Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

Thủ đoạn tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam của Minh Thành Tổ & Thủy điện: Sau bùng nổ là... trả giá!

Cái giá của độc đảng

Đảng kỳ của Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn diện đất nước Việt Nam suốt mấy mươi năm qua

Việc Đảng Cộng sản Việt Nam quyết bám giữ quyền lãnh đạo của mình là điều dễ hiểu.

Nhưng cái lý lẽ Đảng đưa ra mới khó hiểu.

Đảng nói rằng điều đó có lợi cho dân cho nước – đây là điều cần phải bàn lại.

Nhưng nó có lợi cho Đảng trước hết thì không có gì phải bàn cãi.

Thử động đến quyền lãnh đạo của Đảng xem. Sẽ biết!

Những ngày này, có lẽ ít ai biết rõ điều này hơn ông Lê Hiếu Đằng, người vừa kêu gọi thành lập đảng đối lập.

Đánh người nằm bịnh

Đầu tiên các báo mang họ ‘nhân dân’ nhưng thân Đảng điểm mặt ông Đằng. Tiếp đến các báo tỉnh báo thành, rồi báo ngành báo nghề đều ùa vào dập ông Đằng tới tấp.

Ỏng Lê Hiếu Đằng
Ỏng Lê Hiếu Đằng không phải là cán bộ Đảng đầu tiên đã từng phản bác Đảng

Tôi nghĩ các nhà lý luận của Đảng đang cơn giận mà nói vậy chứ chưa suy xét kỹ nội tình câu chuyện của ông Đằng.

Có câu: ‘Chim sắp chết cất tiếng nỉ non; người sắp chết nói lời thành thật’. Khi được ‘viết trong những ngày nằm bịnh’ – mà là trọng bệnh có phần sống phần chết – thì tôi tin những lời ông Đằng viết ra là rút gan rút ruột tận đáy lòng.

Với một người đã lăn lộn trong lòng Đảng bao nhiêu năm, một người lúc nào cũng cảm nghĩ về tình hình đất nước và trong khoảnh khắc thành thật nhất thì lời kêu gọi ‘thoái Đảng, lập đảng đối lập’ của ông thật không thể coi thường.

Hơn nữa, lúc đó tính mạng còn không giữ được thì ham hố chi mà ‘mưu đồ chính trị’ với ‘vị kỷ cá nhân’?

Với lại, từ bỏ niềm tin, đi giết lòng mình thì có dễ không nhất là khi cả đời đã hy sinh vì nó?

Cho nên, nói sao chứ ông Đằng không thể hàm hồ được. Ắt hẳn ông đã suy xét cặn kẽ, cân nhắc thấu đáo mọi bề trước khi đi đến quyết định làm Đảng tối tăm mặt mũi như thế.

Công và lợi

Theo báo Đảng thì sự lãnh đạo của Đảng nhân dân hoàn toàn ủng hộ còn lý do vì sao các học giả đã ‘phân tích nát nước’. Còn gì để bàn cãi nữa?

Theo sự phân tích này, thì nguyên do chính Đảng độc quyền lãnh đạo là Đảng có công còn dân có lợi.

Công là Đảng đã ‘cứu nước cứu dân’ và sắp sửa làm cho ‘dân giàu nước mạnh’. Công lớn bằng trời nên Đảng được độc quyền lãnh đạo trên toàn cõi Việt Nam.

Lãnh đạo LDP Shinzo Abe
Sau khi bị dân Nhật truất quyền, Đảng Dân chủ Tự do của ông Abe đã trở lại mạnh mẽ

Về ‘cứu nước cứu dân’ thì Đảng Quốc đại (INC) bên Ấn Độ chắc không thua gì Đảng vì đã dẫn dắt nhân dân Ấn Độ giành độc lập mà không tốn nhiều xương máu.

Về ‘dân giàu nước mạnh’ thì Đảng Dân chủ Tự do (LDP) của Nhật chắc không phải hổ thẹn so với Đảng vì đã đưa nước Nhật từ đống tro tàn thành cường quốc thế giới.

Ngay Campuchia sát bên, Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) có công cứu nước khỏi họa diệt chủng lại còn đưa đất nước phát triển ổn định cho đến nay.

Nói như Đảng thì INC, LDP và CPP phải triệt hết đảng khác, viết lại Hiến pháp để tiếm quyền lãnh đạo hay sao?

Hoặc là họ không đủ ‘đỉnh cao trí tuệ’ như Đảng ta, hoặc là dân nước họ khó hơn dân ta nên họ không làm được như Đảng chăng?

Cứ cho là có công thì được quyền lãnh đạo đi, vậy còn có tội thì sao?

Cải cách ruộng đất bao nhiêu người chết? Kinh tế tập trung bao cấp tàn phá đất nước như thế nào? Tham nhũng làm mất bao nhiêu tiền thuế của dân? Rồi còn hàng tỉ đôla tiền thuế của dân chìm theo con tàu Vinashin thì sao?

Chẳng phải ‘thế lực thù địch’ nào mà chính Đảng đã thừa nhận những ‘sai lầm khuyết điểm’ kể trên.

Chẳng lẽ vài lời xin lỗi, mấy giọt nước mắt, một số vị bị cách chức, một vài người đi tù là xong? Còn Đảng chẳng hề hấn gì, vẫn cứ điềm nhiên tại vị.

Phiên tòa xét xử các quan chức Tiên Lãng
Các quan chức Tiên Lãng nhận mức án nhẹ hơn nhiều so với gia đình Đoàn Văn Vươn

Công lớn thì được thưởng to, tội nặng chỉ bị phạt nhẹ. Ai thông minh bằng Đảng đây?

Hơn nữa, theo lý mà suy, nếu dân thật sự trao quyền cho Đảng thì dân phải có quyền trừng phạt sai lầm của Đảng chứ?

Thế mà dân chả làm gì được Đảng cả. Có chăng được Đảng xin lỗi đã là hạnh phúc lắm rồi.

Lời nói suông

Công bằng mà nói, ở vị trí lãnh đạo đất nước, Đảng cũng muốn dân giàu nước mạnh. Có như thế Đảng mới chứng tỏ cái tài lãnh đạo của mình.

Cho nên câu nói ‘Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân’ trong chừng mực nào đó cũng có thể xem là lời nói thật lòng.

Nhưng nếu vì thế mà cho rằng nên cho Đảng lãnh đạo thì chẳng khác nào đi dụ trẻ con.

Đảng chính trị nào không đặt mục tiêu vì dân vì nước? Tự dưng họ lập ra đảng phục vụ lợi ích riêng của họ rồi để dân bầu được sao?

Đảng nói dân từng theo Đảng giành độc lập dân tộc. Nhưng Đảng cũng nói một Đảng hôm qua tốt thì không có nghĩa hôm nay vẫn được dân tin.

Do đó, nếu không có gì đảm bảo Đảng chỉ vì và luôn vì lợi ích của dân thì đó chỉ là lời nói suông to tướng.

Nông dân Văn Giang chống chính quyền
Nông dân vốn hiền lành chất phác sao vẫn phản kháng chính quyền?

Không chỉ nói suông mà thực tế dường như chứng minh điều ngược lại.

Câu chuyện về tiếng súng của Đoàn Văn Vươn là minh chứng rõ ràng về việc chế độ Đảng quyền vì dân hay vì Đảng.

Chính quyền huyện Tiên Lãng thừa hiểu pháp luật nhưng họ vẫn cưỡng chế ngoài diện tích có quyết định cưỡng chế, phá nhà khi không có quy định cho phá nhà. Họ sẵn sàng chà đạp lên pháp luật. Vì sao? Vì pháp luật họ nắm trong tay và họ biết rằng người dân chả là gì trước chính quyền.

Một bên là người dân không có gì ngoài vũ khí tự tạo. Một bên là chính quyền với toàn bộ hệ thống quân đội, công an, luật pháp, tòa án và bộ máy tuyên truyền.

Đoàn Văn Vươn thể hiện hình ảnh của một người dân đen đúng nghĩa trước một chính quyền quá uy quyền.

Đảng nói Đảng cần toàn quyền để phục vụ nhân dân nhưng ai dám chắc Đảng không dùng quyền lực đó để trấn áp dân?

Chẳng lẽ người nông dân bảo vệ mồ hôi xương máu của mình lại là thế lực thù địch?

Chẳng lẽ Đảng vì lợi ích toàn dân nên có xâm phạm lợi ích một người dân cũng chẳng sao?

Nếu chính quyền thật sự vì dân thì họ đã suy nghĩ khác và hành xử khác.

Nếu chính quyền thật sự vì dân thì đâu có cảnh hàng ngàn nông dân mất đất mất đai bỏ nhà bỏ cửa ăn dầm nằm dề đi khiếu kiện từ ngày này qua tháng khác.

Chính quyền vì dân chắc không thể không hiểu rằng tiền bồi thường ăn tiêu dăm mười năm cũng hết, còn nhà cửa, ruộng vườn là nơi sống và sinh kế cả đời người ta.

Hậu quả không nhỏ

Đại hội Đảng Cộng hòa ở Mỹ năm 2012
Người dân Mỹ có nghĩ như Đảng là nước họ không dân chủ?

Công bằng mà nói nếu Đảng không vì dân thì dân đã không theo Đảng trong công cuộc giành độc lập trước đây.

Nhưng nay, nếu ai đó yêu cầu đưa hoạt động của Đảng vào quy củ bằng một đạo Luật thì Đảng nói ‘không cần thiết’. Trí tuệ đỉnh cao như thế thật khó ai bằng!

Về mặt thực tế, có những điều chứng minh ngược lời Đảng nói.

Về mặt lý thuyết, độc đảng dẫn đến những hậu quả không nhỏ mà không hiểu sao dù đã ‘phân tích nát nước’ nhưng các nhà lý luận của Đảng vẫn không nhìn thấy.

Một đảng nắm quyền lực tuyệt đối thì liệu có cưỡng được cám dỗ muốn làm gì thì làm, nhất là làm lợi cho bản thân, hay không?

Một Đảng không hề biết cạnh tranh là gì và sắp tới cũng không muốn cạnh tranh với ai liệu có luôn biết phấn đấu hay không?

Một Đảng mà người dân không bầu nhưng vẫn nắm quyền thì liệu có hiểu được tâm tư nguyện vọng của dân hay không?

Thành phố Việt Nam
Thành tích lãnh đạo của Đảng liệu chỉ có 'thắng lợi này đến thắng lợi khác'?

Không phải các nhà tư tưởng Ánh sáng ở Pháp ở không vẽ chuyện ‘tam quyền phân lập’; không phải những người sáng lập nước Mỹ rỗi hơi tự dưng tìm cách kiểm soát quyền lực.

Từ kinh nghiệm bản thân họ biết quyền lực không kiểm soát sẽ như thế nào.

Ai mà không vì lợi ích của bản thân? Ai mà chẳng muốn hô gió có gió, vẫy mưa được mưa? Ai đã nắm được quyền lực rồi mà lại chịu nhả ra bao giờ?

Chỉ khi một đảng không ham muốn quyền lực, chỉ khi quyền lực được kiểm soát thì quyền lực đó mới được sử dụng vì lợi ích của dân. Còn một đảng chăm chăm vào quyền lực thì không biết đảng đó sẽ làm chuyện gì.

Bệnh không uống thuốc

Vậy còn một đảng luôn ‘phê và tự phê’ thì sao? Liệu có là Đảng tốt cho dân?
Ngày xưa, vào Đảng là gian khổ, là hy sinh, thậm chí bỏ mạng. Tôi tin đó là đảng cách mạng và có sức mạnh.

Còn bây giờ, Đảng chễm chệ ngồi trên cao. Vào Đảng là có cơ lên chức nắm quyền, thêm tiền thêm bạc. Đảng đã trở thành một nơi dễ tha hóa và mất sức chiến đấu.

Khi nào vào Đảng không tự khắc sẽ có quyền hành, khi nào vào Đảng là phải làm sao để được dân bầu, khi nào biết thắc thỏm lo âu sợ dân quay lưng thì các đảng viên mới tận tâm tận lực.

Có người nói đảng viên suy thoái chỉ là hiện tượng, nhưng suy thoái mãi không sửa được thì đã thành bản chất mất rồi!

Không phải bây giờ mà mấy chục năm qua lúc nào cũng nghe chỉnh đốn Đảng.

Panô tuyên truyền của Đả̀ng
Đảng đề ra công thức nhân dân làm chủ nhưng vẫn phải để Đảng lãnh đạo

Đơn giản con người tốt hay xấu không thể chỉ trông chờ vào ý thức bản thân được.

Căn bệnh suy thoái trong Đảng không phải không có thuốc chữa. Có điều liều thuốc này Đảng nhất định không chịu uống.

Quyền lực của dân

Có người nói đa đảng là âm mưu muốn giành quyền lực của Đảng. Suy cho cùng, đa đảng chính là trả quyền lực về cho nhân dân.

Người dân Campuchia tổng tuyển cử tháng 7 năm 2013
Người dân các nước, trong đó có Campuchia, có quyền lựa chọn đảng phái để giao quyền lực

Người dân thông qua lá phiếu sẽ thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình. Đảng nào giỏi thì dân chọn để giao quyền. Đó là quyền mà người dân nhiều nước có từ lâu nhưng người dân Việt Nam chưa được hưởng.

Người dân đổ mồ hôi xây dựng nên đất nước này, bỏ xương máu bảo vệ mảnh đất này thì chính người dân chứ không phải bất kỳ đảng phái nào mới là chủ nhân của dải non sông gấm vóc này.

Đảng người ta được dân bầu lên nắm quyền, còn Đảng ta vừa cầm quyền vừa nơm nớp lo sợ bị người dân lật đổ. Xem cái cách Đảng bao quanh mình bằng công an, quân đội, bằng bộ máy tuyên truyền trong khi đảng người ta không phải làm như vậy thì thử hỏi ai chính đáng hơn ai?

Bao nhiêu tiền của của nhân dân, bao nhiêu nguồn lực của đất nước đã được chi tiêu vào mục đích bảo vệ Đảng.

Xem ra cái giá của độc đảng không hề nhỏ. Số tiền đó mà đem đi đầu tư phát triển đất nước thì sẽ như thế nào?

Chẳng lẽ nhân dân Việt Nam không xứng đáng tự quyết định vận mệnh của mình hay sao?

Đảng có công to nhường ấy, trí tuệ nhường ấy, tài năng nhường ấy, tâm huyết nhường ấy, uy tín nhường ấy mà sợ dân không bầu cho Đảng sao?

‘Dân chủ độc đảng’

Một phiên họp phê và tự phê của Đảng
Liệu phê và tự phê có là cứu cánh cho Đảng?

Ấy vậy mà không biết các lý thuyết gia của Đảng nặn kiểu gì thành ra ‘độc đảng vẫn dân chủ’ còn ‘đa đảng chưa chắc đã dân chủ’.

Tôi chỉ nghĩ đơn giản là trong một gia đình mà chỉ một anh có toàn quyền còn những người khác không được phép hó hé thì chắc chắn không phải là dân chủ.

Với lại, cuộc sống này vốn dĩ đã đa nguyên, trăm người mười ý không ai giống ai thì tại sao chỉ có tư tưởng cộng sản mới được tồn tại còn những tư tưởng khác thì không?

Để giải thích cho cái ‘độc đảng dân chủ’ ấy, Đảng dùng đến ‘tính giai cấp’.

Tuy nhiên, dùng một khái niệm mà chỉ tồn tại trong phạm vi của Đảng Cộng sản để rồi đi đến kết luận về tính dân chủ vốn là một giá trị phổ quát của loài người thì liệu có hợp lẽ?

Thử hỏi người dân các nước xem có ai cho mình thuộc giai cấp nào và có dùng ‘bạo lực cách mạng’ để ‘đấu tranh giai cấp’ hay không? Ngay ở Việt Nam bây giờ mà hỏi ai đó thuộc giai cấp bóc lột hay bị bóc lột có khi người ta xem anh là người cõi nào mới xuống.

Đảng nói ở Mỹ dù Dân chủ hay Cộng hòa thì đều là của giai cấp tư sản và phục vụ lợi ích riêng giai cấp. Nếu vậy người dân Mỹ bầu cho các đảng này làm gì? Còn Đảng Cộng sản của giai cấp bị bóc lột đó, sao dân Mỹ họ không bầu?

Còn nếu nói đa đảng là của ‘giai cấp tư sản’ vậy thì ở Nga giải thích thế nào về việc Đảng Cộng sản nước này có thể làm nên chuyện trong các kỳ bầu cử?

Một phiên họp của Quốc hội Việt Nam
Quốc hội Việt Nam là của dân bầu nhưng sao lại toàn tuân theo lệnh Đảng?

Đảng cảnh báo tranh chấp đảng phái ‘cản trở sự phát triển chung của xã hội’. Thế sao các nước phương Tây phát triển nhanh thế? Không có ai săm soi thì tha hồ mà tự tung tự tác à? Lúc đó sự phát triển còn bị cản trở hơn mấ́y lần.

Nếu Đảng cứ nhẫt quyết đòi độc quyền lãnh đạo đất nước thì trách nhiệm Đảng phải gánh vác lớn đến thế nào chắc hẳn Đảng phải biết. Mọi thành bại của dân tộc, hưng vong của đất nước đều nằm trong tay Đảng.

Điều thấy rõ là trong lúc thế giới phát triển vũ bão như hiện nay, Việt Nam đứng trước nguy cơ tụt hậu hơn bao giờ hết.

Nguyễn Lễ
BBCVietnamese.com, Bangkok

Gánh nặng ngân sách ở Việt Nam

Ngân sách của Việt Nam chịu áp lực lớn khi tiếp tục phải chi lương bổng, phụ cấp cho cán bộ của nhiều cơ quan, tổ chức thuộc khu vực của Đảng đoàn, đoàn thể chính trị, xã hội của Đảng, theo nhà quan sát từ Việt Nam.
Hiện nay, lương, thưởng, chế độ của khu vực các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể như cơ quan Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên, hội liên hiệp phụ nữ, hội nông dân và nhiều hội, tổ chức khác vẫn được nhà nước Việt Nam chi trả từ ngân sách công và đối xử như các công chức trong biên chế.
Theo nhà quan sát ở trong nước, nếu quỹ lương này càng lớn, thì việc chi trả lương bổng, chế độ sẽ chiếm tỷ lệ càng lớn và là một gánh nặng cho cân đối ngân sách.
Trao đổi với BBC tuần này từ Hà Nội, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Quý Thọ, Chủ nhiệm Khoa Chính sách công thuộc Học viện Chính sách và Phát triển nói:
"Ngoài bộ phận này ra, còn số một số bộ phận như nghiên cứu, thậm chí là đào tạo hay quản lý vẫn còn có bộ phận để hưởng ngân sách, người ta gọi là bộ phận sự nghiệp có thu và bộ phận sự nghiệp bán có thu, vẫn được hưởng theo ngân sách."
Theo chuyên gia điều này gây nên ra các khoản chi thường xuyên, trong đó có chi trả lương rất lớn.
Không chỉ hạn chế ở trả lương, giới quan sát cũng thấy ngân sách công của khu vực Nhà nước lâu này còn bị chia sẻ và dành một phần không nhỏ để chi cho các hoạt động của các tổ chức, đoàn thể chính trị của Đảng được lồng ghép trong hệ thống hưởng ngân sách.
Quỹ lương cho biên chế nhà nước và hưu trí đang gây áp lực lên ngân sách công.
'Ăn theo ngân sách'
Trước câu hỏi, nếu hệ thống các tổ chức chính trị này không tự hạch toán và tự chi, mà dựa vào ngân sách, thì việc này có ảnh hưởng ra sao tới chi ngân sách công, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên cố vấn Thủ tướng Chính phủ nói:
"Khoản chi ngân sách cho chi thường xuyên bao gồm toàn thể bộ máy hành chính của nhà nước,
"Và ở Việt Nam thì ngân sách còn bảo đảm cho chi ngân sách cho các tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, như là Mặt trận Tổ quốc, như là Hội Phụ nữ, như các tổ chức khác."
Tiến sỹ Doanh cũng xác nhận đây là những khoản mà hiện nay ngân sách công của Việt Nam đang phải chịu chi trả; trong khi đó, ở nhiều quốc gia khác các tổ chức chính trị có thể phải khai thuế và nộp nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách, hoặc phải dựa vào nguồn thu được cung cấp từ khu vực xã hội dân sự.
Theo các chuyên gia, việc giảm biên chế của các tổ chức 'ăn theo ngân sách' này trong nhiều năm qua vẫn luôn là một câu hỏi chưa có lời đáp.
Phó Giáo sư Thọ từ Học viện thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói: "Không phải đơn giản có thể giảm các bộ phận như đã nói,
"Nhiều năm nay người ta cũng có nhiều ý kiến trái chiều thí dụ như liệu có thể giảm được biên chế của các tổ chức chính trị - xã hội, hay các tổ chức xã hội - nghề nghiệp không, thì câu trả lời là chưa được."
Chuyên gia về chính sách công cho rằng vẫn cần các tổ chức này để 'yên dân' và chưa thể thay đổi chính sách bao cấp, trả lương, chi ngân sách cho khối tổ chức này vì những lý do 'nhạy cảm'.
'Lương bổng tướng, tá'
Việt Nam đang trong thời bình, tuy nhiên gần như hàng năm, Nhà nước vẫn có các đợt phong, thăng quân hàm khá quy mô cho rất nhiều cán bộ trung cao cấp, từ cấp tá tới cấp tướng trong lực lượng vũ trang, thuộc cả biên chế công an hay quân đội.
Việc duy trì lương bổng, chế độ gắn với thu nhập thực tế cho khối sỹ quan cao cấp này, chưa kể tới hưu bổng, được cho là có ảnh hưởng mang tính áp lực tới chi ngân sách, như Phó Giáo sư Thọ nói:
"Nếu ba năm một lần tăng lương như vậy, thì lương sẽ rất lớn, và cứ đặc biệt tăng lương như thế.
"Đặc biệt trong trường hợp thăng quân hàm hiện nay cũng như thế, số sỹ quan cấp tá, cấp tướng rất nhiều, tất nhiên những ai được đảm nhiệm những chức vụ nhất định như cục trưởng, cục phó, hoặc lãnh đạo cao hơn, thứ trưởng hoặc các chức khác, thì người ta sẽ tiếp tục được duy trì."
Tuy nhiên, Phó Giáo sư Thọ nói thêm: "Nếu cứ tăng đều đặn cả về quân hàm và lương bổng như vậy, mà quân hàm đi kèm theo chế độ lương bổng, sẽ gây một áp lực về lương rất lớn."
Được hỏi về đánh giá chung về tính hợp lý và hiệu quả trong cân đối chi với thu ngân sách nói chung ở Việt Nam, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) nói:
"Đây đúng là một vấn đề về mà Việt Nam hiện nay đang mất cân đối ngân sách nghiêm trọng, năm nay, nguồn thu ngân sách bị giảm sút, tuy vậy chi ngân sách vẫn rất cao."
Theo Tiến sỹ Doanh, trang trải các khoản chi thường xuyên này chiếm một tỷ trọng rất lớn trong chi ngân sách của Việt Nam, trong khi đó chi đầu tư từ ngân sách lại bị giảm sút nhiều.
Gần đây, Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố một xếp hạng trong đó Việt Nam được thấy có sự thăng hạn trong năng lực cạnh tranh toàn cầu, từ xếp thứ 75 nâng lên xếp thứ 70.
Tuy vậy, về chỉ số về lãng phí trong chi ngân sách, Việt Nam lại xếp thứ 102.
"Tức là phần chi ngân sách và lãng phí ngân sách được Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá là nghiêm trọng rất nhiều so với vị thế cạnh tranh của Việt Nam," Tiến sỹ Doanh bình luận.
(BBC)

Thủ đoạn tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam của Minh Thành Tổ

Nhưng còn một lẽ sâu xa nữa là có đưa đạo Nho lên làm “đạo thống” thì mới dễ dàng phát huy ảnh hưởng của “thiên triều” tới các cõi xa, nói như họ Khổng là “làm cho xa thư về một mối”. Và khi đã “gắn bó với nhau về ý thức hệ” thì há miệng mắc quai, cúi mọp đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu.

Tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam :
Thủ đoạn của Minh Thành Tổ trong cuộc
chiến tranh xâm lược 1406-1407

Nguyễn Huệ Chi


Nguyên đây là một phần trong thiên khảo luận dài có tên “Cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm lược Minh và văn học yêu nước thế kỷ XV cùng những bước nối tiếp về sau” viết năm 1980, in trong công trình Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi (NXB Giáo dục, 2013) đã được phê bình, giới thiệu trên nhiều trang mạng và báo chí trong nước thời gian gần đây. Diễn Đàn trân trọng cảm ơn GS Nguyễn Huệ Chi đã cho phép trích đăng bài viết đó để giúp bạn đọc nhìn sâu vào một khía cạnh đặc biệt thâm hiểm của Hoàng đế Minh Thành Tổ – kẻ thiết kế toàn bộ kế hoạch đánh chiếm Việt Nam ở đầu thế kỷ XV: âm mưu đồng hóa người Việt bằng một chủ trương rất bài bản và “cao tay”... là lệnh cho quân lính xóa sạch tại chỗ văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc Việt tại những nơi chúng tràn đến như nước lũ. Hầu hết cứ liệu để cập trong bài được rút từ một cuốn sử Trung Quốc – cuốn Việt kiệu thư 越 嶠 書 của sử thần Lý Văn Phượng 李 文 鳳, soạn năm 1540.
Vào năm cuối cùng của thế kỷ XIV, lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam diễn ra một bước ngoặt: Hồ Quý Ly lật đổ ngai vàng của nhà Trần mà thành lập một triều đại mới – triều đại nhà Hồ. 32 năm trước đó, năm 1368, lịch sử chế độ phong kiến Trung Hoa cũng đã từng diễn ra một bước ngoặt: nền thống trị của đế quốc Nguyên – Mông bị phong trào nông dân Trung Quốc đánh đổ; Chu Nguyên Chương nhảy lên ngai vàng với bộ lễ phục của một triều đại mới – triều đại đế quốc Minh. Trước sau 30 năm, trên hai đất nước láng giềng, các ông chủ mới đã lần lượt thế chân các ông chủ cũ. Nhưng tình hình đó tuyệt không làm thay đổi một chút nào mối quan hệ vốn có. Trái lại, nó chỉ càng làm nặng nề thêm những gì trong quá khứ vốn đã quá nặng nề. Những vị Hoàng đế nhà Minh – mới nắm được “ngôi trời” – cảm thấy mình còn dư sức, con mắt thèm khát nhìn ngay xuống mảnh đất giàu có phương Nam với lòng tự tin rằng, mình có thể làm được cái việc “chinh phục” Đại Việt mà những đế chế trước mình đã phải bó tay. Về phía các vua nhà Hồ, cố nhiên họ hiểu rất rõ dã tâm đó của “thiên triều”. Ngay khi vừa lên ngôi, họ đã tích cực chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó. Thế rồi, vào ngày 19 tháng 11 năm 1406, chiến cuộc đã nổ ra, gay gắt, chớp nhoáng. Nhà Hồ thất sách về chính trị và sai lầm chiến thuật về quân sự nên chưa đầy một năm sau đành lâm vào thất bại. Vua Minh lập tức cho đổi trở lại tên Đại Việt thành quận Giao Chỉ, quàng vội ách đô hộ lên khắp nước ta.
Nhưng nhân dân Đại Việt vốn đã có truyền thống hàng nghìn năm cảnh giác với kẻ thù phương Bắc, đâu dễ dàng cam chịu ngồi yên. Và khi mà Minh Thành Tổ tưởng mọi việc đã xong, ra lệnh cho quân lính sửa soạn rút lui, thì cũng chính là lúc một phong trào kháng chiến cứu nước của nhân dân bắt đầu trỗi dậy. Rồi từ đó, hết phong trào này đến phong trào khác, cuộc chiến đấu vì độc lập của xã tắc đã kéo dài hơn 20 năm cho kỳ đến thắng lợi.
*
*     *
Điều cần nói ngay là bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV đã hiện ra với tất cả vẻ khốc liệt và dữ dội. Không phải bản thân chiến cuộc 1406 với tầm mức gay gắt của nó quyết định sự dữ dội này. Mấy thế kỷ trước, đám chúa trùm phong kiến Tống, Nguyên chẳng cũng đã mở những cuộc tấn công quy mô xuống Đại Việt, và về so sánh lực lượng, lần tấn công nào của họ mà lại không có cái thế tưởng như áp đảo kinh hồn? Nhưng vấn đề đặt ra trong cuộc xâm lăng lần này là nó nhằm thực hiện một mưu đồ còn hiểm sâu hơn cái việc cướp nước, giết dân thông thường, của một tên “Đại Hán” mà sự tàn bạo, xảo quyệt và man rợ trong thời đại của y có thể đứng vào loại nhất nhì thế giới. Ở tên Đại Hán đó có sự tích lũy tất cả những kinh nghiệm tàn ác của cha ông y trong quá khứ, kết hợp với những mánh khóe ranh ma mới mẻ nhất mà thời đại mới mang lại cho y. Chính vì vậy, nguy cơ của cuộc xâm lăng lần này đã đặt người dân Đại Việt trước một yêu cầu thức tỉnh toàn diện để có thể đứng vững, hơn thế nữa, để lớn vượt lên. Cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền và xây dựng đất nước của các thế hệ cha ông ta trong vòng hơn 20 năm (1406 - 1427) rõ ràng là một cuộc vật lộn oanh liệt mà kết quả đã tạo ra một bước đổi thay lịch sử phi thuờng. Nắm cho được bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV chính là nắm cho được hai điển hình đối lập tuyệt đối trong bước đổi thay lịch sử phi thường đó: kẻ thù là kẻ thù mới với những thủ đoạn xưa kia chưa từng thấy, nhưng về mặt mưu đồ và bản chất hiểm ác vẫn chính là hiện thân của những tên xâm lược cũ; và dân tộc ta tuy gắn bó với quá khứ sâu nặng nhưng lại là một dân tộc đang thăng hoa khỏi tầm vóc quá khứ, biểu hiện một sức mạnh hồi sinh.
Ngón đòn cổ điển nhất của các vị Hoàng đế phương Bắc trước hết là những âm mưu gây hấn đối với Việt Nam. Về phương diện này, nhà Minh đã tỏ ra không kém cạnh chút nào so với các triều đại cha anh của họ. Vì thế, cũng giống như tình hình của rất nhiều cuộc “Nam chinh” trong quá khứ, chiến cuộc 1406 thật ra đã được “thiên triều” chuẩn bị chu đáo trước đấy lâu lắm rồi. Vấn đề là về hình thức, phải tìm ra một cái cớ thích hợp để mà “sinh sự”, và về thực chất, phải làm sao dò thật trúng thực lực của Đại Việt để lượng sức mình. Hai mặt này thường vẫn gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình chuẩn bị âm thầm của họ. Năm 1377, chỉ mới chín năm sau ngày giành được địa vị “con trời”, ông vua Minh đầu tiên đã nóng nảy muốn vin cớ vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận trong cuộc thân chinh phương Nam (1377) mà cất quân sang hỏi... “tội” (!). Nhung “hỏi tội” một vị vua vì “chống nạn cứu dân” mà không may bị chết? Trước lời lẽ cứng rắn của Trần Đình Thâm, sứ giả nước ta, vua Minh đuối lý, không những phải cử người sang dự lễ viếng, mà còn đành phải gác lại bao nhiêu mưu kế những toan đem thi thố phen này(1). Dĩ nhiên, gác lại không có nghĩa là xếp bỏ hẳn, mà chỉ là buộc lòng nén lại những dự định bên trong ngày một sục sôi. Tháng 9 năm 1384, nhân cho quân lính tiến xuống đánh Vân Nam, vua Minh thảo công văn đòi nước ta cấp lương cho đạo quân “tiễu phạt” của y. Ta nhân nhượng. Rồi các năm 1385, 1386, vua Minh vẫn đưa ra những yêu sách vô lý, phiền hà. Nào bắt nộp hoạn quan, nào muốn tìm giống cây xứ nóng, thậm chí đòi cả voi để “thiên triều” mang đi đánh trận. Năm 1395, Minh còn trắng trợn sai bọn Nhâm Hanh Thái sang xin ta giúp 5 vạn quân, 50 con voi và 50 vạn hộc lương với dụng ý chộp bắt sứ giả của ta để kiếm chuyện. Nhưng Nhâm Hanh Thái lại mật báo cho ta biết trước, vì thế ta đã kịp thời đề phòng, chỉ cho chở một ít lương lên biên giới rồi rút về ngay chứ không cấp lính và voi.
Một vài ví dụ như trên cũng đủ thấy tên lãnh chúa phong kiến phương Bắc mới phất lên này nóng lòng dòm ngó Đại Việt đến đâu. Nhưng mặt khác, một thực tế cũng dễ thấy là mặc dù rất tham lam, các ngài ngự “Đại Minh” vẫn phải kéo dài việc chuẩn bị xâm lược suốt 30 năm, từ đời vua cha đến đời vua cháu(2). Vì sao có cái mâu thuẫn hết sức lạ đời đó? Chắc hẳn trong khi rút kinh nghiệm quá khứ, bài học thảm bại chưa xa xôi gì của những kẻ “đi trước” đã không khỏi làm cho các ngài đâm ra e ngại, trùng trình: “Nước An Nam tuy ở góc biển nhưng xưa kia đã là quận huyện của Trung Quốc. Từ đời Ngũ quý về sau sức ta không còn chế ngự nổi họ. Qua Tống đến Nguyên, tuy muốn mưu đồ nhưng không thành, chỉ để tiếng chê cười cho hậu thế”(3). Đấy là lời thú nhận của Minh Thành Tổ trong sắc chỉ y gửi viên Tổng binh Chu Năng – viên tướng đầu tiên cầm quân sang đánh Đại Việt theo lệnh của y – đề ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Cũng ở sắc chỉ đó còn nêu một lời nhận xét của Minh Thành Tổ về nguyên nhân thất bại của Tống và Nguyên: “Tống cũng như Nguyên đều cho quân sang đánh An Nam, nhưng tướng thì kiêu, binh thì lười, lại còn tham tài hiếu sắc, vì thế mà không thành”(4). Sự thật thì tuy làm ra vẻ cười ngạo tổ tiên mình, ông Hoàng đế khét tiếng về tham vọng và tàn bạo này cũng chẳng can đảm hơn bao nhiêu trên vấn đề xâm lược Việt Nam. Năm 1403, bốn năm sau khi Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, tình hình mâu thuẫn và bế tắc trong tập đoàn phong kiến Trần – Hồ không những không giải quyết được mà còn thêm gay gắt, cái cớ gây hấn đã có thể kiếm ra rất dễ, điều kiện gây hấn cũng đã hết sức thuận lợi; lại cũng là năm Minh Thành Tổ vừa dùng mọi thủ đoạn đoạt được ngôi từ trong tay cháu ruột của mình; ấy thế mà đối với nước ta, ông ta vẫn sợ và gờm, chỉ mới dám cho bọn hoạn quan người Việt trở về làm do thám một lần cuối, và chuẩn bị nội ứng, ước hẹn ngoài đánh vào thì trong cắm cờ vàng làm hiệu. Thế rồi, phải ba năm sau nữa, khi mọi yêu cầu tìm hiểu đã được đáp ứng đầy đủ, cảm thấy không còn một trở ngại nào đáng kể trên con đường tiến xuống kinh đô Đại Việt, Minh Thành Tổ bấy giờ mới thật quyết tâm khởi thế công. Một mặt, ông ta vờ làm to chuyện lên rằng đến lúc này không ai còn chịu đựng nổi những việc Hồ Quý Ly truất ngôi các vị vua Trần và giết hại đám con cháu nhà Trần (vốn là việc đã xảy ra sáu, bảy năm về trước!): “Bề tôi [cũ của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi lòng lang sói, rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc vương, tàn sát người trong dòng họ Trần, cả những bề tôi của họ Trần cũng trong vòng thảm khốc, bị hãm vào chỗ chết. Bọn chúng gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không yên sống, tiếng hờn oán dấy lên đầy đường”(5). Mặt khác, với ngón bịp sở trường từ tổ tiên mình truyền lại, ông ta lại cũng ra điều ta đây bất nhẫn, không định gây việc can qua làm gì, chỉ vì Hồ Quý Ly quá lắm nên phải động binh; song động binh mà vẫn rất nhân từ, muốn thu xếp ổn thoả bằng cách cho cha con họ Hồ “đem trăm vạn lạng vàng và một trăm con voi ra chuộc tội. Nếu không đủ thì cho phép đem châu ngọc bảo bối thế vào cho đủ. Có thế đại quân mới không tiến sang”(6). Kỳ thực, có đúng thế hay không? Trong đạo sắc bí mật gồm 10 điều căn dặn riêng viên Tổng binh Chu Năng – gửi mấy ngày trước ngày ban bố tờ chiếu công khai trên đây – Minh Thành Tổ đã thổ lộ “can tràng” của ông ta: “Nay sai Chu Khuyến, Trương Anh đem công văn của Bộ Lễ sang An Nam đòi nộp voi và vàng. Làm kế ấy để cho chí chiến đấu của chúng buông lỏng chứ không phải là thực bụng. Khi bọn Chu Khuyến ra đi, trẫm từng gặp mặt phủ dụ, bảo chúng đến nuớc họ chỉ ở lại 5 ngày, nếu 5 ngày chưa xong thì cho phép được bao nhiêu hãy cứ nộp truớc, sau sẽ sai người mang tiếp sang nộp cho đủ. Ngươi chờ cho bọn Chu Khuyến đi rồi thì đại quân phải tức khắc xuất phát theo sau. Nếu gặp kẻ đuợc phái sang nộp voi và vàng thì cứ bắt giữ lại để tra hỏi tin tức, nhưng đừng hở cho họ biết kẻ sai đi đã bị bắt... Nay bọn Chu Khuyến vào nước đó, mọi việc ngươi nhất thiết chớ hở ra cho ai biết”(7).
Gớm ghê thay miệng lưỡi từ bi và lòng dạ thực của đấng “thiên tử”! Duy có điều là ngay cả vào lúc đó rồi mà ngài vẫn còn e dè gửi tiếp những sắc chỉ căn dặn: nào là “nước An Nam giàu mạnh đã lâu”(8), nào là “quân lính của họ tất có phòng bị trước”, nào là “cha con họ Lê – tức họ Hồ – lắm mưu mẹo giảo quyệt”, tuyệt nhiên không thể sơ hở hoặc xem thường. Trong nhiều đạo sắc, Minh Thành Tổ đều tỏ ý lo lắng khi quân mình vượt sông Phú Lương là chỗ hiểm yếu bậc nhất, sẽ thua mưu kế của Hồ Quý Ly. Y viết rõ trong một sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407) nói về đạo binh của Trương Phụ: “Cứ đóng quân mãi trên sông giằng co với giặc chính là rơi vào mưu kế của giặc Lê [Quý Ly] nhằm giữ chân quân ta thật lâu, đợi cho dịch lệ phát sinh; vì thế phá được mưu này thì phải thần tốc không được trì hoãn”(9).
Rõ ràng, vừa khát thèm lại vừa e sợ, vừa hung hăng lại vừa lo ngại, vừa ráo riết sửa soạn lại vừa trù trừ cho đến tận phút cuối cùng, cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Minh ở thế kỷ XV quả đã không còn là ngón đòn mới mẻ gì đối với nhân dân Việt Nam. Bước ra quân ban đầu của “thiên triều” phải mang tính chất hai mặt: nhanh mà chậm, nóng mà lạnh, đánh thực mà cũng là đánh dứ, cũng chính là vì vậy.
*
*    *
Tuy nhiên, đấy chỉ là cái dè dặt của buổi ban đầu. Khi đã dấn sâu vào đất nước ta, thấy rõ chỗ thất thế của nhà Hồ, bọn giặc xâm lược liền lộ hết vuốt nanh và hành vi táo tợn. Một chiến lược tập kích ồ ạt nhằm phá vỡ phòng tuyến chính để tiến thẳng đến Thăng Long, và từ Thăng Long đánh toả xuống phía Nam, được thi hành. Một chế độ thống trị ngoại bang được dựng lên chớp nhoáng ở khắp mọi miền, thành thị cũng như nông thôn mà chúng vừa đặt chân đến. Và một chính sách chém giết thẳng tay cũng được đem ra ban phát lập tức cho dân chúng. “Trương Phụ đi đến đâu là giết hại, hoặc chất thây người thành núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có kẻ mổ bụng người chửa, moi thai, cắt lấy tai của mẹ và con để tính làm hai mạng người”(10).
Có thể nói, nói đến đặc điểm thứ hai trong chân dung của tên xâm lược mới ở thế kỷ XV là nói đến hình ảnh các viên quan cai trị nhà binh với tất cả những thủ đoạn giết người – trị người – dùng người gắn bó với nhau một cách tinh vi và nham hiểm. Sau nhiều lần cố gắng phản công ở Hàm Tử, Lỗi Giang, Điển Canh, Kỳ La,... nhưng đều thất bại, vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ cùng quẫn và bị bắt ở núi Thiên Cầm. Cả nước rơi vào tay giặc, và trở thành một lò sát sinh, một công trường lao dịch khổ sai, một nơi để giặc Minh thoả sức tìm tòi thức ngon của quý. Ngay trong những ngày đang trên đường tiến sang nước ta, bọn tướng tá viễn chinh đã nhận được sắc chỉ của vua Minh căn dặn hễ đến đâu là phải tịch thu hết giấy tờ, sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất đến đấy; phải lập ngay chế độ thuế khóa trên những vùng vừa chiếm đóng; và chú ý khai thác các mỏ bạc, mỏ vàng. Kể cả những mỏ nằm trên biên giới Việt – Chiêm, chưa rõ thuộc phần đất bên nào, cũng được lệnh cứ cướp lấy chứ không cần tra xét hư thực(11). Hai cơ quan Kim trường cục và Châu trường cục được thành lập, nhằm xua dân miền biển và miền núi vào mọi công việc đãi vàng, mò vàng, mò ngọc. Chưa hết. Còn chế độ lao dịch ở đồng quê, ở thành thị... Đâu đâu cũng cái cảnh “bị người Minh sai khiến mà mất cả gia thuộc”(12), “bị bắt hết làm nô tỳ và chuyển bán đi mà tan tác bốn phương” (13).
Đẩy nhân dân Đại Việt đến chân tường, giặc Minh phải đâu đã thoả. Chúng còn tìm cách thâu tóm vào tay mình hoặc nếu không thì triệt cho hết trong đám người còn sống sót những ai thật sự có tài năng. Hễ nghe ở đâu trong các châu quận nước ta có thầy hay, thợ giỏi, bọn quan cai trị đều cho lập danh sách đem “tiến” về Yên Kinh. Các loại người bị tiến nhiều nhất là thầy thuốc, thợ thủ công, ca nữ tuyệt sắc, thầy bói và thầy địa lý;...
Mỗi năm Minh hoàng lại gửi sang một lệnh. Mỗi năm, hàng nghìn người dân Việt lại lìa bỏ gia đình xứ sở, ra đi, để rồi không bao giờ trở về.
Nhưng cho dù có tìm mọi mưu kế bắt và giết người dần mòn để bổ sung cho những cuộc tàn sát hàng loạt thì vẫn không thể nào là kế sách cai trị vẹn toàn. Giặc Minh biết vậy nên cũng lại ra sức thi hành một chính sách “mặt trái” rất khôn khéo: chính sách mỵ dân. Trong một đạo sắc, vua Minh khẩn khoản dặn đám tướng tá: hễ người dân Việt nào chống lại thì diệt kỳ sạch, nhưng ai đã đầu hàng thì phải tha ra, không giết bừa(14). Tưởng chừng đại Hoàng đế ngài nhân từ có một. Có ngờ đâu, tha, theo ý ngài, là bắt đem “cung hình” (thiến) nhất là đối với lớp người Việt trẻ(15), sau đó cung cấp cho cái chế độ quan liêu đồ sộ của Minh hoàng vốn đang rất thiếu nô bộc và thái giám hầu hạ!
Đặc biệt, trong chính sách dùng người, nhà Minh đã tỏ rõ khả năng vượt hơn những kẻ xâm lược xưa kia một bước rất dài. Trừ những chức quan cao cấp ra, chúng đặt người Việt vào mọi địa vị quan chức từ quận, huyện trở xuống. Và một chính sách lục dụng đám trí thức, quan lại cũ của Đại Việt được ban bố trong rất nhiều đạo sắc từ 1406 đến mãi những năm sau khi khởi nghĩa Lam Sơn đã nổi dậy, có thể nói là nhiều nhất trong số sắc chỉ của các vua Minh về vấn đề Việt Nam. Đây quả là một đường lối mà nhà Minh kiên nhẫn theo đuổi đến cùng. Có trường hợp những người có tên tuổi, hoặc có ảnh hưởng trong dân chúng như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất, Phạm Thế Căng, Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao,... chính vua Minh trực tiếp chỉ thị phải dụ dỗ cho bằng được(16). Có trường hợp khác như Bùi Bá Kỳ, bọn quan lại dưới quyền sơ ý để đến nỗi ông ta từ chỗ chạy sang Minh cầu cứu đến chỗ mất hết lòng tin tưởng, vua Minh cũng trực tiếp xuống chỉ rút kinh nghiệm về việc “dùng người” và than thở không thôi(17). Sự chu đáo trong chính sách “chiêu hồi” này còn biểu hiện ở cung cách chiêu hồi: tất cả đều được lập thành danh sách, mời về Yên Kinh khoản đãi và để cho bọn quan lại cao cấp nhà Minh chủ yếu là Hoàng đế “bồi dưỡng về lập trường quan điểm”, rồi sau đấy lại được trả trở về Giao Chỉ, phân bổ đi nhận các chức quan(18).
Nhưng thủ đoạn mỵ dân mà nhà Minh lưu tâm hàng đầu – và từ đây cũng sẽ đẻ ra nhiều nhiệm vụ phức tạp cho cuộc đấu tranh chính trị chống xâm lược – chính là một phương sách hai mặt: vừa triệt để thống nhất về bản chất với những tên xâm lược trong quá khứ, lại vừa làm ra vẻ giữa mình và quá khứ có một bước ly khai. Ngay trong đạo sắc 10 điều của Minh Thành Tổ đề ngày 8 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406) gửi viên tướng viễn chinh Chu Năng trên đường y cất quân sang Đại Việt, đã dẫn một phần ở trên, có một điều thứ tư rất đáng chú ý: “Hỏi xem cột đồng trụ hiện dựng ở đâu, phải đập cho nát và ném ra ngoài đường, để cho nguời trong nước đều trông thấy”(19). Chắc ai cũng phải lấy làm lạ: một bằng chứng “chinh phục” tiếng tăm của Mã Phục Ba thời Hán, cũng là một dấu vết của sự sỉ nhục mà người Việt nhiều đời đã phải ném đá chồng lên cho mất tích, ấy thế mà vua Minh lại bắt phá đi? Ông ta hớ hênh dại dột, hay ngông cuồng, hay thật bụng nhân đức? Đâu có phải vậy! Thực tình Minh Thành Tổ coi đây là một việc hệ trọng, và trong những sắc chỉ ban bố một năm sau đó, ông ta còn nhắc lại điều này(20). Dám hy sinh đến cả “sự nghiệp” vênh vang của “tiền nhân”, phải chăng tên đầu sỏ xâm lược ở thế kỷ XV muốn nhờ đấy đánh đổi lấy một bộ mặt mới, chí ít cũng giúp y che giấu phần nào cái bản chất “một đồng một cốt” giữa y với Mã Viện, để y có thể thừa cơ tung hoành? Có lẽ! Nhưng chắc chắn còn những lý do thâm trầm hơn. Kinh nghiệm xương máu đã cho tên trùm Đại Hán thấy, đụng đầu vào xứ sở Đại Việt quả là điều gay. Một cột đồng trụ những tưởng nhục mạ được dân Nam và trói chặt họ vào một cái mốc “chiến bại”, thì rốt cuộc cũng có nghĩa gì đâu khi mà, vượt lên trên tất cả những thứ cột mốc hình thức kia, một quy luật lịch sử lạnh lùng – mà ngay nhiều tên xâm lược cũng phải đành lòng thừa nhận – cứ tự nó phát huy tác dụng: “... dù có cướp được nước họ thì rồi cũng không thể giữ được”(21). Có nghĩa là chỗ khó khăn nhất, mà quả là khó, là làm sao biến được dân tộc Việt thành người Trung Quốc, để vĩnh viễn họ không còn tìm cách nổi dậy, và đất nước họ vĩnh viễn là quận huyện của “thiên triều”? Thủ đoạn đập phá cột đồng trụ của Minh Thành Tổ chính là một cách lý giải mới đối với bài tính nát óc này. Y quyết tâm phủ nhận những ràng buộc vô hiệu bề ngoài mà tìm kiếm những ràng buộc lợi hại hơn hẳn. Đó là những trói buộc nghiệt ngã trên lĩnh vực tư tưởng, những quy định có tính chất chuyên chế, độc đoán về sinh hoạt tinh thần.
Lần đầu tiên, trong lịch sử xâm lược Đại Việt của bọn chúa tể phong kiến Trung Quốc, tên xâm lược nhà Minh áp đặt một cách gay gắt vấn đề hệ tư tưởng đối với xã hội Việt Nam. Trong bản bố cáo đề ngày 8 tháng Tư năm 1407, sau khi chiếm xong nước ta, Minh Thành Tổ dành hẳn một đoạn khá văn hoa để nhấn mạnh rằng, một trong những tội trạng của Hồ Quý Ly khiến “ngài” không thể không “chinh thảo”, là họ Hồ đã tự coi “đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn Ngũ đế, cho Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công Khổng Tử không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di], Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng [Tải], Chu [Hy] là phường trộm cướp”(22), v.v. Cơn giận của “ngài” kể cũng dễ hiểu, bởi một nước tự xưng là “thần tử” của Hoa hạ làm sao có thể dám coi thường cái đạo mà các Đại Hoàng đế Trung Quốc tôn thờ? Nhưng còn một lẽ sâu xa nữa là có đưa đạo Nho lên làm “đạo thống” thì mới dễ dàng phát huy ảnh hưởng của “thiên triều” tới các cõi xa, nói như họ Khổng là “làm cho xa thư về một mối”. Và khi đã “gắn bó với nhau về ý thức hệ” thì há miệng mắc quai, cúi mọp đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu.
Dù sao, vấn đề không chỉ giản đơn có vậy. Minh Thành Tổ muốn lấy đạo Nho để thống trị nhân dân Đại Việt, nhưng rồi y lại còn muốn đi xa hơn. Cuồng vọng bá chủ sôi sục khiến y cảm thấy như thế vẫn chưa thoả lòng. Tốt nhất là làm sao cho nước “man di” kia không còn có gì gọi là long mạch tư tưởng, tinh thần. Y muốn xóa sạch ở cái dân tộc nhỏ bé phương Nam đầy sức tự cường mà trong lòng nhiều thế hệ những tên giặc Bắc vẫn rất khiếp sợ, toàn bộ ý thức về quá khứ lịch sử của chính họ. Mà xóa sạch được quá khứ của một dân tộc chính là cách cắt đứt nguồn tiếp sức quan trọng của dân tộc đó, đặt họ vào chỗ mù mịt tối tăm, phá tan đi cái nền tảng làm cho họ tồn tại và sinh thành. Muốn vậy phải làm thế nào? Không có cách nào hữu hiệu hơn là tàn phá không thương tiếc tất cả những gì là sản phẩm trí tuệ của dân tộc này, nó là biểu trưng cho văn minh, văn hóa. Trong sắc chỉ 10 điều của Minh Thành Tổ gửi Tổng binh Chu Năng đã nói ở trên, bên cạnh những điều căn dặn tỉ mỉ về cách chế ngự “hoả khí” lợi hại của cha con họ Hồ, về việc tịch thu sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất, hoặc đập phá cột đồng trụ,... còn một điều đặc biệt hơn mọi điều kia: “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn(23).
Thử lần tìm cái động cơ chính ẩn trong đạo sắc văn này. Tên vua Minh nói: tất cả những gì thuộc nền văn hóa chính quốc Trung Hoa, kể cả sách kinh của Phật và Lão, đều được giữ lại đầy đủ. Trái lại, bao nhiêu trước tác thuần túy Việt Nam thì đều phải phá hủy. Vậy ra, sự lựa chọn của y chẳng phải là đạo Nho hay một hệ tư tưởng chính thống nào cả. Đối với người Giao Chỉ cũng như các dân tộc bị y xâm lược, y chỉ cần một sự lựa chọn đơn giản, mà lại thực dụng hơn nhiều: hãy bắt họ từ bỏ tất cả những gì sinh ra trong đầu óc của chính dân tộc họ kể cả trong quá trình tiếp nhận những gì là vốn liếng tinh thần của “nước mẹ Đại Minh”. Ý hẳn Hoàng đế nhà Minh muốn bắt các dân tộc thôi đừng có tự mình tư tưởng nữa. Mà không tư tưởng, thì có nghĩa là... không tồn tại.
Thế rồi, từ trong thâm cung tại Yên Kinh, Hoàng đế nhà Minh ngày đêm lo theo dõi, đôn đốc việc thi hành lệnh chỉ đã ban ra. Đến nỗi khi thấy có một bộ phận quân lính không chịu làm theo đúng lệnh, nghĩa là không đốt ngay sách vở cướp được của nước ta mà còn giữ lại, y lập tức gửi một tờ lệnh thứ hai nhắc lại đúng những điều đã chỉ thị từ trước, lại giải thích rõ vì sao cần đốt ngay tại chỗ chứ không nên giữ lại: “Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An Nam có tất thảy những sách vở văn tự gì, kể cả các câu ca lý dân gian, các sách dạy trẻ, như loại “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết, và tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh một chữ hễ trông thấy là phá hủy lập tức, chớ để sót lại. Nay nghe nói những sách vở do quân lính bắt được, không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Quân lính phần đông không biết chữ, nếu đâu đâu cũng đều làm vậy thì khi đài tải sẽ mất mát nhiều. Từ nay các ngươi phải làm đúng như lời sắc trước, truyền cho quân lính hễ thấy sách vở văn tự ở bất kỳ nơi nào là phải đốt ngay, không được lưu lại(24).
Dĩ nhiên, ngay những tên đã trù mưu định kế ăn cướp nước ta cũng cảm thấy một chủ trương tàn bạo như thế thực muôn phần nguy hiểm. Nó sẽ dẫn đến làm nổ bùng lòng căm phẫn ngút trời của cả một dân tộc, và sức mạnh có tính dây chuyền của sự bùng nổ đó chắc sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Cũng vì thế, đi kèm với những điều lệnh, Minh Thành Tổ còn bắt quân lính phải giữ thật kín chủ trương của mình. Sau gần một năm đốt phá, biết rằng yêu cầu của việc phá hoại về căn bản đã xong, ngày 19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 - 6 - 1407), y lại gửi một sắc chỉ xuống phương Nam ra lệnh cho các tướng lĩnh của y phải cấp tốc thu hồi những đạo dụ y đã ban ra từ trước: “Nay An Nam đã bình định xong; [...] trừ các loại chế dụ ra còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành quốc công đã lĩnh, hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi việc, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại, rơi vào tay bọn kia(25) thì rất bất tiện(26).
Tưởng cũng khó có thể chê trách gì về sự cao tay của Minh Thành Tổ trong việc xếp đặt đâu ra đấy từng bước “tiến”, “thoái”, “thắt”, “cởi” cho mọi hành động tàn phá kinh khủng nhất của mình. Nếu nghệ thuật diệt chủng của y thâm thúy đến mức đẩy đối tượng bị tiêu diệt vào một tình trạng trống rỗng, hư vô, không còn quá khứ cũng không còn tương lai, nghĩa là cứ dần dần “tự diệt”, thì nghệ thuật xóa dấu vết của y cũng tinh vi đến mức y vừa ăn cướp lại vừa có thể hùng hổ la làng rằng bị cướp đe dọa. Âu đây chính là những dáng nét hiện đại nhất của tên xâm lược Đại Hán ở thế kỷ XV vốn sẵn có trong mình cái bản chất xâm lược dã man của nhiều thế hệ cha ông đã thấm vào máu thịt; là cái được nhân lên, biến hóa sinh động hơn những thủ đoạn cướp đất giết dân hôm qua hôm kia còn rất quen thuộc mà nay đã bị xem là quá cổ lỗ và thật thà.

N.H.C.

Chú thích:
(1) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 189.
(2) Thật ra, khi cháu Minh Thái Tổ lên nối ngôi thì chú y, tức Chu Đệ 朱棣 liền cướp lấy mà lập ra triều đại thứ ba của nhà Minh (1402 - 1424), tức Minh Thành Tổ.
(3) Lý Văn Phượng 李 文 鳳, Việt kiệu thư 越 嶠 書 (1540). Đây là một tài liệu quý, ghi chép khá đủ theo trật tự thời gian những đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi đều đặn (thường là vài ngày một đạo) đến các tướng chỉ huy trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1406-1407. Trước đây chúng tôi chỉ tham khảo duy nhất văn bản cuốn sách này của Thư viện Khoa học xã hội: 173/1, nhưng năm 2001, sang làm việc ở Thư viện Yenching Harvard, tìm thêm được văn bản do Tề Lỗ thư xã xuất bản, Nam Kinh, 1996, vì thế có đối chiếu và điều chỉnh số quyển và tờ theo văn bản mới này, chệch nhau không đáng kể. Q. 2; tờ 29b: 今 安 南 雖 在 海 陬 。自 昔 為 中 國 郡 縣 。五 季 以 來 力 不 能 制 。歷 宋 及 元 雖 欲 圖 之 而 功 無 所 成 。貽 笑 後 世 (Kim An Nam tuy tại hải tưu, tự tích vi Trung Quốc quận huyện. Ngũ quý dĩ lai lực bất năng chế. Lịch Tống cập Nguyên tuy dục đồ chi nhi công vô sở thành, di tiếu hậu thế).
(4) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 31a (Điều ghi chú thứ 9 trong 18 điều khoản kèm theo tờ sắc này): 宋 元 皆 發 兵 征 討 安 南。將 驕 兵 懦。貪 財 好 色。以 此 不 能 成 (Tống Nguyên giai phát binh chinh thảo An Nam, tướng kiêu binh nọa, tham tài hiếu sắc, dĩ thử bất năng thành).
(5) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 43a. Nguyên văn: 其 臣 季 孷 黎 蒼 久 畜 虎 狼 之 心 。竟 為 吞 噬 之 。舉 弒 其 國 王。 戕 其 本 宗。覃 被 陪 臣 重 罹 慘 酷 。掊 剋 殺 戮 。毒 病 生 民 。雞 犬 弗 寧 。怨 聲 載 路 (Kỳ thần [Lê ] Quý Ly, Lê [Hán] Thương cửu súc hổ lang chi tâm, cánh vi thôn phệ chi, cử thí kỳ quốc vương, thương kỳ bản tông, đàm bị bồi thần trọng duy thảm khốc, bồi khắc sát lục, độc bệnh sinh dân, kê khuyển phất ninh, oán thanh tái lộ).
(6) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 28a. Nguyên văn: 今 廣 西 奏 。安 南 遣 人 來 貢 謝 罪 。原 胡 奄 。 父 子 罪 本 難 容 。 今 既 改 過 自 新 。只 著 他 辨 黃 金 五 萬 。象 一 百 隻 。 以 贖 其 罪 。 金 象 不 足 。許 以 珠 玉 寶 貝 代 之 。以 足 其 數 即 止 。大 軍 不 進 (Kim Quảng Tây tấu: An Nam khiển nhân lai cống tạ tội. Nguyên Hồ yêm, phụ tử tội bản nan dung. Kim ký cải quá tự tân, chỉ trước tha biện hoàng kim ngũ vạn, tượng nhất bách chích, dĩ thục kỳ tội. Kim tượng bất túc, hứa dĩ châu ngọc bảo bối đại chi, dĩ túc kỳ số tức chỉ, đại quân bất tiến).
(7) Sắc chỉ bí mật, đề ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. (Điều thứ 10 trong 10 điều căn dặn kèm theo tờ sắc này): 今 遣 朱 勸 張 瑛 齎 禮 部 咨 文 往 安 南 索 其 金 象。此 計蓋 欲 弛 其 鬥志。非 真 實 意 也 。 朱 勸 等 臨 行 朕 曾 面 諭 之 。今 到彼 只 住 五 日 。若 五 日 內 措 辨不 足 。 許 隨 多 少 先 將 來 。 後 卻 差 人 納 足 。爾 待 朱 勸 等 人 去 。大 軍隨 後亦 進 。 若 遇 差 出 納 金 象 之 人 就 執 之 。訖 問 聲 息 。 須 勿 令彼 知 差 來 被 執 。今 朱 勸 等 到 處 。爾 事 機 切 不 可 令 人 知 之 (Kim khiển Chu Khuyến, Trương Anh tu Lễ bộ tu văn vãng An Nam sách kỳ kim tượng. Thử kế cái dục thỉ kỳ đấu chí, phi chân thực ý dã. Chu Khuyến đẳng lâm hành, trẫm tằng diện dụ chi, kim đáo bỉ chỉ trú ngũ nhật. Nhược ngũ nhật nội thố biện bất túc, hứa tùy đa thiểu tiên tương lai, hậu khước sai nhân nạp túc. Nhĩ đãi Chu Khuyến đẳng nhân khứ, đại quân tùy hậu diệc tiến. Nhuợc ngộ sai xuất nạp kim tượng chi nhân tựu chấp chi, cật vấn thanh tức. Tu vật linh bỉ tri sai lai bị chấp. Kim Chu Khuyến đẳng đáo xứ, nhĩ sự cơ thiết bất khả linh nhân tri chi).
(8) Sắc chỉ ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd tờ 31a: 安 南 自 我 朝 以 來 [。。 。] 數 十 年 不 曾 用 兵 。其 國 中 富 庶 (An Nam tự ngã triều dĩ lai, [...] sổ thập niên bất tằng dụng binh, kỳ quốc trung phú thứ).
(9) Việt kiệu thư, Sđd; tờ 37a. Nguyên văn: 頓 兵 江 上 與 賊 相 持 。黎 賊 之 計 正 欲 持 久 以 待 瘴 癘 之 發 。破 之 貴 在 神 速 。不 宜 遲 緩 (Đốn binh giang thượng dữ tặc tương trì, Lê tặc chi kế chính dục trì cửu dĩ đãi chướng lệ phát. Phá chi quý tại thần tốc, bất nghi trì hoãn).
(10) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 262.
(11) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 34b đề rõ, ngày 6 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ ban hành một điều khoản như sau: 安 南 金 場 。銀 場 遙 聞 原 是 占 城 之 地 而 界 相 爭 已 久 。亦 未 可 信 。平 定 之 後 。只 以 見 得 地 界 為 準 。縱 然 占 城 有 請 亦 不 可 擬 還 (An Nam kim trường, ngân trường dao văn nguyên thị Chiêm Thành chi địa, nhi giới tương tranh dĩ cửu, diệc vị khả tín. Bình định chi hậu, chỉ dĩ kiến đắc địa giới vi chuẩn. Túng nhiên Chiêm Thành hữu thỉnh, diệc bất khả nghĩ hoàn). Nghĩa là: Từ xa trẫm nghe nói mỏ vàng mỏ bạc nguyên là phần đất Chiêm Thành, địa giới hai bên tranh chấp đã lâu, cũng chưa rõ thế nào. Sau khi bình định xong, cứ lấy địa giới mà mình trông thấy làm chuẩn, nếu Chiêm Thành có cầu xin cũng không trả.
(12), (13) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 250, 262.
(14) Sắc chỉ đề ngày 4 tháng Mười một năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 37a. Nguyên văn: 大 軍 入 安 南 。但 有 助 黎 寇 來 拒 敵 者 殺 之 。 若 有 能 棄 甲卻 戈 降 者 。一 人 不 可 妄 殺 (Đại quân nhập An Nam, đãn hữu trợ Lê khấu lai cự địch giả, sát chi. Nhược hữu năng khí giáp khước qua hàng giả, nhất nhân bất khả võng sát).
(15) Sắc chỉ đề ngày 16 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 35a. Nguyên văn: 其 有 年 少 而 罪 當 死 者 。宜 處 以 宮 刑 。亦 可 以 保 全 其 命 。他 日 又 得 以 克 使 令 (Kỳ hữu niên thiếu nhi tội đáng tử giả, nghi xử dĩ cung hình, diệc khả dĩ bảo toàn kỳ mệnh, tha nhật hựu đắc dĩ khắc sử lệnh).
(16) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 59a.
(17) Sắc chỉ đề ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 46a. Nguyên văn: 敕 傳 奏 言 裴 伯 耆 事 為 將 之 。道 在 於 用 人 。一 裴 伯 耆 不 能 用 何 以 能 成 事 功 俠 。朕 有 南 鄙 又 憂 。古 人 用 人 之 法 具 右 方 冊 。爾 宜 審 觀 故 敕 (Sắc truyền tấu ngôn Bùi Bá Kỳ sự vi tương chi. Đạo tại ư dụng nhân, nhất Bùi Bá Kỳ bất năng dụng, hà dĩ năng thành sự công hiệp? Trẫm hữu Nam bỉ hựu ưu. Cổ nhân dụng nhân chi pháp cụ hữu phương sách, nhĩ nghi thẩm quan cố sắc).
(18) Sắc chỉ đề ngày 22 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 40a - b. Nguyên văn: 凡 安 南 官 吏 來 歸 降 者 。即 陸 續 遣 之 來 朝 。聽 朕 面 諭 。給 與 印 信 俾 還 管 事 。如 或 事 世 未 可 又 在 。隨 宜 處 置 。不 可 執 一 (Phàm An Nam quan lại lai quy hàng giả, tức lục tục khiển chi lai triều, thính trẫm diện dụ, cấp dữ ấn tín, tỷ hoàn quản sự. Nhu hoặc sự thế vị khả hựu tại, tùy nghi xử trí, bất khả chấp nhất).
(19) Điều thứ tư trong Sắc chỉ bí mật, đề ngày 4 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21 - 8 - 1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 26b. Nguyên văn: 訪 問 古 時 銅 柱 所 在 亦 便 碎 之。 委 之 於 道 以 示 國 人 (Phỏng vấn cổ thời đồng trụ sở tại, diệc tiện toái chi, uỷ chi ư đạo dĩ thị quốc nhân).
(20) Điều ghi thêm thứ hai trong Sắc chỉ đề ngày 7 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 40a.
(21) Trích thư bọc sáp của tướng Minh Vương Thông gửi về nước năm 1427. Một viên quan cai trị khác của nhà Minh là Giải Tấn cũng từng tâu lên vua Minh những lời tương tự. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1972; tr. 47.
(22) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 43a. Nguyên văn: 自 以 為 道 優 於 三 王 。 德 高 於 五 帝 。以 禹 湯 文 武 不 足 法 。周 公 孔 子 為 不 足 師 。毀 孟 子 為 盜 儒 。謗 周 程 張 朱 為 剽 竊 。欺 聖 欺 天 。無 倫 無 理 (... tự dĩ vi đạo ưu ư Tam vương, đức cao ư Ngũ đế, dĩ Vũ Thang Văn Vũ bất túc pháp, Chu Công Khổng Tử vi bất túc sư, hủy Mạnh Tử vi đạo Nho, báng Chu Trình Trương Chu vi phiếu thiết. Khi thánh khi thiên, vô luân vô lý).
(23) Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, đề ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21 - 8 - 1406) – theo bản Thư viện KHXH: 1731/I. Trong bản Việt kiệu thư do Tề Lỗ thư xã xuất bản thì không đề ngày, nhưng xếp thứ tự ở giữa hai đạo sắc ban bố ngày 4 - 7 - 1406 và ngày 29 - 7 - 1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 26a - b. Nguyên văn: 兵 入 。除 釋 道 經 板 經 文 不 燬 。外 一 切 書 板 文 字 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習 。如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻 字 悉 皆 燬 之 。其 境 內 中 國 所 立 碑 刻 則 存 之 。 但 是 安 南 所 立 者 悉 壞 之 。 一 字 不 存 (Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn).
(24) Sắc chỉ đề ngày 10 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (16 - 6 - 1407), Việt kiệu thư, Thư viện KHXH: 1731/I. Q. 2; tờ 49a (trong bản Việt kiệu thư do Tề Lỗ thư xã xuất bản đạo sắc này bị xếp vào thời điểm sau khi đã chiếm xong nước ta, điều này không hợp lý). Nguyên văn: 屢 嘗 諭 爾 凡 安 南 所 有 一 切 書 板 文 字 。 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習 。 如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻字及 彼 處 自 立 碑 刻 。見 者 即 便 毀 壞勿存 。今 聞 軍 中 所 得 文 字 不 即 令 軍 人 焚 毀 。必 檢 視 然 後 焚 之 。 且 軍 人 多 不 識 字 。 若 一 一 令 其 如 此 。必 致 傳 遞 遺 失 者 多 。爾 今 宜 一 如 前 敕 。號 令 軍 中 但 遇 彼 處 所 有 一 應 文 字 即 便 焚 毀 。 毋 得 存 留 (Lũ thường dụ nhĩ, phàm An Nam sở hữu nhất thiết thư bản văn tự, dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, nhưThượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự cập bỉ xứ tự lập bi khắc, kiến giả tức tiện hủy hoại vật tồn. Kim văn quân trung sở đắc văn tự bất tức lệnh quân nhân phần hủy, tất kiểm thị nhiên hậu phần chi. Thả quân nhân đa bất thức tự, nhược nhất nhất lệnh kỳ như thử, tất trí truyền đệ di thất giả đa. Nhĩ kim nghi nhất như tiền sắc, hiệu lệnh quân trung đãn ngộ bỉ xứ sở hữu nhất ứng văn tự tức tiện phần hủy, vô đắc tồn lưu).
(25) Chỉ người Việt.
(26) Sắc chỉ đề ngày19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 - 6 - 1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 50a - b. Nguyên văn: 今 安 南 已 平 [。 。 。] 除 制 諭 外 應 發 去手 敕及 記 事 小 帖 成 國 公 領 帶 去 小 冊 子。及 條 畫 事 件 。盡 數 檢 對 。 密 封 繳 來 。 不 許 存 留 一 字 。 漏 落 在 彼 不 便 (Kim An Nam dĩ bình [...] Trừ chế dụ ngoại ứng phát khứ thủ sắc, cập ký sự tiểu thiếp Thành Quốc công lĩnh đới khứ tiểu sách tử, cập điều hoạch sự kiện, tận số kiểm đối, mật phong kiểu lai. Bất hứa tồn lưu nhất tự, lậu lạc tại bỉ bất tiện). 

04 kỳ án trong 10 đại án liên quân đến 'Bạc Hy Lai - Vương Lập Quân' Việt Nam?!

QLB 
- Không phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã nói với cử tri trong lần tiếp xúc gần đây nhất rằng Đảng cộng sản của ông sẽ thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm và sẽ công bố công khai.

Cũng không phải vô tình mà bỗng nhiên Viện Kiểm sát tối cao lại điểm mặt 10 đại án để Ban nội chính của ông Nguyễn Bá Thanh phải vào cuộc.

Trong 10 'đại án' này, đặc biệt có đến 04 'kỳ án' tham nhũng liên quan đến đồng chí X, cụ thể: 
1. Vụ án Vinalines; 
2. Vụ án tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT); 
3. Vụ án bầu Kiên 
4. Vụ án tập đoàn Vinashin.
Chính trường Việt Nam lại chuẩn bị bước vào giai đoạn đấu đá mới chăng? 

Dù có thể là như vậy thì cũng chẳng còn mấy ai quan tâm.
 PHẢI CHĂNG bởi mối lo lắng nhãn tiền hiện nay là sự suy thoái của nền kinh tế, sự lũng đoạn của giới tài chính ngân hàng, bởi 'lợi ích nhóm' của Thống đốc Bình đang khiến hàng trăm ngàn doanh nghiệp điêu đứng, hàng triệu người thất nghiệp, tội phạm gia tăng, bất ổn xã hội càng trở thành đề tài nóng bỏng?
Chắc chắn đó chỉ là một phần của sự thật, nguyên nhân sâu sa chính là lòng tin của người dân đã mất HOÀN TOÀN!!!
Sau thất bại thảm hại của Tổng Bí Thư tại Hội nghị TƯ 6 và 7, mặc cho trước đó đã được hô hào, cổ suý với những Nghị Quyết đao to búa lớn về Chỉnh đốn Đảng, kết cuộc cả Tổng Bí Thư và Chủ tịch nước đều bất lực đành phải 'ca thán' với cử tri, với nhân dân như đám 'dân đen... Còn ông Trưởng Ban Nội chính Nguyễn Bá Thanh cùng ông Trưởng ban Kinh tế thì 'rớt cai uỵch' ngay trước mắt ngài Tổng bí thư trong cuộc bầu bán vào BCT!!!
 Song có lẽ chẳng còn mấy ai còn 'hào hứng' đón nhận những thông tin mà chỉ mới trước đó người dân còn như 'lên đồng' khi nói đến vụ án Bố già Kiên, vụ án Vinashin, vụ án Vinalines....  cả nước hừng hực khí thế, háo hức chờ xem ông Tổng Bí Thư có thể lôi được ai ra ánh sáng như đất nước anh em Trung Hoa của ông đã làm?
Không những thế thực tế lại diễn ra trái ngược: Đảng cộng sản của ông Nguyễn Phú Trọng đã chứng minh cho cả nước và cả thế giới thấy rõ: ông đã trở thành lạc lõng và ông đang làm 'bình phong' cho Đảng X mặc sức hoành hành, đắc thắng, ngang nhiên bắt bớ dân lành, đàn áp dân chủ, thậm chí những kẻ 'đứng đầu đội ngược' như Thống đốc Nguyễn Văn Bình trong đợt bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc Hội và cũng chính là kẻ đã gây ra cái chết hàng loạt của trên 300.000 doanh nghiệp và trên 5 triệu người thất nghiệp, lại vẫn nhởn nhơ trước Quốc Hội 'xin nửa giải Nobel'!
Các Kỳ án : Bố già Kiên, Vinalines, Vinashin, chỉ cần nhắc đến là không một người dân nào không biết ai là "Bạc Hy Lai", ai là 'Vương Lập Quân' ở Việt Nam đứng sau sân khấu...
 Vậy nhưng, cũng chỉ đến Nguyễn Đức Kiên, Phạm Thanh Bình, Mai Xuân Phúc đang phải chìa lưng chịu báng thay... Còn những con Hổ thì lại càng hung hăng, tung hoành ngang dọc 'làm thịt' nhân dân...
Không những thế, bất cứ ai dám nói động chạm đến mấy từ "Vinashin, vinalines, bố già Kiên" đều phải nhìn trước ngó sau xem có bị theo dõi không bởi sợ bị 'phạm huý' mà vạ lâ. Đám dân 'đen' nặng thì bị tống vào ngục thất như Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Phạm Chí Dũng.... nhẹ thì bị côn đồ đón đường đánh như gia đình Lê Anh Hùng, Bùi Thị Hằng..., còn doanh nghiệp thì bị bao vây không một ngân hàng nào cho vay bởi trực tiếp Thống đốc Bình chỉ đạo "Đứa nào cho chúng nó vay, tao cho  NHNN xuống thanh tra, kiểm sát đặc biệt như doanh nghiệp Việt Á của bà cự Nghi sĩ Phạm Thị Thannh Loan đã dám gióng giả đòi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng từ chức..."... 
Song song đó, nhưng bố già cánh hẩu của Đảng X Hồ Hùng Anh - Nguyễn Đăng Quang thì chỉ bằng vài 'tiểu xảo' mua nợ của Vinashin bỗng chốc cướp được mỏ Núi Pháo thu hàng trăm triệu Mỹ kim, được ngân hàng Phát triển cho vay hàng trăm triệu để khai thác khoáng sản! Chưa hết, được Thống đốc hợp pháp hoá cho việc tẩu tán hàng trăm  triệu Mỹ Kim ra nước ngoài lấy danh nghĩa: Mua nợ 'giúp' Vinashin!
Ngừoi ăn không hết, kẻ lần không ra. Chỉ một thời gian ngắn của đợt phát động Chỉnh đốn Đảng thì nhóm bố già của Nguyễn Văn Bình, của Nguyễn Văn Hưởng, của Tướng Tô Lâm và của gia đình đồng chí X chiếm đoạt Sacombank, chiếm đoạt hàng loạt doanh nghiệp 'béo bở' mua như ăn cướp... bỗng chốc kiếm vài chục tỷ đô la qua đêm....
Đó là một thực trạng ở Việt Nam đã và vẫn đang diễn ra suốt gần 02 năm vừa qua.
Vậy thì chỉ có những kẻ điên mới còn tin vào việc chống tham nhũng của Đảng cộng sản Việt Nam!
Trần ái Quốc

Trọng Đạt - Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt 1964

Diễn tiến

Trước hết tôi xin nói về diễn tiến của sự kiện lịch sử này theo lời cựu Bộ trưởng quốc phòng McNamara và nhận định của ông (1). Nước Mỹ tiến gần tới tuyên chiến tại Việt Nam đó là vụ Nghị quyết vịnh Bắc Việt tháng 8-1964. Những biến chuyển quanh Nghị quyết này cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi mâu thuẫn.

Trước tháng 8-1964 chỉ có một số ít người Mỹ không quan tâm đến diễn tiến ở VN, chiến tranh có vẻ còn xa nhưng biến cố Vịnh Bắc Việt đã thay đổi cái nhìn đó. Về đoản kỳ khi tầu chiến Mỹ bị tấn công trong vịnh và nghị quyết của Quốc hội sau đó đã đưa tới khả năng Mỹ can thiệp vào cuộc chiến chưa từng có trước đây. Theo McNamara điều quan trọng hơn là chính phủ Johnson đã xin Quốc hội ra Nghị quyết này để hợp thức hóa về mặt hiến pháp mọi hoạt động quân sự của Hành pháp Mỹ tại VN từ 1965.

Quốc hội nhìn nhận quyền hạn lớn của Nghị quyết dành cho TT nhưng nó không có nghĩa như một tuyên chiến và cũng không có nghĩa đó là sự cho phép mở rộng lực lực lượng Mỹ tại VN từ 16,000 cố vấn lên 550,000 quân tác chiến. Bảo đảm sự tuyên chiến và cho phép quân tác chiến những năm sau đó chắc là không được.

Nhiều người coi chín ngày từ 30-7 tới 7-8-1964 như một giai đoạn nhiều tranh cãi nhất của cuộc chiến 25 năm. Qua nhiều thập niên, đã có nhiều tranh luận về những sự kiện tại vịnh, Hành pháp tường trình cho Quốc hội và người dân thế nào, xin Quốc hội quyền hành động và hai ông Tổng thống đã sử dụng quyền này qua các năm ra sao McNamara nêu nên một số câu hỏi và tự ông trả lời như sau.

Tầu tuần duyên của Bác Việt tấn công khu trục hạm Mỹ ngày 2-8 và 4-8-1964, có thật không?

Trả lời: ngày 2-4 thì chắc chắn không chối cãi được. Ngày 9-11-1995 tại Hà Nội, McNamara có gặp gỡ và nói chuyện với Võ Nguyên Giáp, ông ta nói ngày 4-8 không có cuộc tấn công của tầu BV như người Mỹ tưởng.
Quyền tự do không phải là vô hạn (15/09/2013)
* Kể từ buổi bình minh của nhân loại đến nay, quyền tự do của con người đã tiến được một chặng đường rất dài. Nhưng điều này không có nghĩa là quyền tự do là vô hạn.
 
Trong luật pháp các nước cũng như ở Việt Nam hiện nay, sự tự do đã trở thành quyền bất khả xâm phạm của con người. Một câu hỏi mang tính thời sự được đặt ra: Vậy quyền tự do có giới hạn không? Nếu có  thì ai là người áp đặt những giới hạn đó? Câu trả lời không phải là quá khó.
 
McNamara và Võ Nguyên Giáp. Ảnh AFP
McNamara và Võ Nguyên Giáp. Ảnh AFP

Hồi đó và sau này một số vị dân cử Quốc hội và người dân Mỹ cho rằng chính phủ Johnson khiêu khích địch để có cớ leo thang chiến tranh và dùng mưu mẹo để được Quốc hội chấp thuận cho leo thang.

Trả lời: hoàn toàn không có chuyện này.

Tổng thống trả đũa, cho máy bay ném bom bốn căn cứ tầu tuần duyên và một kho nhiên liệu, như thế có đúng không?

Trả lời: có thể.

Những biến cố tại vịnh BV có liên hệ tới hai chiến dịch riêng rẽ của Mỹ trước đây: Kế hoạch 34A và DESOTO.

Từ tháng 1-1964 Hội đồng an ninh quốc gia đã chấp nhận cho CIA yểm trợ miền nam VN những hoạt động bí mật chống phá BV, mật danh 34A gồm hai hoạt động trước hết thả biệt kích ra Bắc, thứ hai dùng tầu tuần duyên nhỏ, tốc độ cao do người Việt hoặc Mỹ lái đánh phá bờ biển hoặc hải đảo BV những nơi được coi là xuất phát xâm nhập, yểm trợ VC tại miền nam, đánh rồi chạy (hit and run).

DESOTO là một phần của hệ thống thám thính toàn cầu bằng điện tử do những tầu hải quân Mỹ chạy ngoài hải phận quốc tế. Những tầu này thu lượm những tín hiệu của radar, những truyền tin từ các trạm trên bờ các nước CS như Nga, Trung cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt cũng giống như Nga dùng tầu lưới cá tại bờ biển Mỹ.

Tối 30-7 -1964, tầu tuần duyên của VNCH tấn công hai hải đảo thuộc vịnh BV được cho là dùng để yểm trợ xâm nhập miền nam VN. Sáng hôm sau khu trục hạm Mỹ Maddox đi vào vịnh (chiến dịch DESOTO ) rất xa các đảo. Hai ngày rưỡi sau tức 2-8 lúc 3 giờ 40 (giờ VN, tức 3 giờ 40 sáng Mỹ) tầu Maddox báo cáo bị những tầu tuần duyên cao tốc đuổi theo, một lúc sau bị tấn công bằng ngư lôi và súng tự động nhưng Maddox không bị trúng đạn hoặc hư hại. Thủy thủ lấy được những mảnh đạn trên boong tầu mà McNamara yêu cầu gửi cho ông làm bằng chứng. Trong quân sử của BV, họ xác nhận đã đưa ra lệnh tấn công Maddox, khi biến cố sẩy ta khu trục hạm này nằm ở hải phận quốc tế, cách bờ biển BV hơn 25 dặm.

Lúc 11:30 sáng (2-8) Tổng thống Johnson họp các cố vấn để nghiên cứu tình hình. Mọi người tin là do cấp chỉ huy địa phương BV hơn là do cấp lớn đã khởi động. Tổng thống vì thế không trả đũa mà chỉ gửi kháng thư cho Hà Nội, ông vẫn cho tiếp tục tuần tiễu, cho thêm khu trục hạm C.Turner Joy đi kèm. Maxwell Taylor, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn phản đối tại sao không giáng trả BV, có thể coi như Mỹ lùi bước không dám đối đầu với CS.

Vào lúc 3 giờ chiều hôm sau Dean Rusk (bộ trưởng ngoại giao) và McNamara thuyết trình cho các Thượng nghị sĩ thuộc Ủy ban ngoại vụ và Ủy ban quân sự để diễn tả chiến dịch 34A, DESOTO và tại sao Tổng thống đã không giáng trả địch. Hai ông cũng giải thích cho biết DESOTO không có ý khiêu khích BV để tầu Maddox bị tấn công, vẫn tiếp tục chiến dịch DESOTO.

Vào lúc 7 giờ sáng (7 giờ chiều VN) ngày 4-8 tầu Maddox cho biết bị tầu lạ tấn công. Một giờ sau tầu Maddox nói radar cho thấy ba tầu lạ. Hàng không mẫu hạm Ticonderoga ở gần đó đã cho máy bay tới yểm trợ hai tầu Mỹ Maddox và Turner Joy. Trời nhiều mây, có mưa bão lớn rất khó quan sát. Mấy tiếng sau hai tầu này báo cáo bị hơn hai mươi ngư lôi tấn công, thấy vệt sóng của ngư lôi, ánh đèn chiếu sáng trên boong tầu địch, súng tự động nhả đạn, radar của tầu Mỹ có báo hiệu.

McNamara cùng ông phụ tá họp với bộ tham mưu để đối phó. Mọi người đồng ý nếu báo cáo này đúng, cần trừng trị thích đáng kẻ tấn công tầu Mỹ ngoài hải phận quốc tế , vì thế họ vội triển khai ngay kế hoạch cho máy bay từ hàng không mẫu hạm đánh phá bốn căn cứ tầu tuần duyên và và hai kho nhiên liệu. Lúc 11 giờ 40 sáng, McNamara họp với Dean, Mac (Bundy) và các Tướng khác để duyệt lại quyết định, họ tiếp tục bàn tại phiên họp tại Hội đồng an ninh QG và họp với Tổng thống. Johnson đồng ý lần này nếu được xác nhận đúng cần phải trừng trị nhanh và mạnh.

Vấn đề còn lại là cuộc tấn công lần thứ hai có thật không?

Như đã nói tầm nhìn khi bị tấn công đợt hai rất hạn chế, vì thế và vì tiếng động máy dò tầu ngầm thường không đáng tin lắm cho thấy báo cáo về cuộc tấn công đợt hai (4-8) không chắc chắn lắm. Vì thế McNamara cố điều tra để tìm sự thật, ông yêu cầu Trung tướng David A Burchinal liên lạc hỏi Đô đốc Sharp ở Honolulu để biết hư thực. Lúc 1 giờ 27 chiều đại úy Herrick, người điều hành DESOTO trên tầu Maddox cho biết tin tức về việc bị tấn công bằng ngư lôi có vẻ nghi ngờ. Thời tiêt xấu ảnh hưởng radar có thể gây lên báo cáo đó, đề nghị lượng giá lại trước khi hành động. Bốn mươi phút sau Đô đốc Sharp gọi cho tướng Burchinal nói mặc dù đại úy Herrick nói thế nhưng ông vẫn tin là cuộc tấn công lần thứ hai (4-8) là có thật. McNamara gọi hỏi thẳng Sharp, ông này cho biết có vài nghi ngờ xong cũng tin có bị tấn công bằng một số ngư lôi, tầu Turner Joy báo cáo đánh chìm ba tầu tuần duyên, Maddox báo cáo đánh chìm một hoặc hai cái. McNamara nói khi nào biết chắc là có thật thì sẽ trả đũa. Sharp nói có thể có và sẽ điều tra thêm.

Lúc 4 giờ 47 McNamara họp với các tham mưu trưởng duyệt các chứng cớ liên quan cuộc tấn công, có năm yếu tố cho thấy cuộc tấn công có thật. Tầu Turner Joy bị chiếu sáng khi bị bắn bằng súng tự động, một trong hai khu trục hạm thấy đèn pha trên boong tầu tuần duyên, súng phòng không của họ đã bắn hai phi cơ Mỹ bay ở trên, đã bắt được và giải mã một bản tin của BV được biết họ có hai chiếc tầu bị bắn chìm. Đô đốc Sharp nói có thể có tấn công ngày 4-8. Đến 5 giờ 23 Đô đốc gọi Tướng Burchinal và nói chắc chắn có tấn công các khu trục hạm Mỹ.

Chiên tranh VN. Ảnh Google
Chiên tranh VN. Ảnh Google
Lúc 6 giờ 15 chiều, Hội đồng an ninh QG họp, McNamara kể sơ chứng cớ và đề nghị trả đũa. Mọi người nhất trí hành động, Tổng thống cho lệnh máy bay thuộc Hải quân trừng phạt. Lúc 6 giờ 45 TT Johnson, Dean Rusk, Bus Wheeler (Tham mưu trưởng mới), McNamara họp với các vị Chủ tịch ủy ban Quốc hội để thuyết trình sự việc, giải thích sự trừng phạt. Dean nói BV đã cố ý tấn công, ta cần trừng trị giới hạn. Tổng thống nói ông muốn đưa ra Quốc hội để xin yểm trợ cuộc chiến nếu cần, một số vị dân cử nói họ sẽ ủng hộ.

Lúc 7 giờ 22 hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constelletion được lệnh tấn công trả đũa. Tổng cộng có 64 phi vụ tấn công các căn cứ tuần duyên và kho dầu để trả đũa, chỉ là tấn công giới hạn.

Mấy năm sau, tháng 2-1968 Thượng viện họp xét lại chứng cớ và chỉ trích tường trình của chính phủ. Năm 1972, Tordella, phụ tá giám đốc cơ quan an ninh QG kết luận bản tin nghe được của BV cho là lệnh tấn công ngày 4-8 thực ra là lệnh tấn công ngày 2-8. Cline, phụ tá giám đốc CIA 1964 trả lời một cuộc phỏng vấn năm 1984 nói thế. Phi công Stockdale, năm 1964 đã bay yểm trợ cho hai khu trục hạm Mỹ tối 4-8, sau này viết hồi ký nói tối hôm đó khi bay ngang hai khu trục hạm ông ta chẳng thấy cái tầu BV nào cả và nói chắc không hề có cuộc tấn công này.

Ngày 6-8-1964, lúc 9 giờ sáng các ông Dean, Bus, McNamara vào phòng họp với Ủy ban Ngoại vụ và Quân sự Thượng viện để xác nhận vụ tấn công 2-8 và 4-8 và xin Thượng viện ủng hộ. Dean nhấn mạnh cuộc tấn công này không phải là biến cố riêng mà nó nằm chung trong kế hoạch xâm chiếm miền Nam và các nước Đông nam Á. Sau đó nói chi tiết hai vụ tấn công, Tướng Bus cho biết các TMT nhất trí trả đũa, đó là thích đáng.

McNamara cho rằng Quốc hội hiểu quyền hạn rộng lớn mà Nghị quyết dành cho Tổng thống, nhưng chắc Quốc hội hiểu rằng Tổng thống sẽ không dùng nó mà không tham khảo cẩn thận tường tận với Quốc hội.

Hôm sau, lưỡng viện bỏ phiếu bầu ngày 7-8. Thượng Viện thông qua Nghị quyết Tonkin Gulf Resolution với tỷ lệ 88-2, Hạ viện bỏ phiếu thuận hoàn toàn 416-0, tỷ lệ chung là 99.60%.

Nhiều người chỉ trích (sau này) cho rằng chuyện Vịnh có nhiểu âm mưu giả dối, họ lên án chính phủ mong được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến tại Đông Dương, soạn thảo một nghị quyết, khiêu khích địch gây ra biến cố để được ủng hộ, McNamara nói những chỉ trích này vô căn cứ.

Tổng thống không hề nghĩ Nghị quyết cần để đưa quân vào VN mà vài vị Tham mưu trưởng đã đề nghị từ tháng 1-1964, việc đưa quân vào cần có Quốc hội chấp thuận. Bộ Ngoại giao đã soạn một Nghị quyết từ cuối tháng năm nhưng vì Max Taylor khuyên nên hoãn chiến dịch quân sự tới tới mùa thu. Johnson, Dean, Mac, McNamara đồng ý và đã quyết định hoãn đưa dự thảo Nghị quyết ra Quốc hội chờ khi Đạo luật Nhân quyền đã được Thượng viện chấp thuận tháng Chín.

Nhưng khi BV tấn công, Johnson thấy đó là cơ hội để được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến chống lại âm mưu xâm lược của Hà Nội, hành động của ông cứng rắn nhưng vẫn ôn hòa so với ứng cử viên diều hâu Goldwater của đảng đối lập.

Năm 1977, George Ball (cựu thứ trưởng ngoại giao 1964) trả lời phỏng vấn đài BBC chỉ trích chính phủ đã mở chiến dịch DESOTO khiêu khích BV để có cớ trả đũa. Ngược lại Bill Bundy (CIA, cố vấn ngoại vụ TT 1964) cũng đã nói chuyện trên BBC, ông ta phủ nhận những lời cáo buộc như trên, theo Bill tình hình lúc đó (tại VNCH) chưa tồi tệ đến nỗi phải có biện pháp mạnh. Bill nói “Không có chuyện Chính phủ cố tình khiêu khích để tạo ra biến cố ấy” (2)

McNamara cho rằng nếu Nghị quyết vịnh Bắc Việt đã không đưa tới sự can thiệp quân sự lớn lao tại VN thì nó đã không gây nhiều tranh cãi như vậy. Nhưng nó dùng để mở cửa cho dòng thác lũ (đưa quân vào), McNamara nói tuy nhiên cho rằng chính phủ Johnson lừa gạt Quốc hội là sai. Vấn đề không phải là Quốc hội không nắm được khả năng của Nghị quyết mà là nhưng là không nắm được tiềm lực của cuộc chiến và chính phủ có thể đối phó với nó như thế nào. Trong phiên họp ngày 20-2-1968 để duyệt lại vấn đề này, Thượng nghị sĩ Fulbright vui vẻ từ bỏ lời đã kết án McNamara cố ý khiến cho Quốc hội sai lầm, ông nói “Tôi không bao giờ có cảm tưởng rằng tôi đã nghĩ ông cố tình gạt chúng tôi”, các Thượng nghị sĩ Mansfield , Claiborne Pell và Symington cũng xác nhận thế (3)

McNamara kết luận cơ bản của vấn đề Vịnh Bắc Việt không phải là sự lừa gạt nhưng nói đúng hơn là sự lạm dụng quyền hạn từ Nghị quyết. Ngôn ngữ của Nghị quyết cho Tổng thống quyền hành xử, và Quốc hội hiểu tầm vóc của quyền hạn khi họ ủng hộ tối đa Nghị quyết ngày 7-8-1964. Nhưng chắc chắn là Quốc hội không có ý định cho phép xa hơn trong việc tăng vọt từ 16,000 lính Mỹ lên 550,000 tại VN mà không tham khảo đầy đủ với Quốc hội. Nó khiến chiến tranh mở rộng lớn có nguy cơ kéo Nga, Trung Cộng vào cuộc và đã mở rộng sự can thiệp của Mỹ tại VN trong nhiều năm.

Vấn đề Quyền hạn của Quốc hội đối nghịch với quyền Tổng thống về điều động quân đội vẫn còn tranh cãi cho tới nay. Căn nguyên của sự tranh chấp này nằm ở chỗ văn tự Hiến Pháp mơ hồ, nó trao Tổng thống quyền Tổng tư lệnh nhưng lại cho Quốc hội quyền tuyên chiến.

Những nhận định khác.

Trên đây là nội dung vấn đề theo diễn tả và ý kiến của McNamara, nhân vật đóng vai trò then chốt trong chiến tranh VN giai đoạn 1963-1968. Tôi xin ghi thêm nhận xét và ý kiến của các chính khách và nhà nghiên cứu khác để vấn đề được nhìn thêm dưới nhiều khía cạnh. Về cuộc tấn công hai ngày 2-8 và 4-8 qua sự tường thuật của các tác giả có khác nhau về chi tiết, có thể vì do tam sao thất bản, tôi chú trọng về ý kiến riêng của họ nhiều hơn.

Về biến cố này cựu Tổng thống Nixon nói (4) ngày 2-8 tầu tuấn duyên BV tấn công khu trục hạm Maddox tại vịnh trên bằng ngư lôi nhưng không gây thiệt hại, và sau đó ngày 4-8 họ lại tấn công hai tầu Maddox và C Turner Joy. Nhiều năm sau, các ký giả phản chiến xác định rằng cuộc tấn công 4-8 của BV không hề có, họ kết án Johnson và quân đội ngụy tạo ra để lấy cớ can thiệp vào cuộc chiến. Nixon kết luận là không có chứng cớ nào cho thấy Mỹ khiêu khích, ngay quân sử của BV cũng kể lại chuyện này.
Ông cũng nói Nghị quyết vịnh BV không phải là mưu mẹo để được rộng quyền tham chiến như một số người kết án nhưng nó là một cố gắng lương thiện để được Quốc hội yểm trợ cho việc can thiệp sâu rộng hơn mà nó buộc ta phải gánh vác. Nghị quyết của Johnson không phải là lý do người Mỹ vào VN, nó xác nhận rằng các cuộc tấn công này chỉ là một phần của chiến dịch xâm lược có hệ thống của CSBV đối với các nước láng giềng, các nước liên kết chiến đấu cho tự do. Quốc hội chấp thuận và ủng hộ quyết định của Tổng thống, với cương vị Tổng tư lệnh, bằng mọi cách đẩy lui những lực lượng gây hấn với Hoa Kỳ và phòng ngừa những gây hấn trong tương lai.

Nixon nói “Chúng ta không lâm chiến vì hai cuộc tấn công nhỏ ngoài khơi nhưng vì Bắc Việt đang ra sức chiếm trọn Đông dương” (5). Nhiều người trách Johnson không xin Quốc hội tuyên chiến. Quốc hội và Ngũ giác đài không tuyên chiến vì họ không ngờ cuộc chiến lại kéo dài như thế, Johnson tưởng là oanh tạc chiến thuật tại miền nam VN và oanh tạc giới hạn tại BV sẽ khiến Hà nội từ bỏ xâm lược, tuyên chiến có thể lôi kéo Nga Trung Cộng nhập cuộc. Johnson không muốn chiến tranh khi ông chuẩn bị ứng cử Tổng thống năm 1964. Hạ viện chỉ họp trong bốn mươi phút và đồng thuận 100% (480-0), Thượng viện bàn thảo 8 tiếng cuối cùng bầu với 88 thuận, 2 chống. Nixon nói sự kiện chứng tỏ Quốc hội đã ủng hộ vô cùng vững chắc.

Những người ủng hộ Nghị quyết về sau họ chống chiến tranh kết án Johnson lừa gạt Quốc hội để vượt quá quyền hạn của mình. Nixon cho là không phải như thế, bản ghi âm cuộc thảo luận tại Thượng viện cho thấy Quốc hội tham chiến với con mắt mở to, hoàn toàn tự nguyện. Nghị quyết này không phải chỉ là căn bản hợp pháp để lâm chiến, Johnson cũng hành động phù hợp với những điều khoản an ninh của Tổ chức Liên phòng Đông nam Á (SEATO). Vả lại Quốc hội cũng hành xử quyền hạn chiến tranh của mình hàng năm khi họ chi tiền cho quân đội Mỹ tại VN.

Tác giả Bernard C. Nalty (6) nói ngày 2-8 ba tầu tuần duyên BV đuổi theo tầu Maddox đang ở ngoài hải phận quốc tế, tầu BV đã phóng ba ngư lôi nhưng không trúng mục tiêu. Tầu Maddox bắn trả bằng đại bác 127 ly gây thiệt hại nặng cho hai tầu BV, phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga tới yểm trợ.

Về cuộc tấn công ngày 4-8, Nalty nói BV gây hấn hay người Mỹ tưởng tượng? ông tỏ vẻ nghi ngờ biến cố này. Hôm sau Tổng thống Johnson cho tăng cường thêm khu trục hạm C Turner Joy, ngày 4-8 người chuyên viên radar trên tầu Maddox báo cáo có năm tầu phóng ngư lôi đang đuổi theo, sau đó cả hai thuyền trưởng của Maddox và C. Turner Joy quả quyết là họ bị tấn công và gọi máy bay yểm trợ đồng thời cho khai hỏa, họ báo cáo là bắn chìm hai tầu BV và làm hư hại hai cái khác.

Theo tác giả có nhiều chỉ trích gồm cả các viên chức tình báo, lời của họ đã được viết vào Văn kiện Ngũ giác đài, sau này nó xác nhận “tầu địch” chẳng qua chỉ là những tiếng “blip”của radar do những đợt sóng phía sau tầu C Turner Joy gây ra mà những chuyên viên radar chưa có kinh nghiệm của tầu Maddox đã tưởng lầm. Tuy nhiên các vị chỉ huy tại chiến trường xác nhận là có tấn công và tin rằng BV đáng bị trừng phạt giới hạn, Tổng thống Johnson quyết định trả đũa, cho không kích các căn cứ xuất phát tấn công nhưng không có mục đích mở rộng chiến tranh. Các phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation tấn công bốn căn cứ hải quân và một kho dầu của BV. Khoảng 25 tầu tuần duyên bị phá hủy, 90% các kho dầu tại Vinh bị bốc cháy. Hai máy bay Mỹ bị phòng không bắn rơi, hai chiêc khác bị hư hại.

Thăm dò cho thấy sau cuộc tấn công trả đũa, người dân Mỹ ủng hộ hành động của Johnson rất cao.

Tác giả Marilyn B. Young (7) nhận xét: nhiều năm sau Nghị quyết khi sự lừa dối được phát hiện và Quốc hội muốn tự tách ra khỏi cuộc chiến mà chính họ đã phê chuẩn năm 1964, nhiều Thượng nghị sĩ than phiền rằng nếu họ biết sự thật thì họ đã chống lại Nghị quyết. Dân biểu Dante, Florida nói ông Tổng thống có nhu cầu quyền hạn, một biến cố tình cờ có thể đem lại quyền lực cho ông. Quốc hội nghĩ oanh tạc BV sẽ khiến họ chấm dứt chiến tranh. Họ cũng nghĩ như Hành pháp, nếu Mỹ khiến CS trả giá cao thì sẽ ngưng xâm lược miền nam. James Thomson (1964 trong Hội đồng an ninh GQ) trong một phiên họp của Thượng viện năm 1968 nói biến cố Vịnh lần sau (4-8) là cách thuận lợi chứng tỏ ý chí của chung mà chẳng cần có chứng cớ rõ ràng để tham dự cuộc chiến. Thượng viện sau này đánh giá Hành pháp Johnson sai lầm khi nghĩ rằng dùng oanh tạc hay sức mạnh quân sự có thể khiến Hà nội bị khuất phục.

Không cần biết chuyện gì sẩy ra ở Vịnh BV, việc đưa ra Quốc hội thành công mà các cố vấn của Tổng thống đã khuyên ông làm để đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Theo Marilyn B. Young Hà nội quyết tâm đi vào cuộc chiến, tháng 10-1964 họ đã đưa ba trung đoàn chính qui khoảng 4,500 người vào Nam, chiến dịch oanh tạc của Johnson không khiến Hà nội phải đầu hàng mà còn mở rộng cuộc chiến hơn nữa, cuối cùng Johnson không tìm được hòa bình như ông đã hứa với người dân.

Tác giả Stanley Karnow (8) nói tổng cộng cuộc oanh kích trả đũa BV của Johnson gồm 64 phi vụ, có khoảng 25 tầu bị phá hủy hoặc hư hại, Mỹ bị mất hai máy bay. McNamara hồi đó cho biết ông đã có bốn công điện của BV cho thấy họ cho lệnh tấn công tối 4-8, những công điện này được giữ bí mật từ đó. Nhưng hoặc ông hiểu sai công điện hay cố tình dấu diếm nó, theo một cựu viên chức Mỹ rành về những bản truyền tin của địch thì đó không phải là lệnh tấn công (attack orders) mà McNamara hiểu nhưng là lệnh của bộ chỉ huy cho các tầu tuần duyên chuẩn bị tác chiến (military operations) mà có thể là tự vệ. Ray Cline phụ tá giàm đốc CIA hồi đó, đã phân tách sự khác biệt chính giữa hai cuộc tấn công là: sau khi duyệt xét những hồ sơ thì chỉ thấy nó liến quan đến cuộc tấn công trước (2-8)

Kết Luận

Những năm đầu thập niên 60, người dân Mỹ và Quốc hội ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến tranh VN vì quá sợ CS, họ tin rằng nếu mất miền nam VN hay Đông dương sẽ mất Đông nam Á. Tất cả sách báo, thống kê về giai đoạn này, nhất là 1964 đều nói đa số, đại đa số người dân, thậm chí có tài liệu nói 78% hoặc 85% (9) ủng hộ cuộc chiến, đại đa số Quốc hội ủng hộ cuộc chiến. Tháng 8-1964 Johnson đưa ra Quốc hội xin Nghị quyết Đông nam Á và đã được chấp thuận với tên Nghị quyết Vịnh Bắc Việt ngày 7-8-1964 với tỷ lệ tối đa 99.60% số phiếu thuận choTổng thống can thiệp vào cuộc chiến ngăn chận CS tại VN.

Trường hợp nếu Johnson -McNamara dùng oanh tạc khuất phục được BV, mang lại hòa bình thì sẽ không có ai đề cập tới Nghị quyết này. Nhưng sau khi được Quốc hội cho phép hành động, Johnson McNamara đã đem hơn nửa triệu quân vào miền nam VN trong mấy năm chiến tranh nhưng không thắng được CS, cuộc chiến ngày càng mở rộng. Sau trận Tết Mậu Thân tháng 2-1968 số người ủng hộ chiến tranh tụt thang nhanh chóng, tỷ lệ chống chiến tranh tăng nhanh. Khi ấy người ta kết tội Johnson đã gây lên cuộc chiến sa lầy, họ bèn xét lại Nghị quyết và lên án ông đã lừa gạt Quốc hội để đưa nước Mỹ can thiệp vào VN. Sau đó tới màn bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu và duyệt xét lại Nghị quyết để kết luận không có cuộc tấn công lần thứ hai ngày 4-8 của tầu tuần duyên BV mà do McNamara và ban tham mưu bịa ra trình Tổng thống lường gạt Quốc hội, nghĩa là chỉ Johnson McNamara là chịu trách nhiệm, người dân và Quốc hội không có gì đáng chê trách!

Như đã nói trên buổi chiều tối 4-8 chuyên viên radar trên tầu Maddox cho biết nhận được tín hiệu bị tấn công bằng ngư lôi, các thủy thủ trên tầu Turner Joy xác nhận đã nhìn thấy đèn pha chiếu sáng từ tầu địch và thấy súng tự động bắn, súng phòng không bắn hai máy bay Mỹ bay trên cao (10). Hai thuyền trưởng trên hai khu trục hạm Maddox và C Turner Joy báo động và ra lệnh bắn trả tối đa về hướng nghi ngờ, không có lửa tại sao lại có khói?

Thuyền trưởng kêu gọi không quân yểm trợ, Stockdale một trong các phi công từ hàng không mẫu hạm bay tới, ông đảo trên trời một tiếng rưỡi và không thấy chiếc tầu nào của BV mà chỉ thấy tầu Mỹ bắn loạn xạ trên mặt biển, sau này viết hồi ký kể lại như vậy.

Đô đốc Sharp, Tư lệnh Thái bình dương dựa theo báo cáo của hai thuyền trưởng để tường trình với McNamara và ông này trình lên Tổng thống như đã nói trên. Mặc dù chứng cớ về cuộc tấn công này có vẻ mơ hồ nhưng phản bác của những người chống đối cũng không có gì là cụ thể, chỉ là “lý sự”, thí dụ họ nói các chuyên viên radar thiếu kinh nghiệm, tưởng lấm, những năm sau giải mật các bản công điện của BV thì thấy chắc là lệnh tự vệ chứ không phải lệnh tấn công. Đó cũng chỉ là một cách hiểu khác, giải thích khác cũng như người ta giải nghĩa những câu văn trong Kinh Dịch, mỗi người hiểu một cách. Ngoài ra những bản công điện, vô tuyến điện thoại của BV chưa chắc đáng tin cậy, họ thường đưa tin giả để nghi binh, Đại tá Nguyễn trọng Luật, cựu tỉnh trưởng Ban mê Thuột cho biết CSBV thừa biết đối phương hay nghe lén điện thoại, công diện nên họ đã đưa nhiều tin giả để lừa địch.
Nhưng vấn đề là Johnson McNamara có cần phải khiếu khích BV và tạo biến cố giả tại Vịnh Bắc việt để đánh lừa Quốc hội hay không trong khi cuộc chiến giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đã thực sự diễn ra từ 1959?

Ngày 13-5-1959 tại Hà Nội, CSBV đã mở Hội nghị thứ 15, ra Nghị quyết phát động chiến tranh chiếm miền nam bằng vũ lực (11). Họ thành lập đoàn 559 đưa người vũ khí xâm nhập miền nam qua Lào và hai tháng sau đoàn 779 xâm nhập đường biển. Năm 1959 có hơn 2,500 vụ ám sát các viên chức chính phủ, gấp hai lần năm 1958 (12). Ngày 12-12-1960, CSBV thành lập Mặt trận giải phóng miền nam tại Hà Nội, chính thức ra mắt ngày 20-12-1960 (13). Ngày 18-9-1961 hai tiểu đoàn VC chiếm tỉnh lỵ Phước Thành trọn một ngày, giết tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và 10 công chức, tổng cộng có 17,000 cán binh xâm nhập miền nam. Ngày 18-10-1961 Tổng thống VNCH ban hành tình trạng khẩn cấp toàn quốc (14). Năm 1962 cố vấn Mỹ gia tăng 11,300 người, quân đội VNCH tăng lên 220,000 người (15).

Đầu tháng 1-1963 trận Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho, VC bắn rơi 4 trực thăng Mỹ và bắn cháy ba M113, VNCH thiệt hại 63 người, Mỹ có 3 người chết, VC chết 41 nguời (16). Ngày 23-11-1963 tại trận Hiệp Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa có 41 Dân sự chiến đấu miền nam bị giết, 120 bị thương , 32 mất tích, VC bỏ lại 7 xác, 4 lực lượng đặc biệt Mỹ mất tích (17). Ngày 1-1-1964 VC pháo kích phi trường Biên hòa, phá hủy 6 máy bay B-57, làm hư hại 20 cái khác , giết 5 người Mỹ, 2 VN, 76 bị thương (18). Từ 1959 cho tới 1962 có 100 cố vấn Mỹ bị giết, tới cuối 1964, tổng cộng có 416 người Mỹ bị giết chưa kể số người bị thương và bị bắt làm tù binh (19). Từ cuối 1964, đầu 1965 Hà nội công khai đưa quân chính qui vào nam. Như thế chiến tranh đã diễn ra rất sôi động rồi, cần gì phải tìm lý do?

Johnson chẳng thiếu gì chứng cớ để xin Quốc hội ủng hộ, đâu cần phải ngụy tạo biến cố Vịnh Bắc Việt ? dù có hay không Nghị quyết thì cuộc chiến tranh giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đã diễn ra từ lâu rồi.

Ngoài ra Johnson không phải diều hâu, ông chủ trương hòa bình, dùng oanh tạc đe dọa để Hà nội thấy cái giá phải trả mà từ bỏ cuộc chiến xâm lược, khác với ứng cử viên đối lập Goldwater chủ trương đánh mạnh hơn nữa. Năm 1965 khi tình hình quân sự tại miền nam rất xấu, Cộng quân gia tăng xâm nhập tấn công liên tục, Quân đội miền nam bị thiệt hại nhiều, Tướng Westmoreland khẩn khoản xin McNamara và Johnson gửi thêm quân tác chiến để cứu nguy miền nam. Mặc dù vậy, Johnson vẫn chần chừ, ông thăm dò các cố vấn, hỏi ý kiến cựu Tổng thống Eisenhower đến khi mọi người khuyên ông phải tăng quân theo yêu cầu của Tư lệnh, Johnson mới chịu dấn thân. Ông leo thang khi Hà Nội đã gia tăng xâm nhập, tấn công mạnh để làm sụp đổ VNCH. Trong khi đại đa số người dân, Quốc hội ủng hộ cổ võ cuộc chiến, nó đã gián tiếp lôi cuốn Johnson can thiệp, ông tham gia cuộc chiến để khỏi mất phiếu vì bị cho là nhu nhược.

Nguyên do TT Johnson không muốn tham gia cuộc chiến VN vì sợ nó sẽ làm hỏng chương trình chương trình phúc lợi xã hội Great Society của ông gồm medicaire, cải tổ di dân, chống nghèo, làm dịu kỳ thị chủng tộc, nâng đỡ nhân quyền…. Johnson nghĩ ngân sách quốc phòng sẽ làm hỏng chương trình xã hội của ông.

Nếu nói là Johnson lừa gạt Quốc hội để được chấp thuận Nghị quyết Vịnh BV 1964 rồi đem quân vào VN là không đúng tí nào vì dù không có Nghị quyết này ông vẫn có thể đem quân vào VN mà không cần đưa ra Quốc hội vì hồi đó chưa có Nghị quyết War Powers Resolution, giới hạn quyền Tổng thống trong chiến tranh mà mãi tới năm 1973 mới có.

(Tháng 8- 1973 War Powers Resolution được ban hành, nó qui định TT phải tham khảo Quốc Hội trước khi tham chiến. Sau khi tham khảo, TT có quyền tham chiến trong 60 ngày không cần sự chấp thuận của Quốc Hội và thêm 30 ngày nữa….)

Trường hợp TT Johnson gần giống TT Bush năm 2003 khi ông đã được Quốc hội và người dân ủng hộ cuộc chiến Iraq, nhưng mấy năm sau khi bị sa lầy người ta chỉ trích ông lừa gạt người dân vì không tìm thấy vũ khí giết người hàng loạt. Tuy nhiên trường hợp Johnson có hơi khác là ông không muốn tham chiến vì chuẩn bị ứng cử, vì chương trình phúc lợi xã hội.. còn Bush muốn chiến tranh, nhiều người nói cuộc chiến Iraq là do ý muốn của chính ông.

Người ta chỉ trích chiến dịch oanh tạc BV thất bại, Johnson không làm cho BV chịu thua cuộc nhưng cả Quốc hội, người dân cũng tin vào kế hoạch này. Không riêng gì Johnson mà cả nước Mỹ sai lầm vì chủ quan, khinh địch, đánh giá quá thấp đối phương cũng như CS quốc tế, quá tin tưởng vào sức mạnh của mình. Chiến dịch thất bại một phần vì hỏa lực phòng không địch rất mạnh, người Mỹ không nghĩ CS quốc tế viện trợ cho Hà Nội dồi dào như thế, từ đầu chí cuối họ đã cung cấp cho BV 3,229 khẩu cao xạ; 20,000 hỏa tiễn địa-không (SAM) (20)

Phản chiến nói TT Johnson lừa Quốc hội để có Nghị quyết vịnh BV, từ Nghị quyết này đi tới cuộc chiến lớn và sa lầy tại VN, có nghĩa vì sự lừa gạt mà đưa tới cuộc chiến VN. Nhận định này không có căn cứ tí nào vì như đã nói dù không có biến cố vịnh BV Johnson cũng có những lý do khác để đưa ra Quốc hội, và thậm chí dù không có Nghị quyết Vịnh BV 1964, ông vẫn có thể đưa quân vào VN được vì ông là Tổng tư lệnh quân đội, vì tình hình đòi hỏi và vì hồi đó chưa có Nghị quyết hạn chế quyền Tổng thống (1973).

Những người chống chiến tranh và cả McNamara sau này cho là cuộc chiến VN sai lầm, nhưng nếu sai lầm tại sao không rút bỏ VN từ giữa thập niên 60? Tháng 12-1964, Hội đồng quân lực VNCH đã yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sứu và Thủ tướng Trần văn Hương trục xuất Đại sứ Mỹ Taylor mà họ cho là có thái độ hách dịch (21). Trong tường trình cuối năm về Tòa Bạch ốc, Taylor có đề nghị rút bỏ miền nam VN (22) nhưng không được ai chú ý. McNamara (hồi ký trang 320) cho là đáng lý Mỹ phải rút bỏ miền nam từ cuối 1963 hay cuối 1964 hoặc đầu 1965.

Nói cho oai thôi chứ trên thực tế Hoa kỳ vẫn bám vào miền nam VN kỹ lắm, mặc dù 1965, 1966 phản chiến tại Mỹ lên cao, ngay tại miền nam cũng có nhóm quá khích chống chiến tranh1966 nhưng họ cũng không dám rút bỏ. Người Mỹ chỉ rút bỏ VN năm 1975 sau khi đã hòa được với CS quốc tế.

Những năm 1964, 1965 Hoa Kỳ có thể lựa chọn hoặc tham chiến hoặc rút bỏ miền nam VN hay không? Thực ra họ không có con đường nào khác hơn là can thiệp vào cuộc chiến VN để giữ Đông nam Á, để bảo vệ an ninh cho chính họ, bảo vệ cho chính quyền lợi của nước Mỹ.

Như thế không thể kết luận chỉ có Johnson là người đã đưa nước Mỹ vào cuộc chiến sa lầy.

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt

——————————————————-

Chú thích
(1) McNamara, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, trang 127-143
(2) In Retrospect trang 140
(3) In Retrospect trang 141
(4) No More Vietnams trang 73-76
(5) No More Vietnams trang 74
(6) The Vietnam war, trang 81, 82
(7) The Vietnam war 1945-1990, trang 120-123
(8) Vietnam a History trang 388,389
(9) Vietnam a History trang 390; answer.com, domino theory
(10) In Retrospect trang 134
(11) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1955-1963, trang 152
(12) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập trang 61
(13) VN Niên Biểu trang 206
(14) VN Niên Biểu trang 228,229
(15) Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 61
(16) Sách kể trên trang 63.
(17) Sách kể trên trang 94,95
(18) The World Almanac of The Vietnam War trang 95
(19) National Archives, Statistical Information about Fatal Casualties of the Vietnam War
(20) Đăng Phong, Năm Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(21) Lâm vĩnh Thế, VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn trang 98
(22) In Retrospect, trang 164
(Đàn Chim Việt) 

Cần nhận thức đúng về tự do và quyền con người

QĐND - Tự do và quyền con người là những giá trị cao quý của nhân loại. Không có chế độ xã hội nào, không có nhà nước đương đại nào phủ nhận giá trị đó. Sự khác biệt về nhận thức lý luận đối với những phạm trù, khái niệm trừu tượng như khái niệm tự do và quyền con người cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, những quan niệm ấu trĩ, sai lầm về “tự do” và “quyền con người” đã khiến cho người ta có hành vi vi phạm pháp luật, rơi vào vòng lao lý. Chẳng hạn dựa vào nhận thức sai lầm về tự do ngôn luận, một số blogger trong “Câu lạc bộ nhà báo tự do” viết bài xuyên tạc chính sách pháp luật của Nhà nước. Hoặc dựa trên “công thức” xơ cứng, sai lầm về pháp luật: “Điều gì luật pháp không cấm thì đều có quyền làm”, người ta kêu gọi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 1992.
Vậy tự do là gì và trong đời sống thường nhật, người ta phải hành động như thế nào cho phù hợp với quan niệm đúng đắn về tự do?
Khái niệm tự do trong triết học được xem là một giá trị cao quý, cơ bản của nhân loại. Theo nhà triết học Locke (John Locke 1632-1704) “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào". Như vậy tự do ở đây chỉ là khả năng của con người. Còn nhà triết học cận đại Hegel (G.W Friedrich Hegel 1770-1831) thì cho rằng: “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Như vậy, ở đây tự do không chỉ là nhận thức mà cả ở hành động. Tuy nhiên, theo Hegel, muốn có tự do thì trước hết phải nhận thức được cái tất yếu, cái quy luật. Người ta nhận thức được quy luật đến đâu thì hành động tự do được bảo đảm đến đấy. Vi phạm quy luật, tất yếu sẽ bị mất tự do. Nhân đây cũng phải nói thêm rằng, loài người còn có giá trị khác, cao quý không kém tự do, đó là ý thức về trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, với dân tộc và gia đình. Phải chăng, đây mới là giá trị phân biệt loài người với phần còn lại của thế giới.
Trong chính trị, quy luật cơ bản liên quan đến sự tồn tại, phát triển của một dân tộc trước hết là quyền dân tộc tự quyết. Quyền này bao gồm: Quyền xác lập chế độ chính trị, thể chế quốc gia và hệ thống pháp luật. Tất cả các quốc gia, kể cả tổ chức chính trị lớn nhất hành tinh như Liên hợp quốc đều phải tôn trọng quyền đó. Với quyền này, các nhà nước có quyền áp dụng tất cả các biện pháp, trong đó có xây dựng và thực thi pháp luật để bảo vệ chế độ của mình. Những hành vi chống lại chế độ chính trị và nhà nước hiện hữu là vi phạm quy luật, tất yếu sẽ mất tự do. Nhận thức đúng đắn về tự do của cá nhân không thể không nhận thức đúng quy luật này. Nói một cách đơn giản: Không có quyền tự do cá nhân nào được phép đứng trên hoặc chà đạp lên chế độ chính trị, lợi ích của Nhà nước.
Bây giờ trở lại vấn đề quyền con người, xem quyền con người (QCN) là gì? Vì sao có những người cho rằng, họ chỉ “thực hiện những quyền con người của mình, đã được pháp luật ghi nhận” mà lại bị bắt bớ, xét xử?
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là tài sản chung của các dân tộc. Với tư cách là một giá trị đạo đức, QCN là một giá trị xã hội cơ bản, vốn có của con người. Những giá trị này bao gồm: Nhân phẩm, tự do, bình đẳng, tinh thần nhân đạo, khoan dung và trách nhiệm của mỗi người với cộng đồng. Khái niệm này là phương hướng cho sự phát triển của nhân loại.
Với tư cách là một giá trị pháp lý, QCN là các quy định pháp luật (trong luật quốc gia và luật quốc tế) nhằm bảo vệ nhân phẩm, các nhu cầu về vật chất, tinh thần của tất cả mọi người và nghĩa vụ của mỗi người đối với cộng đồng. Có thể nói cho đến nay, cộng đồng quốc tế đã thỏa thuận với nhau những chuẩn mực chung về quyền con người. Những chuẩn mực này được ghi trong “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”, 1948[1], “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị”, 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa”, 1966[2]. Tuy nhiên, Luật quốc tế về quyền con người không trực tiếp điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và người dân ở mỗi quốc gia. Các nhà nước nội luật hóa những công ước đã tham gia vào hệ thống pháp luật của mình, trên cơ sở đó các quyền con người ở mỗi quốc gia mới được bảo vệ trên thực tế.
ở Việt Nam, các quyền con người đã được nội luật hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Nói cách khác, việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam đã được quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia. Viện dẫn quyền con người nói chung mà không dẫn ra được những quyền đó được quy định như thế nào trong pháp luật quốc gia là thiếu tính thuyết phục, là không thể chấp nhận.
Trong luật quốc tế về quyền con người, không có quy định nào về “quyền tự do” nói chung. Một số quyền con người gắn với khái niệm tự do hình thành những quyền tự do cơ bản. Chỉ những quyền tự do cơ bản này mới được pháp luật bảo hộ. Đồng thời, những quyền (tự do) này phải chịu một số hạn chế của pháp luật. Trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị” 1966, các quyền tự do về tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; về tự do ngôn luận, báo chí; về tự do cư trú, đi lại; Về tự do lập hội, hội họp được ghi nhận. Đồng thời, Công ước này cũng khẳng định những quyền này có thể bị hạn chế “để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền và tự do của người khác” [3]. Trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam, một số quyền công dân cũng bị hạn chế. Điều này thường được quy định theo luật (sau khi quy định về nội dung quyền - Đối với Hiến pháp), hoặc được quy định trong khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Chẳng hạn, Điều 88, Bộ luật Hình sự về “Tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, Điều 89, “ Tội phá rối an ninh”…
Sở dĩ quyền tự do ngôn luận, báo chí của các blogger trong “câu lạc bộ nhà báo tự do” không được Nhà nước ta chấp nhận vì trên trang mạng của họ đã có hàng trăm bài xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo chính sách của Nhà nước.
Sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung, điều chỉnh mối quan hệ xã hội nói riêng không chỉ có pháp luật mà còn có những giá trị khác, trong đó có hệ thống giá trị đạo đức và văn hóa. Những hành vi nào đó, cho dù pháp luật không cấm hoặc chưa cấm, nhưng không phù hợp với đạo đức, không được xã hội chấp nhận thì người ta không nên làm.
VỌNG ĐỨC
--------------------------
[1] - Trung tâm nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”, HN, 2002, Tr 28.
[2] - Trung tâm nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”, HN, 2002, Tr 249, 294.
[3] - Trung tâm nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”, HN, 2002, Tr 255.
(Báo QĐND)

GS Nguyễn Mại: "Cho người Việt vào chơi casino là gây họa cho dân tộc"

(GDVN) - “Tôi kịch liệt phản đối ý kiến cho phép người Việt Nam vào chơi ở casino, theo tôi casino chúng ta đã không thu hái được nhiều không những vậy còn gây họa cho dân tộc Việt Nam” – GS.TSKH Nguyễn Mại nhấn mạnh.
Mới đây việc Vân Đồn (Quảng Ninh) được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho xây dựng khu vui chơi giải trí phức hợp, trong đó có casino. Ngày 11/9, lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh có buổi làm việc với Tập đoàn ISC Corporation (Mỹ) và các đối tác của Tập đoàn Tuần Châu (TP Hạ Long) về một số nội dung hợp tác đầu tư tại Khu kinh tế Vân Đồn và Khu vui chơi giải trí quốc tế Tuần Châu.

Thời gian qua, Tập đoàn ISC Corporation đã tiến hành nghiên cứu, lập quy hoạch và ký kết hợp đồng để đầu tư phát triển Dự án Khu phức hợp vui chơi giải trí tại đảo Tuần Châu, TP Hạ Long tổng vốn đầu tư của dự án lên tới 7,5 tỷ USD.

Lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh làm việc với Tập đoàn ISC Corporation (Mỹ) về dự án Vân Đồn.


Khi Tập đoàn ISC Corporation và các đối tác của Tập đoàn Tuần Châu đầu tư vào Vân Đồn sẽ được ưu đãi về thuế, đất đai...Sau buổi làm việc này, 2 bên đã thống ký biên bản ghi nhớ cùng với Tập đoàn ISC Corporation nghiên cứu đầu tư tại Khu Kinh tế Vân Đồn.

Trước đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có buổi làm việc thảo luận những dự thảo Nghị định quy định về hoạt động kinh doanh casino của Bộ Tài chính. Trong đó nhiều ý kiến cho rằng việc cho phép xây dựng kinh doanh casino tại những địa phương như Quảng Ninh sẽ góp phần thúc đẩy du lịch. Đồng thời nên cho phép một số người Việt có điều kiện vào chơi casino.

GS.TSKH Nguyễn Mại nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng việc cho người Việt vào chơi casino sẽ “gây họa cho dân tộc”.


Việc cho phép người Việt vào chơi casino được lý giải để tránh nguồn ngoại tệ chảy ra nước ngoài do hiện nay nhiều người Việt Nam thường xuyên qua các con đường sang các nước lân cận chơi casino và các trò chơi cá cược…

Tuy nhiên trao đổi với phóng viên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam GS.TSKH Nguyễn Mại nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng việc cho người Việt vào chơi casino sẽ “gây họa cho dân tộc”.

Bày tỏ ý kiến của mình trước quan điểm nên cho một số người Việt Nam có điều kiện đặc biệt được phép vào chơi casino GS.TSKH Nguyễn Mại chi biết: “Ý kiến cho phép người Việt Nam vào chơi ở casino tôi kịch liệt phản đối, theo tôi casino chúng ta đã không thu hái được nhiều không những vậy còn gây họa cho dân tộc Việt Nam”.

Về việc nhiều ý kiến cho rằngViệt Nam đang có nhiều người ra ngoài đánh bạc như sang Singapore, Campuchia và nướng tiền ở đó. Tuy nhiên theo GS.TSKH Nguyễn Mại số người Việt Nam mang tiền sang các nước đánh bạc đó không nhiều. Hơn nữa nếu mở casino tại một nơi nào đó tại Việt Nam sẽ khiến nhiều người Việt kéo nhau đi chơi casino gây lên các vấn đề tệ nạn xã hội.

“Nếu hiện nay một casino tại Quảng Ninh hay ở đâu đó thuận lợi hơn chắc chắn họ sẽ kéo hàng đoàn người đi chơi trong đó có những người trẻ tuổi từ đó sinh ra các vấn đề nghiêm trọng. Chúng ta hiện nay đã có quá nhiều tai tệ nạn xã hội rồi không nên đánh đổi để gây nên tệ nạn xã hội mới” – GS.TSKH Nguyễn Mại cho biết.

“Vì vậy nhiều ý kiến thảo luận tại Quốc hội cho rằng nên thí điểm cho một số người Việt Nam có điều kiện vào chơi tôi cũng phản đối vì đây là cái rất nguy hiểm. Chúng ta nên nhìn sang Singapore nơi quản lý rất tốt, sau nhiều năm năm cho mở casino mặc dù quản lý rất tốt nhưng Singapore bắt đầu gặp các vấn đề tiêu cực ngoài dự đoán và họ đã bắt đầu cần xiết chặt hơn nữa việc cho người Singapore vào chơi tại đây”. GS.TSKH Nguyễn Mại nói.

Xung quanh dự thảo Nghị định quy định việc cho phép kinh doanh casino tại Việt Nam sẽ không chỉ mang lại nguồn thu ngoại tệ nó còn giúp phát triển du lịch. Theo GS.TSKH Nguyễn Mại phát triển du lịch không nhất thiết phải có casino. Theo nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nếu phát triển du lịch Việt Nam nên nhìn sang Phu Kẹt một trung tâm du lịch nổi tiếng của Thái Lan.

GS.TSKH Nguyễn Mại cho rằng, nói về cảnh quan, bãi biển không đẹp như Vũng Tàu hay Quảng Ninh của Việt Nam nhưng Phu Kẹt mỗi năm thu hút hàng chục triệu khách du lịch quốc tế, kể cả những năm tình hình chính trị Thái Lan bất ổn, hay bị sóng thần phá hủy nhưng khi khôi phục lại khách du lịch đến Phu kẹt cũng vẫn đông trong khi đó Phu Kẹt không có casino.

“Như vậy thì không phải vì thiếu casino nên không phát triển được du lịch. Du lịch là lĩnh vực khác, Quảng Ninh hoàn toàn có thể phát triển du lịch tốt hơn hiện nay rất nhiều mà không cần đến casino” GS.TSKH Nguyễn Mại khẳng định.
Hoàng Lực 
  (GDVN)

Công ‘mô tô’ là ai?

Thông tin Công “mô tô” bị khởi tố liên quan đến phi vụ “biến xe sang thành xe nát” hôm qua đã thu hút sự chú ý của nhiều người, trong đó không ít người từng là nạn nhân của y tại TP.HCM.
Công ‘mô tô’ là ai ?
Công an phường đến can thiệp tại cửa hàng của Công “mô tô” - Ảnh: C.T.V

Trên thực tế, Công “mô tô” từng nổi tiếng khi “mặn nồng’’ với một người đẹp tên tuổi, rồi đến sự kiện thuê trực thăng cẩu mô tô “khủng” từ Vũng Tàu về TP.HCM, nhưng trong giới mô tô ở Sài Gòn khi nhắc đến Công ai cũng lắc đầu ngao ngán.

Bán xe và bị kiện

Huỳnh Văn Xuân “kinh qua” nhiều nghề, nhưng chỉ đến khi len lỏi vào giới cò mua bán xe gắn máy, rồi đến mô tô phân khối lớn, thì mới bắt đầu “chết” danh Công “mô tô”.

Khi mở Công ty TNHH DV-TM Thành Công Sài Gòn (trụ sở chính ở đường 3 Tháng 2, P.2, Q.11), Công “mô tô” đã bắt đầu khiến nhiều khách hàng bực bội. Tại địa chỉ chi nhánh ở đường Trần Phú, P.7, Q.5, cửa hàng Công - Motor (chuyên mua bán, ký gửi các loại xe mô tô) đã  bày ra nhiều trò khiến nhiều người bị “sập bẫy”. Khi khách mua xe, Công “mô tô” bắt phải trả hết tiền để nhập xe nhưng không chịu đóng thuế hải quan nên không thể làm thủ tục đăng ký xe dẫn đến kiện cáo. Thậm chí, Công “mô tô” rủ người quen bỏ vốn hùn hạp nhập nhiều lô hàng mô tô trị giá cả chục tỉ đồng về bán, sau đó đưa nhiều lý do thua lỗ, mất tiền...

Ngày 25.2.2010, một khách hàng tên Tùng mua chiếc mô tô trị giá 6.300 USD; đặt cọc trước 20 triệu đồng và Công “mô tô” hẹn 15 ngày sau giao xe và giấy tờ xe. Nhưng mãi đến cuối tháng 5.2010, y mới giao xe và anh Tùng đưa thêm 4.000 USD, số tiền 1.300 USD còn lại sẽ trả nốt sau khi nhận đầy đủ giấy tờ. Anh Tùng mang xe về đi được một tuần thì Công “mô tô” đến mượn xe đi đăng kiểm để làm giấy tờ, nhưng đến nay cũng không trả lại xe và không giao giấy tờ xe. Nhiều lần anh Tùng đến đòi lại tiền nhưng Công “mô tô” tránh né. Bức xúc, chiều 27.9.2012, bà N.T.Hoa (mẹ của anh Tùng) đến cửa hàng đòi lại tiền thì bị bảo vệ ở đây xô ngã, bị thương phải đưa đi bệnh viện cấp cứu...

Khoảng tháng 4.2009, anh N.A.K (32 tuổi, ngụ Q.8), mua chiếc xe tay ga phân khối lớn trị giá 6.500 USD (đưa trước 4.500 USD) và hẹn 15 ngày sau đến lấy giấy tờ. Tuy nhiên, anh K. đợi hoài vẫn không thấy Công “mô tô” giao giấy tờ. Mỗi lần anh K. gọi điện hỏi thì Công “mô tô” viện lý do giấy tờ hải quan bị “kẹt”... Mặc dù, anh K. nhiều lần đến tận cửa hàng yêu cầu giao giấy tờ hoặc trả xe lấy tiền lại, nhưng Công cố tình lẩn tránh. Cuối cùng, anh K. phát hiện không chỉ có mình bị “dính” mà nhiều người khác cũng “gặp nạn” tương tự. Quá bức xúc, một nhóm khoảng 7 nạn nhân đã cùng nhau đến cửa hàng yêu cầu giải quyết, nhưng bị bảo vệ ngăn cản không cho vào. Hai bên đã giằng co với nhau quyết liệt gây mất trật tự công cộng buộc công an phường phải can thiệp.

Nhiều người khác cũng từng đến tòa soạn Báo Thanh Niên tố cáo bị Công “mô tô” dọa đánh, chém, do liên quan đến việc mua bán mô tô. Khi PV Thanh Niên tìm hiểu thực hư thì Công không tiếp xúc.

Công ‘mô tô’ là ai ?
Roi điện thu giữ được tại công ty bảo vệ của Công “mô tô” - Ảnh: Đàm Huy

“Thảm đỏ”, chân dài, chủ nợ...

Sau những vụ ồn ào liên quan đến mô tô, Công “mô tô” chuyển hẳn sang kinh doanh dịch vụ bảo vệ. Năm 2010 được xem là thời điểm Công “dồn hết sức lực” vào lĩnh vực này.

Với sở thích muốn mọi người “đề cao mình”, Công “mô tô” đã đưa ra một quy định khác người, đó là mỗi buổi sáng khi y đến công ty thì lực lượng bảo vệ phải xếp hàng (2 bên) đứng nghiêm chào đón y bước trên thảm đỏ vào công ty làm việc. Chưa hết, để “lấy le” với người đẹp, Công điều động hàng chục quân đi theo mở đường, khóa đuôi bảo vệ đình đám cho siêu mẫu thời điểm đó của Công.

Công “mô tô” cũng từng ồn ào việc bỏ ra hơn 2,5 tỉ đồng để thuê trực thăng cẩu xe mô tô “khủng” về TP.HCM, nhưng ít ai biết rằng số tiền này y vay mượn của bà Ng. (ngụ Q.6) để tổ chức. Sau này, bà Ng. nhiều lần đòi tiền nhưng y không có, phải xin trả dần.

Trong quá trình kinh doanh dịch vụ bảo vệ, lính của Công “mô tô” cũng gây nhiều tai tiếng chẳng kém y. Điển hình như vụ dùng roi điện tấn công dã man một Việt kiều tại quán cơm trên địa bàn Q.1. Sau vụ việc này, cơ quan công an còn phát hiện công ty bảo vệ của Công “mô tô” chưa có giấy xác nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự nhưng đã đưa vào hoạt động; chưa có giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ nhưng tự ý trang bị nhiều roi điện, trong đó có roi điện hình dạng giống khẩu súng, dùi cui...   

Cuối năm 2012, Công “mô tô” dời công ty bảo vệ đến một địa điểm mới cũng trên địa bàn Q.5 và thiết kế trang phục có gắn “quân hàm”, mũ gắn quốc huy, màu áo quần giống màu trang phục của lực lượng cảnh sát cơ động. Cũng vào thời điểm này, Công điều 6 “lính” đi trên xe jeep mui trần, tháp tùng một chủ nợ (ngụ Q.3), xông vào trụ sở Công an P.2 (Q.Tân Bình) gây rối.

“Những nhân viên bảo vệ này tỏ thái độ hung hăng xông vào trụ sở phường đòi đi theo thân chủ của họ tham dự buổi hòa giải về vụ việc ẩu đả do nợ nần xảy ra trước đó. Khi công an ngăn lại vì không phải đối tượng được mời thì họ xô đẩy công an, đòi xông lên lầu tham dự. Nhóm bảo vệ này còn tuyên bố họ được quyền đi đến bất cứ nơi nào, vào bất cứ cuộc họp nào để bảo vệ thân chủ của họ. Sau đó, công an phường phải mời trưởng khu phố ra làm chứng, đồng thời báo hình sự quận xuống hỗ trợ nhóm này mới chịu rút về”, một lãnh đạo Công an P.2 (Q.Tân Bình) bức xúc. 

Bắt tạm giam, khám xét nơi ở
Liên quan đến Công “mô tô”, ngày 14.9, nguồn tin Thanh Niên cho biết Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã khám xét nơi ở, nơi làm việc và thực hiện lệnh bắt tạm giam 4 tháng đối với 7 bị can. Trong đó 4 người là lãnh đạo các đội quản lý thị trường (QLTT) thuộc Chi cục QLTT tỉnh Hải Dương, gồm: Trần Quốc Huy (49 tuổi) và Phạm Đình Quang (40 tuổi), là đội trưởng và đội phó Đội QLTT số 3; Ngô Văn Tới (50 tuổi), đội phó Đội QLTT số 2; Phạm Đăng Duyên (33 tuổi), đội phó Đội QLTT số 5; Nguyễn Văn Thắng (44 tuổi), đội trưởng Đội Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế thuộc Chi cục Thuế H.Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; Bùi Mạnh Hùng (39 tuổi) nguyên Phó phòng Tài chính - Kế hoạch, Trưởng phòng Kinh tế - Hạ tầng H.Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Huỳnh Văn Xuân, Giám đốc Công ty TNHH DV-TM Thành Công Sài Gòn, tức Công “mô tô” cũng đã bị bắt tạm giam.

Thái Sơn
Đàm Huy
(Thanh niên)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét