Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Nghĩa trang liệt sĩ nơi biên giới - Bỏ Đảng vì 'nhiều lý do khác nhau' - Dân một đằng, chính quyền một nẻo

Bỏ Đảng vì 'nhiều lý do khác nhau'

Ông Đặng Xương Hùng nói ông đã theo Đảng Cộng sản 30 năm
Cựu lãnh sự Việt Nam ở Thụy Sỹ, ông Đặng Xương Hùng, nói với BBC có nhiều yếu tố khác nhau khiến ông rời bỏ Đảng Cộng sản và xin tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ.

Ông nói ông đã có 30 năm theo Đảng Cộng sản và đã phải quyết định "đi nốt con đường còn lại hoặc tỏ thái độ".

Một trong những lý do khiến ông rời bỏ Đảng là những thay đổi mà ông và nhiều người mong đợi đã không đến trong lần sửa đổi Hiến Pháp vừa qua.

"Cái thay đổi đó nó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, nó phù hợp với yêu cầu của cả dân tộc, nó phù hợp với xu thế chung của cả thế giới hiện nay, ông Hùng nói.

"Ta đã sang đến thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn Chủ nghĩa Mác Lê-nin, vẫn còn tương tự như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba thì ra nước ngoài thật ngượng."

Khi được hỏi về lý do chính khiến ông có quyết định "tỏ thái độ" khi đã ngoài 50 và có nhiều năm làm việc trong ngành ngoại giao và liên quan những đồn đoán về những lý do cá nhân như vợ và con ông đã đang ở Thụy Sỹ, ông nói:

Cựu lãnh sự giải thích lý do xin tị nạn
"Thật ra tôi không loại bỏ bất cứ yếu tố nào cả.

"Bởi vì từ bỏ những yếu tổ đó là từ bỏ những sự thúc đẩy của quyết định của mình bởi vì quyết định của mình là sự giằng xé rất nhiều những yếu tố khác nhau, từ yếu tố quan điểm chính trị của mình cho đến yếu tố giàn xếp vấn đề gia đình, cho đến những yếu tố giằng xé quan hệ bạn bè rồi những yếu tố về đồng nghiệp, sự quan hệ với nhau bởi vì sự ra đi của mình có thể làm cho một số người rất khó xử.

"Tôi có thuận lợi hơn là tôi có vợ con ở bên này và cái đó là yếu tố thuận lợi hơn so với người khác để mình dễ vượt qua, dễ tỏ thái độ của mình."

Ông Hùng nói vợ ông và hai con sống và học tập ở Thụy Sỹ từ năm 2000 khi ông tới làm việc ở Bỉ lúc con trai ông mới chín tuổi và con gái ba tuổi.

Cựu lãnh sự nói thêm người thân của ông ở Việt Nam rất lo lắng và khuyên ông không nên nói thêm nữa trong khi "nhiều bạn bè im lặng và không có trao đổi tiếp tục nữa."

Ngoại giao 'kênh' với công an

Đề cập tới phiên điều trần nhân quyền hôm 5/2 của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, ông Hùng đánh giá Hà Nội đã có tiến bộ khi cả Thứ trưởng Hà Kim Ngọc và Đại sứ Nguyễn Trung Thành đều khẳng định phiên kiểm điểm nhân quyền vừa qua là trao đổi "hai chiều" và Việt Nam cũng cần "lắng nghe" ý kiến của các nước khác.

Nhưng ông nói ở Việt Nam có sự "kênh nhau giữa các bộ ngành" trong cách ứng xử về nhân quyền.

"Bộ Ngoại giao trong chừng mực nhất định họ cũng rất quan tâm đến nhân quyền cho người dân và người ta cũng rất quan tâm đến lo ngại của cộng đồng quốc tế đối với tình hình nhân quyền trong nước," ông Hùng nói.




Bộ Ngoại giao trong chừng mực nhất định họ cũng rất quan tâm đến nhân quyền cho người dân và người ta cũng rất quan tâm đến lo ngại của cộng đồng quốc tế đối với tình hình nhân quyền trong nước. Tuy nhiên sự mong muốn đó của Bộ Ngoại giao không hẳn gặp phải sự đồng tình của các bộ khác, thí dụ Bộ Công an, Quốc phòng ... đều có những mục tiêu khác."

Cựu lãnh sự Đặng Xương Hùng
"Tuy nhiên sự mong muốn đó của Bộ Ngoại giao không hẳn gặp phải sự đồng tình của các bộ khác, thí dụ Bộ Công an, Quốc phòng ... đều có những mục tiêu khác."

Cựu lãnh sự nói đối với một số chính trị gia Việt Nam "sự tồn vong" của Đảng được ưu tiên hơn "hòa nhập quốc tế" và ưu tiên này được đẩy lên cao trong thời gian gần đây.

Theo ông, Bộ Ngoại giao đã có những can thiệp để không xảy ra những vi phạm nhân quyền, những vụ bắt bớ mỗi khi Việt Nam cần có quan hệ tốt với các nước, nhất là Hoa Kỳ nhưng Bộ Công an có thể không nghe theo vì những lý do của riêng họ.

"Các bộ không bị ảnh hưởng về lợi ích mà chỉ có nhân dân là người được đưa ra làm vật bố thí cho căng thẳng giữa bộ này với bộ kia," ông Hùng nói.

Khi được hỏi về sự chi phối của Bộ Công an với những người công tác ở nước ngoài như trong thời gian ông làm lãnh sự ở Thụy Sỹ từ năm 2008-2012, ông Hùng nói tầm ảnh hưởng của công an Việt Nam không lớn bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Ông nói vai trò của công an ở các cơ quan ngoại giao chủ yếu là quản lý xuất nhập cảnh các đối tượng mà Việt Nam "không thích".

Ông dẫn ra trường hợp một linh mục 85 tuổi từng phục vụ trong chế độ cũ muốn từ Thụy Sỹ về Việt Nam sinh sống nhưng không thể nhập cảnh dù đã được cấp visa.

Tuy nhiên ông cũng nói ông đã can thiệp để tên của linh mục được đưa ra khỏi danh sách cấm nhập cảnh do hoàn cảnh đã thay đổi.

Ông Hùng nói với BBC ông hy vọng Thụy Sỹ sẽ chấp nhận đơn xin tị nạn của ông trên tinh thần tôn trọng nhân quyền.
Theo BBC

-’Dân một đằng, chính quyền một nẻo’

BBC


Trong lịch sử Việt Nam, dân chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền
Bất cứ một chính thể nào nếu bị dân quay mặt đi và không ủng hộ sẽ không có cơ hội tồn tại, theo ý kiến của một nhà xã hội học từ Việt Nam.
Lịch sử cho thấy các chính thể cộng sản ở Liên Xô cũ và khối Đông Âu trước đây, và các nước độc tài ở Bắc Phi và Trung Đông trong Mùa Xuân Ả-rập gần đây sụp đổ vì “xa rời” nhân dân, ông Nguyễn Đức Truyến nói.
Theo ông, từng có nhiều triều đại hùng hậu ban đầu trong lịch sử Việt Nam, nhưng đã không tránh khỏi suy vong khi đánh mất sự ủng hộ của nhân dân, những người như lời Nguyễn Trãi nói là có thể “chở thuyền và cũng có thể lật thuyền”.
Trao đổi với BBC hôm 09/2/2014 từ Hà Nội, ông Nguyễn Đức Truyến, nguyên Trưởng phòng Xã hội học Văn hóa, Viện Xã hội học Việt Nam cho rằng không có một chính thể, thể chế, đảng phái chính trị nào có thể thoát khỏi một quy luật khách quan.
Họ sẽ bị đào thải nếu đặt quyền lợi tối thượng của mình lên trên quyền lợi, lợi ích của nhân dân, dân tộc và đất nước, ông nói.
“Những thiết chế đã sụp đổ thực sự là những thiết chế đã xa dân…”

Dân tộc Việt Nam nói như là tử vi ‘tôi sinh vào giờ ấy thì chẳng làm được gì nên hồn cả’, thì tôi nghĩ không đúng
Tức là thiết chế đó chỉ hướng vào phục vụ bản thân chính thể của nó thôi, còn nó không chú ý gì đến đời sống của người dân, những nguyện vọng của người dân, cho nên dần dần người ta quay lưng lại, người ta không ủng hộ nó nữa,”
“Khi người dân đã quay lại bất hợp tác với hệ thống chính trị đó, thì hệ thống chính trị đó, cho dù thế nào, cũng không thể nào giữ được, không thể ổn định được và bản thân nó tự sinh ra lủng cũng, sinh ra mâu thuẫn và đi đến tự sụp đổ.”

Ưa ổn định hơn đột biến?

Gần đây, một nhà Việt Nam học từ Sài Gòn, giáo sư Bấm Trần Ngọc Thêm nêu quan điểm cho rằng Việt Nam có xu hướng ưa một sự chuyển đổi xã hội và thể chế “từ từ, không xáo trộn” hơn là “đột biến”, có thể gây “đổ vỡ lớn” như ở phương Tây.
Hôm 31/01/2014, giáo sư Thêm, hiện là Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Đại học Quốc gia TPHCM, nói với BBC:
“Đặc biệt với Việt Nam, nó là nền văn hóa âm tính, và cách biến đổi của nó là từ từ, không xáo trộn, không gây những đổ vỡ lớn. Trừ những giai đoạn xung đột bên trong bên ngoài, ví dụ như chống giặc ngoại xâm, thì nó lại là chuyện khác, còn khi nội bộ với nhau thì nó là sự biến đổi từ từ.”
Bình luận về quan điểm này, ông Nguyễn Đức Truyến nói:
“Tôi không đồng ý, vì vấn đề chứng minh cái đó thì không có gì chứng minh điều đó cả. Nhưng tôi lại nghĩ rằng người Việt Nam rất hay có đột biến, Cách mạng Tháng Tám là đột biến…
“Chúng ta không nói đến những nguyên nhân, không nói đến những yếu tố này, yếu tố kia, nhưng tại sao các nước khác vẫn còn đang trong vòng nô lệ, thì Việt Nam đã là nước đầu tiên thoát ra khỏi vòng nô lệ ngay sau thời kỳ Thế chiến thứ Hai, còn trước cả Trung Quốc?”
Tiến sỹ Truyến cho rằng dân tộc Việt Nam không phải là một ‘dân tộc cam chịu’ mà trái lại là một dân tộc ‘bất khuất’ qua suốt quá trình lịch sử quốc gia, dân tộc tới nay.
“Dân tộc Việt Nam nói như là tử vi ‘tôi sinh vào giờ ấy thì chẳng làm được gì nên hồn cả’, thì tôi nghĩ không đúng.”
Đầu năm Giáp Ngọ, tiến sỹ kinh tế Phạm Chí Dũng, một cây bút đấu tranh dân chủ từ Sài Gòn cho rằng một kịch bản “chuyển đổi êm dịu” mà ít nhiều tương tự cách nhìn của giáo sư Thêm đặt ra là rất khó thực hiện được khi chính quyền không giải quyết tận gốc các bất công xã hội.
Ông Dũng giải thích với BBC hôm 02/2/2014 rằng mô hình giải quyết điểm nóng của chính quyền từ nhiều năm về trước, hiện đã không còn phát huy tác dụng nữa.
Ông bày tỏ quan ngại rằng nhiều vụ xung đột với số đông người dân, dân oan tham gia có thể trở thành các thách đố thực sự với chế độ từ nay trở đi.

Thiếu kịch bản

Ông Dũng nói: “Tôi có cảm giác rằng chưa có một kịch bản hoàn hảo nào từ phía chính quyền được đặt ra để giải quyết những điểm nóng như vậy,
“Mặc dù lý thuyết về điểm nóng, giải quyết xung đột về điểm nóng đã đặt ra từ năm 2000, đặc biệt để giải quyết những phong trào đất đai, về dân oan đất đai, nhưng thực tế đã chứng nghiệm rằng lý thuyết giải quyết điểm nóng của các cơ quan chính quyền Việt Nam là không thành công.”

Các cuộc xuống đường ở Campuchia thu hút hàng nghìn người
Theo tiến sỹ Dũng, trong năm qua có những phong trào đấu tranh của người dân, như tại một huyện ven biển tỉnh Quảng Ngãi, đã buộc ban lãnh đạo tỉnh phải trực tiếp xuống địa phương đối thoại với dân.
Ông đặt vấn đề, nếu không có phương thức giải quyết thỏa đáng, những con số “một ngàn” như vậy có thể mở rộng thành “hàng chục ngàn” như ở Campuchia, và thậm chí tăng triển thành “cả triệu người” như ở Thái Lan, thì vấn đề sẽ thực sự trở nên rất khó giải quyết hơn cho chính quyền.

Vẫn còn hai mặt?

Đầu năm 2014, trong các thông điệp chính trị đưa ra dịp Tết, Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đều bày tỏ quyết tâm đẩy mạnh dân chủ, chống tham nhũng và khắc phục lòng tin của người dân với Đảng Cộng sản.
Các phát biểu được đưa ra trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị kiểm điểm về thành tích nhân quyền tại kỳ Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc (UPR) 2014 ở Genava, và muốn ký kết Hiệp định Đối tác Hợp tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tuy nhiên, theo dõi tình hình nhân quyền ở trong nước mấy năm trở lại đây, một số nhà quan sát cho rằng chính phủ dường như vẫn còn có khoảng cách giữa nói, hứa và làm, giữa có luật và thực hiện nghiêm túc luật trên thực tế.
Hôm 6/2, nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội, luật sư Trần Quốc Thuận nói với BBC:
“Pháp luật, chỉ vô hình thức, thì nhìn đâu cũng thấy có, nhưng mà rõ ràng khi áp dụng thì tùy tiện, pháp luật mù mờ và chưa có một điều luật bảo vệ quyền, nhân quyền của người công dân một cách thực sự.”
Theo luật sư Thuận, nhiều quyền cơ bản của người dân vẫn còn bị hạn chế, nhất là về các quyền tự do bầu cử, tự do báo chí, quyền phản biện với các chính sách luật pháp hiện hành chứ không chỉ là những dự thảo, dự án chính sách, luật pháp.
Ông nói:
“Luật pháp Việt Nam, cái mà người ta đang nói nhiều là quyền mang tính phổ quát nhất là được quyền ứng cử và bầu cử, mà bầu cử trên báo chí công khai, nhiều người cũng nói công khai rồi là ‘Đảng cử, dân bầu’, chứ không có một cuộc ứng cử thực sự ở Việt Nam.”

Đặng Huy Văn - Nghĩa trang liệt sĩ nơi biên giới


Đặng Huy Văn: Chỉ còn đúng một tuần lễ nữa là tới dịp kỷ niệm tròn 36 năm ngày bọn bành trướng Bắc Kinh dùng hơn 50 vạn quân tràn sang xâm lược 6 tỉnh Biên Giới phía Bắc của nước ta gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lao Cai, Lai Châu. Khoảng 5 giờ sáng ngày 17/2/1979, hàng chục vạn quân Trung Quốc đã bất ngờ tràn qua Biên Giới giết chết hơn 10 ngàn dân thường trong đó chủ yếu là ông bà già, phụ nữ và trẻ con. Đặc biêt, vì giặc Tàu tấn công đột ngột vào lúc sáng sớm nên nhiều đơn vị biên phòng và tự vệ của ta đang ngủ đã bị giặc Tàu sát hại một cách dã man. Nhiều người nay vẫn chưa tìm thấy xác do bị thất lạc, hoặc do đường biên giới bị giặc Tàu lấn vào đất ta nên nhiều xác còn kẹt lại trên phần đất đang bị Trung Quốc chiếm đóng.

Sau năm 1979, các tỉnh biên giới đã xây các Nghĩa Trang Liệt Sĩ cho bộ đội ta hi sinh trong cuộc Chiến Tranh Biên Giới Việt Trung để qui tập gần 10 ngàn liệt sĩ. Nhưng thật kỳ lạ là từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990(1), đảng ta đã cấm không cho nhân dân vào thắp hương và viếng mộ các liệt sĩ, kể cả vào ngày thương binh liệt sĩ 27/7 và ngày 17/2 hàng năm vì sợ mất lòng “các đồng chí” lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc “anh em”. Ngay tại đài tưởng niệm Liệt Sĩ Ba Đình Hà Nội, ngày 17/2/2013 năm ngoái, các cảnh vệ cũng đã nhận được mật lệnh ngăn không cho đồng bào ta mang vòng hoa vào thắp hương kính viếng các hương hồn Liệt Sĩ chống Tàu tại đó.

Trong khi các Nghĩa Trang Liệt Sĩ nơi Biên Giới phía Bắc giờ đây đã hoang tàn không được tu bổ đang ngày càng xuống cấp nghiêm trọng thì đồng chí Chiêu Thống họ Nguyễn vừa giao cho PTT Hoàng Trung Hải 25 tỷ đồng để xây dựng lại một nghĩa trang lính Tàu tại thị xã Mường Lay có 52 mồ giặc. Thật đau thương và oan khuất cho 10 ngàn Liệt Sĩ Việt Nam đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ Biên Giới Phía Bắc của Tổ Quốc trước giặc cộng sản Trung Quốc xâm lược!


NGHĨA TRANG LIỆT SĨ NƠI BIÊN GIỚI
(Kính viến hương hồn các Liệt Sĩ chống Tàu)

Nghĩa Trang Liệt Sĩ nơi Biên Giới
Xuân về buồn lắm các anh ơi!
Bên mộ chỉ nhành hoa sim tím
Lưu luyến đời trai trẻ một thời!

Nằm giữa cõi thiêng nơi vắng vẻ
Còn chăng xác lạc ở ven đồi?
Heo hút mồ hoang chờ tiếng mẹ
Ôm nắm đất cằn khóc “con ơi!”

Các anh nằm lại từ năm đó(2)
Ba sáu mùa xuân đã qua rồi
Hỏi cấp tỉnh huyện nào dòm ngó
Ai người hương khói cắm hoa tươi?

Từ ngài Chiêu Thống mang họ Đỗ
Nguyên cai giết mổ lợn một thời
Sợ hãi thiên triều sang xiết nợ
Không còn tiền cắc để mua xôi!

Đến đời Chiêu Thống thời Lê khả
Biển đảo đất liền ký nhượng không
Dâng biển, trao đất nhằm khẳng định
Đảng trên Tổ Quốc - đảng là ông!

Đến đời Chiêu Thống Nông mới lạ
Đón giặc Tàu sang bán đất rừng
Bô xít Tây Nguyên Nông nhượng cả
Để Tàu ban tước sắc phong vương!

Đến Chiêu Thống Nguyễn nay kiên quyết
Cấm dân Biên Giới viếng nghĩa trang
Bởi các anh xua “tình đồng chí”
Đuổi “tình hữu nghị hở môi răng”!(3)

Cho nên năm ngoái người viếng mộ
Đã bị Nguyễn sai cả công an
Không cho đồng bào lên biên giới
Nơi sau 79 dựng Nghĩa Trang

Mà nay lại cấp hàng chục tỷ
Xây lại nghĩa trang của lính Tàu(4)
Xưa sang “giúp đảng” rồi bỏ xác(5)
Bởi nể “cha già” quý thân Mao!

Còn xác lính ta thôi đành chịu
Quạ tha, chó gặm cả đầu lâu
Ai bảo bắn Tàu năm 79
Làm buồn lòng “bác”, đảng mình đau…

Đứng trước Nghĩa Trang tôi bật khóc
Dù chẳng anh em chẳng họ hàng
Mà tim ứa máu lòng quặn thắt!
Bởi ai đời mẹ trắng khăn tang?

Hà Nội, 10/2/2014
Ts. Đặng Huy Văn


(1). ĐỌC LẠI HỒ SƠ BÁN NƯỚC: HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990
(2). Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979 – Wikipedia tiếng Việt
(3). “Bác” Hồ từng nói: “Tinh hữu nghị Việt Trung như môi với răng, môi hở thì răng lạnh”.
(4). Phó thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải đổ tiền tỷ xây nghĩa trang ...
(5). Trong thập niên 1960, “bác” Hồ đã mời 32 vạn bộ đội Trung Quốc sang đóng quân trên Miền Bắc Việt Nam để giúp ta đánh Mỹ dưới danh nghĩa “sang giúp làm đường”.

Muốn Làm Văn Hóa, Tất Phải Có Văn Hóa !

Từ thời hồng hoang, hầu như dân tộc nào cũng có các nghi lễ Hiến Sinh, tức "Hiến Tế Bằng Vật Sống".

"Vật Sống" ấy ban đầu chính là con người. Thông thường, người bị / được "hiến sinh" là những tù binh, nô lệ, những kẻ có thân phận, địa vị thấp kém ... ; nhưng đôi khi, trong những dịp đặc biệt, lại là những con người được yêu quý, trân trọng trong gia đình, thị tộc, bộ lạc, nhà nước ... cử hành nghi lễ ấy, như đồng nam, đồng nữ, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa ... vv ...

Trong kinh Cựu Ước có chép việc Abraham đã dùng chính người con một yêu dấu Yzac của mình để hiến tế đức Chúa Trời, nhưng sau đó Chúa Trời đã hiện ra ngăn chận, và thay thế lễ vật hiến tế bằng một con cừu. Điều đó được xem như là một cột mốc trên con đường phát triển văn minh của xã hội loài người ...

Các vua chúa, quý tộc phương Đông ngày xưa khi chết đi cũng thường được "tùng táng", "tùy táng" theo bằng những người sống, vật sống, vật thật ..., nhưng dần dần theo đà phát triển văn minh, đã được thay thế bằng những hình nhân, đồ tùy táng bằng gốm mang ý nghĩa biểu tượng, và cho đến ngày nay là hàng mã được sử dụng trong khắp dân gian ...

Những lễ hội "đâm trâu", "chém lợn" còn tồn tại ở Việt Nam cần bị xem là dấu vết của tình trạng kém văn minh ...

GS.TS Ngô Đức Thịnh – Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia cho rằng :

Chỉ có những người không hiểu gì về lễ hội, hay về những ý nghĩa của nó mới cho rằng đó là những lễ hội "man rợ".

Nhưng dường như ông đã lầm lẫn giữa "Lễ Hội Ăn Trâu" và "Lễ Hội Đâm Trâu" của xã hội Tây Nguyên. Người Tây Nguyên có nhiều lễ hội lớn nhỏ, từ "Ăn Gà" là lễ hội nhỏ, "Ăn Heo" là lễ hội vừa, đến "Ăn Trâu" là lễ hội lớn, trong đó, gà, heo, trâu bị giết thịt theo cách thức thông thường ... Các lễ hội này diễn ra thường xuyên theo vòng đời con người : sinh ra, trưởng thành, chết đi ... ; hay theo chu kỳ thiên nhiên : mùa màng, mưa nắng ... Còn "Lễ Hội Đâm Trâu", trong đó con trâu bị đâm chém dã man cho đến chết, một cái chết đến từ từ trong đau đớn, thì không theo một chu kỳ nào cả, mà chỉ được tổ chức nhân những dịp thật đặc biệt, như "thắng trận" chẳng hạn ... Mà ngày nay, xung đột giữa các buôn làng đã chấm dứt, nên "Lễ Hội Đâm Trâu" hầu như không còn lý do để tồn tại. Những cái đầu làm văn hóa dốt nát và quan liêu đã buộc người Tây Nguyên phải làm "Lễ Hội Đâm Trâu" trong những dịp liên hoan, "festival", cho bọn chúng, trong đó có ông, hách dịch và chễm chệ ngồi xem, chính là một hình thức cưỡng bức văn hóa ...

Còn nguồn gốc của "lễ hội chém lợn" thờ Thành Hoàng làng tại Ném Thượng : Một là câu chuyện dã sử liên quan tới danh tướng Đoàn Thượng cuối thời Lý : Khi Trần Thủ Độ soán ngôi Lý Huệ Tông, tướng Đoàn Thượng đã hưng binh chống lại Trần Thủ Độ và bị thua chạy lên tận làng Niệm Thượng. Thời ấy, rừng núi hoang vu, lợn rừng nhiều vô kể mà lương thảo lại thiếu thốn. Quân tướng Đoàn Thượng đã phải chém lợn nuôi quân. Hai là câu chuyện xưa kia có một tên trộm, bị dân làng truy đuổi phải trốn lên rừng, bị nhốt lâu ngày không có lương thực mà phải giết lợn rừng sống qua ngày, rồi trải qua thời gian, không hiểu vì lý do gì mà trở thành Thành Hoàng, được thờ trong đình làng. Với những nguồn gốc như thế, thì việc hiến tế hoàn toàn có thể được chuyển sang hình thức biểu tượng, như làm một con lợn giấy thật to, trang trí thật sặc sỡ bằng hoa lá bánh trái để người dự hội có thể "thụ lộc" mang về ..., hay làm những con lợn bằng xôi, bằng bánh, bằng tranh dân gian Đông Hồ ... để phân phát "lộc" cho người dự hội ..., tránh cảnh giết chóc máu me man rợ, cổ súy bạo lực trong những ngày đầu năm, nhằm xây dựng một nền văn hóa hiếu hòa, thích hợp với thời kỳ hòa bình và phát triển của đất nước, dân tộc ...

Từ "vô thần" cực đoan, đả phá vô tội vạ mọi tín ngưỡng, rồi lại chuyển qua "hữu thần" cực đoan, cổ súy vô tội vạ mọi tín ngưỡng, cho thấy một xã hội chao đảo ... Chao đảo mãi, tất cuối cùng sẽ quỵ ngã ...

Cổ súy những lễ hội máu me, bạo lực, có lẽ cũng nằm trong ý chí của một nhà nước hiếu chiến chăng !? Khi mà cứ mỗi độ Tết đến Xuân về, lại rêu rao các "chiến công" núi xương sông máu "tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân" - "Một dải khăn tang cho Huế và đồng bào Miền Nam", "mùa xuân đại thắng 1975" - "Có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn" ... !? ...

Xin nhớ cho : Muốn Làm Văn Hóa, Tất Phải Có Văn Hóa !!!
Canh Lê
(fb. Canh Le) 

Hạ đình Nguyên - Thằng Bờm thời nay

Tôi cố gắng đọc cho hết thư chúc Tết của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, rồi đến Lời chúc Tết của TBT Nguyễn Phú Trọng. Đọc xong, không biết làm gì hơn, tôi lấy cuốc ra góc vườn làm cỏ, trong trí cứ hiện lên câu chuyện: “ Thằng bờm có cái quạt mo”.

Thằng Bờm là câu chuyện được truyền tụng trong dân gian, rất lâu đời và phổ biến mà không người dân nào không biết. Câu chuyện thì ngắn gọn, gồm những câu thơ lục bát, sự kiện diễn ra đơn giản, lời lẽ lại mộc mạc, nhưng triết lý của nó lại thâm hiểm, độc đáo tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau, tùy cái tâm của người thưởng thức. Vì thế, nó là nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo trong dân gian về những “thằng bờm” khác nhau tùy theo hoàn cảnh. Như cái tưởng tượng gây cười bể bụng của nhà văn Trần Văn Thủy, về đoạn phim cha con thằng Bờm trong loạt phim “Hà Nội trong mắt ai”

Ở vào thời đại xã hội chủ nghĩa, tất nhiên cũng có những “thằng Bờm xhcn”, mà tính chất trào lộng, bi hài, chua chát gấp bội lần nguyên bản của một thời đại văn minh lúa nước, vừa thấy thương mà tội nghiệp, như nhóm “thằng Bờm cưa đá” ở vườn hoa Lý Thái Tổ Hà Nội ( để phá lễ kỷ niệm 40 năm mất Hoàng Sa), nhóm ‘thằng Bờm ném mắm tôm”( để phá việc phát tờ rơi về tuyên ngôn nhân quyền), nhóm “thằng Bờm cướp dải băng” trên vòng hoa tang ông LHĐ ở TP HCM ( vì ông LHĐ là người “khác” chính kiến), hay nhóm thằng Bờm “diễn” Tết trồng cây cổ thụ, lại tưới bằng vòi sen dùng cho tưới hoa hoặc rau cải của những lãnh đạo cười toe và nhóm tùy tùng cười nịnh (!!!). Những cái bi hài của các thằng Bờm xhcn nầy lại mang tính thời đại và có tổ chức hoành tráng. Cái ngốc trong “cha con thằng Bờm” là khiêng cây tre đi xà ngang, gặp cái gì vướn thì đốn bỏ, để đưa được cây tre vào nhà. Lợi có một, hại thì gấp trăm lần cho chính mình. Cái ngốc của những bờm cưa đá, bờm mắm tôm, bờm giựt dải băng, bờm Tết trông cây… có mục đích tổng thể và cao cả là để… bảo vệ Nhà nước XHCN ! Cười ra nước mắt chưa ? Người chứng kiến, hoặc chỉ nghe qua, cũng phải bi phẩn, lại vừa xót xa cho nhân vật, và cho cả hoàn cảnh đẻ ra nhân vật. Thế giới được một phen thưởng thức tài sản phi vật thể về hình tượng thằng Bờm xhcn Việt Nam độc đáo, chưa từng có ở đâu.

Đọc thư chúc Tết của các vị Nguyên thủ Quốc gia Việt Nam mà nhớ tới những ngày tháng ăn bo bo của những năm trước, quá ớn, dù cố gắng mà nuốt vẫn không trôi. Bo bo không phải là thực phẩm chính của con người, ít nhất thì người Việt cũng không quen dùng. Nhưng đó là hoàn cảnh Việt nam vừa ra khỏi chiến tranh, nhưng nay thì đã khác. Các vị có hiểu gì về người dân không ? Họ đang mong muốn gì, chờ đợi gì, đòi hỏi gì ? Những lời lẽ giáo điều, công thức, khuông sáo, vô hồn mà cực kỳ nghèo khổ đã không phải là thức ăn cần thiết của tình thế hôm nay. Vì thế, trong dân chúng không một ai nhắc lấy một lời về các lời chúc Tết của các Ngài. Còn ai hy vọng gì về một sự đổi mới.! Thử đọc các thông điệp đầu năm của các nguyên thủ quốc gia trên thế giới có giống vậy không ? Dĩ nhiên không. Nó nêu lên minh bạch những vấn đề căn bản, trọng tâm của tình hình quốc gia mà người dân trông đợi ở lời nói chính thức của kẻ cầm quyền vào dịp đâu năm. Nó không vơ vào mình thành tích của cả “nửa thế kỷ trước” để kể công, trộn lẫn với những mong muốn mông lung, cùng với những hô hào vô căn cứ, rồi thì chúc tụng và chào hỏi thân ái khơi khơi…

Thằng Bờm đã không phe phẩy mãi chiếc quạt mo của mình, nó đã cười vui vì một giá trị tương đương đã được thỏa thuận, cái quạt mo có giá trị tương đương một nắm xôi. Nó biết người biết ta, hài lòng, thực tiển, và không tham lam, không mơ hồ về một giá trị ảo..

Phú Ông, không sinh ra vào thời kỳ cải cách ruộng đất, nên hiện diện như một bậc hiền triết, độ lượng mà vui tính, đùa chơi với thằng bé, kín đáo nêu lên một thứ triết lý đạo đức về giá trị tương đương. Giá như thằng Bờm là đứa trẻ tham lam, cứ mang trong lòng một ảo tưởng phi thường, thì “đến cuối thế kỷ nầy” liệu sẽ đổi được gì với cái quạt mo ấy ?! Dân gian cũng thích vui đùa nên khai thác khía cạnh “ngốc” của Bờm để tạo niềm vui, cũng để tự trào về mình, không gây hại ai. Song, những thằng Bờm xã hội chủ nghĩa, ngày càng đông, đang gây hại vô cùng cho Chủ nghĩa xã hội, mà không biết “Chủ nghĩa xã hội” có biết không ! Rồi đây, liệu cái ghế trong Hội đồng nhân quyền, hay một chân trong cái hiệp định TPP có ổn không, do bởi cái hệ thống Bờm nầy gây ra ?

Trong ngày xuân cuốc cỏ, tôi mãi nghĩ chuyện “thằng bờm có cái quạt mo” mà thấy lòng cũng được nguôi ngoai, càng thán phục văn hóa dân gian ta tươi roi rói như ngày xuân../.

Hạ Đình Nguyên
Blog Quê Choa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét