Nguyễn Trung - Sự lựa chọn của tôi: Cải cách
I - Bạn bè quở tráchKhông thể nói tôi chai lỳ với những lời nhiếc mắng chân tình của bạn bè thân thiết nhất về những gì tôi viết ra. Lần này sự quở trách ấy dành cho bài Chữ tín, [1] trong đó tôi khuyên đại hội XII sắp tới của ĐCSVN – kể cả khâu chuẩn bị - nên bắt đầu từ việc tìm cách thực hiện chữ tín. Đó là những lời nhiếc mắng đã từng nhiều lần dành cho tôi: ngu trung, ảo tưởng, ngây thơ, nặng về tình cảm… vân vân… Những lời phê phán khác của người Việt khắp thế gian với nghĩa là quyền ăn quyền nói đương nhiên của mỗi người, thì dỏng tai nghe, cố hiểu người nói, không có gì đáng phải băn khoăn ở đây cả.
Thật ra tôi đã lường được tất cả, đã cân nhắc tất cả trước khi viết.
Đã quá xa cái tuổi cổ lai hy rồi, tôi ít nhiều hiểu được những điều phải hiểu liên quan đến quyền lực – sức mạnh và quyền năng của nó, những mặt nham hiểm hay bỉ ổi của nó... Song suy ngẫm mọi bề, cuối cùng tôi vẫn phải chọn lời khuyên ĐCSVN tìm cách thực hiện “chữ tín”, đơn giản vì đất nước đòi hỏi nhất thiết phải mở đường sống thông qua cải cách chính trị để thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện nay, lý tưởng nhất là trong hòa bình. Xin nhấn mạnh, đấy là sự lựa chọn của tôi.
Tác giả Nguyễn Trung |
(1) Cải cách hòa bình để chuyển đổi thể chế chính trị độc tài toàn trị hiện nay của đất nước sang một chính thể dân chủ của một nhà nước pháp quyền. Đấy là con đường duy nhất tránh cho đất nước một cuộc bể dâu mới nồi da xáo thịt, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng bế tắc trong khủng hoảng, mở ra một thời kỳ phát triển mới mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay đòi hỏi.
(2) Để có được một cuộc cải cách trọng đại như thế trong hòa bình, mọi việc phải bắt đầu từ ĐCSVN, với tính cách là lực lượng chính trị mạnh nhất và đang duy nhất nắm trọn vẹn trong tay quyền cai trị đất nước. Với tính cách như thế, ĐCSVN cần chủ động mở đường đi vào cuộc cải cách này. Nếu ĐCSVN không chịu chủ động như thế, nhân dân cả nước cần đồng lòng đòi hỏi bằng được ĐCSVN phải thực hiện nhiệm vụ cải cách chính trị này. Đơn giản vì nhiệm vụ này là lời hứa phải thực hiện mà ĐCSVN đã ghi trên lá cờ của mình khi hiệu triệu nhân dân đứng lên làm cách mạng. Nhiệm vụ chính trị này là món nợ chính trị số một với dân với nước, ĐCSVN từ khi đất nước độc lập thống nhất đến nay vẫn chưa thực hiện, bây giờ nhất thiết phải trang trải (đã nêu trong điểm 3, bài 1).
(3) Và trên hết cả, về nhiều mặt, nhiệm vụ cải cách duy tân đất nước hiện nay còn phải được coi là một nghĩa vụ thiêng liêng đối với từng người dân Việt Nam, có sự ràng buộc bằng hy sinh xương máu của biết bao nhiêu thế hệ Việt Nam kể từ khi mất nước vào tay chủ nghĩa thực dân Pháp cho đến hôm nay. Đây là nhiệm vụ từng thành viên của cộng đồng dân tộc Việt Nam ta. Từng người phải đứng lên thực hiện bằng được với tất cả tinh thần đoàn kết hòa giải dân tộc, với tất cả ý chí không gì quý hơn độc lập tự do. Không một người Việt Nam nào có thể vin vào bất kỳ lý do gì để thoái thác. Danh dự của dân tộc, sự sống còn và tương lai của đất nước đòi hỏi phải như thế.
II – Bàn thêm: Thay đổi bằng cải cách, hay là bằng bạo lực lật đổ?
Những vấn đề nóng bỏng do thực trạng đất nước gần 4 thập kỷ vừa qua tích tụ lại và những thách thức mới hiện nay dẫn đến đòi hỏi bất khả kháng, đó là phải thay đổi thể chế chính trị hiện hành.
Bằng cách nào?
Dù có những tình tiết pha trộn hay đan xen nhau như thế nào giữa những cách thực hiện khác nhau, song cuộc sống chỉ có 2 phương thức cơ bản để thay đổi thể chế chính trị hiện hành: (1) cải cách trong hòa bình; hay là (2) dùng bạo lực xóa bỏ chế độ hiện hành.
Trí tuệ của thế giới đến nay có được, cũng như thực tiễn của lịch sử các quốc gia trên thế giới đã xác nhận: cải cách trong hòa bình và cải cách thường xuyên để phát triển đất nước là con đường lý tưởng nhất làm nên ở mọi nơi quốc gia hưng thịnh, hạnh phúc, bền vững. Nhìn vào nước ta cũng phải nhận định như vậy.
Thực tiễn lịch sử vài ba thế kỷ nay của các quốc gia từ Đông sang Tây cũng cho thấy: Có nhiều cuộc cách mạng đã xẩy ra là tất yếu và bất khả kháng, để phá vỡ một trật tự xã hội đã bế tắc và không còn lý do để tồn tại. Song bất kể một cuộc cách mạng nào, sau khi phá vỡ được chế độ cũ, nhưng nếu không thành công tiếp theo trong quá trình cải cách và cải cách thường xuyên để phát triển đất nước sau đó, cuối cùng sự nghiệp cách mạng ở đó vẫn đổ vỡ, những lý tưởng tạo dựng nên cuộc cách mạng ấy trở thành không tưởng và cuối cùng là bị phản bội. Hệ quả thường là: Dần dà cách mạng tạo dựng nên một chế độ chính trị bất công mới. Quyền lực lại rơi vào nhóm thống trị mới chứ không phải vào tay nhân dân. Quá trình này tha hóa tiếp, cuối cùng dẫn tới hệ quả đất nước bị nhóm vô lại mới là chính con đẻ của cách mạng thống trị. Tất cả lại tích tụ thuốc nổ cho một cuộc cách mạng mới, bắt đầu một cái vòng luẩn quẩn mới của lịch sử…
Nguyên nhân cơ bản của sự vận động trên là: Bản chất của cách mạng là bạo lực, tự nó không thể mang lại dân chủ. Chính quyền cách mạng chỉ có thể tồn tại và bảo vệ được bằng chuyên chính. Trong khi đó dân chủ chỉ có thể là thành quả của một thể chế chính trị tiến bộ được từng bước xây dựng nên trong quá trình phát triển của quốc gia. Vì thế, sau cách mạng mà không có một thể chế chính trị có khả năng xây dựng nên dân chủ để phát triển, thì cuối cùng chỉ còn lại bạo lực; mà bạo lực vì sự tồn tại của chính nó thường xuyên đối kháng với dân chủ và phát triển. Chưa nói đến xây dựng dân chủ là một quá trình phấn đấu lâu dài, thường xuyên và gian khổ, nó là thành quả của phát triển; song đến lượt nó, chính dân chủ lại trở thành tiền đề của phát triển, - đây là cái biện chứng cần quan tâm.
Trên thế giới đến nay có không ít sách báo và công trình nghiên cứu chứng minh sự vận động nói trên của lịch sử. Sự vận động này không phải là đặc tính riêng của các cuộc cách mạng xã hội đã xảy ra trên thế giới. Thật ra, trước đó, sự vận động của các triều đại phong kiến trên thế giới cũng đều đi theo quy luật này: Quy luật sự tha hóa của quyền lực. [2]
Cái đấu tranh nay là trận cuối cùng (Quốc tế ca) hóa ra lại là cái câu hỏi mà chủ nghĩa cộng sản bỏ qua: Làm sao, sau khi cách mạng thành công trong việc xóa bỏ chế độ cũ, có thể luôn luôn chế ngự được và luôn luôn chiến thắng được quy luật tha hóa của quyền lực? Câu trả lời chỉ có thể tìm thấy trong quá trình cải cách và thường xuyên cải cách để phát triển đất nước. Tên của câu trả lời này là dân chủ, chứ không phải là chuyên chính vô sản.
Những lý lẽ xác đáng, cũng như thực trạng đất nước ta hiện nay đều dẫn tới một kết luận duy nhất: Cải cách thể chế chính trị là đòi hỏi tất yếu và là phương án tối ưu nhất đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nói đến mức sát phạt là thế này: Giả định rằng không may đất nước ta bất khả kháng rơi vào một cuộc đấu tranh bạo lực đẫm máu mới, để thay đổi chế độ chính trị hiện nay của đất nước, thì ngay sau đó vẫn phải tìm đường thực hiện một sự nghiệp cải cách duy tân, và phải cải cách thường xuyên, để mang lại cho đất nước sức sống mới, sự phát triển mới. Đấy là chưa nói, nếu lựa chọn con đường bạo lực thì phải đấu tranh bạo lực trong bao nhiêu lâu? cái giá dân tộc ta phải trả? một hiệp đấu tranh bạo lực liệu có xong không? sẽ còn phải làm bao nhiêu hiệp tiếp theo nữa để cho thể chế mới ra đời?... Đã thế, bạo lực gọi bạo lực, cái chế độ mới sẽ được ra đời bằng đấu tranh bạo lực này là con đẻ của bạo lực thì làm sao mang lại hòa bình, trí tuệ và phát triển cho đất nước? v.v...
Chẳng lẽ đất nước ta gần một thế kỷ vừa qua chưa đủ kịch bản thay đổi chế độ hoặc xây dựng chế độ mới bằng bạo lực để suy ngẫm hay sao?..
Nhân đây cũng xin thưa, đấu tranh bạo lực ôn hòa nhất như ở Thái Lan (mà điều này không thể có ở Việt Nam) thì từ năm 1932 đến nay cứ vài năm lại một lần đảo chính, đổ máu không ít... Cho đến hôm nay con đường dân chủ của Thái Lan vẫn còn dài ở phía trước, mặc dù Thái Lan có những bước tiến xa hơn nước ta về dân chủ. Đã thế trên trái đất này không có sự chân không dành riêng cho Việt Nam. Làm gì, nước ta cũng phải tính đến những kẻ đánh hôi, những thế lực đục nước béo cò...
Tôi kết luận dứt khoát cho mình: Để nước ta trở thành một quốc gia phát triển, trước sau không có cách gì trốn được cải cách và cải cách thường xuyên. Nhật và Hàn Quốc hôm nay đều bắt đầu từ cải cách…
Xin lưu ý: Tấm gương xấu, tấm gương tốt của những biến động quốc gia trên toàn thế giới kể từ khi các nước Liên Xô – Đông Âu cũ sụp đổ cho đến hôm nay mang lại cho chúng ta không ít điều phải ngẫm nghĩ. Chỉ riêng hiện tượng Myanmar và hiện tượng Ukraina đang diễn ra cung cấp cho chúng ta nhiều bài học rất quý báu cho con đường cải cách của đất nước, miễn là dám nhìn thẳng vào sự thật, có trí tuệ nhìn đúng sự thật.
Còn như, nếu để cho đất nước ta bất khả kháng bị đẩy đến tình trạng xảy ra bạo loạn - giả định như vậy -, thiết nghĩ trước hết (xin nhấn mạnh trước hết) cần xem xét phẩm chất và năng lực của hệ thống chính trị hiện hành. Bởi vì so sánh tương quan lực lượng mọi mặt cho đến thời điểm hiện nay, có thể nhận xét: Tiềm năng và khả năng các lực lượng hay thế lực bên trong / bên ngoài muốn lật đổ chế độ chính trị hiện hành của Việt Nam bằng bạo lực vì bất kỳ lý do gì, đều rất yếu và hầu như không thể làm được, dù họ muốn. Nói như thế, để nhấn mạnh một vế khác quan trọng hơn nhiều: Việt Nam hôm nay có tất cả những điều kiện đủ cho cải cách và cải cách thành công; Việt Nam hôm nay chỉ còn thiếu điều kiện cần là: quyết tâm chính trị của đảng cầm quyền cho cải cách.
Mặt khác, cả nước phải cảnh giác với hệ lụy có thể của tình huống cái xảy nẩy cái ung. Đất nước gần đây xảy ra nhiều sự việc đau lòng, đó là các sự kiện như vụ Quỳnh Phụ - Thái Bình năm nào… Gần đây là vụ trấn áp Đoàn Văn Vươn, vụ trấn áp tại Văn Giang liên quan đến Eco Park, các vụ nạn nhân bị công an đánh chết trong khi giam giữ dẫn đến phản ứng quyết liệt của dân, các vụ người dân tự thiêu hay tự sát, các vụ bắt bớ đánh đập những người yêu nước biểu tình bầy tỏ ý chí bảo vệ biển đảo và chủ quyền quốc gia, vụ Nguyễn Phương Uyên, vân vân…
Vâng, giả định trong những vụ việc như vậy nếu lỡ tay để xảy ra sự cố không kiểm soát được – ví dụ như để xảy ra đổ máu lớn -, ai dám đoán trước những diễn biến tiếp theo, quy mô và hệ lụy của chúng? Chưa nói đến những sự cố không kiểm soát được kèm theo phản ứng bầy đàn nếu để xảy ra trong những khó khăn kinh tế của đất nước, trong thiên tai, dịch bệnh, trong một biến cố chính trị / kinh tế nào đó của khu vực hay trên thế giới, trong những thách thức mới phi truyền thống chưa ai lường được… vân vân.
Nêu lên những điều vừa nói trên, tôi muốn đặc biệt lưu ý: nguy cơ để xảy ra bạo loạn đang tiềm tàng nhiều hơn trong những hệ quả của những sai lầm, yếu kém và sự tha hóa phẩm chất của hệ thống chính trị - trong đó trước hết là của đảng nắm quyền gây nên. Nhìn sự việc với tin thần tiên trách kỷ, hậu trách nhân là thế.
Trong đời sống hàng ngày hiện nay, sự hoạt động đang diễn ra của đội ngũ dư luận viên đang từng giờ từng phút bóp méo sự thật, làm tha hóa hệ thống chính trị, làm tê liệt nghiêm trọng khả năng của đất nước đề kháng nguy cơ bạo loạn… Mọi dối trá như thế rõ ràng chỉ gây thêm những khó khăn mới cho đất nước và đều có cái giá phải trả. Mọi sự trấn áp khác theo khuynh hướng này cũng vậy. Có thể xem đây là một trong nhiều ví dụ về nhân – quả đòi hỏi phải được nhìn nhận với tinh thần tiên trách kỷ hậu trách nhân.
Còn một lẽ nữa, muốn kiên định con đường cải cách chính trị, cần phải tăng cường khả năng của nhân dân cả nước chủ động đề kháng đối với nguy cơ để xảy ra bạo loạn - nhưng không phải bằng kìm kẹp, trấn áp hay nói dối dân nhân danh giữ vững ổn định, mà phải bằng cách nói thật, tin vào dân, dựa vào dân trong mọi tình huống, nghe dân nói, trang bị cho dân mọi thông tin, hiểu biết và khả năng bảo vệ lẽ phải, làm cho dân tự giác chủ động loại bỏ nguy cơ này. Để làm được như thế, chung quy chế độ phải phấn đấu để thực sự là của dân, dám dựa vào dân.
Nói một cách trần trụi, chừng nào còn nói dối dân và không đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, chừng đó không có cải cách. Cải cách phải bắt đầu từ nói thật và yêu mước. Không có điều kiện tiên quyết này đừng nghĩ đến cải cách. Đương nhiên, cải cách còn đòi hỏi nhiều điều kiện khác nữa.
III – Vị thế của ĐCSVN trong cải cách
Sự lựa chọn của tôi: Dành cho ĐCSVN giữ vai trò quyết định, ngoại trừ trường hợp những người nắm quyền lực trong ĐCSVN hiện nay chủ trương chống lại cải cách và đối kháng lại lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc.
Sự lựa chọn này của tôi trước hết căn cứ vào nghĩa vụ và món nợ lịch sử ĐCSVN đã cam kết với nhân dân, với tổ quốc và bây giờ nhất thiết phải trang trải.
Sự lựa chọn này của tôi xuất phát từ lòng tin trong ĐCSVN vẫn còn nhiều đảng viên có lương tri, có trí tuệ và tâm huyết với đất nước, mặc dù họ đang bị hệ thống bộ máy đảng kìm kẹp, đang bị nhiều áp lực khác trong thể chế chính trị cũng như trong đời sống hàng ngày làm cho vô hiệu hóa, hay làm cho câm lặng. Khi có điều kiện, những đảng viên này chắc chắn sẽ xả mình vì nước. Hơn nữa, về mặt nào đó mà xét, số đảng viên tha hóa biến chất, ngoan cố chống lại lợi ích của đất nước cũng như lợi ích chính đáng của chính bản thân ĐCSVN chỉ là thiểu số, cho dù họ là những người chi phối quyền lực. Nếu có thảo luận dân chủ và công khai trong đảng, chắc chắn chính nghĩa và sự thật sẽ thắng ngay trong nội bộ ĐCSVN.
Sự lựa chọn này của tôi dựa trên nhận định: Nếu những người có thực quyền trong đảng chủ trương thảo luận dân chủ và thẳng thắn trong nội bộ đảng như thời đại hội VI về thực trạng đất nước hiện nay và tìm lối ra, hoặc là nhiều đảng viên lên tiếng yêu cầu lãnh đạo và các tổ chức của đảng phải tổ chức cuộc thảo luận này, tôi tin rằng sự thật sẽ được nhận diện, hầu như chắc chắn sẽ có tiếng nói quyết định phải tiến hành cải cách chính trị để cứu nguy đất nước.
Nhận định như vậy, bởi vì tôi đã được nói chuyện với nhiều đảng viên tâm huyết như thế, kẻ đã về hưu, người đang tại chức. Chúng tôi hầu như thống nhất với nhau cách suy nghĩ này. Thậm chí có một đảng viên tại chức, thuộc loại rất cao cấp, nói với tôi: “Anh Trung ạ, để cải cách, cái đảng ta cần nhất bây giờ là thực hiện dân chủ ngay trong đảng!..” Tôi thừa nhận đảng viên ấy đúng. Phần nào hiểu được sự vận động của đảng trong cuộc sống, trong lòng tôi ước ao lúc nào đó bàn về đổi mới ĐCSVN, sẽ có ai đó đưa ra đề nghị nhìn nhận lại lịch sử mất dân chủ trầm trọng diễn ra trong nội bộ đảng. Việc này cần làm để lấy lại sức chiến đấu của đảng.
Sự lựa chọn này của tôi dựa trên tinh thần khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, không hồi tố, thực hiện dân chủ để đoàn kết và hòa giải dân tộc; mọi người và mọi lực lượng chính trị của đất nước đều phải mang hết sức mình cống hiến cho sự nghiệp cải cách để phát triển đất nước. Có thể nói đây là nguyện vọng cháy bỏng của hầu hết những người Việt Nam có hiểu biết và quan tâm đến vận mệnh của đất nước, dù là sống trong nước hay ở nước ngoài. Gặp gỡ những người này, ai cũng nói rằng tối ưu với đất nước ta là từ chỗ đứng hiện nay, chắt chiu tất cả những gì đã làm được, thông qua cải cách chính trị để tìm đường cho đất nước đi tiếp, sẵn sàng khép lại quá khứ để đi tiếp. Đừng xóa đi làm lại từ đầu. Đừng phải đổ thêm máu nữa, bốn cuộc chiến tranh trong một nửa thế kỷ đối với đất nước ta là quá nhiều rồi!...
Quan trọng hơn nữa, tìm được mục tiêu của cải cách sao cho trong cải cách cũng như trong thành quả đạt được từng người dân yêu nước ai cũng thấy được mình. Một sự nghiệp cải cách như thế chẳng lẽ là không đáng? Một sự nghiệp cải cách như thế lý gì không thể thành công? Vì thế, dân chủ, đoàn kết, hòa giải dân tộc… không phải là những khái niệm trừu tượng, mà phải là những gì thấy được, cảm nhận được ngay trong quá trình tiến hành cải cách và trong mục tiêu đạt được.
Tóm lại, tình thế đất nước lựa chọn đảng cần chủ động đứng ra vận động cả nước tiến hành cải cách, giữ vai trò quyết định trong cuộc vận động này, dù rằng đảng phải phấn đấu rất quyết liệt mới có thể có được phẩm chất đảm nhận trách nhiệm này. Tôi lựa chọn như thế cho đảng.
Vâng, sự lựa chọn như vậy có thể là cuộc mạo hiểm cuối cùng của tôi. Vì ở tuổi tôi, ai mà biết được trò chơi của tạo hóa? Tôi không còn nhiều thời gian cho những hoài bão khác. Bây giờ làm được việc nào, biết chắc việc nấy.
Coi sự lựa chọn này là một mạo hiểm, vì đây là một lựa chọn rất khó đối với tôi: Cải cách sẽ phải đương đầu quyết liệt với quyền lực và đối mặt với không biết bao nhiêu vấn đề nan giải, đòi hỏi trí tuệ và nghị lực nhiều hơn là đấu tranh bằng bạo lực. Rồi còn những diễn biến không dễ chế ngự… Tôi không dám nói mình đã lường được mọi sự… Song có thể nói, tôi đang dành tất cả những gì mình nghĩ được cho cuộc mạo hiểm này. Vì đấy là ý nghĩ nung nấu trong tôi mấy thập kỷ nay: Phải đi theo con đường cải cách, còn nước còn tát!
Còn một lý do nữa, có lẽ là quan trọng nhất: Tôi lựa chọn cải cách, vì cái thiện trong cuộc sống, dù bị băm vằm như thế nào, vẫn là bất diệt, vẫn là bất khả kháng.
Hàng ngày, đi đâu hoặc lật trang báo, không ít thì nhiều tôi đụng phải những chuyện tím ruột tím gan. Vài tháng trước đây là những chuyện đại loại như dư luận viên dọa mất sổ hưu. Cách đây vài ngày là chuyện tổ chức nhảy đầm tại vườn hoa Lý Thái Tổ để phá rối những người biểu tình tưởng nhớ những hy sinh mất mát trong cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc, trong khi đó dư luận viên xa xả mắng những người đi biểu tình: Các người kích động chống Trung Quốc, sẽ không có hàng nhập khẩu, để kinh tế nước ta chóng sụp đổ, để các người dễ bề lật đổ chế độ có phải không?!.. Mới hôm qua thôi, một bạn già lão thành cách mạng của tôi có giấy của cơ quan đảng cấp trên đòi phải làm kiểm điểm về tội viết những bài được cho là chống đảng, và phải tự định mức kỷ luật trước đảng. Bạn của tôi bác lại, nói thẳng đảng này không phải là đảng ông giơ tay tuyên thệ khi gia nhập cách đây hơn một nửa thế kỷ!.. Cuộc sống còn vô vàn chuyện đau lòng khác nữa, những vụ tham nhũng động trời, những tội ác hình sự man rợ trong xã hội ngày càng nhiều…
Nhưng đi đến đâu tôi đồng thời cũng gặp không ít cái thiện đang lặng lẽ, bền bỉ dung dưỡng cuộc sống này, duy trì sự tồn tại của đất nước này – những nỗ lực im hơi lặng tiếng không cần ai biết đến của người dân, của người cán bộ, của đảng viên… Họ là số đông trong cuộc sống này. Tôi có cảm tưởng cuộc sống ác nghiệt này chẳng làm gì được họ!.. Trong tôi càng khao khát mong sao cái thiện âm thầm này phải sớm trở thành dòng chảy chính xoay chuyển cục diện đất nước, đưa đất nước sang trang mới.
Song đặt hy vọng bao nhiêu vào cải cách chính trị, tôi vẫn phải cảnh báo quyết liệt bấy nhiêu về cái mặt cố hữu cực kỳ nham hiểm và phản động của quyền lực. Cảnh báo chính mình và mọi người. Cải cách không dễ như chúng ta muốn. Quyền lực thường vô cảm với lẽ phải và không dễ nhường bước, mà thường là không tự giác nhường bước cho cải cách như chúng ta mong đợi. Thậm chí cải cách cũng phải đứng lên mà giành lấy, mà thực hiện. Dẫn chứng là gần ba thập kỷ đã qua kể từ khi tiến hành đổi mới kinh tế năm 1986, nhưng đến nay cải cách chính trị vẫn bị trì hoãn; đời sống chính trị trong nước cũng như của đảng nhiệm kỳ khóa đại hội XI hiện nay có nhiều bước thụt lùi hay xuống cấp nghiêm trọng so với khóa đại hội X, đại hội IX… Chưa nói đến, mọi vấn đề trong cuộc sống hiện nay của đất nước phải giải quyết đều vô cùng khó khăn phức tạp. Có những việc trong tình hình bình thường phải thận trọng một, trong khi tiến hành cải cách thì phải thận trọng hai, ba… Chúng ta không được lựa chọn, mà cuộc sống đưa ra đòi hỏi như thế.
Có câu hỏi: Đã thế, tại sao lại cứ phải dành cho ĐCSVN vai trò quyết định trong cuộc cải cách này?
Xin thưa:
Trước hết, đó là sự lựa chọn của tôi. Sau nữa, suy nghĩ nhiều mặt, tôi thấy cũng nên như vậy.
Trí tuệ thế giới đã tổng kết từ lâu rồi: Cải cách chính trị duy tân đất nước tiến hành từ trên xuống – nghĩa là từ giới cầm quyền, thậm chí từ cấp cao nhất của giới cầm quyền – thường là phương án tối ưu nhất.
Ngay ở nước ta, áp lực của đổi mới để xóa bỏ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu và bao cấp đến từ nhân dân, từ cuộc sống. Quá trình này lên bờ xuống ruộng hàng chục năm, với nhiều tổn thất cay đắng. Song chỉ một khi đổi mới trở thành quyết định của đại hội VI, bởi vì áp lực này không thể cưỡng lại được nữa, đổi mới đã thành công ngoạn mục.
Ai được gì, ai mất gì trong đổi mới vừa qua, đó là điều cả nước nên suy ngẫm, trước hết là ĐCSVN và các đảng viên. Có lẽ cũng nên đặt ra câu hỏi: Nếu không có đổi mới vừa qua, ĐCSVN hôm nay có còn không?..
Bây giờ, với tính cách là đảng duy nhất nắm quyền, nếu ĐCSVN chủ động đứng ra đảm nhận vai trò quyết định trong cải cách chính trị, xin hỏi còn gì đáng mong muốn hơn cho đất nước chúng ta trong điều kiện hiện nay?
Trong một kịch bản như thế, cải cách hầu như chắc chắn thành công. Thử hỏi, qua đó vị thế của ĐCSVN trong xã hội Việt Nam cũng như trong cộng đồng thế giới rồi đây sẽ như thế nào? Một Việt Nam thông qua cải cách để phát triển và đứng vững được trên đôi chân của mình sẽ được thiên hạ rồi đây đối xử ra sao? Có phải quỵ lụy và leo dây như hiện nay không?..
Song chẳng lẽ chỉ vì quyền lực trong đảng muốn ĐCSVN độc quyền nắm quyền, nhân danh bảo vệ chế độ của đảng và con đường định hướng xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng biến ĐCSVN thành trở lực số một của cải cách, thế là toàn thể đảng viên đành cam chịu, và cả đất nước này cũng đành cam chịu?.. Rồi tình trạng cam chịu như thế sẽ trụ được bao lâu?.. Tất cả các đảng viên cần thẳng thắn với câu hỏi này và có ý kiến của mình.
Như đã nói trên, trách nhiệm lịch sử, và cũng là nghĩa vụ ràng buộc phải trang trải nữa, đặt ĐCSVN vào vị thế phải chủ động nắm lấy vai trò quyết định trong sự nghiệp cải cách duy tân đất nước hiện nay. ĐCSVN hoàn toàn có thể làm được như vậy và thành công. Bởi vì ĐCSVN có bề dầy lịch sử và có lịch sử là người thầy luôn luôn cho đảng những bài học trung thực đáng học, lịch sử chứ không phải bất kỳ thứ chủ nghĩa nào. Cái gì chưa biết, lịch sử sẽ dậy. Cái gì quên, lịch sử nhắc nhở - mà lịch sử chẳng bao giờ quên điều gì. Nhưng trốn tránh lịch sử, sẽ phải trả giá. Nếu phản lại lịch sử, sớm muộn không tránh khỏi bị trừng phạt.
Nếu yêu nước, yêu dân, ĐCSVN nên coi việc nắm lấy vai trò quyết định này trong cải cách là cơ hội trả nợ ơn nghĩa sâu nặng của nhân dân, và qua đó tự đổi đời được chính mình.
Chữ tín các thế hệ tiền bối của đảng đã xây dựng nên nhưng thế hệ hiện nay hủy hoại, nắm lấy cơ hội này ĐCSVN hôm nay sẽ lấy lại được, sẽ làm lại được tất cả và tự mở ra cho mình con đường mãi mãi cùng đi với nhân dân.
Nếu ĐCSVN hôm nay không chủ động tiến hành cải cách, hoặc nếu không bằng mọi cách vận động được ĐCSVN hôm nay tham gia cải cách, khả năng cải cách trong hòa bình và ổn định hầu như không hiện thực. Đơn giản là quyền lực nếu không lựa chọn tự hành động trên con đường cải cách, nó chỉ còn lại khuynh hướng luôn luôn huy động bạo lực để tự vệ. Như thế xung đột xã hội chắc chắn xảy ra. Nếu kịch bản này xảy ra, sẽ rất nhiều đau khổ cho đất nước, nghĩa là cái gì phải đến sẽ đến. Điều này càng làm rõ: Chủ động tiến hành cải cách là phương án tối ưu nhất cho đất nước và cho mọi bên hữu quan, trong đó thực hiện dân chủ để khép lại quá khứ theo tinh thần đoàn kết hòa giải dân tộc là chìa khóa.
Thảo luận công khai trong đảng và trong cả nước, chắc chắn lẽ phải sẽ thắng, làm nên cái được chung rất lớn cho cải cách, đồng thời giảm thiểu được cái giá phải trả của tất cả các bên hữu quan.
Vai trò quyết định ở đây dành cho ĐCSVN trước hết được hiểu là: Đảng dựa vào ý chí và nguyện vọng của nhân dân chủ xướng cải cách, huy động mọi trí tuệ và thúc đẩy mọi nỗ lực của nhân dân cả nước cho tiến hành cải cách, giữ gìn cho cải cách được tiến hành trong hòa bình, trật tự và ổn định. Thật ra nội dung này chính là những việc chính quyền của tổng thống Thein Sein – Myanmar kể từ khi lên cầm quyền đã và đang thực hiện trong một kế hoạch tổng thể, với các thời gian biểu được tính toán cẩn trọng cho từng bước đi nhỏ trong những lĩnh vực khác nhau.[3] Cũng phải nói thêm, dân trí và chất lượng áp lực đòi hỏi cải cách đến đâu, thành quả đạt được đến đấy, chẳng có cái gì được thiện chí cho không hoặc tự rụng xuống từ trên trời. Sự chủ động tiến hành cải cách của chính quyền Thein Sein đã kết thúc được trong hòa bình chế độ quân phiệt 20 năm đẫm máu ở Myanmar, đột phá được những bước cải cách đầu tiên ngoạn mục trên con đường trường chinh vạn dặm vì dân chủ và phát triển.
Một khi ĐCSVN dứt khoát khước từ vai trò quyết định lẽ ra cần nắm lấy này, đương nhiên đảng sẽ tự diễn biến mình từ đảng tiền phong chiến đấu (như ghi trong cương lĩnh) trở thành một lực lượng chính trị lớn nhất hiện nay độc quyền cai trị đất nước. Một khi đảng chỉ còn là một lực lượng chính trị như thế, hiện tượng này tự nó sẽ dấy lên trong xã hội những lực lượng đối kháng. Đảng đã chẳng từng dậy cho đảng viên của mình “có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức” là gì!?
Thực tiễn cuộc sống hàng ngày cũng đang cho thấy: Vai trò lãnh đạo của đảng càng bị diễn biến và thay thế bằng cai trị bao nhiêu, thì quá trình phân hóa xã hội nước ta thành các lực lượng đối kháng khác nhau càng trở nên quyết liệt bấy nhiêu. Con đường dẫn tới các cuộc bể dâu vừa qua ở các nước Bắc Phi và một số nước khác chính là con đường đi qua cuộc sống hàng ngày như vậy đó. Cho nên, cải cách chính trị thật sự là con đường sống của đảng. Cứ đem ra thảo luận thẳng thắn trong đảng điều này, đúng sai sẽ vỡ nhẽ.
Hỏi: Đảng muốn cải cách lắm, nhưng vì sinh sôi nhiều dây mơ rễ má quá, đa mang đèo bòng nhiều quá, bây giờ có muốn cũng không làm nổi thì sao?
Đáp: Thì dân giúp đảng, giúp được đấy. Giúp cho đến khi thành công mới thôi. Kể từ khi thành lập năm 1930 dân đã chẳng bao phen cứu sống đảng là gì?! Chẳng những cứu, mà không dưới một lần còn đem xương máu mình ra bảo vệ nữa!.. Lần gần đây nhất dân cứu sống đảng là công cuộc đổi mới thời đại hội VI. Ngày nay, đảng còn muốn đi với dân, thì dân còn cứu được. Dựa vào dân, đảng cũng sẽ tự cải tạo được chính mình.
Hỏi: Giả định rằng dành cho vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định như thế trong tiến hành cải cách, nhưng nếu ĐCSVN hôm nay trước sau không muốn nhận, lần này quyết không nhận và chống lại thì làm sao?
Đáp: Hỏi như thế, cũng có nghĩa câu trả lời đã rõ ràng. Người Việt nào không thuộc câu nói của Nguyễn Trãi?
Lời kết: Công dã tràng?
Đã bao nhiêu lần tôi nói, viết góp ý cho các đại hội đảng, nhưng công cốc, không bao giờ có hồi âm. Các bài viết khác, các thư riêng về vấn đề này vấn đề nọ cũng vậy.
Nhưng không sao. Nước Việt Nam chúng ta là của tất cả mọi người Việt Nam chúng ta, lo gì. Ai đó trong đảng không muốn nghe, không muốn đọc, thì người Việt Nam khác nghe, người Việt Nam khác đọc, trong đảng hoặc ngoài đảng. Lẽ phải cần phải được chia sẻ, kiểm định. Sự lựa chọn của tôi như đã trình bày trong bài này có thể đúng, có thể sai, có những điểm đúng, có những điểm sai…Thiết nghĩ trao đổi với nhau như thế, sẽ càng nhiều người quan tâm, suy nghĩ về vận mệnh của đất nước, chúng ta sẽ càng rộng đường dư luận... Như thế, các ý kiến sẽ ngày càng được gạn đục khơi trong, và càng trở nên đúng đắn hơn. Thời gian quý vô giá, mỗi ngày chúng ta cố trao đổi với nhau một thông tin, một ý kiến, chí ít là góp vào thôi thúc sự quan tâm đến vận mệnh đất nước… Được như thế, âu cũng là sự chuẩn bị thiết thực cho thái độ của chúng ta đối với những gì xảy ra, sẽ xảy ra. Nghĩ như vậy tôi không nản lòng, mà chỉ lo ý kiến của mình còn nghèo nàn.
Tôi cố không nuối tiếc công dạ tràng.
Hà Nội ngày 25-02-2014
Nguyễn Trung
Bài 3 (kế tiếp): “Vượt qua khúc quanh của lịch sử”
______________________
[1] viet-studies.info 12-02-2014, được bổ sung ngày 17-02-2014: http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ChuTin.htm và http://nguyentrung-vt.blogspot.com
[2] Cuốn sách đã dịch sang tiếng Việt rất đáng tham khảo gần đây cho chủ đề này là cuốn “Vì sao các quốc gia thất bại – nguồn gốc của quyền lực, sự thịnh vượng và nghèo khó” của Daron Acemoglu và James A. Robinson, NXB TRẺ, TPHCM 2013.
[3] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Câu chuyện Myanmar”, http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CauChuyenMyanmar.htm và http://nguyentrung-vt.blogspot.com
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 5-4-14
THỦ PHẠM GIẾT SỐNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM !
Danquyen
Nguyễn Đăng QuangCách đây 23 năm ( tháng 2-1991), trên đường công tác, ghé vào nghỉ tại Nhà khách của Sứ quán ta, tôi được các đồng chí ở Sứ quán đưa cho đọc một phụ bản của nguyệt san ĐOÀN KẾT, tờ báo của Hội người Việt Nam (Việt kiều) tại Cộng hòa Pháp, số 420 ra tháng 1-1991. Tôi rất chú ý đến một bài viết của tác giả Thái Như có tựa đề bằng phiên âm Hán-Việt. Đầu đề bài viết nguyên văn như sau : ” Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục”. Tác giả Thái Như giải thích câu đó có nghĩa là “Chỉ có loài sâu trong thân con sư tử mới ăn được thịt của con sư tử !” Sau đó tác giả dẫn giải sư tử là chúa tể rừng xanh ,một tiếng gầm của nó làm muôn thú run sợ, nói chi đến việc dám lại gần nó, dám mó đến người nó hay dám…ăn thịt nó ! Đó là những con sư tử khỏe mạnh và như thế nó là vô địch! Ngược lại nếu có loài sâu bọ (trùng) ẩn nấp trong người nó,đục khoét dần xương tủy nó thì sao ? Tác giả liền đi đến kết luận :”Đương nhiên, điều không thể tránh khỏi là con sư tử đó sẽ ngã quỵ một khi những con sâu trong người nó ngày một nhiều và lớn mạnh!”
Rồi tác giả liên hệ, về thăm quê nhà,đi bất cứ đâu,vào bất kể một hội trường nào,mọi người đều thấy có những khẩu hiệu: “Chủ nghĩa Marx-Lenine vô địch muôn năm!”, “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!” v.v… làm mọi người liên tưởng đến sự vô địch của con sư tử! Vâng,nó vô địch thật nếu nó không bị sâu bọ đục khoét !
Sau đó tác giả đưa ra nhận xét: “Tình hình Việt Nam ta khó có thể xảy ra những sự kiện như ở Liên Sô cũ hoặc các nước XHCN Đông Âu,song có những vấn đề thì nguy hiểm không kém! Đó là những con sâu vô cùng khủng khiếp đang đục khoét con sư tử!”. Để chứng minh, tác giả liệt kê :
- Chúng ta đã thấy một con sâu thật lớn : Đại tá Giám đốc Công an Đồng Nai bị tử hình vì bán bãi, tham ô cả ngàn lạng vàng.
- Chúng ta thấy cả một “nhóm sâu có tổ chức”: Cả một băng cán bộ đảng viên cao cấp toa rập, ăn cắp một cách quy mô vật tư cảng Sài gòn.
- Chúng ta đã thấy những con sâu thật khủng khiếp : Đốt kho cảng Hải Phòng để phi tang sự đục khoét của chúng.
- Và nay những con sâu “không có tên gì để gọi” đã ngang nhiên đốt cả Imexco Sài gòn !
Rồi còn biết bao con sâu bự khác như kiểu Hà Trọng Hòa đang lúc nhúc ?
Phần cuối bài viết, tác giả thốt lên : “Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục” là như thế và những con sâu ấy hiện đã quá to, quá mạnh ! Kết thúc bài viết, tác giả gióng lên câu hỏi cảnh báo : Liệu có thuốc chữa không và có chịu chữa hay không ? Hay là con sư tử luôn luôn ngạo nghễ gào lên “Ta là vô địch!”, “Ta là bất tử!”, “Ta là đỉnh cao trí tuệ!” trong lúc sâu nhặng đã tràn đầy cơ thể nó ??.
Bài viết trên của nhà báo Thái Như rất sâu sắc và chí lý ! Và cho đến nay sau hơn 23 năm nó vẫn còn nguyên tính thời sự nóng hổi ! Thiện ý của bài viết thì rất rõ và đầy tính xây dựng: Tác giả Thái Như muốn gửi đến Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta một thông điệp rõ ràng cùng mong ước thiết tha của một người con đất Việt là “Đảng hãy tự chỉnh đốn mình,làm trong sạch đội ngũ lãnh đạo và đảng viên của mình,loại bỏ những ung nhọt trong cơ thể Đảng để đồng hành cùng toàn dân tộc đưa đất nước đi lên !”
Vâng, kể từ khi nhà báo Thái Như gửi đến Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta thông điệp nói trên đến nay đã trên 23 năm, và trong 23 năm đó Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 5 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc. Tại mỗi kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt nam đều nêu lên những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, trong đó có nguy cơ tham nhũng, và đều nêu quyết tâm diệt trừ tận gốc tệ nạn này! Song quái lạ, nguy cơ này không những không bị trừ diệt mà ngược lại, cứ qua mỗi kỳ Đại hội, nó càng ngày càng phát triển, càng mạnh thêm lên, cả về quy mô cũng như về số lượng ! Và nguy hiểm hơn, nó không chỉ xảy ra trong lĩnh vực vật chất mà nó lan sang cả nhiều lĩnh vực khác, như đạo đức, lối sống, tư tưởng, quyền lực,v.v… nữa ! Bây giờ không chỉ là những con sâu đơn lẻ hoặc một nhóm vài ba con sâu như thời kỳ cuối những năm 1980′s hay đầu 1990′s mà nay nó đã phát triển và lớn mạnh thành những đàn sâu,bầy sâu, thậm chí cả “tập đoàn” sâu rồi !
Có thể khẳng định gần như100% bọn sâu mọt tham nhũng đều là những cán bộ,đảng viên có chức, có quyền. Người dân thường không thể tham nhũng và nếu có ai đó muốn làm điều đó cũng đâu có dễ? Và tuyệt đại đa số những vụ tham nhũng bị lôi ra ánh sáng là do người dân và báo chí phát hiện, phanh phui và tố cáo. Còn những vụ do các cơ quan chức năng như kiểm tra,thanh tra và điều tra khui ra thì rất it, có thể đếm trên đầu ngón tay. Nhiều người khẳng định rằng những con sâu bị lộ so với những con sâu chưa bị lộ cũng giống như mẩu băng nổi của tảng băng chìm ! (Có lẽ,vì thế mà có câu nói: “Kính thưa đồng chí đã bị lộ! Kính thưa các đồng chí chưa bị lộ!”.)
Khó có thể thống kê đầy đủ những con sâu to nhỏ đã được “ bạch hóa” từ trước cho đến nay. Người viết bài này chỉ xin điểm qua một số con sâu”tiêu biểu” đã bị lộ diện trong vòng hơn 10 năm vừa rồi qua một vụ án sau đây:
- Trương Văn Cam (Năm Cam) -một tên mafia cộm cán,đứng đầu một băng xã hội đen khét tiếng ở đất Sài thành, tung hoành trong nhiều năm dài,gây bao kinh hoàng cho người dân và chính quyền TP HCM- bị bắt và kết án tử hình tháng 9-2003. Năm Cam có một câu nói nổi tiếng mà hắn coi là kim chỉ nam hành động mỗi khi bọn chúng giao dịch với quan chức các cơ quan công quyền,đó là “Cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất,rất nhiều tiền !” Trong vụ án này hàng loạt cán bộ, đảng viên cao cấp bị bắt giam và lĩnh án ,trong đó có Trần Mai Hạnh,nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài phát thanh TNVN, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam bị 9 năm tù giam; Phạm Sỹ Chiến,nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao bị 6 năm tù giam; Bùi Quốc Huy,nguyên Ủy viên Trung ương Đảng,Trung tướng,Thứ trưởng Bộ Công an bị 4 năm tù giam về các tội nhận hối lộ, bao che,bảo kê… cho Năm Cam và đồng bọn.
- Lương Quốc Dũng: Tại phiên tòa ngày 29-10-2004 Dũng bị kết án 8 năm tù về “tội
hiếp dâm trẻ em”. Khi phạm tội Lương Quốc Dũng đang là Phó Chủ nhiệm Ủy ban TD-TT
Trung ương. Dũng có nhờ một phụ nữ môi giới,tìm một bé gái 13 tuổi đưa đến khách sạn cho y quan hệ tình dục để “phá trinh giải đen”. Tuy sau đó Dũng đã tự nguyện bỏ ra 68.000 đô la Mỹ để gia đình người bị hại xin bãi nại, nhưng Tòa không chấp nhận.
- Lã Thị Kim Oanh: Tại phiên phúc thẩm ngày 5-4-2004 tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội ,Lã Thị Kim Oanh ,nguyên Giám đốc Công ty Tiếp thị và Thương mại của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bị tuyên án tử hình (sau được Chủ tịch nước ân giảm xuống chung thân) vì đã cùng đồng bọn tham ô và làm thất thoát gần 150 tỷ đồng của nhà nước. Trong vụ án này còn có 2 Vụ trưởng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bị tuyên án 3 và 4 năm tù giam, cùng 2 vị Thứ trưởng của Bộ này(trong đó có 1 vị là Thứ trưởng thường trực) bị tuyên phạt 2 và 4 năm tù nhưng cho hưởng án treo.
Vụ PMU 18: Đầu tháng 1-2006, Bùi Tiến Dũng,Tổng Giám đốc Ban Quản lý các Dự
án 18 (PMU18) bị bắt và bị cáo buộc đã đem hàng chục tỷ đồng mà y tham ô từ công quỹ
để đi bao gái,hối lộ và đánh bạc.Riêng số tiền mà Dũng cá độ bóng đá lên tới 1,8 triệu
Đô la Mỹ. Liên quan đến vụ án này,Thứ trưởng thường trực Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Việt Tiến bị bắt giam và Bộ trưởng Đào Đình Bình buộc phải từ chức. Ngày 21-8-2007,Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội tuyên phạt Bùi Tiến Dũng 13 năm tù giam. Bảy cán bộ liên quan khác bị kết án từ 3 đến 9 năm tù giam. Vụ này không chỉ gây xôn xao dư luận tại Việt Nam mà khiến cho các quốc gia và các Tổ chức quốc tế cung cấp viện trợ chính thức(ODA) cho Việt Nam nghi ngại.
-Vụ Mai Văn Dâu: Ngày 18-11-2004,Thứ trưởng thường trực Bộ Thương mại (nay là
Bộ Công thương) Mai Văn Dâu bị bắt giam .Trước đó con trai ông là Mai Thanh Hải,
chuyên viên Vụ Xuất Nhập khẩu và 2 cán bộ cấp Vụ khác của Bộ Thương mại…cũng bị bắt.Sau đó,nguyên Thứ trưởng Mai Văn Dâu và đồng bọn bị truy tố về các tội nhận hối lộ, đưa hối lộ ,môi giới hối lộ ;lợi dung chức vụ,quyền hạn trong khi thi hành công vụ;lừa đảo chiếm đoạt tài sản;làm giả tài liệu của cơ quan,tổ chức. Ngày 20-6-2007,Tòa án Nhân dân Tối cao tại TP Hồ Chí Minh tuyên phạt Mai Văn Dâu 12 năm tù giam, Mai Thanh Hải 5 năm tù giam,Lê Văn Thắng(nguyên Vụ phó Vụ Xuất Nhập khẩu)17 năm tù giam.Các bị cáo còn lại bị tuyên từ 3 cho đến 12 năm tù giam.
-Vụ Đề án 112
Vụ PCI-Huỳnh Ngọc Sỹ
-Vụ Vinashins
-Vụ Vinalines
-Vụ Tiên Lãng
-Vụ Văn Giang
-Vụ quan đánh cờ bạc tỷ ở Sóc Trăng
-Vụ nhân bản xét nghiệm ở Hoài Đức
-Vụ lương khùng 2,6 tỷ
-Vụ Sầm Đức Xương-Nguyễn Trường Tô
- Hồ Xuân Mãn: Ngày 21-8-2010, Hồ Xuân Mãn (lúc đó đang là đương kim Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế) do khai man ,mạo nhận, gian dối và “chạy” thành tích nên được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân”. Ngày 2-1-2014 vừa qua, Ban Bí thư Trung ương Đảng, sau gần một năm thẩm tra,xem xét các tố cáo của người dân và của các CCB, đã ra quyết định đề nghị Nhà nước tước bỏ danh hiệu trên và thu hồi hiện vật,tiền thưởng đối với Hồ Xuân Mân,nhưng chưa đưa ra bất cứ hình thức kỷ luật đảng nào vì đương sự đang ốm đau,bệnh tật! Trước đó,năm 2009, Hồ Xuân Mãn còn được tuyên dương là 1 trong 3 Bí thư Tỉnh ủy tiêu biểu của toàn quốc đã gương mẫu trong phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Ấy là chưa nói đến một “thành tích” nữa là trong 2 nhiệm kỳ tại vị ở chức “Vua đất cố đô”,ông ta còn được người dân quê hương phong tặng thêm một danh hiệu nữa là “vua dê gái”!
(Không rõ trong hàng ngũ của Đảng ta hiện nay có bao nhiêu cán bộ lãnh đạo có chức vụ bằng hoặc cao hơn ông Hồ Xuân Mãn mà ”thành tích” không thua kém gì ông này nhưng chưa bị lộ không? Hẳn là không ít ! Không rõ các quý vị này- sau khi nghiêm túc nghiên cứu,quán triệt NQ4 của Trung ương Khóa XI- có vị nào dám dũng cảm và tự giác giơ cao tay thú nhận không ?)
Trước khi bị bắt và bị truy tố theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự, nhà báo Trương Duy Nhất có một bài báo góp ý với Lãnh đạo Đảng về công tác “xây dựng,chỉnh đốn đảng”,sau khi Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 4.Bài báo lấy đầu đề là “ Trị Đảng” có nội dung phê phán mạnh mẽ,sắc sảo và kịp thời,nói “trúng phóc” nhiều căn bệnh của Đảng nhưng không phải là không có tinh thần xây dựng,càng không phải là chống Đảng,chỉ có điều tác giả tỏ ra bi quan,không nhìn thấy hy vọng nào vào Đảng .( Bài này không thấy Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao liệt kê trong Cáo trạng ngày 17-12-2013 để truy tố nhà báo-blogger nổi tiếng nói trên về tội ”Lợi dung các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền,lợi ích hợp pháp của tổ chức,cá nhân”. Cũng như đa số những người theo dõi và hiểu biết về vụ này, cá nhân tôi tin rằng blogger Trương Duy Nhất không vi phạm luật pháp và không có tội !). Trở lại bài báo “Trị Đảng”, sau khi trích dẫn câu nói của Giang Trạch Dân khi còn đương chức “muốn trị quốc phải trị đảng”, nhà báo Trương Duy Nhất viết : “Hồi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nghe nói ”nhà dột từ nóc”.Đến giờ,hình như “cái nhà” ấy không những dột từ nóc mà “dột nhiều chỗ khác nữa”.”Dột nhiều chỗ khác”là cách nói của cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu,chứ thực ra không phải dột mà nhiều chỗ đã thực sự…mục nát rôi !”
Học giả LÊ QUÝ ĐÔN (1726-1784)-nhà thơ đồng thời là nhà bác học nổi tiếng của Việt Nam thời kỳ Hậu Lê, người sống cách chúng ta gần 3 thế kỷ - đã nêu lên 5 hiện tượng xã hội là nguyên nhân dẫn đến đất nước lụn bại và làm chế độ suy vong. Đó là:
- Trẻ không kính già
-Trò không trọng thày
-Binh kiêu,tướng thoái
-Tham nhũng tràn lan
-Sỹ phu ngoảnh mặt
Đối chiếu vào tình hình xã hội và đất nước ta hiện nay,chúng ta có thể thấy tất cả 5 hiện tượng trên đều hiện diện một cách phổ biến ở khắp nơi (có thể nói ở hầu hết các bộ,ngành trung ương cho đến tất cả 63 tỉnh,thành trên trên toàn quốc) tuy rằng ở mức độ mỗi nơi có khác nhau,song trong số 5 hiện tượng này thì hiện tượng tham nhũng là rõ ràng nhất,cấp bách nhất và nguy hiểm nhất !. Vâng, tham nhũng đã tràn lan,tham nhũng đã rất trầm trọng ! Lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng đã ý thức được nguy cơ này, đã nêu quyết tâm và cũng đã đã đề ra nhiều biện pháp diệt bọn sâu tham nhũng này,song chưa đi đến kết quả như người dân mong đợi!
Người viết bài này trong thời gian 25 năm qua đã rất hy vọng và tin tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự thấy vấn đề và cũng thật sự muốn diệt trừ tham nhũng,nhưng thực tiễn và kết quả lại chứng minh điều ngược lại. Từ năm 1989 đến nay, Đảng đã qua 5 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc (1991,1996,2001,2006 và 2011),nhưng tệ nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng,và đặc biệt từ sau Đại hội IX cho tới nay căn bệnh này mỗi ngày mỗi nghiêm trọng và nó đã trở thành quốc nạn !
Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã cảnh báo : “Tham nhũng đang đe dọa chế độ!”
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bức súc: “Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh,nay thì nhiều con sâu lắm.Nghe mà thấy xấu hổ,không nhẽ cứ để hoài như vậy.Mai kia người ta nói một bầy sâu,tất cả là sâu hết thì đâu có được.Một con sâu đã nguy hiểm rồi,một bầy sâu là “chết” cái đất nước này!”
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thật thà: “Không tham nhũng lấy đâu tiền chạy chức”.
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan thổ lộ: “Bây giờ người ta ăn của dân không từ một cái gì.”
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng quyết liệt: “Đảng và Nhà nước không hề chùn tay mà đã kiên quyết xử lý tham nhũng…”
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng than thở: “Cái gì cũng phải tiền,không tiền không trôi,như ngứa ghẻ phải gãi rất khó chụi” và “Còn quyền lực là còn tham nhũng”…
Tháng1-2012, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành NQTW4 về ” Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
đã nhận định:” Một bộ phận không nhỏ cán bộ,đảng viên-trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,quản lý,kể cả một số cán bộ cao cấp-suy thoái về chính trị,đạo đức,lối sống…”
Về vấn nạn bằng giả và tệ nạn chạy chức,chạy quyền,Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phạm Vũ Luận thừa nhận: bằng giả hoặc bằng thật nhưng học giả chỉ có thể chui vào được các cơ quan nhà nước chứ không thể chui được vào các công ty tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài.)
Kết: Trong vòng 25-30 năm qua,vấn nạn tham ô,tham nhũng ngày càng trầm trọng trong xã hội ta và nó đã trở thành quốc nạn. Bọn sâu bọ ngày một đông,ngày một mạnh và đã trở thành bầy đàn! Nó như căn bệnh ung thư đã di căn tới nhiều bộ phận của cơ thể con sư tử. Nếu Đảng ta không quyết tâm chữa trị, không dũng cảm cắt bỏ những bộ phận cơ thể đã thối muỗng thì quốc nạn tham nhũng này,đến một lúc nào đó sẽ là kết cục- như nhà báo Thái Như đã cảnh báo-”Đương nhiên điều không tránh khỏi là con sư tử đó sẽ ngã quỵ một khi những con sâu trong cơ thể nó ngày một nhiều và lớn mạnh” ! Vâng, nếu Đảng ta không quyết tâm diệt trừ (giết chết) bọn sâu bọ tham nhũng thì chính bọn này,một ngày nào đó, sẽ là thủ phạm “giết sống” Đảng Cộng sảnViêt Nam!
Mong Đảng hãy quyết liệt và nhanh chóng hành động trước khi quá muộn !
Lật ngược vụ án Trương Duy Nhất
Trị đảng
...cc: Bài này của Trương duy Nhất viết từ 2012, không có tên trong danh sách “cáo trạng”
Trên mạng vào bài này “có ma”- Mối lần thao tác trên bài naỳ nó nhaỷ ra liên tục như sau Bà con lưu ý
Yêu cầu xác minh :Tên đăng nhập và mật khẩu đang được yêu cầu bởi http://truongduynhat.vn. Trang web báo: “Password” => Tốt nhất là bà con đừng vào kẻo dính bug vì trang này h chắc chắn đã bị hack từ lâu rồi!
Quảng Ngãi Nghĩa thục
Viết bởi truongduynhat Đăng lúc 0:00 am03 January 2012
Tôi muốn dùng chữ “trị”, trị đảng chứ không phải “xây dựng chỉnh đốn”. Ông Giang Trạch Dân khi đương chức Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Trung Quốc cũng đã nói “muốn trị quốc phải trị đảng”.
Hội nghị 4 vừa kết thúc. Chuyện nóng của hội nghị này là… bàn lại vấn đề “xây dựng chỉnh đốn” đảng. Nói “bàn lại” bởi việc “xây dựng chỉnh đốn” trong đảng đã được bàn từ rất lâu, mấy nhiệm kỳ rồi nhưng vẫn chưa vào đâu, thậm chí càng chỉnh càng xộc xệch thêm.
Hồi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nghe nói “nhà dột từ nóc”. Đến giờ, hình như “cái nhà” ấy không những dột từ nóc mà “dột nhiều chỗ khác nữa”. “Dột nhiều chỗ khác”
là cách nói của cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, chứ thật ra không phải
dột mà nhiều chỗ đã thật sự… mục nát rồi. Đến như Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang cũng phải thốt lên “Trước chỉ có một con sâu làm rầu nồi canh. Nay thì nhiều sâu lắm!”. Còn ông Trọng Tổng Bí thư thì phải thừa nhận rằng “chỉnh đốn đảng vì sự tồn vong của chế độ”.
Đảng bây giờ không chỉ xộc xệch, ông Phiêu nói thẳng: đảng có những cái đang hư hỏng và “bản thân đang có bệnh”. Trọng bệnh. Bởi thế ông Phiêu muốn đợt “chỉnh đốn” đảng lần này phải như “không khí chuẩn bị ra trận, tổ chức một chiến dịch như là tổng tiến công”.
Hư hỏng thì chỉnh đốn, nhưng đã bệnh rồi
thì phải trị. Ông Giang Trạch Dân khi đương chức Tổng Bí thư kiêm Chủ
tịch Trung Quốc đã dõng dạc rằng “muốn trị quốc phải trị đảng”. Tôi muốn dùng chữ “trị” này, trị đảng chứ không phải “xây dựng chỉnh đốn”.
Ở những quốc gia có chế độ đa đảng, sức ép
cạnh tranh từ các đảng phái đối lập luôn buộc họ phải tự đổi mới, tự
chỉnh đốn. Việt Nam độc đảng, không cạnh tranh, không có thế đối trọng,
thì việc “trị” đảng, chữa bệnh cho đảng phải dựa vào dân.
Bài trả lời của cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trên báo Tuổi Trẻ về “xây dựng chỉnh đốn đảng” được dư luận quan tâm. Tuy nhiên, ông cũng chỉ nói đúng thực trạng, bắt đúng con bệnh của đảng (mà cũng chỉ nhìn ra và nói đúng khi đã nghỉ hưu), còn cách “trị” vẫn đưa phương thuốc cũ. Cách tự kiểm điểm, “tự soi mình” của ông Phiêu thì rồi cũng luẩn quẩn như kiểu đánh trống phong trào, chứ không mong có sự thay chuyển nào.
Bản thân mình thì khó nhìn thấy mình, nhất
là những khuyết điểm, bệnh tật, đặc biệt là những khuyết tật đó lại nằm
phía… sau lưng. Muốn nhìn thấy, muốn trị bệnh thì phải nhờ vào người
khác chứ tự thân đảng không thể chữa trị cho mình được.
Ai là bác sĩ cho đảng? Không ai khác đó
chính là dân. Dựa vào dân, nhờ dân chỉnh đốn đảng chứ bản thân đảng
không thể tự chỉnh đốn mình được, nhất là với thể chế độc đảng như Việt
Nam hiện nay.
Cũng đã có lý do đưa ra: sợ làm mạnh quá sẽ đi đến tình trạng đấu tố như hồi cải cách, sợ “kè thù” lợi dụng, sợ có bộ phận “ngoài đảng”
làm bậy… Thực tế, sai lầm thời cải cách ruộng đất là lỗi ở đảng chứ đâu
phải kẻ thù, đâu phải ở dân. Hơn nữa, nếu đảng thật sự công minh chính
trực, đảng trong sáng thì sợ gì chuyện “đấu tố”? “Dân sinh thành ra đảng, dân là cha mẹ của đảng”. Vì thế tôi tin dân không bao giờ hại đảng, phản đảng.
Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nghe nhiều người khen. Nhưng tôi không nhìn thấy hi vọng nào.
“Trung ương đặc biệt nhấn mạnh, muốn có
được sức mạnh và uy tín thì đảng phải tự rèn luyện, tự củng cố, đổi
mới, chỉnh đốn; không ai có thể làm thay được” (lời ông Trọng). Tôi nghĩ khác, đảng khó (thậm chí là không thể) tự “chỉnh đốn”
được mình. Thực tế bao nhiệm kỳ rồi vẫn thế, có chỉnh đốn được gì đâu,
nếu không muốn nói là càng chỉnh càng xộc xệch. Ngay chính câu chuyện về
cụ Hồ mà ông Trọng nhắc cũng nói lên điều này: “Có lần Bác nói:
“Tôi làm điều xấu, các đồng chí trông thấy, phải phê bình cho tôi sửa
chữa ngay. Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại
lấy cớ “nể Cụ” không nói là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không
quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói
cho người ta sửa, tức là hại người ta“.
Vết nhọ trong đảng không nhờ dân phát hiện
thì không thể chùi được. Nói như cụ Hồ, nhọ trên trán đã khó chùi, huống
chi nhọ trong óc.
Khẳng định công tác xây dựng chỉnh đốn đảng
là cấp bách, là vấn đề sống còn của đảng và chế độ, nhưng lại không
hoạch định được thời gian nào, đến nhiệm kỳ nào, 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa… sẽ chùi sạch nhọ, chữa khỏi bệnh cho đảng? Bao giờ thì
thực hiện xong cái “nhiệm vụ cấp bách, sống còn” này? Tại sao đảng không dám đặt ra một mục tiêu cụ thể về thời gian cho mình?
Chữa bệnh khác với việc đánh răng vệ sinh thường nhật. Trọng bệnh mà vẫn thủng thẳng “kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục; làm đi làm lại nhiều lần như đánh răng, rửa mặt, quét nhà, rửa bát hằng ngày”?
Khối u ác tính cần lập tức cắt bỏ, cho thuốc xạ trị, hóa trị mạnh, chứ
không thể chỉ chà cọ đánh răng, chùi rửa hết ngày này sang tháng nọ.
Thủng thẳng “chùi rửa” thế thì nó di căn đến hủy hoại đảng mất!
Muốn trị quốc phải trị đảng. Muốn trị đảng phải dựa vào dân! Đã trọng bệnh, không thể nằm đó mà tự “chùi rửa” cho mình được. Chỉ có dân mới có thể làm sạch đảng. Chỉ có “bác sĩ” dân mới trị được căn bệnh trầm kha trong đảng. Còn nếu đảng cứ tự “xây dựng chỉnh đốn” mãi, tự “đánh răng chùi rửa” mãi, thì không mong gì khỏi bệnh để… vững mạnh được!
Cầu Long Biên – bản đàn trong yên lặng
Với những người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội như tôi, cầu Long Biên là
một bản đàn trong yên lặng nhưng luôn réo rắt trong tâm hồn. Nó là ký
ức tập thể của cộng đồng người Hà Nội. Không có gì khắc sâu trong tâm
trí người Hà Nội suốt 100 năm qua bằng hình ảnh cây cầu dài nhấp nhô như
con rồng thép khổng lồ bay qua song Hồng suốt bốn mùa xuân hạ thu đông…
Hỏi một người Hà Nội đi xa: Anh nhớ nhất cái gì ở Hà Nội? Trả lời: Hình ảnh cây cầu Long Biên. Hỏi một nhà nghiên cứu lịch sử: “Vật chứng” các biến cố của Hà Nội suốt trăm năm qua? Trả lời: Cây cầu Long Biên. Hỏi một anh cán bộ miền Nam, nói đúng hơn là cậu học sinh miền Nam theo cha mẹ đi tập kết ra Bắc sau năm 1954, bây giờ đã là một ông già ngoài 70 tuổi sống ở Sài Gòn: Ông nhớ nhất cái gì ở Hà Nội? Trả lời: Cầu Long Biên! Ông đã kể: Tháng ngày đi học cuốc bộ từ Gia Lâm qua cầu Long Biên sang Hà Nội rồi lại về, ông đã đếm được mấy vạn cái đinh bù-loong trên cây cầu sắt này. Đếm để quên quãng cầu dài, quên bụng đói… Con số mấy vạn cái đinh bù-loong ấy theo ông suốt cả đời (!).
Chỉ sau hai tháng nhận chức (tháng 02/1897) toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã đặt bút phê chuẩn dự án cầu Doumer tức cầu Long Biên ngày nay.
Ngày 13-09-1898 hãng thiết kế thi công Daydé – Pillé khởi công xây cầu. Theo thiết kế, cầu có chiều dài 3500 m, trừ hai trụ cầu bờ Bắc và Nam, cầu có 17 trụ cầu chôn sâu dưới lòng sông 30 mét, móng nổi từ mặt nước đến mặt cầu là 44 m đảm bảo tàu bè qua lại khi nước sông lên đến 13,5 m . Chín khung dầm sắt khổng lồ nối 19 nhịp lớn với nhau, mỗi khung dài 61 m. Cầu rộng 30,6 mét, có một đường tàu hỏa ở giữa và hai đường bộ hai bên. Đến năm 1921 cầu được mở rộng thêm 2,6 m cho các loại ô tô và 0,8 m cho người đi bộ hai bên.
Sau 4 năm thi công, 8 giờ 35 phút ngày 28/2/1902 cầu được khánh thành. Sáng hôm đó, chuyến tàu hỏa khởi hành từ ga Hàng Cỏ với 8 toa, có hai toa dành riêng cho vua Thành Thái và toàn quyền Doumer, 6 toa còn lại chở các quan khách, trong đó có cả vua Malayxia, đại diện triều đình Mãn Thanh… từ từ vượt sông Hồng. Thời điểm đó, Long Biên là một trong những cây cầu đẹp nhất thế giới.
Từ thời khắc đó cầu Long Biên trở thành “vật chứng” lịch sử của Hà Nội.
Ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, ở chân cầu Long Biên tự vệ bãi Phúc Xá đã cho nổ bom chặn đường tiếp tế của địch từ phía Gia Lâm. Dưới chân cầu, trong đêm tối những đoàn quân cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội để bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Người Hà Nội không bao giờ quên câu chuyện đau thương về một người mẹ trẻ, để bảo vệ Trung đoàn Thủ đô vượt sông trong đêm đã phải bịt mồm đứa con của mình. Em bé đã hy sinh để đoàn quân trong đêm vượt sông an toàn ngay dưới chân cầu trước mũi súng của giặc…
Ngày 9/10/1954 cầu Long Biên chứng kiến những người lính Pháp bại trận cuối cùng rút khỏi Hà Nội. Nó còn chứng kiến những phi công tù binh Mỹ qua cầu năm 1973 để sang sân bay Gia Lâm trao trả về Mỹ.
Cả một thời gian dài cầu Long Biên là mục tiêu quan trọng trong chiến tranh phá hoại của Mỹ với Hà Nội. 14 lần cầu bị ném bom. Ngày 11/08/1967 cầu bị phá hỏng nặng ở 5 nhịp, riêng nhịp 15 rơi hẳn xuống sông. Sau hai tháng sửa chữa cầu được khôi phục. Ngày 25/10/1967 cầu lại bị “chém” ngang thân tại nhịp số 10, một nửa nhịp rơi xuống sông, nửa còn lại ghếch lên trời. Phải đánh mìn định hướng mới cắt bỏ được phần hỏng. Sau hai lần chỉ trong bốn ngày vào tháng 12/1967 máy bay Mỹ lại đã dội bom trúng cầu và lần này cầu bị thiệt hại nặng nề, 6 trụ bị tiện đứt, 7 nhịp bị phá hủy. Nửa năm sau cầu hư hại 6 nhịp, phải 6 tháng sau cầu mới được phục hồi. Chưa có cây cầu nào trên trái đất này mang nhiều thương tích trên mình như thế. Và cũng chưa có cây cầu nào chuyên chở trên mình nó nhiều trọng trách, mang vác trên mình nó nhiều hàng hóa, vật tư hữu dụng cho con người như thế. Nó đã mang vác lịch sử đau thương và anh dũng của người Hà Nội trên lưng mình cả 100 năm từ lúc nó chào đời.
Những năm chiến tranh phá hoại của Mỹ với Hà Nội, những người lính trực chiến trên nóc cầu Long Biên đã biên thư, gọi điện đề nghị với Đài tiếng nói Việt Nam phải sửa lại nội dung, sửa lại trật tự các cụm từ trong thông báo “Báo động có máy bay xâm phạm bầu trời Hà Nội”. Số là, khi nhận được lệnh báo động, đài phát: “Đồng bào chú ý,… đồng bào chú ý!!! Có một tốp máy bay địch xuất hiện ở phía (Tây Nam hoặc Đông Nam) thành phố…”. Các chiến sỹ cao xạ pháo trực chiến trên các ụ súng bố trí trên các nóc cầu Long Biên đã rất sốt ruột khi phải nghe các âm thanh “Đồng bào chú ý… đồng bào chú ý… có một tốp…” mà nóng lòng muốn nghe từ hướng nào máy bay xâm phạm vùng trời Hà Nội để quay mũi súng về hướng đố đón chờ chúng đến. Một giây với người lính canh gác trên nóc cầu lúc đó là sinh mệnh của chính mình và sinh mệnh của cây cầu. Vì thế các chiến sỹ trực chiến đã đề nghị đài sẽ phát “Từ hướng (Tây Nam hay Đông Nam ) có một tốp máy bay… đang xâm phạm bầu trời Hà Nội… Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý…’’.
Cầu Long Biên đã sống những giây phút sinh tử với Hà Nội như thế. Kẻ viết bài này có lần đã sang bãi Giữa tức bãi Phúc Xá ngay sau khi khói bom đánh cầu Long Biên vừa tan để thăm một người trong dòng tộc và chứng kiến tận mắt một thanh đường ray xe lửa dài đến hai mét đã bay hơn một cây số vì sức ép của đạn rốc-két lao cắm xuống sân một gia đình nông dân trên bãi Phúc Xá.
Những hình ảnh như thế không bao giờ phai lạt trong lòng một người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội như tôi.
Cầu Long Biên được làm cùng thời với tháp Eiffel ở Paris.
Eiffel được khánh thành năm 1889 để kỷ niệm 100 năm cách mạng Pháp (1789 – 1889). Eiffel nặng 9700 tấn, trong đó có 7000 tấn kim khí, nhiều hơn 1000 tấn so với cầu Long Biên. 225 công nhân làm việc cật lực trong 3 năm thì tháp được hoàn thành, cao 300 m, đó là cái tháp cao nhất thế giới thời đó. Nhưng không một công nhân nào chết trong khi dựng tháp. Còn cầu Long Biên thì hầu như ngày nào cũng có người Việt Nam chết vì tai nạn lao động, do chết ngạt khi phải làm việc dưới hố móng sâu, do té ngã từ trên cao... Chỉ riêng sự việc này cũng cho thấy tính chất hai mặt của công cuộc “khai hóa” của thực dân Pháp ở nước ta. Doumer làm cầu Long Biên nhằm khai thác, vận chuyển hàng hóa cướp bóc của dân ta, nhưng khách quan nó lại tạo ra nền tảng cơ sở hạ tầng cho Hà Nội vào thời đó, chỉ có một cường quốc như Pháp mới làm nổi. Hơn nữa Long Biên còn là một cây cầu đẹp trong những cây cầu trên thế gian này. Cầu Long Biên hùng tráng mà thanh tú, đến bây giờ nó vẫn đẹp, không hề tàn phai sắc đẹp với thời gian.
Nhân nói về vẻ đẹp của cây cầu, tôi lại nhớ đến cầu Hàm Rồng, cũng do Pháp xây dựng ở Thanh Hóa. Sau khi cầu bị bom Mỹ đánh sập, ta xây lại. Ngày khánh thành cầu mới, các nhà văn, nhà báo được mời đi dự. Nghe nói trong đoàn còn có nhà văn Nguyễn Tuân cùng đi nên ai cũng phấn khởi. Nhưng khi đến đón cụ Nguyễn thì cụ lắc đầu không đi. Gặng hỏi mãi cụ nói: Cái cầu Hàm Rồng xưa có nhịp trông nó đẹp lắm. Nay cầu mới thẳng đuỗn như cái con c… chán lắm, không đi!!!
Những nhịp cầu lên xuống nhấp nhô của Long Biên như con rồng đang bay qua sông Hồng đã in bóng vào chân trời Hà Nội những chiều hè, những đêm sao, những bình minh… bất tận.
Vì lẽ đó mà người Pháp muốn “giữ gìn những ký ức của mình” ở Việt Nam trong đó có cây cầu Long Biên đã hơn 100 tuổi, như họ đã tuyên bố. Còn người Hà Nội thì xem Long Biên là một “mảng” tâm hồn mình, một “vật chứng” của lịch sử, văn hóa.
Vậy có nên gỡ bỏ cầu Long Biên đi như mấy ông quan ở Hà Nội đã bàn?
Và nếu xây một cây cầu mới qua sông Hồng chỉ cách Long Biên có 30 m thì khác nào… khác nào… xếp một hoa hậu đứng cạnh một anh lính dù Lê Dương để chụp hình lưu niệm!!!
3/2014
Hỏi một người Hà Nội đi xa: Anh nhớ nhất cái gì ở Hà Nội? Trả lời: Hình ảnh cây cầu Long Biên. Hỏi một nhà nghiên cứu lịch sử: “Vật chứng” các biến cố của Hà Nội suốt trăm năm qua? Trả lời: Cây cầu Long Biên. Hỏi một anh cán bộ miền Nam, nói đúng hơn là cậu học sinh miền Nam theo cha mẹ đi tập kết ra Bắc sau năm 1954, bây giờ đã là một ông già ngoài 70 tuổi sống ở Sài Gòn: Ông nhớ nhất cái gì ở Hà Nội? Trả lời: Cầu Long Biên! Ông đã kể: Tháng ngày đi học cuốc bộ từ Gia Lâm qua cầu Long Biên sang Hà Nội rồi lại về, ông đã đếm được mấy vạn cái đinh bù-loong trên cây cầu sắt này. Đếm để quên quãng cầu dài, quên bụng đói… Con số mấy vạn cái đinh bù-loong ấy theo ông suốt cả đời (!).
Chỉ sau hai tháng nhận chức (tháng 02/1897) toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã đặt bút phê chuẩn dự án cầu Doumer tức cầu Long Biên ngày nay.
Ngày 13-09-1898 hãng thiết kế thi công Daydé – Pillé khởi công xây cầu. Theo thiết kế, cầu có chiều dài 3500 m, trừ hai trụ cầu bờ Bắc và Nam, cầu có 17 trụ cầu chôn sâu dưới lòng sông 30 mét, móng nổi từ mặt nước đến mặt cầu là 44 m đảm bảo tàu bè qua lại khi nước sông lên đến 13,5 m . Chín khung dầm sắt khổng lồ nối 19 nhịp lớn với nhau, mỗi khung dài 61 m. Cầu rộng 30,6 mét, có một đường tàu hỏa ở giữa và hai đường bộ hai bên. Đến năm 1921 cầu được mở rộng thêm 2,6 m cho các loại ô tô và 0,8 m cho người đi bộ hai bên.
Sau 4 năm thi công, 8 giờ 35 phút ngày 28/2/1902 cầu được khánh thành. Sáng hôm đó, chuyến tàu hỏa khởi hành từ ga Hàng Cỏ với 8 toa, có hai toa dành riêng cho vua Thành Thái và toàn quyền Doumer, 6 toa còn lại chở các quan khách, trong đó có cả vua Malayxia, đại diện triều đình Mãn Thanh… từ từ vượt sông Hồng. Thời điểm đó, Long Biên là một trong những cây cầu đẹp nhất thế giới.
Từ thời khắc đó cầu Long Biên trở thành “vật chứng” lịch sử của Hà Nội.
Ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, ở chân cầu Long Biên tự vệ bãi Phúc Xá đã cho nổ bom chặn đường tiếp tế của địch từ phía Gia Lâm. Dưới chân cầu, trong đêm tối những đoàn quân cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội để bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Người Hà Nội không bao giờ quên câu chuyện đau thương về một người mẹ trẻ, để bảo vệ Trung đoàn Thủ đô vượt sông trong đêm đã phải bịt mồm đứa con của mình. Em bé đã hy sinh để đoàn quân trong đêm vượt sông an toàn ngay dưới chân cầu trước mũi súng của giặc…
Ngày 9/10/1954 cầu Long Biên chứng kiến những người lính Pháp bại trận cuối cùng rút khỏi Hà Nội. Nó còn chứng kiến những phi công tù binh Mỹ qua cầu năm 1973 để sang sân bay Gia Lâm trao trả về Mỹ.
Cả một thời gian dài cầu Long Biên là mục tiêu quan trọng trong chiến tranh phá hoại của Mỹ với Hà Nội. 14 lần cầu bị ném bom. Ngày 11/08/1967 cầu bị phá hỏng nặng ở 5 nhịp, riêng nhịp 15 rơi hẳn xuống sông. Sau hai tháng sửa chữa cầu được khôi phục. Ngày 25/10/1967 cầu lại bị “chém” ngang thân tại nhịp số 10, một nửa nhịp rơi xuống sông, nửa còn lại ghếch lên trời. Phải đánh mìn định hướng mới cắt bỏ được phần hỏng. Sau hai lần chỉ trong bốn ngày vào tháng 12/1967 máy bay Mỹ lại đã dội bom trúng cầu và lần này cầu bị thiệt hại nặng nề, 6 trụ bị tiện đứt, 7 nhịp bị phá hủy. Nửa năm sau cầu hư hại 6 nhịp, phải 6 tháng sau cầu mới được phục hồi. Chưa có cây cầu nào trên trái đất này mang nhiều thương tích trên mình như thế. Và cũng chưa có cây cầu nào chuyên chở trên mình nó nhiều trọng trách, mang vác trên mình nó nhiều hàng hóa, vật tư hữu dụng cho con người như thế. Nó đã mang vác lịch sử đau thương và anh dũng của người Hà Nội trên lưng mình cả 100 năm từ lúc nó chào đời.
Những năm chiến tranh phá hoại của Mỹ với Hà Nội, những người lính trực chiến trên nóc cầu Long Biên đã biên thư, gọi điện đề nghị với Đài tiếng nói Việt Nam phải sửa lại nội dung, sửa lại trật tự các cụm từ trong thông báo “Báo động có máy bay xâm phạm bầu trời Hà Nội”. Số là, khi nhận được lệnh báo động, đài phát: “Đồng bào chú ý,… đồng bào chú ý!!! Có một tốp máy bay địch xuất hiện ở phía (Tây Nam hoặc Đông Nam) thành phố…”. Các chiến sỹ cao xạ pháo trực chiến trên các ụ súng bố trí trên các nóc cầu Long Biên đã rất sốt ruột khi phải nghe các âm thanh “Đồng bào chú ý… đồng bào chú ý… có một tốp…” mà nóng lòng muốn nghe từ hướng nào máy bay xâm phạm vùng trời Hà Nội để quay mũi súng về hướng đố đón chờ chúng đến. Một giây với người lính canh gác trên nóc cầu lúc đó là sinh mệnh của chính mình và sinh mệnh của cây cầu. Vì thế các chiến sỹ trực chiến đã đề nghị đài sẽ phát “Từ hướng (Tây Nam hay Đông Nam ) có một tốp máy bay… đang xâm phạm bầu trời Hà Nội… Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý…’’.
Cầu Long Biên đã sống những giây phút sinh tử với Hà Nội như thế. Kẻ viết bài này có lần đã sang bãi Giữa tức bãi Phúc Xá ngay sau khi khói bom đánh cầu Long Biên vừa tan để thăm một người trong dòng tộc và chứng kiến tận mắt một thanh đường ray xe lửa dài đến hai mét đã bay hơn một cây số vì sức ép của đạn rốc-két lao cắm xuống sân một gia đình nông dân trên bãi Phúc Xá.
Những hình ảnh như thế không bao giờ phai lạt trong lòng một người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội như tôi.
Cầu Long Biên được làm cùng thời với tháp Eiffel ở Paris.
Eiffel được khánh thành năm 1889 để kỷ niệm 100 năm cách mạng Pháp (1789 – 1889). Eiffel nặng 9700 tấn, trong đó có 7000 tấn kim khí, nhiều hơn 1000 tấn so với cầu Long Biên. 225 công nhân làm việc cật lực trong 3 năm thì tháp được hoàn thành, cao 300 m, đó là cái tháp cao nhất thế giới thời đó. Nhưng không một công nhân nào chết trong khi dựng tháp. Còn cầu Long Biên thì hầu như ngày nào cũng có người Việt Nam chết vì tai nạn lao động, do chết ngạt khi phải làm việc dưới hố móng sâu, do té ngã từ trên cao... Chỉ riêng sự việc này cũng cho thấy tính chất hai mặt của công cuộc “khai hóa” của thực dân Pháp ở nước ta. Doumer làm cầu Long Biên nhằm khai thác, vận chuyển hàng hóa cướp bóc của dân ta, nhưng khách quan nó lại tạo ra nền tảng cơ sở hạ tầng cho Hà Nội vào thời đó, chỉ có một cường quốc như Pháp mới làm nổi. Hơn nữa Long Biên còn là một cây cầu đẹp trong những cây cầu trên thế gian này. Cầu Long Biên hùng tráng mà thanh tú, đến bây giờ nó vẫn đẹp, không hề tàn phai sắc đẹp với thời gian.
Nhân nói về vẻ đẹp của cây cầu, tôi lại nhớ đến cầu Hàm Rồng, cũng do Pháp xây dựng ở Thanh Hóa. Sau khi cầu bị bom Mỹ đánh sập, ta xây lại. Ngày khánh thành cầu mới, các nhà văn, nhà báo được mời đi dự. Nghe nói trong đoàn còn có nhà văn Nguyễn Tuân cùng đi nên ai cũng phấn khởi. Nhưng khi đến đón cụ Nguyễn thì cụ lắc đầu không đi. Gặng hỏi mãi cụ nói: Cái cầu Hàm Rồng xưa có nhịp trông nó đẹp lắm. Nay cầu mới thẳng đuỗn như cái con c… chán lắm, không đi!!!
Những nhịp cầu lên xuống nhấp nhô của Long Biên như con rồng đang bay qua sông Hồng đã in bóng vào chân trời Hà Nội những chiều hè, những đêm sao, những bình minh… bất tận.
Vì lẽ đó mà người Pháp muốn “giữ gìn những ký ức của mình” ở Việt Nam trong đó có cây cầu Long Biên đã hơn 100 tuổi, như họ đã tuyên bố. Còn người Hà Nội thì xem Long Biên là một “mảng” tâm hồn mình, một “vật chứng” của lịch sử, văn hóa.
Vậy có nên gỡ bỏ cầu Long Biên đi như mấy ông quan ở Hà Nội đã bàn?
Và nếu xây một cây cầu mới qua sông Hồng chỉ cách Long Biên có 30 m thì khác nào… khác nào… xếp một hoa hậu đứng cạnh một anh lính dù Lê Dương để chụp hình lưu niệm!!!
3/2014
Lê Phú Khải
(BVN)
Đặng Huy Văn - Qua Đèo Ngang Nhớ Bà Huyện Thanh Quan
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Đặng Huy Văn: Hôm nay đây, đứng trước Đèo Ngang hùng vĩ trên quê
hương Hà Tĩnh, tôi bỗng rơi nước mắt khi nhớ lại hai câu thơ cùa bà
Huyện Thanh Quan cách đây đã gần hai thế kỷ: “Nhớ nước đau lòng con quốc
quốc! Thương nhà mỏi miệng cái gia gia!”. Lời thơ xé lòng đã khiến tôi
nghĩ tới cái “dự án Cảng Sơn Dương” ở Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh này, một
cảng biển trọng yếu hướng ra đảo Hải Nam Trung Quốc đã bị vị phó thủ
tướng chính phủ người Việt gốc Hoa Hoàng Trung Hải dâng trọn cho tổ quốc
đại Hán của mình tại Phương Bắc! Chính tại Sơn Dương hôm nay, hàng ngàn
người Tàu đã tràn sang và đang gây rắc rối cho nhiều gia đình của đồng
bào Việt Nam tại địa phương quê hương tôi! Không biết ông TBT có biết
việc này không mà chưa bao giờ thấy ông ấy lên tiếng?
Hay là, ông TBT và các báo lề đảng hôm nay đang mãi bận tâm tới mấy toà
biệt thự khủng của ông Trần Văn Truyền, nguyên tổng thanh tra chính phủ
đã nghỉ hưu mà cố tình làm ngơ việc một số vùng duyên hải và biển đảo
Việt Nam ta đang từng ngày, từng giờ rơi vào móng vuốt của bọn cộng sản
Trung Quốc xâm lược! Theo tôi, cái giá phải trả cho hành động bán nước
này phải lớn hơn gấp nhiều tỷ lần cái biệt thự khủng của ông Trần Văn
Truyền ấy chứ!
Qua Đèo Ngang Nhớ Bà Huyện Thanh Quan
Lên tới Đèo Ngang vừa dừng bước
Bồi hồi bà Huyện ngắm trời Nam(1)
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”
Thuở nước Việt còn sao khóc than?
Hay bà linh cảm ngày Trung cộng
Sẽ tới Đèo Ngang lập cảng Tàu(2)
Làm căn cứ địa mưu chiếm đóng
Xâm lăng nước Việt mãi dài lâu?
Hay là thuở đó bà biết trước
Sẽ đến thời Tàu cộng kéo sang
Dùng lũ Việt gian thờ Mao, Mác
Dâng hiến non sông giữ ngai vàng?
Nên bà thương xót con cháu Việt
Bị người cộng sản rước Tàu vô
Không chống lại Tàu thì dân thiệt
Mà chống Tàu ư? Đảng bắt tù!
Nên bà thương xót nông dân Việt
Bị ép nhường đất hiến cộng Tàu
Mất ruộng mất nhà mất cơ nghiệp
Không còn cơm cháo để nuôi nhau!
Nghèo đói đi tìm con đường sống
Làm điếm, làm thuê cho chủ Tàu
Lại bị chúng lừa dùng ma tuý
Nhằm triệt giống nòi Việt mai sau!
Nhói lòng “quốc” kêu, “gia gia” khóc
Bởi cháu con nay hỏng hết rồi!
Chúng đón vào khu Tàu trác táng
Rượu bia, ma tuý thoả sức xơi!
Nên trước khi vào là người Việt
Ra khỏi khu Tàu đã tàn ma
Trách chi bà Huyện ngày đó viết
“Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”!
Bà Huyện Thanh Quân ơi có thấu?
Nỗi đau dân Việt Bắc Trung Nam
Đi đâu cũng gặp Tàu cộng sản
Bỏ tiền hối lộ bọn quan tham!
Để được giao đất, giao bờ biển
Một dải Miền Trung tới Khánh Hoà…
Lấy cớ đầu tư khu công nghiệp
Lại xây cứ điểm lính Trung Hoa!
Quảng Trị chúng mua luôn Cửa Việt(3)
Để làm căn cứ hải không quân
Kết nối Sơn Dương và Tam Á(4)
Triển khai cả hải đội tàu ngầm…
Trên bờ “dân quân” Tàu đợi sẵn
Ngoài khơi “hải tặc” đã nghênh ngang
Chẳng lẽ vua quan ta không biết?
Mất nước rày mai đã rõ ràng!
Vua, quan tiền bạc vơ vét đủ
Nước mất vẫn phè phỡn ăn chơi
Mặc dân lam lũ làm đầy tớ
Cho bọn xâm lăng khổ nối đời!
Bà Huyện Thanh Quan ơi hãy cứu
Đồng bào nước Việt khổ trùng lai!
Cộng sản nước nhà chưa thoả ác?
Còn rước thêm quân cộng sản ngoài!
Hà Nội, 5/2/2014
Đặng Huy Văn
Lên tới Đèo Ngang vừa dừng bước
Bồi hồi bà Huyện ngắm trời Nam(1)
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”
Thuở nước Việt còn sao khóc than?
Hay bà linh cảm ngày Trung cộng
Sẽ tới Đèo Ngang lập cảng Tàu(2)
Làm căn cứ địa mưu chiếm đóng
Xâm lăng nước Việt mãi dài lâu?
Hay là thuở đó bà biết trước
Sẽ đến thời Tàu cộng kéo sang
Dùng lũ Việt gian thờ Mao, Mác
Dâng hiến non sông giữ ngai vàng?
Nên bà thương xót con cháu Việt
Bị người cộng sản rước Tàu vô
Không chống lại Tàu thì dân thiệt
Mà chống Tàu ư? Đảng bắt tù!
Nên bà thương xót nông dân Việt
Bị ép nhường đất hiến cộng Tàu
Mất ruộng mất nhà mất cơ nghiệp
Không còn cơm cháo để nuôi nhau!
Nghèo đói đi tìm con đường sống
Làm điếm, làm thuê cho chủ Tàu
Lại bị chúng lừa dùng ma tuý
Nhằm triệt giống nòi Việt mai sau!
Nhói lòng “quốc” kêu, “gia gia” khóc
Bởi cháu con nay hỏng hết rồi!
Chúng đón vào khu Tàu trác táng
Rượu bia, ma tuý thoả sức xơi!
Nên trước khi vào là người Việt
Ra khỏi khu Tàu đã tàn ma
Trách chi bà Huyện ngày đó viết
“Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”!
Bà Huyện Thanh Quân ơi có thấu?
Nỗi đau dân Việt Bắc Trung Nam
Đi đâu cũng gặp Tàu cộng sản
Bỏ tiền hối lộ bọn quan tham!
Để được giao đất, giao bờ biển
Một dải Miền Trung tới Khánh Hoà…
Lấy cớ đầu tư khu công nghiệp
Lại xây cứ điểm lính Trung Hoa!
Quảng Trị chúng mua luôn Cửa Việt(3)
Để làm căn cứ hải không quân
Kết nối Sơn Dương và Tam Á(4)
Triển khai cả hải đội tàu ngầm…
Trên bờ “dân quân” Tàu đợi sẵn
Ngoài khơi “hải tặc” đã nghênh ngang
Chẳng lẽ vua quan ta không biết?
Mất nước rày mai đã rõ ràng!
Vua, quan tiền bạc vơ vét đủ
Nước mất vẫn phè phỡn ăn chơi
Mặc dân lam lũ làm đầy tớ
Cho bọn xâm lăng khổ nối đời!
Bà Huyện Thanh Quan ơi hãy cứu
Đồng bào nước Việt khổ trùng lai!
Cộng sản nước nhà chưa thoả ác?
Còn rước thêm quân cộng sản ngoài!
Hà Nội, 5/2/2014
Đặng Huy Văn
(1). Nhân đọc bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan
(3). Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Quảng Trị? | Thủ Tướng Nguyễn ...
(4). Tam Á là một quân cảng tàu ngầm ở cực nam đảo Hải Nam, Trung Quốc,
có cùng vĩ độ với cảng Sơn Dương tại Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Tại đây,
ông phó thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải của chính phủ Việt Nam đã
giao cho Trung Quốc đầu tư khu cảng công nghiệp Sơn Dương, Formosa. Nếu
nối Tam Á, Sơn Dương và Cửa Việt lại với nhau thì tam giác cảng biển này
sẽ trở thành một tấm lá chắn cắt đứt Vịnh Bắc Bộ nối với Biển Đông và
giặc Tàu sẽ dễ dàng khống chế và xâm chiếm Việt Nam khi có chiến sự xẩy
ra.
LTS: Đặng Huy Văn - Một Tiến sỹ Toán học, một nhà giáo đã về hưu đang sinh sống tại Hà Nội "Ông là một giảng viên đại học tại Hà Nội, thích làm thơ yêu nước" Thơ của ông dù viết về đề tài nào cũng đau đáu trong lòng một tình yêu nước, yêu đời, đều hướng đến giá trị Chân - Thiện - Mỹ vĩnh hằng mà nhân loại cần hướng đến.
Thảm sát Côn Minh: Điềm báo không thể hạ cánh mềm
Boxitvn
Phạm Chí Dũng
Điềm báo vĩnh biệt
Không một chế độ chính trị nào có thể tồn tại vĩnh
viễn, nhất là với những thể chế không muốn vĩnh biệt khúc quanh độc tài.
Quy luật đó chắc chắn sẽ ứng với đảng cầm quyền Trung Quốc, bằng vào
những câu chuyện tang thương mà chế độ này phải gánh chịu trong vài năm
gần đây và trong kiếp nạn phân rã vào những năm đang tới.
Vụ nổ bom xe jeep ở Bắc Kinh tháng 12 năm 2013 và vụ
thảm sát bằng dao ở Côn Minh vào tháng 3 năm 2014 đã kích hoạt bầu không
khí hoảng loạn chưa từng thấy ngay trong lòng Nội Hán. Hai cuộc tấn
công bị xem là của người Duy Ngô Nhĩ, dù đậm đặc màu sắc khủng bố, đã
trở nên một chỉ dấu cho thấy chính thể Bắc Kinh cùng cơ chế bảo vệ an
ninh của nó không ghê gớm như người ta tưởng, cùng lúc biến thành một
điềm dấu tiên đoán về vận mệnh khó có thể hạ cánh mềm của chính thể này
trong tương lai không quá xa.
Đặc tính tâm lý học của vụ tấn công bừa bãi bằng dao
của nhóm người cực đoan vào đám đông hành khách vô tội ở Côn Minh còn là
cú phát nổ đầu đời cho mối thâm thù thâm căn cố đế giữa sắc tộc ly khai
với chế độ cầm quyền – một hệ nạn mà có thể kéo dài rất nhiều năm sau,
ngay cả khi tổ chức Bộ Chính trị ở Bắc Kinh biến mất.
Như một quy luật, nếu nội trị không khởi xướng trào
lưu rối loạn bởi các phong trào dân chủ mà lại bằng hành động bạo lực,
cái kết thúc của nội tình xã hội và những đấu tranh nội bộ hầu như sẽ
chìm trong máu lửa và nạn cát cứ – điều đã xảy ra không biết bao nhiêu
lần trong lịch sử đẫm máu Trung Hoa.
Bất kể tiếng hô độc đoán vẫn thét lên dưới ảnh Mao
Trạch Đông tại quảng trường Thiên An Môn, tiếng nổ và những vụ chém giết
cứ lan dần và lan nhanh trong lòng Nội Hán. Hệt như khuôn mặt dị dạng
trong bức tranh “Tiếng thét” của Edvard Munch, tiếng nổ Nội Hán khởi
nguồn từ tiếng lòng bị xét nát của người dân và kết thúc bằng tia xé
rách khối không gian u thẫm giữa bốn bức tường tăm tối.
Tiếng nổ đó được kích phát bởi chính tiếng kêu thét của quá khứ.
Văn Cầm Hải – một nhà văn và cũng là nhà nghiên cứu
lịch sử ở nước ngoài – đã có cơ hội để đo đếm sự thất bại của chính sách
ngoại giao lòng dân của Trung Quốc ở các vùng dân tộc thiểu số. Trong
một chuyến đến vùng Nội Mông, ông đã viết lại những ghi nhận của mình: “Tôi
đã biết về sự nhẫn nhịn của người sa mạc qua một người bạn Mông Cổ mời
tôi ăn thịt nướng trong đêm mưa ở Lan Châu – thủ phủ tỉnh Cam Túc. Anh
ta khuyên tôi rằng, nếu muốn giết sói, hãy cho nó chạy và hú đến lúc nào
nó quỵ xuống vì sức lực mà chúng bỏ ra!… Trung Quốc cần có một sự thay
đổi tận gốc quan điểm lịch sử và thời đại về sức mạnh và sự tồn tại hài
hòa của mình với thế giới. Nếu không thay đổi, dù có bỏ ra hàng tỷ đô
la, dù có hào nhoáng kết nối với chính quyền bản địa bằng những thỏa
thuận hay kiềm chế chính trị nhưng không thể nào mua được lòng dân,
Trung Quốc sẽ quỵ ngã bởi chính sức mạnh hung hãn của mình, như hình ảnh
con sói mà người Mông Cổ từng nói với tôi trong đêm mưa ở Lan Châu”.
Con sói
Dù hãng tin Tân Hoa xã của Trung Quốc luôn
áp đặt những vụ việc xảy ra ở Tân Cương là hành vi của một nhóm khủng
bố, nhưng chỉ có những người ngơ ngác về thời cuộc mới không cảm nhận
được những nguyên cớ thâm sâu về lịch sử trong quan hệ của người Hán với
vùng tự trị này. Không chỉ là mâu thuẫn đơn thuần về địa giới hành
chính, đó còn là khoảng cách biệt đáng kể về chính sách mà người Hán
được hưởng so với các sắc tộc thiểu số, tâm thế lấn át về văn hóa và tôn
giáo mà người Hán đã tạo ra đối với người Duy Ngô Nhĩ, để cuối cùng tạo
nên một hình ảnh phân hóa toàn diện và không thể chấp nhận được giữa kẻ
mập phì và người thiếu ăn.
Không khác gì khu tự trị Tân Cương ở Tây Bắc, các khu
tự trị Tây Tạng ở Tây Nam và Nội Mông ở phía Bắc cũng đang trở thành
những hiểm họa ngấm ngầm đối với tình trạng an ninh của người Hán sống
tại những khu vực này, và cả với thể chế chính trị mà Bắc Kinh đang cố
gắng duy trì đến chừng nào có thể. Từ năm 2008 đến nay, những hiểm họa
này luôn có chiều hướng bùng phát và trở thành nguy cơ không hề nhỏ đối
với một dân tộc có truyền thống tự tôn cực đoan như người Hán, làm nên
một cảnh sắc cực đoan mà người ta đã từng thấy không ít lần trong chiều
dài lịch sử không khoan nhượng của dân tộc Trung Hoa.
Nguy cơ đó lại đang được cộng hưởng một cách có tổ
chức và quy mô bởi những hành động bài bản và có kỷ luật trong lòng
Trung Quốc. Với vụ nổ bom ở thủ phủ Thiên An Môn và vụ thảm sát ở Côn
Minh, hẳn nhiên đó là một sự thách thức trực tiếp với người quá cố Mao
Trạch Đông và bề dày gần bảy chục năm “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc
Trung quốc”.
Sâu xa hơn, cho dù bị xem là “khủng bố Tân Cương” thì
cũng không thể phủ nhận rằng mối mâu thuẫn sắc tộc giữa dân tộc Duy Ngô
Nhĩ với người Hán, và trên hết là với chế độ cầm quyền độc đoán, đã
công nhiên vọt thành mối xung đột đối kháng đến mức sẵn lòng lấy mạng
đổi mạng.
Đó cũng là nguồn gốc mà có thể sản sinh ra vô số cuộc
bạo động, bạo loạn của hoàng hôn lịch sử chưa bao giờ ngưng máu đổ
trong lòng dân tộc Trung Hoa.
Máu người
Giờ đây, chính thể cầm quyền chuyên chế và độc đoán ở
quốc gia bị xem chỉ còn vỏ cộng sản này đã không còn có thể nói đến
chuyện an toàn trong bất kỳ căn phòng trú ẩn nào.
Bắc Kinh không chỉ ngập ngụa ô nhiễm, mà đang và sẽ
không còn là nơi yên tĩnh cho giới quan chức chức chính trị cao cấp nghỉ
dưỡng và quyết định về tương lai của thế giới. Khái niệm bất an có lẽ
sẽ trở thành từ ngữ cửa miệng của chính giới tương lai ngay tại thủ đô
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hay tại bất cứ một địa điểm nào có trưng
diện ảnh Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và phơi bày bức tranh nhân viên
thành quản đánh hội đồng đến chết người dân bán dạo.
Với những gì đã và đang xảy ra, không thiếu cơ sở để
cho rằng nhà cầm quyền Trung Quốc đang phải trả một cái giá không hề rẻ
cho những gì mà họ đã siết bức đối với tộc người Duy Ngô Nhĩ và vùng Tây
Tạng.
Duy có điều, tình cảnh “kiêu ngạo cộng sản” của giới
quan chức cao cấp Kinh Bắc đã đến mức bĩ cực. Vẫn hầu như chưa có gì
được ngộ ra từ giá cả quá đắt đỏ, một thứ giá đang phải tính bằng máu
người. Dàn đồng ca tuyên giáo mới đây của Bắc Kinh vẫn không bớt hung
hăng đe dọa sẽ “dập tắt tiếng nói của Đạt Lai Lạt Ma”.
Nhưng ở vùng đất xa xôi huyền thoại, sau hơn 120 vụ
tự thiêu của tu sĩ Tây Tạng để phản kháng chính sách đàn áp của Bắc
Kinh, mọi chuyện vẫn đang tự cháy bỏng. Ngọn lửa phản kháng vẫn rừng rực
và còn lâu mới bị dập tắt.
Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông đã làm nên một vành
đai sắt Tây – Bắc siết lấy cơ thể phù thũng của Nội Hán. Còn lâu mới tái
lập được sự ổn định chính trị trong lòng Đại Hán. Thậm chí ngược lại,
Tập Cận Bình và thế hệ lãnh đạo mới của ông đang phải đối diện với định
đề số phận của lịch sử: nhà nước độc đảng Trung Hoa đã tồn tại gần bảy
chục năm, và chừng đó là quá đủ để thu xếp cho một sự thay thế khác –
nhiều khả năng là một cuộc tắm máu mang tính sở trường – di chứng không
quá hiếm hoi trong lịch sử nối đuôi toàn trị của các triều đại Trung
Quốc.
P.C.D.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét