Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa qua sử liệu
Anh Đinh Thanh Nguyện tiếp tục chia sẻ những trang sách quý giá trích từ tập san HOÀNG SA – LÃNH THỔ VIỆT NAM CỘNG HÒA do Bộ DV&CH, VNCH xuất bản tháng 3/1974. Xin hết lòng cám ơn Anh.Dù Mẹ VN từng có những đứa con ngỗ nghịch phá gia chi tử, quỳ gối dâng biển dâng đất cho giặc qua cái gọi là “công hàm…”, nhưng hành động đó tuyệt nhiên không có một chút giá trị nào, ngoài việc nhận lãnh sự ghê tởm, khinh bỉ từ những người con trung thành với Đất Mẹ. Mãi mãi Hoàng Sa vẫn thuộc chủ quyền Việt Nam.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
EVN mua điện Trung Quốc:Cục Quản lý cạnh tranh cần làm rõ
(Doanh nghiệp)
- “Việc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) mua điện của thủy điện nhỏ
trong nước giá bèo và không công bằng có nghe phản ánh. Tôi cho rằng vấn
đề này cơ quan quản lý cạnh tranh nên làm rõ. Còn nếu không thì EVN sẽ
có 1.000 lý do để biện bạch, ví dụ trên mạn này không có đường dây,
công suất kém, không đảm bảo… Khi đó sẽ rất phức tạp mà không có trọng
tài thì sẽ là ông nói gà bà nói vịt”.
Mua giá cao mà không ổn định là thiệt thòi và bất lợi
Theo TS Lê Đăng Doanh, việc EVN mua điện
của Trung Quốc là sản phẩm của một thời kỳ chúng ta thiếu điện nghiêm
trọng nên phải mua của nước ngoài.
“Họ bán cho ta là giá quốc tế, tức là
tương đương với giá trong khu vực nên khó mà có thể đòi hỏi EVN mua được
giá như trong nước hiện nay mà theo EVN và Bộ Công thương thì giá đó là
dưới giá thành. Tôi nghĩ việc mua của Trung Quốc cao hơn giá trong nước
là bất đắc dĩ”, TS Doanh nhìn nhận.
Tuy nhiên, ông Doanh cũng cho rằng ông
từng nghe các nhà sản xuất điện trong nước phản ánh tình trạng về mối
quan hệ giữa bên bán là chủ đầu tư thủy điện nhỏ và bên mua EVN luôn tồn
tại sự bất công.
Bên bán muốn được sống chỉ còn cách duy
nhất là “cam chịu” bán cho EVN bằng mọi giá, tức là phải bán giá rẻ,
trong khi EVN vẫn phải mua điện Trung Quốc với giá cao và có xu hướng
tăng trong những năm gần đây.
Không bình luận về điều này bởi TS Doanh
cho rằng, EVN sẽ có 1.000 lý do để biện bạch cho hành động này, kiểu
như: trên mạn này không có đường dây, công suất kém, không đảm bảo… “sẽ
rất phức tạp mà không có trọng tài thì sẽ là ông nói gà bà nói vịt”, TS
Doanh cho biết.
Do vậy ông cho rằng, cách tốt nhất là
Cục Quản lý cạnh tranh của Bộ Công thương nên vào cuộc. Ông cũng đề xuất
EVN nên phát huy tối đa công suất của các nhà máy trong nước bởi đã bỏ
tiền đầu tư rồi thì nay phải bán điện để thu vốn nếu không tiền đầu tư
sẽ không được khấu hao đền bù và sẽ rất bất lợi cho hệ thống điện.
“Nên sớm sản xuất đủ điện, vì chất lượng không ổn định sẽ không chỉ là thiệt thòi và bất lợi cho an toàn hệ thống điện, tính độc lập của hệ thống điện của Việt Nam. Và một hệ lụy nữa, khi các doanh nghiệp bị thua lỗ thì cuối cùng cũng đến người dân phải gánh chịu vào giá điện chứ không phải ai khác”, TS Doanh lo ngại.
“Nên sớm sản xuất đủ điện, vì chất lượng không ổn định sẽ không chỉ là thiệt thòi và bất lợi cho an toàn hệ thống điện, tính độc lập của hệ thống điện của Việt Nam. Và một hệ lụy nữa, khi các doanh nghiệp bị thua lỗ thì cuối cùng cũng đến người dân phải gánh chịu vào giá điện chứ không phải ai khác”, TS Doanh lo ngại.
EVN sẽ có đủ lý do cho việc vì sao mua điện Trung Quốc không ổn định chất lượng mà giá vẫn cao |
Cần có luật chống độc quyền
Việc mua điện trong nước giá thấp, mua ở
nước ngoài giá cao cùng với việc tăng giá bán điện bình quân so với kế
hoạch, EVN đã lãi 172.470 tỷ đồng trong năm 2013, tăng gần 20% so với
2012.
Trong năm 2014 này, EVN đặt mục tiêu "toàn tập đoàn sản xuất và kinh doanh điện năng có lợi nhuận".
Theo đó, điện sản xuất và mua dự kiến sẽ
tăng 9,9%, sẵn sàng chuẩn bị đáp ứng cho khả năng nhu cầu điện tăng cao
hơn, điện thương phẩm tăng 10% và tỷ lệ tổn thất điện giảm xuống còn
8,45%.
Dù nói rằng điện mua của Trung Quốc
không ổn định, song con số lại tố cáo EVN rằng điện sản xuất chỉ ở mức
56.449 tỷ kWh còn điện mua lên tới 71.392 tỷ kWh (chiếm 56%).
Cùng với đó, kế hoạch tăng giá cũng được đặt ra. Minh chứng là mới đây Thủ tướng đã phê duyệt khung giá bán lẻ điện năm 2013-2015, với giá từ 1.347 đồng/kWh đến 1.835 đồng/kWh. Điều này có nghĩa, tới năm 2015, giá điện có thể tăng tới 21,6%, trung bình mỗi năm sẽ tăng hơn 10% giá điện.
Cùng với đó, kế hoạch tăng giá cũng được đặt ra. Minh chứng là mới đây Thủ tướng đã phê duyệt khung giá bán lẻ điện năm 2013-2015, với giá từ 1.347 đồng/kWh đến 1.835 đồng/kWh. Điều này có nghĩa, tới năm 2015, giá điện có thể tăng tới 21,6%, trung bình mỗi năm sẽ tăng hơn 10% giá điện.
Việc đưa giá điện theo sát giá thị
trường là điều buộc phải chấp nhận, song TS Lê Đăng Doanh cho rằng: “Sự
cần thiết của việc tăng giá điện cần được giải thích một rõ ràng, để mọi
người dân đều biết và ủng hộ. Phải minh bạch trong việc tính giá”, TS
Doanh nói.
Còn TS Vũ Đình Ánh, Phó Viện trưởng Viện
Nghiên cứu Khoa học Thị trường giá cả (Bộ Tài chính) thì cho rằng:
“Việc tính giá điện theo giá thị trường là điều rất cần thiết. Tuy
nhiên, muốn có giá thị trường thì phải có thị trường cạnh tranh”.
Thế nhưng thực tế hiện nay cho thấy đối
với điện thì người tiêu dùng đang bị buộc phải chấp nhận giá ngành điện
đưa ra mà không có lựa chọn nào khả dĩ hơn.
Vì vậy giới chuyên môn cho rằng, để vừa
có lợi cho nhà nước, công bằng cho người tiêu dùng mà doanh nghiệp vẫn
có lãi thì phải làm sao quản lý việc sử dụng vị thế độc quyền của lĩnh
vực đó.
Tức là trong trường hợp này Quốc hội cần
ra một luật chống độc quyền. Có các điều khoản chặt chẽ như thế nào là
độc quyền, như thế nào anh biến từ công ty nhỏ thành công ty lớn, biến
thành độc quyền. Phải chẻ nhỏ ra, để người tiêu dùng khỏi bị một anh độc
quyền khống chế giá.
Phương Nguyên
Peter Higgs và công bố kết quả nghiên cứu khoa học
Hôm nọ, nhân dịp nói chuyện trong một diễn đàn
giảng viên, có người hỏi tôi rằng có cần đặt nặng vấn đề công bố quốc tế không
khi mà ông Peter Higgs (người được trao giải Nobel vật lí 2013) không công bố
bài nào trong suốt 10 năm liền. Câu chuyện ông Higgs kể trên tờ Guardian (Anh)
đã thành một cơ sở lập luận của nhiều người không mặn mà với công bố quốc tế.
Nhưng tôi sợ là có sự hiểu lầm, thậm chí nguỵ biện, khi so sánh trường hợp của
ông Higgs và đại đa số các nhà khoa học Việt Nam.
Ông Higgs kể rằng trước khi được trao giải
Nobel, ông là một nỗi xấu hổ cho bộ môn vật lí của trường ông. Mỗi năm, như
thông lệ, trường cần liệt kê danh sách bài báo khoa học đã công bố trong năm,
nhưng đến ông Higgs thì ông kể là “none” (không có bài nào). Ông còn biết rằng
một số người trong trường đã có ý định “tống khứ” ông ra khỏi trường, nhưng
cũng có người nghĩ rằng ông có thể được trao giải Nobel, và nếu vài năm nữa mà
ông vẫn chưa được trao giải thì lúc đó tống khứ ông cũng không muộn. Dĩ nhiên,
câu chuyện có một kết thúc có hậu (happy ending) với giải Nobel.
Nhiều người lấy trường hợp của ông Higgs và phân
vân hỏi có nên chạy theo công bố quốc tế. Tôi nghĩ trường hợp của nước nào thì
không rõ, nhưng ở Việt Nam thì nhu cầu công bố quốc tế là rất cần thiết. Việt
Nam cần phải nâng cao sự hiện diện của mình trên trường khoa học quốc tế. Hiện
nay, con số bài báo khoa học từ VN chỉ xấp xỉ bằng một trường đại học lớn của
Thái Lan. Đặt con số ~1500 bài/năm trong bối cảnh trên 10 ngàn giáo sư / phó
giáo sư và vài vạn tiến sĩ thì quả thật năng suất khoa học VN còn quá thấp.
Tôi nghĩ 99.99% các nhà khoa học trên thế giới
(kể cả VN) không thuộc đẳng cấp của ông Higgs. (Hay Việt Nam có người như ông
Higgs mà tôi chưa biết, nhưng cũng chỉ là số rất ít). Đại đa số các nhà khoa học
thuộc nhóm “me too” (làm những gì người khác đã làm như Việt Nam) hay
“incremental knowledge” (có đóng góp cái mới nhưng rất nhỏ, như đa số hoạt động
khoa học ở nước ngoài), chứ rất ít người ở đẳng cấp đột phá (breakthrough). Nên
nhớ rằng trước khi “nghỉ hưu” công bố quốc tế, ông Higgs đã có những công trình
thuộc loại đột phá, chứ không phải đột nhiên mà ông được trao giải Nobel.
"Miệng nhà quan có gan có thép": Ông Higgs hôm nay [chứ không phải thời
gian 1960s] có quyền nói chuyện không cần công bố quốc tế, nhưng 99.99% các nhà
khoa học khác không có cái uy danh của ông để nói điều đó. Do đó, lấy một trường
hợp outlier như ông Higgs để biện minh cho số đông thì tôi e rằng không hợp lí
chút nào.
Có người nói họ chỉ quan tâm đến chất lượng, chứ
không quan tâm đến số lượng bài báo quốc tế. Đúng, tôi đồng ý là nên quan tâm đến
chất lượng. Nhưng trong trường hợp VN, đại đa số các công trình khoa học được
công bố trong thời gian 50 năm qua thuộc loại “làng nhàng” hay chất lượng quá
thấp (hiểu theo nghĩa chẳng ai trích dẫn). Với một quá khứ như thế thì làm sao
người ta có thể tin rằng phải chờ vài chục năm nữa để có một công trình có chất
lượng cao? Do đó, lấy yếu tố chất lượng để không công bố hay công bố ít cũng
không thuyết phục cho những ai chưa từng công bố thậm chí một công trình nhỏ.
Đại đa số các công trình nghiên cứu khoa học
trên thế giới mang tính “incremental knowledge”. Những nhà khoa học trước khi nổi
tiếng và tạo được uy danh đã công bố nhiều -- thậm chí rất nhiều -- bài báo
khoa học. Họ xây dựng dữ liệu một cách dần dần, bài sau xây dựng trên nền tảng
bài trước, và bài trước xây dựng trên bài trước nữa, chứ không phải theo kiểu
“đột biến”. Không có ai chỉ công bố 1 bài mà trở thành siêu sao được. Do đó, lí
giải rằng “20 năm nữa tôi sẽ có công trình lớn” sẽ không bao giờ thuyết phục
trong khi hôm nay anh chẳng có một công trình nào.
Những người đang ngồi salon mà nói không cần
công bố quốc tế thì sẽ bị sốc khi ra nước ngoài. Thử sang Singapore hay Đài
Loan thôi (chưa nói đến Mĩ hay Úc) thì sẽ thấy vai trò quan trọng của công bố
quốc tế như thế nào. Có đại học nói thẳng với nghiên cứu sinh là nếu không có
bài báo khoa học được công bố thì đừng nghĩ đến chuyện tốt nghiệp tiến sĩ. Ở
Thái Lan, có trường còn đòi sinh viên cấp thạc sĩ phải công bố bài báo khoa học
(nhưng họ “dzu dzi” cho loại tập san). Nên nhớ rằng chúng ta đang sống và làm
việc trong thế kỉ 21 với những “luật chơi” mới và rất khác với những luật chơi
thời thập niên 1960s của ông Higgs.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét