Tạp ghi Huy Phương
Xem những đoạn phim ngắn quay cảnh các cô “bảo mẫu” đối xử với các
cháu trong bữa ăn tại nhà trẻ Phương Anh trong thành phố mang tên “Bác”
vừa được đưa lên Internet, không ai không khỏi giật nảy mình và sau đó
không cầm được nước mắt. Giật nảy mình là vì thấy những cử chỉ tàn ác
quá đột ngột không ai ngờ trước, như bóp mũi em bé, đút liên tục rất
nhanh thức ăn vào miệng em, và khi phải nói là quá đau đớn khi thấy cô
“trồng người” dốc ngược đầu em bé vào thùng nước. Khốn nạn hơn nữa là cô
“bảo mẫu” bé kẹp đầu em bé vào chỗ kín để rảnh tay đánh tới tấp vào
lưng đứa trẻ, cũng như một cô khác lắc em bé như lắc một con gấu nhồi
bông, hay đút chỗ thức ăn trẻ vừa nôn mửa ra vào lại mồm đứa bé!Phản ứng của người xem đoạn phim trên là phải đồng loạt la lên: “Sao lại có loại người ác độc như thế?”
Danh từ Hán Việt “bảo mẫu” mà Việt Nam đang dùng có nghĩa là vú nuôi, bây giờ phải nghĩ đó chính là “ác phụ,” cũng như lối đặt chữ của người trong nước bây giờ: “Lương Y như Hà Bá - Thầy thuốc kiêm Mẹ Mìn”. Chúng ta đặt hy vọng gì cho thế hệ tương lai, khi một cô gái mới 19 tuổi, trong tương lai sẽ là người sinh nở, cho con bú mớm, nuôi dạy con, đã có những lối hành xử như thế!
Nhà trẻ này lấy cớ vì đồng lương của “bảo mẫu” quá ít, cha mẹ mỗi đứa trẻ chỉ đóng một triệu đồng mỗi tháng, trong khi đó phải chi ra bao nhiêu thứ, tốn phí nhất là tờ giấy phép, hay chưa có phép thì phải chi cho công an, phường khóm để làm ngơ cho nhà trẻ hoạt động. Nhưng đây chỉ là lý do đưa ra để biện minh cho sự lơ là nhiệm vụ, chứ không thể nào giải thích cho cái ác lộng hành.
Một ông bố kết hợp với bà dì ghẻ, đánh một đứa trẻ mới lên sáu gẫy một cái xương sườn, xong bỏ vào bao bố, đem vứt ra nghĩa địa gần nhà, cho nó khóc la hết hơi, gọi là để răn đe. Một “lương y” làm đẹp cho phụ nữ, lỡ tay làm chết khách hàng, thản nhiên mang xác đi vứt xuống sông. Một đứa con bất hiếu đi làm về, thấy mẹ bệnh chưa nấu cơm, nổi giận đánh chết mẹ. Một bà vợ đánh chồng đến chết, con thắc mắc thì nói dối, bố uống rượu ăn tiết canh bị nôn ra, xong gói xác chồng đi chôn. Một ông sư tằng tịu với tín đồ lỡ mang thai, đem giết người tình rồi chôn sau vườn chùa. Rất nhiều cô gái lỡ lầm sinh con rồi ném con xuống ao hay vứt vào thùng rác! Những viên công an sẵn sàng đánh chết người vì lý do thi hành nhiệm vụ.
Chúng ta kể sao cho hết những cái ác chúng ta đã nghe, thấy mỗi ngày ở Việt Nam?
Chưa lúc nào cái ác hiện hình nhan nhản và lộng hành trong xã hội như hiện nay, vì nhìn đâu cũng thấy ác, nên con người lâu ngày trở nên chai lì và thấy cái ác của người khác là bình thường, và sẵn sàng làm điều ác như một bản năng mà không thấy.
Ở Việt Nam, sau khi Sài Gòn bị đổi tên, có một tờ báo bán chạy nhất là tờ “Công An TP. Hồ Chí Minh” và có ông ký giả “to lon” nổi tiếng nhất là “ký giả, nhà văn Trung Tướng Hữu Ước,” người cầm đầu tờ báo này trong 17 năm. Ông này đã từng hãnh diện tuyên bố lúc về hưu: “Nhiều báo trên thế giới đã đánh giá hệ thống truyền thông của Bộ Công An Việt Nam là mạnh nhất thế giới so với các hệ thống truyền thông của các nước, kể cả Mỹ, Nga, Pháp, Trung Quốc. Hệ thống truyền thông của công an Việt Nam có ảnh hưởng xã hội, có tia ra (*) phát hành lớn nhất, kênh truyền hình cũng là một trong những kênh truyền hình có số lượng người xem nhiều nhất. Như vậy thì tôi đã hoàn thành một sứ mệnh lịch sử rất vinh quang.”
Hệ thống truyền thông của Bộ Công An Việt Nam đã vượt xa các cường quốc văn minh như Mỹ, Nga, Pháp, Trung Quốc... vì các cường quốc khác mãi lo chuyện “vô bổ” như phổ biến đến quần chúng những thông tin về văn hóa, khoa học, xã hội, tôn giáo, công dân giáo dục... thì báo đài của Bộ Công An Việt Nam chuyên loan tin hiếp dâm, giết người, cướp của và những hành động tàn độc nhất của con người Việt Nam, tập cho độc giả, từ đứa trẻ con đến ông già làm quen với máu me, chết chóc. Tờ “Công An TP. Hồ Chí Minh” hãnh diện là tờ báo bán chạy nhất, ngày này đã thành một tờ nhật báo “không thể thiếu trong mọi gia đình” để mỗi buổi sáng thức dậy, bên ly cà phê, người dân bắt đầu một ngày với những tin hiếp dâm cắt cổ, đánh mẹ chửi cha, hiếp dâm trẻ nhỏ.
Trong một đất nước dân trí cao, thì con người có nhu cầu tìm hiểu, học hỏi và khao khát những thông tin về nghệ thuật, văn hóa, chính trị, tôn giáo... còn dân trí như Việt Nam dưới chế độ này thì thích nghe ngóng lượm tin, bàn tán chuyện giết người, hiếp dâm, cắt cổ... qua báo Công An và băng tần Công An, mà ông Hữu Ước khoe khoang là báo Công An có số lượng nhiều nhất và kênh truyền hình Công An có số lượng người xem nhiều nhất, điều đó có gì đâu để hãnh diện, mà phải thấy xấu hổ.
Chúng ta ở Mỹ, không thấy có nhật báo Cảnh Sát, cũng chẳng thấy đài truyền thanh, truyền hình riêng của FBI, và người dân mỗi buổi sáng mua tờ nhật báo phải lật xem “Tin Thế Giới” hay mục “Thể Thao” hay trang “Kinh Tế” trước, phải chăng là một đất nước tụt hậu kém cỏi thua nước CHXHCN Việt Nam?
Ông Cao Tuấn, một người trong nước, đã viết trên báo Lao Ðộng là: “Trong khi nhiều người đua nhau thể hiện 'đẳng cấp' bằng hình ảnh nhà cao, xe đẹp, hàng hiệu... thì một thông tin từ Bộ Văn Hóa-Thể Thao và Du Lịch đưa ra khiến dư luận không khỏi giật mình: Người Việt Nam đọc trung bình 0.8 cuốn sách/người/năm, khá thấp so với các nước trong khu vực. Thông tin này có thể giúp giải thích đôi điều về cái ác.”
Theo tôi, có lẽ trung bình một năm người Việt Nam không đọc được một cuốn sách nhưng đọc hết 365 tờ báo Công An. Ðây là tờ báo chuyên thông tin và đồng lõa với cái ác.
Nhà văn Trần Mạnh Hảo đã có lần phát biểu: “Người Cộng Sản vì theo chủ nghĩa Karl Max, một chủ nghĩa 'duy ác,' không phải 'duy tâm,' cũng không phải 'duy vật,' nên đã làm cho đất nước chúng ta lâm vào cảnh điêu tàn...” Trong lịch sử nhân loại vào thế kỷ XX, có ba người bị coi là đồ tể lớn nhất, giết hơn 100 triệu người, ngoài Phát Xít Hitler, có hai người Cộng Sản được thần dân CSVN ca tụng hết mình là Staline giết 12 triệu người từ 1924 đến 1953, Mao Trạch Ðông với 65 triệu người chết từ 1949 đến 1976, chưa kể đến Hồ Chí Minh và Pol Pot trong danh sách các ác nhân của thời đại.
Phật Giáo có nói: “Ðừng thấy điều thiện nhỏ mà không làm, thấy điều ác nhỏ mà làm!”
Công Giáo cũng có câu: “Ðừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy tiếp tục lấy điều thiện thắng điều ác” (Rô-Ma 12:21). Lẽ cố nhiên muốn đẩy lùi cái ác thì xã hội cần phải biểu dương cái thiện, nêu những tấm gương thiện để giáo dục con người về nhân cách sống.
Nhưng trong khi Bác Sĩ Nguyễn Thu Thủy tố cáo vụ tráo đổi thủy tinh thể ở bệnh viện mắt Hà Nội và của chị Hoàng Thị Nguyệt tố cáo giả mạo kết quả xét nghiệm ở bệnh viện Ða Khoa Hoài Ðức bị gặp rắc rối, thì Dược Sĩ Trần Kiều Oanh đứng lên tố chuyện ăn tiền hối lộ tại phòng Giám Ðịnh Y Khoa, Sở Y Tế Bình Phước, bị đuổi việc.
Ai nói cái thiện luôn luôn thắng cái ác?
Có, nhưng không phải dưới chế độ Cộng Sản!
(*) “tia ra”: Ông Hữu Ước không để trong ngoặc kép, chữ “tirage”(tiếng Pháp) là số lượng phát hành!
Vì sao tỉnh giàu cũng... xin gạo cứu đói?
15 tỉnh đề nghị cấp gạo cứu đói dịp
Tết và giáp hạt 2014 phần lớn do khó khăn thật sự, nhưng có địa phương
khá giả, như Khánh Hòa, cũng xin gạo cứu đói.
Ngày
13/1, trao đổi với PV, ông Thái Phúc Thành, Phó cục trưởng Cục Bảo trợ
xã hội Bộ Lao động, thương binh và xã hội, cho biết Bộ đã nhận được đề
nghị hỗ trợ gạo cứu đói của 15 tỉnh với nhu cầu hơn 28.000 tấn gạo.
|
“Trong
số 15 tỉnh xin cấp gạo có ba tỉnh đề xuất nhiều nhất là Quảng Bình cần
5.200 tấn, Quảng Trị cần 4.300 tấn, Nghệ An cần 4.200 tấn. Đây là ba
tỉnh năm vừa rồi chịu thiệt hại nặng nề do các đợt thiên tai, bão lũ
liên tiếp”, ông Thành cho hay.
Quà Tết của Chính phủ cho người nghèo
Học sinh nghèo Trường tiểu học Bạch Đích (Hà Giang) nhận quà Tết Giáp Ngọ. |
Lý
giải chuyện xin gạo, ông Nguyễn Đức Chính, Phó chủ tịch thường trực
UBND tỉnh Quảng Trị, cho biết trong năm qua tình hình tăng trưởng kinh
tế của tỉnh nhà ở mức khá nhưng vẫn phải xin gạo cứu trợ do mức tính tỷ
lệ tăng trưởng là tính trung bình. Thực tế vẫn còn một bộ phận khá lớn
người dân trong tỉnh sống dưới mức nghèo khổ, trong đó chủ yếu là đồng
bào dân tộc thiểu số Pa Cô, Vân Kiều. Những hộ này vẫn thường xuyên
thiếu gạo ăn dịp giáp hạt. Năm 2013 những vùng này còn bị lũ lụt, khả
năng thiếu gạo còn cao hơn.
Theo
quan điểm của ông Chính, với những hộ nghèo khó như thế này, nếu được
hỗ trợ gạo, họ may ra mới thừa được chút tiền mua cái áo cái quần hay
đầu tư nuôi con heo con gà, giúp khả năng thoát nghèo sẽ cao hơn.Tình
cảnh Quảng Bình cũng tương tự, ông Trương An Ninh, Chánh văn phòng UBND
tỉnh Quảng Bình, cho biết: “Tỉnh hiện vẫn còn nhiều vùng mà đời sống bà
con gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng miền núi, nơi có đồng bào các
dân tộc ít người sinh sống...Năm qua
tỉnh cũng là vùng phải gánh chịu nhiều thiệt hại nhất do bão, lũ gây ra
khiến đời sống của bà con vốn đã gặp khó khăn càng khó khăn thêm. Vì
vậy tỉnh phải đề nghị trung ương cấp thêm gạo khi thiếu, hơn nữa trong
chính sách hỗ trợ gạo của Nhà nước vào dịp Tết và giáp hạt hằng năm thì
Quảng Bình vẫn nằm trong diện được hỗ trợ...”.Riêng
với Nghệ An thì đây là năm tăng trưởng kinh tế khá cao. Trong 10 sự
kiện tiêu biểu của tỉnh năm 2013 có hai sự kiện nổi bật là tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt 7% (năm 2012 đạt 6,13%; cả nước 5,4%), thu ngân sách
đạt 6.487 tỷ đồng (đạt 123,1%). Nghệ An được đánh giá là tỉnh thu ngân
sách đứng đầu sáu tỉnh Bắc Trung bộ và đứng thứ 16 toàn quốc.Trả
lời về câu hỏi vì sao xin gạo, ông Nguyễn Xuân Đường, Chủ tịch UBND
tỉnh Nghệ An, giải thích: “Nghệ An đạt tốc độ tăng trưởng và thu ngân
sách vượt trội như vậy nhưng tỉnh phải chi trên 16.000 tỷ đồng/năm. Do
dân số của tỉnh lớn (trên 3 triệu người) nên tỉ lệ hộ nghèo cũng lớn,
đang ở mức 12,5%, cao hơn bình quân của cả nước (7,8%).Tỉnh
có hai huyện biên giới giáp Lào thuộc diện 30A và một huyện miền núi
vừa mới được hưởng chính sách của Nhà nước tương đương với huyện 30A.
Mặt khác, gạo cứu đói cho hộ nghèo còn có ý nghĩa là quà Tết của Chính
phủ với hộ nghèo”.
“Thông lệ” mỗi khi Tết về
Trả
lời về việc là tỉnh có tiềm năng kinh tế nhưng vẫn xin cấp gạo cứu đói
dịp Tết và giáp hạt, ông Phạm Sỹ Lợi, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam,
thừa nhận những năm qua Hà Nam đã có những thành tựu phát triển nhất
định. Tuy nhiên về tổng thể thì Hà Nam vẫn là tỉnh còn nhiều khó khăn.Trước
ý kiến việc cứu đói cần phải cân đối ngân sách địa phương trước khi đề
nghị trung ương hỗ trợ, ông Lợi cho rằng “những năm vừa qua dù tốc độ
phát triển của tỉnh thuộc loại khá nhưng vẫn không cân đối đủ. Ví như
tổng dự toán giao năm 2013 số thu ngân sách chỉ đạt hơn 2.000 tỷ đồng,
nhưng nguồn chi thường xuyên trong năm lên tới hơn 4.000 tỷ đồng”.Cụ
thể hơn, ông Trần Văn Thắng, Phó chánh Văn phòng UBND tỉnh Hà Nam, cho
biết: “Chúng tôi đề xuất cấp gạo cứu đói cho hai nhóm. Thứ nhất là những
trường hợp hộ cận nghèo bị thiệt hại hoa màu vụ đông trong bão số 14.
Thứ hai là hỗ trợ cứu đói cho các trường hợp là hộ nghèo”. Cũng theo ông
Thắng, việc đề xuất cấp gạo cứu đói của tỉnh dựa trên tinh thần xin cho
mỗi hộ nghèo 15kg gạo/khẩu/tháng, thời gian hỗ trợ cứu đói là ba tháng.
Xe chở gạo của Chính phủ cứu trợ học sinh tỉnh Hà Giang chạy vào huyện Quản Bạ của tỉnh chiều 11/1. |
Tương
tự, tỉnh Ninh Thuận cũng xin Chính phủ hỗ trợ 860 tấn gạo dịp Tết này.
Ông Nguyễn Văn Bình, Phó giám đốc Sở Lao động, thương binh và xã hội
tỉnh Ninh Thuận, cho biết đây là “thông lệ” nhiều năm nay mỗi khi Tết
về. “Tỉnh cố gắng hỗ trợ cho mỗi hộ nghèo 150.000 đồng dịp Tết này,
nhưng nếu không có gạo của Chính phủ thì địa phương khó có nguồn lực để
cứu đói cho toàn bộ người nghèo của tỉnh ăn Tết tươm tất được”, ông Võ
Đại, phó chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận, cho hay. Giàu cũng xin cứu đói Trong
số các địa phương xin Chính phủ cấp gạo năm nay, rất ngạc nhiên là có
Khánh Hòa - một trong những tỉnh “giàu”, tăng trưởng kinh tế cao - nhưng
vẫn xin với số lượng 550 tấn.Theo
báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế năm 2013 của
tỉnh Khánh Hòa, GDP của tỉnh tăng 8,3% so với năm 2012, thu ngân sách
đạt 11.335 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2012 và bằng 108% dự toán năm
2013. Tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm còn 4,26%, thấp hơn tỉ lệ bình quân
của cả nước (7,8%)...Chiều 13/1, khi
hỏi lý do, một phó chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa nói rằng “hỏi khó trả
lời quá, nhưng tất cả cũng là lo cho dân thôi mà” và đề nghị phóng viên
hỏi giám đốc Sở Lao động, thương binh và xã hội. Chúng tôi hỏi ông
Nguyễn Hữu Thấu, Giám đốc Sở Lao động, thương binh và xã hội tỉnh Khánh
Hòa, ông cho biết: “Mấy năm trước Khánh Hòa tự cân đối ngân sách để cấp
gạo cứu đói cho dân, nhưng năm nay lãnh đạo UBND tỉnh nói thu ngân sách
khó quá nên chỉ đạo xin số gạo trên từ Chính phủ để cấp cho số hộ thiếu
đói giáp hạt trên địa bàn cả tỉnh. Riêng hộ nghèo thì không cấp gạo đợt
này, mà tỉnh hỗ trợ mỗi hộ 250.000 đồng ăn Tết”. Khi chúng tôi nêu vấn
đề rằng Khánh Hòa thu ngân sách năm 2013 tăng nhiều so với năm 2012 thì
ông Thấu cười nói: “Cái này lãnh đạo UBND tỉnh cân đối ngân sách rồi chỉ
đạo như vậy”.Giáp Khánh Hòa, Phú
Yên từ lâu được mệnh danh là “vựa lúa của miền Trung”. Theo báo cáo của
UBND tỉnh Phú Yên trình HĐND tỉnh tại kỳ họp vừa diễn ra tháng 12/2013,
trong năm 2013 tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội đạt 10,67%, vượt kế
hoạch năm 0,07%. Đáng kể nhất là năng suất lúa vụ đông xuân 2013 của Phú
Yên đạt cao nhất từ trước đến nay với 67,5 tạ/ha, còn năng suất lúa hè
thu đạt 65 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha so với cùng vụ năm trước. Tỉ lệ hộ
nghèo của Phú Yên còn 13,03%, giảm 2,66% so với năm 2012... Dù vậy, Phú
Yên vẫn xin Chính phủ cấp 761 tấn gạo cứu đói.Ông
Trần Thanh Bình, chánh văn phòng Sở Lao động - thương binh và xã hội
tỉnh Phú Yên, cho biết: “Phú Yên không xin Chính phủ hỗ trợ gạo cứu đói
giáp hạt hằng năm, mà chỉ năm nào khó khăn mới xin. Hộ đói, hộ thiếu ăn
được xem xét từ cấp thôn, xã rồi đề xuất lên huyện, huyện kiểm tra rồi
mới chuyển sang Sở Lao động - thương binh và xã hội tổng hợp tham mưu để
tỉnh đề xuất xin Chính phủ... Trong đó các vùng dân tộc thiểu số xin hỗ
trợ nhiều nhất”.Khi được hỏi năm
nay tình hình kinh tế - xã hội của Phú Yên có bước phát triển đáng kể,
nông nghiệp cũng tăng trưởng khá, vì sao phải xin gạo cứu đói, ông Bình
nói: “Tăng trưởng là đánh giá chung, còn cụ thể ở một số địa phương
người dân gặp nhiều khó khăn như hộ nghèo, hộ bị lũ lụt gây thiệt hại,
bị mất mùa do hạn hán... nên vẫn cần được cứu đói”.
40 năm Hoàng Sa bị cưỡng chiếm: “Không lên tiếng cho thế giới biết thì sẽ không ai giúp ta đòi lại Hoàng Sa”
Ngày 11.1, các học giả của Quỹ nghiên cứu biển Đông đã soạn thảo
“Thư gửi Liên Hiệp Quốc nhân 40 năm Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa” nhằm
nhắc với thế giới về hành vi cưỡng đoạt của Trung Quốc, khẳng định chủ
quyền của Việt Nam và tìm mọi cách yêu cầu Trung Quốc đưa tranh chấp ra
giải quyết tại Tòa án Công lý Quốc tế. Ngày 14.1, báo điện tử Một Thế
Giới đã đã trao đổi về sự kiện này với Thạc sĩ Công pháp quốc tế Nguyễn
Thái Linh hiện đang sống tại Ba Lan.
Thưa bà, với nội dung thư gửi này, Ban Pháp quyền của Liên Hiệp Quốc sẽ trả lời như thế nào?
Có lẽ chúng ta không nên đặt vấn đề “Ban Pháp Quyền của LHQ sẽ trả lời như thế nào” hay “Tổng Thư ký LHQ sẽ trả lời thế nào”, bởi mục đích của việc viết là thư là để nhắc nhở về sự tồn tại của tranh chấp Hoàng Sa và việc cưỡng chiếm ngang ngược bằng vũ lực của Trung Quốc.
Trái với tranh chấp Trường Sa là tranh chấp đa phương được cộng đồng quốc tế biết đến nhiều, nhất là trong thời gian gần đây, thì tranh chấp Hoàng Sa hầu như không được biết đến, bởi chỉ có hai bên liên quan là Việt Nam và Trung Quốc, mà Trung Quốc thì không bao giờ chịu đưa vấn đề ra trước quốc tế.
Nếu chúng ta không lên tiếng cho thế giới biết thì sẽ không có ai giúp chúng ta!
Để Ban Pháp Quyền hay Tổng thư ký LHQ biết đến tranh chấp Hoàng Sa và sự chiếm đóng trái pháp luật của Trung Quốc, cũng như thiện chí của chúng ta muốn thượng tôn luật pháp quốc tế, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, mà một trong những biện pháp đó là đưa ra Tòa Án Công Lý Quốc tế. Làm được như thế thì đó đã là thành công của chúng ta rồi.
Đã từng có một tiền lệ tương tự trong lịch sử hay không? Và kết quả là như thế nào?
Viết thỉnh nguyện thư hay thư ngỏ gửi cho Liên Hợp Quốc về các vấn đề khác nhau như nhân quyền, biến đổi khí hậu, quyền trẻ em, …. là một thực tế xảy ra không ít.
Về các vấn đề thuộc tranh chấp lãnh thổ thì ít hơn, nhưng cũng đã xảy ra. Kết quả trước hết luôn là sự quan tâm hơn của dư luận đối với vấn đề đó, mức độ nhiều ít như thế nào thì còn phụ thuộc vào từng vấn đề.
Nhìn từ góc độ Việt Nam mà nói, thì kết quả trước tiên của việc viết thư gửi cho Liên Hợp Quốc như lần này là xây dựng và củng cố, giữ vững ý chí về Hoàng Sa trong chính chúng ta.
Tuy Hoàng Sa đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm hoàn toàn từ 40 năm nay, nhưng chúng ta không chấp nhận mất chủ quyền, không buông xuôi và không quên. Chúng ta càng nhận thức rõ được những khó khăn trong việc giành lại Hoàng Sa thì chúng ta càng phải bền bỉ, kiên gan, càng không nản lòng, càng cần có ý chí vững mạnh.
Sơ bộ mới qua hơn 2 ngày thu thập chữ ký, đến chiều 14.1 số lượng chữ ký đã lên tới hơn 6.000, từ trong và ngoài nước, có lẽ chưa bao giờ chúng ta có một sự đồng lòng đến thế. Đó là điều chúng ta được trước tiên, khiến chúng tôi rất cảm động và vui mừng và chính chúng tôi cũng thấy bất ngờ.
Lá thư này sẽ tác động như thế nào đối với việc thúc đẩy giải quyết tranh chấp biển Đông bằng biện pháp hòa bình theo quan điểm của Chính phủ Việt Nam?
Việt Nam luôn muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình – đó cũng là thông điệp chính của bức thư và chúng tôi muốn cho thế giới biết đến điều đó để họ ủng hộ chúng ta. Tất nhiên Trung Quốc không đời nào chịu đưa vấn đề ra Tòa án Quốc tế, nhưng như vậy cũng cho thế giới thấy họ sợ lẽ phải và quen dùng bạo lực.
Được biết vào đầu năm nay, Philippines đã đệ đơn kiện Trung Quốc ra Tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc, vậy chúng ta có nên hợp tác với Philippines để cùng kiện Trung Quốc hay không?
Việc Philippines kiện Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của Việt Nam, do đó vấn đề “chúng ta có nên hợp tác với Phillipines để kiện Trung Quốc hay không” phụ thuộc vào việc Việt Nam xác định quyền lợi của mình ở quần đảo Trường Sa như thế nào.
Việc xác định nội dung yêu sách và các quyền lợi của Việt Nam là việc cần thiết, phải làm càng sớm càng tốt!
Vũ Thành Công
Thưa bà, với nội dung thư gửi này, Ban Pháp quyền của Liên Hiệp Quốc sẽ trả lời như thế nào?
Có lẽ chúng ta không nên đặt vấn đề “Ban Pháp Quyền của LHQ sẽ trả lời như thế nào” hay “Tổng Thư ký LHQ sẽ trả lời thế nào”, bởi mục đích của việc viết là thư là để nhắc nhở về sự tồn tại của tranh chấp Hoàng Sa và việc cưỡng chiếm ngang ngược bằng vũ lực của Trung Quốc.
Trái với tranh chấp Trường Sa là tranh chấp đa phương được cộng đồng quốc tế biết đến nhiều, nhất là trong thời gian gần đây, thì tranh chấp Hoàng Sa hầu như không được biết đến, bởi chỉ có hai bên liên quan là Việt Nam và Trung Quốc, mà Trung Quốc thì không bao giờ chịu đưa vấn đề ra trước quốc tế.
Nếu chúng ta không lên tiếng cho thế giới biết thì sẽ không có ai giúp chúng ta!
Để Ban Pháp Quyền hay Tổng thư ký LHQ biết đến tranh chấp Hoàng Sa và sự chiếm đóng trái pháp luật của Trung Quốc, cũng như thiện chí của chúng ta muốn thượng tôn luật pháp quốc tế, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, mà một trong những biện pháp đó là đưa ra Tòa Án Công Lý Quốc tế. Làm được như thế thì đó đã là thành công của chúng ta rồi.
Đã từng có một tiền lệ tương tự trong lịch sử hay không? Và kết quả là như thế nào?
Viết thỉnh nguyện thư hay thư ngỏ gửi cho Liên Hợp Quốc về các vấn đề khác nhau như nhân quyền, biến đổi khí hậu, quyền trẻ em, …. là một thực tế xảy ra không ít.
Về các vấn đề thuộc tranh chấp lãnh thổ thì ít hơn, nhưng cũng đã xảy ra. Kết quả trước hết luôn là sự quan tâm hơn của dư luận đối với vấn đề đó, mức độ nhiều ít như thế nào thì còn phụ thuộc vào từng vấn đề.
Nhìn từ góc độ Việt Nam mà nói, thì kết quả trước tiên của việc viết thư gửi cho Liên Hợp Quốc như lần này là xây dựng và củng cố, giữ vững ý chí về Hoàng Sa trong chính chúng ta.
Tuy Hoàng Sa đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm hoàn toàn từ 40 năm nay, nhưng chúng ta không chấp nhận mất chủ quyền, không buông xuôi và không quên. Chúng ta càng nhận thức rõ được những khó khăn trong việc giành lại Hoàng Sa thì chúng ta càng phải bền bỉ, kiên gan, càng không nản lòng, càng cần có ý chí vững mạnh.
Sơ bộ mới qua hơn 2 ngày thu thập chữ ký, đến chiều 14.1 số lượng chữ ký đã lên tới hơn 6.000, từ trong và ngoài nước, có lẽ chưa bao giờ chúng ta có một sự đồng lòng đến thế. Đó là điều chúng ta được trước tiên, khiến chúng tôi rất cảm động và vui mừng và chính chúng tôi cũng thấy bất ngờ.
Lá thư này sẽ tác động như thế nào đối với việc thúc đẩy giải quyết tranh chấp biển Đông bằng biện pháp hòa bình theo quan điểm của Chính phủ Việt Nam?
Việt Nam luôn muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình – đó cũng là thông điệp chính của bức thư và chúng tôi muốn cho thế giới biết đến điều đó để họ ủng hộ chúng ta. Tất nhiên Trung Quốc không đời nào chịu đưa vấn đề ra Tòa án Quốc tế, nhưng như vậy cũng cho thế giới thấy họ sợ lẽ phải và quen dùng bạo lực.
Được biết vào đầu năm nay, Philippines đã đệ đơn kiện Trung Quốc ra Tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc, vậy chúng ta có nên hợp tác với Philippines để cùng kiện Trung Quốc hay không?
Việc Philippines kiện Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của Việt Nam, do đó vấn đề “chúng ta có nên hợp tác với Phillipines để kiện Trung Quốc hay không” phụ thuộc vào việc Việt Nam xác định quyền lợi của mình ở quần đảo Trường Sa như thế nào.
Việc xác định nội dung yêu sách và các quyền lợi của Việt Nam là việc cần thiết, phải làm càng sớm càng tốt!
Vũ Thành Công
(Một thế giới)
-Kiện Trung Quốc Việt Nam được gì?
Nhật phê phán TQ về Biển Đông
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản, Itsunori Onodera nói các quy
định nghề cá do tỉnh Hải Nam của Trung Quốc đưa ra có hiệu lực
từ 1/1/2014 chỉ khiến cộng đồng quốc tế lo ngại.
Phát biểu này của phía Nhật đã bị Trung Quốc bác bỏ hôm 13/1/2014.
Bà Hoa Xuân Oánh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã
nói trong ngày rằng phía Trung Quốc “hoàn toàn không thoải mái”
về phát biểu của quan chức Nhật Bản.
Phía Trung Quốc cũng nhắc rằng Nhật Bản không hề có liên quan gì đến Biển Đông.
Quy định của tỉnh Hải Nam nói các tàu thuyền đánh cá nước
ngoài phải xin phép khi vào ‘vùng biển thuộc thẩm quyền của
chính quyền đảo Hải Nam ở Nam Hải”.
Tỉnh này định nghĩa khu vực do họ quản lý chiếm gần hết Biển
Đông và họ bác bỏ các tuyên bố chủ quyền từ Philippines, Đài
Loan, Malaysia, Brunei và Việt Nam, theo Reuters.
Tuần trước, Hoa Kỳ đã nói tuyên bố đòi hỏi của Trung Quốc
buộc ngư dân nước ngoài đánh bắt ở Biển Đông phải xin phép là
'khiêu khích và nguy hiểm'.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng ngay lập tức đã phản hồi lại bình luận
của phía Hoa Kỳ, qua lời bà Hoa Xuân Oánh nói rằng "Chúng tôi bày tỏ
sự không hài lòng và phản đối những nhận xét của phía Hoa Kỳ."
Phía Trung Quốc khi đó nói, "Trong 30 năm qua, các quy định về
ngành thủy hải sản có liên quan của Trung Quốc đã được thực hiện nhất
quán một cách bình thường, và chưa bao giờ gây ra bất kỳ căng thẳng
nào".
Hiện quan hệ Trung Quốc với Nhật Bản vẫn căng thẳng vì các
tranh chấp quanh nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông.
(BBC)
Thông báo về lễ tưởng niệm 40 năm ngày Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, ngày 19/1/2014.
No – UFC – Facebook
Với thực tế không thể chối cãi là Trung Quốc đã xâm lược, chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và đang tiếp tục gây hấn, xâm lấn và thôn tính nước ta một lần nữa.
Chúng tôi kêu gọi đồng bào hãy tham gia Lễ tưởng niệm 40 năm ngày Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa 17-19/01/1974!
Thời gian: Từ 8h30 – ngày 19/01/2014
Địa điểm: Tại tượng đài Lý Thái Tổ – Hồ Gươm – Hà Nội
Hãy đến với chúng tôi để chứng tỏ với cộng đồng quốc tế Hoàng Sa mãi mãi là của Việt Nam, để tưởng nhớ các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã hi sinh để bảo vệ Tổ quốc và để khẳng định chúng ta không sợ hãi trước bất kỳ sự đe doạ nào khi bày tỏ lòng yêu nước của mình!
Đề nghị UBND thành phố Hà Nội cùng các lực lượng chức năng đảm bảo an toàn cho buổi lễ, không tổ chức lễ hội, hát hò, vui chơi thể thao trong khu vực quanh Hồ Gươm và không cản trở, gây khó dễ cho những người tham gia buổi tưởng niệm này.
Phỏng vấn về Hải chiến Hoàng Sa và các chiến sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa.
Phạm thanh Nghiên
Phạm Thanh Nghiên:Không phải ai trong số chúng ta cũng biết và đựợc biết sự thật về tất cả những gì thuộc về quá khứ, nhất lại là một giai đoạn, một câu chuyện lịch sử với những biến cố đầy đau thương và oán hận.Trận hải chiến Hoàng Sa là một câu chuyện lịch sử như thế. Bốn mươi năm trước, khi bẩy mươi tư người lính Hải quân Việt Nam Cộng Hòa “vị quốc vong thân”trên vùng biển Hoàng Sa, tôi và đuơng nhiên những bạn cùng trang lứa còn chưa ra đời.Tại miền Bắc ngày đó, nhiều “cô, cậu” thanh niên đang là bộ đội của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Nhiều người trong số họ hiện giờ đã trở thành những cán bộ đang làm việc,phục vụ cho đảng và nhà nước.Trong số họ, không thể không nói rằng họ không biết hay hoàn toàn không biết về trận hải chiến cũng như sự hy sinh anh dũng của những nguời anh hùng tại Hoàng Sa ruột thịt ngày ấy.
Là một người sinh
sau biến cố năm 1975, tôi cũng như rất nhiều nguời dân miền Bắc và nhất
là những bạn trẻ đã không có cơ hội để biết về trận Hải chiến Hoàng Sa
năm 1974. Hơn thế, tôi cũng đã từng lĩnh án 4 năm tù giam chỉ vì lên
tiếng cỗ vũ cho Nhân quyền và công khai khẳng định chủ quyền biển đảo
của dân tộc. Giống như tất cả những bạn trẻ yêu nước khác, Trường Sa-
Hoàng Sa luôn ở trong trái tim tôi. Trong hoàn cảnh của một người tù
đang bị quản chế, tôi chỉ có thể huớng về Hoàng Sa bằng cách riêng rất
hạn chếcủa mình: thực hiện một chương trình phỏng vẫn để kỷ niệm 40 năm
Hải chiến Hoàng Sa.Với mong muốn xóa đi, hoặc ít ra cũng thu hẹp lại
những ranh giới, khác biệt từ nhiều thành phần trong quá khứ, tuổi tác
và chính kiến để có một cái nhìn trung thực,công bằng, biết tri ân với
những nguời đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.Để thấy được rằng, bất cứ một
sự khác biệt nào cũng có thể vượt qua với một lý do chung, đó là Lòng
Yêu Nước.
Bài phỏng vấn đầu
tiên này được thực hiện với 3 người để như là một phần nói lên tâm tình
của những người dân Việt, có những quá khứ khác nhau, về cuộc Hải chiến
Hoàng Sa bảo vệ biển đảo của các Hải quân VNCH.
Vì đây là câu hỏi
chung dành cho nhiều người ở những lứa tuổi khác nhau, xin phép được
dùng chung từ “bạn”trong cách xưng hô để thuận tiện cho việc đặt câu
hỏi.
- Lê Hưng: Một bạn trẻ ở Hải
Phòng sinh sau năm 1975. Sau khi tốt nghiệp Phổ thông trung học, Hưng
tham gia nghĩa vụ quân sự và khi dời quân ngũ, anh tiếp tục theo học
đại học.Tuy nhiên, trước đây anh không hề biết về trận Hải chiến Hoàng
Sa cách đây 40 năm về trước.
Ông Ngô Nhật Đăng. |
- Ông Ngô Nhật Đăng: Là con trai
của nhà thơ Xuân Sách. Ông đã từng phục vụ trong Quân đội Nhân dân Việt
Nam từ năm 1978 đến năm 1982 và tham gia chiến trường biên giới tại Cao
Bằng trong cuộc chiến Việt Trung. Ông Ngô Nhật Đăng là thành viên của
nhóm No-U Hà Nội và từng nhiều lần xuống đường biểu tình phản đối Trung
Quốc xâm chiếm biển đảo của Việt Nam. Hiện ông đang sống tại Hà Nội và
vẫn tiếp tục có những hoạt động cổ vũ cho Nhân quyền và nhất là vấn đề
toàn vẹn lãnh thổ.
- Bà Ngô Thị Hồng Lâm: sinh 1957
tại HN. Hiện đang sống tại Sài Gòn. Bà Hồng Lâm nguyên là một cán bộ
công tác chuyên ngành nghiên cứu lịch sử đảng. Sau khi dời công tác, bà
dành phần lớn thời gian cho các hoạt động từ thiện và công khai bày tỏ
quan điểm ủng hộ cho Dân chủ, Nhân quyền và đặc biệt là vấn đề Toàn vẹn
lãnh thổ.
Xin bạn cho biết, bạn biết gì về cuộc hải chiến HS cách đây 40 năm?
Lê Hưng: Rất tiếc là tôi không
hề biết gì về trận hải chiến đó. Vì từ truớc tới nay tôi không thấy báo
chí đưa tin hay những người quen của mình nhắc tới. Hoàn toàn không có
trong lịch sử mà tôi được học. Có thể thông tin về trận hải chiến 40 năm
trước đã hoàn toàn bị che giấu, bưng bít cho đến ngày hôm nay.
Ngô Nhật Đăng: Ngày đó tôi mới
bước sang tuổi 16, cũng như tuyệt đại đa số người dân miền Bắc lúc đó
tôi chưa bao giờ được nghe nhắc tới Hoàng Sa – Trường Sa. Tôi được biết
đến sự kiện này do nghe bố tôi và các bạn của ông nhắc tới: “Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu gửi thư ra Hà Nội yêu cầu chính phủ VNDCCH lên tiếng về
việc Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa”. Chính câu chuyện đó gây ấn tượng
mạnh với bản thân tôi.
Bà Ngô Thị Hồng Lâm |
Ngô Thị Hồng Lâm: Đó là một cuộc
xâm lăng phi pháp, chà đạp lên Luật pháp quốc tế của Trung Quốc cách
đây 40 năm của thế kỉ trước nhằm thực hiện ý đồ “muốn biến nước ta từ
cái tổ Con Đại bàng thành tổ con Chim Chích” như lời của ông cha ta đã
dạy.
Xin cho biết cảm nghĩ của bạn đối với sự hy sinh của 74 người lính hải quân VNCH?
Lê Hưng: Tôi rất kính trọng sự
hy sinh cao cả của những người đã chiến đấu bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải
của dân tộc ta. Tôi là một người theo Đạo Mẫu Việt Nam, tôi tôn thờ
những người đã có công giúp dân, đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Ngô Nhật Đăng: Đó là một sự kiện
bi tráng, sau này được đọc các tư liệu, các tác phẩm thơ văn tất nhiên
là của VNCH tôi càng thấy ngưỡng mộ họ. Có một điều an ủi là sau bao
nhiêu năm bị quên lãng các anh đã được “chiêu tuyết” lại, điều đó càng
khẳng định: Nhân dân sẽ không bao giờ quên những người con đã đổ máu để
giữ gìn đất đai của Tổ Quốc và lịch sử sẽ công bằng.
Ngô Thị Hồng Lâm: Vào thời điểm
19/1/1974, khi ấy mọi thông tin còn bị cộng sản bưng bít rất chặt. Người
dân miền Bắc VN hầu như chỉ có một luồng thông tin giáo điểu từ cái gọi
là “Đài Tiếng nói VN” nên không được biết kịp thời cuộc đánh chiếm đảo
Hoàng Sa của người có bộ mặt nạ “anh em” Trung Quốc. Đây là một cuộc
chiến không cân sức giữa Hải quân VNCH và bọn Trung Quốc xâm lược. Mặc
dù VNCH không giữ được đảo Hoàng Sa nhưng các chiến sĩ đã thể hiện lòng
yêu nước vô cùng mãnh liệt trong cuộc chiến đấu bao vệ Tổ Quốc. Đó là
những hy sinh đau thương nhưng rất vẻ vang của tất cả các chiến sĩ VNCH
và đặc biệt là 74 người lính Hải Quân VNCH. Họ đã ngã xuống trong trận
đánh này, để lại trong lòng chúng tôi hình ảnh đẹp và sự ngưỡng mộ những
người con của Tồ Quốc Việt Nam. Chúng ta không được phép quên họ.
Suy nghĩ của bạn về những người lính
của cả 2 bên chiến tuyến bảo vệ đất nước? Đối với bạn, có sự khác biệt
gì không giữa giữa những người lính VNCH như trung tá Ngụy Văn Thà và
với những người lính QĐVN (đặc biệt là đồng đội của ông Ngô Nhật Đăng)
đã hy sinh ở chiến trường biên giới Việt Trung vào năm 1979 và 1984?
Và ngày xưa những người lính VNCH bị gán với từ “ngụy”, ngày hôm nay bạn nghĩ sao về điều ấy?
Lê Hưng: Với tôi, những người
lính dù là VNCH hay VC đều không không có tội. Là lính, họ chỉ hành động
theo lý tưởng và tuân theo mệnh lệnh. Họ là những con người có trái tim
yêu nước, yêu dân tộc của mình. Tôi cũng không được biết về cuộc chiến
tranh biên giới Việt Trung năm 1984. Cuộc xâm lược của Trung Quốc năm
1979 thì có nghe nói tới. Nhưng tôi nghĩ, sự thật vẫn là sự thật dù có
bị bưng bít. Và việc làm ngu ngốc, hèn nhát nhất chính là phủ nhận và
bưng bít sự thật.
Về việc những người lính VNCH bị gán
với từ “ngụy”, tôi xin phép không trả lời dài dòng vì hiểu biết của tôi
có hạn. Nhưng những người lính dù là VNCH hay lính QĐND, họ đều đã đổ
máu xương, hy sinh để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ tổ quốc. Người thân của
họ đã phải chịu quá nhiều mất mát đau thương. Mẹ già mất con, vợ trẻ mất
chồng, trẻ thơ mất bố, bạn bè chiến hữu mất đi một người anh em.
Ngô Nhật Đăng: Tôi đã có thời
gian là lính (1978-1982) có tham gia chiến trường biên giới tại Cao Bằng
trong cuộc chiến Việt Trung. Tôi tin rằng không có sự khác biệt nào
giữa những người lính dù dưới thể chế chính trị nào khi chiến đấu để bảo
vệ Tổ Quốc, chúng tôi cũng không hề đắn đo và sẵn sàng hy sinh chống
bọn cướp nước hồi năm 1979 cũng như các anh hùng giữ đảo Hoàng Sa năm
1974 vậy. Điều đó là chắc chắn.
Không riêng gì người lính và cả những
người từng phục vụ trong chính quyền VNCH cũng bị gọi là “ngụy” (xin
lỗi, tôi coi đây là một từ “mất dạy”) mà cả những người từng tham gia
chính quyền trước năm 1954 cũng bị gọi như vậy. Số này ở lại Hà Nội
không di cư vào Nam cũng khá đông, họ cũng bị đi tù (gọi là cải tạo) một
thời gian. Tôi cũng có một số bạn bè cùng học là con cái của những
người này, quan sát họ tôi cũng có những suy nghĩ khác với những điều
thường được “giáo dục” trong nhà trường. Tất cả sách giáo khoa và cả các
tác phẩm văn học của Việt nam lẫn Liên Xô mà chúng tôi chỉ được phép
đọc đều miêu tả những người phía bên kia cực kỳ xấu xa, độc ác, mất hết
nhân tính, sẵn sàng mổ bụng ăn gan kẻ thù… Dù không tin hoàn toàn nhưng
dù sao vẫn để lại dấu vết trong đầu óc. Cũng may mắn từ bé tôi đã được
đọc các cuốn sách trong tủ sách gia đình những cuốn như “Chuông nguyện
hồn ai”, “Phía Tây không có gì lạ” v.v… nó làm cho tôi có những suy nghĩ
đúng đắn hơn. Quay về câu hỏi của bạn về những người lính VNCH. Thời
chúng tôi cũng thường nghe lén các đài phát thanh Sài Gòn (việc này rất
nguy hiểm), các bài hát về chiến tranh về thân phận người lính của phía
VNCH cũng gây những xúc động mạnh cho chúng tôi. Tôi còn nhớ, vào cuối
năm 1973 (lúc này đã có Hiệp định Paris) một anh bộ đội từ chiến trường
ra đến nhà tôi báo tin người cậu ruột của tôi đã chết tại Thành cổ Quảng
Trị năm 1972. Là con út của bà ngoại, ông chỉ hơn tôi có 6 tuổi nên hai
cậu cháu thường quấn quýt với nhau.
Đây là cú gõ cửa đầu tiên của chiến
tranh thăm viếng nhà tôi, bố tôi cũng thường đi chiến trường trong những
thời gian ác liệt (kể cả thời chống Pháp) nhưng ông chỉ đi ngắn chừng 1
năm và lần nào cũng trở về nguyên vẹn. Anh ở lại nhà tôi 2 ngày trước
khi về đơn vị và ngủ chung với tôi, tôi được nghe nhiều chuyện về chiến
tranh, khi tôi hỏi anh về những người lính “ngụy” anh văng tục: “Hay ho
cái đéo gì, anh em trong nhà tàn hại lẫn nhau”. Và tôi mới biết các anh
cũng thường hay nghe lén những ca khúc của Trịnh Công Sơn.
Sau này có một thời gian tôi sống và
làm việc ở Sài Gòn, quen biết nhiều hơn, thậm chí có một người từng là
Đại úy cũng nhận tôi là em kết nghĩa (anh đã vượt biên năm 84). Theo
tôi, dù đã muộn màng, chúng ta phải đánh giá lại giai đoạn lịch sử đau
thương này của đất nước, trả lại danh dự cho những người đã nằm xuống vì
đạn bom, những người còn sống bị đày ải vì lao tù, chiến tranh đã lùi
xa mà vết thương này vẫn chưa lên da non đó là điều không thể chấp nhận.
Ngô Thị Hồng Lâm: Thực tế thì
một điều bất hạnh nhất cho một đất nước là có chiến tranh. Bất hạnh hơn
nếu đó lại là một cuộc nội chiến muốn thống trị nhau bằng bạo lực. Với
nhận thức của tôi thì cuộc chiến của quân đội 2 miền Nam và Bắc Việt Nam
là một cuộc nội chiến, “người chiến thắng” chẳng có gì để tự cho mình
là cuộc chiến chính nghĩa và vẻ vang. Đây là điều ngộ nhận rất thiếu
nhân văn của những người cầm quyền Hà Nội. Cuộc chiến đã tàn 40 năm rồi,
đủ độ lùi của thời gian rồi, để “từ nay người biết thương người”. Tuy
nhiên, mỗi kỉ niệm 30/4 Ban Tuyên huấn họ vẫn cứ cho phát lại những cuốn
băng thời sự cũ “quân ta hừng hực khí thế chiến đấu” nghe sao mà thấy
vết thương lòng của dân tộc Việt Nam mãi mãi không thể hàn gắn và câu
nói của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt “ngày 30/4 có một triệu người vui thì có
một triệu người buồn” vẫn còn nguyên tính thời sự và cuối cùng thì người
lính cả 2 bên chiến tuyến họ chỉ là những nạn nhân của cuộc chiến.
Vì thế cho nên không thể có sự khác
biệt trong đối xử với người lính của 2 bên chiến tuyến, không thể giữ
mãi sự khác biệt bên trọng bên khinh. Càng không thể dùng từ “ngụy” đối
với người lính VNCH Trung tá Ngụy Văn Thà và đồng đội của ông đã anh
dũng chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa, đã anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc Việt Nam.
Cần vinh danh họ. Cũng như những người lính đã hy sinh ở biên giới
Việt-Trung vào năm 1979 họ đều là những anh hùng xứng đáng được Tổ Quốc
Việt Nam ghi công và đời đời nhớ ơn họ.
Những người lính VNCH bị chính quyền
cộng sản gán cho họ từ “ngụy” là một điểu ngô nhận của họ. Cân phải có
một sự đổi mới về nhận thức với những người ở bên kia chiến tuyến, để
xóa bỏ sự hằn thù dân tộc cho vết thương mau liền da liền thịt, tiến đến
hòa hợp dân tộc để tăng cường sức mạnh của Việt Nam trong tình hình
hiện nay. Bản thân tôi cực lực phản đối sự phân biệt đối xử hoặc xúc
phạm với những người ở bên kia chiến tuyến trong đời sống cũng như nghĩa
trang nơi họ yên nghỉ.
Bạn có nghĩ là nên vinh danh những người lính VNCH ở trận chiến HS năm 1974 không? Nếu có, bạn có sẵn sàng tham gia không?
Lê Hưng: Họ xứng đáng được vinh
danh, họ xứng đáng được ca ngợi. Nếu không thì máu xương, tuổi trẻ, gia
đình mà họ đã phải đánh đổi để dành lấy chủ quyền cho đất nước lẽ nào
lại là vô nghĩa hay sao. Chúng ta, thế hệ sau này vô ơn quá.
Ngô Nhật Đăng: Ồ, đó là việc rất nên làm và tất nhiên tôi sẵn sàng tham gia.
Ngô Thị Hồng Lâm: Việc vinh danh
những người lính VNCH đã hy sinh trong trận chiến bảo vệ Hoàng Sa năm
1974 là việc phải làm để tỏ lòng biết ơn những người con của Tổ Quốc
Việt Nam đã hy sinh bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của ông cha ta để
lại và qua đó giáo dục nhắc nhở các thế hệ trẻ của Việt Nam lớn lên sau
này phải biết ơn những người đã vì bảo vệ biển đảo của Tồ Quốc mà hy
sinh. Không được phép vong ân với những chiến sĩ VNCH đã ngã xuống trong
trận chiến bảo vệ đảo Hoàng Sa năm 1974 và những chiến sĩ QĐNDVN trong
chiên trận bảo vệ biên giới phía Bắc 1979.
Việc bạn hỏi chúng tôi có sẵn sàng tham
gia không? Xin thưa rằng, tôi vốn xuất thân trong chuyên ngành Nghiên
Cứu Lịch Sử, chúng tôi đã cùng các đồng nghiệp của mình cùng các thế hệ
học trò tổ chức lễ giỗ tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ của VNCH đã ngã
xuống trong trận chiến bảo vệ Hoàng Sa ngày 19/1/1974 hàng năm mà không
cần phải xin phép bất cứ một “ông Kẹ” nào.
Theo bạn, những tương đồng hay khác
biệt gì giữa những người lính ngày xưa hy sinh bảo vệ biển đảo và những
công dân VN ngày nay xuống đường thể hiện lòng yêu nước và phản đối TQ
xâm lấn HS, TS và Biển Đông?
Lê Hưng: Theo tôi, những người
cách đây 40 năm bảo vệ TS và những người hôm nay xuống đường biểu tình
phản đối TQ xâm lấn nước ta, họ rất tương đồng. Họ là những người yêu
nước, dám đứng lên bảo vệ đất nước mình dù biết trước hậu quả là có thể
sẽ phải hy sinh mất mát nhiều, thậm chí tù đày hy sinh.
Về cá nhân tôi bất kỳ lúc nào đất nước
cần tôi sẽ chiến đấu vì tôi cũng đã từng là lính. Và quan trọng hơn tôi
là một con dân đất Việt. Tôi chiến đấu cho Dân tộc, cho Tổ Quốc của
chúng ta chứ không phải chiến đấu cho bất cứ một chế độ, một chủ thuyết
hay một đảng phái nào.
Ngô Nhật Đăng: Tất nhiên với sự
xa cách về thế hệ nên sẽ có những khác biệt, nhưng lòng yêu nước và sự
cảnh giác trước “hiểm họa phương Bắc” thì sẽ mãi trường tồn, điều đó ăn
vào máu mỗi con dân Việt chân chính.
Ngô Thị Hồng Lâm: Theo tôi sự
khác nhau của những người lính VNCH ngày xưa hy sinh bảo vệ biển đảo với
những công dân VN ngày nay xuống đường biểu tình phản đối TQ xâm lăng
Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông đó là về thời gian. Còn sự tương đồng ở
đây chính là lòng tự trọng dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước, mảnh
đất thiêng ngàn đời của ông cha ta để lại mà mỗi chúng ta phải có trách
nhiệm và ý chí bằng mọi giá phải bảo vệ và gìn giữ. Rất tiếc là khi nhân
dân xuống đường phản đối Trung Quốc xâm lược thì lại bị nhà cầm quyển
đàn áp bằng bạo lực để làm vừa lòng “ông bạn vàng” Trung Quốc với cái
“mặt nạ 4 tốt và 16 chữ vàng”.
40 năm kể từ ngày 74 chiến sĩ VNCH
hy sinh để bảo vệ biển đảo, ngày hôm nay HS vẫn bị chiếm đóng bởi TQ.
Theo bạn chúng ta phải cần có những hành động, công việc cụ thể gì mà cá
nhân bạn có thể thực hiện hay tham gia góp phần để giành lại HS, TS cho
Tổ quốc VN?
Lê Hưng: Tôi xin được nói rằng,
con người của tôi không giống như bọn ngu bị nhồi sọ, tôi không bị mù
hay bị điếc mà không biết chế độ này như thế nào. Người dân Việt Nam khổ
sở ra sao và đang mong chờ điều gì, nhưng họ chưa làm được có thể họ
chưa tìm thấy những người bạn đồng hành. Hoặc là chưa vượt qua được nỗi
sợ hãi.
Ngô Nhật Đăng: Xin quay trở lại,
ngoài câu chuyện về bức thư của ông Nguyễn Văn Thiệu, tôi được nghe kể
về sự trả lời từ phía Hà Nội: “Ông Phạm Văn Đồng nói ở hành lang: “Có
còn là của mình nữa đâu mà đòi”. Lúc đó Hà Nội đã cảm thấy sock trong
việc TQ bắt tay với Mỹ (từ năm 72 qua “ngoại giao bóng bàn” và Nixon
thăm Bắc Kinh).
Thầy dạy tôi cũng là một nhà sử học nói
với chúng tôi: “Từ năm 1928, Pháp đã cắm các cột mốc chủ quyền
“Indochina” (Đông Dương) lên tất cả các hòn đảo ở Hoàng Sa và một số ở
Trường Sa”. Có lần tôi hỏi ông về Hoàng Sa và Trường Sa,
Ông trả lời: – Hồi năm 1957, Hồ Chí
Minh và Chu Ân Lai có ký một hiệp ước giữa 2 đảng nội dung: Vì hải quân
Việt Nam (DCCH) còn yếu nên Hải quân TQ sẽ giúp Bắc Việt bảo vệ Biển
Đông (lúc đó trong sự kiểm soát của VNCH) và Vịnh Bắc Bộ. Hai bên sẽ
cùng nhau khai thác các nguồn lợi ở đây, nếu có nước thứ ba thì cũng
phải có sự đồng ý của cả hai bên. Đổi lại, TQ trả lại VN 2 hòn đảo Cái
Chiên và Bạch Long Vỹ mà họ chiếm lại từ Tưởng Giới Thạch (trước đó là
người Nhật).
Riêng điều này thì chính xác vì mẹ tôi
kể từng ra Cái Chiên và Bạch Long Vỹ làm “Lễ tiếp quản” (hồi đó bà đang
là diễn viên của văn công Quân đội). Tất nhiên thông tin này cần phải
kiểm chứng, nhất là từ những người chép Sử.
Tôi có hỏi ông: – Như thế thì làm sao có thể đòi lại được?
Ông trả lời: – Hiệp định ký giữa 2 đảng
sẽ trái với luật pháp quốc tế vì nếu hai nước có ký kết một hiệp định
tương tự thì phải do chính phủ ký và phải thông qua Quốc hội. Nhưng nếu
lôi ra thì lại động chạm đến ông Hồ Chí Minh, đó cũng lại là một điều
“kiêng kỵ”. Dù sao đi nữa, việc TQ chiếm Hoàng Sa năm 1974 cũng không
thể coi là việc đã rồi, việc này đòi hỏi phải có sức mạnh của cả dân tộc
nhất là những người đang ở cương vị lãnh đạo đất nước. Trước hết chúng
ta cần phải có quyền được biết tất cả những sự thật liên quan đến Hoàng
Sa, Trường Sa. Được công khai lên án những việc làm ngang ngược, càn rỡ
của nhà cầm quyền Trung Quốc và tranh thủ sự đồng tình của Quốc tế cũng
như tôn trọng các luật biển mà cả hai bên từng cam kết đồng ý.
Ngô Thị Hồng Lâm: Sự chiếm đóng
trái phép đảo Hoàng Sa thể hiện sự ngang ngược của nhà cầm quyền Trung
Quốc bất chấp luật pháp quốc tế về chủ quyền lãnh thổ của từng nước trên
trường quốc tế. Vì thế mà tất cả mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam rất bất
bình và đã từng diễn ra nhiều cuộc biểu tình ở các thành phố lớn của
Việt Nam mà mở đầu là cuộc biểu tình cuối năm 2007, rồi rất nhiều các
cuộc khác trong năm 2011 và 2012. Đây là việc làm chính đáng của nhân
dân cả nước. Lẽ ra phải được những người cầm quyền ủng hộ và tán thành
NHƯ một bước quan trọng trong mở đầu cho kênh ngoại giao và đàm phán.
NHỮNG CUỘC BIỂU TÌNH CỦA NHÂN DÂN CẦN PHẢI được tôn trọng. Cá nhân tôi
hoàn toàn ủng hộ những cuộc biểu tình đầy ý nghĩa lịch sử trong việc giữ
nước của nhân dân Việt Nam.
Được biết anh Ngô Nhật Đăng cũng là
một trong số những người đã nhiều lần xuống đường biểu tình và thậm chí
bị công an bắt giữ chỉ vì thể hiện lòng yêu nước, phản đối Trung Quốc
chiếm biển đảo của Việt Nam. Anh nghĩ sao về hành động này của chính
quyền? Và nếu sau này lại có một hoặc nhiều cuộc xuống đường để bày tỏ
lòng yêu nước, anh có tiếp tục tham gia không?
Ngô Nhật Đăng: Rất tiếc cho họ,
đáng lẽ đây là một dịp để chính quyền có thể “mượn” được sức dân không
những chỉ trong việc bảo vệ chủ quyền mà còn nhiều vấn đề khác nữa. Họ
lo sợ những cái không có thật, chứng tỏ họ là những người lãnh đạo thiếu
cái tâm và tầm nhìn xa. Rất tiếc, nếu cứ có những hành xử với người dân
như vậy thì điều họ lo sợ có thể trở thành sự thật. Đó là điều mà không
ai muốn nhưng sức chịu đựng cũng chỉ có giới hạn. Nếu lại có những cuộc
biểu tình nữa để bày tỏ lòng yêu nước thì tôi coi việc phải tham gia
như là một nghĩa vụ công dân.
Không giống như gần 40 năm qua, báo
chí của đảng luôn né tránh, thậm chí bưng bít về trận hải chiến Hoàng Sa
năm 74, hoặc chỉ đưa tin một cách rất hạn chế. Năm nay, báo chí “lề
đảng” đã không ngần ngại đưa tin về trận hải chiến này và không ngần
ngại gọi 74 người lính hải quân VNCH là “anh hùng”, bạn nghĩ sao về việc
này?
Ngô Nhật Đăng: Đó là điều họ
phải làm từ lâu rồi mới phải, nhưng dù sao muộn còn hơn không. Hơn ai
hết họ quá hiểu sự o ép khó chịu của tay “láng giềng to xác”. Đây là lúc
lựa chọn giữa đất nước và quyền lợi cá nhân, không có kiểu lập lờ nước
đôi được.
Ngô Thị Hồng Lâm: Đúng là năm
nay là một năm khá đặc biệt. Trước áp lực của quần chúng bắt buộc Tuyên
Huấn chỉ thị báo chí phải đưa tin, bài về cuộc chiến giữ đảo Hoàng Sa
của Hải quân VNCH mà những thập kỉ trước họ rất kiệm lời và cho là việc
“nhạy cảm” hay “chạm húy”. Hay nói cách khác thì đây là một sự hèn nhát
của những người cầm quyền. Nhưng họ không thể làm ngơ mãi được vì lương
tâm của họ chắc đã hối thúc họ không thể ngậm miệng thêm nữa trước xu
hướng tiến lên của một dân tộc ngàn đời không chịu sống quỳ.
Từ ngàn năm nay, qua bất kỳ thời đại
nào, chế độ nào người dân VN ta đều thể hiện lòng yêu nước nồng nàn.
Anh nghĩ sao về những bạn trẻ vẫn đang ra sức truyền bá sự thật hiện tại
và lịch sử về HS – TS bất chấp tù đầy và bắt bớ, sách nhiễu hay đánh
đập?
Ngô Nhật Đăng: Tuyệt vời!!! Tôi
không còn biết dùng từ gì hơn để nói về các bạn trẻ đó. Tôi được gặp,
được nghe, được nói chuyện với các bạn và đó là niềm hạnh phúc. Không
riêng tôi, nhiều người thuộc thế hệ cha chú của tôi cũng vui mừng. Họ
bảo: Vẫn có những cô bé, cậu bé như vậy, đất nước này không thể mất.
Theo bạn, 40 năm sau những thế hệ
tương lai sẽ đánh giá và nghĩ gì về thế hệ chúng ta ngày hôm nay khi họ
cùng chung nhau tổ chức Kỷ niệm 80 năm hải chiến HS năm 1974?
Lê Hưng: Theo tôi nghĩ 40 năm
sau, có thể mọi chuyện đã thay đổi rất nhiều. Cũng có thể chúng ta đã
lấy lại được Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng nếu vậy thì ngày hôm nay và ngay
bây giờ, chúng ta phải dũng cảm và quyết tâm đứng lên tranh đấu đòi lại
đất mẹ. Nếu không, thế hệ kế tiếp sẽ lên án chúng ta là những kẻ vô ơn,
những kẻ hèn nhát, những kẻ không dám nhìn vào sự thật, những kẻ ngu
xuẩn bị tẩy não, bị nhồi sọ.
Nhân đây, tôi cũng xin được bày tỏ lòng
biết ơn thành kính sâu sắc tới những người lính VNCH, nhất là 74 vị anh
hùng đã “vị quốc vong thân”. Xin hãy tha thứ cho tôi, một cho một thế
hệ trẻ sinh sau năm 1975 vì đã suốt một thời gian dài, chúng tôi đã
không biết về một phần của sự thật lịch sử. Cảm ơn vì đã cho tôi cơ hội
nói lên phần nào tâm tư, trăn trở của tôi.
Ngô Nhật Đăng: Tôi tin rằng lúc
đó HSTS đã trở về trong lòng Tổ Quốc, nếu tên những người trong chúng ta
được nhắc đến thì đó sẽ là niềm vui sướng vô bờ.
Xin cảm ơn cô Ngô Thị Hồng Lâm, anh Ngô Nhật Đăng và bạn Lê Hưng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét