Quốc hội cũng là một nhóm lợi ích?
Một đại biểu cầm phiếu bầu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản tại Hà Nội vào ngày 17/1/2011, ảnh minh họa. (AFP photo)
Phạm Chí Dũng gửi RFA từ Việt Nam
2013-11-19
Không những không còn “của dân” và “vì dân”, Quốc hội còn tiếp thêm một
lực hút soi móc nữa đối với bầu ngân sách vốn đã bị các nhóm lợi ích
xuyên đục đến tận cùng.
40% trong tổng số đại biểu quốc hội đã “im lặng” khi được hỏi về việc chọn người chất vấn. Tỷ lệ này vươn lên gấp đôi so với kỳ họp lần thứ 5 vào giữa năm 2013 - thời điểm mà ngay cả những quan chức cao cấp của Quốc hội cũng phải bộc lộ nỗi bức xúc không hẳn là giả dối “hàng trăm đại biểu không có ý kiến gì trong suốt vài kỳ họp quốc hội”.
Dấu ấn duy nhất mang lại hy vọng cho cử tri vào kỳ họp thứ 5 đó chỉ là hình ảnh lóe sáng nhất thời của 32% đại biểu bỏ phiếu tín nhiệm thấp cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và 42% cho Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình. Một hy vọng lấy lại những gì đã mất đối với khối cử tri, bằng vào hành động hiếm hoi trong một đánh giá có tính thực chất về tình cảnh điều hành bị coi là quá yếu kém của lớp quan chức chính phủ trong ít nhất hai năm từ giữa 2011 đến giữa 2013.
Nhưng chừng đó vẫn là chưa đủ, và còn xa mới thỏa mãn được cơn bức bối uất nghẹn không thể thốt lên của cử tri toàn quốc. Tối thiểu, những gì mà người dân muốn là các đại biểu quốc hội không được ngủ gật trong một khán phòng như ngủ lặng cùng bản hiến pháp bị xem là “ngủ đông”.
Dĩ nhiên, nếu vị đại biểu trên còn tỏ ra minh mẫn thì bản dự thảo sửa đổi hiến pháp lại diễn biến theo tâm thế ngược lại.
Sau lời chốt đóng sổ sửa đổi hiến pháp của chủ tịch quốc hội, cử tri đang tự hỏi liệu tâm thế lộn ngược của dự thảo sửa đổi hiến pháp có thật “tập trung tinh hoa trí tuệ” như ông Nguyễn Sinh Hùng mặc định hay không?
Hay chỉ là lớp trình diễn của một tầng lớp “tinh hoa” nào đó và mang tính khu biệt trong nội bộ - những người được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc cách “Cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp”?
Thời quá khứ, ông Nguyễn Sinh Hùng từng là một quan chức chính phủ. Và ông cũng là một đại biểu thâm dày ở nơi mà nhiều ý kiến cho rằng “Quốc hội đã chẳng làm được gì cho dân”.
Những câu chuyện xưa cũ đến lê mòn cứ trôi dạt vào một góc phòng vô định chốn nghị trường. Quốc hội Việt Nam sẽ đi về đâu với những ảo ảnh không có cơ may nào được hiện thực hóa của nó?
Hiện thời, câu trả lời thực dụng nhất chỉ là nếu những chất vấn thê thiết nhất của cử tri đã bị số đại biểu quan chức lấp liếm hết kỳ họp này sang kỳ họp khác, thì đừng trông mong bất kỳ tốt lành nào cho vận mệnh đất nước.
Người dân di chuyển đồ đạc từ một ngôi nhà bị ngập lụt trong thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định hôm 16/11/2013. AFP photo
Hàng chục vạn ngôi nhà, xóm, làng, khu phố bị chìm ngập trong biển nước. Hàng vạn hecta đồng ruộng, hồ ao, đầm nuôi cá đến kỳ thu hoạch đã mất trắng… … Đó là hình ảnh thống thiết thường thấy qua mỗi mùa mưa bão.
Nhưng sau chuỗi thời gian trầm nghẹn quá lâu, vào lúc này báo chí trong nước đã phải thét lên “Nhân tai!’.
Chỉ mới đây, cùng với tuyên bố tuyệt thực, Yeb Sano - trưởng đoàn đàm phán Philippines tại hội nghị Công ước khung của Liên hiệp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 19 - cất tiếng kêu xé lòng: “Chúng ta phải thôi gọi những sự kiện như vậy là tai họa tự nhiên…”.
Quằn quặn Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam…, tiếng khóc xé lòng dội khắp xóm làng sau cú xả lũ vào dân của các nhà máy thủy điện.
Song một điều kinh khủng là ngay cả bốn chục sinh mạng dân chúng bị cơn lũ thủy điện dã man chưa từng thấy cướp trắng ngay trong thời gian kỳ họp thứ 6 cũng không khiến nhiều đại biểu quốc hội bận lòng.
Cũng chẳng có bất cứ kẻ “giết sống” dân nào phải ra trước vành móng ngựa từ trước đến nay.
Hình ảnh an ủi duy nhất chỉ là những chiếc áo xanh bộ đội và cả những cán bộ, chiến sĩ công an oằn mình cứu hộ cho dân.
Nhưng bức tranh khác hơn rất nhiều là sau khi Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cố gắng lấp liếm về trách nhiệm của ban lãnh đạo Bộ Công thương, đã chỉ có vài đại biểu quốc hội dám lên tiếng về trách nhiệm không thể loại bỏ này.
Cho dù trong thâm tâm, rất có thể đa số dân biểu đều hiểu rằng trách nhiệm của toàn bộ chiến dịch xả lũ đó trước hết thuộc về Bộ Công thương, với gương mặt trơn bóng cùng những lời điều trần trơn tuột của bộ trưởng Vũ Huy Hoàng trước toàn thể Quốc hội về “chúng ta” - ngôi thứ ba số ít mà đã trở thành một thứ dịch bệnh tồn trữ quá lâu trong lòng chế độ.
Trách nhiệm đó cũng thuộc về cá nhân bộ trưởng Vũ Huy Hoàng - người liên đới trực tiếp với những cú “áp phe” quy hoạch thủy điện và phê duyệt các dự án thủy điện.
Bất chấp những lời dẫn dụ đầy ngụy biện của giới quan chức chính phủ và bộ ngành, tất cả đều đã quá chậm. Bất chấp vài trăm dự án thủy điện cuối cùng cũng buộc phải gạt ra khỏi quy hoạch, hàng trăm dự án thủy điện còn lại đã quét đi hơn 50.000 hecta rừng, hàng ngàn hecta đất ở, đất trồng trọt của người dân… khiến dân chúng phải chuyển nhà, chuyển cửa, mất nghề… khốn đốn trong sinh hoạt.
Nhiều người dân trắng tay và cũng trắng xóa lòng tin vào chế độ.
Những nén nhang và tiếng khóc thảm thiết của người dân huyện Đồng Xuân ở Phú Yên năm 2010 vẫn còn vang vọng. Chết mà không biết vì sao số phận lại quyên sinh đột ngột đến thế, cũng không biết kẻ nào đã cướp đi sinh mạng đời mình mà không một lời tạ tội.
Nhưng cùng với bệnh dịch quy hoạch thủy điện, những lãnh đạo của Bộ Công thương vẫn tiếp tay cho hàng loạt đợt tăng giá điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) - một địa chỉ mà đã gây ra cơn thảm họa lỗ lã 34.000 tỷ đồng từ đầu tư trái ngành vào chứng khoán và bất động sản. Còn Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng - người không có bất cứ thành tích nổi bật nào từ khi thành lập chính phủ mới vào giữa năm 2011 đến nay - là tác giả gián tiếp cho những trận đánh đẹp bù lỗ vào dân như thế.
Do những “thành tích” về điều hành quản lý và đặc biệt mối quan hệ quá gần gũi với các doanh nghiệp điện lực và xăng dầu, ông Vũ Huy Hoàng đã nhận được 25% phiếu tín nhiệm thấp tại kỳ họp quốc hội giữa năm 2013 - một thứ hạng chỉ xếp sau Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Nhưng trong lúc báo giới trong nước thường xuyên bị cấm cản đưa tin bài về nguồn cơn thực chất gây ra chết người do xả lũ, đã không một tiếng nói đủ liêm sỉ nào được cất lên từ Bộ Công thương hay Chính phủ để kềm giữ hành động đổ lỗ lên đầu người dân của EVN.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong lễ khai mạc phiên họp thường niên thứ hai của Quốc hội tại Hà Nội vào ngày 21/10/2013. AFP photo
Thói vô lương tâm của quan chức vẫn luôn dẫn tới vô số trác táng trên bàn tiệc và những cuộc chơi bất tận thâu đêm, bất kể cảnh khốn cùng và bất chấp lời nguyền rủa từ những kẻ đóng thuế bất hạnh.
Toàn bộ sự thể trên hẳn là nguồn cơn sâu xa giải thích cho hiện tượng ngày càng xuất hiện quá nhiều đại biểu quốc hội “cấm khẩu” - một tâm lý mệt mỏi và chán nản đến mức không thể động mồm, bất chấp chỗ ngồi của họ vẫn ngốn đến 1 tỷ đồng cho mỗi ngày họp.
Từ tiền đóng thuế của tuyệt đại đa số cử tri.
Không những không còn “của dân” và “vì dân”, Quốc hội còn tiếp thêm một lực hút soi móc nữa đối với bầu ngân sách vốn đã bị các nhóm lợi ích xuyên đục đến tận cùng.
Phải chăng vì sự thể này mà gần đây đã hiện ra mối nghi ngờ từ không ít cử tri “Có phải Quốc hội cũng là một nhóm lợi ích?”?
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
Từ ngủ gật…
Dù chưa kết thúc, nhưng kỳ họp thứ 6 khóa XIII Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nổi lên dấu ấn lặng cúi thấy rõ so với kỳ họp gần nhất và rõ hơn nhiều nếu nhìn lại thời gian cuối năm 2011.40% trong tổng số đại biểu quốc hội đã “im lặng” khi được hỏi về việc chọn người chất vấn. Tỷ lệ này vươn lên gấp đôi so với kỳ họp lần thứ 5 vào giữa năm 2013 - thời điểm mà ngay cả những quan chức cao cấp của Quốc hội cũng phải bộc lộ nỗi bức xúc không hẳn là giả dối “hàng trăm đại biểu không có ý kiến gì trong suốt vài kỳ họp quốc hội”.
Dấu ấn duy nhất mang lại hy vọng cho cử tri vào kỳ họp thứ 5 đó chỉ là hình ảnh lóe sáng nhất thời của 32% đại biểu bỏ phiếu tín nhiệm thấp cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và 42% cho Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình. Một hy vọng lấy lại những gì đã mất đối với khối cử tri, bằng vào hành động hiếm hoi trong một đánh giá có tính thực chất về tình cảnh điều hành bị coi là quá yếu kém của lớp quan chức chính phủ trong ít nhất hai năm từ giữa 2011 đến giữa 2013.
Nhưng chừng đó vẫn là chưa đủ, và còn xa mới thỏa mãn được cơn bức bối uất nghẹn không thể thốt lên của cử tri toàn quốc. Tối thiểu, những gì mà người dân muốn là các đại biểu quốc hội không được ngủ gật trong một khán phòng như ngủ lặng cùng bản hiến pháp bị xem là “ngủ đông”.
..tới ngủ đông
Ngay vào ngày đầu tiên của kỳ họp quốc hội lần này, một đại biểu từng cố gắng chống lại cơn ngủ gật trong ba kỳ quốc hội trước đã thẳng thừng tuyên bố với báo chí: “Sẽ không nói gì về hiến pháp nữa”.Dĩ nhiên, nếu vị đại biểu trên còn tỏ ra minh mẫn thì bản dự thảo sửa đổi hiến pháp lại diễn biến theo tâm thế ngược lại.
Sau lời chốt đóng sổ sửa đổi hiến pháp của chủ tịch quốc hội, cử tri đang tự hỏi liệu tâm thế lộn ngược của dự thảo sửa đổi hiến pháp có thật “tập trung tinh hoa trí tuệ” như ông Nguyễn Sinh Hùng mặc định hay không?
Hay chỉ là lớp trình diễn của một tầng lớp “tinh hoa” nào đó và mang tính khu biệt trong nội bộ - những người được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc cách “Cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp”?
Thời quá khứ, ông Nguyễn Sinh Hùng từng là một quan chức chính phủ. Và ông cũng là một đại biểu thâm dày ở nơi mà nhiều ý kiến cho rằng “Quốc hội đã chẳng làm được gì cho dân”.
Những câu chuyện xưa cũ đến lê mòn cứ trôi dạt vào một góc phòng vô định chốn nghị trường. Quốc hội Việt Nam sẽ đi về đâu với những ảo ảnh không có cơ may nào được hiện thực hóa của nó?
Hiện thời, câu trả lời thực dụng nhất chỉ là nếu những chất vấn thê thiết nhất của cử tri đã bị số đại biểu quan chức lấp liếm hết kỳ họp này sang kỳ họp khác, thì đừng trông mong bất kỳ tốt lành nào cho vận mệnh đất nước.
Những kẻ “giết sống”
Người dân di chuyển đồ đạc từ một ngôi nhà bị ngập lụt trong thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định hôm 16/11/2013. AFP photo
Hàng chục vạn ngôi nhà, xóm, làng, khu phố bị chìm ngập trong biển nước. Hàng vạn hecta đồng ruộng, hồ ao, đầm nuôi cá đến kỳ thu hoạch đã mất trắng… … Đó là hình ảnh thống thiết thường thấy qua mỗi mùa mưa bão.
Nhưng sau chuỗi thời gian trầm nghẹn quá lâu, vào lúc này báo chí trong nước đã phải thét lên “Nhân tai!’.
Chỉ mới đây, cùng với tuyên bố tuyệt thực, Yeb Sano - trưởng đoàn đàm phán Philippines tại hội nghị Công ước khung của Liên hiệp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 19 - cất tiếng kêu xé lòng: “Chúng ta phải thôi gọi những sự kiện như vậy là tai họa tự nhiên…”.
Quằn quặn Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam…, tiếng khóc xé lòng dội khắp xóm làng sau cú xả lũ vào dân của các nhà máy thủy điện.
Song một điều kinh khủng là ngay cả bốn chục sinh mạng dân chúng bị cơn lũ thủy điện dã man chưa từng thấy cướp trắng ngay trong thời gian kỳ họp thứ 6 cũng không khiến nhiều đại biểu quốc hội bận lòng.
Cũng chẳng có bất cứ kẻ “giết sống” dân nào phải ra trước vành móng ngựa từ trước đến nay.
Hình ảnh an ủi duy nhất chỉ là những chiếc áo xanh bộ đội và cả những cán bộ, chiến sĩ công an oằn mình cứu hộ cho dân.
Nhưng bức tranh khác hơn rất nhiều là sau khi Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cố gắng lấp liếm về trách nhiệm của ban lãnh đạo Bộ Công thương, đã chỉ có vài đại biểu quốc hội dám lên tiếng về trách nhiệm không thể loại bỏ này.
Cho dù trong thâm tâm, rất có thể đa số dân biểu đều hiểu rằng trách nhiệm của toàn bộ chiến dịch xả lũ đó trước hết thuộc về Bộ Công thương, với gương mặt trơn bóng cùng những lời điều trần trơn tuột của bộ trưởng Vũ Huy Hoàng trước toàn thể Quốc hội về “chúng ta” - ngôi thứ ba số ít mà đã trở thành một thứ dịch bệnh tồn trữ quá lâu trong lòng chế độ.
Trách nhiệm đó cũng thuộc về cá nhân bộ trưởng Vũ Huy Hoàng - người liên đới trực tiếp với những cú “áp phe” quy hoạch thủy điện và phê duyệt các dự án thủy điện.
Bất chấp những lời dẫn dụ đầy ngụy biện của giới quan chức chính phủ và bộ ngành, tất cả đều đã quá chậm. Bất chấp vài trăm dự án thủy điện cuối cùng cũng buộc phải gạt ra khỏi quy hoạch, hàng trăm dự án thủy điện còn lại đã quét đi hơn 50.000 hecta rừng, hàng ngàn hecta đất ở, đất trồng trọt của người dân… khiến dân chúng phải chuyển nhà, chuyển cửa, mất nghề… khốn đốn trong sinh hoạt.
Nhiều người dân trắng tay và cũng trắng xóa lòng tin vào chế độ.
Những nén nhang và tiếng khóc thảm thiết của người dân huyện Đồng Xuân ở Phú Yên năm 2010 vẫn còn vang vọng. Chết mà không biết vì sao số phận lại quyên sinh đột ngột đến thế, cũng không biết kẻ nào đã cướp đi sinh mạng đời mình mà không một lời tạ tội.
Nhưng cùng với bệnh dịch quy hoạch thủy điện, những lãnh đạo của Bộ Công thương vẫn tiếp tay cho hàng loạt đợt tăng giá điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) - một địa chỉ mà đã gây ra cơn thảm họa lỗ lã 34.000 tỷ đồng từ đầu tư trái ngành vào chứng khoán và bất động sản. Còn Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng - người không có bất cứ thành tích nổi bật nào từ khi thành lập chính phủ mới vào giữa năm 2011 đến nay - là tác giả gián tiếp cho những trận đánh đẹp bù lỗ vào dân như thế.
Do những “thành tích” về điều hành quản lý và đặc biệt mối quan hệ quá gần gũi với các doanh nghiệp điện lực và xăng dầu, ông Vũ Huy Hoàng đã nhận được 25% phiếu tín nhiệm thấp tại kỳ họp quốc hội giữa năm 2013 - một thứ hạng chỉ xếp sau Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Nhưng trong lúc báo giới trong nước thường xuyên bị cấm cản đưa tin bài về nguồn cơn thực chất gây ra chết người do xả lũ, đã không một tiếng nói đủ liêm sỉ nào được cất lên từ Bộ Công thương hay Chính phủ để kềm giữ hành động đổ lỗ lên đầu người dân của EVN.
“Nhóm lợi ích Quốc hội”?
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong lễ khai mạc phiên họp thường niên thứ hai của Quốc hội tại Hà Nội vào ngày 21/10/2013. AFP photo
Thói vô lương tâm của quan chức vẫn luôn dẫn tới vô số trác táng trên bàn tiệc và những cuộc chơi bất tận thâu đêm, bất kể cảnh khốn cùng và bất chấp lời nguyền rủa từ những kẻ đóng thuế bất hạnh.
Toàn bộ sự thể trên hẳn là nguồn cơn sâu xa giải thích cho hiện tượng ngày càng xuất hiện quá nhiều đại biểu quốc hội “cấm khẩu” - một tâm lý mệt mỏi và chán nản đến mức không thể động mồm, bất chấp chỗ ngồi của họ vẫn ngốn đến 1 tỷ đồng cho mỗi ngày họp.
Từ tiền đóng thuế của tuyệt đại đa số cử tri.
Không những không còn “của dân” và “vì dân”, Quốc hội còn tiếp thêm một lực hút soi móc nữa đối với bầu ngân sách vốn đã bị các nhóm lợi ích xuyên đục đến tận cùng.
Phải chăng vì sự thể này mà gần đây đã hiện ra mối nghi ngờ từ không ít cử tri “Có phải Quốc hội cũng là một nhóm lợi ích?”?
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
15 năm gia nhập APEC: Việt Nam được và mất gì?
19.11.2013
Việt Nam mới đây đã đánh dấu hơn một thập kỷ gia nhập Diễn đàn Hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) trong bối cảnh nền kinh tế
trong nước chưa có dấu hiệu khởi sắc.
Hội nghị "APEC trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương của thế kỷ 21" diễn ra tại Hà Nội hôm 15/11 được xem như là một sự kiện kỷ niệm 15 năm Việt Nam vào APEC.
Kinh tế gia Lê Đăng Doanh nhận định với VOA Việt Ngữ rằng việc gia nhập cộng đồng kinh tế này là một chiến lược đúng đắn’ và là ‘một trong các cột mốc đáng ghi nhớ của việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam’.
“Trong cuộc hội nhập ấy, rõ ràng, Việt Nam đã có mở rộng được xuất khẩu những sản phẩm của Việt Nam như nông sản, như gạo, như cà phê, như hạt tiêu, và hàng thủy sản. Các sản phẩm đó đã tìm được thị trường và vươn ra nước ngoài. Thứ hai nữa là Việt Nam đã thu hút được đáng kể đầu tư nước ngoài, đã tạo được công ăn việc làm và đã góp phần vào việc tăng thêm đầu tư và có đóng góp ở mức độ nhất định cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Điểm thứ ba là Việt Nam đã mở rộng ra được đối với kinh tế thế giới, đã cử được nhiều sinh viên ra học tập ở nước ngoài, đã mở rộng được quan hệ đối ngoại, đã củng cố cũng như tăng thêm được vị thế quốc tế của Việt Nam.”
APEC ra đời tháng 11/1989 với 12 thành viên khi châu Á nổi lên là một
khu vực có tốc độ phát triển thuộc hàng nhanh nhất thế giới.
APEC hiện đã trở thành cơ chế hợp tác kinh tế lớn nhất trong khu vực với 21 thành viên, đóng góp khoảng 57% GDP toàn cầu và hơn 50% thương mại thế giới.
Tuy nhiên, theo đánh giá của ông Doanh, những kết quả mà Việt Nam đã đạt được kể từ khi tham gia APEC ‘chưa phải là trọn vẹn’.
“Việt Nam không tiếp tục cải cách mạnh mẽ các luật pháp, quy định ở trong nước cũng như nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính cho nên dù có mở cửa, có hội nhập nhưng mà những mặt hội nhập ngoài kinh tế của Việt Nam thì đang còn hạn chế. Thứ hai nữa là hội nhập, Việt Nam phải gia nhập các chuỗi giá trị, tức là các sản phẩm của Việt Nam phải nằm trong chuỗi giá trị của thế giới, ví dụ như các hàng nông sản phải bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế, rồi thì sau đó sẽ được chế biến thành các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn thì Việt Nam vẫn chưa làm được điều ấy. Các sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam thì chủ yếu công việc của Việt Nam là lắp ráp và chế tác các phần giá trị gia tăng thấp nhất, trong khi các nấc thang cao hơn như nghiên cứu, triển khai, như là thiết kế và phân phối thì Việt Nam chưa tham gia được, nên lợi nhuận thấp. Điểm thứ ba nữa là Việt Nam vẫn chưa nâng cao được chất lượng lao động, trình độ lao động. Trình độ giáo dục đào tạo ở cấp đại học của Việt Nam là thấp”.
Ngoài ra, kinh tế gia này cho rằng Việt Nam chưa tận dụng được một cách đầy đủ từ việc hội nhập kinh tế quốc tế, chưa thúc đẩy được các tiến bộ ở trong nước về tiến bộ khoa học và công nghệ cũng như nguồn nhân lực."
Theo ông Doanh, Việt Nam rõ ràng tụt hậu xa hơn so với các nước trong
khu vực trong một số lĩnh vực và cần phải thực hiện nhiều cải tổ để thực
sự hội nhập với kinh tế toàn cầu.
“Ví dụ như so sánh với Thái Lan, chúng ta thấy rõ là kết cấu hạ tầng của Việt Nam tụt hậu hơn, và trình độ nguồn nhân lực cũng hạn chế hơn rồi chất lượng của các thể chế trong quan hệ đối với kinh doanh thì Việt Nam cũng xếp sau. Vì vậy cho nên Việt Nam cần phải rút kinh nghiệm và cần phải có những biện pháp để tận dụng các lợi thế của hội nhập, để nâng cao chất lượng của bộ máy hành chính, của luật pháp cũng như cải thiện kết cấu hạ tầng như là các dịch vụ hậu cần, bến cảng và sân bay để cho Việt Nam phát huy được các lợi thế so sánh của mình”.
Báo chí trong nước mới đây dẫn lời Phó thủ tướng - Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nói rằng việc tham gia APEC cách đây 15 năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với Việt Nam.
Việc gia nhập diễn đàn này còn được coi là một cơ sở quan trọng cho quá trình hội nhập của Việt Nam và là nền tảng cho việc ký kết Hiệp định thương mại song phương với Mỹ năm 2000 cũng như gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007.
VOA Tiếng Việt
Hội nghị "APEC trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương của thế kỷ 21" diễn ra tại Hà Nội hôm 15/11 được xem như là một sự kiện kỷ niệm 15 năm Việt Nam vào APEC.
Kinh tế gia Lê Đăng Doanh nhận định với VOA Việt Ngữ rằng việc gia nhập cộng đồng kinh tế này là một chiến lược đúng đắn’ và là ‘một trong các cột mốc đáng ghi nhớ của việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam’.
“Trong cuộc hội nhập ấy, rõ ràng, Việt Nam đã có mở rộng được xuất khẩu những sản phẩm của Việt Nam như nông sản, như gạo, như cà phê, như hạt tiêu, và hàng thủy sản. Các sản phẩm đó đã tìm được thị trường và vươn ra nước ngoài. Thứ hai nữa là Việt Nam đã thu hút được đáng kể đầu tư nước ngoài, đã tạo được công ăn việc làm và đã góp phần vào việc tăng thêm đầu tư và có đóng góp ở mức độ nhất định cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Điểm thứ ba là Việt Nam đã mở rộng ra được đối với kinh tế thế giới, đã cử được nhiều sinh viên ra học tập ở nước ngoài, đã mở rộng được quan hệ đối ngoại, đã củng cố cũng như tăng thêm được vị thế quốc tế của Việt Nam.”
“Trong cuộc hội nhập ấy, rõ ràng, Việt Nam đã có mở rộng được xuất khẩu những sản phẩm của Việt Nam như nông sản, như gạo, như cà phê, như hạt tiêu, và hàng thủy sản. Các sản phẩm đó đã tìm được thị trường và vươn ra nước ngoài...
APEC hiện đã trở thành cơ chế hợp tác kinh tế lớn nhất trong khu vực với 21 thành viên, đóng góp khoảng 57% GDP toàn cầu và hơn 50% thương mại thế giới.
Tuy nhiên, theo đánh giá của ông Doanh, những kết quả mà Việt Nam đã đạt được kể từ khi tham gia APEC ‘chưa phải là trọn vẹn’.
“Việt Nam không tiếp tục cải cách mạnh mẽ các luật pháp, quy định ở trong nước cũng như nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính cho nên dù có mở cửa, có hội nhập nhưng mà những mặt hội nhập ngoài kinh tế của Việt Nam thì đang còn hạn chế. Thứ hai nữa là hội nhập, Việt Nam phải gia nhập các chuỗi giá trị, tức là các sản phẩm của Việt Nam phải nằm trong chuỗi giá trị của thế giới, ví dụ như các hàng nông sản phải bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế, rồi thì sau đó sẽ được chế biến thành các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn thì Việt Nam vẫn chưa làm được điều ấy. Các sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam thì chủ yếu công việc của Việt Nam là lắp ráp và chế tác các phần giá trị gia tăng thấp nhất, trong khi các nấc thang cao hơn như nghiên cứu, triển khai, như là thiết kế và phân phối thì Việt Nam chưa tham gia được, nên lợi nhuận thấp. Điểm thứ ba nữa là Việt Nam vẫn chưa nâng cao được chất lượng lao động, trình độ lao động. Trình độ giáo dục đào tạo ở cấp đại học của Việt Nam là thấp”.
Ngoài ra, kinh tế gia này cho rằng Việt Nam chưa tận dụng được một cách đầy đủ từ việc hội nhập kinh tế quốc tế, chưa thúc đẩy được các tiến bộ ở trong nước về tiến bộ khoa học và công nghệ cũng như nguồn nhân lực."
Việt Nam không tiếp tục cải cách mạnh mẽ các luật pháp, quy định ở trong nước cũng như nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính cho nên dù có mở cửa, có hội nhập nhưng mà những mặt hội nhập ngoài kinh tế của Việt Nam thì đang còn hạn chế...
“Ví dụ như so sánh với Thái Lan, chúng ta thấy rõ là kết cấu hạ tầng của Việt Nam tụt hậu hơn, và trình độ nguồn nhân lực cũng hạn chế hơn rồi chất lượng của các thể chế trong quan hệ đối với kinh doanh thì Việt Nam cũng xếp sau. Vì vậy cho nên Việt Nam cần phải rút kinh nghiệm và cần phải có những biện pháp để tận dụng các lợi thế của hội nhập, để nâng cao chất lượng của bộ máy hành chính, của luật pháp cũng như cải thiện kết cấu hạ tầng như là các dịch vụ hậu cần, bến cảng và sân bay để cho Việt Nam phát huy được các lợi thế so sánh của mình”.
Báo chí trong nước mới đây dẫn lời Phó thủ tướng - Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nói rằng việc tham gia APEC cách đây 15 năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với Việt Nam.
Việc gia nhập diễn đàn này còn được coi là một cơ sở quan trọng cho quá trình hội nhập của Việt Nam và là nền tảng cho việc ký kết Hiệp định thương mại song phương với Mỹ năm 2000 cũng như gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007.
VOA Tiếng Việt
Phải chăng Tuyên Ngôn Độc Lập đã bị các lãnh đạo đem đi vứt sọt?
Kể từ ngày 2-9-1945, ngày Bác Hồ đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thì trong tâm tưởng của mỗi người Việt Nam đã xuất hiện và tồn tại một màu nắng mới: Nắng Ba Đình. Đó là màu nắng của Cách mạng; nắng của độc lập, tự do; nắng của niềm tin và hy vọng... Hai danh từ Nắng và Ba Đình đã kết hợp để chuyển thành một tính từ: Nắng Ba Đình (thơ Nguyễn Phan Hách) thiêng liêng, xúc động và rất đỗi tự hào! [1]Nhưng...
Nhưng tôi chợt dừng lại và tự hỏi rằng, không biết có còn ai nhớ rằng Bác Hồ đã viết gì, đã đọc gì trong ngày đó nữa hay không?
Thật sự các bạn có còn nhớ Bác Hồ đã đọc gì hay không?
Trong bản tuyên ngôn độc lập năm đó, ngay câu thứ 2, Bác viết:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng."
Vậy mà, Hiến Pháp đã quy định rằng Đảng CSVN đứng trên Pháp Luật (đứng ngoài Pháp luật, không chịu sự quản lý cuả Pháp luật) (xem điều 4 Hiến Pháp nước CHXHCNVN [2]).
Kỳ họp Quốc Hội vừa rồi, Quốc Hội họp (thật tình tui không biết họp để làm gì vì nghe đâu 1 ngày họp tốn đến 1 tỷ vnđ lận) và vẫn "thống nhất cao" với nhau rằng đồng ý giữ điều 4 Hiến Pháp, không sửa đổi.
Trước đó, vào ngày 25/2/2013, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã lên sóng VTV1 và nói rằng những ai đòi bỏ điều 4 Hiến Pháp là suy thoái tư tưởng, đạo đức. [3]
Còn về phần CTQH Nguyễn Sinh Hùng, thì tuy có kêu gọi nhân dân góp phần sửa Hiến Pháp, nhưng lại cảnh báo ngầm rằng không được “chống phá Đảng, Nhà nước” trong quá trình góp ý Dự thảo Hiến pháp [4]. Vậy nên dân đen đành chịu, chả biết góp ý cái gì vì sợ tội "chống phá Đảng, Nhà nước"!
==> Điều này có nghĩa rằng tổ chức ĐCSVN đứng trên Pháp Luật, đứng ngoài vòng Pháp Luật. Những gì thuộc về Đảng (con người, hành vi...) làm sao Luật pháp dám đụng đến?
Vậy là câu nói của Bác Hồ "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng" đành vứt sọt.
Bác viết tiếp:
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi."Vậy mà trong khi trên thế giới đã có đầy đủ luật biểu tình cho nhân dân, thì ở VN vẫn chưa có luật biểu tình. Báo Lao Động cũng đã có bài viết "Không thể nợ dân mãi Luật biểu tình", và 'khẳng định': “Đây là món nợ của Nhà nước với nhân dân và phải trả càng sớm càng tốt”. [5]
==> Vậy là chúng ta đâu có được cái xa xỉ phẩm gọi là "tự do và bình đẳng về quyền lợi" đâu? Đã hơn 38 năm kể từ sau ngày 30/4/1975, dân đen vẫn chưa bao giờ có được thứ hàng xa xỉ phẩm đó, và thậm chí Đảng và Nhà nước sẽ còn nợ thêm, vì rõ ràng đến năm "2014 chưa xây dựng luật biểu tình"! [6]
Vậy là câu nói này tiếp tục tạm thời vứt sọt.
Bác viết tiếp:
"Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào."Vậy thì, thế quái quỷ nào tại sao ngày nay chúng ta lại CẤM THẢO LUẬN VỀ CHÍNH TRỊ TRÊN MỌI DIỄN ĐÀN TRONG NƯỚC? Phải chăng Chính Trị ở VN là ma? là quỷ? Hay chính trị ở VN hễ ai "ngoài lề" mà dám đụng tới là phạm pháp?? (tôi xin chụp lại vài cái nội quy của vài diễn đàn dưới đây làm bằng chứng).
Trên một diễn đàn khá nổi tiếng tại VN cũng đã có ngay topic "report nóng cơm sườn (CS) và nhà nghỉ (NN)" (thật tình mới đầu tôi không hiểu là gì, mãi sau này mới biết).
==> Vậy có phải câu nói này đáng vứt sọt? Nếu không vứt sọt, tôi ngầm hiểu rằng câu này đã bị sửa thành "Về chính trị, chúng ta tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào."
Bác viết tiếp:
"Chúng thi hành những luật pháp dã man."
(...)
"Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu."Vậy mà ngày nay, tuy không đến mức "tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu" (như vụ Thiên An Môn - TQ, bạn đọc tự google tìm hiểu), nhưng những gì mà Điều luật 88 cùng 258 BLHS đang làm khốn khổ những con người yêu nước, thương nòi, đứng lên dám đòi Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam như Kha-Uyên-Uy... [7]
Ngày xưa cũng đã có "Xét lại chống Đảng", "Nhân văn giai phẩm", "Năm Châu Sáu Sứ"... (bạn đọc tự google tìm hiểu).
Còn về nhà tù, thì trong khi Thụy Điển mới đây 'phải' đóng cửa 4 nhà tù vì ít phạm nhân [8], thì ở ngay tại Thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa là Việt Nam mình, chúng ta phải tiến hành nhiều đợt đặc xá tù nhân "do nhà tù quá tải, không phải do cải tạo tốt"! [9]
==> Thế quái nào? Trong khi bọn Tư bản giẫy (mãi không) chết phải đóng cửa tù thì ta lại ngược lại? Phải chăng những lời Bác viết khi xưa trong tuyên ngôn đã vứt sọt? Hoặc tôi ngầm hiểu rằng câu này đã bị sửa thành "Chúng ta lập ra nhà tù nhiều hơn trường học"! (cứ thay "chúng" = "chúng ta"!!!!)
...hoang mang...
Hay lãnh đạo mắt kém nhìn nhầm "chúng" = "chúng ta" đây trời đất???
Bác viết tiếp:
"Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân."Câu này có lẽ cũng nên thay "chúng" = "chúng ta", vì không hiểu tại sao chúng ta lại ràng buộc dư luận? Và lừa nhân dân rằng Bác được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới? (Một biểu hiện của thi hành chính sách ngu dân còn gì).
Một vài minh chứng cho "chúng ta ràng buộc dư luận" là vụ sửa đồng loạt các bài báo trong vụ UNESCO vừa rồi đây [10], hoặc như vụ VTV6 đã thừa nhận với tôi là đã phải "làm việc theo chỉ thị". [11]
Vậy là lời này của Bác cũng đã bị vứt sọt, hoặc bị sửa thành "Chúng ta ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân."!!!
Bác viết tiếp:
"Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược."Vậy mà than ôi, ngày nay không những chỉ có thuốc phiện cần sa ma túy đá cỏ rượu cồn... mà còn hàng loạt các đồ độc hại, đồ phế thải... vẫn từng ngày từng giờ tuồn qua cửa khẩu ĐẦU ĐỘC NÒI GIỐNG VIỆT, khiến cho chính nòi giống dân tộc ta càng ngày càng suy thoái!!! [Xin xem thêm note tôi viết: "CƯỜNG QUỐC VỀ DÂN SỐ?" - 12]
Vậy câu này, phải chăng tôi cũng phải đắng cay mà tự chuyển từ "chúng" thành "chúng ta"???
Bác viết tiếp:
"Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu."Trời ơi! Vậy mà trong quá khứ, chúng ta lại thi hành không biết bao nhiêu là cuộc "đại cải cách", cướp không biết bao nhiêu là ruộng đất của nông dân để biến thành của công, cướp đồn điền, nhà xưởng, cướp gà, chó, lợn, trâu, bò... tất tần tật mọi thứ gọi là của cải, vật chất. Vào năm 'giải phóng' 1975, chúng ta lại tiến hành vào Nam để "nhận hàng". Đến bây giờ trong dân gian vẫn còn nguyên câu nói "giải phóng 75, miền Nam nhận họ miền Bắc nhận hàng" .
Hiện nay chúng ta đã trả lại ruộng đất cho dân cày, như vậy ít ra câu nói này của bác còn có vài phần được giữ lại (tuy rằng tôi 'không hiểu' tại sao lại có vụ nông dân Văn Giang? vụ Đoàn Văn Vươn? vụ Đặng Ngọc Viết?... ).
Bác lại viết:
"Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng."Về việc này, bạn tự nghĩ xem hiện nay ai đang độc quyền in giấy bạc? Và có nhiều cảng biển tư nhân hay không?
Các bạn có biết rằng chính ai đã làm bốc hơi hơn 50% của cải của dân Việt Nam chỉ trong vòng có 6 năm, từ 2006-2012 hay không? [13]
Bác viết tiếp:
"Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng."Chèng đéc ơi!!!!! Vậy mà bây giờ dân đen chúng ta đang chịu đến tận 432 loại phí! Đè lên đầu cưỡi lên cổ các doanh nghiệp lẫn dân ngu khu đen! [14]
Vậy có phải là "Chúng ta đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng." hay không?????????
Bác lại viết:
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.Mèn đét ơi!!!! Trong quá khứ, đã có không biết bao nhiêu lần "đánh" địa chủ, tư sản mại bản khiến cho không "ngóc đầu" lên được rồi! Ngày nay, với 432 loại phí bề nổi ở trên, hay gói mấy chục ngàn tỷ "cứu BĐS" gì đó mà 'giải ngân mãi vẫn chưa được một góc' ấy thì đúng là không thể ngóc đầu! Còn nhiều vụ việc khiến cho nhân dân ta không thể ngóc đầu lên được lắm. Bạn nào thích mời thảo luận cùng tôi và các bạn của tôi ở phần comment.
Ngày nay, tuy chúng ta không tự "bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn", nhưng không hiểu tại sao dân thiên đường vẫn hàng năm phải đi xuất khẩu sức lao động để mưu sinh? và các công ty bọn Tư bản giẫy chết thì mọc lên đầy trên đất thiên đường để tận dụng nguồn sức lao động vô cùng rẻ mạt của nhân dân ta cả về tay chân lẫn trí óc [15 - Xin xem thêm note tôi viết: "Vẽ lại bản đồ Thế giới"].
Ở cuối tuyên ngôn, Bác cũng đã nói:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy."Chao ôi! Vậy mà ngày nay không hiểu tại sao nhân dân VN mình đã trở thành nô lệ mà chẳng ai biết. Chắc hẳn nhiều người sẽ giật mình nếu tôi thử thay cụm cừ "xuất khẩu lao động" bằng "xuất khẩu nô lệ giá siêu rẻ"!!!
?????????????
??????????????????????
?????????????????????????????
Vậy bây giờ, chúng ta phải hiểu "Tuyên ngôn Độc Lập" của Chủ Tịch Hồ Chí Minh năm xưa như thế nào đây, hở các con dân nước Việt??????????????????
Hoàng Tử Thuốc Lào
Trân trọng mời các bạn đọc + góp ý.
Mọi sự miệt thị cá nhân, kể cả cá nhân người thảo luận hoặc cá nhân Chủ tịch HCM... đều sẽ được tôi xóa mà có thể không gửi thông báo. Thành thật xin lỗi các bạn về sự bất tiện nhỏ này.
Chú thích:
[1]: Trích nguyên văn trong bài "Nắng Ba Đình" tại địa chỉ: http://baobacgiang.com.vn/274/61308.bgo
[2]: Điều 4 Hiến pháp số 68/LCT/HĐNN8 của Quốc hội: Hiến pháp năm 1992 ghi rõ:
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
[3]: Xem Video tại địa chỉ: http://www.youtube.com/watch?v=tV1ZLAnxdgE ; link dự phòng tại http://www.youtube.com/watch?v=DsYs4A-mzcg
[4]: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/02/130227_nguyen_sinh_hung_hienphap.shtml
[5]: http://laodong.com.vn/chinh-tri/khong-the-no-dan-mai-luat-bieu-tinh/117802.bld
[6]: Tựa đề của một bài viết trên báo Vietnamnet: http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/122396/2014-chua-xay-dung-luat-bieu-tinh.html
[7]: Điều luật 88 và 258 trong BLHS số 15/1999/QH10 viết:
Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.
Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân:
1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Xin xem thêm note Bọn PHẢN ĐỘNG!!! Đa nguyên! Đa Đảng! tại địa chỉ: https://www.facebook.com/notes/ho%C3%A0ng-t%E1%BB%AD-thu%E1%BB%91c-l%C3%A0o/b%E1%BB%8Dn-ph%E1%BA%A3n-%C4%91%E1%BB%99ng-%C4%91a-nguy%C3%AAn-%C4%91a-%C4%91%E1%BA%A3ng/262750513871930
[8]: http://citinews.net/the-gioi/thuy-dien-dong-cua-4-nha-tu-vi-it-pham-nhan-6EMUGDA/
[9]: http://dantri.com.vn/xa-hoi/dac-xa-do-nha-tu-qua-tai-khong-phai-do-cai-tao-tot-670928.htm cùng link dự phòng: http://vozforums.com/showthread.php?t=3069979
[10]: Xem hàng loạt các photos của tôi trong ngày 16/11/2013, hoặc trên fb anh Hoàng Ngọc Diêu tại địa chỉ: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=668061166549527
[11]: Mời quý bạn đọc theo dõi vụ việc giữa tôi và nhà đài VTV6 lần lượt tại 2 địa chỉ sau:
+ Vụ 1 (góp ý phòng chống tham nhũng - Luật tố cáo): https://www.facebook.com/photo.php?fbid=263049377175377
+ Vụ 2 (góp ý cải cách giáo dục): https://www.facebook.com/photo.php?fbid=263155950498053
[12]: https://www.facebook.com/notes/ho%C3%A0ng-t%E1%BB%AD-thu%E1%BB%91c-l%C3%A0o/c%C6%B0%E1%BB%9Dng-qu%E1%BB%91c-v%E1%BB%81-d%C3%A2n-s%E1%BB%91/260218327458482
[13]: Xin xem thêm phần comment của tôi ở trong note ở chú thích [15].
[14]: Bài viết ngay trên báo Thanh Niên có tựa đề "432 loại phí "đè" doanh nghiệp, người dân": http://www.thanhnien.com.vn/pages/20131008/432-loai-phi-de-doanh-nghiep-nguoi-dan.aspx
[15]: https://www.facebook.com/notes/ho%C3%A0ng-t%E1%BB%AD-thu%E1%BB%91c-l%C3%A0o/v%E1%BA%BD-l%E1%BA%A1i-b%E1%BA%A3n-%C4%91%E1%BB%93-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi/261710870642561
Tham khảo thêm Tuyên Ngôn Độc Lập tại địa chỉ: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn_ng%C3%B4n_%C4%91%E1%BB%99c_l%E1%BA%ADp_(Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a)
Hoàng Tử Thuốc Lào
Theo FB Hoàng Tử Thuốc Lào
Siêu bão Hải Yến đã dạy chúng ta điều gì về Trung Quốc?
Nếu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cần một lời nhắc nhở về sự khác
biệt giữa trật tự do Mỹ lãnh đạo với một trật tự do Trung Quốc định hình
thì phản ứng của hai siêu cường này trước siêu bão Hải Yến là một ví dụ
trần trụi. Một nước điều lực lượng hải quân cùng thuỷ quân lục chiến
đến giúp đỡ và cam kết viện trợ 20 triệu USD. Nước kia thì trao khoản hỗ
trợ 100.000USD của chính phủ, cho đến khi không chịu nổi áp lực của
cộng đồng quốc tế mới chịu tăng mức đóng góp lên 1,6 triệu USD, một con
số vẫn thể hiện sự bần tiện.
Những bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực cần xem xét nghiêm
túc ý nghĩa của sự so sánh này. Đây không phải là một hiện tượng bất
thường.
Hoa Kỳ đã phạm sai lầm trong nhiều năm. Việc liên minh với các chế độ
phi dân chủ — bất kể là Marcos ở Philippines hay Suharto ở Indonesia —
thường là cần thiết để giành chiến thắng trong chiến tranh lạnh. Trong
một số trường hợp, như ở Đài Loan hay Hàn Quốc, sự ủng hộ của chúng ta
là một nhân tố quyết định để những nước này rốt cuộc cũng đi đến chỗ dân
chủ hoá. Song chắc chắn là có những trường hợp mà ở đó chúng ta đã ủng
hộ các nhà độc tài lâu hơn và đầy đủ hơn mức cần thiết.
Giờ đây, tất cả dường như đã quá rõ ràng. Nhưng trước đây thì không phải
vậy. Và trong thực tiễn, đôi khi chúng ta cũng phạm sai lầm trong những
sự việc cụ thể. Dù vậy, Hoa Kỳ vẫn luôn tìm cách đảm bảo một mức độ
phép tắc cơ bản khi thực thi chính sách ngoại giao của mình. Cộng đồng
cử tri đòi hỏi điều đó. Và khi thiếu vắng một bối cảnh chiến lược chi
phối, bao trùm như thời chiến tranh lạnh, người ta lại càng dễ đưa ra
phán xét cá nhân.
Xin dẫn ra đây một dẫn chứng trước khi siêu bão Hải Yến đổ bộ vào
Philippines. Năm 2008, sau khi một cơn lốc xoáy tàn phá Myanmar, Hoa Kỳ
đã hỗ trợ và 15 lần yêu cầu cho phép sử dụng lực lượng hải quân để hoạt
động cứu trợ nạn nhân đạt hiệu quả cao nhất. Chính quyền Myanmar đã từ
chối những yêu cầu đó, xuất phát từ thói đa nghi cũng như sự khiếm nhã
“thâm căn cố đế” của họ. Vấn đề nằm ở chỗ, năm 2008 là thời điểm mà ít
nước trên thế giới có mối quan hệ với Hoa Kỳ tồi tệ hơn quan hệ Myanmar -
Hoa Kỳ. Dù vậy, Hoa Kỳ vẫn vượt qua điều đó để nỗ lực cứu trợ.
Hãy so sánh hành động trên đây của Mỹ với sự đối xử mà nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa dành cho Philippines khi thảm hoạ Hải Yến xẩy ra. Mối
quan hệ giữa Trung Quốc và Philippines không diễn ra tốt đẹp trong ba
bốn năm qua, song vẫn không tồi tệ như mối quan hệ Hoa Kỳ - Myanmar năm
2008. Không có lệnh cấm vận nào giữa hai quốc gia; hai bên vẫn giao
thương với nhau, vẫn duy trì quan hệ ngoại giao đầy đủ, vẫn tương tác ở
cấp cao, vẫn tham gia các diễn đàn ngoại giao với nhau, v.v. Nhưng theo
chuẩn mực khu vực về quan hệ láng giềng tốt — đặc biệt là chuẩn mực của
Trung Quốc, quốc gia vẫn đánh đồng sự phản bác yêu sách lãnh thổ của họ
với sự thù địch — thì mối quan hệ đó là sóng gió. Philippines vẫn tiếp
tục khẳng định yêu sách lãnh thổ của họ trên Biển Đông mà không cần biện
minh, đồng thời thuyết phục bạn bè và láng giềng về quyền của mình.
Trước sự phản đối của Trung Quốc, Philippines đã viện đến một hiệp ước
quốc tế — Công ước LHQ về Luật Biển (mà Trung Quốc cũng là một thành
viên) — để củng cố yêu sách của mình. Với những tội đó, trong con mắt
của ban lãnh đạo Trung Quốc, Philippines rõ ràng là đã từ bỏ cơ hội nhận
được sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho những người dân bị thảm hoạ.
Thật khó mà quy điều này cho sự tính toán sai lầm. Theo ý nghĩa rộng
nhất, nó nằm trong một xu hướng. Tại sao Trung Quốc lại vứt bỏ chiến
dịch “tấn công thiện cảm” nhằm vào Đông Nam Á mà họ từng thực hiện rất
thành công vào đầu những năm 2000? Tại sao họ lại huỷ hoại các mối quan
hệ ở đây vì những yêu sách lãnh thổ lạ lùng, nằm ngoài khuôn khổ pháp
luật? Tại sao họ lại chấp nhận rủi ro chiến tranh với Nhật Bản (và rộng
ra là với các đồng minh của Mỹ) trên Biển Hoa Đông bằng việc tìm cách
làm đảo lộn một hiện trạng hoà bình vốn phụng sự cả khu vực tốt đến vậy?
Tại sao họ vẫn tiếp tục ủng hộ và bảo vệ chế độ đáng chê trách nhất
trên thế giới ở Bắc Triều Tiên? Trên thực tế, Trung Quốc là đồng minh
hiệp ước của Bắc Triều Tiên, họ vẫn tiếp tục hà hơi tiếp sức và trước
sau như một ủng hộ Bắc Triều Tiên về ngoại giao.
Câu hỏi nổi lên từ sự kiện siêu bão Hải Yến là tại sao việc giúp đỡ một
nước láng giềng đang bị tàn phá lại không phải là chuyện “không phải
nghĩ” đối với ban lãnh đạo Trung Quốc. Có thể là người Trung Quốc không
phải đang phạm sai lầm nghiêm trọng. Có thể là họ đang giải một bài toán
khác với Hoa Kỳ. Lợi ích của họ không phải là trở thành một “cổ đông”
hữu ích, cùng với Mỹ và các đồng minh của Mỹ, trong công cuộc duy trì
một trật tự khu vực tự do, công bằng và hoà bình. Trái lại, bài toán của
họ hướng tiêu điểm rất hẹp vào nhiệm vụ tìm kiếm giải pháp trực tiếp
cho lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
Một trật tự quốc tế với tâm điểm là tất cả các quốc gia thành viên theo
đuổi những lợi ích quốc gia hẹp hòi (đến mức không có chỗ cho phép tắc
con người cơ bản) không phải là một trật tự tương xứng với khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương. Đó chính là bài học cho chúng ta từ siêu bão Hải
Yến.
Walter Lohman | The National Interest |
Lê Anh Hùng dịch
* Walter Lohman giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Á Châu (Asian Studies Center) của Quỹ Di sản (The Heritage Foundation).
(Blog Lê Anh Hùng) Từ Khổng tử đến tổng khử
Việc Trung Quốc lập giải Khổng Tử về
Hòa bình, còn mở Viện Khổng Tử ở khắp nơi, thoạt nghe là một nghịch lý. Đây là
một nhân vật, sau mấy mươi thế kỷ được tôn sùng, rồi một thời bị đánh tan
hoang, sao bây giờ bỗng dưng lại được phục hồi để xuất khẩu[1]? Khổng giáo có nội dung gì đặc biệt mà
chỉ nay Đảng với Nhà nước Trung Quốc mới khám phá ra chăng
Để tìm hiểu một cách súc tích nhất
có thể, tôi lôi quyển Cổ học Tinh hoa – thực chất là Khổng
học tinh hoa, từ lâu đã bị bỏ xó!) – ra đọc, thì bắt gặp câu chuyện sau
đây, do ông Liệt Tử nào đó kể lại[2].
Đức Khổng Tử đi chơi ra phía đông,
thấy hai đứa bé cãi nhau, hỏi tại làm sao, thì một đứa nói rằng: — “Tôi, thì
tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở gần ta hơn, về buổi trưa ở xa ta hơn”. Còn
một đứa nói: — “Tôi, thì tôi cho rằng mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, về
buổi trưa ở gần ta hơn”.
Đứa trước cãi: — “Mặt trời lúc
mới mọc to như cái bánh xe, đến giữa trưa nhỏ như cái bát ăn, thế chẳng phải
tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì?”. Đứa sau cãi: — “Lúc mặt
trời mới mọc thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, thế chẳng phải tại gần ta
mới nóng, xa ta mới mát là gì?”
Đức Khổng Tử nghe nói, không giải
quyết được làm sao. Hai đứa bé cười, bảo: — “Thế thì cho ông là người đa trí
thế nào được!”.
Người bàn câu chuyện trên không phải
là ông Liệt Tử, và coi bộ cái đầu chưa hề liệt. Ông bênh cụ Khổng như sau: “Nhưng
ở vào cái đời ông Khổng, khoa học chưa có mấy, thì xem hai đứa bé suy lý với
nhau, đứa nào cũng phải, khó lòng mà quyết định được thật. Vả lại người thông
minh, thánh thiện đến đâu cũng không sao biết cho hết mọi sự vật được. Vì rằng
đời người sống có hạn, mà sự tri thức thì mông mênh không bờ bến nào!”. Đúng
và hay quá.
Điều còn làm tôi băn khoăn là, dù
chưa có điều kiện giải quyết như hai đứa bé, tại sao cụ Khổng lại chưa bao giờ
tự đặt được cho mình loại thắc mắc như của hai đứa bé kia nhỉ? Có phải vì, trong
bậc thang giá trị (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) của cái đạo đặt
theo tên cụ, chữ trí chỉ đứng vào hàng áp chót chăng? Nếu thế thì
cụ có đủ lý do để không là bậc đa trí — chẳng biết có thể gọi là
bậc đơn trí hay thiểu trí được chăng?
Mặt khác, nếu hai đứa bé cứ trông thấy Khổng Tử hay nghe danh cụ đã khúm núm,
chẳng dám hó hé gì, thì liệu chúng có thể phát hiện ra mặt hạn chế nơi cái trí
của cụ chăng? May mà chúng chưa bị kẹt vào cái cơ chế mang tên cụ “tiên học
lễ”, hậu học… vấn!
Trở lại với lời bình. Nếu nói như
ông thầy bàn ở trên, thì cụ là bậc thánh thiện mà cái trí đã phần nào bị
chữ nhân hướng về cách ứng xử giữa con người với nhau — thứ đời
sau gọi là luân lý — giới hạn và lèo lái. Cho nên muốn hiểu thấu đáo cái trí
của người Trung Quốc, cả thời xưa lẫn thời nay, thì theo tôi không gì bằng xem
việc áp dụng nó vào các vấn đề con người, không phải trong chữ nghĩa lý thuyết
mà trong hiện thực.
Ở đây, còn gì rõ ràng hơn là cách
nửa này (nửa giống đực) của người Đại Hán thấm nhuần Khổng học đối xử với nửa
kia (nửa giống cái) trong lịch sử? Các đấng nam nhi và đức ông
chồng (không phải thằng) đã giữ bọn nữ nhi và thê thiếp như thế nào để
chúng không tháo chạy? Trong muôn ngàn biện pháp, họ đã nghĩ ra cách tinh tế
nhất: tặng cho nửa kia đôi giày sen gót ngọc.
Vì không nơi đâu khác có được một
Khổng Tử thứ hai, cũng không ở đâu khác có thể nghĩ ra cách giữ chân này, tôi
tin rằng đây là chính là hai biểu trưng không thể tách rời của nền văn
minh Trung Hoa vĩ đại. Nói đến cụ Khổng Tử ắt phải liên tưởng đến đôi giày sen;
trông thấy đôi giày sen ắt phải nhìn ra cụ Khổng, hay nói theo ngôn ngữ bây
giờ, “khủng” Khổng.
*
Viết đến đây tôi chợt thấy bồn chồn,
tự hỏi “Viết thế này có hơi oan cho cụ Khổng, vì sơ sài quá không?”. Có
lẽ cần đào sâu hơn chữ nhân và chữ trí trong đạo
Khổng, nếu không được ở tầm vị sư tổ thì ít ra cũng phải ở cỡ các sư phụ đệ tử
của Ngài. Thế là lại phải mò mẫm lật từng trang sách cũ để tìm tòi thêm, cuối
cùng rơi vào một câu chuyện tinh hoa khác, ký tên Gia Ngữ[3]. Nó như sau :
Thầy Tử Lộ yết kiến Đức Khổng Tử.
Đức Khổng Tử hỏi: — “Thế nào là người trí, thế nào là người nhân?”. Thầy
Tử Lộ thưa: — “Người trí là người làm thế nào để cho người ta biết mình;
người nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu mình”. Đức Khổng Tử
bảo: “Nhà ngươi nói như vậy cũng khá gọi là người có học vấn”.
Thầy Tử Lộ ra, thầy Tử Cống vào. Đức
Khổng Tử lại hỏi người trí, người nhân là thế nào? Thầy Tử Cống thưa: —
“Người trí là người biết người; người nhân là người yêu người”. Đức Khổng
Tử bảo: “Nhà ngươi nói như vậy cũng khá gọi là người có học vấn”.
Thầy Tử Cống ra, thầy Nhan Hồi vào.
Đức Khổng Tử lại đem trí, nhân ra hỏi. Thầy Nhan Hồi thưa: — “Người trí là
người tự biết mình; người nhân là người tự yêu mình”. Đức Khổng Tử bảo:
“Nhà ngươi nói như vậy đáng gọi là bậc sĩ quân tử”.
Nếu đây là một cuộc sát hạch, thì
thầy Nhan Hồi đỗ đầu, thầy Tử Cống đứng nhì, còn thầy Tử Lộ về bét. Cũng thời
là hỏi đáp, song khác với cái ông Socrate xứ Athènes kia (người không bao giờ
tự vỗ ngực xưng là sư phụ mà luôn luôn giả làm anh học trò dốt để nghe kẻ tưởng
mình hiểu biết phát biểu), ở đây cụ Khổng chễm chệ trong vai sư tổ, không hề
ban phát lời vàng ngọc nào mà chỉ gật gù đánh giá ba ông đệ tử cũng vào bậc
thầy. Nhưng căn cứ vào lời phán, có thể đoán rằng quan điểm về nhân và trí ở
cấp “vạn thế sư biểu” chắc cũng na ná như ở cấp “sĩ quân tử”
thôi. Người bàn giải thích thêm: “Có biết mình thì mới tu tỉnh được tâm
thân, cải quá thiên thiện mà nên người hay, người khá, tức cũng như câu “Connais
toi toi-même” của Tô-lạp-thị (cha nào vậy ta?). Có yêu mình, thì mới
biết trọng tư cách của mình, quý phẩm giá của mình rồi mới ra đến thân nhân
dân, ái vật, tức cũng như câu tục ngữ Pháp “la charité bien ordonnée
commence par soi-même”.
Nghe cũng hay quá. Nhưng muốn biết
giá trị của cây trồng, thì phải nhìn vào hoa trái. Khổng giáo đã để lại trong
lịch sử và trong hiện tình Trung Quốc những con người như thế nào, về nhân và
trí? Tôi ngờ rằng tầng lớp tinh hoa của Trung Quốc – tôi nói chủ yếu trong các
lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế[4] – đã đạt được trình độ của thầy Nhan Hồi
hay thầy Tử Cống, nhất là trong các nghĩa mà ông thầy bàn ở trên đã giải minh.
Về chữ nhân, tôi e rằng họ sống rất “yêu
mình”, song theo một nghĩa thô bạo hơn của thầy Nhan Hồi nhiều, là làm sao
cho bản thân giàu hơn, sướng hơn, khỏe hơn: bằng sự băng đầu, bịt mắt, che tai
dân chúng; bằng nạn cửa quyền, tham nhũng; bằng những hàng giả, hàng dỏm, hàng
nhái không trả tác quyền cho người nước ngoài; bằng các bộ phận trộm hoặc cướp
từ thân thể kẻ túng quẫn hay tù tội… – dù chúng gây thiệt hại, có khi là chết
chóc cho kẻ khác, kể cả trẻ sơ sinh. Mà như thế thì cũng đâu có thể xem là “yêu
người” theo nghĩa của thầy Tử Cống được?
Về chữ trí cũng thế. Chỉ cần nhìn
thẳng vào trường hợp Khổng Tử, sẽ thấy ngay trình độ “biết mình” kiểu
thầy Nhan Hồi ở các giới tinh hoa Trung Quốc: cũng một ông triết gia ấy thôi mà
cả nước, lúc xì xụp cầu lạy, lúc ầm ĩ vùi chôn, sau lại xí xồ khai quật, rồi
cuối cùng công kênh inh ỏi làm biểu tượng văn hóa chính thống! Họ có thực sự tự
biết mình đã và đang nghĩ gì, làm gì chăng? Còn hiểu theo khả năng “biết
người” kiểu thầy Tử Cống thì sao? Ở đây, chính sách tranh chấp lãnh thổ,
lãnh hải bằng thủ đoạn hù dọa nước nhỏ, khiêu khích nước lớn, đã khởi động cả
một cuộc chạy đua vũ trang ở Thái Bình Dương, kéo Hoa Kỳ trở lại Đông Nam Á
trong sự hân hoan cổ vũ của các quốc gia trong vùng, và tạo ra nhiều liên minh
chống bành trướng Trung Quốc. Cái danh nghĩa “trỗi dậy hòa bình” bỗng
đột quỵ, lò ra cái đuôi cáo đế quốc trá hình. Đánh giá địch thủ sai quá đỗi như
thế mà xem là có trí được ư?
Nhiều lắm cái trí nói đây chỉ
thích hợp với trình độ thầy Tử Lộ. Người trí là kẻ “làm cho người ta biết
mình”. Và tôi tin rằng theo nghĩa này, số lượng người trí của Trung
Quốc cao vô kể. Cả thế giới đều biết họ rất thân thuộc với cái ác: ác
ngay cả với kẻ đồng hương, kể cả trẻ sơ sinh (vì chính sách một con, bao nhiêu
triệu con gái mới đẻ đã bị hy sinh để chỗ chờ con trai?, bao nhiêu trẻ sơ sinh
đã chết vì uống sữa made in China?...); ác với súc vật (xưa Từ Hi đập
đầu khỉ múc óc đãi khách; nay ở nhiều quán ăn, thực khách chỉ cần chỉ vào mảng
thịt nào của con bò đang còn sống, thì đầu bếp sẽ xẻo mảnh thịt ấy ra nấu nướng
phục vụ!). Cả thế giới đều biết họ rất giỏi làm đồ giả và đồ nhái, không
cần phải nhắc lại dài dòng. Nhưng có lần tôi khen “người Trung Quốc giỏi
quá, cái gì họ cũng làm giả được, từ màng trinh đàn bà, đến tiền, thức ăn, máy
tính và vàng!”; một cậu bé bướng bỉnh chỉnh tôi ngay: “Không đúng đâu
bố; họ đâu có giả nhân, giả nghĩa được!”. Cho nên tôi chỉ sợ rằng,
khi “làm cho người ta biết mình” kiểu đó, thì làm sao giới tinh hoa
Trung Quốc cháu chắt cụ Khổng có thể đồng thời “làm cho người ta yêu mình”
nổi?
*
Việc thành lập Viện Khổng Tử ở khắp
nơi biểu thị cái ý muốn “làm thế nào để cho người ta biết mình, làm thế nào
để cho người ta yêu mình” ấy, gọi đích danh ra là tuyên truyền chính trị.
Và tất nhiên ai cũng biết quan hệ của nó với bộ máy chính quyền Trung Quốc[5], nên cũng đều thừa hiểu cái bản chất hai
mặt của nó.
Trong một bài phỏng vấn trên RFI
Việt ngữ, ông Nguyễn Xuân Diện, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội, đã nêu
lên những nguy cơ tiềm ẩn từ Viện Khổng Tử sẽ được thành lập ở Việt Nam như
sau:
“Chúng tôi rất lo lắng bởi vì
Viện Khổng Tử này chắc chắn không phải được lập nên để tuyên truyền về giáo lý,
tinh thần triết học hay cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử, cũng như về Nho học
: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Tam Tòng Tứ Đức... Thực chất đây sẽ là một trung
tâm văn hóa và ngôn ngữ, nhằm giới thiệu, quảng bá về văn hóa Trung Quốc: thi
ca, âm nhạc, ẩm thực, trà đạo..., và sẽ có những giao lưu văn hóa giữa các nghệ
sĩ Việt Nam và Trung Quốc. Đằng sau đó luôn là những hoạt động tư vấn về du
học, tức là kéo thanh niên Việt Nam đến Trung Quốc du học ngày càng nhiều. Đây
cũng sẽ là trung tâm dạy Trung văn, tức là tiếng Hoa. Đó là những hoạt động bề
nổi, còn đằng sau nó chắc chắn sẽ là những hoạt động tuyên truyền sâu rộng hơn
nữa về mặt văn hóa và tư tưởng, về một nước Trung Hoa hiện đại. Chính vì vậy
nhiều nhà quan sát cho rằng việc thành lập Viện Khổng Tử chính là một sự thể
hiện quyền lực mềm của Trung Quốc, hoặc có người gay gắt hơn thì nói rằng đấy
là bước đầu đặt cơ sở cho việc bành trướng văn hóa”.
Ông Diện nói đúng quá. Từ vài năm
nay, bước vào một hiệu sách ở Saigon, ta có thể thấy nhiều của “lạ”:
Về chính trị, bên cạnh tiểu sử các
nhà lãnh đạo Việt Nam, có không ít sách về các nhân vật lãnh đạo chính trị và
quân sự Trung Quốc (Nxb Chính trị). Thôi thì cứ cho đấy là chuyện ngoại giao!
Nhưng ở các kệ sách tổng quát, đã xuất hiện một số sách dịch mới, mang tính
giáo dục tuyên truyền rất lộ liễu về Trung Quốc đương thời, với đủ các mặt: Quốc
phòng, Xã hội, Dân tộc và tôn giáo, Lịch sử, Chế độ chính trị, Địa lý, Văn hóa,
Khoa học kỹ thuật và giáo dục, Ngoại giao, Pháp luật, Kinh tế, Môi trường, Vườn
cảnh, Gốm sứ, Truyền thuyết thần thoại, Rượu, Thủ công mỹ nghệ truyền thống, Lễ
Tết, Đồ nội thất, Ẩm thực, Phục sức, Hí kịch… (Nxb Tổng hợp Tp
Hồ Chí Minh xuất bản, Nxb Truyền bá Ngũ châu phát hành).
Về văn hóa, ngoài loại sách vẫn thấy
từ thời trước về triết học (Khổng, Mạnh, Lão, Trang…), và văn học (Tây
Du, Thủy Hử, Tam Quốc…), một loại sách nặng tính “xâm lăng văn hóa”
cũng đã ló mặt, để ca ngợi cái trí của người Trung Quốc, như Mưu
trí thời Tần Hán, Mưu trí thời Tùy Đường, Mưu trí thời Liêu Kim Hạ, Mưu trí
thời Nguyên Minh, Mưu trí thời nhà Thanh, Mưu trí thời Xuân Thu, Mưu trí thời
Chiến Quốc Thất Hùng[6]… (Nxb Văn học), hoặc
các danh nhân Trung Quốc, như 12 Đại Thừa tướng, 12 Đại Mưu lược
gia, 12 Đại Hoạn quan, 12 Đại Tham quan, 12 Người đẹp Trung Hoa…(Nxb
Văn hóa Thông tin)[7].
Trong bối cảnh này, việc thành lập Viện
Khổng Tử có thể sẽ trở thành bộ não của những hoạt động xâm nhập văn hóa mà
Trung Quốc xem là “chưa được hệ thống hóa đúng mức” ở Việt Nam. Hoạt động của
nó sẽ không chỉ giới hạn vào việc dạy ngôn ngữ và thông tin một chiều có lợi
cho Trung Quốc như ở các nước Phi châu chẳng hạn. Nếu ở nơi sinh thành, Khổng
Tử được phục hồi với ý đồ vuốt ve tự ái dân tộc (TA cũng có một hiền giả tầm cỡ
nhân loại như ai!) và tạo thêm một chân đứng cho chủ nghĩa toàn trị (hệ thống
độc đảng kiểu Lênin sẽ được hỗ trợ bởi truyền thống không có gì quý hơn phục
tùng, trật tự và không có gì đáng sợ hơn phản biện, phê phán của vị
vạn thế sư biểu), thì ở nơi từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, chắc
chắn là cái ý đồ thứ hai cũng sẽ được tiếp đón bởi tập đoàn toàn trị trong niềm
hân hoan, nếu không phải là lòng biết ơn sâu sắc!
Nhưng nhân dân Việt Nam thì khác.
Từng xem Khổng Tử là đầu mối của họa mất nước trong thế kỷ thứ XIX, họ không có
lý do gì ăn lại cái món họ đã nhổ ra, nhất là khi nó biểu thị một cái họa Bắc
thuộc khác. Họ thừa biết có cái gọi là “lý thuyết”, và có cái gọi là “hiện
thực” trong các giá trị nhân, lễ, nghĩa, trí, tín của văn minh Trung
Quốc. Người Việt thừa sức thấy rằng, trong thế kỷ thứ XXI sCn này, chẳng có gì
là đáng học thêm ở đạo Khổng, ngay cả ở cái phiên bản chân chính nhất của nó.
Họ thừa thấy là, từ xưa tới nay, cái chữ trí ở người Trung quốc
luôn luôn đi đôi với chữ mưu (như ở các tựa sách nói trên).
Cho nên dân Việt đã kết luận, một lần dứt khoát: kẻ gọi là “đối tác
chiến lược toàn diện ưu tiên” này chẳng dạy ta được gì cả, bởi vì cái trí
của nó chưa bao giờ là trí huệ hay trí tuệ hết cả, mà vẫn muôn đời là trí
trá.
Hãy khiến cho cái Viện Khổng Tử vừa
được quyết định thành lập ở Việt Nam này – một mảng quan trọng của quyển Mưu
trí thời Đặng Tập – cái số phận khôi hài của Giải
Khổng Tử về Hòa bình[8]. Hãy làm cho thứ quyền lực mềm này
thành quyền lực nhão. Hãy làm cho nó hiện nguyên hình là một hình thức bịt đầu
kiểu “giày sen gót ngọc” xưa kia. Sang thăm Pháp, tôi được xem cảnh quay
một lớp đào tạo cán bộ ở Bắc Kinh, trong một phim tài liệu mang tựa là Những
giới hạn của quyền lực mềm: các học viên lo ngại rằng loại Viện Khổng
Tử danh nghĩa (bởi đâu thể đặt tên là Viện Mao Trạch Đông!), song song với sự
đề cập đến Trung Quốc kiểu nện dùi cui vào đầu này, sẽ làm cho người nước ngoài
tò mò hơn, tìm hiểu thêm về hiện tình nội bộ Trung Quốc, thì “toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân” chỉ có nước độn thổ.
Có một thời để báo động, và một thời
để hành động. Rõ ràng là hai bộ máy toàn trị đã lùi thêm một bước nữa về quá
khứ: thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc, bỗng chuyển sang từ trần, nhường chỗ cho thời kỳ kinh tế thị trường “với
định hướng xã hội chủ nghĩa”, rồi bây giờ là thời kỳ chính trị phong kiến “với
định hướng xã hội chủ nghĩa”! Không lừa được bằng tương lai huyễn hoặc, thì
bịp bằng truyền thống “kính lão đắc thọ”. Có điều người dân Việt Nam đã
quá hiểu, cả cái hủ lậu nọ, cái hão huyền kia, lẫn chiếc cầu tiếp nối hai bờ
đó. Họ thừa biết rằng, để thoát khỏi sự tăm tối của đất nước và con người Việt
Nam hôm nay, ta cần phải đạp đổ tật cả mọi thứ tàn dư và mộng mị – nghĩa là làm
một cuộc tổng vệ sinh. Hãy biến cái Viện Khổng Tử đang thành hình thành một
đích nhắm cho chiến thuật “một mũi tên hai thành quả”. Vài thanh niên đã “dậy
mà đi”. Và ông lão nhà bên đã đủ lạc quan để ư ử ngân nga một bài vè con cóc: “Viện
Khổng Tử ra đời, Điềm tổng khử đã tới, Bắt đầu khử Tổng thôi!”. Tôi ghi lại
để mọi người cùng suy ngẫm.
Lý Thoát Trung
[1] Khổng Tử
sống giữa thế kỷ thứ VI và thứ V (551-479) tCn. Do đó, có thể xem như ảnh hưởng
của ông trên văn hóa Trung Quốc đã kéo dài từ thế kỷ thứ V tCn cho đến thế kỷ
thứ XIX sCn (khoảng 24 thế kỷ), khi Trung Quốc thất thế nhục nhã trước phương
Tây. Từ lúc đó, văn hóa Khổng giáo bị xem là nguyên do của sự suy đồi của Trung
Quốc, tư tưởng của ông còn bị đánh tơi bời trong cái gọi là cuộc “đại cách
mạng văn hóa vô sản” thời Mao Trạch Đông (1966-1969), nhất là trong các năm
1971-1974.
Quá trình phục hồi Khổng Tử
được xem như bắt đầu khoảng cuối thập niên 1980 – khi chân dung của 4 ông râu
xồm nước ngoài (Marx, Engels, Lenin, Stalin) tại Thiên An Môn bỗng dưng bay
mất, rồi sau được thay thế bằng pho tượng Khổng Tử cao 9 thước, đặt bên trái
song cách khá xa chân dung của Mao Trạch Đông chễm chệ trên cổng vào quảng trường
– và kết thúc năm 2011, khi tờ Nhân dân Nhật báo trích dẫn câu tuyên bố ngắn
ngủi sau của một vị lãnh đạo ĐCSTQ (không nêu tên): “Khổng Tử là biểu tượng
của nền văn hóa Trung Quốc”.
Giải thưởng Khổng Tử về hòa bình được đặt ra vào năm 2010, với một phần thưởng khoảng 11000
euros, trong tham vọng thay thế giải Nobel về hòa bình. Còn
về Viện Khổng Tử, tính đến tháng 7-2013, đã có khoảng 327 cái được thành lập ở
hơn 90 quốc gia và khu vực trên thế giới.
[2] Ôn
Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân. Cổ học Tinh hoa. Hà
Nội, 1925. Q. I, tr. 40-42. Đây là hai quyển sách chỉ tập trung giới thiệu tư
tưởng của nhà nho, do đó, nếu đặt tên là Khổng học Tinh hoa có lẽ
sẽ chính danh hơn nữa.
[4] Tôi
không nói về văn hóa và khoa học, vì không nắm được tình hình bên trong. Bên
ngoài, vẫn có những người gốc Trung Quốc đoạt được các giải thưởng cao quý.
Nhưng có lẽ họ chỉ mắc nợ hệ thống giáo dục và không khí văn hóa của nơi họ
định cư mà thôi; gán cho Khổng Tử loại thành tích này thực sự là vu khống cụ.
[5] Các Viện
Khổng Tử được thiết lập theo mô hình đối tác (liên kết Văn phòng Uỷ ban Quốc tế
về Tiếng Trung gọi tắt là Hán Ban, một trường Đại học Trung Quốc, và một trường
Đại học nước ngoài), song tất cả đều được quản lý bởi Hán Ban (tổ chức quần
chúng phi lợi nhuận, do một nhóm người xuất thân từ Hội đồng Nhà nước, Bộ Giáo
dục, Bộ Ngoại giao và Bộ Văn hoá Trung Quốc điều khiển).
[6] Ở
đây, hãy so sánh với các tên sách về cái trí ở những nơi khác: Trí
tuệ Ả Rập, Trí tuệ nước Mỹ, Trí tuệ nước Pháp … (Nxb Thời đại).
[7] Tình hình
sách báo này, tôi thực tình thấy đáng báo động, mặc dù so với lượng sách về thế
giới nói chung, số sách về Trung Quốc cũng chưa lấy gì làm vĩ đại lắm. Ông chủ
tiệm sách còn ranh mãnh đặt đối diện với các kệ sách trên (không thấy bao nhiêu
người viếng mua) loạt sách Danh nhân Lịch sử Việt Nam với bao anh
hùng, anh thư nổi tiếng, cùng các loại sách đối trọng khác, cũng có đủ bộ hoạn
quan, tham quan và người đẹp bản xứ chứ chẳng thua kém gì.
[8] Giải
Khổng Tử về Hòa bình được đặt dưới sự quản lý của Hiệp hội Nghệ thuật Bản xứ
Trung Quốc, với một ban giám khảo gồm có một đại tá Quân đội Giải phóng, một ký
giả Nhân dân Nhật báo và một thủ lĩnh của trường đảng. Hiệp hội này bị Nhà nước
đình chỉ và thay thế bằng Trung tâm Nghiên cứu về Hòa bình của Trung Quốc vào
năm 2011. Giải thưởng đã được trao cho: Lien Chan năm 2010 (Phó tổng thống Cộng
hòa Trung Hoa, ông này không đến nhận), Vladimir Putin năm 2011 (qua một phát
ngôn nhân, Putin cho biết ông không hay biết gì về giải thưởng này!), Kofi Annan và
nhà nông học Yuan Longping năm 2012.
Vì Giải
Khổng Tử về Hòa bình được đặt ra khi
Liu Xiaobo được trao tặng Giải Nobel về Hòa bình năm 2010, tờ The
Economist đã so sánh nó, rất chính đáng, với Giải thưởng Quốc gia
Đức về Nghệ thuật và Khoa học (do đảng Quốc Xã Đức đặt
ra, sau khi cấm Carl Von Ossietzky nhận giải Nobel về Hòa bình năm 1935) và Giải
Stalin về Hòa bình (sau đổi tên thành Giải Lenin về Hòa bình, do
Liên Xô đặt ra cũng sau khi cấm Andrei Sakharov nhận Giải Nobel về Hòa bình
năm 1975). Ôi, vinh quang!
Liên hiệp quốc lần đầu tiên có Ngày thế giới về nhà vệ sinh
Ikotoilets : Nhà vệ sinh di động (http://ecotact.org)
Anh Vũ (RFI)
Khoảng 2,5 tỷ người trên thế giới, tức 1/3 nhân loại không có nhà vệ
sinh. Dịch bệnh đủ thứ cũng xuất phát từ việc thiếu thốn các điều kiện
vệ sinh mà giờ đây vẫn được cho là tối thiểu của cuộc sống. Trước thực
tế đó, Liên hiệp Quốc đã quyết định bắt đầu từ năm nay, lấy ngày 19/11
là Ngày Thế giới về nhà vệ sinh.
Mục đích của ngày quốc tế đặc biệt này là đánh động dư luận về tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng nhà vệ sinh trên thế giới, đặc biệt về hậu quả không nhỏ đối với sức khỏe cộng đồng.
Ý tưởng được khởi xướng từ năm 2001 tại Singapore này thoạt nghe có vẻ là lạ nhưng đây lại là một vấn đề rất nghiêm túc, liên quan đến điều kiện sống của con người và có hệ quả không nhỏ đối với y tế công cộng và phát triển.
Dịch tả, thương hàn tiêu chảy, viêm gan hay nhiều bệnh nhiễm trùng khác … những căn bệnh có nguyên nhân từ điều kiện vệ sinh kiểu như vậy giờ đây rất nhiều.
Theo tổ chức y tế thế giới, hàng năm trên thế giới có 1,7 tỷ người bị mắc bệnh tiêu chảy và 760 nghìn trẻ em bị chết vì căn bệnh này. Trên thế giới có 50% giường bệnh được dành cho những bệnh nhân mắc các chứng truyền nhiễm qua nước.
Nhiều cơ quan quốc tế khác từ nhiều năm nay đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống vệ sinh. Tổ chức Hành động chống nạn đói đánh giá, được sử dụng nhà vệ sinh cũng là một « thứ vũ khí đấu tranh vì bình đẳng nam nữ ».
Unicef đã thống kê được con số hàng năm trên thế giới các học sinh bỏ mất 194 triệu ngày học vì bị mắc bệnh tiêu chảy hoặc nghỉ học vì lý do trường học không có nhà vệ sinh.
Việc xả nước thải vào thiên nhiên một cách bừa bãi cũng sẽ là một tai họa môi sinh, gây ô nhiễm nguồn nước, quay trở lại gây tác hại vào sức khỏe con người.
Thiếu thốn thiết bị, điều kiện vệ sinh còn gây tổn thất về kinh tế. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2010, tình trạng thiếu thiết bị vệ sinh ở Ấn Độ mỗi năm gây thiệt hại cho nước này hơn 53 tỷ đô la, tức chiếm gần 6% thu nhập bình quân của cả nước.
Liệu có số này có thể là lý lẽ thuyết phục chính phủ quan tâm hơn đến chuyện nhà vệ sinh, một chuyện vẫn bị cho là nhỏ nhặt ? Và có lẽ đâu đó có người còn cười nhạo cái Ngày thế giới về nhà vệ sinh. Nhưng đây hoàn toàn là một câu chuyện nghiêm túc gắn với cuộc sống hàng ngày của từng con người và với sự phát triển của cả quốc gia.
Nhà vệ sinh cũng là một trong tám « Mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ » được Liên hiệp quốc đề ra từ năm 2000. Đó là đến năm 2015, giảm một nửa số người không có nhà vệ sinh. Có được thiết bị vệ sinh y tế đã được Liên hiệp quốc thừa nhận từ năm 2010 như là một quyền của con người.
Mục đích của ngày quốc tế đặc biệt này là đánh động dư luận về tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng nhà vệ sinh trên thế giới, đặc biệt về hậu quả không nhỏ đối với sức khỏe cộng đồng.
Ý tưởng được khởi xướng từ năm 2001 tại Singapore này thoạt nghe có vẻ là lạ nhưng đây lại là một vấn đề rất nghiêm túc, liên quan đến điều kiện sống của con người và có hệ quả không nhỏ đối với y tế công cộng và phát triển.
Dịch tả, thương hàn tiêu chảy, viêm gan hay nhiều bệnh nhiễm trùng khác … những căn bệnh có nguyên nhân từ điều kiện vệ sinh kiểu như vậy giờ đây rất nhiều.
Theo tổ chức y tế thế giới, hàng năm trên thế giới có 1,7 tỷ người bị mắc bệnh tiêu chảy và 760 nghìn trẻ em bị chết vì căn bệnh này. Trên thế giới có 50% giường bệnh được dành cho những bệnh nhân mắc các chứng truyền nhiễm qua nước.
Nhiều cơ quan quốc tế khác từ nhiều năm nay đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống vệ sinh. Tổ chức Hành động chống nạn đói đánh giá, được sử dụng nhà vệ sinh cũng là một « thứ vũ khí đấu tranh vì bình đẳng nam nữ ».
Unicef đã thống kê được con số hàng năm trên thế giới các học sinh bỏ mất 194 triệu ngày học vì bị mắc bệnh tiêu chảy hoặc nghỉ học vì lý do trường học không có nhà vệ sinh.
Việc xả nước thải vào thiên nhiên một cách bừa bãi cũng sẽ là một tai họa môi sinh, gây ô nhiễm nguồn nước, quay trở lại gây tác hại vào sức khỏe con người.
Thiếu thốn thiết bị, điều kiện vệ sinh còn gây tổn thất về kinh tế. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2010, tình trạng thiếu thiết bị vệ sinh ở Ấn Độ mỗi năm gây thiệt hại cho nước này hơn 53 tỷ đô la, tức chiếm gần 6% thu nhập bình quân của cả nước.
Liệu có số này có thể là lý lẽ thuyết phục chính phủ quan tâm hơn đến chuyện nhà vệ sinh, một chuyện vẫn bị cho là nhỏ nhặt ? Và có lẽ đâu đó có người còn cười nhạo cái Ngày thế giới về nhà vệ sinh. Nhưng đây hoàn toàn là một câu chuyện nghiêm túc gắn với cuộc sống hàng ngày của từng con người và với sự phát triển của cả quốc gia.
Nhà vệ sinh cũng là một trong tám « Mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ » được Liên hiệp quốc đề ra từ năm 2000. Đó là đến năm 2015, giảm một nửa số người không có nhà vệ sinh. Có được thiết bị vệ sinh y tế đã được Liên hiệp quốc thừa nhận từ năm 2010 như là một quyền của con người.
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: "Chúng ta tiền ít mà quyết định rất đơn giản"
Ghi tại thảo luận tổ ngày 18.11 về luật Đầu tư công (rất đáng suy nghĩ):
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh phát biểu:
Luật Đầu tư công - đây là vấn đề cực kỳ quan trọng. Không có luật nào ở Việt Nam mà 7 năm không trình ra được, đó chính là Luật Đầu tư công (ĐTC).
… Anh Bảy trắc và anh Lộc băn khoăn là làm chặt chẽ thế này thì biết thế nào mà thẩm định, bố trí. Xin thưa là chúng ta phải có nhận thức mới. Mới nhưng mà rất cũ, quay trở lại thời Ủy ban Kế Hoạch nhà nước. Thời đó, không có chuyện phê duyệt bừa bãi như hiện nay. Thời đó, năm 85 – 87, làm rất ít công trình, nhưng công trình nào ra công trình đó. Thời đó có bố trí vốn chuẩn bị đầu tư, cho các địa phương và các bộ. Mỗi năm trong tổng mức đầu tư chúng ta trích ra 20% để bố trí danh mục các công trình chuẩn bị đầu tư cho năm sau và năm sau nữa.
Bây giờ không có chuyện này, không cần chuẩn bị đầu tư, cứ nghĩ ra là làm thôi, chẳng nghiên cứu gì. Một đồng chí cấp cao đồng ý cho làm, đề nghị Thủ tướng, Phó thủ tướng đồng ý cho làm. Để quyết định một chủ trương, phải nghiên cứu rất nhiều yếu tố, cân nhắc rất nhiều.
Để làm một ngôi nhà, các cụ nói “Ba năm chuẩn bị, một năm làm nhà”, có gia đình nghèo chuẩn bị 10 năm mới dám làm nhà. Vậy mà bây giờ chúng ta thì rất đơn giản…, chỉ cần ý chí của một người lãnh đạo địa phương và một người lãnh đạo đâu đó là quyết làm ngay, ghi danh mục luôn. Các bộ chạy theo vào hùa để đồng tình, không có ai nói ngược. Trong khi đó, làm ra thì lãng phí. Đường làm xong không ai đi, chợ làm xong không ai họp…
Vì chúng ta có chuẩn bị đầu tư đâu, có ai đánh giá nghiên cứu gì đâu ? Có chủ trương rồi là bố trí vốn đầu tư là làm luôn, vừa làm vừa nghiên cứu.
-> Cho nên đây là vấn đề rất suy nghĩ, không khoa học, hoàn toàn phi thực tiễn, và trái ngược với những gì chúng ta đã từng làm trước đây và trái ngược với cái thế giới đang làm. Chỉ có mỗi VN làm vậy, tiền ít mà quyết định rất đơn giản.
Cho nên ĐB Thuý (ĐN) nói rất đúng, lãng phí khâu chủ trương đầu tư 5 - 10 tỷ, hay trăm tỷ thì không ai nói gì trong khi thất thoát 1 tỷ đã vào tù. Cho nên lãng phí trong chủ trương đầu tư là lãng phí lớn nhất trong tất cả các lãng phí.
Vừa rồi chúng ta làm tràn lan, tới 20.000 công trình mới phát sinh trong một năm. Tới nay, chỉ có 5.000 công trình mới thôi, nhưng được chọn lựa, có vốn chuẩn bị đầu tư, có khảo sát. Trên dưới đồng tình. Từ năm 2015 sẽ báo cáo mức vốn đầu tư những năm tới.
Luật này vô cùng bài bản, đã đến lúc Việt Nam không thể tùy thích thế này được. Tôi đã làm địa phương 40 năm, rất hiểu và chia sẻ. Đã đến lúc Việt Nam không thể để lung tung thế này được. Chủ trương đầu tư dễ quá. Một đồng chí mới lên, muốn để lại dấu ấn, đề nghị làm đại lộ hoành tráng, vẫn chi, làm tượng đài cỡ nghìn tỷ, giữa đồng không mông quạnh, lãng phí vô cùng. Chuyện nghe như cổ tích mà đang có thật. Suốt ngày tôi phải chịu áp lực. Các đồng chí đi xin chủ trương đồng ý tất, chúng tôi ở dưới vô cùng áp lực. Dự báo 2016 – 2020, cũng ko có nhiều tiền hơn hiện nay. Cho nên, nhiệm kỳ này là nhiệm kỳ khắc phục những tồn tại của những nhiệm kỳ trước.
Trái phiếu kích cầu, ai xin cũng được, chuẩn bị đầu tư rất đơn giản, làm vào mới tung tóe. Không ngờ tổng mức đầu tư lại tăng nhiều đến thế, tăng gấp mấy trăm lần. Làm ăn kiểu này không có đất nước nào làm. Bức xúc vô cùng. Cho nên chúng ta phải cùng nhau làm, chúng ta đừng thích dễ dãi. Nếu dễ dãi, chúng ta sẽ đưa đất nước đến bờ vực thẳm. Cho nên Luật này có rất nhiều điều đặc biệt.
Mặc dù đơn giản thôi. Nhưng mà tôi không kỳ vọng luật này hoàn thiện, vì nó phải được thông qua, còn trong quá trình thực hiện, mắc đâu gỡ đấy. Không thể một đất nước tiền ít mà lại không có Luật ĐTC.
Năm 2009, WB cam kết hỗ trợ VN 500 triệu USD để cứu nền kinh tế. Khi đó, họ yêu cầu VN phải có Luật ĐTC, nhưng từ đó đến nay vẫn không thông qua được. Vì các bộ nào cũng sợ Luật ĐTC ảnh hưởng đến quyền của mình. Nếu chúng ta không thông qua luật này, quốc tế họ cũng ko ủng hộ Việt Nam.
Điều mới trong luật này là có hẳn một chương về chủ trương đầu tư, để chế định cho các đồng chỉ có thẩm quyền ở địa phương, trung ương, thậm chí là thường vụ tỉnh ủy, bí thư tỉnh ủy.
Thay vì bây giờ chỉ cần một cuộc viếng thăm thôi, và các đồng chí đưa ra một list dài, và cán bộ đi theo rầm rầm nhưng không bộ nào dám phản đối. Vì có nghiên cứu gì đâu mà dám phản đối. Sợ ra QH lại bị gạch phiếu tín nhiệm, sợ tiếng xấu với địa phương.
Giờ phải làm lại, cấp to nhất cũng phải có luận chứng. Ai ra chủ trương sai người đó phải chịu trách nhiệm, phải có chế tài xử lý. Chỉ một cái này thôi mà được thực hiện thì sẽ hạn chế rất nhiều lãng phí.
Thứ hai là thẩm định. Mới đây chúng ta mới có chỉ thị 1792 về thẩm định nguồn vốn, còn trước đây không cần thẩm định gì hết. Thủ tướng còn phải bức xúc “Trời ơi, bây giờ chủ tịch địa phương giao cho Thủ tướng chịu trách nhiệm. Địa phương quyết còn Thủ tướng chạy theo bố trí”. Điều này nghe buồn cười nhưng có thật.
Cho nên phải thẩm định, có đủ tiền mới được làm, ko đủ tiền mới làm. Tiền của địa phương thì ĐP quyết, tiền của trung ương thì phải trả lời rõ có tiền mới làm. Đây là chuyện rất minh bạch.
Thứ ba là thay vì kế hoạch đầu tư không biết, VỪa rồi mới biết là có 156.000 tỷ. Không biết mình có bao nhiêu tiền. Ăn đong từng năm, nhưng công trình thì 5, 7 năm mới xong. Làm mà ko biết có tiền hay không. Vì thế trông cậy vào sự chạy chọt, chạy tốt mới có tí tiền mà không tốt thì không có. Mỗi năm cho một tí, sang năm không có thì thôi. Đó gọi là dàn trải. Dàn trải là làm quá nhiều công trình so với những gì mình có, và công trình nào cũng kéo dài, bôi ra. Nhóm nào cũng kéo dài 5 - 7 năm, không hiệu quả.
…Cho nên việc đột phá làm kế hoạch đầu tư trung hạn là sự dũng cảm của Bộ KHĐT. Chính chúng tôi đặt ra mục tiêu này để minh bạch, không có sự chạy chọt, tham nhũng. Có đồng chí Vụ trưởng nói: ”Bộ trưởng làm thế này là lấy đá ghè chân mình”, ai còn cần đến Bộ KHĐT nữa?
Tôi trả lời là đất nước này cần sự minh bạch, cần không có tiêu cực tham nhũng, và vốn phải dồn cho công trình. Bây giờ phải minh bạch tính ra mỗi năm GDP tăng bao nhiêu, thu ngân sách bao nhiêu, chi đầu tư phát triển bao nhiêu, đặt ở mức rất thấp, để chúng ta có sự chủ động, có dự phòng nếu vượt thu sẽ lo việc khác. Sẽ công bố cho các địa phương là có từng này tiền, công bố kế hoạch đầu tư 5 năm.
:)))
-> Có cảm tình với BT Bùi Quang Vinh rồi đấy
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh phát biểu:
Luật Đầu tư công - đây là vấn đề cực kỳ quan trọng. Không có luật nào ở Việt Nam mà 7 năm không trình ra được, đó chính là Luật Đầu tư công (ĐTC).
… Anh Bảy trắc và anh Lộc băn khoăn là làm chặt chẽ thế này thì biết thế nào mà thẩm định, bố trí. Xin thưa là chúng ta phải có nhận thức mới. Mới nhưng mà rất cũ, quay trở lại thời Ủy ban Kế Hoạch nhà nước. Thời đó, không có chuyện phê duyệt bừa bãi như hiện nay. Thời đó, năm 85 – 87, làm rất ít công trình, nhưng công trình nào ra công trình đó. Thời đó có bố trí vốn chuẩn bị đầu tư, cho các địa phương và các bộ. Mỗi năm trong tổng mức đầu tư chúng ta trích ra 20% để bố trí danh mục các công trình chuẩn bị đầu tư cho năm sau và năm sau nữa.
Bây giờ không có chuyện này, không cần chuẩn bị đầu tư, cứ nghĩ ra là làm thôi, chẳng nghiên cứu gì. Một đồng chí cấp cao đồng ý cho làm, đề nghị Thủ tướng, Phó thủ tướng đồng ý cho làm. Để quyết định một chủ trương, phải nghiên cứu rất nhiều yếu tố, cân nhắc rất nhiều.
Để làm một ngôi nhà, các cụ nói “Ba năm chuẩn bị, một năm làm nhà”, có gia đình nghèo chuẩn bị 10 năm mới dám làm nhà. Vậy mà bây giờ chúng ta thì rất đơn giản…, chỉ cần ý chí của một người lãnh đạo địa phương và một người lãnh đạo đâu đó là quyết làm ngay, ghi danh mục luôn. Các bộ chạy theo vào hùa để đồng tình, không có ai nói ngược. Trong khi đó, làm ra thì lãng phí. Đường làm xong không ai đi, chợ làm xong không ai họp…
Vì chúng ta có chuẩn bị đầu tư đâu, có ai đánh giá nghiên cứu gì đâu ? Có chủ trương rồi là bố trí vốn đầu tư là làm luôn, vừa làm vừa nghiên cứu.
-> Cho nên đây là vấn đề rất suy nghĩ, không khoa học, hoàn toàn phi thực tiễn, và trái ngược với những gì chúng ta đã từng làm trước đây và trái ngược với cái thế giới đang làm. Chỉ có mỗi VN làm vậy, tiền ít mà quyết định rất đơn giản.
Cho nên ĐB Thuý (ĐN) nói rất đúng, lãng phí khâu chủ trương đầu tư 5 - 10 tỷ, hay trăm tỷ thì không ai nói gì trong khi thất thoát 1 tỷ đã vào tù. Cho nên lãng phí trong chủ trương đầu tư là lãng phí lớn nhất trong tất cả các lãng phí.
Vừa rồi chúng ta làm tràn lan, tới 20.000 công trình mới phát sinh trong một năm. Tới nay, chỉ có 5.000 công trình mới thôi, nhưng được chọn lựa, có vốn chuẩn bị đầu tư, có khảo sát. Trên dưới đồng tình. Từ năm 2015 sẽ báo cáo mức vốn đầu tư những năm tới.
Luật này vô cùng bài bản, đã đến lúc Việt Nam không thể tùy thích thế này được. Tôi đã làm địa phương 40 năm, rất hiểu và chia sẻ. Đã đến lúc Việt Nam không thể để lung tung thế này được. Chủ trương đầu tư dễ quá. Một đồng chí mới lên, muốn để lại dấu ấn, đề nghị làm đại lộ hoành tráng, vẫn chi, làm tượng đài cỡ nghìn tỷ, giữa đồng không mông quạnh, lãng phí vô cùng. Chuyện nghe như cổ tích mà đang có thật. Suốt ngày tôi phải chịu áp lực. Các đồng chí đi xin chủ trương đồng ý tất, chúng tôi ở dưới vô cùng áp lực. Dự báo 2016 – 2020, cũng ko có nhiều tiền hơn hiện nay. Cho nên, nhiệm kỳ này là nhiệm kỳ khắc phục những tồn tại của những nhiệm kỳ trước.
Trái phiếu kích cầu, ai xin cũng được, chuẩn bị đầu tư rất đơn giản, làm vào mới tung tóe. Không ngờ tổng mức đầu tư lại tăng nhiều đến thế, tăng gấp mấy trăm lần. Làm ăn kiểu này không có đất nước nào làm. Bức xúc vô cùng. Cho nên chúng ta phải cùng nhau làm, chúng ta đừng thích dễ dãi. Nếu dễ dãi, chúng ta sẽ đưa đất nước đến bờ vực thẳm. Cho nên Luật này có rất nhiều điều đặc biệt.
Mặc dù đơn giản thôi. Nhưng mà tôi không kỳ vọng luật này hoàn thiện, vì nó phải được thông qua, còn trong quá trình thực hiện, mắc đâu gỡ đấy. Không thể một đất nước tiền ít mà lại không có Luật ĐTC.
Năm 2009, WB cam kết hỗ trợ VN 500 triệu USD để cứu nền kinh tế. Khi đó, họ yêu cầu VN phải có Luật ĐTC, nhưng từ đó đến nay vẫn không thông qua được. Vì các bộ nào cũng sợ Luật ĐTC ảnh hưởng đến quyền của mình. Nếu chúng ta không thông qua luật này, quốc tế họ cũng ko ủng hộ Việt Nam.
Điều mới trong luật này là có hẳn một chương về chủ trương đầu tư, để chế định cho các đồng chỉ có thẩm quyền ở địa phương, trung ương, thậm chí là thường vụ tỉnh ủy, bí thư tỉnh ủy.
Thay vì bây giờ chỉ cần một cuộc viếng thăm thôi, và các đồng chí đưa ra một list dài, và cán bộ đi theo rầm rầm nhưng không bộ nào dám phản đối. Vì có nghiên cứu gì đâu mà dám phản đối. Sợ ra QH lại bị gạch phiếu tín nhiệm, sợ tiếng xấu với địa phương.
Giờ phải làm lại, cấp to nhất cũng phải có luận chứng. Ai ra chủ trương sai người đó phải chịu trách nhiệm, phải có chế tài xử lý. Chỉ một cái này thôi mà được thực hiện thì sẽ hạn chế rất nhiều lãng phí.
Thứ hai là thẩm định. Mới đây chúng ta mới có chỉ thị 1792 về thẩm định nguồn vốn, còn trước đây không cần thẩm định gì hết. Thủ tướng còn phải bức xúc “Trời ơi, bây giờ chủ tịch địa phương giao cho Thủ tướng chịu trách nhiệm. Địa phương quyết còn Thủ tướng chạy theo bố trí”. Điều này nghe buồn cười nhưng có thật.
Cho nên phải thẩm định, có đủ tiền mới được làm, ko đủ tiền mới làm. Tiền của địa phương thì ĐP quyết, tiền của trung ương thì phải trả lời rõ có tiền mới làm. Đây là chuyện rất minh bạch.
Thứ ba là thay vì kế hoạch đầu tư không biết, VỪa rồi mới biết là có 156.000 tỷ. Không biết mình có bao nhiêu tiền. Ăn đong từng năm, nhưng công trình thì 5, 7 năm mới xong. Làm mà ko biết có tiền hay không. Vì thế trông cậy vào sự chạy chọt, chạy tốt mới có tí tiền mà không tốt thì không có. Mỗi năm cho một tí, sang năm không có thì thôi. Đó gọi là dàn trải. Dàn trải là làm quá nhiều công trình so với những gì mình có, và công trình nào cũng kéo dài, bôi ra. Nhóm nào cũng kéo dài 5 - 7 năm, không hiệu quả.
…Cho nên việc đột phá làm kế hoạch đầu tư trung hạn là sự dũng cảm của Bộ KHĐT. Chính chúng tôi đặt ra mục tiêu này để minh bạch, không có sự chạy chọt, tham nhũng. Có đồng chí Vụ trưởng nói: ”Bộ trưởng làm thế này là lấy đá ghè chân mình”, ai còn cần đến Bộ KHĐT nữa?
Tôi trả lời là đất nước này cần sự minh bạch, cần không có tiêu cực tham nhũng, và vốn phải dồn cho công trình. Bây giờ phải minh bạch tính ra mỗi năm GDP tăng bao nhiêu, thu ngân sách bao nhiêu, chi đầu tư phát triển bao nhiêu, đặt ở mức rất thấp, để chúng ta có sự chủ động, có dự phòng nếu vượt thu sẽ lo việc khác. Sẽ công bố cho các địa phương là có từng này tiền, công bố kế hoạch đầu tư 5 năm.
:)))
-> Có cảm tình với BT Bùi Quang Vinh rồi đấy
Mạnh Quân
Theo FB Mạnh Quân
Đinh Thúy An - Thư gửi bố Đinh Đăng Định nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11
Lẵng hoa hồng gia đình chuẩn bị để đi thăm thầy Định ngày mai, 20/11. Tới giờ này gia đình vẫn chưa biết có thể vào gặp thầy Định ngày mai hay không. |
Bố thân yêu!
Hôm nay, ngồi trong giảng đường tham dự buổi lễ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam mà con không ngừng nghĩ về bố-người thầy vĩ đại nhất trong lòng con. Vậy là sắp bước sang mùa 20/11 thứ 3 kể từ khi bản án tù 6 năm nghiệt ngã giáng xuống bố và gia đình ta. Chỉ vì lương tâm của một nhà giáo không cho phép bố im lặng trước thời cuộc, vậy là bố phải sống trong chốn lao tù, độc ác hơn nữa là bố phải sống chung với căn bệnh ung thư dạ dày mà không được đi chữa trị. Con tự hỏi cái “tâm” của những người ra quyết định bắt bố phải trở lại nhà tù nằm ở đâu???
Con đang tự hỏi “Không biết giờ này bố đang làm gì nhỉ? Mấy ngày hôm nay sức khỏe của bố thế nào?” Hôm nay, Con nhìn thấy được niềm vui của các thầy trong ngày lễ thiêng liêng này, con ước giá mà con có thể dâng tặng bố những niềm vui nho nhỏ ấy thì hạnh phúc biết bao. Con vừa căm giận vì sự tàn nhẫn, vô tình giữa những con người với nhau vừa đau lòng khi thấy bố sống trong đau đớn của bệnh tật, sống trong lạc lõng ở chốn tù lao - cái nơi mà đáng lẽ không bao giờ dành cho bố. Con thương bố, con thương mẹ, và không khỏi xót xa cho gia đình mình.
Bố ạ! Giờ con đã là sinh viên năm thứ 3, em Nga nhà mình cũng chập chững bước vào đại học. Tuy con không nhiều nhặn kinh nghiệm hơn em là bao nhưng bố yên tâm nhé! Con sẽ chỉ bảo cho em những gì con biết, nhắc nhở em học hành. Ba chị em con vẫn luôn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, bảo ban nhau và cả động viên mẹ để tiếp tục sống tốt mà không hề bi quan hay chán nản mà bỏ cuộc giữa chừng. Chúng con sẽ mãi mãi là những cô học trò bé nhỏ của bố, là những cô con gái ngoan của bố mẹ.
Bố ơi! Con biết hy sinh nào cũng đi kèm với mất mát. Bố đã hy sinh bản thân mình, giữ vững lí tưởng để cống hiến và đóng góp cho xã hội dân chủ. Con hiểu và càng trân trọng những những gì bố đã làm. Cả gia đình mình luôn tin ở bố. Bố cũng phải giữ gìn sức khỏe luôn lạc quan để đấu tranh với bệnh tật và đi đến tận cùng của lí tưởng. Con mãi mãi không quên lời bố dặn để trở thành một con người tốt hay ít nhất là sống đúng nghĩa là một con người.
Đã hơn hai năm nay, gia đình mình quen với việc thiếu bố trong bữa cơm thường ngày, quay quần bên nhau trong ngày lễ tết lại càng không thể. Nhưng tất cả những điều ấy, mẹ và chúng con đều vượt qua được hết để có thêm động lực vượt qua mọi đau khổ mà gia đình mình gánh chịu. Bố ạ! Bố luôn là người thầy, người bố lớn nhất trong lòng con, với cả mẹ, cả chị và cả em nữa. Cám ơn bố vì những khoảng thời gian đứng bục giảng để truyền dạy tri thức cho cả 3 chị em chúng con.
Đã và sẽ không còn nữa những giọt nước mắt yếu mềm khi cả nhà ta chia tay nhau trong trại giam, thay vào đó là niềm tin bất diệt vào lí tưởng cuối cùng, tin vào những ngày đoàn tụ không xa bố nhé!
Các thế hệ học trò bao nhiêu năm dưới sự dìu dắt của bố xin gửi tới bố đóa hoa tươi thắm nhất; xin tri ân nhưng công lao dạy dỗ thành tài của bố.Mong bố luôn lạc quan để vượt qua căn bệnh hiểm nghèo.
Mẹ và chúng con yêu bố!
Con gái, học trò của bố.
Đinh Thúy An
Hôm nay, ngồi trong giảng đường tham dự buổi lễ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam mà con không ngừng nghĩ về bố-người thầy vĩ đại nhất trong lòng con. Vậy là sắp bước sang mùa 20/11 thứ 3 kể từ khi bản án tù 6 năm nghiệt ngã giáng xuống bố và gia đình ta. Chỉ vì lương tâm của một nhà giáo không cho phép bố im lặng trước thời cuộc, vậy là bố phải sống trong chốn lao tù, độc ác hơn nữa là bố phải sống chung với căn bệnh ung thư dạ dày mà không được đi chữa trị. Con tự hỏi cái “tâm” của những người ra quyết định bắt bố phải trở lại nhà tù nằm ở đâu???
Con đang tự hỏi “Không biết giờ này bố đang làm gì nhỉ? Mấy ngày hôm nay sức khỏe của bố thế nào?” Hôm nay, Con nhìn thấy được niềm vui của các thầy trong ngày lễ thiêng liêng này, con ước giá mà con có thể dâng tặng bố những niềm vui nho nhỏ ấy thì hạnh phúc biết bao. Con vừa căm giận vì sự tàn nhẫn, vô tình giữa những con người với nhau vừa đau lòng khi thấy bố sống trong đau đớn của bệnh tật, sống trong lạc lõng ở chốn tù lao - cái nơi mà đáng lẽ không bao giờ dành cho bố. Con thương bố, con thương mẹ, và không khỏi xót xa cho gia đình mình.
Bố ạ! Giờ con đã là sinh viên năm thứ 3, em Nga nhà mình cũng chập chững bước vào đại học. Tuy con không nhiều nhặn kinh nghiệm hơn em là bao nhưng bố yên tâm nhé! Con sẽ chỉ bảo cho em những gì con biết, nhắc nhở em học hành. Ba chị em con vẫn luôn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, bảo ban nhau và cả động viên mẹ để tiếp tục sống tốt mà không hề bi quan hay chán nản mà bỏ cuộc giữa chừng. Chúng con sẽ mãi mãi là những cô học trò bé nhỏ của bố, là những cô con gái ngoan của bố mẹ.
Bố ơi! Con biết hy sinh nào cũng đi kèm với mất mát. Bố đã hy sinh bản thân mình, giữ vững lí tưởng để cống hiến và đóng góp cho xã hội dân chủ. Con hiểu và càng trân trọng những những gì bố đã làm. Cả gia đình mình luôn tin ở bố. Bố cũng phải giữ gìn sức khỏe luôn lạc quan để đấu tranh với bệnh tật và đi đến tận cùng của lí tưởng. Con mãi mãi không quên lời bố dặn để trở thành một con người tốt hay ít nhất là sống đúng nghĩa là một con người.
Đã hơn hai năm nay, gia đình mình quen với việc thiếu bố trong bữa cơm thường ngày, quay quần bên nhau trong ngày lễ tết lại càng không thể. Nhưng tất cả những điều ấy, mẹ và chúng con đều vượt qua được hết để có thêm động lực vượt qua mọi đau khổ mà gia đình mình gánh chịu. Bố ạ! Bố luôn là người thầy, người bố lớn nhất trong lòng con, với cả mẹ, cả chị và cả em nữa. Cám ơn bố vì những khoảng thời gian đứng bục giảng để truyền dạy tri thức cho cả 3 chị em chúng con.
Đã và sẽ không còn nữa những giọt nước mắt yếu mềm khi cả nhà ta chia tay nhau trong trại giam, thay vào đó là niềm tin bất diệt vào lí tưởng cuối cùng, tin vào những ngày đoàn tụ không xa bố nhé!
Các thế hệ học trò bao nhiêu năm dưới sự dìu dắt của bố xin gửi tới bố đóa hoa tươi thắm nhất; xin tri ân nhưng công lao dạy dỗ thành tài của bố.Mong bố luôn lạc quan để vượt qua căn bệnh hiểm nghèo.
Mẹ và chúng con yêu bố!
Con gái, học trò của bố.
Đinh Thúy An
Trung Quốc nhúc nhích cải tổ thêm
Phiên họp bế mạc đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần 18 tại Bắc Kinh – Ảnh: Xinhua |
“Thị trường sẽ đóng vai trò quyết định trong việc phân bố tài nguyên,”
đó là một bước nhích về phía trước, sau phiên họp bốn ngày của Trung
ương Ðảng Cộng sản Trung Quốc, kết thúc ngày hôm qua, 12 tháng 11 năm
2013. Gọi là một bước tiến, vì trước đó ngôn ngữ chính thức của Trung
Cộng chỉ coi thị trường đóng “vai trò cốt yếu.”
Từ địa vị “cốt yếu” nâng lên địa vị quyết định, nhiều nhà quan sát quốc tế thấy có một chuyển hướng; vai trò của thị trường sẽ mạnh hơn, chính quyền sẽ giảm bớt quyền can thiệp. Ðặc biệt, họ lại nhắc đến vai trò của thị trường trong việc “phân bố tài nguyên,” khiến người ta thấy sẽ có một cuộc cải tổ trong việc điều hành hệ thống ngân hàng, để cứu nguy cả nền tài chánh.
Hội nghị Trung ương Ðảng thứ ba, sau đại hội thứ 18, quyết định sẽ lập một “ủy ban” với mục đích “cải tổ sâu xa” hơn theo chiều hướng kể trên. Nhưng chưa biết việc thi hành sẽ ra sao. Hội nghị còn đưa ra quyết định thành lập một “hội đồng an ninh quốc gia,” như một cơ quan cùng tên trong chính phủ Mỹ. Xưa nay, các bộ và cơ quan lo việc an ninh, quốc phòng không nằm trong một tổ chức kiểu đó; quyết định mới này sẽ tập trung thêm quyền hành vào tay Chủ tịch Tập Cận Bình. Mặc dù ngân sách quốc phòng của Trung Quốc hiện lớn hàng thứ hai trên thế giới, chỉ thua nước Mỹ, nhưng số tiền đó còn nhỏ so với ngân sách của các cơ quan an ninh; vì mối lo trước đe dọa nội loạn cũng hiển nhiên hơn các mối lo từ bên ngoài.
Cũng vì mối lo dân chúng luôn luôn bất mãn, nếu kinh tế tiếp tục suy yếu thì bạo loạn có thể xẩy ra, cho nên Tập Cận Bình đã thuyết phục được 205 người trong Ban Chấp hành Trung Ương chấp nhận nhích một bước về phía trước. Kinh tế Trung Quốc đã giảm tốc độ tăng trưởng trong hai năm qua, hậu quả của một quyết định thay đổi đường lối, tỷ lệ gia tăng của Tổng sản lượng (GDP) chỉ còn khoảng 7.5% thay vì 9 đến 10% trước đây. Ðó là một chính sách nhằm chuyển hướng cả nền kinh tế, vì người Trung Hoa biết rằng “mô hình kinh tế” mà Bắc Kinh theo đuổi từ mươi năm nay dần dần đi đến một ngõ cụt nguy hiểm. Trước đây họ chỉ bơm tiền dự trữ của nhà nước cho chính quyền các địa phương cho các công trình xây dựng lớn, nhằm giữ những con số và một hình ảnh tốt đẹp. Ðường lối này được các cán bộ địa phương hoan nghênh; vì họ có thể trưng ra các con số chứng tỏ địa phương mình vẫn “phát triển tốt.” Mặt khác, mỗi công trình xây dựng lại là một dịp cho các quan lớn, quan nhỏ rút ruột. Ðể thực hiện chính sách này, đảng Cộng sản Trung Quốc dùng các ngân hàng do nhà nước làm chủ bơm tiền vào nền kinh tế, bằng cách cho vay với lãi suất nhẹ, mà nếu không trả lại được cũng bỏ qua. Tổng số nợ ở nước Trung Hoa đã tăng từ 125% lên tới 210% GDP từ năm 2006 đến 2012. Nhưng các món tiền cho vay đó được dùng như thế nào? Rất nhiều “thị xã ma” đã xuất hiện, gồm những ngôi nhà và cao ốc mọc lên mà không có ai mua hay thuê. Nhiều thứ hàng hóa được sản xuất được chất đống trong nhà kho, bến cảng, từ than đá, đồ chơi, cho tới các máy điện dùng trong nhà, không có người tiêu thụ.
Ðường lối đó không thể kéo dài mãi, vì các ngân hàng ngày càng nhiều nợ xấu sẽ đến lúc phá sản; và nhà nước lại phải bơm thêm tiền vào để cứu chữa. Số nợ trong các ngân hàng ở Trung Quốc đã gia tăng trong năm năm qua tới tình trạng giống hệt như ở Nhật Bản, Nam Hàn và Thái Lan trước khi các nước này bị tơi vào khủng hoảng tài chánh khiến kinh tế suy sụp. Nhà kinh tế Mao Vu Thức (Mao Yushi) ở Quảng Ðông chứng kiến cảnh chính quyền các tỉnh, huyện ngày càng mang nợ nhiều, đã nói thẳng: “Tôi cảm thấy sợ đến chết!”
Cho nên, từ năm ngoái Bắc Kinh đã giảm bớt việc đổ tiền vào những dự án đầu tư phí phạm để tránh mối lo lạm phát và sự suy sụp của cả hệ thống tài chánh. Quyết định để cho thị trường đóng vai trò quan trọng hơn trong việc phân bố tài nguyên cho thấy Bắc Kinh đã công nhận phải thay đổi.
Phân bố tài nguyên ở đây hiểu theo nghĩa giản dị nhất, là sử dụng tiền để dành của công chúng vào việc gì. Dân Trung Hoa tiết kiệm trung bình 45% số tiền họ kiếm được. Nhưng các đồng tiền đó được gửi vào ngân hàng, do nhà nước kiểm soát, chỉ mang lại một lãi suất thấp, luôn luôn thấp, lãi suất do nhà nước quyết định. Hậu quả là các ngân hàng của nhà nước thì dư tiền, tha hồ cho các xí nghiệp nhà nước đầu tư theo cách phung phí; trong khi người dân thì không đủ tiền tiêu thụ. Lý do chính yếu là nhà nước can thiệp, nắm quyền quyết định chuyển các đồng tiền của dân đẻ sử dụng vào những việc gì. Thay vì dân được dùng đồng tiền để thiêu thụ, nhà nước đã bắt dân kham khổ, chuyển tiền cho các cán bộ ngân hàng. Như bà Yuriko Koike, cựu bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản, đã nhận xét về sức mạnh kinh tế của nước láng giềng: “Có hơn một tỷ người Trung Quốc, một nửa vẫn còn sống trong cảnh cực kỳ nghèo khó.” Trong khi đó giới tư bản đỏ ngày càng thêm nhiều tỷ phú đô la.
Vì con đường phát triển theo lối đó đang đi vào ngõ cụt, cho nên đảng Cộng sản Trung Quốc mới nhích thêm một bước cải tổ kinh tế, khi họ tuyên bố “Thị trường sẽ đóng vai trò quyết định trong việc phân bố tài nguyên.” Ðây có thể là một quyết định của Tập Cận Bình nghiêng theo ý kiến của chủ tịch Ngân hàng Nhân dân, ông Chu Tiểu Xuyên (Zhou Xiaochuan), đứng đầu ngân hàng trung ương từ năm 2002.
Ðáng lẽ ông Chu Tiểu Xuyên đã mất chức này từ Tháng Ba, vì năm ngoái ông đã 65 tuổi, bị mất ghế trong Trung Ương Ðảng. Người được coi sẽ thay thế ông là Tiêu Cương (Xiao Gang), chủ tịch Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China), mới được bầu vào Trung Ương trong kỳ đại hội 18. Nhưng Tập Cận Bình vẫn giữ Chu Tiểu Xuyên ở Ngân hàng Nhân dân, vì muốn thực hiện một số cải cách mà ông Chu vẫn cổ động.
Chu Tiểu Xuyên chủ trương tăng thêm cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, và tạo cơ hội cho các ngân hàng tư nhân nhỏ xuất hiện, cũng như nhận thêm vốn đầu tư của của người ngoại quốc. Một đề nghị của ông là cho các ngân hàng tự quyết định lãi suất trả cho người gửi tiền, ki1hc thích cạnh tranh họ với nhau. Biện pháp đó cũng giúp cho người dân bình thường có thêm tiền trong túi, có thể tiêu thụ nhiều hơn; đúng chủ trương chuyển tài nguyên từ các vụ cho vay đầu tư phí phạm sang người tiêu thụ. Ông cũng đề nghị thành lập một Quỹ bảo hiểm cho Người Gửi tiền (trương chủ), giống như cơ quan FDCI ở Mỹ. Cơ quan Federal Deposit Insurance Corporation bảo đảm nếu một ngân hàng khánh tận thì nhà nước Mỹ sẽ trả lại tiền cho người có trương mục, tới mức 100,000 đô la. Hiện nay các trương chủ ở Trung Quốc gửi tiền vào ngân hàng đều không có bảo hiểm. Tất cả hệ thống chạy được vì ai cũng tin rằng chính phủ đóng vai nhà bảo hiểm, sẽ bỏ tiền cứu các ngân hàng khi khánh tận nếu không đòi được nợ. Nếu thành lập một Quỹ bảo hiểm cho Trương chủ như FDCI ở Mỹ sẽ giúp cho các ngân hàng tư và nhỏ có thế mạnh hơn. Chính các ngân hàng tư này sẽ cho các xí nghiệp tư nhân nhỏ và trung vay tiền, thay vì bao nhiêu tiền dân để dành bị các ngân hàng của nhà nước chuyển cho các xí nghiệp quốc doanh. Ðó chính là ý nghĩa của quyết định cho thị trường sẽ đóng vai trò quyết định trong việc phân bố tài nguyên. Nếu được thực hiện thì trong mười năm tới kinh tế Trung Quốc sẽ thay đổi rất nhiều. Ðó cũng là ý nghĩa của lời văn được công bố sau hội nghị, nói sẽ “tăng cường quan hệ giữa nhà nước và thị trường” với mục đích giúp nền kinh tế có hiệu quả và sản năng cao hơn.
Một điều hiển nhiên ai cũng phải biết là khi tài nguyên của cả xã hội được trao cho các cán bộ sử dụng thì không có hiệu quả bằng đưa vào tay các nhà kinh doanh tư. Thị trường hóa việc điều hòa và phân bố tài nguyên chắc chắn sẽ giúp cho cả xã hội cùng tiến bộ.
Nhưng bước tiến kinh tế mới của đảng Cộng sản Trung Quốc có thể thực hiện được hay không? Tất cả còn tùy thuộc quyền lực của Tập Cận Bình, liệu ông ta có khả năng bắt các cán bộ cấp dưới thi hành chính sách mới hay không. Từ năm ngoái, khi chính quyền Trung Quốc tuyên bố chuyển hướng nền kinh tế, nhiều chuyên gia nổi tiếng đã tỏ ý nghi ngờ hiệu quả.
Giáo sư Liêu Kim Chung (Liao Jinzhong), Ðại học Hồ Nam, đã diễn thuyết nhiều lần cho các cán bộ nghe trong Trường Ðảng ở Hồ Nam, khuyên họ không nên chỉ nghĩ đến các công trình xây dựng lớn lao, trong khi “Chúng tôi chỉ muốn thấy có một hệ thống ống cống thoát chất phế thải chạy tốt hơn!” Thành phố Trường Sa ở tỉnh Hồ Nam công bố tỷ lệ kinh tế gia tăng tới gần 13% năm ngoái, nhờ đầu tư vào nhiều công trình giao thông. Giáo sư Liêu kể rằng sau khi ngồi nghe xong, các cán bộ đều bắt tay khen ngợi ông đã can đảm, dám nói thẳng. “Nhưng chính họ lại nói rằng họ không thể thay đổi được!”
Tại sao các cán bộ Trung Cộng lại ù lì như thế? Vì hệ thống đảng khuyến khích các cán bộ làm sao báo cáo các con số cho đẹp, chứ không cần biết đến các vụ đầu tư ích lợi thiết thực do dân hay không. Ông Liêu Kim Chung giải thích: “Tất cả guồng máy chạy vì các cán bộ ai cũng chỉ lo thăng quan tiến chức mà thôi. Tôi không thấy triển vọng mọi sự sẽ sắp được thay đổi.”
Chỉ khi nào đảng Cộng sản chịu cải tổ hệ thống chính trị, thì lúc đó mới hy vọng có được một chính quyền “của dân, do dân và vì dân.”
© Ngô Nhân Dụng
Tòa án Tây Ban Nha đã ra lệnh bắt giữ cựu Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân về cáo buộc diệt chủng
Tòa án Quốc gia Tây Ban Nha đã ra lệnh bắt giữ cựu Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân và 4 quan chức khác vì nghi ngờ dính líu đến điều được cho là diệt chủng ở Tây Tạng.
|
Nguyên đơn cung cấp văn bản này là một tổ chức của Tây Ban Nha vận động cho quyền của người Tây Tạng ở Trung Quốc.
Trung Quốc chưa có bình luận gì về hành động của tòa án Tây Ban Nha. Hôm 9 tháng 10, tòa án đã truy tố cựu Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào liên quan đến vụ diệt chủng. Ðộng thái này khiến Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên án là một nỗ lực "can thiệp vào công việc nội bộ" của Bắc Kinh.
Ủy ban Hỗ trợ Tây Tạng (Comite de Apoyo Al Tibet) đã đệ đơn kiện những cựu lãnh đạo của Trung Quốc ở Tây Ban Nha vì quốc gia châu Âu này cho phép tòa án truy tố những hành vi bị cho là tội ác chiến tranh và diệt chủng xảy ra ở bất cứ nơi nào, miễn là nạn nhân là công dân Tây Ban Nha.
Một trong những đồng nguyên đơn là một tu sĩ Phật giáo người Tây Tạng giữ quốc tịch Tây Ban Nha tên Thubten Wangchen.
Các quan chức Trung Quốc khác có tên trong lệnh bắt giữ cựu Thủ tướng Lý Bằng, cựu trưởng phụ trách an ninh Kiều Thạch, cựu quan chức Đảng Cộng sản Trần Khuê Nguyên và cựu bộ trưởng kế hoạch gia đình Bành Bội Vân.
cựu Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân |
Ông Hồ từng là bí thư Đảng Cộng sản ở khu tự trị Tây Tạng từ năm 1988-1992 và sau đó đứng đầu nhà nước Trung Quốc từ năm 2003-2013 .
Tây Tạng được đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền cộng sản Trung Quốc ở Bắc Kinh từ năm 1950.
Nhiều người Tây Tạng tố cáo chính phủ Trung Quốc đàn áp tôn giáo và văn hóa của họ. Trung Quốc nói rằng người Tây Tạng được hưởng quyền tự do tín ngưỡng và mức sống tốt hơn nhờ đầu tư của Trung Quốc ở khu vực Tây Tạng kém phát triển.
Theo VOA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét