, Kon Tum 65.000ha, Lạng Sơn 36.000ha, Quảng Nam 30.000ha và Thanh Hóa 21.000ha -tổng cộng là 349.000ha. Trung Quốc họn thuê đất chủ yếu ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, đặc biệt ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nơi có trục đường 7, đường 8 sang Lào, đường đi lên Tây Nguyên. Đặc biệt, ở các tỉnh có khoáng sản với các tạo quặng trên mặt đất rất cạn, có thể khai thác dễ dàng bằng đào bới.
[36] Bị "ép", doanh nghiệp Việt Nam gặp khó, Báo Giao thông vận tải, 6-3-2014.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 22-6-14
(viet-studies)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét