Tướng Giáp - người phản đối chiến tranh
Võ Nguyên Giáp thực sự là một con người phi thường. Đáng chú ý nhất, ông là kiến trúc sư trong chiến thắng của Việt Minh trước quân Pháp ở Điện Biên Phủ vào mùa xuân năm 1954.
|
Nhưng ông Giáp vẫn bị hiểu lầm ở phương Tây. Có lẽ huyền thoại vĩ đại nhất xung quanh con người của ông là ông tiếp tục chỉ đạo cuộc chiến tranh của cộng sản chống lại Hoa Kỳ và đồng minh Nam Việt Nam sau năm 1965. Thực tế là ông Giáp không có vai trò quan trọng trong việc định hình chiến lược chiến tranh của cộng sản sau năm 1965, và ông còn thực sự phản đối cuộc chiến ngay từ đầu.
Sau khi ký kết hiệp định Geneva vào tháng Bảy 1954, ông Giáp và Hồ Chí Minh chỉ đạo những người đi theo họ ở cả hai miền của Việt Nam chấm dứt chiến đấu, tập kết ở miền Bắc nếu họ khi đó là chiến binh ở khu vực phía dưới vĩ tuyến 17, và tin tưởng vào việc thống nhất hòa bình của đất nước trong vòng hai năm, sau khi một cuộc tổng tuyển cử bắt buộc theo hiệp định Geneva được tiến hành.
Ông Giáp vẫn bị hiểu lầm ở phương Tây.
Có lẽ huyền thoại vĩ đại nhất xung quanh con người của ông là ông tiếp
tục chỉ đạo cuộc chiến tranh của cộng sản chống lại Hoa Kỳ và đồng minh
Nam Việt Nam sau năm 1965. "
|
Hiệp định được ông Hồ và Giáp tin tưởng là khả thi. Bên cạnh đó, từ chối hòa bình và nối lại chiến tranh ngay lập tức có thể kích thích sự can thiệp quân sự của Mỹ. Sau tám năm dài chiến đấu, các lực lượng quân sự dưới sự chỉ huy của họ không có điều kiện để nghênh chiến ngay với quân đội Mỹ, cả về vật chất lẫn tinh thần. Điện Biên Phủ là một chiến thắng ngoạn mục, nhưng đó cũng là một chiến thắng với giá quá đắt khi tổn phí nhân lực và vật chất của chiến dịch là quá đáng.
Do đó, sau năm 1954 và tiếp tục vượt ra ngoài thời hạn tiến hành cuộc tổng tuyển cử quốc gia về thống nhất đất nước mà chúng ta đều biết là không bao giờ diễn ra, ông Hồ và Giáp là những người ủng hộ nhiệt thành của "đấu tranh hòa bình" ở miền Nam, tránh khiêu khích Washington, và "xây dựng chủ nghĩa xã hội" ở miền Bắc.
Trong thời gian này, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành một nỗ lực đầy tham vọng và tốn kém để hiện đại hóa và sắp xếp lực lượng vũ trang của miền Bắc, Quân đội Nhân dân Việt Nam, và động viên hàng chục ngàn binh lính nhập ngũ phục vụ mục đích đó. Cam kết của lãnh đạo Liên Xô, Nikita Khrushchev "chung sống hoà bình" với những kẻ thù tư bản phương Tây bắt đầu vào năm 1956 chỉ càng xác nhận quan điểm của hai ông Hồ và Giáp chống lại việc tái mở chiến tranh ở Việt Nam.
Quyết định đình lại "cuộc đấu tranh giải phóng" trong năm 1954 và việc không thể nối lại chiến tranh ngay lập tức vào sau năm 1956 đã không được lòng của một số nhà lãnh đạo cộng sản ở miền Nam.
'Rạn nứt hai phe'
|
Đường lối của họ và sự chống đối của ông Hồ và Giáp tạo ra rạn nứt trong giới lãnh đạo. Cuộc rạn nứt này đã phân ra một bên là phe "ôn hòa", bao gồm ông Hồ, Giáp, và các đệ tử của họ - những người phản đối nối lại chiến tranh ít nhất vào thời điểm đó, và bên kia là phe "chủ chiến", bao gồm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh - những người cho rằng việc "giải phóng" miền Nam là không thể chờ đợi.
Cuộc tranh cãi tại Hà Nội lên đến đỉnh điểm vào cuối năm 1963, sau khi Tổng thống miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Cảm thấy đây là thời gian tốt hơn bao giờ hết để nam tiến mạnh mẽ, phe chủ chiến đã tổ chức một cuộc đảo chính tại Hà Nội, thâu tóm việc kiểm soát ra quyết định.
Các ông Hồ, Giáp và những người ôn hòa khác đã bị gạt ra ngoài lề sau đó, và Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng đã đảm nhận việc cầm cương của quá trình hoạch định chính sách tại Hà Nội. Với sự thúc giục của Lê Duẩn, vào tháng 12/1963, ban lãnh đạo cộng sản ban hành Nghị quyết 9 kêu gọi tiêu diệt quân thù ở miền Nam và khởi đầu một “cuộc chiến tranh lớn" để "giải phóng" khu vực phía dưới vĩ tuyến 17.
Vào thời gian cuộc chiến chống người Mỹ nổ ra vào năm 1965, Võ Nguyên Giáp đóng một vai trò chủ yếu mang tính nghi lễ ở miền Bắc.
Cũng giống như Hồ Chí Minh, ông trở
thành một khuôn mặt của các nỗ lực chiến tranh chống Mỹ, một công cụ
tiếp thị, cho một phe cánh trong Đảng, những người thiếu danh tiếng, uy
tín và tính hấp dẫn trên trường quốc tế."
|
Cũng giống như Hồ Chí Minh, ông trở thành một khuôn mặt của các nỗ lực chiến tranh chống Mỹ, một công cụ tiếp thị, cho một phe cánh trong Đảng, những người thiếu danh tiếng, uy tín và tính hấp dẫn trên trường quốc tế.
Cuộc "tổng công kích" năm 1968 không liên can gì tới tướng Giáp. Trên thực tế, Giáp chống lại chủ trương này. Cuộc công kích là đứa con tinh thần của Lê Duẩn. Hơn ông Hồ và chắc chắn là hơn hẳn ông Giáp, Lê Duẩn là người chịu trách nhiệm tại Hà Nội về cuộc chiến tranh chống lại Mỹ. Với ý nghĩa này, ông là kiến trúc sư "thực sự" trong chiến thắng của quân đội cộng sản vào năm 1975.
Chiến thắng của Lê Duẩn trước người Mỹ và các đồng minh của họ vào năm 1975 chắc chắn "toàn diện" hơn chiến thắng của tướng Giáp với người Pháp vào năm 1954, nhưng nó cũng tốn kém hơn. Ông Giáp không có công trạng gì với kết quả cuộc chiến chống Hoa Kỳ cũng như ông cũng không đáng bị đổ lỗi cho những tổn thất trong chiến thắng cuối cùng của Hà Nội.
Với giai đoạn sau năm 1954, ông Giáp nên được nhớ đến như một người phản đối cuộc chiến Việt Nam.
TS. Pierre Asselin
Tác giả là người đang là Phó Giáo sư Lịch sử thuộc Đại học Hawaii Pacific, Hoa Kỳ
Theo BBC
Khi kinh tế nhà nước 'thay tên tráo họ'
Khi không thể biện minh bằng tính ưu việt và phi thị trường của các DNNN
sau các scandal như Vinashin, Vinalines..., người ta lại gán cho "kinh
tế nhà nước" nghĩa mới.
Từ khi Hiến pháp năm1959 hiến định "vai trò chủ đạo" của kinh tế quốc
doanh (về sau đổi thành kinh tế nhà nước - KTNN) đến nay, tuy chưa có
một định nghĩa pháp lý nào về KTNN, nhưng người dân luôn hiểu khái niệm
này khi đặt bên cạnh khái niệm kinh tế tư nhân (KTTN).
Theo cách hiểu lâu nay, những hoạt động nhà nước sử dụng các công cụ
điều tiết nền kinh tế như thuế, lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước,
các quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm, quỹ bình ổn giá, quỹ trả nợ nước ngoài...
mà không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận thì không được hiểu là KTNN.
Vì vậy những thiết chế này đứng độc lập, không mang ra so sánh, đặt cạnh
kinh tế tư nhân.
Khi đặt thành phần KTNN bên cạnh thành phần KTTN, người dân hiểu rằng
KTNN chỉ bao gồm các thiết chế hoạt động hoạch toán theo quy chế của một
doanh nghiệp, mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức khác
mà nhà nước góp vốn nhằm mục đích kinh doanh. Các báo cáo hay thống kê
sự đóng góp của các thành phần kinh tế tại Việt Nam cũng dựa vào cách
hiểu đó.
Tuy nhiên, cách hiểu này, gần đây đang bị thay đổi.
Trước sự bê bối của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong hai thập niên
vừa qua, cũng như trước áp lực phải tuân theo luật chơi chung của các
điều ước quốc tế mà VN là thành viên, có nhiều ý kiến cho rằng, Hiến
pháp không nên quy định vai trò chủ đạo cho bất kỳ thành phần kinh tế
nào. Thay vào đó, hãy để sức mạnh tự nhiên của mỗi thành phần kinh tế
xác lập vị trí của mình trong thị trường.
Các vụ scandal lâu nay như Vinashin, Vinalines... đã được mổ xẻ kỹ càng |
Ý kiến này, đụng chạm đến các nhóm lợi ích, vốn đang được hưởng các ưu
tiên, ưu đãi dành riêng cho DNNN và ngay lập tức nhận được phản ứng.
Khi không thể biện minh bằng tính ưu việt và phi thị trường của các DNNN
với các vụ scandal vốn đã được mổ xẻ kỹ càng lâu nay như Vinashin,
Vinalines..., người ta lại gán cho "kinh tế nhà nước" nghĩa mới, không
có trong cách hiểu truyền thống.
Theo cách hiểu mới này, người ta đánh đồng DNNN (với chức năng kinh
doanh) với các thiết chế điều tiết nền kinh tế của nhà nước (không có
nhiệm vụ tạo ra lợi nhuận), các quỹ... có nguồn gốc từ ngân sách của nhà
nước.
Rõ ràng, các thiết chế điều tiết nền kinh tế sử dụng công cụ là quyền
lực nhà nước, bao gồm quyền lực hành chính, chứ không dùng sức mạnh tự
nhiên của thị trường để tác động vào nền kinh tế, nên ở đâu trên thế
giới nó cũng đóng vai trò "chủ đạo" (theo nghĩa điều phối). Nhưng không
ai đặt nó bên cạnh kinh tế tư nhân và dĩ nhiên không đặt ra vấn đề liệu
nó có cạnh tranh bình đẳng với thành phần kinh tế tư nhân hay không.
Tìm cách duy trì đặc quyền cho DNNN, đã xuất hiện một số quan điểm gần
đây gộp sự bê bối của một số DNNN và sự cần thiết của các công cụ điều
tiết nền kinh tế vào chung trong một khái niệm mới "kinh tế nhà nước",
để chứng minh sự cần thiết của "vai trò chủ đạo". Cách "bẻ lái" và thay
đổi như vậy đã làm người đọc suy nghĩ: có vẻ như, người ta coi trọng tài
cũng là một cầu thủ trong sân bóng?
Nếu muốn duy trì "kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo", cần xác định
rõ ngay từ trong Hiến pháp: Kinh tế nhà nước bao gồm những thiết chế
nào? Chủ đạo là điều phối, hay sở hữu lớn nhất, hay đóng góp GDP và lợi
nhuận lớn nhất? Và đặc biệt cần làm rõ câu chuyện: khi trong một sân
chơi, đã có một thành phần được ưu tiên chủ đạo thì làm cách nào để duy
trì bình đẳng?
TS. Võ Trí Hảo(Tuần VN)
Những đám đông Việt Nam
Đám đông tự phát
Chiếc xe tải xám xịt của cảnh sát âm thầm luồn lách qua các ngả đường
đông đúc. Trên xe là thi hài hai mẹ con sản phụ - cái chết thường thấy ở
Việt Nam do tắc trách của giới bác sĩ.
Không khí bất chợt nhốn nháo. Người nhà nạn nhân và những người dân bên
đường đã phát hiện ra chiếc xe. Họ hò hét và xô đẩy nhau leo lên thùng
xe. Viên cảnh sát lái xe bị ép phải đi với tốc độ chậm và theo những
tuyến đường do người dân chỉ định. Giao thông tắc nghẽn. Người đi đường
kinh ngạc. Một số chạy theo xe cảnh sát. Chẳng mấy chốc, đám đông lên
tới hàng ngàn người. Cuộc diễu hành quan tài bắt đầu…
Câu chuyện trên mới xảy ra ở Thanh Hóa vào tháng 10/2013. Trong một cơn
thịnh nộ có nguyên do và cả không rõ nguyên cớ, đám đông hộ tống xe cảnh
sát đến trước nhà người bác sĩ liên quan trực tiếp đến cái chết của hai
mẹ con sản phụ. Tại đây, những người phẫn nộ nhất đã la hét và đập phá,
trong khi bác sĩ và vợ con phải trốn về quê…
Nhiều đám đông ở Việt Nam đang hình thành theo cái cách như thế. Vô số
chuyện bất công trong xã hội lại là đầu đề cho những cuộc tụ tập đông
người mà các cơ quan pháp luật rất dè chừng. Tụ tập đông người lại sinh
ra manh mối để dẫn đến những cuộc biểu tình mà chính quyền luôn lo sợ.
Thỉnh thoảng lại xảy ra một phản ứng đông người nhắm vào ngành y tế -
nơi mặt bằng y đức đang trở nên thê thảm. Cách đây không lâu, cái chết
của một cô gái ở Cà Mau đã khiến hàng trăm người bao vây bệnh viện và
nhà bác sĩ. Cuộc bao vây nhanh chóng biến thành đợt tấn công tài sản và
đòi tự mình trừng phạt lối hành xử vô trách nhiệm của giới “lương y như
từ mẫu”. Khi lực lượng cảnh sát có phiên hiệu là 113 đến can thiệp,
những người bức xúc nhất trong đám đông dân chúng còn tấn công luôn cả
các nhân viên thi hành công vụ.
Những vấn nạn ngày càng dồn dập trong xã hội đã đóng góp vai trò hết sức
tích cực trong cơ chế xóa nhòa tình yêu thương giữa con người với con
người. Thay vì sự chia sẻ và đồng điệu như tâm cảm của tôn giáo, xã hội
Việt Nam đã phân tầng một cách sâu sắc, đặc biệt giữa giới cầm quyền cai
trị, những nhóm lợi ích tham lam với giới bị trị và người nghèo.
Một trong những dấu ấn không thể chìm lắng trong mối quan hệ không bằng
lặng giữa hai giới trên là cuộc biểu tình quan tài ở Vĩnh Yên vào giữa
năm 2013. Cái chết đột ngột của một thanh niên, bị người dân nghi ngờ
gây ra bởi người nhà của một quan chức có tầm cỡ của địa phương này, đã
làm bùng nổ không khí phẫn nộ chưa từng thấy nơi thị xã yên tĩnh. Có đến
hàng ngàn người hoặc hơn thế khiêng quan tài kẻ xấu số dọc theo trên
các tuyến đường, bất chấp hàng rào ngăn cản của lực lượng cảnh sát cơ
động và chống bạo loạn.
Trong khi pháp y chỉ kết luận là nạn nhân chết đuối, đám đông biểu tình
đòi phải làm rõ nguyên nhân cái chết và trừng trị kẻ thủ ác. Chỉ đến khi
đó, một cuộc điều tra nội bộ mới được khởi sự. Kết quả của cuộc điều
tra này đã cho thấy mối nghi ngờ của người nhà nạn nhân và dư luận là
không hề sai.
Đám đông định hướng
Đám đông không chỉ sinh ra từ những cái chết y tế hoặc do mâu thuẫn xã
hội. Giải tỏa đất đai và an sinh hậu giải tỏa mới là tiêu điểm tập trung
đông người dân nhất.
Ban đầu, đó là những người dân thuần túy kéo đi khiếu nại và tố cáo về
chính sách đền bù đất không thỏa đáng, về những hành vi ăn chặn tiền đền
bù của cán bộ địa phương và những thứ vô cảm khác. Nhưng khi đã chính
thức trở thành dân oan, những người khiếu kiện đã tạo nên một trong
những tiền lệ cho luật biểu tình vẫn nằm trong vòng oan ức ở Việt Nam.
Không hẹn mà gặp, các dân oan đất đai rất thường tập trung tại những trụ
sở công quyền ở Hà Nội và Sài Gòn. Thậm chí, đám đông được tổ chức ngày
càng bài bản còn nghĩ ra một phương cách tranh đấu sáng tạo hơn: trận
chiến binh chủng hợp thành được biến thái bằng sức mạnh được biểu thị
tại tòa đại sứ và lãnh sự quán Hoa Kỳ.
Dĩ nhiên, lớp dân oan khiếu kiện đất đai đã tạo cảm hứng và không ít kinh nghiệm trận mạc cho những người bất đồng chính kiến.
Sau cao trào khiếu tố đất đai bùng nổ vào những năm 2007-2008, đến năm
2011, một đám đông khác mang màu sắc chính trị đối ngoại đã bùng lên ở
Hà Nội và một phần ở Sài Gòn. Trong hai tháng giữa năm đó, có đến 11
cuộc biểu tình liên tiếp diễn ra với chủ đề chống sự can thiệp của Bắc
Kinh vào khu vực biển Đông. Tuy con số ban đầu chỉ chưa đến một trăm
người, song sau đó đã được nâng lên đến nửa ngàn người, bao gồm các độ
tuổi khác biệt và cả thành phần khác nhau.
Sự biến đổi sắc thái chính trị mới là điều làm cho nhà cầm quyền lo sợ
nhất. Một đám đông tụ tập thông thường về những chuyện bức xúc xã hội có
thể được xử lý nhanh chóng bằng vào “công tác nghiệp vụ”. Song phản ứng
và cao hơn nữa là phản kháng về chính trị thì không dễ gì dập xóa được.
Đó cũng chính là lý do sau khi lắng đọng vào cuối năm 2011, đến đầu năm
2012 đám đông chính trị lại một lần nữa bùng lên cùng với sự kiện Đoàn
Văn Vươn chống cưỡng chế thu hồi đất ở Hải Phòng.
Đến lúc lúc này, đám đông đã mang một sắc thái mới: kết hợp giữa nạn
nhân chịu bất công, những người hoạt động xã hội với những người muốn
giương cao ngọn cờ về tư tưởng chính trị. Ngay cả báo chí trong nước
cũng hết sức nhiệt tình tham gia và trở thành một đám đông rất đặc biệt:
2.000 bài viết về vụ Đoàn Văn Vươn đã ghi dấu như một kỷ lục về sự bất
mãn đối với thái độ vô cảm và đặc lợi của chính quyền địa phương nói
riêng và sâu xa hơn là với chính quyền trung ương.
Cũng trong năm 2012, giới quan sát ghi nhận sự kết nối vừa tự nhiên vừa
khá bài bản, như một sự đồng cảm giữa các dân oan đi đòi đất với những
người hoạt động chính trị và cả với các tín đồ tôn giáo. Đám đông ở Việt
Nam cũng vì thế đã được nhân lên khá nhiều lần. Những cuộc tụ tập đông
người không chỉ là vài chục như trước đây, mà có thể lên đến vài trăm
người.
Đó cũng là lúc mà xã hội dân sự - điều bị giới tuyên giáo đảng xem là “thủ đoạn của diễn biến hòa bình” - đã manh nha bộc phát.
Nếu cuộc biểu tình đòi trả tự do cho nữ sinh viên Phương Uyên tại tòa án
Long An vào tháng 8/2013 quy tụ đến hàng trăm người thuộc các thành
phần chính trị mà nhà nước không hề ưa thích, thì vụ xét xử luật sư công
giáo Lê Quốc Quân ở Hà Nội vào đầu tháng 10/2013 đã tập hợp đến hàng
ngàn giáo dân, biểu thị sức mạnh đòi trả tự do cho giáo hữu của họ.
Vượt qua sợ hãi
Hãy trở lại với những đám đông lên đến hàng ngàn người ở Vĩnh Yên và
Thanh Hóa. Trong đám đông đó, người nhà nạn nhân tất nhiên chỉ chiếm một
phần rất nhỏ. Số đông còn lại, tất nhiên là những kẻ tỏ mò, a dua hoặc
quá khích dưới con mắt luôn thiếu thiện cảm của chính quyền.
Song những đoạn video lại cho thấy phần lớn người dân diễu hành một cách
ôn hòa trên các đường phố không đơn thuần vì lý do ham vui. Một cuộc
phỏng vấn bỏ túi do nhóm “phóng viên vỉa hè” thực hiện đã cho thấy nhiều
người dân tự nguyện tham gia vào đám đông bởi họ mang tâm tư liên đới
với những vấn nạn và bất công xã hội nhan nhản hàng ngày và ở khắp mọi
nơi. Cũng trong nhận thức nhiều người dân, tụ tập dù chỉ trong im lặng
vẫn thể hiện cho tinh thần đồng cảm giữa những người chung cảnh ngộ để
cùng hướng đến một lối thoát nào đó.
Tâm lý sợ sệt đã dần được thay thế bởi lòng can đảm, dù chỉ là sự can
đảm nhất thời và đôi khi vô thức. Trong cách nhìn của nhiều người dân,
cảnh sát chỉ có thể ngăn chặn được một ít người tụ tập, còn với đám đông
lớn hơn hẳn thì lại là một vấn đề khác hẳn.
Đơn giản là những người đi đường đã chuyển từ thái độ tò mò quan sát
sang hành động hòa vào đám đông, đi theo đám đông, đồng cảm với không
khí của đám đông về những uẩn ức tích tụ trong lòng quá lâu mà không thể
phát ra.
Đó chính là cách mà người dân biểu thị thái độ bức xúc và bất mãn, biểu
thị tinh thần phản đối và phản kháng đối với chính quyền.
Hiệu ứng đám đông được tạo ra từ đó. Nếu các cuộc bàn thảo bất tận của
giới trí thức vẫn chủ yếu xoay quanh bàn trà, bàn rượu mà ít khi bước
chân ra đường phố, thì với những người dân ít học thức hơn, câu chuyện
lại giản dị hơn nhiều. Hiện thời ở nhiều đô thị miền Bắc, chỉ cần xảy ra
một vụ việc nào đó với mâu thuẫn giữa quan chức nhà nước và nhân dân,
lập tức đám đông dễ dàng xuất hiện. Những va chạm giữa cảnh sát giao
thông với người đi đường là minh họa rất điển hình cho sự xuất hiện đột
biến ấy.
Hình ảnh tụ tập và mang tính kết nối giữa một số người đầu tiên đã khích
lệ nhiều người đến sau tham dự vào đám đông mà không còn sợ bị sách
nhiễu hoặc bắt bớ. Ở Bắc Giang, khi hai người dân bị cảnh sát bắt vì
nghi đã đánh đến chết những kẻ trộm chó, có đến 800 người dân trong xã
đồng ký đơn “nhận tội”. Thật rõ ràng, người ta đã nhìn thấy một mối kết
đoàn nào đó giữa đồng loại và không còn quá sợ sự trả thù của chính
quyền.
Đám đông vĩ đại
Tháng 10/2013. Một đám đông khác của dân chúng, lên đến hàng chục ngàn ở
Hà Nội và hàng trăm ngàn người ở các địa phương, đã làm nên sự vĩ đại
bên sự ra đi vĩnh hằng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Cho tới nay, nhiều ý kiến trong giới quan sát và bình luận vẫn ngạc
nhiên tự hỏi là tại sao lại có cả một rừng người thành kính đến như thế
đối với người được xem là có uy tín xã hội chỉ sau Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Họ thành kính thật sự hay còn vì nguyên do nào khác?
Xã hội Việt Nam đang xảy ra một hiện tượng tâm lý chưa từng có: trong
quá nhiều thất vọng về đảng và nhà nước, người dân tự tìm đến với nhau
để nương tựa vào một niềm tin còn sót lại, dù rằng niềm tin ấy đã chết.
Có lẽ đó cũng là một lý do vì sao tang lễ của tướng Giáp lại có nhiều
người viếng đến thế. Đó không chỉ là tình cảm của dân chúng đối với
người được xem là biểu tượng hiếm hoi bởi sự trung trinh về chữ Tâm và
chữ Hiếu đối với nhân dân và dân tộc, mà còn là sự đồng quyện tự nhiên
trong tâm khảm những người đến viếng. Ở đó, trước linh cữu người đã
khuất, rừng người còn sống tìm thấy một không khí đồng cảm và sợi dây vô
hình gắn bó họ với nhau, khác hẳn với tình trạng băng hoại đạo đức xã
hội chỉ cách nhà tang lễ vài trăm thước.
Và cũng ở đó, rừng người đến viếng còn muốn biểu thị thái độ coi thường
và khinh bỉ đối với lớp quan chức hậu bối - những kẻ mang thân tội ghê
gớm khi đã đẩy đất nước vào thảm cảnh tê liệt đạo đức và kinh tế như
ngày hôm nay.
Rất nhiều người dân muốn bày tỏ cái tôi trung trinh của họ: Chỉ khóc cho
người vì dân vì nước; còn với cái chết của những kẻ vô tích sự và “ăn
của dân không chừa thứ gì” - như cụm từ tán thán của bà phó chủ tịch
nước Nguyễn Thị Doan, đó lại là tiếng reo mừng đến nghẹt thở.
Lòng khinh bỉ lại có thể biến thành nỗi phẫn uất không thể kềm chế. Nếu
cứ nhìn vào cái cách mà hàng chục ngàn tín đồ công giáo ở Nghệ An và
hàng triệu giáo hữu ở nhiều vùng trên cả nước biểu thị tinh thần phản
kháng đối với chính quyền trong và sau vụ Mỹ Yên vào tháng 9/2013, có
thể thấy ngay là phẫn uất có thể biến thành hành động phản kháng vào một
thời điểm nào đó không xa, đặc biệt trong hoàn cảnh sự ứng phó của
chính quyền và lực lượng cảnh sát không đủ “kềm chế”. Khi đó, đám đông
hoàn toàn có thể biến thành một lực lượng tự phát và có thể tạo ra những
phản ứng không lường trước đối với các chính quyền địa phương.
Ở Tunisia vào năm 2010, sau vụ tự thiêu do quá phẫn uất của một người
bán hoa quả, điều đáng ngạc nhiên là đám đông đã chỉ được hình thành bởi
sự lan truyền thông tin của các em bé. Trẻ con lại dẫn đến mối quan tâm
của người lớn. Vào cuối ngày đầu tiên, thay vì về nhà theo thói quen,
nhiều người lớn đã chuyển sang một thói quen mới: tập hợp với nhau, giữa
những người không quen biết, để đòi tổng thống phải từ chức.
Khi đám đông đã lên đến hàng triệu người, toàn bộ lực lượng cảnh sát trở
nên bất động. Còn quân đội thường giữ thái độ trung lập.
Như một quy luật, xã hội càng nhiễu nhương và hỗn loạn, giới quan chức
đảng và chính quyền càng ra sức trục lợi và cưỡng bức người dân, đám
đông dân chúng càng có lý do để bạo dạn hơn và liều lĩnh hơn. Tâm lý sợ
hãi cũng vì thế được chuyển hóa từ thận trọng sang giễu cợt, cho đến khi
bùng vượt qua ranh giới kìm nén.
Kịch bản xã hội - chính trị như thế có rất nhiều triển vọng sẽ diễn ra, vào những năm tới.
Ở Việt Nam.
Ngay tại Hà Nội.
Phạm Chí Dũng
28.10.2013
* Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng
tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập
trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết bị tố cáo nhiều sai phạm mới
Báo
Người cao tuổi vừa nhận được đơn tố cáo và đề nghị của cán bộ nhân viên
báo Đại Đoàn Kết và những người đang bị trả thù buộc thôi việc (vì đã tố
cáo) liên quan đến các sai phạm của Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết.
Dưới đây là những nội dung tố cáo mới đối với Ban biên tập báo Đại Đoàn
Kết được gửi tới: Ông Nguyễn Thiện Nhân (Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Đảng đoàn, Chủ tịch UBTWMTTQVN); ông Lê Bá Trình (Phó Chủ tịch phụ trách
khối báo và tạp chí UBTWMTTQVN); Đảng đoàn, Đảng ủy, Ban Thường trực,
Ủy Ban kiểm tra Đảng ủy… Báo Người cao tuổi trân trọng chuyển đơn tới Ủy
Ban trung ương MTTQ Việt Nam giải quyết theo thẩm quyền.
Nội dung tố cáo thứ nhất: Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết “Vô tổ chức, vô kỉ luật, có hành vi chống lại Kết luận và quy định của Đảng”. Đó là việc cố tình xuyên tạc Kết luận số 43 KL/MTTW – ĐĐ ngày 8/1/2013 của Đảng đoàn để kỉ luật buộc thôi việc những người tố cáo. Căn cứ Hướng dẫn 35-HD/ĐĐMTTQVN của Đảng đoàn MTTQ Việt Nam về việc phân cấp quản lí đánh giá và bổ nhiệm cán bộ; căn cứ Thông báo Kết luận của Đảng đoàn MTTQ Việt Nam tại cuộc họp thường kì tháng 6/2013 số 41/TB-MTTW-ĐĐ ngày 8/7/2013 thì Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết đã tự ý cố tình kỉ luật những người tố cáo (Nguyễn Mạnh Thắng, Bùi Hữu Phước, Đặng Thị Kim Ngân) mà không báo cáo Đảng đoàn và Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam. Những người tố cáo đề nghị xử lí kỉ luật ông Đinh Đức Lập và ông Nguyễn Quốc Khánh theo Điểm a, Khoản 3 Điều 7 Quy định xử lí kỉ luật Đảng viên vi phạm số: 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương ngày 30/3/2013. Theo đó, hình thức kỉ luật dành cho sai phạm của ông Lập và ông Khánh là Khai trừ Đảng.
Nội dung tố cáo thứ hai: “Tổ chức trả thù người tố cáo”. Đến nay, Ủy Ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan TW MTTQ Việt Nam mới đang xem xét, xử lí kỉ luật Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết theo Công văn số 336/CAHM ngày 28/5/2013 của Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàng Mai về việc thiếu trách nhiệm quản lí dẫn tới tình trạng thụt két, chiếm dụng vốn trong dự án xây dựng nhà ở cho cán bộ công nhân viên báo Đại Đoàn Kết. Thế nhưng, từ 8/4/2013, Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết đã tiến hành kỉ luật những người tố cáo. Đã từng bị kỉ luật Khiển trách nhưng ông Lập không chịu sửa chữa khuyết điểm, còn cố tình tiếp tục sai phạm nên đối chiếu với quy định của Đảng, người tố cáo kiến nghị xử lí kỉ luật ông Lập và ông Khánh theo tình tiết tăng nặng theo Điểm C, Điểm I Khoản 12 Điều 3 và Điểm C Khoản 2 Điều 7 Quy định xử lí kỉ luật đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật dành cho sai phạm này của ông Lập và ông Khánh là Cảnh cáo Đảng, Cách chức Tổng biên tập và Phó Tổng biên tập.
Nội dung tố cáo thứ 3: “Thiếu trách nhiệm trong quản lí dẫn tới tình trạng để cán bộ dưới quyền thụt két chiếm dụng vốn trong dự án xây dựng nhà ở cho cán bộ công nhân viên báo Đại Đoàn Kết”. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan UBTWMTTQ Việt Nam đã nhận được Công văn số 336/CAHM ngày 28/5/2013 của Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàng Mai. Kết luận của công văn nêu: “Trong việc thu – chi quản lí tiền quỹ dự án Ban hỗ trợ dự án báo Đại Đoàn Kết đã không công khai cho những người góp vốn đầu tư biết việc quản lí số tiền đã thu nhưng chưa nộp về chủ đầu tư là Công ty kinh doanh phát triển nhà Hà Nội, tự ý phân chia nhau quản lí tiền quỹ. Thủ trưởng cơ quan báo cũng thiếu kiểm tra trong quá trình tổ chức thực hiện dự án”. Và: “Việc phân chia quản lí không có phiếu chi, không có giấy tờ biên nhận”.
Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an Hoàng Mai kiến nghị: “Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam kiểm tra, kiểm điểm trách nhiệm và có hình thức xử lí đối với các sai phạm của cán bộ Ban Hỗ trợ dự án báo Đại Đoàn Kết và Ban biên tập trong khâu tổ chức quản lí thực hiện dự án”. Người tố cáo đề nghị xử lí kỉ luật Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết theo Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 15 Quy định xử lí kỉ luật đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật là Khiển trách. Trong đơn, cán bộ báo Đại Đoàn Kết đề nghị lãnh đạo MTTQVN yêu cầu Ban Biên tập và Ban Hỗ trợ dự án báo Đại Đoàn Kết có trách nhiệm bồi thường tiền lãi từ số tiền hàng chục tỉ đồng đã chiếm dụng từ năm 2010 đến nay.
Nội dung tố cáo thứ 4: “Đăng bài xuyên tạc sự thật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lãnh đạo và Ban Thường trực Ủy Ban trung ương MTTQ Việt Nam”.
Sự thật là Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam không kiến nghị xây dựng Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu.
Thế nhưng, Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết lại xuyên tạc sự thật, cho đăng bài lên báo mạng ngày 12/10/2013 vu khống cho ông Vũ Trọng Kim, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí UBTWMTTQ Việt Nam trả lời phỏng vấn phóng viên báo Đại Đoàn Kết là: “Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam kiến nghị: Cần xây dựng Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu”.
Trên số 286 ra ngày 13/10/2013 báo Đại Đoàn Kết tiếp tục xuyên tạc sự thật khi đăng bài: “Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam kiến nghị: Xây dựng Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu”.
Mặc dù số 288 ngày 15/10/2013 Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết có cho đăng đính chính nhưng rất ngắn, không đúng quy định cải chính theo Luật Báo chí và vẫn cố tình xuyên tạc thêm thông tin thành “Thực tế đó mới chỉ là dự thảo”. Và cố tình không đăng cải chính này lên trang tin điện tử báo Đại Đoàn Kết.
Việc cố tình gây ảnh hưởng xấu đến uy tín lãnh đạo, Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam của Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết còn thể hiện: Cùng trên số báo đính chính lại cho đăng bài hoành tráng ở trang Nhất: “Bảo tàng Đại tướng sẽ tỏa sáng”. Tiếp đến số 290 ra ngày 17/10/2013 Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết còn cố tình đăng thông tin về việc kiến nghị Đảng, Nhà nước quy hoạch ngôi nhà 30 Hoàng Diệu làm Bảo tàng Võ Nguyên Giáp vào nội dung buổi làm việc của Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam với Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Bài viết không cho đăng ý kiến của Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân (người chủ trì cuộc làm việc) về việc này. Điều đó khiến người đọc coi như Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân và Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam chủ trương và đã đồng tình kiến nghị việc xây dựng Bảo tàng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại 30 Hoàng Diệu.
Việc xuyên tạc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam của Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết trong bài viết “Trách nhiệm” và lợi dụng chức vụ quyền hạn, lạm dụng trang báo Đại Đoàn Kết để đánh bóng bản thân như Kết luận số 43 KL/MTTW – ĐĐ nêu không hề được ông Lập, ông Khánh rút kinh nghiệm. Vì vậy, người tố cáo đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng để kỉ luật ông Lập, ông Khánh theo Điểm a, điểm e Khoản 2 Điều 9 Quy định xử lí kỉ luật Đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật là Cảnh cáo Đảng, Cách chức Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập.
Nội dung tố cáo thứ 5: “Bao che cho hành vi tiếp nhận, sử dụng, lưu giữ giấy chứng nhận không hợp pháp của Trưởng Ban Chuyên đề Nguyễn Thị Cẩm Thúy, trả thù người tố cáo”.
Báo cáo số 05-BC/UBKT – ĐU ngày 12/11/2012 của Tổ Kiểm tra Ủy Ban Kiểm tra Đảng ủy UBTWMTTQ Việt Nam sau khi xác minh nội dung đơn tố cáo đã thừa nhận việc bà Nguyễn Thị Cẩm Thúy không đi học lớp Bồi dưỡng của Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh nhưng lại có giấy chứng nhận. Báo cáo 05-BC/UBKT-ĐU kiến nghị Chi bộ, Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết kiểm điểm Nguyễn Thị Cẩm Thúy vì hành vi “Thiếu thận trọng trong việc tiếp nhận và lưu giữ giấy chứng nhận không hợp pháp, tạo dư luận không tốt, gây hoài nghi trong cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng đến uy tín của Tổng biên tập và Ban Biên tập”.
Thế nhưng, thay vì xử lí, kỉ luật đảng viên, Trưởng ban chuyên đề Nguyễn Thị Cẩm Thúy vì hành vi này, Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết lại bao che và trả thù kỉ luật Buộc thôi việc người tố cáo.
Những người tố cáo đề nghị xử lí kỉ luật đảng viên, Trưởng ban chuyên đề Nguyễn Thị Cẩm Thúy theo Điểm a Khoản 1 Điều 21 Quy định xử lí kỉ luật Đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật là Khiển trách. Người tố cáo đề nghị xử lí kỉ luật Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết theo Điểm b Khoản 3 Điều 21 Quy định xử lí kỉ luật Đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật là Khai trừ đảng.
Nội dung tố cáo thứ nhất: Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết “Vô tổ chức, vô kỉ luật, có hành vi chống lại Kết luận và quy định của Đảng”. Đó là việc cố tình xuyên tạc Kết luận số 43 KL/MTTW – ĐĐ ngày 8/1/2013 của Đảng đoàn để kỉ luật buộc thôi việc những người tố cáo. Căn cứ Hướng dẫn 35-HD/ĐĐMTTQVN của Đảng đoàn MTTQ Việt Nam về việc phân cấp quản lí đánh giá và bổ nhiệm cán bộ; căn cứ Thông báo Kết luận của Đảng đoàn MTTQ Việt Nam tại cuộc họp thường kì tháng 6/2013 số 41/TB-MTTW-ĐĐ ngày 8/7/2013 thì Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết đã tự ý cố tình kỉ luật những người tố cáo (Nguyễn Mạnh Thắng, Bùi Hữu Phước, Đặng Thị Kim Ngân) mà không báo cáo Đảng đoàn và Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam. Những người tố cáo đề nghị xử lí kỉ luật ông Đinh Đức Lập và ông Nguyễn Quốc Khánh theo Điểm a, Khoản 3 Điều 7 Quy định xử lí kỉ luật Đảng viên vi phạm số: 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương ngày 30/3/2013. Theo đó, hình thức kỉ luật dành cho sai phạm của ông Lập và ông Khánh là Khai trừ Đảng.
Nội dung tố cáo thứ hai: “Tổ chức trả thù người tố cáo”. Đến nay, Ủy Ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan TW MTTQ Việt Nam mới đang xem xét, xử lí kỉ luật Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết theo Công văn số 336/CAHM ngày 28/5/2013 của Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàng Mai về việc thiếu trách nhiệm quản lí dẫn tới tình trạng thụt két, chiếm dụng vốn trong dự án xây dựng nhà ở cho cán bộ công nhân viên báo Đại Đoàn Kết. Thế nhưng, từ 8/4/2013, Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết đã tiến hành kỉ luật những người tố cáo. Đã từng bị kỉ luật Khiển trách nhưng ông Lập không chịu sửa chữa khuyết điểm, còn cố tình tiếp tục sai phạm nên đối chiếu với quy định của Đảng, người tố cáo kiến nghị xử lí kỉ luật ông Lập và ông Khánh theo tình tiết tăng nặng theo Điểm C, Điểm I Khoản 12 Điều 3 và Điểm C Khoản 2 Điều 7 Quy định xử lí kỉ luật đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật dành cho sai phạm này của ông Lập và ông Khánh là Cảnh cáo Đảng, Cách chức Tổng biên tập và Phó Tổng biên tập.
Nội dung tố cáo thứ 3: “Thiếu trách nhiệm trong quản lí dẫn tới tình trạng để cán bộ dưới quyền thụt két chiếm dụng vốn trong dự án xây dựng nhà ở cho cán bộ công nhân viên báo Đại Đoàn Kết”. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan UBTWMTTQ Việt Nam đã nhận được Công văn số 336/CAHM ngày 28/5/2013 của Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàng Mai. Kết luận của công văn nêu: “Trong việc thu – chi quản lí tiền quỹ dự án Ban hỗ trợ dự án báo Đại Đoàn Kết đã không công khai cho những người góp vốn đầu tư biết việc quản lí số tiền đã thu nhưng chưa nộp về chủ đầu tư là Công ty kinh doanh phát triển nhà Hà Nội, tự ý phân chia nhau quản lí tiền quỹ. Thủ trưởng cơ quan báo cũng thiếu kiểm tra trong quá trình tổ chức thực hiện dự án”. Và: “Việc phân chia quản lí không có phiếu chi, không có giấy tờ biên nhận”.
Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an Hoàng Mai kiến nghị: “Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam kiểm tra, kiểm điểm trách nhiệm và có hình thức xử lí đối với các sai phạm của cán bộ Ban Hỗ trợ dự án báo Đại Đoàn Kết và Ban biên tập trong khâu tổ chức quản lí thực hiện dự án”. Người tố cáo đề nghị xử lí kỉ luật Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết theo Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 15 Quy định xử lí kỉ luật đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật là Khiển trách. Trong đơn, cán bộ báo Đại Đoàn Kết đề nghị lãnh đạo MTTQVN yêu cầu Ban Biên tập và Ban Hỗ trợ dự án báo Đại Đoàn Kết có trách nhiệm bồi thường tiền lãi từ số tiền hàng chục tỉ đồng đã chiếm dụng từ năm 2010 đến nay.
Nội dung tố cáo thứ 4: “Đăng bài xuyên tạc sự thật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lãnh đạo và Ban Thường trực Ủy Ban trung ương MTTQ Việt Nam”.
Sự thật là Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam không kiến nghị xây dựng Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu.
Thế nhưng, Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết lại xuyên tạc sự thật, cho đăng bài lên báo mạng ngày 12/10/2013 vu khống cho ông Vũ Trọng Kim, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí UBTWMTTQ Việt Nam trả lời phỏng vấn phóng viên báo Đại Đoàn Kết là: “Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam kiến nghị: Cần xây dựng Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu”.
Trên số 286 ra ngày 13/10/2013 báo Đại Đoàn Kết tiếp tục xuyên tạc sự thật khi đăng bài: “Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam kiến nghị: Xây dựng Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu”.
Mặc dù số 288 ngày 15/10/2013 Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết có cho đăng đính chính nhưng rất ngắn, không đúng quy định cải chính theo Luật Báo chí và vẫn cố tình xuyên tạc thêm thông tin thành “Thực tế đó mới chỉ là dự thảo”. Và cố tình không đăng cải chính này lên trang tin điện tử báo Đại Đoàn Kết.
Việc cố tình gây ảnh hưởng xấu đến uy tín lãnh đạo, Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam của Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết còn thể hiện: Cùng trên số báo đính chính lại cho đăng bài hoành tráng ở trang Nhất: “Bảo tàng Đại tướng sẽ tỏa sáng”. Tiếp đến số 290 ra ngày 17/10/2013 Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết còn cố tình đăng thông tin về việc kiến nghị Đảng, Nhà nước quy hoạch ngôi nhà 30 Hoàng Diệu làm Bảo tàng Võ Nguyên Giáp vào nội dung buổi làm việc của Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam với Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Bài viết không cho đăng ý kiến của Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân (người chủ trì cuộc làm việc) về việc này. Điều đó khiến người đọc coi như Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân và Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam chủ trương và đã đồng tình kiến nghị việc xây dựng Bảo tàng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại 30 Hoàng Diệu.
Việc xuyên tạc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam của Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết trong bài viết “Trách nhiệm” và lợi dụng chức vụ quyền hạn, lạm dụng trang báo Đại Đoàn Kết để đánh bóng bản thân như Kết luận số 43 KL/MTTW – ĐĐ nêu không hề được ông Lập, ông Khánh rút kinh nghiệm. Vì vậy, người tố cáo đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng để kỉ luật ông Lập, ông Khánh theo Điểm a, điểm e Khoản 2 Điều 9 Quy định xử lí kỉ luật Đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật là Cảnh cáo Đảng, Cách chức Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập.
Nội dung tố cáo thứ 5: “Bao che cho hành vi tiếp nhận, sử dụng, lưu giữ giấy chứng nhận không hợp pháp của Trưởng Ban Chuyên đề Nguyễn Thị Cẩm Thúy, trả thù người tố cáo”.
Báo cáo số 05-BC/UBKT – ĐU ngày 12/11/2012 của Tổ Kiểm tra Ủy Ban Kiểm tra Đảng ủy UBTWMTTQ Việt Nam sau khi xác minh nội dung đơn tố cáo đã thừa nhận việc bà Nguyễn Thị Cẩm Thúy không đi học lớp Bồi dưỡng của Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh nhưng lại có giấy chứng nhận. Báo cáo 05-BC/UBKT-ĐU kiến nghị Chi bộ, Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết kiểm điểm Nguyễn Thị Cẩm Thúy vì hành vi “Thiếu thận trọng trong việc tiếp nhận và lưu giữ giấy chứng nhận không hợp pháp, tạo dư luận không tốt, gây hoài nghi trong cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng đến uy tín của Tổng biên tập và Ban Biên tập”.
Thế nhưng, thay vì xử lí, kỉ luật đảng viên, Trưởng ban chuyên đề Nguyễn Thị Cẩm Thúy vì hành vi này, Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết lại bao che và trả thù kỉ luật Buộc thôi việc người tố cáo.
Những người tố cáo đề nghị xử lí kỉ luật đảng viên, Trưởng ban chuyên đề Nguyễn Thị Cẩm Thúy theo Điểm a Khoản 1 Điều 21 Quy định xử lí kỉ luật Đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật là Khiển trách. Người tố cáo đề nghị xử lí kỉ luật Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết theo Điểm b Khoản 3 Điều 21 Quy định xử lí kỉ luật Đảng viên vi phạm số 181-QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương. Theo đó, hình thức kỉ luật là Khai trừ đảng.
Vũ Thảo
(Người Cao tuổi)Báo chí làm gì khi cơ quan nhà nước "im lặng đáng sợ"?
"Báo Người cao tuổi hàng năm chỉ có khoảng 12-15% các vụ
việc có thông tin phản hồi sau khi có bài hoặc loạt bài đăng
trên báo. Có nghĩa là 100 trường hợp bị chúng tôi phanh phui
chỉ có 12 đến 15 trường hợp cơ quan chức năng hoặc chính quyền
địa phương có văn bản phản hồi đến báo" - Tổng biên tập Báo
Người cao tuổi Kim Quốc Hoa chia sẻ.
Hội thảo “Nâng cao mức độ phản hồi của cơ quan nhà nước đối
với kiến nghị, phê bình của tổ chức, công dân trên báo chí”
diễn ra ngày 27/10 đã trở thành một diễn đàn chia sẻ kinh
nghiệm, chia sẻ giải pháp trước một rào cản báo chí đó là sự im
lặng, né tránh của cơ quan nhà nước trước vấn đề báo nêu.
Hội thảo đã thu hút nhiều tham luận, ý kiến từ các cơ quan báo chí, cơ quan quản lý báo chí và người làm báo. Qua đó, hội thảo chỉ ra “thủ phạm” cản trở quá trình phát triển xã hội hướng tới minh bạch hóa, dân chủ hóa đó là sự im lặng của các cơ quan nhà nước trước vấn đề báo chí, cộng đồng dư luận lên tiếng phản ánh. Nhiều nhà báo đã gọi đó là “sự im lặng đáng sợ” của cơ quan nhà nước.
Đăng, phát dai dẳng và kiên trì “đeo bám”
Nêu vấn đề dai dẳng, kiên trì bám trụ vấn đề đến cùng, đó là phương pháp được Tổng biên tập Báo Người cao tuổi Kim Quốc Hoa ứng dụng nhiều năm nay và đã thành công trong rất nhiều vụ việc lớn.
Ông Kim Quốc Hoa cho biết: “Trong 6 năm qua, báo Người cao tuổi đã đưa gần 2.300 vụ việc từ cấp xã đến cấp trung ương ra ánh sáng công luận. Trong 2.300 vụ việc ấy chưa có vụ việc nào (Báo Người cao tuổi - PV) có dấu hiệu vi phạm pháp luật, chưa có vụ nào bị xử lý dưới hình thức nào. Nhiều vụ việc phải chiến đấu dai dẳng, nhiều năm tháng, nhiều kỳ báo, nhiều tin bài. Ví dụ như vụ Hà Giang, chúng tôi có loạt bài về ông Chủ tịch tỉnh Hà Giang chống lại Chính phủ. Vụ việc này kéo dài 2 năm rưỡi. Chính ông Chủ tịch tỉnh Hà Giang lúc đó đã từng dọa: “Lần này phải bỏ tù Kim Quốc Hoa”. Cuối cùng tháng 10/2010, vị lãnh đạo này đã bị cách chức và bị khai trừ khỏi Đảng. Vụ Đại học kinh tế Quốc dân kéo dài 15 tháng...”
Tuy nhiên, không phải cơ quan báo chí nào cũng thực hiện được đến cùng những vụ việc. Trong tham luận của bà Trần Hoài Thu, Phó Giám đốc kênh VTC1, Đài truyền hình KTS VTC cũng nói rõ: “Không phải cơ quan báo chí nào, ngay cả VTC, có được cơ chế cho phóng viên có tiền sinh sống hàng ngày để đeo bám sự việc”.
Cũng bày tỏ khó khăn trong vấn đề “đeo bám” sự việc, ông Nguyễn Bá Kiên, quyền Tổng biên tập Báo Giao thông Vận tải, cho rằng: “Thực ra, anh em làm báo đều biết, báo nhỏ nhiều khi liên hệ họ còn không thèm tiếp. Tôi sang báo Giao thông Vận tải, tình hình khác ngay. Liên hệ trong ngành thì rất dễ, ra ngoài ngành khó lắm. Tới đây, tôi sẽ áp dụng (cách của báo Người cao tuổi- PV) khi tính chiến đấu của báo dần dần cao lên”. Ông Nguyễn Bá Kiên nói thêm: “Tuy nhiên, việc đăng tin dai dẳng cũng phải có thông tin”.
Theo kết quả điều tra của dự án nghiên cứu, khảo sát “Mức độ phản hồi của cơ quan nhà nước đối với kiến nghị, phê bình của tổ chức, công dân trên báo chí”, 75% các nhà báo đều cho rằng cần phải nêu tiếp thông tin nếu cơ quan im lặng. Tuy nhiên, điều này cũng gây khó khăn với các cơ quan báo chí do các vấn đề kinh phí, vấn đề nội dung, vấn đề con người và cả những sức ép khác nữa...
Vừa đăng bài vừa gửi công văn
Đứng trước thực tế đã từng bị im lặng, "chìm xuồng", một số cơ quan báo chí chọn cách “Đông - Tây y kết hợp” là vừa đăng bài vừa gửi công văn. Tuy nhiên, theo nhà báo Phan Lợi, Trưởng đại diện miền Bắc Báo Pháp luật TP HCM, ở những cơ quan báo chí lớn như Tuổi trẻ, Thanh Niên... những thông tin của độc giả phản ánh trên báo chí lại được giải quyết, trả lời nhanh hơn gửi công văn. Do vậy, rất hiếm cơ quan báo chí chọn 2 cách đồng thời, thậm chí, ít khi dùng đến phương án gửi công văn.
Từ góc nhìn nghiên cứu cơ quan nhà nước (cụ thể là Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao), ông Hoàng Nghĩa Nhân, Phó trưởng Văn phòng đại diện Hà Nội của Báo Pháp luật TP HCM, cung cấp phát hiện khá thú vị: “Qua theo dõi thông tin báo chí, rất hiếm trường hợp cùng một vụ việc, cơ quan báo chí vừa dùng hình thức đăng, phát, vừa dùng công văn để đề nghị ngành kiểm sát xem xét, giải quyết vụ việc. Nếu xảy ra như vậy chắc chắn VKS sẽ có hồi đáp bằng công văn”.
Điều này, theo ông Ngô Huy Toàn, Trưởng phòng Thanh tra Báo chí, Xuất bản (Bộ Thông tin và Truyền thông), cơ quan báo chí chưa thực hiện hết quyền yêu cầu trả lời của mình khi rất ít cơ quan báo chí thực hiện việc gửi công văn yêu cầu cơ quan nhà nước liên quan trả lời.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu, khảo sát trên cũng đã chỉ ra một số các biện pháp khác mà báo chí vẫn sử dụng để "đối phó" với sự im lặng của các cơ quan nhà nước như: gửi công văn đến các cơ quan nhà nước cấp cao hơn (46% người được hỏi); lờ vấn đề cho đến khi xuất hiện sự kiện mới (15%); nêu vấn đề trên báo khác (6%)...
Đối với cách gửi công văn lên cấp cao hơn, trong tham luận của Báo Người cao tuổi cũng đã thể hiện đơn vị nhiều lần dùng biện pháp này, cũng nhiều lần rơi vào im lặng hoặc rất lâu vẫn chưa có câu trả lời...
Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Văn Hùng, Hàm vụ trưởng Vụ Báo chí, Ban Tuyên giáo Trung ương, cũng đưa ra ý kiến của mình cùng cơ quan báo chí cải thiện tình hình. Ông cho rằng: “Quan tâm chống tham nhũng là phải đưa ra những bằng chứng hết sức thuyết phục. Theo đuổi đến cùng để tạo sự đồng thuận của dư luận, các cơ quan chức năng hợp sức cùng báo chí. Tôi cảm giác sự liên kết giữa các cơ quan báo chí còn chậm quá, còn rụt rè quá”. Ông cũng chỉ ra nhiều ngành mà báo chí còn ngần ngại không dám động chạm.
Nhiều đại biểu tham dự hội thảo đồng tình với ý kiến: Một trong những cách yêu cầu cơ quan nhà nước trả lời nghiêm túc các sự việc báo nêu chính là các báo phải làm đến cùng. Khi gửi công văn tới mà không trả lời phải đốc thúc bằng các cách khác nhau và không bỏ dở sự việc. Nếu bỏ dở sự việc sẽ tạo cho các cơ quan này tâm lý trả lời cũng được không trả lời cũng không sao. Tuy nhiên, dù có cố gắng thế nào, “cây gậy pháp lý”, chế tài xử phạt luôn là giải pháp giải quyết tận gốc vấn đề.
Giải quyết tận gốc vẫn phải là chế tài
Xem ra, chuyện “báo cứ đăng, cơ quan nhà nước có nghĩa vụ phải trả lời cứ im lặng” là câu chuyện sẽ còn kéo dài nếu như chưa có một chế tài hợp lý. Từ đầu tháng 10, dự án nghiên cứu, khảo sát "Mức độ phản hồi của các cơ quan nhà nước đối với kiến nghị, phê bình của tổ chức, công dân trên báo chí” đã gửi đến 4 Bộ có chức năng quản lý nhà nước, có liên quan trong lĩnh vực báo chí với đề nghị: Các vị Bộ trưởng, lãnh đạo các ngành này bổ sung chế tài cho việc không/ chậm trả lời báo chí theo điều 8 Luật báo chí vào dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 02/2011.
Kiến nghị trên đã được các nhà báo Nam Đồng (nguyên Tổng biên tập Báo Pháp luật TP HCM), nhà báo Nguyễn Văn Bá (Phó Tổng biên tập Báo Bưu điện Việt Nam), nhà báo Phan Lợi (Phó Tổng TKTS Báo Pháp luật TPHCM), nhà báo Hoàng Nghĩa Nhân (Phó trưởng Văn phòng đại diện tại Hà Nội, Báo Pháp luật TPHCM) và nhiều cộng sự khác đã dày công nghiên cứu và dựa trên những cơ sở pháp lý và thực tiễn báo chí Việt Nam.
Cung cấp căn cứ thực tế hoạt động báo chí của Báo Người cao tuổi, ông Kim Quốc Hoa, Tổng Biên tập tờ báo này cũng cung cấp một thông tin quan trọng về việc trả lời của các cơ quan chức năng với các sự việc báo nêu.
Ông cho biết: “Báo Người cao tuổi hàng năm chỉ có khoảng 12-15% các vụ việc có thông tin phản hồi sau khi có bài hoặc loạt bài đăng trên báo. Có nghĩa là 100 trường hợp bị chúng tôi phanh phui chỉ có 12 đến 15 trường hợp cơ quan chức năng hoặc chính quyền địa phương có văn bản phản hồi đến báo. Trong đó 5% trả lời phản ứng gay gắt, hoặc là thanh minh, hoặc là phê phán lại báo, cho chúng tôi viết sai sự thật, vu khống, bịa đặt, buộc phải cải chính đòi xin lỗi công khai. Còn có khoảng 3% trường hợp có công văn phúc đáp thanh minh, trình bày, tỏ lời cảm ơn báo, đề nghị báo tạm dừng để chúng tôi khắc phục hậu quả. Rất hiếm hoi có cơ quan đơn vị tiếp thu một cách khách quan, trung thực, nhận khuyết điểm, nhận sai lầm. Trong khi đó một số trường hợp chống đối báo một cách hết sức quyết liệt”.
Mặc dù, việc đề xuất bổ sung chế tài vào dự thảo Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí xuất bản có thể sẽ là “hơi muộn” khi các cơ quan tham mưu soạn thảo đã trình dự thảo lên Chính phủ nhưng nhóm nghiên cứu đã nhận thấy có sự chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi tiếp thu lẫn nhau giữa các cơ quan báo chí trong việc nâng cao mức độ phản hồi của cơ quan nhà nước, từng bước giảm dần “sự im lặng đáng sợ” của cơ quan nhà nước trước vấn đề báo chí nêu.
Hồng Chuyên
Hội thảo đã thu hút nhiều tham luận, ý kiến từ các cơ quan báo chí, cơ quan quản lý báo chí và người làm báo. Qua đó, hội thảo chỉ ra “thủ phạm” cản trở quá trình phát triển xã hội hướng tới minh bạch hóa, dân chủ hóa đó là sự im lặng của các cơ quan nhà nước trước vấn đề báo chí, cộng đồng dư luận lên tiếng phản ánh. Nhiều nhà báo đã gọi đó là “sự im lặng đáng sợ” của cơ quan nhà nước.
Đăng, phát dai dẳng và kiên trì “đeo bám”
Nêu vấn đề dai dẳng, kiên trì bám trụ vấn đề đến cùng, đó là phương pháp được Tổng biên tập Báo Người cao tuổi Kim Quốc Hoa ứng dụng nhiều năm nay và đã thành công trong rất nhiều vụ việc lớn.
Ông Kim Quốc Hoa cho biết: “Trong 6 năm qua, báo Người cao tuổi đã đưa gần 2.300 vụ việc từ cấp xã đến cấp trung ương ra ánh sáng công luận. Trong 2.300 vụ việc ấy chưa có vụ việc nào (Báo Người cao tuổi - PV) có dấu hiệu vi phạm pháp luật, chưa có vụ nào bị xử lý dưới hình thức nào. Nhiều vụ việc phải chiến đấu dai dẳng, nhiều năm tháng, nhiều kỳ báo, nhiều tin bài. Ví dụ như vụ Hà Giang, chúng tôi có loạt bài về ông Chủ tịch tỉnh Hà Giang chống lại Chính phủ. Vụ việc này kéo dài 2 năm rưỡi. Chính ông Chủ tịch tỉnh Hà Giang lúc đó đã từng dọa: “Lần này phải bỏ tù Kim Quốc Hoa”. Cuối cùng tháng 10/2010, vị lãnh đạo này đã bị cách chức và bị khai trừ khỏi Đảng. Vụ Đại học kinh tế Quốc dân kéo dài 15 tháng...”
Tuy nhiên, không phải cơ quan báo chí nào cũng thực hiện được đến cùng những vụ việc. Trong tham luận của bà Trần Hoài Thu, Phó Giám đốc kênh VTC1, Đài truyền hình KTS VTC cũng nói rõ: “Không phải cơ quan báo chí nào, ngay cả VTC, có được cơ chế cho phóng viên có tiền sinh sống hàng ngày để đeo bám sự việc”.
Cũng bày tỏ khó khăn trong vấn đề “đeo bám” sự việc, ông Nguyễn Bá Kiên, quyền Tổng biên tập Báo Giao thông Vận tải, cho rằng: “Thực ra, anh em làm báo đều biết, báo nhỏ nhiều khi liên hệ họ còn không thèm tiếp. Tôi sang báo Giao thông Vận tải, tình hình khác ngay. Liên hệ trong ngành thì rất dễ, ra ngoài ngành khó lắm. Tới đây, tôi sẽ áp dụng (cách của báo Người cao tuổi- PV) khi tính chiến đấu của báo dần dần cao lên”. Ông Nguyễn Bá Kiên nói thêm: “Tuy nhiên, việc đăng tin dai dẳng cũng phải có thông tin”.
Theo kết quả điều tra của dự án nghiên cứu, khảo sát “Mức độ phản hồi của cơ quan nhà nước đối với kiến nghị, phê bình của tổ chức, công dân trên báo chí”, 75% các nhà báo đều cho rằng cần phải nêu tiếp thông tin nếu cơ quan im lặng. Tuy nhiên, điều này cũng gây khó khăn với các cơ quan báo chí do các vấn đề kinh phí, vấn đề nội dung, vấn đề con người và cả những sức ép khác nữa...
Vừa đăng bài vừa gửi công văn
Đứng trước thực tế đã từng bị im lặng, "chìm xuồng", một số cơ quan báo chí chọn cách “Đông - Tây y kết hợp” là vừa đăng bài vừa gửi công văn. Tuy nhiên, theo nhà báo Phan Lợi, Trưởng đại diện miền Bắc Báo Pháp luật TP HCM, ở những cơ quan báo chí lớn như Tuổi trẻ, Thanh Niên... những thông tin của độc giả phản ánh trên báo chí lại được giải quyết, trả lời nhanh hơn gửi công văn. Do vậy, rất hiếm cơ quan báo chí chọn 2 cách đồng thời, thậm chí, ít khi dùng đến phương án gửi công văn.
Từ góc nhìn nghiên cứu cơ quan nhà nước (cụ thể là Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao), ông Hoàng Nghĩa Nhân, Phó trưởng Văn phòng đại diện Hà Nội của Báo Pháp luật TP HCM, cung cấp phát hiện khá thú vị: “Qua theo dõi thông tin báo chí, rất hiếm trường hợp cùng một vụ việc, cơ quan báo chí vừa dùng hình thức đăng, phát, vừa dùng công văn để đề nghị ngành kiểm sát xem xét, giải quyết vụ việc. Nếu xảy ra như vậy chắc chắn VKS sẽ có hồi đáp bằng công văn”.
Điều này, theo ông Ngô Huy Toàn, Trưởng phòng Thanh tra Báo chí, Xuất bản (Bộ Thông tin và Truyền thông), cơ quan báo chí chưa thực hiện hết quyền yêu cầu trả lời của mình khi rất ít cơ quan báo chí thực hiện việc gửi công văn yêu cầu cơ quan nhà nước liên quan trả lời.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu, khảo sát trên cũng đã chỉ ra một số các biện pháp khác mà báo chí vẫn sử dụng để "đối phó" với sự im lặng của các cơ quan nhà nước như: gửi công văn đến các cơ quan nhà nước cấp cao hơn (46% người được hỏi); lờ vấn đề cho đến khi xuất hiện sự kiện mới (15%); nêu vấn đề trên báo khác (6%)...
Đối với cách gửi công văn lên cấp cao hơn, trong tham luận của Báo Người cao tuổi cũng đã thể hiện đơn vị nhiều lần dùng biện pháp này, cũng nhiều lần rơi vào im lặng hoặc rất lâu vẫn chưa có câu trả lời...
Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Văn Hùng, Hàm vụ trưởng Vụ Báo chí, Ban Tuyên giáo Trung ương, cũng đưa ra ý kiến của mình cùng cơ quan báo chí cải thiện tình hình. Ông cho rằng: “Quan tâm chống tham nhũng là phải đưa ra những bằng chứng hết sức thuyết phục. Theo đuổi đến cùng để tạo sự đồng thuận của dư luận, các cơ quan chức năng hợp sức cùng báo chí. Tôi cảm giác sự liên kết giữa các cơ quan báo chí còn chậm quá, còn rụt rè quá”. Ông cũng chỉ ra nhiều ngành mà báo chí còn ngần ngại không dám động chạm.
Nhiều đại biểu tham dự hội thảo đồng tình với ý kiến: Một trong những cách yêu cầu cơ quan nhà nước trả lời nghiêm túc các sự việc báo nêu chính là các báo phải làm đến cùng. Khi gửi công văn tới mà không trả lời phải đốc thúc bằng các cách khác nhau và không bỏ dở sự việc. Nếu bỏ dở sự việc sẽ tạo cho các cơ quan này tâm lý trả lời cũng được không trả lời cũng không sao. Tuy nhiên, dù có cố gắng thế nào, “cây gậy pháp lý”, chế tài xử phạt luôn là giải pháp giải quyết tận gốc vấn đề.
Giải quyết tận gốc vẫn phải là chế tài
Xem ra, chuyện “báo cứ đăng, cơ quan nhà nước có nghĩa vụ phải trả lời cứ im lặng” là câu chuyện sẽ còn kéo dài nếu như chưa có một chế tài hợp lý. Từ đầu tháng 10, dự án nghiên cứu, khảo sát "Mức độ phản hồi của các cơ quan nhà nước đối với kiến nghị, phê bình của tổ chức, công dân trên báo chí” đã gửi đến 4 Bộ có chức năng quản lý nhà nước, có liên quan trong lĩnh vực báo chí với đề nghị: Các vị Bộ trưởng, lãnh đạo các ngành này bổ sung chế tài cho việc không/ chậm trả lời báo chí theo điều 8 Luật báo chí vào dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 02/2011.
Kiến nghị trên đã được các nhà báo Nam Đồng (nguyên Tổng biên tập Báo Pháp luật TP HCM), nhà báo Nguyễn Văn Bá (Phó Tổng biên tập Báo Bưu điện Việt Nam), nhà báo Phan Lợi (Phó Tổng TKTS Báo Pháp luật TPHCM), nhà báo Hoàng Nghĩa Nhân (Phó trưởng Văn phòng đại diện tại Hà Nội, Báo Pháp luật TPHCM) và nhiều cộng sự khác đã dày công nghiên cứu và dựa trên những cơ sở pháp lý và thực tiễn báo chí Việt Nam.
Cung cấp căn cứ thực tế hoạt động báo chí của Báo Người cao tuổi, ông Kim Quốc Hoa, Tổng Biên tập tờ báo này cũng cung cấp một thông tin quan trọng về việc trả lời của các cơ quan chức năng với các sự việc báo nêu.
Ông cho biết: “Báo Người cao tuổi hàng năm chỉ có khoảng 12-15% các vụ việc có thông tin phản hồi sau khi có bài hoặc loạt bài đăng trên báo. Có nghĩa là 100 trường hợp bị chúng tôi phanh phui chỉ có 12 đến 15 trường hợp cơ quan chức năng hoặc chính quyền địa phương có văn bản phản hồi đến báo. Trong đó 5% trả lời phản ứng gay gắt, hoặc là thanh minh, hoặc là phê phán lại báo, cho chúng tôi viết sai sự thật, vu khống, bịa đặt, buộc phải cải chính đòi xin lỗi công khai. Còn có khoảng 3% trường hợp có công văn phúc đáp thanh minh, trình bày, tỏ lời cảm ơn báo, đề nghị báo tạm dừng để chúng tôi khắc phục hậu quả. Rất hiếm hoi có cơ quan đơn vị tiếp thu một cách khách quan, trung thực, nhận khuyết điểm, nhận sai lầm. Trong khi đó một số trường hợp chống đối báo một cách hết sức quyết liệt”.
Mặc dù, việc đề xuất bổ sung chế tài vào dự thảo Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí xuất bản có thể sẽ là “hơi muộn” khi các cơ quan tham mưu soạn thảo đã trình dự thảo lên Chính phủ nhưng nhóm nghiên cứu đã nhận thấy có sự chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi tiếp thu lẫn nhau giữa các cơ quan báo chí trong việc nâng cao mức độ phản hồi của cơ quan nhà nước, từng bước giảm dần “sự im lặng đáng sợ” của cơ quan nhà nước trước vấn đề báo chí nêu.
Hồng Chuyên
(Infonet)
Nguyên thanh tra viên làm lộ bí mật nhà nước lãnh 6 năm tù
Bị cáo Hùng (phải) và bị cáo Hà tại phiên tòa sáng 29.10 |
(TNO) Trong hai ngày 28-29.10, TAND tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm vụ án cố ý làm lộ bí mật nhà nước.
Tòa tuyên phạt bị cáo Trần Anh Hùng (56 tuổi, trú ở TP.Nha Trang, Giám
đốc Công ty dịch vụ thương mại hàng hải Tam Đảo) 6 năm tù; Nguyễn Mạnh
Hà (37 tuổi, trú Q.Ba Đình, Hà Nội, nguyên thanh tra viên Cục II - Thanh
tra Chính phủ) 5 năm tù với cùng tội danh "cố ý làm lộ bí mật nhà
nước".
Theo cáo trạng, ngày 18.6.2010, Tổng Thanh tra Chính phủ ban hành quyết định thành lập đoàn thanh tra để kiểm tra, xác minh nội dung tố cáo, khiếu nại của công dân đối với dự án Khu đô thị mới Phước Long (TP.Nha Trang).
Sau khi kết thúc thanh tra thực tế tại địa phương, đoàn thanh tra về Hà Nội chuẩn bị bản thảo báo cáo kết luận thanh tra để trình lãnh đạo Thanh tra Chính phủ theo quy chế.
Đến ngày 6.10.2010, bản thảo báo cáo kết luận thanh tra trên được photo thành 7 bản (tính cả bản gốc là 8 bản) để phục vụ cho cuộc họp của đoàn thanh tra báo cáo lãnh đạo Thanh tra Chính phủ vào chiều cùng ngày.
Tuy nhiên, cuộc họp bị hoãn vì không đủ thành phần, các thành viên tự bảo quản tài liệu được phát.
Lợi dụng mối quan hệ quen biết với Nguyễn Mạnh Hà, Trần Anh Hùng đã nhờ Hà tìm cách lấy bản dự thảo báo cáo kết luận thanh tra trên. Đây là tài liệu mật trong ngành thanh tra.
Sau khi lấy được bản dự thảo này, Nguyễn Mạnh Hà gửi cho Trần Anh Hùng. Nhận được bản thảo trên, Trần Anh Hùng đã đưa cho nhiều người xem, trong đó có một số người đã photo lại rồi truyền tay nhau.
Nhiều người đã lấy nội dung của bản thảo cáo kết luận thanh tra làm đơn tố cáo, vu khống nhiều cán bộ lãnh đạo của tỉnh Khánh Hòa và TP.Nha Trang.
Cơ quan điều tra xác định bản thảo báo cáo thanh tra bị Nguyễn Mạnh Hà lấy cắp đi photo là tài liệu thuộc quản lý của ông Phạm Hùng, thanh tra viên Cục II - Thanh tra Chính phủ, cũng là thành viên của đoàn thanh tra.
Căn cứ vào lời khai của hai bị cáo, những người làm chứng tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, HĐXX kết luận Trần Anh Hùng và Nguyễn Mạnh Hà phạm tội "cố ý làm lộ bí mật nhà nước" là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Trước đó, ngày 19.8, HĐXX của TAND tỉnh Khánh Hòa đã tuyên trả hồ sơ vụ án cho Viện KSND tỉnh điều tra bổ sung làm rõ một số vấn đề liên quan. Theo tòa, ông Phạm Hùng có đủ dấu hiệu cấu thành tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước do đó cần được khởi tố, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, Viện KSND cho rằng ông Phạm Hùng có dấu hiệu phạm pháp hình sự do làm mất tài liệu mật nhưng xét thấy ông có nhân thân tốt, đã thành khẩn khai báo, bị kỷ luật về mặt Đảng và chính quyền nên không cần thiết phải xử lý hình sự.
Tin, ảnh: Nguyễn Chung
Theo cáo trạng, ngày 18.6.2010, Tổng Thanh tra Chính phủ ban hành quyết định thành lập đoàn thanh tra để kiểm tra, xác minh nội dung tố cáo, khiếu nại của công dân đối với dự án Khu đô thị mới Phước Long (TP.Nha Trang).
Sau khi kết thúc thanh tra thực tế tại địa phương, đoàn thanh tra về Hà Nội chuẩn bị bản thảo báo cáo kết luận thanh tra để trình lãnh đạo Thanh tra Chính phủ theo quy chế.
Đến ngày 6.10.2010, bản thảo báo cáo kết luận thanh tra trên được photo thành 7 bản (tính cả bản gốc là 8 bản) để phục vụ cho cuộc họp của đoàn thanh tra báo cáo lãnh đạo Thanh tra Chính phủ vào chiều cùng ngày.
Tuy nhiên, cuộc họp bị hoãn vì không đủ thành phần, các thành viên tự bảo quản tài liệu được phát.
Lợi dụng mối quan hệ quen biết với Nguyễn Mạnh Hà, Trần Anh Hùng đã nhờ Hà tìm cách lấy bản dự thảo báo cáo kết luận thanh tra trên. Đây là tài liệu mật trong ngành thanh tra.
Sau khi lấy được bản dự thảo này, Nguyễn Mạnh Hà gửi cho Trần Anh Hùng. Nhận được bản thảo trên, Trần Anh Hùng đã đưa cho nhiều người xem, trong đó có một số người đã photo lại rồi truyền tay nhau.
Nhiều người đã lấy nội dung của bản thảo cáo kết luận thanh tra làm đơn tố cáo, vu khống nhiều cán bộ lãnh đạo của tỉnh Khánh Hòa và TP.Nha Trang.
Cơ quan điều tra xác định bản thảo báo cáo thanh tra bị Nguyễn Mạnh Hà lấy cắp đi photo là tài liệu thuộc quản lý của ông Phạm Hùng, thanh tra viên Cục II - Thanh tra Chính phủ, cũng là thành viên của đoàn thanh tra.
Căn cứ vào lời khai của hai bị cáo, những người làm chứng tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, HĐXX kết luận Trần Anh Hùng và Nguyễn Mạnh Hà phạm tội "cố ý làm lộ bí mật nhà nước" là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Trước đó, ngày 19.8, HĐXX của TAND tỉnh Khánh Hòa đã tuyên trả hồ sơ vụ án cho Viện KSND tỉnh điều tra bổ sung làm rõ một số vấn đề liên quan. Theo tòa, ông Phạm Hùng có đủ dấu hiệu cấu thành tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước do đó cần được khởi tố, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, Viện KSND cho rằng ông Phạm Hùng có dấu hiệu phạm pháp hình sự do làm mất tài liệu mật nhưng xét thấy ông có nhân thân tốt, đã thành khẩn khai báo, bị kỷ luật về mặt Đảng và chính quyền nên không cần thiết phải xử lý hình sự.
Tin, ảnh: Nguyễn Chung
(Thanh niên)
Có danh tính nghi phạm Thiên An Môn
Cảnh sát Trung Quốc đã nêu danh
tính hai nghi phạm liên quan "vụ việc nghiêm trọng", tức vụ đâm
xe gây chết người ở quảng trường Thiên An Môn trưa thứ Hai 28/10.
Chiếc xe đâm vào đám đông trên quảng trường, bốc cháy làm 5 người thiệt mạng.
Báo chí Trung Quốc nói cảnh sát đã ra thông báo tới các khách sạn ở Bắc Kinh để truy tìm thông tin về hai người từ Tân Cương.
Thông báo cũng nêu chi tiết về một chiếc xe hơi, với bốn biển đăng ký ở Tân Cương.
"Một vụ việc nghiêm trọng xảy ra hôm thứ Hai," thông báo của cảnh sát viết nhưng không nói rõ chi tiết.
Cảnh sát nói hai nghi phạm là người Tân Cương.
Thông báo này nhanh chóng được lưu truyền trên mạng xã hội Trung Quốc. Trong đó, cảnh sát yêu cầu các khách sạn để ý các vị khách "khả nghi" cũng như xe của họ.
Tờ Hoàn cầu Thời báo nói đã nhận được xác nhận của cảnh sát Bắc Kinh là đúng đã có thông báo như vậy, nhưng không bình luận gì về tính nghiêm trọng của vụ việc.
Tân Cương là nơi người thiểu số Uighur theo đạo Hồi sinh sống.
Một số người Uighur cho rằng Bắc Kinh đàn áp tôn giáo và văn hóa đối với họ, đôi khi cũng đã nổ ra các vụ bạo lực ở Tân Cương.
Trung Quốc thì luôn luôn tuyên bố rằng đã để cho người dân Tân Cương hoàn toàn tự do.
Báo chí Trung Quốc nói cảnh sát đã ra thông báo tới các khách sạn ở Bắc Kinh để truy tìm thông tin về hai người từ Tân Cương.
Thông báo cũng nêu chi tiết về một chiếc xe hơi, với bốn biển đăng ký ở Tân Cương.
"Một vụ việc nghiêm trọng xảy ra hôm thứ Hai," thông báo của cảnh sát viết nhưng không nói rõ chi tiết.
Cảnh sát nói hai nghi phạm là người Tân Cương.
Thông báo này nhanh chóng được lưu truyền trên mạng xã hội Trung Quốc. Trong đó, cảnh sát yêu cầu các khách sạn để ý các vị khách "khả nghi" cũng như xe của họ.
Tờ Hoàn cầu Thời báo nói đã nhận được xác nhận của cảnh sát Bắc Kinh là đúng đã có thông báo như vậy, nhưng không bình luận gì về tính nghiêm trọng của vụ việc.
Tân Cương là nơi người thiểu số Uighur theo đạo Hồi sinh sống.
Một số người Uighur cho rằng Bắc Kinh đàn áp tôn giáo và văn hóa đối với họ, đôi khi cũng đã nổ ra các vụ bạo lực ở Tân Cương.
Trung Quốc thì luôn luôn tuyên bố rằng đã để cho người dân Tân Cương hoàn toàn tự do.
Hôm thứ Hai, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Trung Quỗc Hoa Xuân Oánh, khi được hỏi liệu chinh phủ có cho đây
là một vụ khủng bố hay không, đã trả lời bà không biết rõ chi
tiết vụ việc nên không muốn bình luận.
Tân Hoa Xã, hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc, cũng không đưa nguyên nhân gây ra đâm xe mà chỉ nói cảnh sát đang điều tra.
Quảng trường Thiên An Môn nằm ở trung tâm Bắc Kinh là nơi đã diễn ra các cuộc biểu tình vì dân chủ năm 1989.
An ninh ở đây luôn luôn được siết chặt, một phần vì quảng trường quá gần các cơ quan trọng yếu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quỗc, phần khác để ngăn chặn các cuộc biểu tình và khiếu kiện diễn ra tại nơi đây.
Tuy nhiên đã có một vài vụ xảy ra trong quá khứ. Năm 2011, một người đàn ông tự thiêu tại đây sau một vụ tranh chấp, ngay cạnh chân dung Mao Chủ tịch.
Tân Hoa Xã, hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc, cũng không đưa nguyên nhân gây ra đâm xe mà chỉ nói cảnh sát đang điều tra.
Quảng trường Thiên An Môn nằm ở trung tâm Bắc Kinh là nơi đã diễn ra các cuộc biểu tình vì dân chủ năm 1989.
An ninh ở đây luôn luôn được siết chặt, một phần vì quảng trường quá gần các cơ quan trọng yếu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quỗc, phần khác để ngăn chặn các cuộc biểu tình và khiếu kiện diễn ra tại nơi đây.
Tuy nhiên đã có một vài vụ xảy ra trong quá khứ. Năm 2011, một người đàn ông tự thiêu tại đây sau một vụ tranh chấp, ngay cạnh chân dung Mao Chủ tịch.
(BBC)
Vì sao TQ muốn cải thiện quan hệ với VN?
Chuyến thăm nhà nước mới
đây của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường diễn ra ở thời điểm quan
trọng trong quan hệ song phương giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Ông Lý đã có nhiều nỗ lực để hàn gắn rạn nứt sâu sắc giữa hai nước láng giềng, mặc dù vẫn tồn tại các bất đồng nghiêm trọng.
Thủ tướng Trung Quốc đạt ba thỏa thuận chính với ban lãnh đạo Việt Nam.
Trước hết, hai bên cam kết tăng cường hợp tác tài chính. Bắc Kinh đã cho vay trực tiếp Việt Nam hơn một tỉ đôla. Mức lương gia tăng ở Trung Quốc lại khiến nhiều doanh nghiệp Trung Quốc lập nhà máy ở Việt Nam.
Thứ hai, có các thỏa thuận cải thiện cơ sở hạ tầng đi lại ở đường biên giới chung. Trung Quốc hiện đã là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Thứ ba, và quan trọng nhất về mặt biểu tượng, họ thành lập nhóm công tác về việc khai thác chung ở khu vực tranh chấp thuộc Vịnh Bắc Bộ.
Gần đây, tranh chấp lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa khiến quan hệ hai nước căng thẳng.
Trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trên biển, chuyến thăm của ông Lý thể hiện sự quan trọng của Việt Nam trong các mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc. Báo chí và truyền hình nhà nước ở Trung Quốc tường thuật chi tiết về chuyến thăm, gọi đây là “đột phá trong hợp tác song phương”.
Ông Lý đã có nhiều nỗ lực để hàn gắn rạn nứt sâu sắc giữa hai nước láng giềng, mặc dù vẫn tồn tại các bất đồng nghiêm trọng.
Thủ tướng Trung Quốc đạt ba thỏa thuận chính với ban lãnh đạo Việt Nam.
Trước hết, hai bên cam kết tăng cường hợp tác tài chính. Bắc Kinh đã cho vay trực tiếp Việt Nam hơn một tỉ đôla. Mức lương gia tăng ở Trung Quốc lại khiến nhiều doanh nghiệp Trung Quốc lập nhà máy ở Việt Nam.
Thứ hai, có các thỏa thuận cải thiện cơ sở hạ tầng đi lại ở đường biên giới chung. Trung Quốc hiện đã là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Thứ ba, và quan trọng nhất về mặt biểu tượng, họ thành lập nhóm công tác về việc khai thác chung ở khu vực tranh chấp thuộc Vịnh Bắc Bộ.
Gần đây, tranh chấp lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa khiến quan hệ hai nước căng thẳng.
Trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trên biển, chuyến thăm của ông Lý thể hiện sự quan trọng của Việt Nam trong các mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc. Báo chí và truyền hình nhà nước ở Trung Quốc tường thuật chi tiết về chuyến thăm, gọi đây là “đột phá trong hợp tác song phương”.
Mục tiêu của Trung Quốc
Việt Nam là chặng cuối trong chuyến công du Đông Nam Á của Thủ tướng Lý. Tại hội nghị Asean ở Brunei, tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc ký thỏa thuận với đối tác Brunei để bắt đầu cùng khai thác ở vùng biển tranh chấp thuộc Biển Nam Trung Hoa.
Bắc Kinh có vẻ đang dùng chiến lược “cây gậy và củ cà rốt” để bảo vệ lợi ích trước các nước có tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa. Trong lúc họ nồng ấm với Brunei và tìm cách sửa chữa quan hệ với Hà Nội, chính phủ Trung Quốc cũng công khai phê phán Philippines.
Manila gần đây đã nộp đơn kiện Trung Quốc lên Tòa Trọng tài Liên Hiệp Quốc vì tranh chấp biển. Điều này khiến Bắc Kinh rất giận dữ.
Bắc Kinh không chỉ phê phán bước đi của
Philippines mà cũng phê phán cả sự ủng hộ ngầm của Mỹ, đồng minh của
Philippines. Sự chuyển hướng của Mỹ tại châu Á và mối liên kết đồng minh
mạnh mẽ với Philippines bị Bắc Kinh xem là đe dọa. Ngoài ra, quan hệ
giữa Washington và Hà Nội cũng cải thiện trong các năm gần đây.
Đây là bối cảnh khu vực cho chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Lý Khắc Cường. Trung Quốc rất muốn hút ban lãnh đạo Việt Nam ra khỏi cái mà họ xem là liên minh khu vực chống Trung Quốc mới manh nha.
Cám dỗ của Trung Quốc có vẻ có hiệu quả. Truyền thông chính thống Việt Nam cũng có giọng giống như ở Trung Quốc khi nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyến thăm.
Nước và lửa?
Nhưng vẫn tồn tại các khác biệt sâu sắc giữa hai nước. Tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc và Việt Nam tăng cao không chỉ vì tầm quan trọng của Biển Nam Trung Hoa, mà còn vì sự thù hằn lịch sử và tình cảm dân tộc chủ nghĩa.
Chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường muốn thuyết phục ban lãnh đạo Hà Nội rằng quan hệ song phương không nhất thiết là trò chơi chỉ một người thắng. Cùng khai thác ở Vịnh Bắc Bộ có tiềm năng mở đường để cùng khai thác ở những nơi tranh chấp khác giữa hai nước. Diễn biến đó có thể có lợi cho Trung Quốc và Việt Nam, dù bất lợi cho các nước có tranh chấp khác trong vùng.
Trung Quốc sẽ tiếp tục cung cấp các đề nghị kinh tế và chính trị cho Việt Nam để củng cố vị trí trong vùng của Bắc Kinh.
Ban lãnh đạo ở Hà Nội thì có thể hưởng vị thế được các cường quốc thế giới tán tỉnh. Việc cả Mỹ và Trung Quốc đều từng là kẻ thù của Hà Nội thể hiện một sự mỉa mai lịch sử thú vị. Nó cũng nhắc nhở mọi nước liên quan rằng đối thủ ngày hôm nay có thể là bạn ngày mai – và ngược lại.
Đây là bối cảnh khu vực cho chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Lý Khắc Cường. Trung Quốc rất muốn hút ban lãnh đạo Việt Nam ra khỏi cái mà họ xem là liên minh khu vực chống Trung Quốc mới manh nha.
Cám dỗ của Trung Quốc có vẻ có hiệu quả. Truyền thông chính thống Việt Nam cũng có giọng giống như ở Trung Quốc khi nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyến thăm.
Nước và lửa?
Nhưng vẫn tồn tại các khác biệt sâu sắc giữa hai nước. Tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc và Việt Nam tăng cao không chỉ vì tầm quan trọng của Biển Nam Trung Hoa, mà còn vì sự thù hằn lịch sử và tình cảm dân tộc chủ nghĩa.
Chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường muốn thuyết phục ban lãnh đạo Hà Nội rằng quan hệ song phương không nhất thiết là trò chơi chỉ một người thắng. Cùng khai thác ở Vịnh Bắc Bộ có tiềm năng mở đường để cùng khai thác ở những nơi tranh chấp khác giữa hai nước. Diễn biến đó có thể có lợi cho Trung Quốc và Việt Nam, dù bất lợi cho các nước có tranh chấp khác trong vùng.
Trung Quốc sẽ tiếp tục cung cấp các đề nghị kinh tế và chính trị cho Việt Nam để củng cố vị trí trong vùng của Bắc Kinh.
Ban lãnh đạo ở Hà Nội thì có thể hưởng vị thế được các cường quốc thế giới tán tỉnh. Việc cả Mỹ và Trung Quốc đều từng là kẻ thù của Hà Nội thể hiện một sự mỉa mai lịch sử thú vị. Nó cũng nhắc nhở mọi nước liên quan rằng đối thủ ngày hôm nay có thể là bạn ngày mai – và ngược lại.
Brendan P. O'Reilly
Gửi cho BBC Tiếng Việt từ Trung Quốc
*Brendan P. O'Reilly là một cây bút người Mỹ
đang sống ở Trung Quốc. Ông là tác giả của cuốn sách Fifty Things You
Didn't Know About China.
(BBC)
Vụ việc du khách làm cháy nhà Mường: Tại sao chưa bị truy tố?
(ĐSPL) Gây
hỏa hoạn, thiêu trụi toàn bộ di tích nhà sàn Lang cùng hơn 200 cổ vật,
ước tính lên tới cả chục tỷ đồng, thế nhưng tới giờ 4 du khách vẫn nhởn
nhơ ngoài vòng pháp luật.
Chưa đầy 24h sau khi nhóm du khách làm cháy toàn bộ ngôi nhà Lang – nhà sàn của vị quan Lang duy nhất còn sót lại cùng hơn 200 cổ vật trưng bày tại Bảo tàng Không gian Văn hóa Mường, danh tính của các đối tượng đã được xác định rõ. Các chuyên gia khảo cổ ước tính, bộ sưu tập các cổ vật lên tới cả chục tỷ đồng. Vậy nhưng cho tới giờ, cơ quan công an tỉnh Hòa Bình vẫn chưa có động thái nào nhập cuộc. Xoay quanh vấn đề này, báo Đời sống&Pháp Luật online đã có cuộc trao đổi với luật sư Trương Anh Tú, Hội Luật sư Thành phố Hà Nội, đại diện pháp luật của Bảo tàng.
Quá trình xác định danh tính các đối tượng liên quan trực tiếp tới vụ cháy cổ vật có khó khăn không thưa ông?
Vụ việc xảy ra do một nhóm khách tại Hòa Bình, gồm 2 nam 2 nữ đi trên hai ôtô, vào Bảo tàng Mường tham quan và sử dụng dịch vụ ăn uống trên nhà Lang. Trong thời gian chờ đợi món ăn, nhóm khách tự ý đốt lửa ở bếp Mường trong nhà Lang để nướng ngô. Khi ngọn lửa bùng lên, khách hoảng loạn, không kêu trợ giúp từ nhân viên Bảo tàng, mà bỏ chạy, lên xe ôtô tháo chạy, dùng xe húc thẳng vào ba nhân viên Bảo tàng khi các nhân viên này muốn ngăn họ lại. Cũng may nhân viên của Bảo tang đã kịp ghi lại biển số xe. Chúng tôi nhanh chóng xác định rõ được các đối tượng này. Họ đều là những người có địa vị xã hội cao, đang cư trú tại tỉnh Hòa Bình và thuộc độ tuổi trên dưới 40. Chúng tôi đã chuyển vụ việc lên công an điều tra tỉnh Hòa Bình.
Xét theo quy định Bộ luật hình sự và dân sự, các đối tượng này có thể bị áp dụng các khung hình phạt thế nào?
Lý do cụ thể tại sao các đối tượng này làm cháy nhà sàn cho tới giờ chúng tôi chưa được biết. Vụ việc phải cần tới cơ quan chức năng lấy lời khai, truy tìm dấu hiệu cấu thành tội phạm và khởi tố vụ án. Nếu xác định được các đối tượng này cố tình gây cháy nhà sàn hơn 100 năm tuổi thì mức hình phạt các đối tượng phải chịu sẽ rất nặng, cao nhất là chung thân. Còn nếu chỉ vì vô ý làm cháy, trong lúc hoảng loạn, bỏ chạy thì vụ việc sẽ chỉ dừng ở mức xử phạt dân sự. Mức độ bồi thường bao nhiêu cần phải có rất nhiều ban ngành: bộ tài chính, văn hóa… bàn bạc cụ thể.
Cho đến nay, về phía cơ quan chức năng đã có những động thái gì tiến hành công tác điều tra vụ việc này chưa thưa ông?
Đó cũng là một thắc mắc lớn từ phía chúng tôi. Các đối tượng vẫn chưa hề được lấy lời khai hay triệu tập gì hết. Chúng tôi cũng chưa nhận được bất cứ liên lạc trao đổi sâu nào liên quan đến vụ việc từ phía công an điều tra tỉnh Hòa Bình.
Qua vụ việc, ông đánh giá thế nào về ý thức giữ gìn cổ vật của người dân Việt Nam nói chung?
Nhiều người dân có ý thức rất tốt trong việc giữ gìn, phục dựng cổ vật. Họ thậm chí còn tặng cho Nhà nước cả bộ sưu tập lớn của mình để con cháu đời sau được tìm hiểu, chime ngưỡng. Nhưng một bộ phận không nhỏ người dân vẫn chưa có ý thức tốt. Họ vào bảo tàng, leo trèo, sờ mó hoặc thậm chí phá hoại các vật phẩm trưng bày. Vụ việc cháy nhà sàn này, theo tôi là một hồi chuông cảnh tỉnh du khách về ý thức giữ gìn và bảo tồn văn hóa, lịch sử.
Xin cảm ơn ông.
Nhìn lại hình ảnh trước và sau khi nhần bị thiêu rụi:
Bộ cồng chiêng, vật dụng và kết cấu ngôi nhà trăm tuổi vững chắc
Chỉ sau một mồi lửa nướng ngô của du khách, ngôi nhà đã bị thiêu trụi
Ngôi nhà Lang, với tuổi thọ hơn 100 năm, của gia đình quan Lang nhà bà Hà Thị Lợi thuộc địa phận Mường Chậm, huyện Tân Lạc, Hòa Bình, một công trình kiến trúc nguyên bản của nhà Lang - tầng lớp cao nhất trong xã hội người Mường - được gia đình lưu giữ qua nhiều đời, và được Bảo tàng Mường bảo tồn như một hiện vật văn hóa giá trị nhất đã bị thiêu hủy trên 90%, chỉ còn lại bộ khung cột. Gần 200 hiện vật được lưu giữ bên trong tái hiện nguyên bản đời sống sinh hoạt của nhà Lang, bao gồm: bộ cồng chiêng, bộ sưu tập súng săn, bộ sưu tập đồ đồng sinh hoạt gồm sanh, ninh, mâm, chậu, nồi các cỡ, đèn đồng; các loại đồ gốm bát, đĩa, bình, lọ; các loại đồ gia dụng mây tre đan, rương, chăn, gối… được Bảo tàng Mường tìm kiếm và sưu tập trong thời gian gần 15 năm, đã bị thiêu hủy toàn bộ. |
Hương Thảo
(ĐSPL)
Nghi vấn thấy xác chị Huyền: Trùng hợp ngẫu nhiên hay gặp “thầy” giỏi?
- Vụ thẩm mỹ viện Cát Tường: "Không thể nói như Sở Y tế là xong"
- Vụ thẩm mỹ viện Cát Tường: Nghi ngờ về lời khai “ném xác" của BS Tường
- Diễn biến vụ bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tường ném xác nạn nhân xuống sông
- Sau vụ bác sĩ ném xác xuống sông, hàng loạt thẩm mỹ viện bị 'sờ gáy'
- Sự thực thi thể trên sông nghi là nạn nhân của thẩm mỹ viện Cát Tường
- Ai đã bảo kê cho thẩm mỹ viện Cát Tường hoạt động chui?
Có mặt tại khu vực dưới chân cầu Thanh
Trì, theo ghi nhận của phóng viên Báo Giáo dục Việt Nam, lúc khoảng gần
14 giờ ngày 29/10 một người tự xưng là "thầy" đã quỳ trước bàn thờ tạm
của chị Lê Thị Thanh Huyền được đặt ở dưới mé sông Hồng. Người đàn ông
này đã tiền hành những "thủ thuật gọi hồn".
Sau khi các thủ tục vừa hoàn tất, chưa đầy 5 phút sau, ông Nguyễn Văn Chung người dân làm gần khu vực chị Huyền bị ném xác đã báo tin giọng hết sức gấp gáp: “Có anh Ngọc, cảnh sát đường thủy đã gọi điện báo tin tìm được một xác, nghi vấn là xác chị Huyền…”.
Sau khi các thủ tục vừa hoàn tất, chưa đầy 5 phút sau, ông Nguyễn Văn Chung người dân làm gần khu vực chị Huyền bị ném xác đã báo tin giọng hết sức gấp gáp: “Có anh Ngọc, cảnh sát đường thủy đã gọi điện báo tin tìm được một xác, nghi vấn là xác chị Huyền…”.
| ||
Ngay lập tức mọi người vây xung quanh
ông Chung hỏi thăm thông tin đó có chính xác hay không? Ông Chung nói:
“Sự thật đấy chứ, tôi nói sai làm gì đâu. Số điện thoại của anh ý vẫn
còn lưu trong máy của tôi đây, các chú không tin thì gọi lại xem”.
| ||
Mọi người lấy số điện thoại lập tức gọi
lại thì đúng là đã tìm được xác của một người tại cầu Yên Lệnh (Cây cầu
nối giữa hai tỉnh Hà Nam và Hưng Yên).
Chia sẻ những cảm xúc cho người xấu số,
đồng thời cũng bán tin bán nghi với người tự xưng là "thầy" giấu tên.
Chị Lê Thanh Mai, Lò Đúc, Hà Nội chia sẻ: “Không biết thầy này có giỏi
như thế không? Nhưng trước khi tìm được xác thầy đã tuyên bố xác sẽ tìm
được vào lúc 13h đến 15h ngày hôm nay, lúc đấy trời sẽ chuyển mưa”. Nhìn
lên trời thì mọi người chứng kiến thấy trời chuẩn bị báo mưa, càng thêm
nghi ngờ khả năng của thầy là có thật?
| ||
Phóng viên báo Giáo dục Việt Nam xin
được hỏi danh tính thì thầy tuyệt nhiên không nói, tìm cách lẩn tránh
những câu hỏi của chúng tôi.
| ||
| ||
Với hy vọng mong người xấu số được về
với gia đình để an táng, khi nhận được thông tin nghi vấn xác chị Huyền.
Anh Lê Văn Tuấn có mặt tại hiện trường nguyện cầu: “Mong sao xác đấy là
của chị Huyền”.
Người qua đường đứng chật cầu khi nghe tin về xác nạn nhân |
Hiện xác tìm thấy đang được cơ quan công an tiến hành xác minh, nhận diện nạn nhân.
Như Báo Giáo dục Việt Nam đã đưa tin, vào lúc 14 giờ ngày 29/10, trao đổi với ông Vũ Văn Ngọc, cán bộ đội 3, Phòng cảnh sát giao thông đường thủy (Công an Hà Nội), ông Ngọc cho biết, nhận được tin từ một số người dân khu vực cầu Yên Lệnh (Hà Nam) vừa cấp báo, phát hiện một thi thể chưa rõ là nam hay nữ đang phân hủy nhưng có nhiều dấu hiệu giống với nạn nhân Lê Thị Thanh Huyền, nạn nhân trong vụ bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tường ném xác xuống sông Hồng.
(GDVN)
Hãy thức tỉnh đi, thưa các quan tham nhũng!
Trả lời báo Lao Động ngày 28/10 về 10 đại án tham nhũng, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Đỗ Văn Đương nói chắc nịch: “Phải tay tôi, ba tháng là xử xong”.- >> “Xử án tham nhũng - để con hư rồi đánh đập thì không ăn thua”
- >> Về 10 đại án tham nhũng, ĐBQH Đỗ Văn Đương: “Phải tay tôi, 3 tháng là xử xong”
(Minh họa: Ngọc Diệp)
Các cơ quan tố tụng đang thụ lý 10 vụ đại án tham nhũng nghĩ gì về điều này!
Ông
Đỗ Văn Đương còn đặt thẳng vấn đề về chuyển đổi tội danh cho tội phạm
tham nhũng để rồi chỉ chịu hình phạt nhẹ, sau đó được giảm án, đặc xá.
Lối
đánh tham nhũng này chẳng khác gì tạo đường cho tham nhũng chạy. Quả
thực, kiếm vài trăm tỉ đồng nhét túi. Nhỡ may bị phát hiện thì chạy án,
chịu mức hình phạt nhẹ nhàng, sau đó kiếm đường ra tù. Dẫu có bị tịch
thu một ít tài sản thì tiền bạc cũng tràn trề như nước, tha hồ hưởng
phúc tuổi già, con cái không học không làm cũng là triệu phú đô la.
Mới
nhất là thông tin về vụ án tham nhũng tại Công ty cho thuê tài chính II
thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 7 quan tham phá
đến 530 tỉ đồng. Một ví dụ sinh động cho sự phá của các quan tham là mua
một thiết bị lặn giá 100 triệu đồng, sau đó nâng khống lên 130 tỉ đồng,
gấp 1.300 lần. Số tiền chênh lệch này chia nhau xài cả đời không hết.
Nâng
giá một món hàng lên vài chục hay vài trăm tỉ đồng dễ dàng như vậy
không chỉ có ở một đơn vị mà nhiều nơi như thế. Vấn đề nguy hiểm không
chỉ là chuyện tham nhũng, mà là một cơ chế quá dễ để quan chức thực hiện tham nhũng.
Tiền
nhiều như vậy thỏa sức chơi bời, mỹ nhân mỹ tửu, xe sang biệt thự, tặng
em út căn hộ cao cấp và tặng nhiều người cần tặng khác.
Những
người mà các ông cỡ như Dương Chí Dũng, Vũ Quốc Hảo phải tặng quà là ai
vậy? Hãy nghe ông Đỗ Văn Đương phát biểu trên báo Lao Động:
“Phải
truy đến cùng người có quyền quyết định. Bởi làm sao có thể tham nhũng
được một cái lớn như thế, có phải cái kim, cái chỉ đâu mà là rất nhiều
tiền. Phải có sự kiểm soát rất chặt chẽ của các cơ quan chức năng khi
nhập khẩu những tài sản như vậy. Việc truy cứu đến cùng là rất cần
thiết, nhưng hiện nay thực sự để làm việc đó là không dễ”.
Thế
đấy, vẫn chỉ tóm được cỡ như Nguyễn Đức Kiên, Dương Chí Dũng, Phạm
Thanh Bình, Vũ Quốc Hảo. Còn khi ra tòa, câu chuyện lại như phần đã nói
trên. Thay đổi tội danh để giảm mức hình phạt và sau đó là giảm án…
Vấn
đề nguy hiểm không chỉ là tham nhũng mà là một hệ thống tố tụng, tư
pháp còn buông lỏng cho tội phạm tham nhũng. Điều này đã được Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đặt ra tại cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội ngày 18.9 vừa qua:
“Chưa
thấy nói rõ trong lực lượng đấu tranh phòng, chống tham nhũng có tiêu
cực, bỏ sót, bao che không? Có tham nhũng trong lực lượng đấu tranh
phòng, chống tham nhũng không?”.
Câu
hỏi đó vẫn chưa được trả lời bằng những bản án của các tòa án. Nhưng
xin nói với “quý vị quan tham” đang chễm chệ rung đùi trong các lầu son
gác tía, Dân đã viết xong “cáo trạng” về tội lỗi của từng vị, và phiên
tòa xét xử các vị không phải một lần mà suốt đời, nhiều đời trên các bia
miệng của dân chúng.
Hãy thức tỉnh đi thưa các quan tham!
Lê Chân Nhân
(Dân trí)
Chuyện không thể tin ở bệnh viện Đà Nẵng
Một buổi sáng Chủ nhật vừa qua,
uống cà phê với mấy cậu “bạn ruột”, tình cờ nghe được mấy câu chuyện
liên quan đến mấy bệnh viện ở Đà Nẵng.
Chuyện
thứ nhất là bố vợ của một cậu vừa mất, sau khi nằm hơn một tháng trên
giường bệnh của Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, theo ước tính của cậu ấy thì
chi phí thuốc men, một ngày ít nhất cũng hơn 1 triệu.
Ông cụ mất hơn một tuần thì cậu con rể đến bệnh viện để thanh toán các khoản chi phí sau khi lo xong chuyện ma chay. Khi làm thủ tục, cậu bạn tôi ngỡ ngàng khi được bệnh viện thông báo là…không tốn một đồng nào cả. Chuyện này không liên quan đến bảo hiểm y tế, mà là do ông cụ thuộc đối tượng bệnh nhân trên 80 tuổi, nên được miễn toàn bộ chi phí thuốc men và viện phí. Thì ra đây là quy định của TP mà người của bệnh viện nói là do “Ông Thanh (ông Nguyễn Bá Thanh) quyết như vậy”.
Chuyện thứ hai là chuyện do một anh bạn khác kể. Chuyện là, vừa rồi, anh chở mẹ vợ đi thăm một người quen, phải mổ và điều trị tại Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng, theo anh chứng kiến thì phòng bệnh nhân nằm rất sang, phòng nào cũng có máy lạnh, anh vào cái toilet trong buồng bệnh để “tìm hiểu”, thấy có một cái nút “lạ” bèn táy máy bấm vào, ai ngờ không lâu sau đó có một cô y tá chạy vào ngay, thì ra, đây là nút báo khẩn cấp dành cho bệnh nhân khi vào toilet, nếu có chuyện gì nghiêm trọng thì bấm vào đó, đèn ở ngoài sẽ báo đỏ và nhân viên y tế sẽ can thiệp ngay.
Chuyện tưởng nhỏ như vậy nhưng dễ gì có ở các bệnh viện khác kể cả ở Hà Nội hay TPHCM. Liên quan đến Bệnh viện Ung thư, người viết cũng đã vào đây một vài lần và nhận thấy rằng, đây quả là Bệnh viện rất quy mô và đẹp nhất mà bản thân từng thấy, nó trông như một cái khách sạn loại sang, vừa có công viên, có nhà lưu trú cho người nhà bệnh nhân, có “Cháo tình thương” phát miễn phí sáng, trưa chiều cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, mà lại rất ngon và bổ… Đây đúng nghĩa là “Nhà Thương” mà hồi xưa ông bà ta thường nói vì nó không lấy tiêu chí dịch vụ làm đầu mà đưa tiêu chí chăm sóc sức khỏe lên hàng đầu. Đến Bệnh viện này, dân nghèo, nhất là đặc biệt nghèo, không phải lo lắng về tiền bạc khi lâm bệnh, vì bệnh nhân sẽ được điều trị miễn phí.
Đồng chí Nguyễn Bá Thanh, hồi còn làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng đã bày tỏ về Bệnh viện này: “Chúng ta sẽ quyết tâm xây dựng thành công một Bệnh viện Ung thư, một trung tâm chẩn đoán và tầm soát ung thư hiện đại và một viện nghiên cứu về ung thư trên dải đất này. Đây là một bệnh viện ung thư hoạt động mang tính từ thiện, nhân đạo, hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận đầu tiên tại Việt Nam. Những bệnh nhân ung thư đặc biệt nghèo sẽ được miễn phí hoàn toàn”.
Trong khi nhiều bệnh viện ở các TP khác nêm cứng bệnh nhân, như tại TPHCM, bệnh nhân trẻ em không phải nằm viện mà “ngồi viện” bởi vì quá tải, thì Đà Nẵng lại xây dựng một bệnh viện hiện đại và miễn phí cho người nghèo. Điều mới mẻ khác nữa là việc tổ chức cho người nhà bệnh nhân ăn ở, không để nằm phải la liệt ngoài hành lang hay chui dưới gầm giường người bệnh.
Đã từng có nhiều bệnh nhân đi khám chữa bệnh ở nước ngoài, khi trở về, có người đã nói rằng: “Khám ở bệnh viện ở Singapore hay Mỹ, mới thấy mình là một con người”. Những nhận xét đó đó rất đáng để mọi người suy ngẫm. Và Đà Nẵng đã tiên phong cho hành động này.
Nhân “lan man” về chuyện “bệnh viện ở Đà Nẵng” cũng cần biết thêm là ở Đà Nẵng, bệnh nhân chạy thận nhân tạo không phải tốn tiền, vào bệnh viện công lập được giữ xe miễn phí, đi cầu thang máy không phải tốn tiền và các chi phí khi xe cứu thương phải bỏ ra khi làm nhiệm vụ đều được miễn đối với người được cấp cứu cũng như đối với các nạn nhân của các vụ tai nạn.
Để hướng tới một Đà Nẵng “Thành phố đáng sống” còn là một quá trình lâu dài, nhưng chí ít, khi lạm bàn về chuyện “đáng sống” từ những điều mắt thấy tai nghe ở trên, dù là dưới “góc độ bệnh viện” cũng thấy mục tiêu nhân văn kia hoàn toàn không phải là điều viển vông!
Theo ĐÀI PTTH ĐÀ NẴNG
Ông cụ mất hơn một tuần thì cậu con rể đến bệnh viện để thanh toán các khoản chi phí sau khi lo xong chuyện ma chay. Khi làm thủ tục, cậu bạn tôi ngỡ ngàng khi được bệnh viện thông báo là…không tốn một đồng nào cả. Chuyện này không liên quan đến bảo hiểm y tế, mà là do ông cụ thuộc đối tượng bệnh nhân trên 80 tuổi, nên được miễn toàn bộ chi phí thuốc men và viện phí. Thì ra đây là quy định của TP mà người của bệnh viện nói là do “Ông Thanh (ông Nguyễn Bá Thanh) quyết như vậy”.
Chuyện thứ hai là chuyện do một anh bạn khác kể. Chuyện là, vừa rồi, anh chở mẹ vợ đi thăm một người quen, phải mổ và điều trị tại Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng, theo anh chứng kiến thì phòng bệnh nhân nằm rất sang, phòng nào cũng có máy lạnh, anh vào cái toilet trong buồng bệnh để “tìm hiểu”, thấy có một cái nút “lạ” bèn táy máy bấm vào, ai ngờ không lâu sau đó có một cô y tá chạy vào ngay, thì ra, đây là nút báo khẩn cấp dành cho bệnh nhân khi vào toilet, nếu có chuyện gì nghiêm trọng thì bấm vào đó, đèn ở ngoài sẽ báo đỏ và nhân viên y tế sẽ can thiệp ngay.
Chuyện tưởng nhỏ như vậy nhưng dễ gì có ở các bệnh viện khác kể cả ở Hà Nội hay TPHCM. Liên quan đến Bệnh viện Ung thư, người viết cũng đã vào đây một vài lần và nhận thấy rằng, đây quả là Bệnh viện rất quy mô và đẹp nhất mà bản thân từng thấy, nó trông như một cái khách sạn loại sang, vừa có công viên, có nhà lưu trú cho người nhà bệnh nhân, có “Cháo tình thương” phát miễn phí sáng, trưa chiều cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, mà lại rất ngon và bổ… Đây đúng nghĩa là “Nhà Thương” mà hồi xưa ông bà ta thường nói vì nó không lấy tiêu chí dịch vụ làm đầu mà đưa tiêu chí chăm sóc sức khỏe lên hàng đầu. Đến Bệnh viện này, dân nghèo, nhất là đặc biệt nghèo, không phải lo lắng về tiền bạc khi lâm bệnh, vì bệnh nhân sẽ được điều trị miễn phí.
Đồng chí Nguyễn Bá Thanh, hồi còn làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng đã bày tỏ về Bệnh viện này: “Chúng ta sẽ quyết tâm xây dựng thành công một Bệnh viện Ung thư, một trung tâm chẩn đoán và tầm soát ung thư hiện đại và một viện nghiên cứu về ung thư trên dải đất này. Đây là một bệnh viện ung thư hoạt động mang tính từ thiện, nhân đạo, hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận đầu tiên tại Việt Nam. Những bệnh nhân ung thư đặc biệt nghèo sẽ được miễn phí hoàn toàn”.
Trong khi nhiều bệnh viện ở các TP khác nêm cứng bệnh nhân, như tại TPHCM, bệnh nhân trẻ em không phải nằm viện mà “ngồi viện” bởi vì quá tải, thì Đà Nẵng lại xây dựng một bệnh viện hiện đại và miễn phí cho người nghèo. Điều mới mẻ khác nữa là việc tổ chức cho người nhà bệnh nhân ăn ở, không để nằm phải la liệt ngoài hành lang hay chui dưới gầm giường người bệnh.
Đã từng có nhiều bệnh nhân đi khám chữa bệnh ở nước ngoài, khi trở về, có người đã nói rằng: “Khám ở bệnh viện ở Singapore hay Mỹ, mới thấy mình là một con người”. Những nhận xét đó đó rất đáng để mọi người suy ngẫm. Và Đà Nẵng đã tiên phong cho hành động này.
Nhân “lan man” về chuyện “bệnh viện ở Đà Nẵng” cũng cần biết thêm là ở Đà Nẵng, bệnh nhân chạy thận nhân tạo không phải tốn tiền, vào bệnh viện công lập được giữ xe miễn phí, đi cầu thang máy không phải tốn tiền và các chi phí khi xe cứu thương phải bỏ ra khi làm nhiệm vụ đều được miễn đối với người được cấp cứu cũng như đối với các nạn nhân của các vụ tai nạn.
Để hướng tới một Đà Nẵng “Thành phố đáng sống” còn là một quá trình lâu dài, nhưng chí ít, khi lạm bàn về chuyện “đáng sống” từ những điều mắt thấy tai nghe ở trên, dù là dưới “góc độ bệnh viện” cũng thấy mục tiêu nhân văn kia hoàn toàn không phải là điều viển vông!
Theo ĐÀI PTTH ĐÀ NẴNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét