Võ Văn Tạo - Đâu chỉ chuyện thay tên nước?
Chuyện tên nước
Tiếp xúc cử tri Hà Nội ngày 28-9, Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng
nói: “Có ý kiến muốn lấy lại tên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhưng
tuyệt đại đa số nhân dân vẫn chọn tên nước là Cộng hòa XHCN Việt Nam”.
Theo Tổng Bí thư Trọng, giữ tên nước như hiện nay để “phòng bên ngoài,
thế lực xấu lợi dụng đổi tên nước để làm việc khác, chứ không phải muốn
trở lại với Bác Hồ”(!), và “đây là một bước tiến, vì chúng ta đang đi
lên CNXH, chứ không dừng lại ở cách mạng dân tộc dân chủ”, và “chỉ có
con đường CNXH mới giải phóng dân ta khỏi ách nô lệ”(?!).
Thật lạ! Chẳng lẽ “vốn liếng tư duy” của một GS-TS từng cầm chịch Hội đồng lý luận quốc gia chỉ sơ sài có vậy.
Những người có tìm hiểu lý luận Mác – Lê Nin đều biết câu kinh điển:
“thực tiễn là thước đo chân lý”. Một phần tư thế kỷ trước, người dân
(trong đó có không ít lãnh đạo cộng sản) Liên Xô và Đông Âu – “quê hương
của Cách mạng Tháng Mười”, “cái nôi, thành trì của phe XHCN” – quá ngán
ngẩm cái gọi là “con đường XHCN” (theo tiếng Việt, phải nói là con
đường XHCN mới chuẩn, không phải con đường CNXH như cử nhân văn chương
Nguyễn Phú Trọng nói) sau nhiều thập niên chịu đựng và trả giá, đã bừng
tỉnh và đoạt tuyệt mê lộ này. Hơn nửa thế kỷ bị cưỡng bức theo con đường
XHCN, đời sống kinh tế - xã hội ở các quốc gia này bỗng chốc thay đổi
180 độ, thời kỳ đầu không tránh khỏi xáo trộn, khó khăn. Nhưng chỉ có
rất ít những kẻ hưởng đặc quyền đặc lợi thời XHCN, hoặc lẩm cẩm, trì
trệ, quen dựa dẫm… nuối tiếc cái quá khứ đầy rẫy dối trá và nghẹt thở
ấy. Chỉ sau khoảng một thập niên thoát khỏi “vòng kim cô” của điện
Cremlin, nhiều quốc gia Đông Âu tiến bộ rõ rệt về đời sống kinh tế - xã
hội – chính trị, đủ điều kiện gia nhập Liên minh châu Âu; các đảng cộng
sản ở các nước này (ban đầu một số nước cấm hoạt động để tránh bất ổn)
hiện nay vẫn teo tóp tồn tại, nhưng chẳng kiếm được mấy lá phiếu qua các
kỳ bầu cử dân chủ và minh bạch. Chính việc đảng cộng sản và nhiều đảng
đối lập khác vẫn tồn tại và hoạt động công khai cho thấy các quốc gia
này về cơ bản mang bản chất dân chủ.
Trừ CNXH kiểu trại lính theo mô hình và ý đồ của Polpot, xã hội bao giờ
cũng gồm nhiều giai tầng khác nhau, có quyền lợi và tư tưởng, khát vọng
phong phú. Một đảng phái chính trị chỉ đại điện cho một giai tầng nhất
định. Vì vậy, làm sao có thể nói có bản chất dân chủ ở một quốc gia với
thiết chế chỉ duy nhất một đảng chính trị được hoạt động?
Việc Pháp, Nhật chấm dứt ách cai trị, Mỹ rút khỏi Việt Nam chỉ thuộc
phạm trù độc lập hay lệ thuộc, không thuộc phạm trù dân chủ hay độc tài.
Theo quan niệm phổ cập của nhân loại, một quốc gia chỉ có thể được coi
là dân chủ khi pháp luật quy định và việc thực thi pháp luật luôn đảm
bảo các đảng phái chính trị, các tôn giáo, các tổ chức nghiệp đoàn, các
hội đoàn nhân dân được tự do thành lập và hoạt động; việc bầu cử và quá
trình xây dựng luật pháp cơ bản phản ánh trung thực nguyện vọng của đa
số cử tri; tự do báo chí, tự do tư tưởng và ngôn luận được tôn trọng;
trong khuổn khổ pháp luật, bộ máy công quyền phục vụ lợi ích và ý chí
của các tầng lớp nhân dân, dễ dàng bị dân phế truất nếu hoạt động kém
hiệu quả.
Căn cứ các đặc điểm trên, đối chiếu với thực tiễn ở ta, một cách trung
thực và thẳng thắn, chỉ có thể nói nền dân chủ như nhân loại quan niệm
đang là khát vọng cần vươn tới của Việt Nam. Chưa nói toàn xã hội, ngay
trong nội bộ Đảng CSVN, không phải hiện nay không ít lãnh đạo cấp cao
vẫn khẳng định tệ mất dân chủ trong đảng là phổ biến đó sao?
Về độc lập dân tộc, từ Hội nghị Thành Đô tháng 9-1990, lãnh đạo Đảng
CSVN tự ngả vào vòng tay Bắc Kinh (biện bạch cho chủ trương tệ hại ấy,
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và nhiều lãnh đạo Đảng CSVN biện bạch để giữ
XHCN), mà theo nhận định của người trong cuộc là Thứ trưởng Ngoại giao
Trần Quang Cơ là “mở ra một thời kỳ Bắc thuộc mới đầy nguy hiểm”. Mỗi
dịp dự kiến nhân sự chủ chốt trước đại hội đảng, Hà Nội đều phải dò ý
Bắc Kinh. Sau đại hội, lại tức tốc sang bẩm báo. Chỉ ai thần kinh “có
vấn đề” mới nói Việt Nam thật sự có độc lập. Chưa mấy người quên sự kiện
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch – một trong rất ít nhân sự cấp cao
của Đảng CSVN có tư duy thực tế, tầm nhìn xa trông rộng và sáng suốt -
bị loại khỏi Bộ Chính trị để vừa lòng Bắc Kinh. Lúc ấy, máu đồng bào,
chiến sĩ Trường Sa và biên giới phía Bắc chưa khô. Lãnh đạo quốc gia còn
chẳng thoát ách nô lệ, nói chi đến dân đen?
Thời Pháp thuộc, chỉ có vài chục nghìn người phải đi lính cho Pháp trong
chiến tranh thế giới thứ nhất và tha hương cầu thực. Trong khi đó, từ
khi tên nước đổi thành Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1976, theo đường “xuất
khẩu lao động” (người dân huỵch toẹt: “vì đô, nên mới phải làm la”),
hàng triệu người tha hương cầu thực, hàng triệu người vượt biên, hàng
trăm nghìn phụ nữ bôn ba bán mình làm dâu xứ người (ngôn ngữ bất đồng,
làm sao có tình yêu?).
Rõ ràng, trước thực tế hiển nhiên ấy mà vẫn nói “chỉ có CNXH mới giải
phóng dân ta khỏi ách nô lệ”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng quả có biệt
tài hài hước!
Đâu chỉ chuyện thay tên nước?
Tên nước có cần gắn với CNXH hay không, là điều phải bàn.
Nhưng vấn đề cốt tử lại không nằm ở đó.
Xét trình độ phát triển và hiệu quả sản xuất, năng suất lao động, thu
nhập quốc dân và bình quân đầu người, giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo,
tạo công bằng qua tái phân phối thu nhập, đảm bảo phúc lợi công cộng và
an sinh xã hội, mức độ minh bạch và dân chủ trong đời sống chính trị -
xã hội… nhiều quốc gia Bắc Âu rõ ràng mang đậm đặc điểm XHCN (theo lý
thuyết Mác - Lê Nin) hơn hẳn Việt Nam bội phần. Nhưng tên nước của họ
đâu có gắn với cụm từ XHCN? Thậm chí một số nước còn mang cái tên có vẻ
khá “lạc hậu” như “Vương quốc Na Uy”, “Vương quốc Thụy Điển”, “Vương
quốc Đan Mạch”… Dám chắc một điều, nếu tổ chức trưng cầu dân ý một cách
tự do và trung thực sau khi có tự do ngôn luận, dân ta (tất nhiên, trừ
quan chức hủ bại, tham nhũng) chắc chắn sẽ chọn con đường các nước Bắc
Âu đã và đang đi.
Lại nữa, nghèo đói lạc hậu, nghẹt thở dưới ách tập đoàn quân phiệt suốt
nhiều thập niên, Miến Điện lúc nào chẳng kè kè kèm cụm từ XHCN trong tên
nước đó sao?
Đất nước tiến nhanh hay chậm, ngoài nhận thức và thái độ của nhân dân,
tư duy chính trị của giới cầm quyền có ảnh hưởng rất lớn. Theo cựu Thủ
tướng Singapore Lý Quang Diệu – một chính khách luôn thiện chí với Việt
Nam - , “Việt Nam đang bị nhốt trong ý thức hệ XHCN”. Cái ý thức hệ XHCN
mà ông Lý Quang Diệu nói ở đây là cái vòng kim cô đang thắt trên đầu
nhiều lãnh đạo Đảng CSVN, bóp nghẹt mọi tư duy sáng tạo. Theo đó, để duy
trì thể chế XHCN, Việt Nam phải giữ độc quyền lãnh đạo của Đảng CS bằng
mọi giá, kiên quyết không chấp nhận đa nguyên, đa đảng, không chấp nhận
tự do tư tưởng. Hậu quả là triệt tiêu nhiều nguồn lực tư duy xã hội lẽ
ra có thể đóng góp tích cực cho đất nước. Không có đối thủ chính trị,
không cần phải cạnh tranh, Đảng CSVN không có nhu cầu tìm người xuất
chúng cho vai trò thủ lĩnh. Theo quy luật tâm lý, lãnh đạo kém cỏi, tham
nhũng chẳng dung nạp người dưới quyền giỏi giang, trong sạch. Không một
ai trong lãnh đạo Đảng CSVN phủ nhận tình trạng tiêu cực, tham nhũng,
quan liêu, vô cảm, vô trách nhiệm tệ hại đã thành quốc nạn trong giới
đảng viên chức quyền. Nhưng Đảng CSVN lại khăng khăng không chấp nhận
tam quyền phân lập để có thể giám sát, chế ước quyền lực nhằm hạn chế
tham nhũng, tiêu cực. Một số vị trông mong ở phê bình và tự phê bình có
thể cứu đảng, khác nào hy vọng con người ta có thể tự túm tóc mà nhấc
mình khỏi bùn lầy? “Chiến dịch” phê và tự phê, lấy phiếu tín nhiệm trong
lãnh đạo vừa qua đang biến thành những câu chuyện tiếu lâm khôi hài
trong nhân dân. Báo chí, ngôn luận chỉ được phép một chiều tụng ca đảng,
tô hồng chế độ, Đảng CSVN làm sao thấy được vết nhọ trên mặt? Thông tin
bị bưng bít, kiểm soát, định hướng khắc nghiệt, không chỉ nhân dân mà
ngay chính lãnh đạo Đảng CSVN cũng khó biết được sự thật mọi vấn đề. Sự
thật đôi khi là liều thuốc đắng. Nhưng dân ta từ lâu đã chẳng sáng suốt
đúc kết: “thuốc đắng dã tật” đó sao?
Bao giờ thoát vòng kim cô?
Nghiền ngẫm lịch sử hình thành và sụp đổ của hệ thống phe XHCN trên quy
mô toàn cầu, người viết bài này cho rằng, chính tư duy sai lầm và xơ
cứng về CNXH của lãnh đạo các đảng cầm quyền là nguyên nhân cơ bản, chứ
chẳng phải thế lực thù địch trong ngoài nào gây ra. Suy ngẫm đó cũng phù
hợp với triết học (trong đó có triết học Mác – Lê Nin) khi quả quyết
rằng bản thân sự vật tự thân vận động là chính, là cơ bản; yếu tố khách
quan bên ngoài, có chăng, chỉ là xúc tác.
Muốn phát triển kinh tế, phải tuyệt đối tuân thủ các quy luật kinh tế,
chớ có “thêm nếm” “gia vị” quan điểm chính trị, xã hội… như món “kinh tế
thị trường định hướng XHCN”. Chỉ khi kinh tế thật sự giải phóng được
mọi nguồn lực, vận hành đúng quy luật, cho hiệu quả tốt, mới có tiền đề
để thực hiện các mục tiêu chính trị - xã hội tốt đẹp như công bằng và an
sinh xã hội. Bản chất chế độ tốt đẹp hay không, chính là đây.
Thời chống Mỹ, người Việt Nam không mấy ai không biết câu nói nổi tiếng
của Fidel Castro: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của
mình”. Thế nhưng giờ đây, dù biết là Cuba đang khó khăn thiếu đói lương
thực lắm đấy, nhưng thi thoảng Việt Nam cũng chỉ giúp được mỗi bận dăm
ba nghìn tấn gạo. Có thấm tháp là bao so với viện trợ không hoàn lại của
các quốc gia giàu mạnh và các định chế tài chính quốc tế (thành viên
chủ yếu là các nước phi XHCN) cho quốc gia “thù nghịch” Việt Nam? Nếu
Việt Nam cũng giàu mạnh như Mỹ, Nhật, Đức… hay chí ít cũng như
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan… có lẽ chẳng muối mặt giúp Cuba chỉ “tượng
trưng” có vậy. Chính phủ Việt Nam cũng muốn người dân vùng sâu, vùng xa
sớm có đời sống khấm khá, mọi trẻ em đủ cơm ăn, áo mặc và được đến
trường. Nhưng kinh tế bết bát, tham nhũng, lãng phí tràn lan, tiền đâu?
Một khi cứ khư khư kinh tế nhà nước (cha chung chẳng ai khóc) là chủ
đạo, làm sao kinh tế tránh khỏi bết bát? Những Vinashin, Vinalines… “ăn
hại đái nát, phá gia chi tử”, chẳng lẽ chưa đủ sáng mắt?
Một khi cứ khư khư độc quyền cai trị hà khắc, trấn áp nghiệt ngã tự do
và nhân quyền, làm sao tháo ngòi nổ bức xúc xã hội? Tất cả những chủ
trương, biện pháp phản khoa học ấy đều từng được Liên Xô và các nước
XHCN Đông Âu khác vận dụng, thậm chí một số nước như CHDC Đức, Rumani,
Liên Xô… còn “bàn tay sắt” chẳng kém Việt Nam, nhưng kết cục thế nào thì
mọi người đều biết.
Người viết bài này đã từng đề cập trong bài “Bức tranh CNXH giàu sinh
lực của ông Trần Hữu Phước”, nêu rõ tư duy sai lầm về CNXH theo khuôn
mẫu của điện Cremlin tại Đại hội 81 đảng cộng sản và công nhân thế giới
(Matxcova – 1960). Theo đó, một quốc gia chỉ được coi là mang bản chất
XHCN khi có các đặc trưng cơ bản: do đảng cộng sản (hoặc dưới các tên
khác, nhưng đều lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin làm hệ tư tưởng thống soái)
cầm quyền; mọi công cụ và tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc sở hữu nhà
nước; xóa bỏ giai cấp bóc lột (chủ thuê lao động), xã hội chỉ tồn tại
giai hai cấp công nhân và nông dân; tổ chức và điều hành nền kinh tế
theo phương thức chỉ huy, kế hoạch hóa, tập trung; làm theo năng lực,
hưởng theo lao động; không có sự đối lập, khác biệt giữa thành thị với
nông thôn, giữa lao động chân tay với lao động trí óc.
Hơn nửa thế kỷ đã qua, thế giới trải bao biến động kinh thiên động địa,
hệ thống phe XHCN đã sụp đổ hoàn toàn gần ¼ thế kỷ, nhưng có vẻ như
không ít lãnh đạo cấp cao của Đảng CSVN vẫn còn mắc kẹt trong cái tư duy
cũ kỹ và sai lầm ấy, giam hãm đất nước trong vòng tụt hậu, độc đoán.
Chẳng lẽ chỉ khi bị thực tiễn câu thúc, dồn sát bờ vực thẳm như trước
Đại hội VI -1986, hoặc bức xúc xã hội bùng phát như Liên Xô và Đông Âu
hồi thập niên 1980, họa chăng các lãnh đạo thủ cựu trong Đảng CSVN mới
tỉnh cơn mê?
Võ Văn Tạo
(Quê Choa)
Giáo sư Ngô Vĩnh Long - ‘Đảng đang thụt lùi hơn là cải cách’
Giáo sư Ngô Vĩnh Long |
Lời dẫn của BBC: Đảng Cộng sản Việt Nam đang thụt lùi hơn là đổi mới và tiến bộ qua
cách thức mà Đảng và chính quyền sắp công bố bản Hiến pháp sửa đổi cũng
như điều hành đất nước giai đoạn hiện nay, theo nhà nghiên cứu Việt Nam
học từ Hoa Kỳ.
Trao đổi với BBC hôm 28/9/2013, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, từ Đại học
Maine, cho rằng Đảng đang làm ‘mất thời gian’ của nhân dân và các giới
trong xã hội khi cố tình trì hoãn cải tổ thể chế, chính trị qua việc
tiếp tục không “gạt bỏ” điều 4 về vai trò độc tôn của Đảng Cộng sản lãnh
đạo nhà nước và toàn thể xã hội ra khỏi Hiến pháp.
Cách làm mà theo nhà quan sát là vừa ‘thiếu tính chân thực’ và có dấu hiệu ‘mị dân’ làm cho Việt Nam tiếp tục thụt lùi.
Học giả từ Hoa Kỳ cũng đưa ra bình luận về sự ra đời của bản “Tuyên
bố về thực thi quyền dân sự và chính trị” mới đây của một nhóm trí thức,
nhân sỹ, quần chúng và các nhà hoạt động.
Ông cho rằng tuy chưa phải là hình thức của một tổ chức xã hội dân
sự, tuyên bố là một dấu hiệu cho thấy một bước tiến, phong trào và đòi
hỏi mạnh mẽ về nhu cầu của một xã hội dân sự đích thực ở Việt Nam.
Mở đầu cuộc trao đổi, GS Ngô Vĩnh Long bình luận về việc liệu bản
Hiến pháp sửa đổi sắp được Quốc hội Việt Nam thông qua tới đây có mang
tính chất cải tổ thực sự, căn bản hay là không.
——–
Dưới đây là phần bóc tiếng, do Diễn đàn Xã hội Dân sự thực hiện.
GS Ngô Vĩnh Long (NVL): Hiến pháp tôi nghĩ nó sẽ không có một cái thay đổi gì cơ bản thật sự nếu không gạt bỏ cái Điều 4
Hiến pháp. Mà cái vấn đề này chúng tôi đã nói trước khi cái Hiến pháp
năm 1992 ra đời và sau đó tôi cũng đã có những ý kiến về vấn đề đó. Bởi
vì nếu mà để Đảng trên Hiến pháp, để Đảng trên tất cả các tổ chức khác ở
trong nước thì không có thể sửa đổi được bởi vì đảng viên tất cả mọi
cấp sẽ dùng cái quyền lực của mình để mà đẩy mạnh cái quyền lợi cá nhân
của họ hay là lợi ích nhóm của họ. Cho nên nếu mà kỳ này Quốc hội mà
thông qua một cái sửa đổi mới mà không thực chất thay đổi như tôi mới
vừa nói thì tôi nghĩ rằng là nó không đi đến đâu.
PV: Thưa giáo sư,
nếu như mà không có cái sự thay đổi cơ bản then chốt mang tính chất đột
phá như vậy thì trên dưới một năm qua người ta tiến hành những cái cuộc
thăm dò này nọ kia khác về những sửa đổi như thế bản Hiến pháp thì liệu
có làm mất thời gian của nhân dân và trong xã hội hay là không, hay là
họ có dụng ý gì ạ?
GS NVL: Tôi nghĩ rằng
là họ trước hết mất thì giờ của nhân dân và tưởng rằng là qua cái vấn đề
đó là mị dân được nhưng mà tôi nghĩ rằng là làm như vậy thực ra càng
làm cho nhân dân thấy rằng là họ không được tôn trọng. Cho nên theo tôi
nghĩ rằng là nếu mà không thay đổi thực sự thì nên hoãn lại, hoãn lại để
cho có thể có những cái tranh luận sâu sắc hơn chứ còn mà đi ra làm cái
vấn đề lấy ý kiến theo cái kiểu như họ đã làm rất là tốn công mà thực
chất là không có cái gì mà có vẻ là dân chủ.
PV: Thưa giáo sư,
có ý kiến của một số những nhà quan sát họ cho rằng có thể là trong cách
làm về Hiến pháp lần này là có thể Đảng đã có sẵn một cái bản Hiến pháp
ở trong túi của mình rồi nhưng mà họ mở ra cái cuộc Hiến pháp sửa đổi
như thế này thực chất ra là lấy một cái cớ thôi sau đó thì họ vẫn công
bố cái kịch bản mà họ đã có thì bình luận của giáo sư như thế nào?
GS NVL: Tôi thì thực
chất tôi cũng không hiểu rõ rằng là có như thế hay là không nhưng mà tôi
nghĩ rằng là nếu mà người ta thăm dò ý kiến và nếu mà thấy không có một
cái sự phản đối ý … mà tôi nghĩ rằng là họ có nhiều bản khác nhau chứ
không phải chỉ có một bản. Thành ra nếu mà cái sự tranh đấu của nhân dân
đó đến mức nào đó thì họ sẽ tùy đưa ra những cái bản mà họ thấy rằng là
thích hợp với hiện tại. Nhưng cái vấn đề Hiến pháp không phải vấn đề
thích hợp với các ý kiến của người dân hay là ý kiến của những người
trong …(không nghe rõ, phổ thì phải) hiện tại. Vấn đề Hiến pháp là vấn
đề lâu dài cho đất nước, không ai làm về Hiến pháp chỉ một hay là hai
thập kỷ là phải thay đổi bởi vì như vậy nó là vô ích.
PV: Gần đây trong
một cái bình luận ở trên BBC về câu chuyện quyền lực và chính trị ở Việt
Nam đó thì một giáo sư sử học Việt Nam là ông Vũ Minh Giang có nói rằng
là một trong những chìa khóa then chốt của đổi mới Việt Nam những cải
tổ hiện nay đó là cái vấn đề về kiểm soát quyền lực. Nhưng theo ông nếu
như mà cái Điều 4 vẫn không thay đổi trong Hiến pháp thì cái câu chuyện
về cái kiểm soát quyền lực thực sự đó nó có hiệu quả hay là không?
GS NVL: Tôi nghĩ rằng
là hiệu quả nó không có, trước hết vấn đề kiểm soát cái quyền lực là
phải để cho người dân kiểm soát. Mà người dân kiểm soát thì người dân
phải có tự do để mà nói lên cái ý kiến của họ. Mà không những cái tự do
mà nói lên ý kiến bởi vì nói mà không có cái quyền lực để bắt các cơ
quan chính phủ thi hành thì không đến đâu. Cho nên là phải làm sao cho
người dân có thể thiết lập các cơ chế dân sự để có thể kiểm soát được
các cái cơ quan chính quyền. Mà trong đó báo chí nữa, bởi vì báo chí
thật ra là nhiều nước trên thế giới nói là báo chí là một cái gì giúp
cho dân chủ. Nhưng nếu mà báo chí bị các cơ quan chính quyền dùng để mà
đánh nhau thì cái đó vấn đề cũng không phải là dân chủ, tưởng là của dân
chủ nhưng không phải là dân chủ. Thành ra cuối cùng có thể nói báo chí ở
các nước Tây phương như là Mỹ, Pháp này kia là có chức năng kiểm soát
nhưng mà tôi nghĩ báo chí ở Việt Nam bây giờ chưa có chức năng kiểm
soát. Có thể một vài báo, tờ báo họ muốn làm như thế nhưng họ làm tất
nhiên những người ký giả, chủ bút sẽ bị đuổi đi ngay nên trong hiện tại
báo chí không có chức năng làm như vậy. Khi mà báo chí không có chức
năng làm như vậy người dân phải có cái quyền qua các thiết lập các xã
hội dân sự.
PV: Thưa giáo sư,
vừa rồi cũng xuất hiện ở trong nước và trên mạng đấy một cái tuyên bố về
thực thi cái quyền dân sự và chính trị với chữ ký của rất nhiều người
thuộc các giới khác nhau tham gia. Theo giáo sư cái sự kiện này nó có
một cái ý nghĩa gì, nó có một cái tác động gì đối với tình hình chuyển
biến về chính trị xã hội Việt Nam và cải tổ Việt Nam hay không thưa giáo
sư?
GS NVL: Cái sự kiện này
tôi nghĩ rằng là nó là một cái bước đầu, trước hết là những người ký
cái bản này là những người đã có một cái tiếng nói nào đó ở trong xã
hội, nếu không ở Việt Nam thì ở nước ngoài. Cho nên khi mà họ ký vào đây
thì tôi nghĩ rằng là họ rất là cẩn thận và họ nghĩ đây là bước đầu để
tranh luận, để nói lên những cái gì mà người dân muốn phát biểu. Nhưng
mà như tôi vừa mới nói nó chỉ là một bước đầu thôi là bởi vì đấy là một
diễn đàn, nó chưa phải là một tổ chức dân sự có thể dần dần đưa đến các
tổ chức dân sự để mà người dân có thể bảo vệ quyền lợi của họ nhưng mà
bây giờ chưa có.
PV: Thưa giáo sư,
gần đây một thời gian thì cũng có một hội thảo của một nhóm cá nhân đấy
của học giả về nghiên cứu Việt Nam trong đó họ có đặt vấn đề cải tổ của
Việt Nam thực sự nó đi về đâu. Thì qua những quan sát tới nay thưa giáo
sư, riêng phần cải tổ về mặt chính trị và thể chế Việt Nam nó có tiến
được thêm bước nào không, nó có nhúc nhích hay không hay là nó vẫn giẫm
chân tại chỗ hay thậm chí tụt lùi thưa giáo sư?
GS NVL: Những người mà
tổ chức hội thảo tôi nghĩ rằng là họ nghĩ rằng là có cái thụt lùi. Thật
ra thì ở trong nước có một cái thời gian có một cải tổ đặc biệt là từ
năm 86 hay có thể nói năm 1989 trở đi, một phần là lý do lúc đó tình
hình xã hội và kinh tế trong nước rất là khó khăn nhất là vì cái áp lực
của Trung Quốc cũng như chiến tranh ở Campuchia. Cho nên Đảng và Nhà
nước nghĩ rằng là phải cải tổ thì lúc đó thì nhiều người ở trong nước
tranh thủ và như anh đã thấy từ năm 1989 cho đến năm 2004, 2005 thì có
những cái tiến bộ rõ ràng. Nhưng tiến bộ đó là vì chính phủ nghĩa là
thối lui và không đẩy những cái chính sách mà nó cản trở vấn đề phát
triển trong đất nước. Nhưng mà thực sự thì cái thời gọi là thời đổi mới
đó là không đưa ra được những cái cơ chế gì mới để có thể bảo vệ cái
quyền lợi của người dân trong lâu dài. Đáng lý ra những cái thời đổi mới
từ năm 1989 cho đến năm 2005 ý là phải có thiết lập những cái cơ chế để
có thể bảo vệ cái quyền lợi của người dân. Nhưng mà thực ra cái lúc đó
là không làm được cái vấn đề đó, lúc đó chỉ là cái chính sách của chính
phủ cởi mở hơn thôi là bởi vì áp lực của người dân thì họ cởi mở. Nhưng
mà sau khi cái áp lực của người dân nó ít đi nhất là bởi vì vấn đề kinh
tế thì nó tăng trưởng lên thì các nhóm lợi ích trong nước bắt đầu hình
thành với sự liên kết, với các quyền lợi của các nước ngoài thành ra họ
bắt đầu họ không để ý đến người dân nữa bởi vì quyền lợi của họ như họ
nói là dính với người nước ngoài, càng ngày họ càng đi ngược lại với lợi
ích của dân chúng. Thành ra từ năm 2006 đến nay thì đúng là có sự thối
lùi và bây giờ phải cần có một đổi mới nếu mà không thì tôi nghĩ rằng là
sẽ gây rất là khó khăn cho xã hội, các cơ chế, nhiều cơ chế ở trong
nước có thể bị tan rã.
PV: Giáo sư có nghĩ
rằng là ekip lãnh đạo hiện nay của Đảng và chính quyền Việt Nam dường
như là cố gắng nhiều hơn để Đảng có thể trì thủ cái quyền lực của mình
hơn là đổi mới thực sự về dân chủ cho đất nước?
GS NVL: Thật ra bây giờ
có nhiều phe nhóm lắm cho nên nói như vậy cũng rất là khó. Nhưng mà tôi
nghĩ rằng là những cái người mà lo toan cho đất nước thì chia ra làm 2
nhóm, những người mà không vì lợi ích cá nhân của họ hay là lợi ích nhóm
của họ thì cái chuyện đó khác nhưng mà những người mà lo cho đất nước
thì tôi thấy là có 2 nhóm chính. Một nhóm là muốn làm sao đổi mới cho
nhanh và một nhóm kia thì là muốn đổi mới nhưng mà sợ đổi mới nhanh quá
nó dẫn đi đến loạn hay là đổ vỡ thì bây giờ họ cùng phân vân. Nhưng mà
tôi nghĩ thời gian rất là ít cho nên 2 nhóm mà tôi nghĩ có thể đổi mới
đó mà muốn đổi mới thì tôi nghĩ rằng là họ phải cùng nhau sớm đưa đến
những cải cách có lợi cho đất nước và cho khu vực nữa. Bởi vì nếu mà
Việt Nam bị loạn lên hay là bị khó khăn thì toàn khu vực cũng sẽ bị khó
khăn nhất là trước cái sự đe dọa của Trung Quốc.
PV: Vừa nãy giáo sư
có nói áp lực của đổi mới Việt Nam năm 1986 đấy thì chính là cái áp lực
trong nước. Đối với hiện nay thì nó có cái áp lực gì không từ phía của
nước ngoài, của môi trường quốc tế đó đối với Việt Nam. Hay là quốc tế
cũng thấy rằng đấy chỉ là câu chuyện nội bộ Việt Nam thôi, Việt Nam muốn
giải quyết cái gì là do Việt Nam và quốc tế không nên can thiệp?
GS NVL: Nó tùy quốc tế
là như thế nào? Nếu mà mình nói quốc tế trong đó có Trung Quốc hay
Campuchia hay một vài nước khác thì những cái nước đó muốn làm áp lực
với Việt Nam không đổi mới để họ có thể đẩy mạnh cái lợi ích của họ mà
nhiều nhóm và nhiều người trong nước lại nghĩ rằng có cái quan hệ với
Trung Quốc thì giữ được cái lợi ích của họ còn các cái nước khác thì họ
không muốn Việt Nam bị khó khăn nhưng mà đằng khác đi nữa thì họ sợ rằng
nếu mà đẩy Việt Nam vào một cái tình trạng mà nó bị động mà Việt Nam
yếu đi thì cũng có thể là xảy ra khó khăn cho toàn khu vực. Cái chính
sách ví dụ như chính sách của Mỹ chẳng hạn là muốn có Việt Nam hợp tác
với các nước khác trong ASEAN để mà làm sao cùng chung bảo vệ cái an
ninh của khu vực thì cái đó là cái chính sách mà tôi nghĩ là của Mỹ khi
Mỹ nói về vấn đề xoay trục trở lại vùng Đông Nam Á. Mà Mỹ không thể nói
thẳng với Việt Nam được vì giữa Mỹ với Việt Nam có vấn đề lịch sử, có
vấn đề chiến tranh, mà vấn đề chiến tranh là cả 2 bên vẫn còn nhớ, nhất
là dân chúng 2 bên vẫn còn nhớ cho nên vấn đề này rất là tế nhị cho nên
Mỹ muốn làm sao có một cái tổ chức ASEAN có sự hợp tác của các nước lớn ở
trong đó chứ không hẳn tất cả mọi nước. Nếu mà như vậy được thì nghĩa
là sẽ giúp cho Mỹ và một số nước khác như là Nhật hay là Hàn Quốc để có
thể là cùng chung với các nước ASEAN này, bảo vệ cái an ninh ở trong khu
vực.
Ai là lãnh đạo Việt Nam?
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xác định quyền lãnh đạo đất nước nằm trong tay Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng này đã cai trị đất nước từ năm 1945, khi Việt Nam tuyên bố độc lập
và một thời gian đã có chính phủ liên hiệp do Hồ Chí Minh thành lập với
nhiều đảng tham gia nội các.
Nhưng cách tổ chức nhà nước hiện nay thì ba lãnh đạo to nhất nước, Chủ
tịch Nước, Tổng Bí thư, Thủ tướng, cũng như các bộ trưởng đều là lãnh
đạo cao cấp trong Đảng Cộng sản.
Ở miền Bắc, trước đây có Chủ tịch Hồ Chí Minh mà ít nghe đến Tổng Bí
thư. Chỉ có Lê Duẩn là Bí thư thứ Nhất cùng với người nắm chức Thủ tướng
là Phạm Văn Đồng.
Sau khi ông Hồ qua đời năm 1969, Lê Duẩn trở thành Tổng Bí thư, một chức
vụ quyền hành nhất, giống như cách tổ chức nhà nước ở Liên bang Xô
Viết, mà thời Chiến tranh Lạnh thế giới nghe nhiều đến các Tổng Bí thư
Nikita Khrushchev, Leonid Brezhnev, Yuri Andropov và Mikhail Gorbachev.
Việt Nam trong giai đoạn từ 1969 đến 1986 vai trò của Chủ tịch Tôn Đức
Thắng hay Trường Chinh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng lu mờ trước Tổng
Bí thư Lê Duẩn.
Khi Lê Duẩn qua đời, Đại hội VI của Đảng vào năm 1986 công bố chính sách
đổi mới với bộ ba lãnh đạo có quyền ngang nhau. Có giai đoạn việc phân
chia quyền hành còn căn cứ vào yếu tố Bắc Trung Nam để ba miền đều có
đại diện trong thành phần lãnh đạo cao nhất nước.
Vai trò của Chủ tịch Quốc hội cũng đang được nâng tầm. Trước đây quốc
hội chỉ như con mộc cao su đóng vào những nghị quyết hay dự luật do Đảng
đưa xuống.
Nay Quốc hội đã có những đòi hỏi thanh tra công việc của cơ quan nhà
nước và gần đây đã thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm Thủ tướng và một số bộ
trưởng do những sai phạm trong công việc, nổi cộm nhất là vụ tổng công
ty Vinashin.
Trước cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, mà thực tế không có lựa chọn “bất tín
nhiệm”, đã có kêu gọi đòi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ chức vì cách điều
hành yếu kém đưa đến thất thoát hàng trăm triệu đô-la trong Vinashin.
Nhưng ông Dũng không từ chức, mà qua vụ bỏ phiếu này Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã củng cố lại vị trí của mình.
Có nhận định rằng văn hoá từ chức không có trong giới lãnh đạo Việt Nam.
Điều này đúng với lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Dũng không từ
chức vì Đảng không muốn. Cũng như trước đây Thủ tướng Phan Văn Khải đã
muốn từ chức vì những chính sách cải cách của ông đề ra không được đẩy
mạnh thực hiện. Nhưng Đảng cũng không cho ông từ chức.
Như thế hiện nay ai thực sự có quyền tại Việt Nam: ông Trương Tấn Sang,
ông Nguyễn Tấn Dũng hay ông Nguyễn Phú Trọng? Câu hỏi này có lẽ lãnh đạo
của nhiều quốc gia cũng đặt ra. Vì có đến ba người đồng quyền hành
chính trị, lãnh đạo các nước sẽ không biết phải mời ai hay tiếp xúc với
ai nếu có những quan hệ cần bàn giữa hai quốc gia.
Tại những nước không cộng sản mà theo chế độ tổng thống hay chế độ đại nghị thì vai trò của người lãnh đạo rất rõ.
Ở Mỹ, Pháp, Nam Hàn, Philippines, Mexico, Indonesia thì tổng thống có
quyền hành cao nhất. Trong khi đó ở hệ thống đại nghị như Đức, Nhật,
Anh, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ thì quyền hành trong tay thủ tướng.
Với tổ chức lãnh đạo của Việt Nam cũng như ở các nước cộng sản còn lại,
lãnh đạo các quốc gia không cộng sản khó có thể mời Tổng Bí thư vì không
phải người tương nhiệm.
Tổng thống Mỹ đã mời Thủ tướng Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng và Chủ
tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, nhưng chưa bao giờ mời
Tổng Bí thư vì Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh hay Nguyễn Phú Trọng vì chỉ
là người đứng đầu đảng, không phải đại diện cho một quốc gia.
Năm 2000 Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu sang Pháp và được Tổng thống Jacques
Chirac chính thức đón tiếp long trọng khiến có dư luận phản đối vì không
đúng với nghi thức ngoại giao.
Dù không là người đại diện quốc gia nhưng vai trò của các Tổng Bí thư Lê
Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu đã có tính lấn át quyền
hành của Chủ tịch hay Thủ tướng, điển hình như khi Thủ tướng Phan Văn
Khải muốn ký kết giao thương với Hoa Kỳ đã bị Tổng Bí thư Đỗ Mười cản.
Đến nay Đảng Cộng sản đã cầm quyền 58 năm, dài gần bằng cả một đời người.
Trong hơn nửa thế kỷ đó lãnh đạo cộng sản đã làm được những gì? Kể ra
thì nhiều thành tích chiến thắng quân sự: đánh đuổi người Pháp năm 1954,
đánh bại người Mỹ năm 1975 và chống lại Trung Quốc xâm lược năm 1979.
Đạt thành công chiến trường, nhưng xây dựng đất nước thì chưa được bao
nhiêu. Gần bốn mươi năm từ ngày thống nhất, nước Việt Nam vẫn ì ạch sau
nhiều nước lân bang về nhiều mặt từ kinh tế, giáo dục, công nghệ cho đến
văn hoá, xã hội, chính trị.
Chậm phát triển có lẽ vì Việt Nam thiếu một người lãnh đạo giỏi và có
quyền trong thời bình. Trong thời chiến chỉ một người quyết định chính
sách là Lê Duẩn với quyết tâm giải phóng miền Nam bằng quân sự đã thành
công.
Sau hai thập niên bị cô lập vì Hoa Kỳ cấm vận, Việt Nam đang trên đường
hội nhập kinh tế toàn cầu và nay đang có những đòi hỏi cải cách chính
trị hầu nâng cao vị thế Việt Nam trên chính trường quốc tế.
Tuy nhiên Hà Nội thường biện luận rằng duy trì độc đảng sẽ có ổn định để
đất nước phát triển hơn là đa đảng gây xáo trộn và có nhắc đến thời độc
tài ở Nam Hàn với Park Chung Hee, Singapore với Lý Quang Diệu hay Đài
Loan với họ Tưởng.
Nhưng Park Chung Hee với Đảng Tân Dân chủ, Lý Quang Diệu với Đảng Nhân
dân Hành động hay Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc với Quốc Dân đảng là
những lãnh đạo có nhiều quyền nên những quyết sách của họ đã đưa đất
nước tiến lên và chuyển hoá sang tự do dân chủ.
Còn Việt Nam trong những thập niên qua nếu có lãnh đạo nào đưa ra những
quyết sách thay đổi thì lại gặp lực cản ngay trong Bộ Chính trị vì ý
thức hệ, vì tranh giành lợi ích cá nhân nên đẻ ra tham nhũng như Lý
Quang Diệu đã có nhận xét về Việt Nam trong cuốn sách “One Man’s View of
the World” của ông mới xuất bản năm nay.
Thời đại toàn trị tại Việt Nam kéo dài đã hơn nửa thế kỷ. Đã đến lúc nên có cải tổ cơ chế cho Việt Nam.
Một thể chế mới với quyền hành dành cho Thủ tướng là đại diện đảng chiếm
đa số trong một một Quốc hội do toàn dân bầu chọn, trong đó có đại biểu
của ít nhất hai đảng đối lập nhau, giống như ở các nước theo dân
chủ đại nghị. Thủ tướng cũng kiêm luôn vai trò chủ tịch của đảng cầm
quyền. Còn Chủ tịch Nước là vị Nguyên thủ, đại diện cho quốc gia
trong các nghi lễ, ký kết các qui ước ngoại giao với bên ngoài.
Một nước Việt Nam tự do dân chủ sẽ hoà nhập với xu thế thời đại và được thế giới nể trọng.
Bùi Văn Phú
© 2013 Buivanphu
(Blog Bùi Văn Phú)
GS.TS Nguyễn Minh Thuyết - Sâu tham nhũng đang biến thành bạch tuộc
Gs Nguyễn Minh Thuyết |
Đại hội XI của Đảng đã xác định “tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu
tranh phòng, chống tham nhũng” là một trong những nhiệm vụ quan trọng để
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và nêu nhiều biện pháp cụ thể để thực
hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, trên thực tế, kết quả đấu tranh phòng,
chống tham nhũng (PCTN) còn rất hạn chế. Vậy, nguyên nhân từ đâu và cần
có những biện pháp như thế nào để thực hiện nhiệm vụ Đại hội XI đã chỉ
ra? Hà Nội Ngày nay có cuộc trao đổi với GS.TS Nguyễn Minh Thuyết,
nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và
nhi đồng của Quốc hội về vấn đề này.
Tham nhũng… cơ chế, chính sách
* Tham nhũng đang làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội, làm suy giảm giảm nghiêm trọng lòng tin của nhân dân vào nhà nước. Giáo sư đánh giá thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay như thế nào?
- Tham nhũng
ở nước ta đang diễn ra phức tạp. Quy mô các vụ tham nhũng ngày càng
lớn, thể hiện ở lượng tài sản bị chiếm đoạt và số người vi phạm ngày
càng tăng. Tính chất tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, thể hiện ở xu
hướng liên kết, hình thành tổ chức phạm tội ngày càng rõ rệt. Việc PCTN
ngày càng bộc lộ những lỗi hệ thống khó khắc phục. Bất chấp các biện
pháp tổ chức và tuyên truyền – giáo dục, số vụ việc tham nhũng được phát
hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra còn rất ít. Các vụ việc được vạch
ra chủ yếu nhờ báo chí, nhờ người dân hoặc bị vỡ lở do ăn chia không
đều, khiến nội bộ mâu thuẫn, “vạch áo cho người xem lưng”. Việc xử lý
trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng không
chỉ lúng túng mà còn chưa nghiêm… Đó là những nét chính về tình trạng
tham nhũng hiện nay.
* Vì sao việc tố cáo tham nhũng ở nước ta còn rất hạn chế, thưa giáo sư?
- Theo khảo sát mới đây của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, số người Việt Nam khẳng định sẵn sàng tố cáo tham nhũng thấp nhất Đông Nam Á. Đó là vì số người mất niềm tin vào quyết tâm phòng chống tham nhũng của nhà nước ngày càng tăng lên. Người ta mất lòng tin vì thấy tuyên truyền rầm rộ nhưng kết quả chỉ bắt được mấy con mèo; trong khi người đấu tranh chống tham nhũng thì bị trả thù, không biết tránh đâu cho thoát. Quan sát một số quyết định bất hợp lý từ các cơ quan nhà nước, người ta cũng thấy thấp thoáng hình bóng của các nhóm lợi ích. Nếu tham nhũng đã là con đẻ của cơ chế thì chống nó có nghĩa là lấy trứng chọi với đá. Đó là những lý do khiến ít người muốn mua dây buộc mình.
* Một hình thức tham nhũng rất khó phát hiện đó là tham nhũng cơ chế, chính sách. Giáo sư nhận định thế nào về hành vi tham nhũng này?
- Hai năm liền, kết quả khảo sát dư luận người dân của Tổ chức Minh bạch Quốc tế đều xếp cảnh sát giao thông đứng đầu danh sách tham nhũng. Nhiều anh em trong lực lượng cho rằng điều đó không công bằng. Nói như thế cũng đúng, vì tuy có gây bức xúc cho dân nhưng tham nhũng của mấy anh cảnh sát ngoài đường làm sao so được với tham nhũng của những anh ngồi phòng máy lạnh vạch chính sách. Tham nhũng chính sách, tức là ban hành chính sách, pháp luật vì lợi ích nhóm, chính là loại tham nhũng lớn nhất, tệ hại nhất. Nếu ví cán bộ tham nhũng với những con sâu làm rầu nồi canh thì tham nhũng chính sách cho thấy con sâu đã trở thành con bạch tuộc chi phối kinh tế và tác động vào chính trị.
Chính vì đánh giá được mối nguy từ loại tham nhũng này mà tại phiên họp cuối tháng 8 vừa qua của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng), Chu Sơn Hà (Hà Nội) đã chất vấn Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường về vấn đề ban hành chính sách, pháp luật vì lợi ích nhóm. Điều đó cho thấy tham nhũng chính sách không chỉ là dư luận mà đã được đặt lên bàn nghị sự của Quốc hội.
Trả lời đại biểu, Bộ trưởng Hà Hùng Cường không khẳng định, cũng không phủ nhận sự tồn tại của loại hình tham nhũng mới, mặc dù câu hỏi của đại biểu chỉ gói gọn trong phạm vi ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài các văn bản trao đặc quyền, đặc lợi cho nhóm lợi ích của mình, những người tham mưu, người có quyền còn có thể đưa ra những dự án béo bở cho người thân, người cùng phe lợi ích với họ.
Cái nguy của tham nhũng chính sách là nó bóp méo chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước, đi ngược lại quyền lợi của đông đảo nhân dân, cản trở sự phát triển của đất nước. Nó còn đẩy nhanh sự suy thoái của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và làm mất lòng tin của nhân dân.
* Chuyện các sếp ở doanh nghiệp nhà nước nhận “lương khủng” được phát hiện vừa qua liệu có phải là tham nhũng cơ chế hay không và nguyên nhân để xảy ra việc này từ đâu, thưa giáo sư?
- Đối chiếu những gì đã được phát hiện với quy định của pháp luật thì đây đúng là tham nhũng, mà có nhiều dấu hiệu tham nhũng tập thể, tức là có những “anh” chống lưng để đẻ ra cơ chế phục vụ lợi ích nhóm.
Có hai nguyên nhân dẫn đến chuyện này: Thứ nhất, nhà nước đang “ôm” các doanh nghiệp và từ “sở hữu chung” đến “cha chung không ai khóc” là điều không tránh khỏi. Nguyên nhân thứ hai là xử lý không nghiêm. Chính vì không nghiêm nên chuyện “lương khủng” ở nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn cứ tiếp diễn.
Tôi nhớ là trước đây các đại biểu Quốc hội đã chất vấn việc người đứng đầu Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) lương cao gấp cả chục lần lương Chủ tịch nước. Người có trách nhiệm cũng đã hứa kiểm tra nhưng chuyện đó được kết luận thế nào, có ai bị xử lý kỷ luật không và bây giờ lương Tổng giám đốc SCIC ra sao thì không ai rõ. Những chuyện không bình thường ở cơ quan cấp trung ương còn chưa được xử lý nghiêm chỉnh, thì ở địa phương làm ăn xằng bậy là điều dễ hiểu.
Tiếp “lửa” chống tham nhũng
* Theo giáo sư, chúng ta cần phải có biện pháp thiết thực gì để ngăn chặn, loại trừ tham nhũng có hiệu quả?
- Theo tôi, giải pháp hiệu quả nhất vẫn là công khai, minh bạch ở tất cả các lĩnh vực, tất cả các hoạt động và xác định thật rõ trách nhiệm công vụ của mỗi vị trí công tác trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Đây là điều không mới, nhưng vấn đề là chúng ta phải triển khai thực hiện thật.
Thực tế cho thấy tự kiểm tra là khâu yếu, chỉ khi có mâu thuẫn nội bộ, tố cáo lẫn nhau mới phát hiện được tham nhũng. Vì vậy, công khai là giải pháp tốt nhất để dân giám sát và để ai đó muốn nhắm mắt làm ngơ hay ém nhẹm cũng không làm ngơ, ém nhẹm được.
Cùng với các biện pháp trên, phải chú trọng bố trí, sử dụng, đãi ngộ đúng mức đội ngũ thanh tra, kiểm toán, điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán có năng lực và bản lĩnh nghề nghiệp phát hiện, xử lý và làm án tham nhũng; cần phải có những chế tài nghiêm khắc liên quan giữa trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan, người có thẩm quyền trong phát hiện và xử lý tham nhũng.
Vấn đề tiền lương với công chức, viên chức nhà nước cũng là việc đáng quan tâm. Nhà nước sẽ phải sớm giải quyết dứt điểm vấn đề này, bởi nếu cắt đi được khoảng 40% số công chức, viên chức đang “ăn bám” thì sẽ có thêm một khoản kinh phí đủ lớn để trả cho những người thực sự xứng đáng. Đây cũng là một nút cởi cho bài toán chống tham nhũng.
* Thực tế rất nhiều vụ tham nhũng bị người dân và báo chí phát hiện. Chúng ta phải làm gì để tạo điều kiện cho người dân cùng báo chí tích cực tham gia vào công tác chống tham nhũng?
- Người dân và anh em báo chí không được đào tạo bài bản về điều tra nhưng họ lại là những người phát hiện cho cơ quan nhà nước rất nhiều vụ việc tham nhũng. Hầu hết những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực nảy sinh ở các cơ quan, đơn vị, địa phương khó qua khỏi tai mắt của nhân dân. Để công tác PCTN được hiệu quả hơn nữa, cần phải sử dụng báo chí để tạo sức ép dư luận, răn đe, ngăn chặn. Có một thực tế là chúng ta rất lúng túng với việc nội bộ che giấu cho nhau. Trong khi đó, nguồn tin của báo chí là khách quan, được người dân tin tưởng. Rất nhiều vụ do báo chí, dư luận phanh phui ra, chứ không phải do các cơ quan chức năng. Vì vậy, tôi cho rằng bất kể một biện pháp nào nhằm kiểm soát, bưng bít nguồn tin báo chí sẽ hạn chế công tác PCTN và sự phát triển của xã hội.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải triển khai nhiều việc góp phần vào công tác PCTN như: Nâng cao dân trí thông qua các hoạt động truyền thông; điều tra nghiên cứu; cung cấp thông tin PCTN nhằm phát huy vai trò của báo chí trong việc phản ánh dư luận xã hội. Vai trò của các tổ chức phi chính phủ, các đoàn thể xã hội, các tổ chức cộng đồng… trong công tác PCTN cần phải được quy định chi tiết trong các văn bản pháp luật hiện hành.
* Cơ chế bảo vệ người chống tham nhũng, tiêu cực nên được xây dựng như thế nào, thưa giáo sư?
- Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp người đấu tranh chống tham nhũng bị trù dập, thậm chí bị trả thù dã man… Người tố cáo tham nhũng nếu không được bảo vệ thì sẽ bị chùn bước vì họ rất ngại bị trả thù.
Luật Tố cáo, có hiệu lực thi hành ngày 01-7-2012, đã quy định việc bảo vệ người tố cáo được thực hiện tại tất cả những nơi có thể ảnh hưởng đến người tố cáo. Đối tượng bảo vệ không chỉ có người tố cáo mà còn cả những người thân thích của người tố cáo như vợ hoặc chồng, con cái, bố mẹ, anh em ruột thịt… Luật xác định trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo thuộc về người giải quyết tố cáo; đồng thời, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người tố cáo được bảo vệ như bảo vệ bí mật thông tin; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo…
Tin rằng với những quy định này, những chiến sĩ dũng cảm trên mặt trận đấu tranh PCTN sẽ có thêm sự hỗ trợ đắc lực để đấu tranh chống giặc nội xâm một cách mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, tôi vẫn phải nhắc lại một điều đã nói không ít lần: Quan trọng nhất là lãnh đạo phải thực sự quyết tâm chống tham nhũng. Lãnh đạo quyết tâm thì đấu tranh mới thắng lợi. Và nếu không may có chiến sĩ nào bị thương vong trong cuộc đấu tranh, họ vẫn có thể an lòng với niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
* Trân trọng cảm ơn giáo sư!
Vương Tuấn Anh thực hiện
Trần Tiến Dũng - Quyền công dân trong công nghệ di động
Sự kiện Apple công bố sản phẩm mới làm nhiều người ở Việt Nam cũng lên cơn sốt
Khi iPhone 5s khai màu lên sóng tin tức, các tín đồ công nghệ Việt Nam cũng lên cơn sốt.
Tuy Việt Nam không phải là quốc gia được đại công ty Apple chọn mở hàng sản phẩm mới, nhưng không vì thế mà những "tín đồ" của cố "giáo chủ" Steve Jobs không hướng về "thánh đường" công nghệ di động thông minh để ngóng chờ hàng xách tay.
Trong một quán cà phê trên đường Điện Biên Phủ, quận 3 Sài Gòn, điện thoại di đông reo liên tục. Những cú điện thoại miễn phí thông qua Viber, Tango... vẫn luôn nôn nóng tìm kiếm iPhone đời cũ rớt giá, cũng như tìm kiếm cả những ai đầu tiên chơi trái táo cắn dở 5s để nghe tường thuật cảm giác về "cục sắt" thông minh mới ra lò.
Hiện nay, trên tay người Việt gần như đủ cả mọi thương hiệu điện thoại di động và máy tính bảng. Có vẻ thị trường này không hề bị ảnh hưởng bởi kinh tế nội địa suy thoái hay toàn cầu bất thường. Thị trường hàng xách tay smartphone, thực chất là buôn lậu, còn cho thấy miếng bánh lợi nhuận khổng lồ thuộc hệ thống đặc quyền đang ở trên mọi sự kiểm soát
Có thể dễ hiểu khi người nông dân vùng sâu đến người mua bán ve chai ở phố đều sẵn sàng móc túi chi trả cho nhu cầu a lô di động. Nhưng vẫn luôn là chuyện bí hiểm khi nhìn thấy giới trẻ, có người còn sống nhờ gia đình, vẫn sẵn sàng chi từng xấp ngoại tệ mạnh để đua theo các dòng công nghệ smart phone.
Bước vào quán cà phê sang trọng, các tụ điểm giải trí, hình ảnh dễ thấy nhất là giới trẻ "nói, rờ, quẹt, bấm" với cục sắt thông minh nhiều hơn là tán chuyện với người cùng bàn, cũng như quan tâm đến những vấn đề xã hội, chính trị...
Hiện tượng "yêu" điện thoại thông minh và không tiếc thời gian mơ màng giải trí với thế giới ảo là hiện tượng có tính toàn cầu. Giới yêu công nghệ di động cá nhân thông minh ở Việt Nam cũng tự hào cập nhật đủ vẻ đẹp trí tuệ để xứng đáng yêu các "nàng smart phone".
Một sinh viên năm 3 ngành sinh học nói. "Tôi chắng mấy khi coi tivi cùng gia đình, mấy ông lớn quán triệt hay định hướng gì là việc của mấy ổng."
"Nhưng chuyện bà Tập Cận Bình cầm điện thoại iPhone đi công du làm ồn ào dân mạng Trung Quốc thì tôi biết. Nếu một ngày nào đó nước mình có thương hiệu điện thoại thông minh riêng, tôi cũng mong có ngày đó để được mắng các ông to, khi các ông ấy không xài dế thông minh made in Việt Nam."
Không có thăm dò dư luận nào làm rõ giá trị yêu nước của giới yêu công nghệ Việt Nam thông qua việc khao khát đươc sử dụng các dòng smart phone có chất lượng mang thương hiệu nội địa. Nhưng giới trẻ Việt Nam đã cảm nhận được rất rõ "quyền công dân" với iPhone, tablet.
Trung tuần tháng 9/2013, qua sự kiện công ty Apple nâng cấp hệ điều hành lên iOS7, cho thấy "quyền công dân Apple" được tôn trọng.
Nhạc sĩ Tuấn Khanh kể. "Một giờ khuya đêm qua, nhà nhiếp ảnh Trần Việt Đức gọi cho Khanh nói rằng sau khi cài iOS7, cái iPhone 4s của anh sạc điện không vô. Khanh vào diễn đàn của Apple để thăm hỏi, và lập tức được hướng dẫn".
Thật không dễ mà có mà có được sự minh bạch và nhanh chóng đáp ứng như vậy, nếu như bạn thắc mắc một điều gì đó ở Việt Nam, với tư thế là một công dân.
Có thể sự kiện điệp viên Mỹ Edward Snowden tố cáo chương trình nghe lén điện thoại của Mỹ làm giá trị quyền tự do cá nhân bị lem luốt. Nhưng thông qua chuyện bảo mật cá nhân bằng dấu vân tay và từ chối quyền sử dụng nếu gõ sai vài lần password lại được giới yêu công nghệ cá nhân thông minh Việt Nam đắc ý, yên tâm.
Nếu nói để chống ăn cắp, ăn cướp thì ai cũng biết là không thể trước tay nghề bẻ khoá của thị trường hàng gian, hàng giả; và cũng là vô phương để thoát sự kiểm tra kiểm duyệt rất rát của hê thống an ninh mạng.
Đẳng cấp?
Vậy thì giới giàu có và cả giới mê công nghệ thông minh cá nhân đuổi theo các dòng mốt smart phone để làm gì?
Nhiều thông tin về lãnh đạo Việt Nam được lan truyền qua mạng
Có dư luận cho rằng, trong đám đông, việc ai đó cầm trên tay một sản phẩm điện thoại di động hoặc máy tính bảng đời mới của Apple hay Samsung thì được nhìn nhận đẳng cấp xã hội, chính trị, văn hoá... không khác với công dân các quốc gia phát triển. Chỉ với một cục sắt di động thông minh là có thể nâng cấp "hệ điều hành" của mình, quên đi thân phận và vấn nạn công dân xứ đang phát triển.
Một dân nhậu lúc nào tay cũng iPhone, nách cặp iPad nói. "Sài Gòn quán nào cũng có wireless, chỉ cần rờ, quẹt một cái là ok."
"Gõ tiếng Việt thì còn biết chút chút chuyện tham nhũng với cướp, giết, hiếp trong nước, gõ tiếng Anh thử coi, nói gì việc là dân Anh hay Mỹ, một phát một bay lên đỉnh công dân thế giới văn minh luôn."
Hiện tượng sử dụng công nghệ cá nhân thông minh để trực tiếp hưởng thụ tinh hoa nhân loại là một dạng quyền con người mới. Nhưng nếu thành tựu công nghệ cá nhân ở các nước dân chủ phát triển là động lực chính, để ngày một hoàn thiện và vinh danh các giá trị về quyền con người thì hẳn nhiên, ở các xứ bị lên án vi phạm quyền con người, thành tựu này cũng là phương tiện hiệu quả để đấu tranh.
Có người bạn mới quen, anh khoe một tính năng mới trong phần mềm Google của cái Ipad. Anh nói với giọng rất vui." Ông coi, tiếng Việt mình đã được nhận diện, trên thế giới chỉ có một số tiếng được nhận diện bằng giọng thôi nhé."
Rồi anh cầm iPad gọi tên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. "Nàng Google" trở thành cô thư ký tốc ký gõ ra tên ông Thủ Tướng, sau đó lập tức hiện ra tất cả các trang mạng có liên quan đến ông.
Anh bạn này hứng khởi nói tiếp. "Ông tin không, tôi thì tin với đà thông minh của phương tiện di động, tương lai ông chỉ cần vỗ tay, thở dài hay hét vì giận với nhân vật nào đó thì lập tức lịch sử sẽ trình bày minh bạch cho ông."
Bài phản ánh quan điểm và văn phong của tác giả, hiện sống tại Sài Gòn.
Trần Tiến Dũng (BBC)
Tuy Việt Nam không phải là quốc gia được đại công ty Apple chọn mở hàng sản phẩm mới, nhưng không vì thế mà những "tín đồ" của cố "giáo chủ" Steve Jobs không hướng về "thánh đường" công nghệ di động thông minh để ngóng chờ hàng xách tay.
Trong một quán cà phê trên đường Điện Biên Phủ, quận 3 Sài Gòn, điện thoại di đông reo liên tục. Những cú điện thoại miễn phí thông qua Viber, Tango... vẫn luôn nôn nóng tìm kiếm iPhone đời cũ rớt giá, cũng như tìm kiếm cả những ai đầu tiên chơi trái táo cắn dở 5s để nghe tường thuật cảm giác về "cục sắt" thông minh mới ra lò.
Hiện nay, trên tay người Việt gần như đủ cả mọi thương hiệu điện thoại di động và máy tính bảng. Có vẻ thị trường này không hề bị ảnh hưởng bởi kinh tế nội địa suy thoái hay toàn cầu bất thường. Thị trường hàng xách tay smartphone, thực chất là buôn lậu, còn cho thấy miếng bánh lợi nhuận khổng lồ thuộc hệ thống đặc quyền đang ở trên mọi sự kiểm soát
Có thể dễ hiểu khi người nông dân vùng sâu đến người mua bán ve chai ở phố đều sẵn sàng móc túi chi trả cho nhu cầu a lô di động. Nhưng vẫn luôn là chuyện bí hiểm khi nhìn thấy giới trẻ, có người còn sống nhờ gia đình, vẫn sẵn sàng chi từng xấp ngoại tệ mạnh để đua theo các dòng công nghệ smart phone.
Bước vào quán cà phê sang trọng, các tụ điểm giải trí, hình ảnh dễ thấy nhất là giới trẻ "nói, rờ, quẹt, bấm" với cục sắt thông minh nhiều hơn là tán chuyện với người cùng bàn, cũng như quan tâm đến những vấn đề xã hội, chính trị...
Hiện tượng "yêu" điện thoại thông minh và không tiếc thời gian mơ màng giải trí với thế giới ảo là hiện tượng có tính toàn cầu. Giới yêu công nghệ di động cá nhân thông minh ở Việt Nam cũng tự hào cập nhật đủ vẻ đẹp trí tuệ để xứng đáng yêu các "nàng smart phone".
Một sinh viên năm 3 ngành sinh học nói. "Tôi chắng mấy khi coi tivi cùng gia đình, mấy ông lớn quán triệt hay định hướng gì là việc của mấy ổng."
"Nhưng chuyện bà Tập Cận Bình cầm điện thoại iPhone đi công du làm ồn ào dân mạng Trung Quốc thì tôi biết. Nếu một ngày nào đó nước mình có thương hiệu điện thoại thông minh riêng, tôi cũng mong có ngày đó để được mắng các ông to, khi các ông ấy không xài dế thông minh made in Việt Nam."
Không có thăm dò dư luận nào làm rõ giá trị yêu nước của giới yêu công nghệ Việt Nam thông qua việc khao khát đươc sử dụng các dòng smart phone có chất lượng mang thương hiệu nội địa. Nhưng giới trẻ Việt Nam đã cảm nhận được rất rõ "quyền công dân" với iPhone, tablet.
Trung tuần tháng 9/2013, qua sự kiện công ty Apple nâng cấp hệ điều hành lên iOS7, cho thấy "quyền công dân Apple" được tôn trọng.
Nhạc sĩ Tuấn Khanh kể. "Một giờ khuya đêm qua, nhà nhiếp ảnh Trần Việt Đức gọi cho Khanh nói rằng sau khi cài iOS7, cái iPhone 4s của anh sạc điện không vô. Khanh vào diễn đàn của Apple để thăm hỏi, và lập tức được hướng dẫn".
Thật không dễ mà có mà có được sự minh bạch và nhanh chóng đáp ứng như vậy, nếu như bạn thắc mắc một điều gì đó ở Việt Nam, với tư thế là một công dân.
Có thể sự kiện điệp viên Mỹ Edward Snowden tố cáo chương trình nghe lén điện thoại của Mỹ làm giá trị quyền tự do cá nhân bị lem luốt. Nhưng thông qua chuyện bảo mật cá nhân bằng dấu vân tay và từ chối quyền sử dụng nếu gõ sai vài lần password lại được giới yêu công nghệ cá nhân thông minh Việt Nam đắc ý, yên tâm.
Nếu nói để chống ăn cắp, ăn cướp thì ai cũng biết là không thể trước tay nghề bẻ khoá của thị trường hàng gian, hàng giả; và cũng là vô phương để thoát sự kiểm tra kiểm duyệt rất rát của hê thống an ninh mạng.
Đẳng cấp?
Vậy thì giới giàu có và cả giới mê công nghệ thông minh cá nhân đuổi theo các dòng mốt smart phone để làm gì?
Nhiều thông tin về lãnh đạo Việt Nam được lan truyền qua mạng
Có dư luận cho rằng, trong đám đông, việc ai đó cầm trên tay một sản phẩm điện thoại di động hoặc máy tính bảng đời mới của Apple hay Samsung thì được nhìn nhận đẳng cấp xã hội, chính trị, văn hoá... không khác với công dân các quốc gia phát triển. Chỉ với một cục sắt di động thông minh là có thể nâng cấp "hệ điều hành" của mình, quên đi thân phận và vấn nạn công dân xứ đang phát triển.
Một dân nhậu lúc nào tay cũng iPhone, nách cặp iPad nói. "Sài Gòn quán nào cũng có wireless, chỉ cần rờ, quẹt một cái là ok."
"Gõ tiếng Việt thì còn biết chút chút chuyện tham nhũng với cướp, giết, hiếp trong nước, gõ tiếng Anh thử coi, nói gì việc là dân Anh hay Mỹ, một phát một bay lên đỉnh công dân thế giới văn minh luôn."
Hiện tượng sử dụng công nghệ cá nhân thông minh để trực tiếp hưởng thụ tinh hoa nhân loại là một dạng quyền con người mới. Nhưng nếu thành tựu công nghệ cá nhân ở các nước dân chủ phát triển là động lực chính, để ngày một hoàn thiện và vinh danh các giá trị về quyền con người thì hẳn nhiên, ở các xứ bị lên án vi phạm quyền con người, thành tựu này cũng là phương tiện hiệu quả để đấu tranh.
Có người bạn mới quen, anh khoe một tính năng mới trong phần mềm Google của cái Ipad. Anh nói với giọng rất vui." Ông coi, tiếng Việt mình đã được nhận diện, trên thế giới chỉ có một số tiếng được nhận diện bằng giọng thôi nhé."
Rồi anh cầm iPad gọi tên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. "Nàng Google" trở thành cô thư ký tốc ký gõ ra tên ông Thủ Tướng, sau đó lập tức hiện ra tất cả các trang mạng có liên quan đến ông.
Anh bạn này hứng khởi nói tiếp. "Ông tin không, tôi thì tin với đà thông minh của phương tiện di động, tương lai ông chỉ cần vỗ tay, thở dài hay hét vì giận với nhân vật nào đó thì lập tức lịch sử sẽ trình bày minh bạch cho ông."
Bài phản ánh quan điểm và văn phong của tác giả, hiện sống tại Sài Gòn.
Trần Tiến Dũng (BBC)
Hôm nay, xét xử vụ ông Đoàn Văn Vươn kiện UBND huyện Tiên Lãng
Đoàn Văn Vươn (giữa). |
Hôm nay (30.9), TAND huyện Tiên Lãng đưa ra xét xử sơ thẩm vụ
ông Đoàn Văn Vươn kiện UBND huyện Tiên Lãng vụ “khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực đất đai”.
Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa là bà Đỗ Thị Xuyến. Ông Vũ Văn Luân - Thư ký Liên chi hội Nuôi trồng
thủy sản nước lợ huyện Tiên Lãng - là người đại diện theo ủy quyền cho
ông Đoàn Văn Vươn. Đại diện cho UBND huyện Tiên Lãng là ông Phạm Văn
Trống - Phó trưởng phòng TNMT huyện Tiên Lãng.
Năm 2009, ông Đoàn Văn Vươn khởi kiện ra tòa, yêu cầu UBND huyện Tiên Lãng thu hồi quyết định 461 về việc thu hồi diện tích đầm nuôi trồng thủy sản của gia đình ông vì cho rằng, chưa hết thời hạn sử dụng và xin được tiếp tục sử dụng dưới các hình thức giao hoặc cho thuê đất, khi thu hồi phải bồi thường... Tháng 1.2010, TAND huyện Tiên Lãng bác đơn khởi kiện của ông Vươn, ông Vươn kháng cáo, sau đó, ông Vươn có đơn xin rút kháng cáo và TAND TP.Hải Phòng quyết định đình chỉ vụ án.
Tháng 2.2012, Chánh án TAND Tối cao quyết định kháng nghị tái thẩm đối với quyết định đình chỉ vụ án của TAND TP.Hải Phòng và bản án sơ thẩm của TAND huyện Tiên Lãng. Sau đó, tòa hành chính, TAND Tối cao ra quyết định hủy quyết định đình chỉ vụ án của TAND TP.Hải Phòng và bản án sơ thẩm của TAND huyện Tiên Lãng, giao TAND huyện Tiên Lãng giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
(Lao động)
Năm 2009, ông Đoàn Văn Vươn khởi kiện ra tòa, yêu cầu UBND huyện Tiên Lãng thu hồi quyết định 461 về việc thu hồi diện tích đầm nuôi trồng thủy sản của gia đình ông vì cho rằng, chưa hết thời hạn sử dụng và xin được tiếp tục sử dụng dưới các hình thức giao hoặc cho thuê đất, khi thu hồi phải bồi thường... Tháng 1.2010, TAND huyện Tiên Lãng bác đơn khởi kiện của ông Vươn, ông Vươn kháng cáo, sau đó, ông Vươn có đơn xin rút kháng cáo và TAND TP.Hải Phòng quyết định đình chỉ vụ án.
Tháng 2.2012, Chánh án TAND Tối cao quyết định kháng nghị tái thẩm đối với quyết định đình chỉ vụ án của TAND TP.Hải Phòng và bản án sơ thẩm của TAND huyện Tiên Lãng. Sau đó, tòa hành chính, TAND Tối cao ra quyết định hủy quyết định đình chỉ vụ án của TAND TP.Hải Phòng và bản án sơ thẩm của TAND huyện Tiên Lãng, giao TAND huyện Tiên Lãng giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
Câu chuyện của anh em Đinh Nhật Uy-Đinh Nguyên Kha
29.09.2013
Một bà mẹ Việt Nam tự tìm cách vượt ra giới hạn của bờ rau, ao cá ở một
vùng quê nghèo hẻo lánh để tiếp cận, kết nối với thế giới bên ngoài qua
các phương tiện truyền thông xã hội, kêu gọi công lý cho hai người con
đang bị giam cầm vì các hoạt động cổ võ đa đảng, dân chủ, và công bằng
xã hội.
Đinh Nguyên Kha đang thọ án tù 4 năm về tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’ sau khi cùng Nguyễn Phương Uyên rải truyền đơn, dán khẩu hiệu chống đảng cộng sản Việt Nam “tham nhũng, bán nước” và phản đối Trung Quốc xâm lược Trường Sa-Hoàng Sa.
Hiện anh tiếp tục bị truy tố về tội danh ‘khủng bố’ sau khi công an tìm thấy một số hóa chất lưu giữ trong nhà.
Anh trai Kha, Đinh Nhật Uy, cũng sắp bị đưa ra xét xử với cáo buộc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước’ vì các bài viết trên Facebook cá nhân phản đối bản án của em mình và chống Trung Quốc xâm lấn Biển Đông.
Vụ bắt giữ Uy và Kha khiến công luận quốc tế mạnh mẽ lên án thành tích nhân quyền của Việt Nam và chỉ trích các điều luật có nội dung mơ hồ như 88 hay 258 bị Hà Nội lạm dụng để bịt miệng những tiếng nói chỉ trích nhà nước.
Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay về câu chuyện của Uy và Kha, bà Nguyễn Thị Kim Liên khẳng định quyết tâm đấu tranh theo đuổi công lý đến cùng và kêu gọi sự quan tâm của công luận khắp nơi thúc đẩy Việt Nam tôn trọng nhân quyền, phóng thích những nhà bất đồng chính kiến, những người chống chế độ cai trị độc tài và giặc ngoại xâm phương Bắc, trong đó có con của bà.
Sau cuộc thăm gặp gần đây nhất với cả Uy và Kha hôm 13/9, bà Kim Liên cho biết:
Bấm vào để nghe cuộc phỏng vấn bà Kim Liên thân mẫu Đinh Nguyên Kha và Đinh Nhật Uy
VOA
Đinh Nguyên Kha đang thọ án tù 4 năm về tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’ sau khi cùng Nguyễn Phương Uyên rải truyền đơn, dán khẩu hiệu chống đảng cộng sản Việt Nam “tham nhũng, bán nước” và phản đối Trung Quốc xâm lược Trường Sa-Hoàng Sa.
Hiện anh tiếp tục bị truy tố về tội danh ‘khủng bố’ sau khi công an tìm thấy một số hóa chất lưu giữ trong nhà.
Anh trai Kha, Đinh Nhật Uy, cũng sắp bị đưa ra xét xử với cáo buộc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước’ vì các bài viết trên Facebook cá nhân phản đối bản án của em mình và chống Trung Quốc xâm lấn Biển Đông.
Vụ bắt giữ Uy và Kha khiến công luận quốc tế mạnh mẽ lên án thành tích nhân quyền của Việt Nam và chỉ trích các điều luật có nội dung mơ hồ như 88 hay 258 bị Hà Nội lạm dụng để bịt miệng những tiếng nói chỉ trích nhà nước.
Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay về câu chuyện của Uy và Kha, bà Nguyễn Thị Kim Liên khẳng định quyết tâm đấu tranh theo đuổi công lý đến cùng và kêu gọi sự quan tâm của công luận khắp nơi thúc đẩy Việt Nam tôn trọng nhân quyền, phóng thích những nhà bất đồng chính kiến, những người chống chế độ cai trị độc tài và giặc ngoại xâm phương Bắc, trong đó có con của bà.
Sau cuộc thăm gặp gần đây nhất với cả Uy và Kha hôm 13/9, bà Kim Liên cho biết:
Bấm vào để nghe cuộc phỏng vấn bà Kim Liên thân mẫu Đinh Nguyên Kha và Đinh Nhật Uy
VOA
Các diễn đàn xã hội dân sự ở Việt Nam
Ngày 23/09/2013, một số nhà hoạt động dân chủ trong và ngoài nước
đã tập hợp lại trong phong trào mang tên "Diễn Đàn Xã hội Dân
Sự" và ra một "Tuyên bố về thực thi quyền dân sự và chính trị".
Sự ra đời của "Diễn đàn Xã hội Dân sự" là một hình thức phản biện
công khai Nghị định 72 ngăn cấm thông tin và sự phát triển của xã hội
dân sự.
Mục đích của diễn đàn này, theo Tuyên bố, là "trao đổi và tập
hợp các ý kiến nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị
của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa". Một
trang mạng của diễn đàn sẽ được thành lập để nhưng người cùng chia
sẻ mục đích gửi bài vở, ý kiến tham gia tranh luận nhằm nâng cao
kiến thức.
Đây không phải là lần đầu tiên một diễn đàn xã hội dân sự được ra đời.
Ngay từ sau khi chính quyền cộng sản được thiết đặt tại miền Bắc năm
1954 và tại miền Nam năm 1975, nhiều diễn đàn xã hội dân sự đã được
thành lập và bị chính quyền cộng sản dập tắt trong bạo lực. Ngày nay
không ai quên những đóng góp của hai tập san Nhân Văn và Giai Phẩm trong
giai đoạn 1955-1958 tại miền Bắc trong phong trào đòi tự do dân chủ của
những văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc. Tại miền Nam, do không bị luật
pháp cấm đoán, những diễn đàn xã hội dân sự được tự do phát triển, cụ
thể là báo chí và các đài truyền thanh tư nhân.
Sau tháng 4/1975, tất cả những diễn đàn xã hội dân sự tư nhân tại miền
Nam đều bị cấm hoạt động và bị quốc hữu hóa. Mặc dù vậy, một số cá nhân
và tổ chức vẫn tiếp tục phát hành dưới hình thức "chui" (lén lút) như
tuần san Toàn Dân Vùng Dậy (1977-1979) của Mặt trận Dân tộc Tiến bộ do
bác sĩ Nguyễn Đan Quế chủ xướng, tập san Diễn đàn Tự do (1989-1990),
nhưng tất cả những người chủ xướng và hợp tác đều bị bắt giam sau một
thời gian phát hành. Những bài viết trong những tập san này, tuy không
phải là những diễn đàn xã hội dân sự bởi vì xã hội dân sự phải được hiểu
là những kết hợp công khai độc lập với chính quyền của những người dân
nhưng cũng có tác dụng thay thế tiếng nói của xã hội dân sự. Chúng chỉ
được in trên giấy và chỉ được phổ biến một cách giới hạn trong vòng đai
quen biết. Nhưng từ sau khi kỹ thuật mạng internet phát triển mạnh mẽ từ
sau thập niên 1990, sự xuất hiện của những diễn đàn xã hội dân sự ngày
càng đông đảo và tiếp cận đến mọi người, cả trong lẫn ngoài nước.
Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của những diễn đàn xã hội dân sự là
rất hữu ích, vì qua đó người ta có thể đoán trước tương lai của xã hội
Việt Nam như thế nào. Trước khi đi sâu vào chi tiết, trước hết phải hiểu
thế nào là xã hội dân sự và sau đó là ảnh hưởng của những diễn đàn xã
hội dân sự đối với người Việt Nam.
Sự cần thiết của xã hội dân sự
Những hình thức của diễn đàn xã hội dân sự
Xã hội dân sự là toàn thể những kết hợp công dân ngoài chính quyền như
giáo hội, hiệp hội, câu lạc bộ, tổ chức thiện nguyện, nghiệp đoàn, hợp
tác xã, công ty, xí nghiệp. Nói chung, đó là tất cả các kết hợp của
người dân, được thành lập để cùng theo đuổi một số mục đích xã hội dân
sự vì lợi ích của những người cùng chia sẻ mục đích chung đó. Tại Việt
Nam, những kết hợp mang tên xã hội dân sự, như các công đoàn, hội phụ
nữ, đoàn thnh niên, hội nhà văn, v.v. đều đặt dưới quyền quản lý của Mặt
Trận Tổ Quốc nên không thể được coi là những xã hội dân sự, vì Mặt Trận
Tổ Quốc chỉ là một công cụ của Đảng Cộng Sản Việt Nam và hoạt động của
Mặt trận được ghi trong Điều 9 của Hiến pháp.
Cũng nên biết ý niệm xã hội dân sự đã được xuất hiện cùng một lúc với
các xã hội văn minh. Đó là những sợi dây chằng chịt gắn bó những con
người với nhau và gắn bó con người với xã hội. Những sợi dây liên lạc
đan xen đó tạo sự bền chắc của quốc gia. Các kết hợp công dân tạo thành
xã hội dân sự đó là những cái nôi phát sinh ý kiến, sáng kiến và tiến
bộ. Một xã hội dân sự mạnh bảo đảm các ý kiến mới được nảy sinh nhanh
chóng, các mâu thuẫn được phát hiện và giải quyết kịp thời, xã hội không
ngừng tiến hóa trong hòa bình và trật tự. Tại những quốc gia phát triển
phương Tây, xã hội dân sự còn được giao phó một vai trò quan trọng là
thực hiện liên đới xã hội, giúp đỡ và bênh vực những người yếu kém và
thiếu may mắn.
Đã xảy ra một số cuộc biểu tình chống Trung Quốc mặc dù Việt Nam không cho phép
Như mọi tổ chức, những kết hợp dân sự đều tạo ra sức mạnh. Sức mạnh của
xã hội dân sự là sức mạnh tổng hợp, nhưng không bao giờ thống nhất,
nghĩa là có khi cùng hướng với nhau, có khi biệt lập với nhau và cũng có
khi đối chọi với nhau. Trên bình diện quốc gia, sức mạnh của xã hội dân
sự cũng từng lúc và từng cơ hội hòa nhập với nhà nước hay đối lập với
nhà nước, nhưng lúc nào cũng ảnh hưởng trên nhà nước và không bao giờ có
tham vọng tranh quyền với nhà nước bởi vì nó không có và không thể có
tham vọng chính trị. Tranh giành quyền lực chính trị thuộc về những đảng
phái chính trị.
Những tổ chức xã hội dân sự đảm bảo sự năng động của công dân và đồng
thời cũng bảo đảm tự do, dân chủ, nhân quyền, ngăn chặn mọi ý đồ độc tài
chuyên chính. Những chế độ độc tài bạo ngược đều nhắm trước hết tiêu
diệt xã hội dân sự. Bản chất của các chế độ độc tài là dựa trên một
thiểu số để khống chế một xã hội phân hóa. Các bạo quyền không cần dân
chúng tin yêu mình mà chỉ cần người dân đừng gắn bó với nhau để không có
sức đề kháng. Không gì thỏa mãn các tập đoàn độc tài hơn là sự thờ ơ và
bất lực của quần chúng. Triết lý của một chế độ dân chủ, trái lại, coi
xã hội dân sự là thành tố áp đảo và nền tảng của quốc gia, vì thế vai
trò của nhà nước là làm cho các kết hợp công dân ngày càng đông đảo,
không ngừng tiến lên và mạnh lên để đóng góp tích cực cho sự phồn vinh
của xã hội. Nhà nước phục vụ chứ không khống chế xã hội dân sự.
"Người dân chỉ ràng buộc với đất nước vì ít nhất một trong ba lý do: vì
đất nước bảo đảm cho mình những che chở và quyền lợi đặc biệt, vì đất
nước đem lại cho mình một nguồn hãnh diện hay, một cách giản dị, vì đất
nước là của mình."
Việt Nam, cũng như nhiều dân tộc không may khác, đã thua kém bởi vì
chúng ta không có được những nhà nước như thế. Ngược lại, ở mỗi giai
đoạn, dân tộc Việt Nam chỉ có những nhà nước của riêng một tập đoàn cầm
quyền thay vì của mọi người. Những nhà nước đó có quyền lợi của riêng
mình và chỉ biết quyền lợi của riêng mình cho nên chỉ có ưu tư giữ lấy
quyền lực của mình bằng mọi giá ngay cả nếu phải gây những thiệt thòi
lớn cho dân tộc. Đó là những nhà nước khống chế coi dân chúng là đối
tượng để kiểm soát và sử dụng thay vì là những đối tượng để bảo vệ và
phục vụ.
Với sự bùng nổ của các phương tiện giao thông và truyền thông, đồng thời
với những trao đổi dồn dập và sự bành trướng của những tư tưởng mới,
những yếu tố cấu tạo truyền thống của tinh thần quốc gia dân tộc và
những lý do ràng buộc con người với đất nước cũng đã thay đổi. Người dân
chỉ ràng buộc với đất nước vì ít nhất một trong ba lý do: vì đất nước
bảo đảm cho mình những che chở và quyền lợi đặc biệt, vì đất nước đem
lại cho mình một nguồn hãnh diện hay, một cách giản dị, vì đất nước là
của mình.
Ngày nay, một quốc gia chỉ có thể tồn tại nếu được quan niệm không phải
như một chủng tộc hay một quá khứ mà như một không gian liên đới giữa
những con người hiểu nhau, quí trọng nhau và hợp tác với nhau để xây
dựng và chia sẻ một tương lai chung. Quốc gia như thế chủ yếu là xã hội
dân sự với ký ức của nó, với những vấn đề phải giải quyết của nó và với
những dự định tương lai của nó. Nhà nước ở trong và ở dưới quốc gia với
sứ mạng bảo vệ quốc gia cho nên nhà nước có vai trò phục vụ chứ không
khống chế xã hội dân sự. Một đất nước như thế phải là của mọi người chứ
không phải là của riêng của một thế lực hay đảng phái nào.
Trước những vấn đề lớn đó, các diễn đàn xã hội dân sự có chức năng đào
sâu, giải thích và trao đổi rộng rãi những vấn đề cốt lõi và nhạy cảm
của đất nước hiện nay, như bảo vệ chủ quyền, sửa đổi hiến pháp, xóa bỏ
bất công, tố cáo tham nhũng, chống ô nhiễm xây dựng dân chủ, phát huy
các quyền tự do cơ bản của con người… mà các cơ quan truyền thông do nhà
nước nắm giữ không dám đăng tải.
Nguyễn Văn Huy
Gửi đến BBC từ Paris, Pháp
(BBC)
Nguyễn Trần Bạt - Rủi ro nhất của khủng hoảng kinh tế là để xã hội bất ổn
Trao
đổi của chuyên gia Nguyễn Trần Bạt với PV báo Đại Đoàn Kết, xoay quanh
câu chuyện về những vấn đề đang được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó
nổi lên việc đánh giá thế nào về nền kinh tế đất nước hiện nay.
Cuộc
trò chuyện của chúng tôi với Chuyên gia Nguyễn Trần Bạt được bắt đầu về
những nhận định về thực trạng nền kinh tế, được đưa ra tại Hội thảo
đánh giá nửa chặng đường thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 2011 - 2015 và
Diễn đàn kinh tế Mùa Thu. Không một chút bi quan, ông Nguyễn Trần Bạt
muốn qua báo Đại Đoàn Kết gửi thông điệp: Chỉ trích thì dễ, vấn đề là
giải pháp nào để đất nước chúng ta đi qua những nguy cơ ấy. Bởi vì nếu
không giải quyết được việc yên dân thì ngay lập tức mọi khó khăn kinh tế
sẽ chuyển sang khó khăn chính trị. Nếu thay cho chỉ trích, ở các cuộc
hội thảo chúng ta đi tìm kiếm giải pháp, sáng kiến, lối thoát thì các
cuộc hội thảo sẽ trở thành những cuộc hội thảo lịch sử.
Cầu Rồng Đà Nẵng, công trình hiện đại mới được xây dựng
Ảnh: Lê Minh
Tôi tham gia vào đời sống chính trị, tham
gia vào hệ thống chính trị như là một yếu tố phù hợp với địa vị cũng như
quyền lực của tôi. Tôi phải nói thẳng rằng tôi không thích những ý kiến
luôn luôn chỉ trích và đòi thay thế thể chế. Bởi vì chỉ trích dễ lắm,
nhưng làm thì khó.
|
PV: Thưa ông, dư luận đang rất chú ý tới những
nhận định được đưa ra tại hai cuộc hội thảo kinh tế lớn gần đây. Không
chỉ các chuyên gia mà ngay cả các nhà lãnh đạo cấp cao cũng đã thẳng
thắn thừa nhận, nhiều mục tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm 2011-2015
có khả năng không thực hiện được, những cảnh báo về một nền kinh tế ẩn
chứa nhiều rủi ro, tụt hậu và một triển vọng tăng trưởng không mấy tươi
sáng đang có nguy cơ trở thành hiện thực, đời sống của nhân dân vẫn còn
rất khó khăn...Với tư cách là một chuyên gia được coi là bình luận khá
độc lập, ông có ý kiến gì về những vấn đề này?
Ông Nguyễn Trần Bạt |
Những nhận định của những nhân vật rất có trách
nhiệm và có uy tín ấy đem lại cho tôi cảm giác lo lắng, bởi tôi thấy đến
lúc thực trạng nền kinh tế đã được thừa nhận công khai, không còn những
lời nói xa xôi nữa. Tuy nhiên tôi còn nỗi lo nữa là ngay cả khi đã có
những mô tả về thực trạng rồi thì chúng ta tìm giải pháp nào, con đường
nào để đất nước đi ra khỏi những nguy cơ ấy.
Muốn nền kinh tế sống thì phải tái cấu trúc toàn diện
- Trong những ý kiến chỉ ra rất nhiều thực trạng, nguy cơ của nền kinh tế, cá nhân ông thấy đâu sẽ là nguy cơ lớn nhất?
Tôi cho rằng cái đau khổ lớn nhất là chúng ta nhìn
ra rằng, chúng ta chưa có nền kinh tế như chúng ta đang nghĩ. Vì chúng
ta không chỉ ra được nguy cơ thật sự của nền kinh tế của chúng ta là gì.
Đối với các ngành công nghiệp thì ngành công nghiệp nào trong cấu trúc
công nghiệp sa sút? Cơ khí có vấn đề gì, điện tử có vấn đề gì? Đối với
nông nghiệp thì bao gồm những vấn đề gì? Chúng ta không có các đối tượng
cụ thể của nền kinh tế để chỉ ra rằng nó có vấn đề ở chỗ nào. Chúng ta
chỉ mới nói chung chung về một nền kinh tế.
Qua các phân tích ở các hội thảo vừa rồi, bỗng
nhiên tôi thấy rằng hình như ta chưa thực sự có nền kinh tế đúng nghĩa.
Bởi vậy nỗi lo nhất là chúng ta trống rỗng, chúng ta nói rất hay, rất
sang, rất cao nhưng tất cả những gì mà chúng ta đang nhìn thấy là sự
chênh lệch giữa lời nói và thực tế.
- Và thưa ông, như nhiều chuyên gia vừa nhận định tái cấu trúc cũng đang được làm một cách hình thức?
Tái cấu trúc là một cách nói hợp lý. Tái cấu trúc
là sắp xếp lại để tìm một lối thoát. Dùng cách mô tả như vậy, dùng thuật
ngữ như vậy hoàn toàn không sai. Trong lần trả lời phỏng vấn Đại Đoàn
Kết trước đây, tôi đã nói chúng ta không tái cấu trúc kinh tế được nếu
không tái cấu trúc tất cả các điều kiện để hình thành một nền kinh tế
của chúng ta.
Ví dụ nếu lấy các xí nghiệp quốc doanh, các công ty
nhà nước là chủ đạo chẳng hạn, thì phải tái cấu trúc cách nghĩ, ví dụ
ta không theo đuổi nền kinh tế thị trường nữa. Nhưng vẫn đang đưa ra
những đề nghị đối với Mỹ và một số quốc gia quan trọng khác là các anh
công nhận chúng tôi là nền kinh tế thị trường đi. Tiêu chuẩn của một nền
kinh tế thị trường chính là bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, tức là
mọi đối tượng làm ăn đều bình đẳng trước pháp luật, và hệ thống pháp
luật ấy phải tương thích với hệ thống pháp luật quốc tế để có thể hội
nhập được. Tức là phải tái cấu trúc cả pháp luật, cả quan điểm, cả các
đối tượng doanh nghiệp cụ thể.
Nếu muốn tái cấu trúc thì phải làm toàn diện. Tôi
nghĩ rằng, Chính phủ đúng khi đưa ra chính sách tái cấu trúc lại các
doanh nghiệp, trước hết là doanh nghiệp nhà nước. Nhưng không tái cấu
trúc được. Lý do là để tái cấu trúc đối tượng ấy đòi hỏi phải tái cấu
trúc những vấn đề không đơn thuần là quyền lực hay trách nhiệm, mà là
tái cấu trúc các quan điểm cơ bản đối với nền kinh tế và đối với các đối
tượng cụ thể của nền kinh tế. Các công ty nhà nước sử dụng khoảng 70 -
80% lượng tài nguyên, 70 - 80% lượng tín dụng của đất nước, của xã hội,
bây giờ nếu không tái cấu trúc được nó thì 70 - 80% tiềm lực của một nền
kinh tế bị chôn vùi.
Muốn nền kinh tế sống thì phải tái cấu trúc toàn
diện, không chỉ tái cấu trúc mỗi doanh nghiệp nhà nước được, mặc dù việc
ấy vô cùng quan trọng.
Ảnh: Hoàng Long
Chúng ta mới hội nhập nên chưa lường trước được khốc liệt của xu thế hội nhập
- Thưa ông, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan tại
hội thảo có cho rằng, chúng ta không thể đổ lỗi cho khó khăn chung của
kinh tế thế giới và tồn tại nội tại của nền kinh tế. Ý kiến của ông về
vấn đề này?
Cương vị của tôi quá thấp nên không đi làm việc
"hòa giải", tuy nhiên, tôi cho rằng cả 2 quan điểm đều không sai. Có lẽ
chỉ có cách diễn đạt của truyền thông chưa chính xác về sự khác nhau
giữa các ý kiến. Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan nói không đổ tại nguyên
nhân khách quan được, phải cho rằng nó là yếu kém chủ quan của hệ thống
chúng ta. Còn nhận định của Chính phủ cho rằng, do tình trạng khó khăn
của quốc tế mà làm bộc lộ tất cả mọi thứ, nếu không có khủng hoảng kinh
tế thế giới sẽ không có cơ hội để thấy được tất cả các yếu kém của hệ
thống chúng ta. Tôi không nhìn thấy sự khác nhau giữa các ý kiến đó.
Cái gì cũng thế, kể cả khó khăn bên ngoài đi nữa
thì bản chất của sự sáng suốt chính trị là nhìn thấy trước nó. Chúng ta
phải nhìn thấy, phải tổ chức những yếu tố để chuẩn bị đối phó với những
khó khăn từ bên ngoài. Khó khăn từ bên ngoài xuất hiện lâu rồi, không
phải 2008 mới bắt đầu bộc lộ. 2008 là sụp đổ, là khủng hoảng. Dấu hiệu
của sự khủng hoảng xuất hiện đã từ lâu, ta đã có kinh nghiệm của khủng
hoảng tài chính châu Á vào năm 1997. Ta thấy nó khủng khiếp như thế nào
đối với các quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng của khủng hoảng. Chúng ta
có kinh nghiệm nhưng không để ý đến, vì ta tưởng rằng ý chí chính trị
cũng như sức mạnh bên trong là đủ để chống đỡ. Ta không thấy trước được
cái khó khăn do khủng hoảng kinh tế thế giới, bởi chúng ta vẫn tưởng
rằng mình có đủ sức mạnh để chịu đựng những tai họa tầm cỡ như vậy. Có
thể cái áo mưa của anh lành hơn cái áo mưa của tôi cho nên mưa ít lọt
vào anh hơn tôi, nhưng nếu bão đến thì cả tôi lẫn anh đều bị thổi bay
cả.
Chúng ta mới hội nhập nên chưa đủ kinh nghiệm để
lường trước tất cả những sự khốc liệt của xu thế hội nhập và chúng ta
phải trả giá cho chuyện ấy.
Đoàn kết, sáng suốt và lựa chọn một chính sách ngoại giao thích hợp, chúng ta sẽ ra khỏi khó khăn.
- Nghĩa là theo quan điểm của ông tác động của
khủng hoảng kinh tế thế giới là có thật nhưng lỗi chủ quan là không
lường trước được?
Nhưng chúng ta cũng đừng đau khổ và đừng ngại vì
thất bại trong việc không lường được chuyện ấy. Tất cả các nhà lãnh đạo
của chúng ta phải tự tin và không nên né tránh chuyện ấy làm gì, bởi
toàn thể nhân loại đều không lường trước được chứ không phải chỉ có
chúng ta. Alan Greenspan khi trình bày trước Quốc hội Hoa Kỳ nói rằng:
Tôi nói thật với các ngài tôi vẫn không hình dung được tại sao nó lại
khủng hoảng. Người Đan Mạch, người Hy Lạp, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Tây
Ban Nha, người Bồ Đào Nha, người Pháp, người Anh… đều rơi vào tình trạng
như vậy. Bởi thế giới ổn định về kinh tế quá lâu rồi, các thế hệ cầm
quyền sau này quên mất những bài học, những kinh nghiệm của thời kỳ đại
khủng hoảng vào năm 1929. Thế giới đua nhau phát triển nhanh quá, đốt
hết tất cả mọi thứ để phát triển cho nên nó phải trả giá cho sự đi nhanh
quá. Không phải chỉ có chúng ta, phương Tây cũng khủng hoảng. Vì phương
Tây khủng hoảng cho nên phương Tây cũng không tự tin lắm trong các hội
nghị quốc tế hay trong bàn thảo quốc tế về vấn đề này, đó là tâm lý có
thật và tâm trạng có thật của các nhà điều hành những nền kinh tế khác
nhau ở trên thế giới.
Tôi nghĩ các nhà lãnh đạo không việc gì phải cường
điệu hóa hay bi quan quá về chuyện này. Chúng ta có khủng hoảng mấy,
chúng ta có khó khăn mấy thì khó khăn của chúng ta hiện nay cũng không
bằng khó khăn trước năm 1986. Tôi nghĩ rằng chỉ cần một sự thống nhất
chính trị hợp lý, chỉ cần một sự sáng suốt và chỉ cần lựa chọn một chính
sách ngoại giao thích hợp chúng ta sẽ ra khỏi khó khăn.
Nhiều người không làm ăn kinh doanh thật, không hiểu cái khốc liệt của sự làm ăn
- Ông có vẻ lạc quan khác với nhiều chuyên gia và các nhà trí thức khác?
Những năm mở cửa vừa qua đã giúp một bộ phận dân
chúng đô thị có điều kiện sống tốt hơn nên bây giờ khó khăn một chút là
bất mãn. Họ bất mãn bởi đã lạc quan nghĩ rằng chúng ta có thể có những
triển vọng to lớn hơn. Nhưng không phải như thế. Ta đi sau thế giới, ta
hứng bụi, chuyện ấy là đương nhiên. Nhiều người không làm ăn kinh doanh
thật, không hiểu cái khốc liệt của sự làm ăn. Một số quan chức trong bộ
máy nhà nước cũng có kinh nghiệm về quản lý, điều hành, kinh doanh nhưng
trong sự thuận lợi của độc quyền và của quyền lực cũng không hiểu khó
khăn thật ở ngoài đời.
Tôi nghĩ rằng các nhà lãnh đạo, nhất là những nhà
lãnh đạo cao cấp của Đảng, của Nhà nước, của Chính phủ nên tự tin. Tự
tin, đoàn kết lại và tìm giải pháp. Giải pháp gì cũng phải lấy yên dân
làm gốc. Nếu không giải quyết được việc yên dân thì ngay lập tức mọi khó
khăn kinh tế sẽ chuyển sang khó khăn chính trị. Tất cả các bi đát của
khó khăn kinh tế không phải là sự sụp đổ của các tập đoàn hay các công
ty, mà là sụp đổ lòng tin vào đời sống của đại bộ phận dân chúng. Rủi ro
quan trọng nhất của khủng hoảng kinh tế chính là để nó chuyển sang
khủng hoảng chính trị.
Không có khủng hoảng cũng khó có cách trở thành nước công nghiệp hóa vào 2020
- Ông có thể cho biết ý kiến về việc để tạo cảm
giác yên dân, có ý kiến đề nghị hạ các chỉ tiêu kinh tế xuống, nhất là
mục tiêu để đạt tới công nghiệp hóa năm 2020?
Tôi nghĩ có lẽ nói năm 2020 chúng ta về cơ bản trở
thành một nước công nghiệp là một thông điệp lạc quan. Phải nói rằng
chúng ta quan niệm chưa đúng về công nghiệp hóa, hiện nay không có các
xí nghiệp đáng kể, không có mặt hàng công nghiệp đáng kể. Tôi đã từng
đến một nước Áo nhỏ bé ở châu Âu, đến một cái làng để thăm một gia đình
chuyên sản xuất đầu khoan của máy khoan đá. Đầu khoan ấy người ta mua để
khoan đường hầm đi từ châu Âu lục địa sang nước Anh. Công nghiệp hóa là
như thế.
Công nghiệp hóa là mỗi một hộ gia đình phải có lực
lượng trí tuệ tiềm năng về mặt công nghiệp, phải có những người thạo tay
nghề đủ để thực hiện các dự án công nghiệp. Chúng ta chưa có, tức ta
chưa có nền sản xuất cứng. Xã hội chúng ta là xã hội chưa có kỷ luật
công nghiệp. Xã hội công nghiệp hóa là một xã hội vừa có kỷ luật công
nghiệp, vừa có nền công nghiệp thực và vừa có địa vị trong thị trường
quốc tế về nền công nghiệp của mình. Về bản chất, công nghiệp hóa là xây
dựng một nền công nghiệp và một nền văn hóa công nghiệp.
Đến năm 2020, tức là còn 7 năm nữa có cách gì để
làm được việc ấy. Không phải khủng hoảng kinh tế làm chúng ta phải chậm
lại. Nếu không gặp khủng hoảng từ năm 2008 cho đến bây giờ thì năm 2020
chúng ta cũng khó trở thành một nước công nghiệp được. Đặt ra mục tiêu
phải chặt chẽ, trở thành nước công nghiệp hóa bằng nội hàm nào, bằng
phương tiện gì, bằng cách gì?
Tôi tham gia vào đời sống chính trị như một người đi tìm giải pháp
- Ở trên ông có nói các ý kiến đưa ra đang ở
mức kêu ca, chưa đưa ra giải pháp. Nếu ông là người được hỏi ý kiến để
tham vấn về giải pháp cho nền kinh tế thì ông sẽ nêu ý kiến gì?
Tôi có một quyển sách đến bây giờ có nhiều người
bắt đầu phân tích, đó là quyển Cải cách và sự phát triển, trong đó tôi
nói hết về điều kiện văn hóa, điều kiện chính trị, điều kiện kinh tế của
sự phát triển là gì. Trong một loạt các bài trả lời phỏng vấn, trong đó
có cả những bài trên Đại Đoàn Kết tôi nói rất rõ, phát triển là gì và
chúng ta phải đi qua cái gì và phải đi đến đâu. Tôi không lấy mục tiêu
là chỉ trích, mà tôi muốn tìm một số giải pháp, một số biện pháp, một số
gợi ý, một số sáng kiến.
Nếu xã hội chúng ta kêu gọi sự phát huy, đi tìm
kiếm giải pháp, sáng kiến, lối thoát mà không chỉ trích nữa thì tôi nghĩ
rằng tất cả các cuộc hội thảo sẽ trở nên những cuộc hội thảo lịch sử.
Bởi đấy là lúc xã hội ghé một vai gánh với Đảng và Chính phủ để chứng
minh rằng xã hội chúng ta là một xã hội hòa bình, mọi người đều làm
chính trị theo địa vị của mình chứ không đòi thay thế vị trí các nhà
lãnh đạo. Tôi không phải là người làm chính trị nhưng tôi tham gia vào
đời sống chính trị như một người đi tìm một số giải pháp, đi tìm một số ý
kiến hợp lý.
Tôi tham gia vào đời sống chính trị, tham gia vào
hệ thống chính trị như là một yếu tố phù hợp với địa vị cũng như quyền
lực của tôi. Tôi phải nói thẳng rằng tôi không thích những ý kiến luôn
luôn chỉ trích và đòi thay thế thể chế. Bởi vì chỉ trích dễ lắm, nhưng
làm thì khó.
- Thật thú vị về tâm thế của một trí thức như ông...
Trí thức Việt Nam sau đổi mới, không biết vì lý do
gì chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất, là những người tận dụng được cơ hội
đổi mới và nhanh chóng trở thành những nhà kinh doanh. Lớp già như tôi
thì nửa cũ nửa mới, còn những lớp sau này đã trở thành những nhà kinh
doanh ghê gớm, thậm chí có những người rất liều và đã phải trả giá cũng
khá đắt. Trí thức nào mà có kinh nghiệm và có năng lực thức tỉnh về kinh
tế và hoạt động kinh tế, thì trí thức ấy trở thành những người đưa được
các yếu tố tri thức vào nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù những yếu tố tri
thức ấy không phải là hoàn toàn sâu sắc, cũng không phải là sành điệu
nhưng là yếu tố tri thức thật, và họ được hưởng lợi, họ trở thành những
người giàu có và thành đạt trong điều kiện mở cửa của đất nước. Gần 30
năm sau đổi mới chia ra làm hai thế hệ, tạo ra một tốc độ phát triển
khác với quá khứ rất xa.
Thời kỳ đổi mới được chia ra làm hai thế hệ các nhà
kinh doanh, và phải nói rằng thế hệ sau phát triển nhanh hơn thế hệ
trước với một tốc độ khá lớn. Và đó phản ánh một thực trạng là tốc độ
phát triển, kinh nghiệm cũng như trí tuệ hay tham vọng của trí thức Việt
Nam là rất lớn.
- Ông đang nói đến những doanh nhân trí thức, còn...
Tôi đã nói đến nhóm thứ nhất là những người đón và
nắm bắt được cơ hội. Còn lại cũng có những người nhìn cuộc đời qua tâm
trạng của mình. Nguyễn Du đã rất tài tình khi nói về tâm trạng: Khi tỉnh
rượu, lúc tàn canh/ Giật mình lại thấy thương mình xót xa.
Trí thức đến như Nguyễn Du thì Việt Nam hiện đại
tôi chưa thấy ai. Có tài thì thành Nguyễn Du, bởi vì Nguyễn Du viết
Truyện Kiều là nói đến những oan khuất của toàn bộ đời sống, còn những
người chưa thực tài thì thường nhiều tâm trạng.
Mọi nhà nước đều phải sửa chữa thường xuyên
- Thưa ông, trở lại với ý kiến lúc nãy ông có nói về đóng góp của trí thức, chuyên gia là giải pháp, sáng kiến?
Đối với người Việt Nam, thể chế chính trị mà chúng
ta đang có cho dù còn có những khiếm khuyết thì nó vẫn là một thể chế mà
mỗi một người đã cam kết sống với nó. Tôi sinh năm 1946, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời năm 1945. Phải nói cho sòng phẳng, nền cộng
hòa này đối với tôi là nền cộng hòa của tôi, tôi phải chăm chút giống
như ngôi nhà của tôi, dột thì tôi phải lợp lại. Tôi nghĩ rằng mọi nền
cộng hòa đều phải sửa chữa. Tôi đã nghiên cứu và rút ra một kết luận là
mọi nền cộng hòa đều phải sửa chữa thường xuyên. Nền Cộng hòa của Hoa Kỳ
cũng đang phải sửa, tại sao chúng ta không sửa mà chúng ta đòi thay nó.
Thay bằng cái gì?
Phân tích thì được nhưng chỉ trích, bêu riếu thì không nên
- Cụ thể hơn, thưa ông, ý kiến của ông về cách tiếp cận để xử lý những khó khăn hiện nay?
Cần phải học cách cải cách của Dàn nhạc Giao hưởng
Việt Nam. Ở đấy người ta thuê người viết tổng phổ hiện đại và người ta
thuê người chỉ huy hiện đại. Bây giờ để mua được một vé vào Nhà hát Lớn
xem Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam biểu diễn phải mất từ 1-2 triệu. Từ chỗ
đuổi ruồi không ai xem mà bây giờ bỗng nhiên nó có giá, bởi vì họ biết
tạo ra tổng phổ và tạo ra nhạc trưởng. Đôi khi tổng phổ tạo ra nhạc
trưởng, và đôi khi nhạc trưởng tạo ra tổng phổ. Kinh nghiệm của Dàn nhạc
Giao hưởng Việt Nam là một kinh nghiệm tốt.
Chúng ta phải tìm cách tốt nhất đưa đất nước ra
khỏi khó khăn như hiện nay. Tất cả những ý kiến chỉ trích cá nhân những
nhà lãnh đạo, chỉ trích thực trạng kinh tế, xã hội tôi nghĩ đều không
tích cực. Phân tích nó thì được, nhưng đem chỉ trích, bêu riếu nó thì
không nên.
Phản biện là một biện pháp để xây dựng thể chế
- Ở trên ông có nói về việc an dân, theo ông
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở đâu trong việc ổn định kinh tế,
để tránh dẫn đến những khủng hoảng chính trị?
Trong hệ thống chính trị của chúng ta muốn có tiếng
nói thì phải có địa vị chính trị. Địa vị chính trị của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam sẽ tăng lên bằng việc tăng cương vị của người đứng đầu. Cho
nên tôi kỳ vọng sắp tới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ nâng được vai trò
phản biện nhưng không phải theo ý nghĩa như là một sự đối lập mà một số ý
kiến mong muốn. Tôi nghĩ chắc chắn là Mặt trận sẽ đưa ra một khuynh
hướng phản biện như một biện pháp xây dựng thể chế, xây dựng chính trị,
xây dựng kinh tế, xây dựng xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải trở thành tổ chức phản biện có cơ sở khoa học, một tổ chức tham vấn chính trị, một tổ chức hiệp thương.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải trở thành tổ chức phản biện có cơ sở khoa học, một tổ chức tham vấn chính trị, một tổ chức hiệp thương.
Tôi nói ví dụ làm thế nào để chống được tham nhũng
là cả một vấn đề. Phải phân tích cả những biện pháp lý luận để xử lý
chuyện này. Chúng ta tổ chức rất nhiều hội thảo, nhưng có rất ít hội
thảo bàn về nội chính và chống tham nhũng. Tôi nghĩ là báo chí, nhất là
báo Đại Đoàn Kết của Mặt trận Tổ quốc là cơ quan rất thuận lợi để đưa ra
các phương thuốc, mà phương thuốc ấy là phương thuốc giải độc cho mọi
quá trình điều trị. Bởi vì bác sĩ nào tiêm thuốc gì là tùy theo quan
điểm y học của anh ta, nhưng tiêm thuốc gì thì cũng đều phải thải độc.
Mặt trận Tổ quốc và báo Đại Đoàn Kết có thể trở thành nhà chuyên môn chế
thuốc giải độc. Và tôi sẵn sàng nhận lời làm cộng tác viên trong việc
chế thuốc giải độc đó.
- Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
Tôi nghĩ rằng các nhà lãnh đạo nên tự tin.
Tự tin, đoàn kết lại và tìm giải pháp. Giải pháp gì cũng phải lấy yên
dân làm gốc. Nếu không giải quyết được việc yên dân thì ngay lập tức mọi
khó khăn kinh tế sẽ chuyển sang khó khăn chính trị. Tất cả các bi đát
của khó khăn kinh tế không phải là sự sụp đổ của các tập đoàn hay các
công ty, mà là sụp đổ lòng tin vào đời sống của đại bộ phận dân chúng.
Rủi ro quan trọng nhất của khủng hoảng kinh tế chính là để nó chuyển
sang khủng hoảng chính trị.
|
Cẩm Thúy (thực hiện)
(Đại Đoàn Kết)Đại gia số 1 Việt Nam: Thâu tóm ngân hàng, mua 100 máy bay
Chỉ trong một ngày, hai thương vụ trị giá hàng tỷ USD là
thông qua việc sáp nhập hai ngân hàng và mua 100 máy bay mới đã gây rung
động thị trường Việt Nam. Điều đáng nói, cả hai đều liên quan đến một
tập đoàn lớn và doanh nhân thành đạt, kín tiếng. Chỉ với hai thương vụ
nay, Dn và doanh nhân này đã xứng là đại gia số 1 của năm 2013.
Sovico ai biết đều nể
Trong giới đầu tư, cái tên Sovico
Holdings đã rất nổi tiếng với khá nhiều vụ đầu tư lớn trong lĩnh vực BĐS
và liên quan tới nhiều ngân hàng. Tuy nhiên, tên tuổi của một trong
những tập đoàn tư nhân hàng đầu Việt Nam này chưa thực sự được biết đến
trên diện rộng cho đến khi DN này lấn sân sang lĩnh vực hàng không.
Hôm
25/9, hãng hàng không tư nhân Việt Nam VietJetAir đã ký kết thỏa thuận
mua 92 chiếc A320 của hãng Airbus tại Paris trong khuôn khổ chuyến thăm
chính thức nước Pháp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Thương vụ trị
giá khoảng 9 tỷ USD của VietjetAir gây chấn động ngành hàng không không
chỉ trong nước mà cả quốc tế và nó được xem như một cú bứt phá mạnh mẽ
muốn vươn rộng hơn ra các thị trường quốc tế của hãng hàng không giá rẻ
mới vài năm tuổi đời này.
Thông tin ban đầu cho thấy, số tiền khổng lồ dùng để mua 92 máy bay (62
chiếc sẽ được giao cho VietJetAir trong vòng 8 năm) và thuê 8 chiếc nói
trên chủ yếu sử dụng vốn vay từ các ngân hàng nước ngoài.
Cũng giống như đại đa số các hãng hàng không giá rẻ khác, VietJetAir dùng tiền vay để tài trợ cho đội bay của mình. Tuy nhiên, quyết định trang bị thêm 100 máy bay cùng với số tiền bỏ ra rất lớn cho thấy thực lực cũng như vị thế của các ông chủ VietJetAir quả là to lớn.
Vậy ai là ông chủ của hãng hàng không tư nhân đầu tiên của Việt Nam, mới chính thức đi vào hoạt động từ cuối tháng 12/2011 và đã bất ngờ ước lãi khoảng 120 tỷ đồng trước thuế trong 7 tháng đầu năm 2013; dự kiến IPO, niêm yết trên TTCK nước ngoài trong vòng 18 tháng tới này?
Cho tới thời điểm hiện nay, thông tin đầy đủ về cổ đông VietJetAir chưa có nhưng giới đầu tư đã biết đến tập đoàn tư nhân Sovico Holdings có vai trò là cổ đông cổ đông lớn của hãng hàng không này. Và như thế, thương vụ của VietJetAir là một sự bất ngờ về vị thế của tập đoàn Sovico.
Cùng ngày với thương vụ “trăm tỷ USD” nói trên, giới đầu tư còn đón nhận thông tin Đại hội cổ đông bất thường Ngân hàng TMCP Đại Á (DaiABank) đã thông qua các văn kiện quan trọng để sáp nhập vào HDBank.
Cũng giống như đại đa số các hãng hàng không giá rẻ khác, VietJetAir dùng tiền vay để tài trợ cho đội bay của mình. Tuy nhiên, quyết định trang bị thêm 100 máy bay cùng với số tiền bỏ ra rất lớn cho thấy thực lực cũng như vị thế của các ông chủ VietJetAir quả là to lớn.
Vậy ai là ông chủ của hãng hàng không tư nhân đầu tiên của Việt Nam, mới chính thức đi vào hoạt động từ cuối tháng 12/2011 và đã bất ngờ ước lãi khoảng 120 tỷ đồng trước thuế trong 7 tháng đầu năm 2013; dự kiến IPO, niêm yết trên TTCK nước ngoài trong vòng 18 tháng tới này?
Cho tới thời điểm hiện nay, thông tin đầy đủ về cổ đông VietJetAir chưa có nhưng giới đầu tư đã biết đến tập đoàn tư nhân Sovico Holdings có vai trò là cổ đông cổ đông lớn của hãng hàng không này. Và như thế, thương vụ của VietJetAir là một sự bất ngờ về vị thế của tập đoàn Sovico.
Cùng ngày với thương vụ “trăm tỷ USD” nói trên, giới đầu tư còn đón nhận thông tin Đại hội cổ đông bất thường Ngân hàng TMCP Đại Á (DaiABank) đã thông qua các văn kiện quan trọng để sáp nhập vào HDBank.
Thông tin về vụ sáp nhập này đã được nói đến nhiều và đã được NHNN chấp
thuận từ cuối năm ngoái. Tuy nhiên, đại hội của DaiABank hôm 25/9 mới là
câu trả lời cuối cùng của cổ đông của ngân hàng có vốn điều lệ 3.100 tỷ
và mạng lưới gần 70 điểm giao dịch trên cả nước, chấp nhận xóa sổ tên
tuổi để sáp nhập vào HDBank. Gần đây, 2 vị trí cao nhất tại DaiABank đều
là người từ HDBank sang.
Điều mà nhiều người quan tâm là HDBank và DaiABank có quan hệ mật thiết với Tập đoàn Sovico Holdings. Ông Chu Việt Cường vừa được bầu vào vị trí chủ tịch HĐQT DaiABank là thành viên HĐQT, phó tổng giám đốc điều hành của Sovico Holdings. Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Phương Thảo - cổ đông sáng lập, chủ tịch điều hành của Sovico Holdings là phó chủ tịch HDBank.
Gương mặt đại gia bí ẩn
Nói đến VietJetAir và HDBank gần đây nhiều người mới biết đến Sovico Holdings nhưng với giới đầu tư tài chính, cái tên này khá quen thuộc. Chủ nhân của tập đoàn tư nhân này là vợ chồng doanh nhân Nguyễn Thanh Hùng-Nguyễn Thị Phương Thảo, là 2 trong 3 sáng lập viên xây dựng Sovico (cùng ông Nguyễn Cảnh Sơn) từ những ngày đầu thành lập - năm 1992.
Ông Hùng hiện là chủ tịch HĐQT Sovico Holdings, trong khi bà Thảo là chủ tịch điều hành.
Điều mà nhiều người quan tâm là HDBank và DaiABank có quan hệ mật thiết với Tập đoàn Sovico Holdings. Ông Chu Việt Cường vừa được bầu vào vị trí chủ tịch HĐQT DaiABank là thành viên HĐQT, phó tổng giám đốc điều hành của Sovico Holdings. Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Phương Thảo - cổ đông sáng lập, chủ tịch điều hành của Sovico Holdings là phó chủ tịch HDBank.
Gương mặt đại gia bí ẩn
Nói đến VietJetAir và HDBank gần đây nhiều người mới biết đến Sovico Holdings nhưng với giới đầu tư tài chính, cái tên này khá quen thuộc. Chủ nhân của tập đoàn tư nhân này là vợ chồng doanh nhân Nguyễn Thanh Hùng-Nguyễn Thị Phương Thảo, là 2 trong 3 sáng lập viên xây dựng Sovico (cùng ông Nguyễn Cảnh Sơn) từ những ngày đầu thành lập - năm 1992.
Ông Hùng hiện là chủ tịch HĐQT Sovico Holdings, trong khi bà Thảo là chủ tịch điều hành.
Vợ chồng doanh nhân Hùng - Thảo. |
Ông Hùng được biết đến là thành viên Hội đồng tư vấn doanh nghiệp của
APEC (ABAC) do Thủ Tướng phê chuẩn; là phó chủ tịch Diễn đàn doanh
nghiệp Việt Nam - Nhật Bản; uỷ viên BCH Hội Hữu nghị Việt Nam - Hoa Kỳ;
thành viên duy nhất của DN Việt Nam tại Diễn đàn kinh tế thế giới và
được diễn đàn này họp tại Davos Thụy Sĩ năm 2007 bầu chọn là Nhà lãnh
đạo trẻ toàn cầu.
Ông là kỹ sư năng lượng, tiến sỹ chuyên ngành tự động hóa, viện sỹ Viện Hàn Lâm Nghiên cứu Hệ thống Quốc tế Liên bang Nga. Còn bà Thảo là cử nhân kinh tế và tín dụng - ngân hàng, tiến sỹ kinh tế, ủy viên sáng lập Viện Hàn Lâm Nghiên cứu Hệ thống Quốc tế Liên Bang Nga.
Với năng lực cá nhân và uy tín ở trong nước và quốc tế, ông Hùng và bà Thảo đã cùng Sovico đầu tư vào nhiều DN trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tập đoàn này hiện là cổ đông chính của HDBank, Chứng khoán Phú Gia, Công ty Quản lý Quỹ Tài chính Dầu khí PVFC Capital. Trong lĩnh vực BĐS, Sovico Holdings đã mua lại khu resort Furama ở Đà Nẵng; rót vốn vào Khách sạn Hồ Gươm tại Hà Nội, Dự án Ariyana ở Đà Nẵng, CTCP Địa ốc Phú Long (dự án Dragon City), Abacus Tower tại Quận 1, TP.HCM… Trước đó, theo thông tin từ Sovico, tập đoàn này là một trong những cổ đông sáng lập của Techcombank và VIB Bank.
Trong lĩnh vực hàng không, Sovico Holdings là cổ đông sáng lập và cổ đông lớn nhất của hãng hàng không tư nhân đầu tiên của Việt Nam - VietJet Air. Ngoài ra, Sovico còn rót vốn vào những lĩnh vực khác như thủy điện, cao su, giáo dục, thương mại...
Giống như đại gia “gốc” Nga khác, ông Hùng đã xây dựng cơ nghiệp ban đầu của mình tại Liên bang Nga từ cuối thập kỷ 80 với các ngành hàng như tiêu dùng, nhu yếu phẩm, hàng thực phẩm, điện tử, may mặc… Chủ trường quay về thị trường Việt Nam bắt đầu tư giữa những năm 2.000 đến nay và tập trung trong hai lĩnh vực chính là BĐS, tài chính ngân hàng.
Riêng với ông Hùng, mảng hàng không là một sự khác biệt và là dấu mốc quan trọng thể hiện định hướng chiến lược phát triển của Sovico.
Ông là kỹ sư năng lượng, tiến sỹ chuyên ngành tự động hóa, viện sỹ Viện Hàn Lâm Nghiên cứu Hệ thống Quốc tế Liên bang Nga. Còn bà Thảo là cử nhân kinh tế và tín dụng - ngân hàng, tiến sỹ kinh tế, ủy viên sáng lập Viện Hàn Lâm Nghiên cứu Hệ thống Quốc tế Liên Bang Nga.
Với năng lực cá nhân và uy tín ở trong nước và quốc tế, ông Hùng và bà Thảo đã cùng Sovico đầu tư vào nhiều DN trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tập đoàn này hiện là cổ đông chính của HDBank, Chứng khoán Phú Gia, Công ty Quản lý Quỹ Tài chính Dầu khí PVFC Capital. Trong lĩnh vực BĐS, Sovico Holdings đã mua lại khu resort Furama ở Đà Nẵng; rót vốn vào Khách sạn Hồ Gươm tại Hà Nội, Dự án Ariyana ở Đà Nẵng, CTCP Địa ốc Phú Long (dự án Dragon City), Abacus Tower tại Quận 1, TP.HCM… Trước đó, theo thông tin từ Sovico, tập đoàn này là một trong những cổ đông sáng lập của Techcombank và VIB Bank.
Trong lĩnh vực hàng không, Sovico Holdings là cổ đông sáng lập và cổ đông lớn nhất của hãng hàng không tư nhân đầu tiên của Việt Nam - VietJet Air. Ngoài ra, Sovico còn rót vốn vào những lĩnh vực khác như thủy điện, cao su, giáo dục, thương mại...
Giống như đại gia “gốc” Nga khác, ông Hùng đã xây dựng cơ nghiệp ban đầu của mình tại Liên bang Nga từ cuối thập kỷ 80 với các ngành hàng như tiêu dùng, nhu yếu phẩm, hàng thực phẩm, điện tử, may mặc… Chủ trường quay về thị trường Việt Nam bắt đầu tư giữa những năm 2.000 đến nay và tập trung trong hai lĩnh vực chính là BĐS, tài chính ngân hàng.
Riêng với ông Hùng, mảng hàng không là một sự khác biệt và là dấu mốc quan trọng thể hiện định hướng chiến lược phát triển của Sovico.
Trong
khi rất nhiều DN từ nhỏ tới lớn đang vật lộn trong khó khăn vì đầu tư
dàn trải, đa ngành, tập đoàn của ông Hùng-bà Thảo lại đang đầu tư rất
lớn ở rất nhiều lĩnh vực. Nhiều người cảm giác e ngại về sự phát triển
mạnh mẽ của tập đoàn này. Tuy nhiên, cho tới thời điểm này, những dự án
mà Sovico triển khai, trong đó có VietJetAir - một dự án rất mạo hiểm
trong một thị trường “tồn tại đã khó” - lại rất tích cực.
Hãng hàng không tư nhất duy nhất của Việt Nam hiện còn bay hồi đầu tháng 9 cho biết, DN đã có lợi nhuận trước thuế 120 tỷ đồng trong 7 tháng đầu năm (thay vì dự kiến lỗ 3 năm) và dự định sẽ IPO và niêm yết ở TTCK nước ngoài trong vòng 18 tháng tới. Tới cuối tháng 8 vừa qua, VietJetAir đã nâng thị phần ở thị trường nội địa lên 20% bằng việc mở thêm các đường bay mới, vượt qua Jetstar Paciffic - một hãng hàng không giá rẻ khác thuộc quyền sở hữu của Vietnam Airlines (hiện nắm 12%).
Mạnh Hà
(VNN)
Việt Nam bắt đầu có ý thức bảo vệ môi trường
Vườn Quốc gia Cát Tiên Vyacheslav Stepanyuchenko/Wikipedia
Tại Việt Nam, một số trí thức trẻ bắt đầu quan tâm đến vấn đề môi
trường, mà ví dụ minh chứng là một làn sóng nhỏ đang nổi lên phản đối dự
án xây đập thủy điện tại Cát Tiên. Đối với tác giả bài viết trên tờ The
New York Times, được tuần san Courrier International trích dịch lại qua
hàng tựa “Việt Nam bắt đầu có ý thức bảo vệ môi trường ”, sự việc cho
thấy có thay đổi dần dần trong tâm thức người dân ở một đất nước quá
quen thuộc với quan niệm « Cha chung không ai khóc ».
Việt Nam bắt đầu có ý thức bảo vệ môi trường
« Vì lợi ích mười năm, phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm, phải trồng
người ». Đây là câu châm ngôn rất phổ biến của Hồ Chí Minh, xuất hiện
tại hầu hết các lớp học ở Việt Nam. Thế nhưng, ngày càng có nhiều trí
thức trong nước bắt đầu tự vấn phải chăng là vế đầu của câu châm ngôn đó
đã không được quan tâm đúng mức.
Như ý thức được vấn đề đó, một số trí thức trẻ bắt đầu quan tâm đến vấn
đề môi trường, mà ví dụ minh chứng là một làn sóng nhỏ đang nổi lên phản
đối dự án xây đập thủy điện tại Cát Tiên. Đối với tác giả bài viết trên
tờ The New York Times, được tuần san Courrier International trích dịch
lại qua hàng tựa “Việt Nam bắt đầu có ý thức bảo vệ môi trường ”, sự
việc cho thấy có thay đổi dần dần trong tâm thức người dân ở một đất
nước cộng sản quá quen thuộc với quan niệm là « Cha chung không ai khóc
».
Tác giả ký tên Liên Hoàng (một nữ ký giả và là nhà văn Việt Nam sinh
sống tại New York) cho biết vừa qua tại Việt Nam, hơn 4700 người đã ký
vào một bản kiến nghị trên trang mạng change.org, đề nghị chính phủ Việt
Nam ngăn cấm dự án xây dựng hai đập thuỷ điện do tập đoàn Đức Long Gia
Lai làm chủ đầu tư.
Vấn đề ở chỗ là để thực hiện dự án trên, tập đoàn này phải cho san bằng
khoảng 400 ha đất rừng thuộc khuôn viên vườn quốc gia Cát Tiên, cách
thành phố Hồ Chí Minh 150 km về phía đông bắc. Đây lại là một khu bảo
tồn thiên nhiên có hệ sinh thái đa dạng nhất tại Việt Nam, nơi trú ngụ
nhiều loài sinh vật quý hiếm như các loại lan rừng và gấu mã lai.
Từ năm 2006, nhà nước Việt Nam đã vận động để UNESCO xếp khu vực này vào
danh mục Di sản Thế giới. Những người phản đối còn gởi một thư ngỏ lên
chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Phong trào phản đối còn nhận được sự ủng
hộ từ nhiều chính quyền địa phương cũng như báo giới trong nước.
Xét từ bên ngoài, sự việc cũng có vẻ rất tầm thường : Một doanh nghiệp
lớn đe dọa nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nhà bảo vệ môi sinh phản
đối, và chính phủ phải chọn lựa giữa lợi nhuận và bảo vệ môi trường. Hơn
nữa, người Việt Nam còn có một đặc tính khá đặc biệt, họ chỉ phàn nàn
về các vấn đề môi trường nếu có đụng chạm đến quyền lợi của mình.
(RFI) Tình trạng thực tập sinh bỏ trốn: Nguy cơ mất hợp đồng cung ứng lao động sang Nhật Bản
Trong 8 tháng đầu năm 2013, Nhật Bản đã tiếp nhận gần 5.700 thực tập
sinh Việt Nam sang làm việc, với mức thu nhập bình quân khoảng 1.500
USD/tháng. Các doanh nghiệp phái cử trong nước không cần phải quảng cáo
nhiều để thu hút lao động bởi sự ổn định về công việc và mức thu nhập
của thị trường tiếp nhận lao động này đã là sức hút cực lớn đối với lao
động.
Dẫu hàng năm, phía Nhật Bản vẫn tiếp nhận từ 5 ngàn đến gần 10 ngàn thực
tập sinh Việt Nam qua các doanh nghiệp (DN) dịch vụ nhưng điều mà các
DN luôn nơm nớp lo lắng sau mỗi chuyến xuất cảnh là chuyện lao động bỏ
trốn. Phải mất nhiều thời gian, thậm chí nhiều năm, một DN phái cử mới
tìm được đối tác tiếp nhận lao động lâu dài, công việc ổn định tại Nhật
Bản, nhưng chỉ cần 1, 2 lao động bỏ trốn thì DN đôi khi vừa bị phạt
tiền, có trường hợp lên tới 10.000 USD/lao động bỏ trốn, vừa bị mất luôn
đối tác.
Đầu tháng 8/2013, Chi nhánh XKLĐ của một công ty trong ngành may mặc tại
Hoàng Mai (Hà Nội) tiếp nhận thông báo của Công ty Kawamoto (nghiệp
đoàn FJB) tại Nhật về việc thực tập sinh Mai Hồng Quân (28 tuổi) ở tổ 3
đường Nguyễn Hữu Tiến, Đồng Văn (Hà Nam) do công ty đưa sang đã bỏ trốn
khỏi nơi làm việc từ ngày 1/8/2013. Ngay sau khi tiếp nhận thông tin,
ngày 2/8, đại diện công ty đã lập tức về nhà của thực tập sinh Mai Hồng
Quân để tìm hiểu và vận động gia đình khuyên nhủ Quân trở lại nhà máy
làm việc. Với đầy đủ các điều kiện, đã tốt nghiệp Cao đẳng nghề cơ điện
Hà Nội, Quân hội tụ đủ điều kiện để sang tu nghiệp tại Nhật Bản từ cuối
tháng 12/2012.
Cho đến thời điểm bỏ trốn, Quân đã làm việc được 8 tháng, với mức thu
nhập ổn định, đúng theo hợp đồng đã ký kết. Trong thời gian này, thực
tập sinh Quân cũng không có bất kỳ khiếu nại gì về công việc làm gia
công cơ khí, mức lương tại nhà máy ở Nhật Bản. Bản thân bố mẹ Quân ở nhà
cũng cho rằng chỉ biết nhờ công ty liên lạc để Quân quay lại làm việc
hợp pháp, việc bỏ trốn là ngoài mong muốn của gia đình. Bản thân Quân
đối diện với những rủi ro khi ra ngoài làm việc bất hợp pháp, không được
bảo vệ quyền lợi. Ngoài ra nghiệp đoàn Nhật Bản sẽ phát lệnh truy nã
trên toàn nước Nhật, có thể bị bắt và chịu các mức bồi thường lớn.
Trao đổi với phóng viên, ông Trần Văn Long, phụ trách Ban Xử lý phát
sinh của công ty đưa Quân sang tu nghiệp tại Nhật Bản cho biết, để một
thực tập sinh bỏ trốn, không chỉ ảnh hưởng đến sự an toàn cá nhân Quân
mà còn gây ra rất nhiều thiệt hại cho DN về quan hệ với đối tác, đặc
biệt ảnh hưởng đến thị trường tiếp nhận lao động đang được thực hiện rất
bài bản, ổn định như Nhật Bản.
Không bị ép làm việc sai hợp đồng, nhưng thực tập sinh vẫn bỏ trốn. Đây
là tình trạng mà hầu hết DN phái cử thực tập sinh sang làm việc tại Nhật
Bản đều gặp phải. Những DN làm lâu năm cũng nhiều phen “ngậm đắng nuốt
cay”. Ông Vũ Công Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Phát triển nguồn nhân
lực LOD cho rằng, cho dù các DN phái cử trong nước có làm cẩn thận, chu
đáo đến đâu, thậm chí như công ty của ông đã phải về tận địa phương, tận
nhà của thực tập sinh, lo công ăn việc làm, giới thiệu tiếp cho người
nhà của thực tập sinh đi làm việc tại Nhật Bản, nhưng có điều kiện trốn
là họ vẫn trốn.
“Với mỗi lao động bỏ trốn, tùy theo từng lỗi vi phạm của lao động mà DN
phái cử bị phía đối tác phạt từ 4.000 – 5.000 USD, thậm chí có trường
hợp mà DN phải chịu trận tới 10.000 USD. DN làm gì bù lại được”, ông
Bình cho hay. Tuy nhiên đối với DN làm Nhật Bản thì thiệt hại lớn nhất
là mất uy tín với đối tác và rất khó ký được hợp đồng cung ứng lao động
tiếp theo.
Theo đánh giá của các DN dịch vụ đưa thực tập sinh sang Nhật Bản, từ
tháng 7/2010, phía Nhật Bản bắt đầu thực hiện quy định mới, DN phái cử ở
Việt Nam không được thu tiền đặt cọc của thực tập sinh, thì số thực tập
sinh mới sau này có dấu hiệu bỏ trốn nhiều hơn trước. Biện pháp nào để
chống trốn vẫn chỉ phụ thuộc và cách làm của DN, còn các quy định, chế
tài được quy định tại Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, quy
định về Xử phạt hành chính trong lĩnh vực XKLĐ đã có nhưng chưa được
thực thi một cách nghiêm túc, quá ít trường hợp bỏ trốn được xử lý
nghiêm, nên người lao động vẫn cứ thấy có cơ hội trước mắt là bỏ trốn,
ảnh hưởng rất lớn đến uy tín và thị trường XKLĐ của Việt Nam.
Từ trường hợp bỏ trốn của thực tập sinh Mai Hồng Quân, ông Trần Văn Long
rút ra bài học cần phải thẩm tra kỹ hơn về lý lịch, nguồn gốc của người
lao động, thậm chí ngay cả khi đối tác Nhật Bản đã đồng ý tuyển, trong
quá trình đào tạo 3 tháng về ngoại ngữ, kỹ năng, tác phong tại Việt Nam,
DN phái cử nếu phát hiện dấu hiệu “không an toàn” của thực tập sinh thì
cũng nên thông báo cho phía Nhật Bản để tìm sự lựa chọn khác. Sáng kiến
này cũng có thể có ích cho các DN phái cử lao động của Việt Nam
Thu Uyên
(CAND)
Nhà báo Phạm Chí Dũng: Có nên tham gia Xã Hội Dân Sự? (Video)
“Sau tất cả những hình thức hoạt động công khai trên mạng, người ta cần phải hoạt động công khai trong đời sống”.
Truyền thông Chúa Cứu Thế
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét