Hoàng Sa trong những đổi chác của Kissinger
Chính sách của Mỹ trước trào Nixon, tức trước Kissinger, hoàn toàn khác.
Còn từ “trào Kissinger” trở đi là trái nghịch hoàn toàn, thậm chí cả
các đồng minh Đài Loan và Nhật Bản cũng “nếm mùi” ông này.
Nếu biết rằng vào ngày 24-4-1965, tổng thống Mỹ lúc đó là Lyndon Johnson
đã ký chỉ thị hành pháp số 11216 (Executive Order 11216) đặt Việt Nam
và toàn thể khu vực Hoàng Sa và Trường Sa “trong vùng chiến sự”, thì có
thể thấy việc chín năm sau Kissinger và Richard Nixon “buông” Hoàng Sa
là một sự bội phản không chỉ với Việt Nam mà cả với các chính quyền Mỹ
tiền nhiệm.
Hoàng Sa trong "vùng chiến sự"
Tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ (FRUS, 1955-1957 - Volume III,
China, Document 186) cho biết hôm chủ nhật 10-6-1956, tòa đại sứ Mỹ tại
Sài Gòn báo cáo việc Bộ Ngoại giao VNCH báo động với tòa đại sứ Mỹ rằng
“Chicom (quân Trung Cộng, cách gọi lúc đó của VNCH và Mỹ cùng đồng minh)
đổ bộ lên đảo Robert (đảo Hữu Nhật)”, căn cứ trên báo cáo của trạm khí
tượng của VNCH trên đảo Pattle (tức đảo Hoàng Sa) trong quần đảo
Paracels (Hoàng Sa).
Trong cuộc họp sau đó, Ngoại trưởng Mỹ Dulles bảo các cộng sự của mình
xem xét khả năng viện dẫn hiệp định kết thúc chiến tranh với Nhật Bản,
theo đó Hoa Kỳ có quyền hạn và trách nhiệm kế thừa đối với tất cả lãnh
thổ Nhật chiếm đóng trước kia. Ông cũng chỉ thị xem xét khả năng đơn
phương ra tay hành động chiếu theo tinh thần điều 8 hiệp ước SEATO (Liên
phòng Đông Nam Á), theo đó Mỹ có nhiệm vụ phòng thủ khu vực này, một
khi máy bay thám thính của hạm đội 7 xác nhận nguồn tin từ phía Sài Gòn,
và sau khi đã thăm dò đánh giá tính hiệu quả của biện pháp đề ra.
Ngày hôm sau, thứ hai 11-6-1956, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi tiếp bức điện
Deptel 4021 cho tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn và tại Đài Loan, cho biết “Các
lực lượng khả dụng của Mỹ trong khu vực sẽ đơn phương hành động buộc
Trung Cộng rút lui sau khi đã cảnh cáo”, đồng thời yêu cầu “cố đạt đến
một thỏa thuận hành động hỗn hợp lực lượng giữa Trung Hoa Dân Quốc và
Sài Gòn”.
Trong thời gian đó, hạm đội 7 phái hai tuần dương hạm và một số máy bay
thám thính đến khu vực Hoàng Sa thực hiện các cuộc thám thính trên biển,
trên không và cả trên bộ ở đảo Hữu Nhật trong hai ngày 12 và 13-6.
Trong bức điện sau đó gửi CINCPAC (bộ chỉ huy trung tâm), phó đô đốc
Ingersoll, tư lệnh hạm đội 7 kiêm tư lệnh bộ chỉ huy lực lượng Mỹ phòng
vệ Đài Loan, loan báo các kết quả thám thính:
“Thay đổi duy nhất ở Hoàng Sa trong mấy tháng qua chỉ là việc Trung Cộng
tăng người lên đảo Woody (Phú Lâm)... Hoạt động của họ hầu như chỉ là
thu gom phân chim. Không thấy binh sĩ hay vũ khí”. Và ông kết luận:
“Trong những điều kiện trên, hiện chưa đến lúc Mỹ phải quét sạch bọn
Trung Cộng ra khỏi đảo Phú Lâm. Một nỗ lực chung giữa Đài Loan và (Nam)
Việt Nam cũng không tiện...”.
Câu chuyện trên cho thấy vào năm 1956 đó, dưới trào Tổng thống Dwight D.
Eisenhower, Mỹ khẩn trương đáp ứng bảo vệ Hoàng Sa, thậm chí còn thoáng
có ý định tổ chức cho Đài Loan và Sài Gòn cùng phối hợp đuổi Trung Quốc
ra khỏi Hoàng Sa!
Tạm lấy mốc chín năm sau, lập trường của Mỹ về Hoàng Sa vẫn không thay
đổi, thậm chí mạnh mẽ hơn qua việc Tổng thống Johnson ký chỉ thị hành
pháp số 11216 đặt Việt Nam và toàn thể khu vực Hoàng Sa và Trường Sa
“trong vùng chiến sự”, khiến Trung Quốc tức điên lên.
Đại sứ Trung Quốc tại Ba Lan là Wang đã gặp đại sứ Mỹ Cabot tại Ba Lan
để phản kháng. Đại sứ Cabot sau đó đã đánh điện báo cáo lại Bộ Ngoại
giao: “Wang nói là đã được lệnh phản đối mạnh mẽ chỉ thị hành pháp ngày
24-4 của tổng thống bao gồm đảo Hoàng Sa trong vùng biển chiến sự. Chính
phủ Mỹ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả nghiêm trọng xảy ra từ
đây... Tôi đã bác bỏ những khiếu nại của Wang về đảo Hoàng Sa”.
Không chỉ đại sứ họ Wang này mà một đại sứ cùng họ Wang khác thay thế
vào tháng 7 sau đó đã đưa ra vô số khiếu nại và đều nhận được cái lắc
đầu của đại sứ Cabot. Đơn giản vì Hoàng Sa là của Việt Nam, đang do VNCH
quản lý.
Và Kissinger xuất hiện
Chín năm sau, Trung Quốc thôn tính Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974 và Nhà
Trắng ra thông cáo trong bức điện mang mã số 1974STATE012641_b, đề ngày
thứ bảy 19-1-1974: “Chính phủ Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong các
cuộc tranh chấp xung đột về quần đảo Hoàng Sa, song mạnh mẽ mong muốn
giải quyết tranh chấp một cách hòa bình... Chúng tôi không rõ vụ đụng độ
này đã nổ ra trong hoàn cảnh nào. Lực lượng quân sự Mỹ không dính dự
vào vụ này...”.
Một thái độ hoàn toàn khác với trước kia!
Chẳng qua do “vua đi đêm” Kissinger (cách gọi của báo chí Sài Gòn) đã
quân sư cho Tổng thống Nixon, kế vị Tổng thống Johnson từ 20-1-1969, bắt
tay với Trung Quốc để đối trọng với Liên Xô lúc đó đang căng thẳng với
Trung Quốc, và tìm một lối ra khỏi Việt Nam trong danh dự.
Trong các vụ “đi đêm” đó, Kissinger đã lần lượt “biếu” Trung Quốc những
món quà sau để đổi lấy chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 2-1972: ngày
10-6-1971, Nhà Trắng loan báo chấm dứt lệnh cấm vận thương mại Trung
Quốc kéo dài 21 năm; ngày 28-7-1971, Chính phủ Mỹ loan báo ngưng việc
thu thập tin tức tình báo về Trung Quốc; ngày 2-8-1971, Ngoại trưởng
Roger loan báo Mỹ sẽ thôi chống lại việc Trung Quốc gia nhập Liên Hiệp
Quốc, song sẽ không bỏ phiếu trục xuất Đài Loan...
Về phần mình, nhật báo Hồng Kỳ cũng hôm 2-8 đó giải thích rằng việc
Trung Quốc mở ra với Mỹ là do Trung Quốc phải liên minh với “kẻ thù bậc
hai” là Mỹ, để cô lập và tấn kích “kẻ thù bậc nhất” là Liên Xô. Trung
Quốc lúc đó rất muốn “ẩu đả” với Liên Xô, thậm chí hôm 21-4 trước đó
Nhân Dân Nhật Báo đăng bài xã luận kêu gọi lật đổ chính quyền Xô viết,
khiến lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev lên án chiến dịch chống Liên Xô
này của Trung Quốc.
Song món quà thượng hạng mà Kissinger biếu Bắc Kinh là chuyến bay đến
Bắc Kinh hôm 20-10-1971 và lưu lại tại đó. Đến 25-10, ở New York, Đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc biểu quyết mời Đài Loan ra, Trung Quốc bước vô
thay thế. Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc lúc đó là George Bush (bố) than
rằng việc Kissinger có mặt tại Bắc Kinh trong thời điểm đó đã ngáng trở
các nỗ lực của Mỹ nhằm giữ ghế cho Đài Loan.
Những đổi chác qua lại đó đã đưa Nixon sang Trung Quốc “đi tour bảy
ngày” Bắc Kinh, Hàng Châu, Thượng Hải từ 21 đến 28-2-1972, mà đỉnh cao
là Thông cáo chung Thượng Hải (Sino-U.S. relations, PBS.org).
Nixon từ Trung Quốc về được một tháng thì Bắc Kinh bắt đầu phản kháng về Hoàng Sa, song lần này phản ứng của Mỹ khác trước.
Bức thư của Chính phủ Mỹ gửi Chính phủ CHNDTQ (được lưu trong FRUS
volume XVII, số 219) không ghi ngày tháng, phúc đáp việc Trung Quốc phản
kháng việc tàu chiến Mỹ đến gần quần đảo Hoàng Sa: “Phía Mỹ đã tiến
hành điều tra toàn diện các sự cố mà phía Trung Quốc đã lưu ý hôm
24-3-1972... Vì lợi ích của quan hệ Mỹ - Trung, phía Mỹ đã ra chỉ thị
(cho tàu bè, tàu bay của mình) từ nay giữ khoảng cách tối thiểu 12 hải
lý với các đảo Hoàng Sa...”.
Tuy vẫn bảo rằng quyết định này không can dự gì đến các tranh chấp lãnh
thổ ở Hoàng Sa, song khi hứa tránh xa 12 hải lý đã là thừa nhận lãnh hải
của Trung Quốc ở Hoàng Sa rồi. Bức thư này chẳng qua là một văn bản
phản ánh nội dung cuộc trao đổi giữa Hoàng Hoa - đại sứ Trung Quốc tại
Liên Hiệp Quốc - với Kissinger hôm 12-4-1972 ở New York, qua đó Hoàng
Hoa yêu cầu Mỹ giữ khoảng cách 12 hải lý ở Hoàng Sa, và Kissinger đã hứa
miệng (FRUS, Document 220. Memorandum of Conversation).
Thái độ này của Mỹ năm 1972 khác hẳn trước kia dưới trào Tổng thống
Johnson, Kennedy và Eisenhower. Nguyên nhân? Hoàng Sa chỉ là một trong
những “vật đổi chác” của Kissinger, thậm chí rất nhỏ! Tỉ như so với Đài
Loan mà nay tờ Want China Times 29-11-2013 đã tiết lộ rằng tháng 1-1974,
Tưởng Giới Thạch đã phải lần đầu tiên để cho hạm đội Đông Hải đi qua eo
biển Đài Loan kể từ 25 năm qua khi Quốc Dân đảng tháo chạy về Đài Loan.
Hạm đội Đông Hải đi qua eo biển này để đổ xuống Hoàng Sa cho nhanh, thay
vì đi vòng sau lưng Đài Loan như trước. Biết sao bây giờ, Tưởng Giới
Thạch giữ thân mình còn chưa xong, làm sao cứu bồ đồng minh Nguyễn Văn
Thiệu được!
Có gì biếu nấy: Senkaku cũng muốn biếu!
Biếu xén Bắc Kinh đã trở thành một thói quen mới của Kissinger. Ngày
31-1-1974, tức 12 ngày sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Kissinger (lúc
này đã thôn tính luôn ghế ngoại trưởng) họp với các thuộc cấp ở Bộ
Ngoại giao.
Biên bản phiên họp đó còn ghi rằng sau khi Hummel, trợ lý ngoại trưởng
đặc trách Đông Á, báo cáo tình hình ở Hoàng Sa đã xong xuôi, không còn
bất cứ hoạt động quân sự nào nữa và các nước trong khu vực từ Nhật Bản
đến Philippines và VNCH đều đang âu lo, đặc biệt VNCH đã đổ bộ 200 binh
sĩ lên Trường Sa, thì Kissinger chợt hỏi: “Liệu có thể thúc họ hướng đến
đảo Senkaku được không?”.
Trợ lý Hummel ngớ cả người: “Xin ngài thứ lỗi, nghe chưa rõ ạ?”.
Kissinger lặp lại: “Liệu chúng ta có thể thúc họ đến Senkaku được
không?”. Trợ lý Hummel vẫn chưa hiểu ra: “Thúc ai ạ?”. Kissinger tỉnh bơ
trả lời: “Thúc CHNDTH”.
Trợ lý Hummel lúc này tỉnh ra, hỏi vặn: “Ngài có chắc là chúng ta muốn
làm điều đó không?”. Kissinger quả quyết: “Thì để dạy dỗ người Nhật”.
Không nhất trí, Hummel hỏi vặn lại thẳng thừng: “Tôi cũng hiểu rằng
chúng ta cần dạy dỗ người Nhật, song với cái giá đó thì có đáng hay
không?”. Đến đây, Kissinger “chém vè”: “Không, không” (Minutes of the
Secretary of State ‘s Staff Meeting Washington, January 31, 1974).
Chẳng qua Kissinger lúc đó đang hậm hực Thủ tướng Nhật Kakuei Tanaka vì
ông này không chịu nhượng bộ thương mại với Mỹ. Nếu nhớ rằng mới năm
1972, Mỹ đã trao trả lại đảo Senkaku cho Nhật, thì việc Kissinger đòi
thúc Trung Quốc “quậy” Nhật ở Senkaku năm 1974 quả là...!
Biếu cả thiên hạ chưa đủ, năm 2005, cố vấn cao cấp Công ty dầu hỏa CNOOC
Kissinger còn định biếu cả dầu hỏa Mỹ cho Trung Quốc khi chỉ đường cho
công ty này mua lại Công ty dầu hỏa Unocal của Mỹ, song cuối cùng bị
Quốc hội Mỹ ngăn trở. Bởi thế Trung Quốc mới thỉnh Kissinger sang Bắc
Kinh để mừng thượng thọ 90 tuổi.
Danh Đức
(Tuổi trẻ)
Lấy lại Hoàng Sa: Những điều bất khả thi
Kỷ niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa đã nhắc lại vết thương mất lãnh thổ chưa lành của người Việt.
|
Nhưng trong số đó có một số ý tưởng không khả thi:
1: Kiên trì đàm phán với Trung Quốc.
Trung Quốc chủ trương không đàm phán về chủ quyền đối với các đảo Trường Sa. Đối với Hoàng Sa, Trung Quốc còn không công nhận là có tranh chấp. Hiện nay không có việc đàm phán cho vấn đề chủ quyền đối với đảo, do đó ý tưởng kiên trì đàm phán về vấn đề chủ quyền đối với đảo là kiên trì trong một việc không hiện hữu, và sẽ không đi đến đâu.
Giả sử các bên trong tranh chấp có đàm phán về chủ quyền đối với đảo đi nữa, cũng khó mà Trung Quốc sẽ trả dù chỉ là một phần các đảo Hoàng Sa cho Việt Nam. Ở Trường Sa, nếu có đàm phán, không nước nào sẽ chấp nhận mình không được đảo nào. Khó có chính phủ Philippines, Trung Quốc hay Việt Nam nào dám đối đầu với dư luận trong nước của họ để chấp nhận không giành được phần lớn các đảo. Vì vậy, dù các bên có kiên trì đàm phán thì cũng khó giải quyết tranh chấp đảo.
Việc đưa tranh chấp đảo cho một tòa án quốc tế phân xử sẽ là khách quan nhất. Nó cũng là một lối thoát để cho các chính phủ đi đến một giải pháp trong khi tránh búa rìu dư luận trong trường hợp giải pháp đó không được như yêu sách ban đầu.
2: Đơn phương kiện Trung Quốc như Philippines
Việc kiện Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa là rất khác với việc Philippines kiện Trung Quốc."
|
Việc Philippines có thể đơn phương kiện Trung Quốc là dựa trên việc thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS cho phép Tòa thụ lý một số vấn đề liên quan đến việc giải thích UNCLOS cho tranh chấp biển và thềm lục địa, mặc dù Trung Quốc đã bảo lưu theo Điều 298 của UNCLOS, và cho dù Trung Quốc có vắng mặt. Nhưng những vấn đề đó không bao gồm phân xử chủ quyền đối với đảo. Vì vậy, không nước nào có thể dùng thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS để đơn phương kiện Trung Quốc về chủ quyền đối với đảo.
Bên cạnh đó, ngoài thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS hiện nay không có cách nào khác để chúng ta đơn phương kiện Trung Quốc về chủ quyền đối với đảo. Đối với vấn đề chủ quyền, Tòa chỉ có thể thụ lý nếu tất cả các bên chấp nhận thẩm quyền của Tòa.
Vì vậy, hiện nay chưa có điều kiện để ra tòa về vấn đề chủ quyền đối với đảo. Điều Việt Nam cần làm là công khai yêu cầu Trung Quốc ra tòa. Mặc dù Trung Quốc sẽ không chấp nhận, điều đó sẽ cho thế giới thấy Trung Quốc là bên sợ lẽ phải và cản trở việc giải quyết tranh chấp.
3: Tuyên bố thừa kế di sản VNCH
|
Ý tưởng này không có cơ sở trong luật quốc tế.
Tòa sẽ đặt vấn đề: sau khi CHXHCNVN được thành lập như một quốc gia vào năm 1976 thì Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về nước nào? Nếu phía Việt Nam cho rằng vào năm 1976 CHXHCNVN chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng đã thừa kế khi tuyên bố thừa kế “di sản VNCH”, thí dụ như vào năm 2014, câu chuyện Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam sẽ bị kết liễu.
Lý do là nếu vào năm 1976 CHXHCNVN chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, và không những thế cho đến năm 2014 vẫn chưa thừa kế, thì chủ quyền đó sẽ rơi vào tay một trong những quốc gia khác đã đòi chủ quyền từ trước 1976.
Ý tưởng sai lầm rằng từ năm 1976 đến 2014 CHXHCNVN không có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa có nghĩa Tòa sẽ khó tránh kết luận trong thời gian đó chủ quyền đã rơi vào tay Trung Quốc hoặc Philippines. Giả sử như năm 2014 CHXHCNVN có tuyên bố “thừa kế di sản VNCH” đi nữa, Tòa cũng sẽ khó tránh kết luận rằng đến 2014 thì chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa đã thuộc về Trung Quốc hoặc Philippines từ trước rồi, không còn để cho CHXHCNVN thừa kế nữa.
Ý tưởng sai lầm đó có nghĩa kết liễu chủ quyền Việt Nam vào năm 1976 với hứa hẹn làm cho nó tái sinh sau hơn 35 năm bằng cách tuyên bố “thừa kế di sản VNCH”, một hứa hẹn sẽ không bao giờ hiện thực
Ý tưởng đó cũng là ngược với thực tế. Trên thực tế, gần như không nước nào trên thế giới cho rằng CHXHCNVN chưa thừa kế vùng lãnh thổ hay quyền chủ quyền nào đó từ VNCH, gián tiếp qua CHMNVN, kể cả những khu vực có tranh chấp với Lào, CPC, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, thậm chí cả với Trung Quốc. Không có lý do hợp lý để cho người Việt lại cho rằng Việt Nam chưa từng thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Ý tưởng cần tuyên bố cắt đứt với VNDCCH nhằm vô hiệu hóa những điều bất lợi về Hoàng Sa, Trường Sa cũng không có cơ sở trong luật quốc tế. “Cắt đứt” với VNDCCH, một chính thể vốn không còn tồn tại, hay không là một vấn đề nội bộ của Việt Nam. Việc chủ quyền pháp lý trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về nước nào là một vấn đề luật pháp quốc tế. Luật quốc tế không công nhận việc tuyên bố cắt đứt trong nội bộ hay với quá khứ để đơn phương hủy bỏ nghĩa vụ pháp lý (nếu có) giữa các quốc gia.
Để Việt Nam ngày nay hay trong tương lai có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, chỉ có hai trường hợp: CHXHCNVN phải có chủ quyền đó ngay từ 1976, nếu không thì Trung Quốc và Philippines phải có hành vi bị cho là từ bỏ danh nghĩa hay yêu sách chủ quyền của họ. Sẽ khó có trường hợp thứ nhì, do đó chúng ta phải chứng minh được trường hợp thứ nhất.
Ý tưởng 4: Tuyên bố hủy công hàm Phạm Văn Đồng
|
Hiện nay câu hỏi “CHPVĐ có gây ra nghĩa vụ ràng buộc cho CHXHCNVN liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa hay không?” là một vấn đề còn tranh cãi. Nếu Quốc hội Việt Nam chính thức tuyên bố hủy CH đó, thì tuyên bố đó có thể bị cho là gián tiếp công nhận rằng nó có gây ra nghĩa vụ pháp lý cho CHXHCNVN có cho tới ngày nó bị hủy - vì nếu nó không gây ra nghĩa vụ pháp lý nào cho CHXHCNVN thì tại sao cần hủy?
Sự công nhận gián tiếp đó là bất lợi cho Việt Nam. Hơn nữa, nếu Việt Nam gián tiếp công nhận rằng CHPVĐ đã gây ra một nghĩa vụ ràng buộc cho Việt Nam đối với Trung Quốc, thí dụ như cho đến 2014, thì luật quốc tế cũng không công nhận việc Việt Nam đơn phương hủy nghĩa vụ đó. Như vậy Việt Nam sẽ tự bước vào một cái bẫy và sẽ không thoát ra được.
***
Tóm lại, Việt Nam cần công khai yêu cầu Trung Quốc ra tòa,cũng như cần lập luận rằng CHXHCNVN đã có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa ngay từ 1976 và CHPVĐ đã không làm cho mất chủ quyền đó vào tay Trung Quốc. Nếu không bảo vệ thành công quan điểm đó thì bây giờ tuyên bây giờ có tuyên bố thừa kế, cắt đứt, hủy, cũng sẽ vô tác dụng. Nếu bây giờ tuyên bố thừa kế, cắt đứt, hủy, thì chỉ có thể phản tác dụng.
Bài viết phản ánh quan điểm của tác giả, thành viên nhóm Nghiên cứu Biển Đông và có sự góp ý của Phạm Thanh Vân.
Dương Danh Huy
Nhà nghiên cứu về biển Đông
Theo BBC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét