Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Bài đáng chú ý

Tiếng vỗ tay ầng ậng trong vụ cháy ở Hải Dương!

Trong mất mát đến tan cửa nát nhà, vui thú gì mà… vỗ tay? Tiếng vỗ tay ở đây có gì như hài hước và chua chát. Tiếng vỗ tay ầng ậng nước mắt!

Vụ cháy Trung tâm Thương mại Hải Dương đã để lại một hậu quả vô cùng lớn. Hơn 500 hộ kinh doanh đã trở thành trắng tay, nhiều người lâm vào cảnh nợ nần, nghèo đói, túng thiếu. Nhiều gia đình không còn cả tiền đóng học cho con.

Một trong số các trung tâm thương mại lớn ở miền Bắc đổ nát tan hoang như sau một trân rải thảm của máy bay B52 thời chiến tranh. Hơn 500 tỉ đồng phút chốc đã bị bà Hỏa “hóa vàng”. Giờ đây, tỉnh Hải Dương đang dồn sức khắc phục hậu quả này.

Và như nhiều vụ hỏa hoạn khác, người dân lại một lần nữa đặt câu hỏi: Lực lượng cứu hỏa khi đó ở đâu và đã làm gì?
Ảnh báo Lao Động
Vụ cháy Trung tâm Thương mại Hải Dương
Theo phản ánh của bà con, khoảng cách từ TTTM Hải Dương đến cơ quan phòng cháy chữa cháy rất gần. Thế nhưng xảy ra cháy từ 1 giờ mà 3 giờ (hơn 02 tiếng đồng hồ sau) mới thấy xe cứu hỏa xuất hiện. Càng “hài hước” hơn khi 2 xe đến thì chỉ có một xe có một ít nước còn một xe không hoạt động được.

Trong khi đó, TTTM Hải Dương nằm ở vị trí giao thông thuận tiện, một bên là sông, một bên là hồ mùa mưa đang ăm ắp nước.

Như vậy là có thể nói, địa hình thông thoáng, lực lượng khổng lồ (có thời điểm có tới 300 chiến sĩ công an tham gia), phương tiện hiện đại. Song hậu quả cuối cùng: Toàn bộ khu TTTM ra tro!

Thật chua chát khi trong cuộc họp giữa tiểu thương và đại diện chính quyền chiều 16/9 tại hội trường UBND phường Lê Thanh Nghị, ông Tăng Thế Viễn, chủ gian hàng đồng hồ trong Trung tâm Thương mại Hải Dương đau đớn thốt lên: “Nhìn 2 xe cứu hỏa của Hải Dương đứng trước đám cháy đến là thảm thương. Mãi sau mới có xe của Hưng Yên tới, hiệu quả hơn hẳn nhưng cũng đã quá muộn. Thật đau đớn”.

Càng chua chát hơn khi những lời “thảm thương” của ông Viễn lại nhận được những tràng… vỗ tay!

Trong mất mát đến tan cửa nát nhà, vui thú gì mà… vỗ tay? Tiếng vỗ tay ở đây có gì như cay đắng và chua chát. Tiếng vỗ tay ầng ậng nước mắt!

Trong thư gửi về cho chúng tôi, cũng không ít bạn đọc thốt lên đầy cay đắng và chua chát. Bạn đọc có hộp thư zaitow@yahoo.com viết:“Hoan hô các đồng chí PCCC… Sau khi chẳng còn gì để cháy, các đồng chí đã dập tắt được ngọn lửa”.

Công bằng mà nói, nếu đúng như những gì người dân và các cơ quan báo chí phản ánh thì sự chậm trễ của Lực lượng PCCC Hải Dương đối với vụ cháy TTTM cũng không đơn độc. Nó đã từng diễn ra ở nhiều và rất nhiều những vụ cháy khác. Hình ảnh xe cứu hỏa chạy đến rồi chạy đi vì không có nước, thậm chí chết máy chỉ vì… hết xăng không phải là điều gì xa lạ. Nó đã và chắc chắn sẽ còn diễn ra trong tương lai nếu như không có sự chấn chỉnh.

Cái hình ảnh xe cứu hỏa: “Mình đỏ như lửa – Bụng chứa nước đầy – Ai gọi cứu hỏa – Có ngay, có ngay!” hình như chỉ còn trong trang sách giáo khoa từ thủa xa xưa…

Trở lại với vụ cháy ở TTTM Hải Dương, để xảy ra việc cháy không thể không có trách nhiệm của PCCC Hải Dương bởi nhiệm vụ đầu tiên và trước hết của lực lượng này là phòng cháy. Còn đối với việc chữa cháy dù với bất cứ lý do gì cũng không thể bao biện bởi hậu quả cuối cùng, tất cả đã ra tro.

Nói trắng ra, tiền thuế và tiền đóng góp phí phòng cháy, chữa cháy của dân nuôi lực lượng PCCC không phải chỉ để diễn tập, để bán dụng cụ cứu hỏa mà còn một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là CHỮA CHÁY.

Thế nhưng rồi kết quả cuối cùng, TTTM Hải Dương giờ đây chỉ còn lại một đống tro tàn trong đổ nát và những tràng vỗ tay ầng ậng nước mắt!

Không có lực lượng cứu hỏa tất cả cũng thành tro, có lực lượng cứu hỏa tất cả cũng thành tro thì đằng nào mà chả thành tro bụi, cần có để làm gì?
Bùi Hoàng Tám 
  (Dân Trí)

Vụ cháy TTTM Hải Dương: Phải cách chức ngay!

http://images1.tuoitre.vn/Tianyon/Cache/Image/447/657447.jpg

Vụ cháy Trung tâm thương mại Hải Dương đã tiêu hủy tài sản của tiểu thương với số tiền ước tính 500 tỉ đồng. Ngọn lửa đã thiêu rụi tất cả, cái hiện nguyên hình trong đống tro tàn là sự vô trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc PCCC. 
Một đám cháy bùng lên đe dọa trung tâm thương mại, nhưng  sau 2 giờ cảnh sát PCCC mới đến hiện trường mặc dù trụ sở chỉ cách nơi cháy 1km. Hai xe chữa cháy điều đến thì một chiếc bị hỏng, không phun được nước.

Một lực lượng cảnh sát PCCC chậm chạp, thiếu chuyên nghiệp. Phóng viên Dân Trí ghi lại lời của tiểu thương Mai Thị Loan khi bà thấy những người chữa cháy phun nước mon men bên ngoài mà không tiếp cận đám cháy: “Tôi đau lòng quá, thiếu đường quỳ xuống van lạy:  Các cháu ơi, các cháu cứu dân với. Đập kính, phá cửa để dân cùng tham gia cứu cháy. Hãy gọi các tỉnh bạn đi, gọi thêm xe, thêm nước đi, làm thế chỉ có tác dụng rửa kính thôi”.

Và câu trả lời: “Bọn tôi chỉ thừa lệnh, chúng tôi không biết”.

Và câu trả lời cho câu trả lời lạnh lùng với dân đó là không một mẩu hàng hóa nào của trung tâm thương mại được cứu, là hàng trăm tiểu thương trắng tay, phá sản, là hơn 500 gia đình rơi vào túng quẫn, nợ nần vì cơ nghiệp tiêu tan.

Và câu trả lời từ đám cháy là lòng tin của dân cũng tiêu tan. Họ đã đóng thuế, đóng tiền PCCC để nuôi sự vô trách nhiệm. Sự vô trách nhiệm đó không phải xảy ra khi có cháy mà cả một quá trình. Đội quân chữa cháy thiếu cả kỹ năng và thiết bị nên đã bất lực trước đám cháy. Nếu có một đội quân PCCC tinh nhuệ và tinh thần trách nhiệm cao, đám cháy sẽ được khống chế và chắc chắn tài sản của tiểu thương không tan nát như vậy.

Dân có quyền chất vấn chính quyền rằng, chúng tôi kinh doanh và đóng thuế, trong đó có tiền cho chính quyền bảo vệ dân kinh doanh an toàn. Chúng tôi cũng đóng tiền cho lực lượng PCCC hằng năm. Tại sao chính quyền không bảo vệ được sự an toàn cho chúng tôi, tại sao lực lượng PCCC lại yếu kém như vậy?

Thật đáng sợ cho thói vô trách nhiệm. Và thật đáng sợ khi không có một ai đủ dũng khí và lòng tự trọng đứng ra xin từ chức.

Từ vụ cháy Trung tâm thương mại Hải Dương, cho thấy cái lỗ hổng to đùng chính là công tác PCCC. Phải cách chức lãnh đạo lực lượng PCCC gấp, đó là cách duy nhất để vớt vát chút lòng tin còn sót lại trong dân chúng.
  (Lao động)
 

Tham nhũng hàng nghìn tỷ mới thu hồi được 6 tỷ

Sáng 18.9, UBTVQH đã nghe và cho ý kiến về Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng chống tham nhũng năm 2013.
Theo Thanh tra Chính phủ, trong 8 tháng đầu năm 2013, Bộ Công an đã thụ lý 20 vụ án tham nhũng, với 109 bị can, trong đó khởi tố mới 11 vụ, 65 bị can; kết luận 8 vụ, 51 bị can, đình chỉ điều tra 1 vụ, chuyển cơ quan An ninh điều tra 1 bị can thuộc vụ Vinanlines. Hiện cơ quan chức năng đang điều tra 10 vụ, 55 bị can. Thiệt hại của những vụ tham nhũng lớn trên là 4.638 tỷ đồng và 2.900 lượng vàng SJC (tương đương hàng trăm tỷ đồng). Hiện mới thu hồi được 6 tỷ đồng, tài sản kê biên 1 thiết bị lặn Tinro2 và 108.000m2.
Viện KSND Tối cao đã thụ lý 31 vụ với 149 bị can, đã giải quyết 7 vụ, 28 bị can, đang giải quyết 24 vụ với 121 bị can.
Cho ý kiến về Báo cáo công tác phòng chống tham nhũng, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng đặt vấn đề: Báo cáo cần phải làm rõ vấn đề có tiêu cực, tham nhũng chính trong lực lượng phòng chống tham nhũng hay không, các lực lượng này đã làm hết trách nhiệm chưa. “Tôi muốn báo cáo ra QH, ra trước toàn dân phải thể hiện được rõ điều này, có hay không?”- Chủ tịch nhấn mạnh.
Theo Chủ tịch QH, trách nhiệm ở đây không chỉ là những cơ quan chủ lực như Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an mà còn có cả Viện KSND Tối cao, TAND Tối cao, cùng với địa phương, bộ ngành phải làm rõ việc vì sao các vụ án tiêu cực tham nhũng thường kéo dài, bị hoãn nhiều lần hoặc đình chỉ.
Ông Phan Trung Lý – Chủ nhiệm UB Pháp luật QH nêu ý kiến: Hiện nay dư luận về tình trạng tham nhũng thì nhiều nhưng việc phát hiện, xử lý thì rất ít. “Phát hiện ra là một chuyện nhưng thu hồi tài sản tham nhũng rất ít. Qua kiểm tra 14 ngàn vụ nhưng chuyển hồ sơ để xử lý hình sự chỉ khoảng 36 vụ, còn lại xử lý hành chính” - ông Lý cho hay.
Ông Nguyễn Văn Hiện – Chủ nhiệm UB Tư pháp QH nêu ý kiến: Dân trộm cắp 2 triệu đồng thì đi tù nhưng có những vụ cán bộ tham nhũng hàng tỷ đồng nhưng vụ án bị đình chỉ, như vậy thì dư luận đặt vấn đề có tiêu cực hay không? “Trong báo cáo cũng cần phải có điều tra mức độ hài lòng của người dân về công tác phòng chống tham nhũng”- ông Hiện nói.
Lương Kết

Thái Doãn Hiều - Những cái chết tức tưởi của nhà văn (3)


Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn.
Khái Hưng tên thật là Trần Dư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Dư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trần. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Dư.

Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.. Thân phụ ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu.
Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh.
Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo

Cùng thời gian đó, Tự Lực Văn Đoàn ra tờ báo Phong Hóa. Về sau khi Phong Hóa bị đóng cửa thì tờ Ngày Nay thay thế. Cùng với báo, Tự Lực Văn Đoàn còn có Nhà xuất bản Đời Nay. Toàn bộ tác phẩm của Khái Hưng đều do Ngày Nay và Đời Nay công bố.

Là một trong những cây bút chính của nhóm, tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng Hồn bướm mơ tiên (1933) là tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Tiểu thuyết cuối cùng của ông là Thanh Đức (1943) và cũng là tiểu thuyết cuối cùng của nhóm. Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai tiểu thuyết là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra đời chung tập truyện ngắn Anh phải sống cùng năm1934.

Giống như các tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề cao tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến, ít nhiều mang tính cải cách xã hội. Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch, thường chỉ một hồi, nhưng ít được công diễn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn được nhiều thanh niên thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cùng là một dịch giả. Bài Tình tuyệt vọng ông dịch từ thơ của Félix Arvers rất nổi tiếng.

Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay

Trong thời gian Đệ nhị thế chiến, giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị. Do tham gia Đảng Đại Việt dân chính thân Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945, Khái Hưng được trả tự do. Ông cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách cho ra tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới.

Sau Cách mạng tháng Tám, Khái Hưng có viết một loạt bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn trên các báo của Việt Nam Quốc dân Đảng.

Khái Hưng mất năm 1947. Một số tài liệu cho rằng Khái Hưng bị Việt Minh bắt giam tại Liên Khu 3 (Lạc Quần, Trực Ninh) rồi đem xử tử hình ở bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Theo ông Nguyễn Tường Triệu, con nuôi Khái Hưng, tiết lộ Khái Hưng mất tích sau Tết Ðinh Hợi (22/1/1947)

Hồi còn dạy học ở thị trấn Vĩnh Bảo, Hải Phòng năm 1973, tôi (TDH) đã nghe chính miệng những du kích Thái Bình - những kẻ thừa hành bản án. Họ kể rằng họ được lệnh bỏ rọ trắn xuống sông nhà văn Khái Hưng – chủ soái của Tự lực Văn đoàn. Kẻ hành quyết kể lại thái độ của Khái Hưng rất bình thản, ung dung chui vào rọ nứa cho những kẻ chân đất đầu trần buộc giây, gài đá, vần xuống sông. Ở dưới đáy sông sặc nước, chắc nghẹt thở lắm... Khái Hưng chết chỉ vì ông là đảng viên đảng Đại Việt !

Thế mà, mới đây, Vu Gia người miền Trung, sống ở Sài Gòn viết một cuốn sách khảo cứu về cuộc đời và văn nghiệp Khái Hưng khá hay nhưng lại miêu tả như huyền thoại là Khái Hưng chết vì rơi vào ổ phục kích y như một nghĩa sĩ, giống như thật. Không riêng gì Vu Gia, thật buồn cười, sau giải phóng, khi đặt chân đến Sài Gòn, tôi đã nhảy vào thư viện của trường Quốc gia Sư phạm đọc ngấu nghiến một lèo 6 cuốn sách, cuốn nào cuốn nấy to như cục gạch viết về việc “Làm thế nào để giết một tổng thống” là ông Diệm ông Nhu. Cả 6 cuốn kể 6 kiểu chết khác nhau, màu mè, li kỳ, sửng sốt, hấp dẫn. Ông nào cũng thề thốt với độc giả ông ta mới là nhân chứng thứ thiệt !

Tác phẩm của Khái Hưng để lại :
Tiểu thuyết : Hồn bướm mơ tiên (1933); Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933); Nửa chừng xuân (1934); Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934); Trống mái (1936); Gia đình (1936); Tiêu sơn tráng sĩ (1937); Thoát ly (1938); Hạnh (1938); Đẹp (1940); Thanh Đức (1942).
Tập truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất Linh, 1934); Tiếng suối reo (1935).; Đợi chờ (1940); Cái ve (1944).

*

Phạm Quỳnh (17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân.

Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến.

Phạm Quỳnh sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học.
Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn).

Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi 16.

Từ năm 1916, Ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề".
Cũng trong thời kỳ 1924-1932, ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.

Ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức, Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ.

Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.

Năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt, Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báoFrance - Indochine.
Từ năm 1925 - 1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926, ông làm ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương.

Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.
Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.

Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại, ông thôi không làm chủ bút Nam phong Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1944-1945).

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phú Cam, Huế.
Ông bị Việt Minh bắt giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và giam ở lao Thừa Phủ, Huế. Người thừa hành lệnh này là Đặng Văn Việt (về sau trờ thành con hùm xám đường 4 - tiểu tướng Napoleông). Ông bị xử bắn sau đó cùng với nguyên Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Chuyện này do Tố Hữu - Chủ tịch lâm thời thành phố Huế kể cho Trần Huy Liệu nghe.
Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.

Thông tin về ai đã ra lệnh giết ông được lý giải theo nhiều giả thuyết khác nhau.
Cái chết của Phạm Quỳnh
Cuốn Tác gia văn học Thăng Long Hà Nội từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX, mục về Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng có một dòng: Đến Cách mạng Tháng Tám 1945 chính quyền nhân dân khép án tử hình.
Có lệnh cấp tốc di dời Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh ra khỏi cố đô đề phòng những chuyện bất trắc không hay sau này. Nhóm du kích áp tải đến một quãng rừng cách xa Huế thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt kích. Sợ không hoàn thành trách nhiệm di dời nên nhóm áp tải đã tự động thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Giả thuyết này không đề cập đến cấp trên là ai hay cơ quan nào ra lệnh.
Có người cho rằng trong số người đi áp tải đó có người nhà Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, người có mối hiềm từ lâu với Phạm Quỳnh nên đã lợi dụng việc này mà giải quyết ân oán.
Có nguồn tin, vì Pháp cho biệt kích tìm Phạm Quỳnh nhưng nhóm này bị bắt và để lộ thông tin, và Phạm Quỳnh bị dân quân địa phương (Hiền Sĩ, Thừa Thiên, Huế) giết.

Nhà văn Thái Vũ lý giải:
“Mà lúc ấy trong dân chúng, buổi đầu cách mạng, cũng là trong ngày đầu chính quyền mới do dân làm chủ thì mấy tiếng Việt gian, diệt Việt gian kèm theo hành động lan truyền… khắp mọi nơi, nhất là đối với những người có “thành tích” thân Pháp. Mà hai cụ họ Phạm và Ngô thì rõ ràng quá, tránh sao lúc trong dân, chỉ mới hưởng 1 ngày đầu chính quyền cách mạng, còn căm thù bọn thống trị Pháp và đám tay chân người bản xứ của chúng, có hành động manh động. Đó hẳn là “nỗi uẩn khúc” cuối cùng của ông chủ báo Nam Phong”

Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã "luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới."

Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là "ru ngủ" thanh niên trí thức trong cái "hồn nước" mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp.
Gần đây, tại Việt Nam bắt đầu có sự đánh giá công bằng hơn. Từ điển Văn học bộ mới (2004) coi ông là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước. Kể từ năm 2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:

Mười ngày ở Huế, NXB Văn học – 2001; Luận giải Văn học và Triết học, NXB Thông tin, 2003; Pháp du hành trình nhật ký, NXB Hội Nhà Văn, 2004; Thượng Chi văn tập, NXB Văn học, 2007; Du ký Việt Nam, NXB Trẻ, 2007; Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, NXB Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)

Những đánh giá về Phạm Quỳnh :

Trước đây, khi Thượng Chi làm báo Nam Phong người ta kết tội ông làm bồi bút cho Pháp, khi ông làm Thượng thư bộ học bị kết tội Việt gian, bán nước. Những gì của con người này đều xấu xa tỉ như câu danh ngôn tuyệt hay sang sảng niềm tự hào về văn hóa dân tộc “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn” bị lên án là đánh lạc hướng quần chúng để không nghĩ tới việc cấp bách là giải phóng dân tộc.

Hồ Chí Minh : “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này”

Trong báo cáo ngày mồng 8 tháng 1 năm 1945 gửi cho đô đốc Decoux và cho Tổng đại diện Mordant, ông Thống sứ Trung Kỳ Healewyn đã báo cáo về Phạm Quỳnh như sau:

"Vị Thượng thư này vốn đã chiến đấu suốt cuộc đời mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao giờ bằng vũ khí chống sự bảo trợ của Pháp và cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung Nam) và cho việc người Việt Nam nắm trong tay vận mệnh của chính mình... Những yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở lại việc chấp thuận một chế độ tự trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ (Trung Kỳ và Bắc Kỳ) khước từ chế độ thuộc địa ởNam Kỳ và thành lập một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài một điều là, dưới vẻ bề ngoài nhã nhặn và thận trọng, con người đó là một chiến sĩ không lay chuyển nổi cho nền độc lập của Việt Nam và đừng hòng có thể làm dịu những tình cảm yêu nước chân thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ nhiệm ông ta vào một cương vị danh dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho tới nay đó là một địch thủ thận trọng nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước Pháp và ông ta có thể sớm trở thành một kẻ thù không khoan nhượng...".

Nguyễn Công Hoan :
"...Phạm Quỳnh, trái lại chủ trương thuyết lập Hiến. Người Pháp nên thi hành đúng Hiệp ước 1884 nghĩa là chỉ đóng vai trò bảo hộ còn công việc trong nước thì để vua quan người Nam tự đảm nhiệm lấy. Bấy giờ Phạm Quỳnh vào Huế làm quan không phải vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng thư Nam Triều. Mà cũng chẳng phải vì lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam Phong, Phạm Quỳnh được cấp 600 đồng một tháng. Món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ đổi lấy danh nghĩa Chính phủ Nam Triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước 1884. Vậy là một người yêu nước như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua là một việc miễn cưỡng trái với ý mình để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn chứ thực lòng một người dân mất nước ai không đau đớn ai không khóc thầm. Thế là tôi nghĩ ra được truyện Kép Tư Bền tả một anh kép nổi tiếng về bông lơn đã phải vì giữ tín nhiệm với khán giả mà lên sân khấu nhà hát làm trò cười ngay cái tối cha mình đang hấp hối".

Giáo sư Văn Tạo:"Phạm Quỳnh không có hành vi nào tàn ác với nhân dân, không đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân như nhiều quan lại thời Nguyễn, không ra lệnh bắt bớ tù đày các nhà yêu nước (...). Nhưng mặt khác ông lại có công chuyển tải văn hóa Đông - Tây trên văn đàn, báo giới Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ, văn hóa dân tộc Việt Nam thời đầu thế kỷ XX, công lao đó đáng được ghi nhận".

*

Tạ Thu Thâu (1906–1945) là một nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, một lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ thời sơ khai của các phong trào cộng sản tại Đông Dương, theo chủ nghĩa Trốtskít. Nhà nghiên cứu Thiếu Sơn đánh giá “Không ai phủ nhận được tấm lòng yêu nước của ông, chẳng những yêu nước mà còn dám xả thân hy sinh cho nước. Chỉ có điều khác là nói tới nước, ông liền nghĩ tới dân, thứ nhất là dân vô sản”.

Tới nay, tuy không có tranh cãi về việc mặt trận Việt Minh sát hại Tạ Thu Thâu, vẫn còn nghi vấn về lệnh giết từ đâu đến. Giả thuyết của nhà sử học Daniel Hémery cho rằng các cấp chỉ huy địa phương ở Quảng Ngãi nhận lệnh cấp trên đã ra lệnh giết. Cấp trên ở đây trực tiếp là TVG. Tạ Thu Thâu bị đưa ra pháp trường bắn ba lần mới chết nhờ tài hùng biện thuyết phục của ông mà các đao phủ thủ không nỡ xả súng vào người anh hùng yêu nước.

Trong buổi phỏng vấn ngày 25 tháng 6 năm 1946, Hồ Chí Minh đã trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của Tạ Thu Thâu như sau: Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés (Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt).[The Anti-Colonial Movement in Vietnam]. Cũng khoảng thời gian 1945, người của Trần Trọng Kim hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh về cái chết của Tạ Thu Thâu. Ông Hồ Chí Minh trả lời “Trệch đường ray” (Hồi ký Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim)

Vì sao Việt Minh giết Tạ Thu Thâu ? Đó là cách mà Stalin giết Trốtsky để trừ hậu họa. Kiều bào ta hồi đó ở Pháp có xu hướng tả, hầu hết ngả về Đệ Tứ. Còn trong nước do tuyên truyền, Trốtsky nhân vật sau Lê Nin đòi xét lại chủ nghĩa Mác được xem là tay sai của đế quốc, cướp của giết người.Thời đó, Tạ Thu Thâu là lãnh tụ Trốtskít ở Việt Nam. Ông là cây bút sắc bén (giỏi viết báo Pháp ngữ và Việt ngữ), một diễn giả xuất sắc hùng biện, một trí thức có uy tín, nhân cách ôn hòa nhũn nhặn. Tạ Thu Thâu hoạt động mạnh ở Sài Gòn và tiếng tăm vang xa cả nước. Ông chống Pháp, bị bắt 6 lần, 5 lần bị kết án, tổng cộng 13 năm tù 10 năm biệt xứ. Năm 1945, từ Côn Đảo được thả, Việt Minh đón đường bắt lọng và sát hại ông trên cánh đồng Mỹ Khê, Quảng Ngãi. Một cuộc đời xán lạn vì dân vì nước lãnh cái chết thật bi thảm, lãng nhách

Sau giải phóng, người ta đổi tên đường Tạ Thu Thâu sau chợ Bến Thành thành đường Lưu Văn Lang, đường mang tên ông ở Mỹ Tho cũng bị đổi. Tạ Thu Thâu chỉ được nhắc đến cái tên với định danh “Tay sai cho đế quốc, mật thám cho phát xít Nhật”. Sao bất công thế, hả Trời ?

*

Những người bị giết đều là những tinh hoa, là danh sĩ đạo cao đức trọng, yêu nước thương dân, có thành tựu văn hóa sáng giá cống hiến cho nền văn hiến nước nhà. Họ chết mỗi người mỗi cách đau xót và hàm oan: Nhà văn Lan Khai bị xô xuống vực, văn hào Ngô Tất Tố bị bức cho treo cổ tự vẫn, Khái Hưng bị bỏ rọ trắn sông, Phạm Quỳnh đối thủ đáng gờm của thực dân Pháp bị xử tử, Tạ Thu Thâu nhà yêu nước lớn bị tử bắn; nàng thơ nữ sĩ Thu Hồng bị bắn lén từ sau lưng; Nhượng Tống dịch giả tài hoa số 1 bị ám sát; Dương Quảng Hàm vị giáo sư đáng kính ra khỏi nhà đi mãi không về; vị bồ tát Thiếu Chửu bị bức hại nhảy xuống sông tự tận. Cái án “mạc tu hữu” (Giết rồi sau sẽ biết) của thời trung cổ vẫn đeo đẳng khốc liệt đến tận bây giờ !

Đó là tất cả sự thực về những cái chết tức tưởi oan khuất của các nhà văn, nhân sĩ mà bọn gieo ác vẫn sống nhởn nhơ trên pháp luật với bộ mặt người lương thiện ! Nguyên tắc bất di bất dịch nằm trong ý thức hệ tư tưởng của những kẻ sát nhân lương thiện này là: yêu nước và chính kiến là độc quyền của tao, mày không đi với tao, mày là kẻ thù của tao. Đã là kẻ thù thì mày không có quyền tồn tại !

Giết người nhưng không bao giờ nhận trách nhiệm là thủ phạm, thường họ vẽ rồng vẽ rắn tung hỏa mù trên các sách báo, làm chúng ta ngộ nhận họ như những ân nhân. Trâng tráo nhất là vụ tìm hài cốt nhà văn Lan Khai đăng hai kỳ trên báo Văn Nghệ. Thật là nói láo không có nghề, luận cứ hở toang hoác ra. Chẳng lẽ tôi lại viết một bài vạch mặt sự dối trá này ra. Làm thế, người ta lại bảo ông này nhiễu sự.

(Kỳ 3 - hết)

LỜI NHẮN :

Thưa bạn đọc. Tôi viết loạt bài “chuyện bây giờ mới kể” từ Thân phụ tôi, Chị tôi, Những cái chết tức tưởi của nhà văn…là để làm gì ? Đấy là những mảnh của một công trình triết học bàn về Chân Lý mà tôi đang đeo đuổi suốt mấy năm nay chứ không phải là những lời lẽ rẻ tiền thóa mạ những sai lầm của Đảng và Nhà nước trong quá khứ, nó chỉ là dẫn liệu cần thiết làm sáng tỏ vấn đề khoa học đang bàn chứ không phải là mục đích. Chức năng cao cả của các bài viết này là cảnh báo, cảnh tỉnh, ngăn chặn những sai lầm ấu trĩ đã qua sẽ và đang xẩy ra nhỡn tiền và tương lai của giới cầm quyền hiện nay. Bởi lịch sử bao giờ cũng đi những bước trùng lặp. Hậm hực, chửi bới, chỉ trích vô lối vô luân như một con mụ nhà quê lắm mồm là việc làm của bọn cầm bút tiểu nhân. Đưa ra một quyết sách cứu nước, cứu dân dẫu có đau đớn và cay đắng đến đâu thì đó là phong cách của người cầm bút quân tử.

Thấu hiểu tinh thần đó nên bạn đọc bốn phương đã yêu quý, trân trọng dành cho các bài viết của tôi một tình cảm thật nồng hậu của những công dân có lương tri lương năng. Xin đa tạ.

“Tôi nghĩ mọi người Việt thế hệ chúng ta cần ôn lại bài học này, kể cả các đảng viên ĐCSVN. Ôn lại không phải để oán trách hận thù. Ôn lại cũng không phải để tự dày vò vì mặc cảm tội lỗi, nhưng để có một tâm tình sám hối lành mạnh. Ôn lại để từ thế hệ chúng ta trở đi không bao giờ còn vấp phải sai lầm kinh khủng của thời mê muội độc ác đó nữa. Và ôn lại để mở một lối đi mới hướng về tương lai: dứt khoát tìm lại bằng được những di sản tinh thần cao quý của tổ tiên mà đã một thời ta dại dột đánh mất, và từ đó mà vượt qua quá khứ đau buồn để cùng nhau xây dựng cho thế hệ hôm nay và mai sau, để cho những khổ đau và xương máu của những người đi trước chúng ta không trở thành vô ích”. Xin mượn lời một commen ở Nguyen Xuandien.com – thay lời muốn nói gửi tới các bạn và cả những ai đó đang chực lăm le bắt bẻ tôi.

Thái Doãn Hiểu

Một vụ tai nạn giao thông thương tâm, đầy nghi vấn

Vụ tai nạn xảy ra vào hồi 14h00 ngày 24/8/2013 tại địa bàn đường liên thôn Hà My, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Hiện trường vụ tai nạn giao thông ngày 24/8 tại xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, Quảng Trị

Nạn nhân là bà Mục sư Nguyễn Văn Phái, nhủ danh Nguyễn Thị Chi ngụ tại 121 Trần Quốc Toản, thành Phố Huế.

Sự việc được người con trai của gia đình mục sư là anh Nguyễn Văn Dương Quang chia sẻ không khỏi gây nghi vấn cho chúng tôi:

Được biết, ông bà mục sư Nguyễn văn Phái đi công cán tại Hội Thánh Tin lành tỉnh Quảng Trị, trên đường về Huế, khi đi ngang địa bàn tại đường liên thôn Hà My, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị thì dừng xe máy ở lề đường phía phải theo hướng di chuyển để tránh xe thì bị chiếc xe ben BKS: 74K - 5601 đang dừng cùng chiều cách đầu xe máy ông Mục Sư Phái khoảng 6m phía trước bất ngờ lùi lại với tốc độ càng lúc càng cao, làm cho ông Mục sư Phái không kịp trở tay, ông chỉ kịp ngã người bên vệ đường. Chiếc xe ben đã đè ngang qua xe máy làm bà Mục sư Nguyễn Thị Chi tử vong ngay tại chỗ! Lái xe bỏ trốn để lại Mục Sư Nguyễn Văn Phái bên xác vợ mình chỉ được phủ một tấm áo, người đi đường ai cũng thấy thương tâm cho hoàn cảnh của người xấu số!

Điều đáng nói là từ khi tai nạn xảy ra đến nay đã hơn 20 ngày, gia đình lái xe có vào Huế thăm đám tang, còn lái xe gây tai nạn hiện nay với gia đình mục sư là một ẩn số!

Lái xe đã có thái độ bất chấp Pháp luật, biểu hiện khi gây tai nạn đã không cấp cứu người kịp thời, trốn tránh trách nhiệm như vậy là vô lương tâm và trái đạo đức! Lại nữa, trong khi gia đình mục sư cần sự an ủi thì từ đó đến nay họ vẫn chưa thấy mặt mũi lái xe, thậm chí họ cũng không biết lái xe tên gì, quê quán ở đâu cả!

Về phía cơ quan pháp luật, trong quá trình tiếp xúc lấy lời khai của gia đình bị hại, bộ phận điều tra của CA huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị có lập biên bản nhưng gia đình vẫn chưa rõ người lái xe tông bà Mục Sư Nguyễn Thị Chi là người thế nào để đối chiếu với giấy phép lái xe và các loại giấy tờ khác. Theo chúng tôi, vụ tai nạn đã được cơ quan điều tra xử lý như vậy có điều gì đó còn khuất tất, chưa được minh bạch! Phải chăng tên người lái xe tai nạn là một bí mật?

Nói chuyện với chúng tôi qua điện thoại bằng giọng đau buồn, yếu ớt, mục sư Nguyễn Văn Phái chỉ mong các cơ quan hữu quan thu thập chứng cứ thật chính xác, giải quyết vụ việc một cách khách quan, công bằng để vợ ông ra đi một cách thanh thản, ông và các con ông yên lòng với người đã khuất để tập trung công việc của Giáo hội!

Xin liên hệ với mục sư Phái điện thoại 0914612070, con trai: Anh Nguyên: 0988487099 để xác minh thông tin.

© Phúc Điền
(VAOL) 

Lê Hoàng - Đơn xin ngu

Kính gửi: Thượng đế
Kính gửi: Chúa trời
Kính gửi: Ngọc Hoàng
Và các chức sắc tương đương.
 
Con tên là Nguyễn Văn Tèo, hai mươi lăm tuổi, địa chỉ thành phố, xin gửi tới Thượng đế lời khẩn cầu tha thiết như sau:

- Đầu tiên, con chân thành cám ơn ngài đã sinh ra con trên cõi đời này, để con được biết thế nào là đêm trăng, là vầng thái dương chói lọi. Con được nghe tiếng líu lo của chim hót, tắm mình trong vẻ xanh biếc của biển khơi, để con hiểu thế nào là nét dịu dàng của mùa thu, nét tươi tắn của mùa hè và nét lộng lẫy của mùa thi hoa hậu.
Ngay từ nhỏ, con đã được ngài chỉ ra phải cố gắng học hành. Ngay từ buổi đầu học hành, con đã được giáo dục rằng trí khôn là điều quan trọng nhất của loài người. Nhờ trí khôn ta phân biệt được cái đẹp với cái gần như đẹp, cái vĩ đại với cái giả vĩ đại và ta cũng sẽ không nhầm lẫn giữa cái trong sáng và cái ngớ ngẩn. Tóm lại, có trí khôn sẽ có tất cả, ai khôn nhiều sẽ được nhiều, ai khôn ít sẽ được ít và không khôn tí gì thì cũng chả được tí gì.
Chính do hiểu như thế, con ra sức học hành, rèn luyện đầu óc để có được một lượng trí khôn khá phong phú. Con đinh ninh mình sẽ đứng vững, và nếu gặp may, sẽ tiến lên.
Ngài ơi, con nhầm.
Khi tốt nghiệp ra trường, con mới phát hiện rằng, ở một số nơi, đặc biệt là những nơi "ngon", càng khôn, hay nói cách khác, càng tỏ ra biết nhiều càng chết!
Vì sao thế?
Vì người khôn là người phát hiện ra cái hay, cái đúng. Nhưng nếu sếp mình không phát hiện mà mình lại nhanh nhẩu tìm ra trước, vội vàng công bố nó lên thì nhiều khả năng mình sẽ suốt đời bị ghét bỏ, muôn kiếp không lên lương, lên chức gì được.
Đấy là mới nói ở công ty. Khi đi ra đến ngoài đường, người khôn là người chấp hành răm rắp luật lệ giao thông, không bao giờ vượt đèn đỏ hoặc chạy ngược chiều. Hậu quả là sẽ luôn đến trễ, luôn bị chúng nó ép bẹp dí hoặc ngửi hít khói tơi bời.
Trong lĩnh vực đơn từ, giấy phép, cũng tại khôn quá nên con hiểu là hãy làm đúng thủ tục, chấp hành nghiêm luật lệ, xếp hàng theo thứ tự. Thế nên toi ! Thế nên mọi thứ đều chờ nửa thế kỷ mới được duyệt. Trong khi những đứa kém khôn nhưng biết nhờ tới "cò" tung tăng ra về, vừa đi vừa ca hát thì con ngồi mốc meo trong xó và thổn thức ngóng chờ ngày nọ tháng kia.
Ở lĩnh vực ăn uống, trí khôn ngoan, hiểu biết còn gây ra nhiều sai lầm vô cùng tai hại. Do khôn nên tin tưởng vào những điều ghi trong giấy xác nhận an toàn thực phẩm, tin vào nhãn hiệu hoặc bằng khen vệ sinh. Hậu quả là bụng đầy hàn the, dạ dày đầy đường hóa học và phẩm màu quá đát, thân thể nhiễm độc, đi cấp cứu liên miên.
Trong tình yêu, do quá khôn nên con ỷ nhiều vào tình cảm, coi thường quà bánh, quần áo, dây chuyền. Con thường tặng nàng sách vở thay vì tặng nước hoa, dẫn nàng vào thư viện, bảo tàng, nhà hát chứ không dẫn nàng vô siêu thị. Dẫn tới sở thú để nàng trau dồi kiến thức về hổ, báo hay đười ươi chứ không dẫn đi ăn. Cuối cùng con bị nàng cho leo cây liên tiếp, đến phút này vẫn lơ lửng trên cành.
Về tâm linh, càng nhiều trí khôn con càng tin vào khoa học trong khi anh em nhanh nhẹn tin thầy bói, tin số má hoặc tin quỷ thần. Con cũng thú thực rằng đã nhiều lúc con chả tin ngài cho lắm, nên sao nhãng việc cúng tế, ít khi đốt vàng mã hoặc hiến heo quay. Rốt cục, con thấy mình đơn độc, chả có bạn, chả ai rủ đi chùa, đi lễ hội và cũng chả bao giờ trúng số hay trúng đề gì ráo.
Tai hại nhất, trí khôn giúp con phát hiện ra người không khôn, và con cứ hồn nhiên phát biểu về điều này, trong khi kém khôn hơn thì im miệng. Thế là xong. Con trở nên một kẻ thiếu lòng thông cảm, thiếu cái nhìn toàn diện.
Ngài ơi.
Con sợ khôn lắm rồi. Con cảm thấy rõ ràng kém khôn nhiều lúc dễ sống hơn. Ngài hãy chỉ cho con phải đọc sách gì, phải theo học những chương trình nào mà nhờ đó trí khôn mai một. Nếu việc đấy là quá khó khăn, hoặc do con quá không xứng đáng thì ngài chỉ cho con cách uống thuốc hay luyện tập ra sao nhằm giảm bớt thông minh. Con biết ngài là đấng sáng suốt, nhân từ, che chở cho đứa có trí tuệ cũng như đứa chưa có với một lòng bao dung sâu sắc. Nếu ngài giúp được con ngu đi, con hứa sẽ biết ơn vô vàn và không bao giờ tái phạm. Con mong nhanh chóng nhận được sự chấp thuận của ngài.
Con Tèo
Tái bút: Con chả biết đơn này có cần xác nhận không? Nếu có thì xác nhận thế nào? Con đã quá khôn hay đã quá không khôn?
 
 Lê Hoàng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét