Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

"Dân tộc Việt Nam là một khối tự phát khổng lồ"

"Dân tộc Việt Nam là một khối tự phát khổng lồ"


Người Việt duy tình, cạn nghĩ, ăn xổi
Suốt tuần nay, dư luận ầm ĩ xung quanh sự kiện một diễn viên trẻ bị đưa chuyện phòng the lên mạng. Từ góc độ một người nghiên cứu văn hóa, nhận định của ông về việc này ra sao?
Có hai hiện tượng cần ghi nhận.
Thứ nhất, việc tự quay phim ghi lại chuyện ân ái của mình, chứng tỏ một bộ phận lớp trẻ hiện nay có lối sống khá bế tắc, bất cần, muốn vượt ra ngoài các lề thói đạo đức thông thường.
Thứ hai, việc dư luận sôi sục lên trước sự kiện ấy, chứng tỏ chúng ta có một đám đông rất nhạy cảm, dễ bị kích động. Song tôi dự đoán, rồi cũng giống như một vài vụ trước, như vụ các cô dâu lấychồng Đài Loan, Hàn Quốc, nó chỉ là hiệu ứng lửa rơm.
Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có. Chờ nó được đưa ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh "làn sóng" chú ý, mổ xẻ, lên án nó thì muộn quá rồi còn gì. Lẽ ra với một thái độ kiên trì và bình tĩnh, chúng ta phải mang ra bàn bạc từ lâu, vừa bàn vừa lắng nghe và chờ đợi. Cả buông xuôi lẫn nóng vội ở đây đều vô nghĩa, nếu không muốn nói là có hại..
Tức là, theo ông, hiện tượng dư luận ồn ào quá mức xung quanh một chuyện cá nhân là bất thường?
Bất thường theo nghĩa hẹp mà không bất thường theo nghĩa rộng. Như người ta vẫn nói, nước mình nó thế. Từ thuở chỉ quanh quẩn trong các làng xã, chúng ta vẫn có lối phản ứng như vậy. Nó là một đặc điểm của tính cách người Việt.
Tôi nhớ, trong một bài báo gần đây, ông Trần Ngọc Thêm (nhà nghiên cứu văn hoá - PV) có nói: Đặc điểm tính cách, người Tây là duy lý, người Tàu là duy ý chí còn người Việt là duy tình. Chữ tình, nói theo chữ của ông Thêm, là lối sống giàu tình cảm, trọng tình nghĩa của người Việt.
Nhiều người cũng nghĩ như ông Thêm.
Phần tôi, tôi cho rằng chỉ nên nói đặc điểm người Việt là tính tự phát rất lớn, thường là những cơn xúc cảm bùng lên, song không trải qua những suy ngẫm nên sẽ qua đi nhanh.
Tức, tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, ta phải tính để vượt lên một trình độ sống khác.
Cụ thể hơn, theo ông, "sự duy tình" có những điểm nào không đáng để tự hào?
Cả sự kém duy lý (vận dụng đến cùng trí tuệ) và kém duy ý chí (sự thôi thúc của tham vọng) đều góp phần kìm hãm sự phát triển của chúng ta.
Kém lý trí dẫn đến nông nổi, cạn nghĩ. Kém ý chí dẫn đến ngắn hơi, ăn xổi. Cái gọi là duy tình rút lại là đồng nghĩa với bột phát, tùy tiện, lúc thế này lúc thế khác, và thường không dẫn đến sự sáng suốt cùng những quyết sách hợp lý, nhất là trong xã hội hiện đại.
Như trong câu chuyện phần trên chúng ta vừa nói: cả các bạn trẻ hiện nay cũng sống truồi theo cảm hứng tự phát, không nghĩ đường xa. Mà dư luận cũng tự phát, ầm ĩ đấy rồi cũng bỏ qua ngay đấy.
Đằng sau nó là những nguyên nhân lịch sử...
Một khối tự phát khổng lồ
Vậy là, từ một hiện tượng ồn ào trong dư luận hiện nay, ông muốn lưu ý tới những nguyên nhân sâu xa. Liệu có gượng ép quá không? Liệu ông có biết rằng nhiều người không tán thành?
Biết chứ. Ngay như bản thân tôi, cũng đã nhiều lần tự tìm cách phủ định nó, nhưng hiện tại tôi vẫn chưa tìm ra được dẫn chứng phủ định thuyết phục.
Với những người muốn nói khác đi, tôi không ngại, tự nhủ miễn là chúng ta cùng lắng nghe nhau một chút.
Nhưng, liệu cách nhìn nhận của ông về cốt cách sống của dân mình quá cực đoan và khắt khe? Người Việt xưa nay vẫn tự hào là một dân tộc hiếu học, thông minh và có sức chịu đựng, bền bỉ?
Các phương tiện truyền thông và cả bản thân chúng ta vẫn thường tự ve vuốt mình bằng những nhận định như mấy chữ bạn đã dùng.
Còn tôi, sau một giai đoạn nghiên cứu về văn hoá và tính cách Việt, tôi mạnh dạn sử dụng hình ảnh “một khối tự phát khổng lồ". Người Việt ít đặt vấn đề dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ. Chúng ta tự cho phép sống theo thói quen, nếu như có nói đến các lý thuyết, các định hướng nọ kia thì chủ yếu là đi thừa hưởng các kết quả nghiên cứu từ các dân tộc khác. Thêm nữa, chỉ treo lý thuyết lên gọi là có, chứ vẫn sống theo cách của mình.
Tôi ví dụ, đơn giản nhất là trong đời sống tôn giáo. Với đạo Phật, chúng ta hiểu biết lơ mơ. Về tất cả các lý thuyết, hầu như không nghiên cứu gì cả, chỉ toàn là truyền miệng với nhau, trong tu thì chỉ "thiền", "ngộ", tức là ngồi để tự nhiên nghĩ ra cái gì đấy.
Tôi nghĩ lối sống này làm nghèo chúng ta đi, từ sự trống vắng, kết quả thu được cũng chẳng gì hơn cũng là trống vắng. Trong khi ấy, thử so sánh, người Trung Quốc có không biết bao nhiêu pho kinh, chẳng hạn như ông Huyền Trang sang tận Ấn Độ lấy về, dịch ra, họ đã mang lại cho đạo Phật một sức sống mới.
Bàn một chút về đặc điểm tính cách dân tộc. Theo ông, có những nguyên nhân nào tác động đến điều này?
Khi nhìn vào những ngổn ngang trong đời sống trước mắt, nhiều người có ý cho rằng đó là bởi các lý thuyết này khác mà chúng ta theo đuổi, chẳng hạn chủ thuyết cộng sản.... Tôi thì lại thấy những nguyên nhân sâu xa cơ bản là nằm trong cái cốt cách mà dân tộc đã hình thành trong lịch sử.
Hiểu rõ nguồn gốc dân tộc, sự hình thành của dân tộc mình là một trong những cách để nhận chân lại mình.
Nói một cách thô thiển nhất thì như thế này: mỗi khu vực địa lý tạo ra một giống người với đặc điểm riêng của họ.
Chúng ta là người xứ nóng, vùng nhiệt đới được thiên nhiên ưu đãi, nên một mặt dễ sống, một mặt khác, nó tạo cho ta tính dễ dãi.
Người xứ nóng thường có cuộc sống đơn giản. Trước đây, thời các cụ, chẳng cần có quần áo cũng tồn tại được. Ngay trước Cách mạng tháng Tám, dân ta còn rất nhiều người đi chân đất.
Trong khi đó, người xứ lạnh, thời tiết khắc nghiệt đòi hỏi họ phải chuẩn bị cho cuộc sống cẩn thận hơn. Ngay từ ngôi nhà, đến ăn mặc phải bền chắc hơn, có sức chịu đựng hơn... Tất cả những điều này ảnh hưởng một cách vô thức đến tính cách dân tộc.
Chính chiến tranh đã nuôi dưỡng ảo tưởng
Sau những nguyên nhân ban đầu ấy, mọi chuyện đã phát triển ra sao?
Một công cụ để một dân tộc nào đó tư duy, là chữ viết. Việc không hình thành cho được một thứ chữ viết riêng mang lại cho chúng ta rất nhiều hạn chế. Chính nó khuyếch đại thêm cái khía cạnh nông nổi tự phát mà chúng ta nói từ đầu.
Thời trung đại việc dùng chữ Hán trong đời sống chính thức -- mà lại dùng một cách vụng về thô thiển - đã mang lại cho chúng ta bao thiệt thòi. Rồi sau này, do lịch sử đổi thay, lại dùng chữ hệ Latinh. Lâu nay người ta chỉ thích nhấn mạnh rằng chữ Latinh góp phần thúc đẩy xã hội tiến tới. Tôi cũng thấy thế, nhưng lưu ý thêm chữ quốc ngữ càng làm cho chúng ta cẩu thả trong nói và viết. Nếp tư duy hời hợt lan rộng.
Việt Nam, xét trong lịch sử, là một nước trải qua khá nhiều các cuộc chiến tranh. Yếu tố này có góp phần ảnh hưởng đến cái gọi là tính cách dân tộc không, theo ông?
Tất nhiên rồi. Trên nét lớn, chiến tranh ở ta còn để lại dấu vết nặng nề và càng lảng tránh nó, chúng ta càng bị nó ám.
Không cần có kinh nghiệm nhiều thì người ta cũng có thể biết chiến tranh là tình trạng ăn xổi, ở thì, lúc đó, trong khi sống với những mơ tưởng xa vời, thực tế là người ta lại chả biết rõ ràng ngày mai của mình như thế nào.
Cụ thể hơn, hai cuộc chiến lớn của dân tộc trong thế kỷ vừa qua, để lại dấu ấn như thế nào trong đời sống tinh thần người Việt?
Chuyện lớn quá, cho phép tôi chỉ nói một điểm có tính cách xuất phát: phải nói chính ra chiến tranh nuôi dưỡng ảo tưởng. Ta không biết rõ ta đã trở nên như thế nào. Ta tưởng rằng, sau chiến tranh, mình còn nguyên vẹn, nhưng thực ra mình đã mất mát rất nhiều. Nhìn vào nhiều mặt đời sống, tôi cảm thấy so với trước chiến tranh, có một bước lùi. Con người ít tham vọng hơn, dễ dãi với mình hơn mà lại buông thả hơn.
Ông có cực đoan quá không? Có nhiều ý kiến cho rằng, chính cuộc chiến này đã khơi dậy, đánh thức được tiềm năng của các thế hệ?
Tôi cho rằng, nhận định đó là đúng nhưng chưa đủ, khi nói vậy chúng ta chưa thấy hết sự thực. Cuộc kháng chiến chống Pháp còn vừa sức với dân tộc ta. Còn cuộc chiến chống Mỹ ư? Với tư cách một người vừa lớn lên thì bước vào chiến tranh, tôi muốn nói rằng nó to lớn vĩ đại, nó kinh khủng quá, nó hút hết sức lực của cộng đồng. Chiến tranh ở ta như việc một người nhỏ bé phải đối mặt với một thách thức quá sức. Vẫn làm được đấy, nhưng sau đó sẽ mệt mỏi, một sự mệt mỏi kéo dài cho đến hôm nay.
Việc nghiên cứu tính chất của xã hội hậu chiến ở ta ít được xem trọng. Nhưng nhìn đâu cũng thấy.
Cả việc lớp trẻ lao đầu vào cuộc hưởng thụ lẫn một dư luận xốc nổi, khi quá khắt khe khi quá dễ dãi, - tức là câu chuyện mà chúng ta nói từ đầu đến giờ -- cũng là hiện tượng thường thấy ở các xã hội hậu chiến.
Bài trả lời phỏng vấn đã in trên VietNamNet 20/10/2007
Hoàng Lê thực hiện
Theo blog Vương Trí Nhàn

Viết nhanh nhân vụ luận văn của Đỗ Thị Thoan, hay "Chúa đã bỏ loài người..."

Bài viết này của tôi không liên quan trực tiếp đến các vấn đề lý luận của giáo dục học, nhưng liên quan đến những hiện tượng đang diễn ra trong ngành giáo dục, mà theo tôi là đáng được lưu ý và cần được diễn giải trên cơ sở khoa học. Tất nhiên để lý giải nó thì cần có đầy đủ dữ kiện từ những người bên trong, là điều mà hiện nay tôi chưa thể (không thể?) có. Nên entry này tôi chỉ viết nhanh những cảm nhận đầu tiên của mình liên quan đến sự việc ấy mà thôi, hoàn toàn không có ý định đưa ra những kết luận gì cả.
Số là gần đây báo chí có nhắc đến vụ một luận văn thạc sỹ chuyên ngành văn học VN của một thạc sỹ trẻ tên là Đỗ Thị Thoan, được thực hiện ở ĐH Sư phạm Hà Nội năm 2010 với điểm chấm tuyệt đối là 10/10. Để thực hiện luận văn, ĐTT đã chọn phân tích thơ của nhóm Mở miệng, một nhóm thơ trẻ "ngoài luồng" mà tôi có đọc qua một vài bài thơ nhưng không quan tâm lắm. Thực sự nếu vụ này không được làm ầm lên trên báo thì tôi sẽ chẳng bao giờ biết đến luận văn này hoặc tác giả của nó.
Khi vụ việc được đưa ra lần đầu trên báo Văn nghệ TP HCM cách đây ít lâu thì tôi hoàn toàn không quan tâm và cũng không hiểu tại sao việc đã xong từ 2010 (và đã được các vị lão sư, những người thầy của thầy, đánh giá là rất tốt - thì điểm số đạt được của LV đã khẳng định như thế) - mà mãi đến 3 năm sau mới được tác giả của bài báo lôi ra phân tích với những lời kết án hết sức nặng nề như vậy. Ban đầu tôi nghĩ có lẽ vụ này cũng chỉ là việc các nhà phê bình văn học đem ra nói cho có chuyện mà nói, vì đời sống văn hóa nghệ thuật của ta không có gì để tranh cãi thì... buồn lắm.
Nhưng không ngờ sau đó vụ này lại được đưa lên những tờ báo đại diện quan trọng cho quan điểm chính trị tư tưởng chính thống và có thể gọi là "chuyên chính" của Đảng và Nhà nước. Ví dụ như Quân đội nhân dân (có đến mấy bài, và đây là bài gần nhất http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/6/66/66/252973/Default.aspx), Báo Thanh Tra (thử đọc bài cuối này của loạt 3 bài liên quan đến luận văn http://thanhtra.com.vn/ky-cuoi-khong-the-xam-pham-gia-tri-thieng-lieng_t221c8n57577tn.aspx), chứ không chỉ là những tờ báo, trang blog của các văn nghệ sĩ và nhà báo (lề phải) khác.
Rồi gần đây nhất, theo thông tin của báo chí nước ngoài, cụ thể là một bài viết mới đây của đài RFA, thì tôi được biết là chính vì những bài viết phê bình này mà cô thạc sỹ trẻ ĐTT đã bị cắt hợp đồng và không còn được đứng lớp (cô đang dạy theo hợp đồng ở Khoa Văn của ĐHSP nơi cô làm luận văn), còn người thầy hướng dẫn cô thì bị cách chức trưởng khoa. Quả là những hệ quả không ai ngờ được cho những người làm nghề giáo và làm khoa học.
Những thông tin này khiến tôi nhớ lại một buổi nói chuyện gần đây với một số bạn bè thuộc khối ngành nhân văn (ngôn ngữ, văn học, ngoại ngữ vv), gồm một vài giảng viên, dăm ba nghiên cứu viên làm việc trong các viện nghiên cứu, và mấy người học viên cao học. Hôm ấy, những bài báo đầu tiên về luận văn này mới được đưa ra, khiến cho mọi người trong giới ai ai cũng xôn xao bàn luận. Nhưng sự xôn xao đó không phải là về nhóm Mở miệng hoặc cuốn LV của ĐTT, mà là vì những bài viết trên báo chí chính thống đó nặng về lên án dựa trên cảm tính, ném đá hơn là một sự trao đổi, phê bình dựa trên cơ sở lập luận khoa học. Đa số mọi người đều cho rằng cách viết như thế khiến cho loạt bài hầu như rất ít giá trị khoa học, chưa bàn đến là kết luận của những bài báo này có đúng hay không.
Điều làm cho tôi nhớ nhất về buổi nói chuyện hôm ấy là sự băn khoăn của một cậu học viên cao học còn khá trẻ, đã hỏi đích danh tôi hai câu hỏi như sau:
(1) Mục đích của khoa học phải chăng là đi tìm và lý giải các hiện tượng mới (như trường hợp của ĐTT và nhóm Mở miệng), dù cách lý giải đó có thể là chưa hoàn toàn đúng, hay là cứ quanh quẩn mãi với những hiện tượng cũ kỹ đã được nhiều người nghiên cứu và có sẵn những kết luận mà ai cũng biết, để được an toàn và làm vừa lòng những quan điểm thủ cựu?
(2) Một luận văn thạc sỹ là một công trình khoa học và tác giả của nó là một nhà khoa học, vậy điều quan trọng trong việc thực hiện một công trình phải chăng là có một cơ sở lý thuyết và phương pháp thực hiện phù hợp, hay là gạt qua hết những vấn đề lý luận và phương pháp mà chỉ xem xét những kết luận để xem nó có giống với những gì mình đã nghĩ sẵn trong đầu hay không, và lên án nó nếu nó không làm mình vừa lòng?
Tôi đã lặng im không trả lời, vì tôi biết tất nhiên cậu học viên nọ không cần đến nó. Hai câu hỏi ấy chỉ là hai câu hỏi tu từ, khi đặt ra câu hỏi cũng là đã tự trả lời. Nhưng cũng chính vì hai câu hỏi ấy mà hôm nay tôi phải tìm đọc lại các tài liệu về lý luận phê bình văn học để có cơ sở xem Đỗ Thị Thoan có thực sự đáng bị phê phán nặng nề như trên báo chí hay không.
Và để cho bài bản, tôi đã đọc lại một tài liệu nhập môn rất căn bản về Lý luận phê bình văn học, cuốn Introduction to Literature, Criticism and Theory (3rd edition, Pearson 2004). Nhân tiện, các bạn có thể vào đây mà lấy về đọc hoặc lưu, vì đây thực sự là một tài liệu quý mà không hiểu ai đó đã đưa lên mạng để mọi người có thể sử dụng miễn phí: http://site.iugaza.edu.ps/ahabeeb/files/2012/02/An_Introduction_to_Literature__Criticism_and_Theory.pdf)
Toàn bộ cuốn sách đều đáng đọc, tuy nhiên, do vụ ĐTT nên tôi chỉ đọc lại chương về Hậu hiện đại Postmodernism (chương 29), vì qua những gì tôi đọc được trên báo chí thì tôi tin rằng ĐTT đã dựa trên quan điểm hậu hiện đại để phân tích và đưa ra những kết luận trong luận văn của mình về nhóm Mở miệng. Và càng đọc, tôi càng có cơ sở để tin rằng nếu xét theo hai tiêu chí về chất lượng của một nghiên cứu khoa học như đã được cậu học viên cao học của tôi nêu ra ở trên, thì kết quả 10/10 cho Đỗ Thị Thoan có lẽ là xứng đáng, vì:
- LV đã chọn một đề tài mới mẻ (tiêu chí 1),
- LV đã chọn một khung lý thuyết phù hợp để thực hiện phân tích, ở đây là lý thuyết hậu hiện đại (tiêu chí 2). Tất nhiên, vì chưa đọc LV nên tôi không thể bàn thêm được là những phân tích của ĐTT có thực sự logic theo chính khung lý thuyết mà tác giả đã chọn hay không.
Như vậy, theo tôi thì vấn đề cần bàn về LV của ĐTT nên xét theo những tiêu chí khoa học rõ ràng, và kết luận trên cơ sở những tiêu chí đó. Còn việc sử dụng kết quả nghiên cứu đó, ví dụ có cho phép phổ biến rộng rãi nội dung của LV hay không, có nên đem áp dụng những quan điểm của tác giả trong việc quản lý văn hóa, nghệ thuật hay chưa thì đó lại là vấn đề khác, vấn đề của các nhà quản lý và các nhà chính trị, không phải là chuyện khoa học.
Tôi nghĩ, hiện nay chúng ta đã mở cửa và hội nhập sâu rộng về nhiều mặt với thế giới, và các nhà khoa học của ta cần phải tiếp cận cũng như có khả năng sử dụng các lý thuyết mới trong các ngành khoa học, trong đó có ngành lý luận văn học. Vì không có lý gì mà chúng ta lại buộc các nhà khoa học chỉ được áp dụng duy nhất một quan điểm, ví dụ quan điểm Mác-xít, để phân tích mọi hiện tượng, khi thế giới đã phát triển nhiều lý thuyết mới để lý giải các hiện tượng đa dạng và phức tạp trong xã hội.
Nếu vì lý do gì đó mà phải buộc mọi người chỉ được theo một quan điểm duy nhất thì có lẽ chúng ta phải xem xét lại rất nhiều chính sách khác nữa: có nên cho phép mọi người đi du học không, có nên thu hút các nhà khoa học trên thế giới đến làm việc với chúng ta hay không, có nên kiểm duyệt mọi thứ sách báo gửi vào VN hay không, có nên cho mọi người tiếp cận Internet và đài phát thanh, truyền hình nước ngoài hay không, và có lẽ, quả thật thế, có nên mở trường đại học để mọi người đi học hay không, hay nên đóng cửa hết các trường đại học và mở ra các công trường, nông trường để mọi người vào đó lao động, như TQ thời cách mạng văn hóa, hoặc Bắc Triều Tiên hiện nay.
Cuối cùng, để mọi người cùng có chung một số thông tin về lý luận hậu hiện đại, xin trích dịch (dịch ý, không dịch từng từ) và tóm tắt ở đây một số điểm quan trọng trong chương sách mà tôi đã đề cập ở trên (hậu hiện đại):
[T]he postmodern appears to welcome and embrace a thinking of itself in terms of multiplicity. It resists the totalizing gesture of a metalanguage, the attempt to describe it as a set of coherent explanatory theories. Rather than trying to explain it in terms of a fixed philosophical position or as a kind of knowledge, we shall instead present a ‘postmodern vocabulary’ in order to suggest its mobile, fragmented and paradoxical nature. (p. 261)

Đặc điểm cốt lõi của trường phái hậu hiện đại là tính "đa diện"; nó không chấp nhận một hệ thống siêu ngôn ngữ để mô tả nó theo bất kỳ một hệ thống lý luận cụ thể nào. Những thuật ngữ được dùng để mô tả nó cho thấy nó là một hệ thống động (mobile), rời rạc (fragmented), và đầy nghịch lý (paradoxical).

Little and grand narratives

One of the best-known distinctions in the postmodern is that made by Jean- François Lyotard concerning what he calls ‘grand’ narratives and ‘little’ narratives. ‘Grand narratives’ such as Christianity, Marxism, the Enlightenment attempt to provide a framework for everything. Such narratives follow a ‘teleological’ movement towards a time of equality and justice: after the last judgement, the revolution, or the scientific conquest of nature, injustice, unreason and evil will end.

Lyotard argues that the contemporary ‘worldview’, by contrast, is characterized by ‘little narratives’. Contemporary Western discourse is characteristically unstable, fragmented, dispersed – not a world-view at all. ‘Little narratives’ present local explanations of individual events or phenomena but do not claim to explain everything. Little narratives are fragmentary, non-totalizing and non-teleological. Lyotard claims that, in the West, grand narratives have all but lost their efficacy, that their legitimacy and their powers of legitimation have been dispersed. Legitimation is now plural, local and contingent. No supreme authority – Marx, Hegel or God – can sit in judgement.

Theo Jean-Francois Lyotard, trường phái hậu hiện đại phân biệt rạch ròi giữa "những kế hoạch lớn" và "những câu chuyện vặt". Những kế hoạch lớn như của Đạo Thiên Chúa, hay của Chủ nghĩa Mác, hoặc của Thời Khai sáng nhắm đến việc đưa ra một khung giải thích cho toàn bộ thế giới. "Những kế hoạch lớn" như vậy tin rằng thế giới này vận động theo một hướng sao cho cuối cùng chúng ta sẽ đạt được sự bình đẳng và công lý: sau cuộc phán xét cuối cùng, hay sau một cuộc cách mạng, hoặc sau sự thành công của khoa học trong việc khám phá thiên nhiên, thì những bất công, sự phi lý và các ác sẽ phải chấm dứt.

Lyotard lập luận rằng quan điểm đương đại về thế giới thì ngược lại với quan điểm trên, và đặc điểm của nó là "những câu chuyện vặt". Câu chuyện của thế giới phương tây hiện đại ngày nay thì bất ổn, rời rạc, đứt khúc - hoàn toàn không có một thế giới quan nào cả. "Những câu chuyện vặt" thì vụn vặt, không thể khái quát hóa và không có mục đích. Lyotard khẳng định rằng ở phương Tây giờ đây "những kế hoạch lớn" không còn hiệu nghiệm, và sức mạnh cũng như tính chính danh/hợp pháp của nó hầu như đã mất. Tính hợp pháp/chính danh hiện nay có các đặc điểm là đa dạng, đậm màu sắc địa phương, và chỉ có giá trị tạm thời. Không còn Đấng tối cao nào - Marx, hay Hegel, hay Thượng đế - có thể ngồi trên tòa cao mà phán xử được nữa.
(Ghi chú: Nhà văn Vũ Hạnh gọi "Grand narratives" (mà tôi dịch là "những kế hoạch lớn") là "đại tự sự". Một cách xử lý ngôn ngữ theo tôi là gọn gàng và đạt cả tín và nhã; cách dịch của tôi thì chưa đạt lắm và chỉ có thể gọi là "diễn dịch" mà thôi.)
Vâng, "không còn Đấng tối cao". Từ trước năm 1975 nhạc sĩ TCS (hình như thế) cũng đã thốt lên: Chúa đã bỏ loài người... Chẳng lẽ nền lý luận của chúng ta, những người Mác-xít và vô thần, những người tin vào biện chứng pháp, lại muốn biến Marx hay ai đó thành đấng tối cao mới để ngồi trên tòa cao phán xử hay sao?
Vũ Thị Phương Anh
Theo blog Giáo Dục Việt Nam

Lan man từ bộ phim “The Hunt” của Đan Mạch đến…Giải Cánh Diều Vàng ở VN!

Song Chi – RFA


Trẻ con không nói dối. Người lớn hay nghĩ như thế. Và chính vì vậy, khi cô bé Klara, chỉ mới ở lứa tuổi mẫu giáo, nói với một nhân viên của trường rằng thầy giáo Lucas đã có hành vi thể hiện bộ phận sinh dục của mình và có những tình cảm khác lạ với cô bé, người lớn đã tin Klara. Không ai biết rằng những lời nói dối của Klara xuất phát từ nỗi tự ái, hờn dỗi rất trẻ con khi cô bé bộc lộ tình cảm quý mến thầy giáo nhưng được thầy nghiêm khắc và từ tốn “chấn chỉnh”. Còn những hành vi mà cô bé cố gắng mô tả rằng thầy giáo đã làm, lại từ những hình ảnh khiêu dâm mà cậu anh trai đã đưa cho cô bé xem.
Từ các nhân viên nhà trường, câu chuyện đến tai ba mẹ Klara, các phụ huynh khác, và lan ra cả cộng đồng đang chung sống trong một ngôi làng nhỏ bé, vốn rất bình yên ở Đan Mạch. Lucas, một người đã ly dị vợ, đang cố gắng duy trì mối quan hệ tốt với con trai và có một người bạn gái, Nadja, chỉ mới ở giai đoạn bắt đầu, một người rất yêu trẻ và có biệt tài khiến cho những đứa trẻ yêu quý mình, đã bị cả làng xem như một kẻ bệnh hoạn, mắc chứng ấu dâm. Ngay cả sau đó, khi Klara thừa nhận đã nói dối, mẹ cô bé vẫn không tin, người lớn vẫn không tin.
Tình bạn của Lucas với Theo, cha của Klara bị tan vỡ, áp lực khiến anh phải chia tay Nadja, con trai anh cũng bị công khai tẩy chay. Mọi chuyện càng lúc càng trở nên căng thẳng hơn, và bạo lực đã xảy ra. Cho đến khi chính Theo nhận ra Lucas vô tội, thì Lucas đã phải trải qua những tháng ngày bị tổn thương nặng nề, và cũng chưa phải là đã hoàn toàn vượt qua được những dư chấn của sự việc, từ bên ngoài xã hội và ngay chính bên trong anh, nhưng không vì thế mà tình cảm của anh dành cho những đứa trẻ, kể cả Klara, có thể bị ảnh hưởng…
Bộ phim “The Hunt” (tiếng Đan Mạch: “Jagten”)có đề tài, cốt chuyện đơn giản, bối cảnh là một làng quê nhỏ, không dàn dựng nhiều, ít tốn kém. Nhưng vẫn rất ám ảnh người xem. Các tình tiết được xây dựng một cách hợp lý với sự căng thẳng, kịch tính tăng dần, diễn xuất của các diễn viên, kể cả của cô bé Annika Wedderkopp vai Klara, chân thực và thuyết phục. Mở một cái ngoặc, đóng vai Lucas là Mads Mikkelsen, một diễn viên rất nổi tiếng của Đan Mạch, từng được đề cử hoặc đoạt nhiều giải thưởng quốc gia và quốc tế. Nhưng với số đông khán giả không phải là người Đan Mạch, họ có thể sẽ nhớ đến anh hơn trong vai Le Chiffre, nhân vật phản diện sắc nét trong bộ phim “Casino Royal” sản xuất năm 2006, với Daniel Craig vai James Bond.
Không có gì lạ khi “The Hunt” đã được đề cử và đoạt nhiều giải thưởng khác nhau tại hàng loạt liên hoan phim lớn trên thế giới, trong đó có giải Best Foreign Independent Film, Best Danish Film, Best Actor tại British Independent Film Awards 2012; Best Actor tại Cannes Film Festival 2012; Best Screenwriter tại European Film Awards 2012 và là 1 trong 5 phim được đề cử giải Best Foreign Language Film tại Oscar lần thứ 86, 2014.
Lại mở thêm một cái ngoặc thứ hai, điện ảnh Đan Mạch đã 10 lần được đề cử Oscar, trong đó có 3 lần đoạt giải, với các phim “Babette’s Feast” (1987), “Pelle the Conqueror” (1988), “In a Better World” (2010).
Đan Mạch cũng như các quốc gia Bắc Âu khác, có đời sống xã hội rất ổn định, bình yên. Bình yên đến nỗi có lẽ lắm lúc, từ các nhà văn cho tới nhà làm phim chẳng biết tìm đâu ra đề tài để sáng tác! Họ phải đi vào những đề tài tạm gọi là nhỏ như “The Hunt” hay những bị kịch dữ dội sâu bên trong nội tâm con người như “Breaking the Waves”, “Dancer in the Dark” hay mới đây nhất, “Nymphomaniac” của đạo diễn Lars Von Trier.
Chẳng bù cho VN! Những người làm nghề sáng tác ở các nước Bắc Âu hẳn sẽ phải thèm muốn, ganh tị với các đồng nghiệp ở VN khi mà trong cuộc sống hàng ngày đã có khối đề tài, câu chuyện hay. Nhà văn cho tới người làm phim nhiều khi chẳng cần phải bịa ra, cứ lấy từ trong đời thường, hoặc từ báo chí, truyền thông, đã có biết bao nhiêu cảnh đời, số phận, tình tiết có thể làm thành những tác phẩm hay. Vậy mà, không dám đụng tới văn học, chỉ nói riêng phim ảnh, VN vẫn rất hiếm khi có phim coi được, chứ chưa nói hay, càng chưa nói đến khả năng đi tranh giải tại Oscar, Cannes, Venice…
Như vậy vấn đề không phải là thiếu đề tài, cũng chưa chắc đã là thiếu tiền.
Một sự ngẫu nhiên, khi vừa xem xong bộ phim “The Hunt” chưa bao lâu, người viết bài lại đọc được những thông tin xung quanh lễ trao giải thưởng Cánh diều Vàng 2014 tại VN. Có vẻ như không lấy gì làm vui, từ chương trình, chất lượng phim tham gia, cho đến chất lượng phim đoạt giải cao nhất. Có thể kể ra đây một số bài viết đăng trên các tờ báo trong nước: “Giải Cánh diều vàng 2014: Thiếu vắng phim nghệ thuật!” (Lao Động), “Giải Cánh Diều 2014: Bốn ngày, gần chục phim thảm họa” (Tiền Phong), “Nhàm chán vì “thảm họa” điện ảnh”(VTC), “Cánh diều vàng…đứt dây” (Petrotimes), “Giải Cánh diều quay ngoắt 180 độ” (Người Lao Động), “Thần tượng” và bệnh phim Việt” (Tiền Phong) v.v…
Tự nhiên lẩn thẩn nghĩ nếu một kịch bản phim như “The Hunt” đem đi chào hàng ở VN, có thể có cơ hội làm thành phim không? Chắc chắn là không. Thứ nhất, với các hãng phim nhà nước, thì một đề tài, câu chuyện như “The Hunt” sẽ bị coi là tầm thường, không có gì (!). Các hãng phim nhà nước thường chỉ đặt hàng những bộ phim mà dân trong nghề gọi là “phim cúng cụ”, nghĩa là phim làm về những đề tài có tính chất tuyên truyền cho nhà nước, hoặc để kỷ niệm, tưởng niệm một ngày lễ lớn, một sự kiện cách mạng nào đó.
Cũng có khi các hãng phim nhà nước duyệt cho những bộ phim được gọi là “phim nghệ thuật”, nhưng cái khổ ở đây là những bộ “phim nghệ thuật” đó cũng chưa hay, vấn đề không nằm trong đề tài, hay kinh phí (dù mọi người vẫn cứ hay kêu ca không có tiền làm phim hay) mà nằm trong cái đầu của chính người làm phim-từ người viết kịch bản, đạo diễn cho tới người chịu trách nhiệm kiểm duyệt, chấp nhận cho kịch bản A,B,C…được sản xuất.
Chưa nói đến bộ phận kiểm duyệt, chính những người sáng tác cũng còn mãi loay hoay thế nào là phim nghệ thuật (!), nhiều lúc, những cái mà chúng ta sáng tác ra lại giả, dở hơn thực tế cuộc sống rất nhiều, hoặc nhiều lúc, cứ tưởng rằng sáng tạo, đột phá, là phải lao vào những đề tài như đồng tính hay khai thác những cảnh nóng trên phim, chẳng hạn.
Trở lại với điện ảnh Đan Mạch, một quốc gia chỉ có hơn 5 triệu dân và không phải thuộc loại có bề dày nếu so với nhiều nền điện ảnh lớn khác của thế giới, những người làm phim Đan Mạch có thể đi vào những đề tài đơn giản như “The Hunt” nhưng khi cần táo bạo, dữ dội, chẳng hạn, khi khai thác đời sống tình dục trên phim, liệu ở VN có dám làm những cảnh trần trụi đến tận cùng, không chút ngần ngại, không chút định kiến, kiểu như “Nymphomaniac” của Lars Von Trier và khá nhiều phim thuộc loại này của các đạo diễn Đan Mạch?
Tất nhiên là những bộ phim dữ dội về những khía cạnh khác nhau trong đời sống tình dục của con người, đặc biệt chứng nghiện sex, như “Nymphomaniac” không bao giờ được phép sản xuất, phát hành ở VN. Nhưng chưa cần nói đến bộ phận kiểm duyệt, chính những rào cản trong tư duy cũng đã khiến người sáng tác tự kiểm duyệt, tự biên tập hoặc có những cái nhìn chưa thật thoải mái để có thể làm những bộ phim như vậy. Vậy thì cái mà chúng ta cho là táo bạo, sáng tạo trong cảnh nóng, hay đề tài đồng tính, thực tế chả ăn thua gì so với các nước khác. Trong khi đời sống ở VN có quá nhiều đề tài, câu chuyện hay thì chúng ta lại không khi thác được.
Còn đối với các hãng phim tư nhân, những đề tài, câu chuyện như “The Hunt” lại càng không bao giờ được họ đồng ý bỏ tiền ra để làm. Tại sao? Các nhà sản xuất phim tư nhân ở VN luôn luôn đặt yêu cầu trên hết là phải có khách, phải từ thu hồi vốn cho đến có lãi, với người làm phim. Nếu bạn đưa một kịch bản nào đó cho các hãng phim tư nhân, họ sẽ yêu cầu bạn “phải có chiêu, trò” để câu khách.
Chiêu, trò ở đây có thể là phải luôn luôn chạy theo những món ăn mới, từ thể loại, đề tài, hết phim hài thì là phim hành động, rồi võ thuật, cổ trang, kinh dị, phim ma…Phim hài thì phải ra sức chọc cười khán giả, với sự có mặt của các nghệ sĩ hài tên tuổi, phim hành động đấm đá, đấu võ, các màn bạo lực, phim tình cảm với các cảnh cởi, nóng, và sẽ thu hút khán giả hơn nếu làm về những đề tài như giới showbiz, người mẫu, ca sĩ, thời trang, những cảnh ăn chơi vũ trường, nhà lầu xe hơi, quần áo lượt là, hoặc giới tuổi teen nhí nhố…
Thêm một nguyên tắc bất di bất dịch: phải có sự góp mặt của người nổi tiếng, có thể là diễn viên nổi tiếng, ca sĩ nổi tiếng, hot girl, hot boy, danh hài…bất kể họ có hợp vai hay không. Phải có những màn dàn dựng hút mắt v.v…
Cuối cùng là khán giả, thường ở VN siêng đến rạp là giới trẻ, vốn quen được/bị các nhà làm phim dụ đến rạp bằng các chiêu trò như vậy, cũng sẽ không bỏ tiền để coi những bộ phim không có người đẹp, không có các yếu tố câu khách như…“The Hunt”.
Trong một môi trường với những quan niệm làm phim, thưởng thức phim, kiểm duyệt, đánh giá phim như thế, phim VN bị chia thành hai loại, hai dòng rõ rệt gọi là phim nhà nước, “phim nghệ thuật” (tự xưng, trong ngoặc kép) và phim tư nhân, phim giải trí. Nhưng cái đáng nói là phim nghệ thuật lại chưa đạt đến mức nghệ thuật, phim giải trí cũng chưa thật sự đã đời con mắt, xứng đồng tiền. Phim dở thì nhiều, có những phim còn bị báo chí, dư luận gọi là phim thảm họa, nên cứ mỗi lần liên hoan phim, giải Bông Sen, Cánh diều…Ban tổ chức lại phải vơ vét tất cả phim vào tham dự cho đông vui một chút rồi cuối dùng đành trao giải cho phim nào tạm gọi là đỡ dở hơn một chút!
Có lẽ hai điều trước mắt mà chúng ta phải làm, và cũng không tốn kém gì, đó là nâng cao thị hiếu xem phim của khán giả, như trong bài “Bắt đầu từ việc được xem phim hay” mà người viết bài này đã đề cập (để không còn có thể đổ thừa vì thị hiếu của khán giả như thế nên phải làm phim như thế) và thay đổi quan niệm làm phim, thế nào là phim hay, thế nào là phim nghệ thuật, thế nào là đề tài lớn, nhỏ…bởi không có đề tài dở hay tầm thường, chỉ có những kịch bản dở và phim dở mà thôi.
Thay đổi quan niệm làm phim còn là thôi chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài trong khi nhân vật thì mờ nhạt không sức sống, hoặc ngược lại, cứ “âm mưu” rao giảng một thông điệp gì đó hết sức to tát trong khi người xem phim đâu cần ai phải dạy dỗ họ!

Biểu tình chống Trung Quốc chiếm trụ sở Quốc hội Đài Loan

Sinh viên chiếm giữ nhà Quốc hội trương biểu ngữ phản đối hợp tác với Trung Quốc đại lục, ngày 18/3/2014.
Sinh viên chiếm giữ nhà Quốc hội trương biểu ngữ phản đối hợp tác với Trung Quốc đại lục, ngày 18/3/2014.  REUTERS

Trọng Nghĩa -RFI

Vào sáng nay, 19/03/2014, hàng trăm sinh viên và các nhà đấu tranh vẫn bám trụ trong tòa nhà quốc hội Đài Loan ở Đài Bắc mà họ đã xông vào chiếm đóng. Họ là một phần của hàng ngàn người biểu tình trước trụ sở Quốc hội Đài Loan từ tối hôm qua để phản đối một thỏa thuận đầu tư ký với Trung Quốc mà đảng cầm quyền muốn dùng sức thông qua không cần thảo luận.
Đối với những người biểu tình, đây là một thỏa thuận thiếu công bằng. Thông tín viên RFI Clément Robin đã có mặt bên cạnh người biểu tình để ghi nhận thái độ bất bình của họ :
« Cảnh sát cút đi ! ». ” Đây là những gì hàng ngàn người Đài Loan đã thét lên trước hàng rào cảnh sát trấn giữ bên ngoài trụ sở Quốc hội. Không có sự cố nghiêm trọng xẩy ra, chỉ có bốn cảnh sát bị thương nhẹ. Tuy nhiên thái độ có vẻ ôn hòa đó không trấn an được những người biểu tình.
Theo Tina, một nữ sinh viên 22 tuổi, nhiều người bạn của cô đang bám trụ bên trong Quốc hội. Cô tin rằng Đài Loan là một nước dân chủ, nên sinh viên sẽ không bị đàn áp dã man. Tuy thế cô cũng lo ngại trước khả năng bạn bè cô bị thương tích.
Đã có khoảng ba trăm sinh viên và thành viên các tổ chức đấu tranh xông vào trụ sở Quốc hội từ 10 giờ rưỡi tối qua, và trấn giữ nơi đó không cho cảnh sát tiến vào trục xuất họ. Họ không mang theo nhiều thức ăn, và đã chất ghế bàn để chặn lối vào tòa nhà, và cố đẩy lùi một cách khó khăn các đợt tấn công của khoảng 1000 cảnh sát.
Nguyên nhân dẫn đến biểu tình là thỏa thuận trong lãnh vực dịch vụ đã ký kết với Trung Quốc. Những người phản đối văn kiện này lo ngại làn sóng người từ Trung Quốc tràn sang làm việc tại Đài Loan với giá rẻ.
Có điều là do thiếu nhất trí giữa đảng cầm quyền và phe đối lập, cuộc thảo luận dự trù tại Quốc hội Đài Loan về thỏa thuận này lại không diễn ra, khiến cho đảng cầm quyền quyết định cho bỏ phiếu thẳng mà không cần thảo luận.
Đối với Mike, có mặt trong số người biểu tình khác, quyết định đó là một đòn tấn công nghiêm trọng nhắm vào nền dân chủ. Anh đòi hỏi là Quốc hội phải được quyền xem xét lại toàn bộ thỏa thuận, theo từng trình tự một, và các đại biểu Quốc hội phải minh bạch hơn, phải giải thích rõ ràng cho người dân những gì đã thực sự xảy ra bởi vì sự việc đang diễn ra không rõ ràng chút nào.
Cho đến giờ này, những người biểu tình vẫn tỏ ra kiên quyết. Số người trước trụ sở Quốc hội Đài Loan càng lúc càng đông. Mục tiêu của họ là giữ quyền kiểm soát địa điểm này cho đến phiên họp mới của Quốc hội, dự kiến ​​vào thứ Sáu tới đây.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét