Chính trị - kinh tế: chiếc cầu đã gẫy
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (giữa) tại lễ khai mạc Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Nam Á tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Myanmar ở Naypyidaw hôm 06/6/2013 (AFP photo)
Việt Nam luôn bảo lưu quan điểm chính trị và kinh tế không cần thiết phải song hành trong khi khái niệm này được thế giới chứng minh ngược lại. Điều gì đang xảy ra trong nền kinh tế và chính trị không thể đồng hành ấy? Mặc Lâm phỏng vấn Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng để tìm câu trả lời.
Nhiều tướng lĩnh lên tiếng
Mặc Lâm: Thưa ông, kinh tế và chính trị đối với các nước không cộng sản là cặp phạm trù tương quan không thể tách rời. Đối với Việt Nam phải chăng hậu quả đang xảy ra xung đột trên cả hai lĩnh vực kinh tế và chính trị?
TS. Phạm Chí Dũng: Câu hỏi của anh không chỉ có tính triết học mà còn cả về “thần học”. Vật chất và ý thức thượng tầng luôn đi đôi và dính liền với nhau. Nhưng cái mà tôi muốn đề cập là hình như đang có một thế lực “thần quyền” nào đó ở Việt Nam, đang dụng tâm lấy ý thức và trên hết là ý thức hệ để làm mờ nhạt những xung đột xã hội có nguy cơ sắp bùng nổ.
Hãy tự hỏi, sau 38 năm từ ngày chấm dứt chiến tranh, dù rằng GDP và đời sống người dân luôn được báo cáo là “năm sau tăng cao hơn năm trước”, nhưng nạn tham nhũng và mức sống dân tình vẫn tỷ lệ nghịch với nhau như thể theo cấp số nhân.
Chưa bao giờ nhóm lợi ích và chủ nghĩa thân hữu lại bộc lộ nanh vuốt của chúng một cách lộ liễu, bài bản và thủ đoạn như hiện nay – như một hình ảnh mà người phương Tây đã đúc kết là “chủ nghĩa tư bản dã man”. Cũng chưa bao giờ hố phân cách giữa người giàu và người nghèo trong xã hội lại lớn đến như thế này.
Thế thì cứ mãi “Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh” để làm gì? Điều gì sẽ có ích từ lời dạy của tiền nhân nếu không được nhập tâm tới nơi tới chốn đối với lớp hậu bối để trở thành “công bộc” xứng đáng?
Xung đột giai cấp cũng từ đó mà khơi nguồn. Xung đột tư tưởng và những gì thuộc về thượng tầng cũng bắt nguồn từ xung đột giai cấp. Hậu quả cho đến nay của kinh tế và nền chính trị mà anh hỏi cũng là một cặp phạm trù mang tính hệ lụy tất yếu.
Chúng ta hãy quay trở lại với biểu đồ “suy thoái tư tưởng” của nền kinh tế từ những năm 2005-2006 đến nay. Cách đây 7-8 năm, tình hình kinh tế vẫn còn trong sức chịu đựng của người dân, tham nhũng lộ diện nhưng chưa hoành hành lộ thiên như bây giờ. Còn hiện nay, dường như mọi việc đang mất kiểm soát, không ai đứng ra trị tham nhũng, không ai dám chịu trách nhiệm về một nền kinh tế lụn bại và bị lũng đoạn từ trong ra ngoài.
Nhiều tướng lĩnh về hưu và cách mạng lão thành đã phải thốt lên là chưa bao giờ Đảng bị phân hóa như hiện nay, chưa bao giờ mầm mống xung đột trong Đảng xuất hiện dày đặc đến thế...Thế thì chính trị đi xuống cũng là tất yếu thôi. Hệ lụy ấy - một người dân bình thường cũng có thể nhìn thấy còn rõ hơn đêm giữa ban ngày. Ở vỉa hè, người dân công khai nói về những mâu thuẫn trong nội bộ đảng, không chỉ về một đồng chí X nào đó mà còn cả về các nhóm và phe phái đang đấu tranh với nhau, nhưng không phải là cuộc tranh đấu để có hạnh phúc giai cấp như Mác nói, mà là vì động cơ cá nhân.
- TS. Phạm Chí Dũng
Mặc Lâm: Có phải xuất phát từ những điều như ông vừa nói làm cho sự lên tiếng ngày càng nhiều của những tướng lãnh đã về hưu hay các nhà cách mạng lão thành trong thời gian gần đây?
TS. Phạm Chí Dũng: Nhiều tướng lĩnh về hưu và cách mạng lão thành đã phải thốt lên là chưa bao giờ Đảng bị phân hóa như hiện nay, chưa bao giờ mầm mống xung đột trong Đảng xuất hiện dày đặc đến thế trong bối cảnh chân đứng chính trị của Đảng đang trở nên mong manh hơn lúc nào hết.
Những vị tướng lĩnh lão thành như Nguyễn Quốc Thước và Nguyễn Trọng Vĩnh đều là nhân chứng sống động cho rạng bình minh đã lướt qua và ráng hoàng hôn đang ập đến.
Đó là cái gì, nếu không phải là một dạng đồng pha giữa đồ thị lao dốc của kinh tế với biểu đồ suy thoái của chính trị? Nhưng ở một thái cực ngược lại, chưa bao giờ kinh tế và chính trị, hay nói chính xác hơn là chính trị với kinh tế, lại bị lại tách rời đến thế này. Dường như chính khách chỉ là chính khách mà quên bẵng mình là “công bộc”, và người ta lo lắng đến chức phận của mình hơn hẳn chuyện cơm no áo ấm của nhân dân.
Hãy trở lại câu hỏi của anh, trong đó nêu rằng ở các nước phát triển, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là không thể tách rời. Còn nếu sự tách rời đó đang và sẽ xảy ra ở Việt Nam thì sự thể sẽ như thế nào?
Hiển nhiên, ai cũng thấy là một nền chính trị sẽ không thể giữ được chân đứng vững chắc nếu nó tách rời cơ sở hạ tầng kinh tế, thoát ly cái chức trách lo lắng cho đồng bào của mình.
Làm sao để thay đổi?
Một người chạy xe ôm đang chờ khách ở Sài Gòn bên ngoài buồng rút tiền ATM. AFP photo
Mặc Lâm: Ông dự đoán thế nào nếu ông Thống đốc ra đi? Một nền kinh tế tươi mới hơn hay cần thời gian chuyển tiếp chờ đợi người kế vị rửa sạch những gì mà ông Bình để lại?
TS. Phạm Chí Dũng: Thành thật mà nói, tôi cũng không dám hy vọng rằng bỏ đi một nhân vật như Thống đốc Nguyễn Văn Bình có thể làm cho tình hình kinh tế tốt hơn, nhất là với bệnh trạng các huyết mạch tài chính đã xơ vữa cùng tắc nghẽn, luôn chực chờ một sang chấn bùng vỡ.
Tôi hiểu câu hỏi của anh và tâm tư của những người mà tôi có thể đồng cảm. Không phải vì những người này không quá chán ngán não trạng và cung cách của giới quan chức lợi ích và những người theo chủ nghĩa thân hữu, mà có thể họ chưa tìm được một lối ra nào từ thực trạng mà họ coi là “đánh bùn sang ao”. Thay kẻ này thì sẽ có ngay một kẻ khác trám vào, có khi còn tệ hơn nữa - họ nghĩ thế.
Nhưng bài toán đang thắt nút tại điểm sinh tử của nó: nếu những lãnh đạo vô trách nhiệm không ra đi thì ai sẽ phải đi ra? Người dân chăng? Mà nhân dân thì còn nơi nào để mà đi khi mọi nơi đều là quan chức, và hơn thế, mọi nơi đều vang lên tiếng chuông báo động về nạn quan chức lộng hành nhũng nhiễu.
Sự thay đổi tối thiểu, khả dĩ nhất và an toàn nhất đối với Đảng và Chính phủ là cần từ bỏ chế độc quyền kinh doanh và độc quyền quản lý tài chính – điều mà chính Quốc hội cũng đã một số lần phải lên tiếng. Nhưng sự lên tiếng này vẫn còn quá nhỏ nhẹ trong thời buổi âm thanh lũng đoạn ồn ã hơn rất nhiều.
Sự thay đổi tối thiểu, khả dĩ nhất và an toàn nhất đối với Đảng và Chính phủ là cần từ bỏ chế độc quyền kinh doanh và độc quyền quản lý tài chính – điều mà chính Quốc hội cũng đã một số lần phải lên tiếng.Nhưng nói gì thì nói, hãy nên bắt đầu từ việc nhỏ với những kết quả nhỏ, bởi những người muốn có một sự thay đổi mang tính cải tổ ngay lập tức sẽ phải rước lấy nỗi thất vọng tức thì. Trong bối cảnh chính trị “đồng hành” với kinh tế như thế này, thật khó có thể xảy ra một biến đổi nào đủ lớn để thỏa mãn một phần nhỏ yêu cầu dân quyền và dân sinh, ít ra cho đến năm 2015.
- TS. Phạm Chí Dũng
Mặc Lâm: Ông có chờ đợi một thay đổi chính trị nào từ phía chính phủ để kích hoạt nền kinh tế hiện nay?
TS. Phạm Chí Dũng: Một thay đổi nào đó, nếu có, theo tôi chỉ có thể xảy đến từ Chính phủ. Nếu 2008 là thời điểm khởi đầu cho chu kỳ lao dốc của đường biểu diễn kinh tế quốc gia, thì biểu đồ suy thoái niềm tin công dân đối với Chính phủ cũng song hành không kém thua về khía cạnh bĩ cực.
Chưa bao giờ trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam lại có một chính phủ, với một bộ máy công quyền đậm dấu ấn tư quyền và quá tươi hồng trong công tác tham mưu, bị sói mòn niềm tin xã hội đến như thế.
Uy tín cá nhân thủ tướng cũng vì thế bị “giảm sút nghiêm trọng” – như tổng kết của không ít nhà phân tích chính trị trong nước và quốc tế. Nhưng tôi cho rằng tính từ “nghiêm trọng” còn mang hàm ý khiêm tốn, nếu tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân thật sự công khai và minh bạch.
Thật quá rõ, một bộ máy tham mưu như các bộ ngành hiện thời là quá khó cho bất cứ thủ tướng nào trên thế giới để lấy lại những gì đã mất.
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.
RFA
Việt Nam thiếu vắng lãnh tụ?
I. Những lãnh tụ của “Bên thắng cuộc”
Đọc xong Bên Thắng Cuộc (Huy Đức, OsinBook 2012), ai lại không khỏi ngậm
ngùi trước những mất mát to lớn của dân tộc mình, những đau khổ thê
lương của người dân Việt trong gần 200 năm, kể từ ngày Pháp thôn tính cả
nước Việt làm thuộc địa cho tới nay, gần 40 năm sau khi CS miền Bắc
toàn thắng và chiếm trọn miền Nam. Ai là người biết suy tư lại không lo
sợ cho viễn ảnh đất nước ngày càng tiếp tục tụt hậu, tức tối cho những
sai lầm to lớn không tha thứ được của nhà cầm quyền CSVN từ sau khi
thống nhất cả nước 1975 cho tới nay.
Tuy nhiên, nếu người viết lịch sử mà không phản ảnh hoàn toàn được sự
thực lịch sử hoặc làm rõ bộ mặt thực của những nhân vật lịch sử, hoặc vì
bị một ràng buộc nào đó để tránh né, biện minh cho một bên, thì hậu thế
sẽ không học được gì ở giai đoạn lịch sử bi thương này, vì suy nghĩ ở
người đọc bình thường sẽ bị định hướng như sau:
- Trên hết, vì những lãnh tụ, lãnh đạo này đã có công lớn làm cách mạng
giải phóng dân tộc, đã có hy sinh chiến đấu, có cố gắng phục vụ, có
quyết tâm sửa sai, khắc phục v.v... cho nên nếu họ có làm sai thì chỉ là
vì thiếu kiểm soát, vì vấp phạm lỗi lầm... thì vẫn có thể tha thứ
được...
- Lỗi lầm của những lãnh tụ, lãnh đạo này chẳng qua là do trình độ văn
hóa thấp kém, vì thiếu khả năng, vì dốt, hoặc chỉ là do bệnh “cuồng tín
giáo điều”, hoặc “ấu trĩ tả khuynh”, hoặc “chủ quan duy ý chí”, cho nên
cần có thời gian để “từng bước khắc phục”. Hơn nữa, vì họ “xuất thân
nhân dân lao động”, cho nên và phải được cho cơ hội để “vừa học vừa
làm”.
Đó là những hình ảnh cuối cùng mà sau khi đọc Bên Thắng Cuộc, người đọc
có thể nhìn thấy ở các lãnh tụ CS nổi bật như Hồ Chí Minh (chống thực
dân, nhưng lại phục tùng Stalin, Mao Trạch Đông), Lê Duẩn (tham vọng
quyền lực và độc đoán, vừa chủ trương thanh trừng nội bộ để chống xét
lại, vừa chủ trương theo Nga chống Tàu), Võ Văn Kiệt (chủ trương “Đổi
mới” chỉ đủ để chữa cháy cho chế độ), và Nguyễn văn Linh (Đổi mới nửa
mùa, Cuồng tín giáo điều, sẵn sàng phục tùng CS đàn anh dù là Nga hay
Tàu). Cảm tưởng chung của người đọc, nếu không hoặc chưa đọc được những
nguồn tài liệu khả tín khác, sẽ chỉ tới mức độ tiếc rẻ, và dễ dàng tin
vào lời bào chữa rằng, chính sách thì đúng nhưng thực hiện chưa tốt,
hoặc trên chủ trương đúng nhưng dưới thi hành sai, hoặc quá lắm thì
chẳng qua chỉ vì các lãnh tụ CS dốt và cuồng tín, giáo điều, duy ý chí
tả khuynh... cho nên kết luận chung sẽ chỉ là: thật đáng tiếc cho vận
nước nổi trôi, đáng thương cho dân tộc mình, đáng trách nhưng cũng đáng
tội nghiệp cho các nhà lãnh tụ, thế thôi.
Có thể là tác giả cũng chỉ nghĩ tới mức độ đó, cho nên điều mà tác giả
viết gần như lời một luật sư bào chữa cho tội nhân. Ngay cả khi kết nối
lịch sử, nhắc lại cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1956, tác giả cũng không thấy
được hoặc cố gắng để có thể làm cho người đọc thấy được bản chất tay sai
cho Tàu và Nga của Hồ Chí Minh khi ngay từ những ngày đầu nắm quyền lực
đã cam tâm chấp nhận sự thao túng của quan thầy CS Tàu, để mặc cho bàn
tay thâm độc của Tàu tung đòn đánh quyết liệt vào nguyên khí dân Việt,
thực hiện mưu sâu diệt nhân tài cố tình lồng vào các chiến dịch đẫm máu
đó: đoàn cố vấn Tàu do Hồ Chí Minh mời sang, núp dưới vai trò đại diện
cho Mao Trạch Đông chỉ đạo việc thực hiện chiến dịch CCRĐ và Đấu tranh
giai cấp, Rèn cán chỉnh quân, đã áp lực Hồ Chí Minh phải để chúng trực
tiếp điều khiển những đội đặc nhiệm giết và thanh trừng hơn nửa triệu
người, cố tình lồng vào trong danh sách đó để tiêu diệt hơn 1/2 số cán
bộ đảng viên Việt Minh thuộc thành phần có học, có tinh thần dân tộc, có
công trạng lớn trong chống Pháp (những lãnh đạo, lãnh tụ trong tương
lai) (*1). Cố vấn Tàu cố tình chỉ để cho HCM giữ lại đám đàn em thân
Tàu, phục Tàu, sợ Tàu, những kẻ cuồng tín giáo điều, những cán bộ vô
học, và đám quần chúng hoang mang sợ hãi, sẵn sàng chịu nhồi sọ mà thôi.
Trong cuộc chiến Tàu Việt từ ngàn xưa tới nay, sách lược muôn đời của
Tàu vẫn là tàn hại nguyên khí của dân Việt, và chúng ra tay rất sớm,
“tiên hạ thủ vi cường”, trong thời gian kể từ 1956, Tàu đã thực hiện mục
tiêu đó một cách rất quyết liệt và hiệu quả: ở miền Bắc, chỉ trong thời
gian vài năm, đã tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa hầu như hoàn toàn những
người có tinh thần dân tộc, những người có khả năng tư duy độc lập,
những người có tiềm năng lãnh đạo, tóm lại là những nhân tài quý hiếm
của đất nước, chỉ để lại những kẻ phục Tàu, sợ Tàu, những thành phần
chịu cúi đầu khuất phục hoặc tay sai, những kẻ cuồng tín dốt nát nhưng
có tham vọng quyền lực độc tài và bọn cơ hội, những loại người này sẵn
sàng đổ máu dân lành vô tội để thực hiện tham vọng của họ dưới chiêu bài
“xây dựng chuyên chính vô sản”. Những kẻ này chính là bọn giặc nội xâm,
là những kẻ đã bị nhiễm nọc độc CSCN. Theo bản năng và quán tính, họ
sẵn sàng tiêu diệt hết những kẻ khác có tiềm năng cạnh tranh vai trò
lãnh tụ của mình, bất kể là đó là người yêu nước, nhân tài của đất nước,
hay đồng chí đồng đội của mình.
Như một quy luật, một guồng máy đã được định hình thế nào, thì sẽ chỉ
chế tạo ra được 1 thứ sản phẩm nhất định. Thực tế lịch sử cho thấy hầu
như toàn thể thanh thiếu niên miền bắc VN đã bị tê liệt vì tẩy não và
bạo lực chuyên chính, cho nên đã nhắm mắt tung hô bọn lãnh tụ cuồng tín,
lao vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn xâm lăng miền nam. Đồng thời lịch
sử cho thấy đám người theo CSCN thay nhau cầm quyền kể từ sau 1956 cho
tới nay chỉ giỏi trong chiến tranh, giết chóc và phá hoại, nhưng lại rất
bất lực, vụng về và hoàn toàn không có khả năng trong xây dựng đất
nước. Trong thực tế, sau khi phải từ bỏ lối kinh tế kiểu XHCN để tránh
chết đói, đứng trước những mối lợi to lớn khi kinh tế khá lên, họ bị suy
thoái nhanh chóng trong đạo đức, mau chóng phân hóa thành những nhóm
lợi ích cạnh tranh nhau về quyền và lợi, sẵn sàng đàn áp nhân dân và lệ
thuộc ngoại bang để bảo vệ quyền lợi đó, do đó không lạ gì đất nước ta
sau 40 năm thống nhất và hòa bình, lại ngày càng tụt hậu thê thảm mọi
mặt so với các nước láng giềng trong khu vực như ngày nay. (*2)
Theo dõi những diễn biến lịch sử tiếp theo năm 1956, không khó để nhận
thấy đòn đánh quyết liệt đầu tiên của Tàu qua các chiến dịch khủng bố
nhà nước năm 1956 là rất hiệu quả, triệt để, và có tính quyết định trong
sách lược tiêu diệt nguyên khí đất nước Việt vừa mới bắt đầu phục hồi
sau khi thắng thực dân Pháp. Đòn đánh này cũng tạo tiền đề, tạo điều
kiện cho các vụ khủng bố nhà nước khác tiếp diễn liên tục như: Vụ án xét
lại chống đảng (1967-1973 nhằm củng cố thế lực độc tôn của Lê Duẩn),
trận Mậu Thân 1968 (nhằm tiêu diệt lực lượng quân sự của những người
theo Mặt trận Giải phóng MN vì tinh thần dân tộc chủ nghĩa, có tiềm năng
chia sẻ quyền lực chính trị với miền Bắc sau khi thống nhất đất nước),
chính sách bội ước và thanh trừng phe Mặt trận GPMN, chính sách cào bằng
kinh tế miền Nam, phá hủy văn hóa phẩm miền Nam, chính sách cầm tù, đày
đọa quân nhân viên chức VNCH sau 1975, và cái quái thai “Kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN” còn đang được vá víu thực hiện cho tới ngày
nay, đều là những hệ luận không thể tránh khi đất nước được điều khiển
bởi những lãnh tụ cuồng tín, giáo điều, độc tài độc đoán mà lại thiếu
học vấn, thiếu kiến thức và kinh nghiệm xây dựng kinh tế như những tập
đoàn Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh v.v...
Hệ lụy của chuỗi sai lầm do “chủ quan, duy ý chí, và ấu trĩ tả
khuynh...” này rất bi đát ngoài sức tưởng tượng cho dân Việt, nó trở
thành chuỗi khủng bố, phá hoại liên tục vào nguyên khí và tiềm lực kinh
tế của đất nước VN, nó làm băng hoại khối đoàn kết dân tộc, làm cạn kiệt
nhân tài, tiêu hao trầm trọng sinh khí của dân tộc, đồng thời cũng tiếp
tục là nguyên nhân sâu xa của tình trạng ngày càng tụt hậu mọi mặt của
VN so với các nước láng giềng mà trước 1975 từng thua xa VN (Thái,
Miên), hoặc chỉ tương dương miền Nam VN (Nam Hàn, Đài Loan...)
Động thái mà chính quyền CSVN hiện nay đang làm: một mặt dùng bạo lực đỏ
và đen để đàn áp những cuộc biểu tình chống xâm lược, chống tham nhũng,
chống cướp đất cướp nhà, đàn áp các nhà đối lập, các blogger, các phản
kháng của tôn giáo, trí thức v.v.., mặt khác dung dưỡng tham nhũng phá
hoại kinh tế, phá sản giáo dục, làm thối nát xã hội, hư hỏng thanh thiếu
niên đã tiếp tục làm suy sụp thêm nguyên khí đất nước, và làm tê liệt
khả năng liên minh với các siêu cường như Mỹ, Nga để có đối trọng với
sức mạnh kinh tế quân sự áp đảo của Tàu.
Hiện tượng bế tắc tương lai và suy yếu toàn diện vừa về lãnh đạo, vừa về
văn hóa, xã hội, kinh tế và quốc phòng của Việt Nam chứng tỏ rằng Tàu
đã thành công trong sách lược làm Việt Nam suy thoái triệt để. Mối nguy
hiểm lớn nhất là ở chỗ bọn xâm lược không cần phải trực tiếp ra mặt, mà
lại sai khiến được chính nhà cầm quyền Việt để thực hiện việc “giết tiềm
lực” (*3): tiêu diệt nhân tài, đàn áp bóc lột nhân dân, phá hoại tiềm
lực kinh tế quốc phòng của chính dân tộc mình. Hậu quả sự tự mình phá
hoại mình (còn gọi là nội xâm, hoặc tự thực dân) do đó còn triệt để và
nghiêm trọng gấp rất nhiều lần so với bị ngoại bang tấn công trực tiếp.
Điều quan trọng mà nhân dân và đất nước đang cần ở những người viết lịch
sử là phải vạch rõ cái nguyên nhân sâu xa của mọi hiện tượng suy sụp
của đất nước chính là từ âm mưu tiêu diệt tinh thần Việt, nguyên khí
Việt nằm trong sách lược ngàn năm bành trướng Đại Hán, thể hiện qua tập
đoàn lãnh đạo CSVN kể từ HCM, là tập đoàn đã được khuôn đúc và dung
dưỡng để phục vụ chủ nghĩa Đại Hán. Từ đây mới đi đến kết luận dứt khoát
là phải giải thể chế độ độc tài đảng trị của CSVN thì mới mong có cơ
may thoát khỏi mất nước vào tay Tàu.
Phải làm sao để người trong nước nhìn thấy ngay cái nguy mất nước ở chỗ
nào, thì mới có hiệu quả giải độc và giáo dục quần chúng, giải phóng cả
nước khỏi nạn nội xâm để chung sức chung lòng chống ngoại xâm cứu nước.
Đối tượng quan trọng để vận động chính là những người đang bị áp bức,
những người có tinh thần dân tộc trong nước để tạo thành phong trào quần
chúng rộng khắp.
Chỉ sợ rằng đến khi mà quần chúng nhân dân, trí thức trong và ngoài nước
thấy rõ rệt được bản chất tay sai cho Tàu của những người lãnh đạo đảng
CSVN (vốn đã bộc lộ ngay từ những năm 30), đồng thời thấy rõ âm mưu rất
thâm độc, rất mực kiên trì và khôn khéo của Tàu để trực tiếp hoặc gián
tiếp điều khiển tập đoàn lãnh đạo tay sai đó đưa dần dần đất nước VN vào
tình thế buộc phải chấp nhận trở thành phiên thuộc của Tàu, thì đã quá
muộn rồi-
II. Lãnh tụ của cuộc chiến vì dân chủ và độc lập dân tộc
Tình hình ở VN hiện nay như nước sôi lửa bỏng, tuy rằng nhân tài VN chưa
đến nỗi kiệt quệ, nhất là ở miền Trung và miền Nam do trước đây ở dưới
sự kiểm soát của chính quyền Cộng Hòa nên không bị ảnh hưởng của cuộc
CCRĐ 1956, trong giới trí thức kể cả ở những thành phần trụ cột của chế
độ hầu như đều nhận thấy tính vô năng và suy thoái của chế độ và lãnh
đạo sẽ đưa đến nguy cơ mất nước, và đều muốn thay đổi trước khi quá
muộn, nhưng mối lo lớn nhất là ở chỗ ta có thể có nhiều Nguyễn Trãi mà
không có Lê Lợi, nhiều La sơn phu tử mà không có Nguyễn Huệ... thì đất
nước sẽ tan nát, đại nạn dân mình sẽ lớn lắm...
Cho tới nay, trước mắt người dân, chính quyền và Đảng CSVN chỉ còn đủ
“nhân tài” để đấu đá tranh chấp lẫn nhau quyền lợi, địa vị, bóc lột nhân
dân và làm vừa lòng quan thầy bằng cách đàn áp phong trào đấu tranh yêu
nước. Chính quyền CSVN đang trở thành vô năng lực trong bảo vệ chủ
quyền và quản trị đất nước. Văn hóa xã hội băng hoại khủng khiếp, giáo
dục phá sản đến mức tuyệt vọng, khoa học công nghệ và nền kinh tế sản
xuất thì tụt hậu khiến cho Quốc phòng suy yếu, đối sách chính trị thụ
động và phụ thuộc vào Tàu mọi mặt đến mức chưa từng thấy trong lịch sử.
Đất nước suy yếu đến như vậy mà không rơi vào tay ngoại bang thì mới là
chuyện lạ. Không khó để nhận thấy rằng tới nay trong sách lược bành
trướng thôn tính VN, Tàu đã hầu như thành công trong 2 mục tiêu: Mục
tiêu căn bản là biến miền Bắc vĩnh viễn trở thành lá chắn an toàn che
chở phía Nam nước Tàu, giống như Bắc Hàn là lá chắn phía đông bắc- Mục
tiêu thứ 2 là thôn tính Việt và Đông Dương để bành trướng xuống Nam Á,
tiến ra biển Đông tranh dành ảnh hưởng với Mỹ và Nga, từng bước thực
hiện giấc mộng bá chủ thế giới.
Suy nghĩ theo hướng đó, thì thấy rõ là hành động liên tục trấn áp dân và
liên tiếp nhượng bộ Tàu vừa lén lút, vừa công khai của nhà cầm quyền VN
chứng tỏ Tàu đã nắm được tập đoàn cầm quyền CSVN, nắm được bộ máy công
an... như vậy chính là Tàu đang cai trị VN. Mọi động thái phản kháng
chiếu lệ của nhà cầm quyền CSVN đối với hành vi xâm lược, ngang ngược
của Tàu ở biển Đông và biên giới phía Bắc chỉ là để che mắt thiên hạ để
chuẩn bị giao hết căn nhà VN cho chủ mới là Tàu...
Tuy nhiên, bên này biên giới mong manh của sự bi quan trước hiểm họa mất
nước vào tay Tàu, qua các phong trào chống đối ngày càng lớn mạnh của
tuổi trẻ và người dân trong nước, và xu thế dân chủ hóa trên thế giới,
chúng ta vẫn có thể tin vào tiền đồ của một dân tộc đã chiến đấu mấy
ngàn năm để tồn tại. Ngày nay không còn là thời kỳ của Hung nô và Mông
cổ nữa và nước Việt Nam sẽ không cô đơn trong trận chiến tự vệ, các lân
bang và siêu cường khác sẽ không để cho Tàu, một tên to xác nhưng man
rợ, hành xử ngang ngược, muốn làm gì thì làm đối với sự toàn vẹn lãnh
thồ của Việt Nam vốn là 1 phần thiết yếu đối với nền hòa bình và ổn định
ở Đông Nam Á và thế giới- Đến một lúc nào đó không xa, khi thời cơ đến,
sẽ có một bậc anh hùng xuất đầu lộ diện để lãnh đạo toàn dân trong cuộc
chiến chống xâm lược, dành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước.
Thời cơ đó sẽ đến khi nước Tàu phải đối mặt với nguy cơ động loạn nội
bộ, vì xã hội rộng lớn và nền kinh tế chỉ huy tập trung của Tàu vốn có
nhiều bất cập to lớn mà một hệ thống chính trị độc đoán độc tài phản dân
chủ không thể giải quyết nổi. Với những nhược điểm có tính cơ cấu của
một nước lớn, đất không nuôi nổi dân, Tàu đang bị buộc phải phát triển
theo hướng bá quyền cổ điển, Tàu sẽ bị lôi kéo vào cơn lốc xoáy của
những tranh chấp quốc tế, và chạy đua vũ trang với Mỹ. Tình trạng nổ
tung giống như Liên Xô trước đây đối với Tàu do đó không thể tránh khỏi.
(*4)
Một khi Tàu bị suy thoái kinh tế, biến động xã hội và chính trị sẽ rất
lớn, sẽ có những cuộc nổi dậy của những dân tộc bị áp bức ở Tây Tạng,
Nội Mông, Tân Cương... Tình thế lúc này sẽ tạo điều kiện cho những phong
trào đấu tranh ở VN phát triển rộng đến mọi thành phần dân chúng, nhất
là nông dân, dân nghèo thành thị, và quân đội, là những thành phần bị
chính quyền và đảng CSVN bóc lột đến tận cùng.
Những phản ứng biểu lộ lòng yêu nước trong nhân dân, nhất là tầng lớp
trí thức và sinh viên học sinh nay đã vượt quá mức độ dư luận, tuyên
ngôn tuyên cáo, sáng tác văn thơ yêu nước, những bản nhạc yêu nước. Phản
ứng của người dân Việt trong nước tỏ ra có tiềm năng lan rộng và quyết
liệt dù bị đàn áp và kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, với kỹ thuật kìm kẹp
đàn áp tinh vi của nhà cầm quyền tay sai và sự tác động, can thiệp vừa
trực tiếp vừa gián tiếp của Bắc Kinh, cuộc cách mạng vì dân chủ và độc
lập dân tộc trong nước chỉ có thể thành công khi có được 1 lãnh tụ thực
sự đáp ứng được khát vọng sinh tồn của dân tộc, có khả năng tập hợp được
quần chúng, hoặc thành lập được 1 lực lượng kháng chiến đủ năng lực du
kích chiến để tồn tại và phát triển khi có cơ hội. Người lãnh tụ này chỉ
có thể xuất hiện và hoạt động hiệu quả khi rối loạn xã hội hoặc bạo
loạn xảy ra ở khắp nơi mà chính quyền tay sai không còn kiểm soát nổi.
Hiển nhiên là một lãnh tụ của phong trào quần chúng phải là người của
quần chúng, và phải là 1 chiến sĩ đang cùng đấu tranh với chiến hữu và
đồng bào mình.
Quan sát tình thế hiện nay, nhân dân VN bị chính quyền CS tay sai khống
chế không khác gì thời dưới ách đô hộ của Tàu hoặc Tây. Một lãnh tụ giải
phóng dân tộc nếu có chắc chắn là chưa thể lộ diện, và hiện nay chưa
một ai biết đến, vì nếu lộ diện, sẽ bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa ngay.
Đến lúc thời cơ thuận tiện, vị lãnh tụ này sẽ xuất hiện từ nhân dân như
Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung, từ lực lượng vũ trang như Lê Đại Hành,
hoặc từ chính quyền đương đại như Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo...
Thuận lợi lớn nhất và căn bản cho sự tồn tại của dân Việt, của nước Việt
hiện nay về tinh thần vẫn là niềm tin vào sức sống dân tộc, và về lực
lượng vật chất, nhân sự vẫn là tầng lớp thanh niên sinh viên trí thức,
quân nhân, công nhân, nông dân bị bóc lột, và dân nghèo thành thị, đồng
thời với lực lượng việt kiều, trí thức, khoa học gia, công kỹ nghệ gia
có mặt trên khắp các nước lớn trên thế giới, nhất là ở Mỹ, Pháp, Úc,
Canada... là những nơi người Việt đang từ từ tụ họp với nhau thành những
cộng đồng dân số đủ đông để có sức mạnh chính trị thông qua lá phiếu,
và tổ chức được những hội đoàn sinh hoạt để tương trợ nhau hoặc bảo tồn
văn hóa Việt- Thuận lợi này không thấy có ở những dân tộc khác đang bị
Hán hóa, đang bị CS Tàu đàn áp như Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương.
Trên căn bản những thuận lợi lớn lao đó, nếu tính cho một kế sách lâu
dài và hiệu quả để chống lại nạn bị Hán hóa và mất nước, rõ ràng là phải
củng cố các cộng đồng người Việt, chống chia rẽ, phân hóa nội bộ và âm
mưu phá hoại của nhiều phía và phe nhóm, đồng thời thống nhất mục tiêu,
nội dung và phương pháp hành động trong các công tác chung, điều này khó
thực hiện vì chưa có thống nhất chỉ huy (chưa có lãnh tụ?) và vì bối
cảnh chính trị hiện nay khiến không thể có yểm trợ từ chính quốc như các
sắc dân khác. Trong điều kiện hiện nay, công việc khẩn cấp và quan
trọng nhất là hướng mục tiêu hoạt động cộng đồng vào việc xây dựng thế
hệ kế thừa, bằng cách khuyến khích, giúp đỡ những chương trình, kế hoạch
duy trì và phát huy truyền thống, văn hóa Việt cho cộng đồng người Việt
ở nước ngoài, dạy lịch sử Việt, dạy tiếng dạy chữ Việt và văn hóa Việt
cho thanh thiếu niên Việt ở nước ngoài, như lời nhà học giả Phạm Quỳnh
đã nói: “Tiếng Việt còn, thì nước ta còn”. Mặt cần thiết khác là đầu tư
hoặc ủng hộ các chương trình nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, nhất là
nhân tài, trí thức trong nước, các chương trình cứu trợ trẻ nhỏ, các
nạn nhân của thiên tai, nghèo đói và bất công, kể cả trợ giúp thân nhân
bạn bè đang gặp khó khăn, bao dung và giúp đỡ tinh thần các du học sinh
và lao động hợp tác từ VN qua nếu họ có thành tâm và thiện chí hòa nhập
v.v... Kết quả của những chương trình này không những đáp ứng về mặt
tình cảm và nhân đạo, mà còn là giải pháp khả thi và hiệu quả duy nhất
để thực hiện đoàn kết dân tộc, bồi dưỡng và phát triển nguyên khí dân
tộc.
Việc ủng hộ các chương trình Cứu trợ Y-tế Xã-hội và nâng cao đời sống,
nâng cao dân trí cho đồng bào trong nước dù chỉ đơn giản là vì mục đích
nhân đạo, trước mắt có thể hoặc đã bị không ít người chống đối, sự chống
đối này có lý do chính đáng, là vì tiền bạc vật phẩm cứu trợ cũng đã
rơi nhiều vào tay tham nhũng ở VN, và phải làm những việc mà đáng lẽ là
bổn phận của chính quyền VN. Tuy nhiên, đấu tranh để cấm vận hoặc cô lập
hoàn toàn VN cũng không phải là biện pháp khả thi và hiệu quả. Khách
quan nhận xét, những nước như Bắc Hàn rất cô lập và nghèo đói thì lại
càng lệ thuộc Tàu, và xem như Cuba, bị cấm vận trên 50 năm nay cũng đâu
có sụp đổ? chỉ có dân là tàn mạt thôi. Đồng thời phải tự hỏi xem, thời
xưa nếu không có sẵn Nguyễn Trãi và những nhân tài vật lực trong nhân
dân, thì vua Lê Lợi lấy ai giúp đỡ để chiến đấu chống giặc Minh suốt 10
năm gian lao để cởi ách nô lệ cho dân ta? và vua Quang Trung làm sao
chiến thắng giặc xâm lược Mãn Thanh một cách thần tốc nếu không có sẵn
tướng giỏi, quân khỏe?
Tháng 6-2013
Phạm Dzũng
______________
Chú thích:
(*1) Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất, Bùi Tín: Những bài học còn nóng hổi -
(trích): “….Trong CCRĐ nông dân Việt Nam đã chịu bao nhiêu tổn thất?
Theo thống kê nội bộ của ĐCS (chưa được công khai hóa), ở những vùng đã
làm CCRĐ: ... Vậy là tính sơ sơ, số nạn nhân trực tiếp nói chung lên đến
nửa triệu con người.
- Chưa hết, theo thống kê nội bộ, trong chỉnh đốn tổ chức được tiến hành
ở 2.876 chi bộ ĐCS gồm có 15 vạn đảng viên, đã có đến 84.000 đảng viên
bị xử trí (bị tù, tra tấn, xỉ vả, bị giết) chiếm 47%. Con số khủng khiếp
này - nhiều hơn số địa chủ bị đấu tố - đã được giữ rất kín. Tôi có
những bạn thân, đồng đội cấp trung đoàn (hồi ấy chưa có quân hàm) là
trung đoàn trưởng, tỉnh đội trưởng… bị đánh rụng hết răng, mù mắt, gẫy
chân; một số khi sửa sai thì đã bị lao phổi nặng do phải nằm đất ẩm, chỉ
có manh chiếu rách. Số đảng viên bị tra tấn còn tàn khốc hơn dân thường
vì bị coi là phần tử thù địch chui vào đảng để phá từ bên trong. Hầu
hết là đảng viên trí thức, có trình độ học vấn khá. ….” (ngưng trích).
* Xem thêm: Hồ Chí Minh và Cải Cách Ruộng Đất. Đại Nghĩa:
“Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân (1954-1982) kể lại
trong chuyện “Bí mật HCM” cho chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và
đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của đảng CSVN) như thế nào: “Mùa hè
năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực
hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải
thực hiện CCRĐ…. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng
ta...
Ngay sau khi Bác quyết định cải cách ruộng đất, Trung Quốc đã cử các
đoàn cố vấn sang. Đoàn Cố vấn Cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang, phó
bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, phụ trách”.
* Xem thêm: Bên Thắng Cuộc, Huy Đức, NXB OsinBook, California, USA 2012,
trg 255 “... Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “Chỉnh đốn tổ chức
Đảng và chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội
Nghị Trung ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho đảng”.
(*2) Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 1- http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-1
“... tôi thật sự đau xót vị ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của
Việt Nam trong hoà bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm
chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực.
Trong tập hồi ký của mình13, Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành
phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó
tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm...”
(*3) Xem: Chính Đề (Tùng Phong & Ngô Đình Nhu) http://phamthientho.wordpress.com/2011/07/30/1888/
“... Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa dân
tộc Việt Nam. Để duy trì ách thống trị của mình, các cường quốc xâm lăng
thường áp dụng,đối với các dân tộc bị trị, nhiều biện pháp, tuy có khác
nhau về hình thức, nhưng chung qui vẫn thuộc hai loại chính:
* Ngăn ngừa không để cho các quyền lợi kinh tế thuộc vào tay người bản xứ.
* Kiềm hãm không để cho dân trí phát triển.
Các loại biện pháp thứ nhứt nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.
Các loại biện pháp thứ hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả
năng xửdụng các phương tiện vật chất trên, nghĩa là các nhà lãnh đạo
xứng danh.
Đối với các dân tộc bị trị hai loại biện pháp trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc…
Vì vậy cho nên, đối với một quốc gia mà nền độc lập bị đe dọa hay đã
mất, thì phương pháp hữu hiệu nhứt và điều kiện thiết yếu nhứt để chống
lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo.
Trong thực tế, nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo có nghĩa là tạo hoàn
cảnh thuận lợi để cho cái tinh túy của tập thể hun đúc nên thiểu số
lãnh đạo xứng danh...
Như thế thì, tới đây, chúng ta đã làm sáng tỏ được ba điểm:
1. Việt Nam của chúng ta là một nước nhỏ và yếu lúc nào cũng bị nạn ngoại xâm đe dọa.
2. Trong công cuộc chống ngoại xâm, một khí giới hữu hiệu nhứt là phát triển lãnh đạo.
3. Trong công cuộc phát triển lãnh đạo, điều kiện thiết yếu cần được
thỏa mãn là: Thiểu số lãnh đạo phải thấu triệt vấn đề cần phải giải
quyết của cộng đồng...”
* Xem thêm: Huyền thoại Hồ Chí Minh- Trần Gia Phụng (Đàn Chim Việt- 20/3/2013):
“Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Đảng, các nhà trí
thức khác, và hàng ngàn tín đồ đạo Cao Đài.(5) Việt Minh thủ tiêu tất cả
những ai không theo chủ nghĩa CS và có thể tranh quyền với Việt Minh,
từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng
xã, dù họ là những người yêu nước hay là những nhân tài của đất nước.
Việt Minh gọi hành động nầy là “giết tiềm lực”, tức giết những người có
tiềm lực nguy hiểm cho CS về sau.”
(*4) Xem The coming collapse of China, Gordon G. Chang 2001
(DLB)
Đào Tuấn - Bộ trưởng không nên giật mình
Thủ tướng Thái Lan vừa có quyết định cách chức đối với Bộ trưởng Bộ
Thương mại do chính sách thu mua lúa gạo tạm trữ từ tháng 10/2011 khiến
Chính phủ phải bù lỗ tới 4,5 tỷ USD. Chính sách này khiến giá gạo lên
cao và làm giảm lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cụ thể là
cao hơn giá của Việt Nam, Ấn Độ, khiến Thái Lan mất danh hiệu “nước xuất
khẩu gạo lớn nhất thế giới”.
Đây không phải là một tin sốc. Bởi rất đơn giản, đó là câu chuyện ở
Thái. Người bị cách chức là Bộ trưởng Thương mại Boonsong, người khởi
xướng chương trình thu mua gạo tạm trữ giá cao.
Làm bộ trưởng không dễ, nhất là một bộ trưởng cân bằng được những lợi
ích với những chính sách vừa có lợi cho dân, vừa có lợi cho nước. Nhưng
các bộ trưởng cũng chẳng có gì phải giật mình.
Có một chi tiết đáng chú ý trong bản tin vài trăm chữ này. Thứ nhất,
Chính phủ sẵn sàng bỏ 4,5 tỷ USD trong vòng một năm để mua gạo giá cao
giúp đỡ nông dân. Thái Lan từng cương quyết bán lúa gạo giá cao để nông
dân được lợi và đó gần như là cơ hội duy nhất để Việt Nam “đương nhiên
về nhì” trong top 3 cường quốc bán gạo lớn nhất thế giới.
Nhìn qua Thái Lan, để thấy ở Việt Nam, sẽ chẳng bao giờ có chuyện một
bộ trưởng mất chức vì giá lúa. Nguyên nhân không phải do chúng ta sợ
“thâm hụt” bộ trưởng, sợ không có người làm nếu cách chức (như một vị
lãnh đạo từng trả lời trước Quốc hội), cũng chẳng do thể chế chính
trị, cơ chế trách nhiệm… Có khi đơn giản chỉ bởi chương trình xây kho
(tạm trữ) 4 triệu tấn lúa gạo mà đến giờ vẫn đang đâu đó trên giấy. Kho
tạm trữ không đủ năng lực thì bất cứ bộ trưởng có năng lực nào cũng
lắc đầu, dù muốn mua lúa tạm trữ cho dân đến mấy.
Những tính toán của Cục Trồng trọt cho thấy, đến hết tháng 6, nông dân
ĐBSCL sẽ thu hoạch ngót nghét 1 triệu tấn lúa. Tháng 7, 8, mỗi tháng dự
kiến có thêm 3,7 triệu tấn chờ kho. Như thế là 7 triệu tấn lúa đang
chờ bán.
Lượng lúa nhiều đến đến vậy, trong khi năng lực kho chứa toàn bộ ĐBSCL
chỉ đạt khoảng 2,5 triệu tấn. Một câu hỏi được đặt ra và chờ các vị bộ
trưởng trả lời: 4,5 triệu tấn lúa để đâu?!
Chỉ trong tuần đầu của tháng 6, cả nước đang tồn kho 2,8 triệu tấn gạo
và không phải DN nào cũng có hợp đồng xuất khẩu khi giá gạo xuất khẩu
đang rất thấp. Vì thế, tính chuyện bán tươi 4,5 triệu tấn gạo với mức
giá để nông dân có lãi 30%, không phải là quá khó mà gần như nhiệm vụ
bất khả thi. Bởi chuyện ai cũng nhìn ra là “sức kéo giá” của 1 triệu
tấn lúa tạm trữ là không mạnh mẽ gì.
Quả là làm bộ trưởng không dễ. Song, làm nông dân càng không đơn giản!
Hôm qua, 2 tuần sau khi chủ trương thu mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo hè
thu được triển khai, giá lúa vẫn ì ạch. Tờ Dân Việt cho biết, giá lúa
tươi ở nhiều nơi chỉ còn 3.500 đồng/kg. Ngang với giá bán rơm, thứ phế
phẩm của lúa lâu nay vẫn dùng để đốt hoặc làm thức ăn cho trâu bò. Giá
thấp đến thế, càng trồng càng nợ, càng trồng càng chỉ nhận về rất nhiều
“cái lỗ”.
Giá lúa thấp đến nỗi ở huyện Ba Tri, Bến Tre, tính toán cho thấy tiền
lãi từ lúa còn kém xa so với tiền lãi từ… rơm. Cái khó ló cái khôn,
những người nông dân có sáng kiến dùng nghề trồng lúa để… nuôi bò. Nuôi
bằng rơm, tất nhiên. Và nuôi cả bằng lúa, khi giá lúa thấp hơn cả giá
rơm nuôi bò.
Câu chuyện Ba Tri là một cái lẽ ngậm ngùi. Nhưng nhìn rộng ra, cũng rất
khó tìm nổi những cái “được” của những người làm lúa gạo nhiều thứ nhì
thế giới.
“Bức tranh nông thôn, nông dân VN nhìn từ cuộc điều tra tiếp cận nguồn
lực hộ gia đình” là tên một báo cáo nghiên cứu do Viện Chính sách và
Chiến lược phát triển nông thôn VN công bố mới đây. Và đọc cáo cáo này
người ta thấy rằng sức dân đã kiệt.
42% nông dân đang không hài lòng với cuộc sống hiện tại, trong đó
nguyên nhân lớn nhất là thu nhập không tương xứng với kết quả lao động.
Một nửa các gia đình nông thôn đã và đang chịu các cú sốc về thu nhập.
Cú sốc tập thể, khi cả làng, cả xã, cả huyện, cả tình cùng bị, cùng
gặp thiên tai, bão lũ, dịch bệnh, và cả cơn bão giá. Cú sốc cá nhân khi
gia đình có người ốm đau, kinh doanh thua lỗ và bị thu hồi đất.
Và những cú sốc từ việc phải đương đầu với rất nhiều “bão tố”, điển
hình là bão giá gây thiệt hại kép, không có bảo hiểm, không có thị
trường giao sau, không được dự báo, và mỗi lần ốm đau thì gần như sạt
nghiệp. Các cú sốc có khuynh hướng ngày càng gia tăng, còn nông dân
chống chịu chỉ bằng nguồn thu từ hạt gạo, đang rất rẻ mạt, và bằng “sợi
dây lạt” trong hành vi thắt lưng buộc bụng, thực chất là đang tiêu vào
tương lai hay… tự ăn thịt mình.
Nếu thước đo của người nông dân là làm ra nhiều hạt lúa, thật tình cờ,
có hình dáng không mấy khác giọt mồ hôi, để đất nước từ chỗ đói ăn phải
“vác rá” đi vay bo bo, mì trở thành cường quốc xuất khẩu gạo nhất nhì
thế giới. Thì thước đo của bộ trưởng, dứt khoát phải là đưa giá gạo về
mức để người nông dân không chỉ đủ sống, mà còn có thể làm giàu – một
mơ ước đáng ra là lẽ đương nhiên.
Đào Tuấn(Tuần Việt Nam)
Cuộc chiến đất đai: Khủng hoảng quyền sử dụng đất tại Việt Nam
Chị Siêu cho biết gia đình chị đã sống nhiều thế hệ trên một mảnh đất
nhỏ gắn liền với những cây điều cho tới khi họ trở thành nạn nhân của
một vụ cướp đất bởi một nhóm người địa phương có quyền lực, số phận
chung của những người nông dân bản địa trên những vùng đồi xanh tươi ở
Tây Nguyên.
Theo các nhà hoạt động thì tất cả đất đai trong quốc gia Cộng sản được
Nhà nước sở hữu và quyền sử dụng thường không rõ ràng, cho phép những
viên chức địa phương tham nhũng và những doanh nhân có quan hệ mật thiết
chiếm giữ đất đai mà không bị trừng phạt.
Tây Nguyên từ lâu vốn là một điểm nóng về thái độ bất mãn của dân chúng
liên quan đến quyền sử dụng đất, một phần là do kế hoạch của chính phủ
thu hút các công ty nông nghiệp lớn và những người di dân vùng đồng bằng
tìm kiếm vận may của mình trong các ngành công nghiệp cao su, cà phê và
hạt điều đang phát triển mạnh.
Các số liệu chính thức cho thấy dân số của khu vực này đã tăng từ 1,5
triệu người vào năm 1975 lên đến khoảng 6 triệu người vào năm 2010, dẫn
đến những khiếu nại của người dân tộc thiểu số bản địa bị những người
dân tộc Kinh mới đến, chiếm đến 90% dân số, dùng vũ lực đuổi đi.
Một nhóm nông dân thuộc dân tộc thiểu số Ê Đê đang chuẩn bị đất để trồng khoai mì tại tỉnh Đắc Lắc (Tây Nguyên) vào ngày 12 tháng 03 năm 2013. |
Chị Siêu là người M’Nông, một trong những mảng người dân tộc thiểu số
bản địa tạo nên 10% dân số còn lại của khoảng 90 triệu người dân Việt
Nam.
Chị cho biết cây trái của gia đình đã bị đốn sạch và mồ mả tổ tiên bị
phá hủy vào năm 2011 để mở đường cho một đồn điền cao su được điều hành
bởi một công ty tư nhân với sự hỗ trợ của các quan chức địa phương.
Chị Siêu, 42 tuổi, nói với đài AFP: “Họ nói nếu chúng tôi không đi họ sẽ
đánh đập và giết chúng tôi. Không có bồi thường gì cả. Họ chặt hết cây
của chúng tôi. Chúng tôi đã mất hết mọi thứ – đất đai và cây trồng của
chúng tôi”.
“Hầu hết đất đai trong khu vực chúng tôi hiện nay thuộc về những người có tiền. Nhiều người trong số họ là người Kinh”, chị nói.
“Hiện nay cộng đồng người M’Nông chúng tôi không có nhiều đất đai. Chúng
tôi đã bị đuổi ra khỏi khu vực mà chúng tôi đã sống qua nhiều thế hệ.
Chúng tôi bị buộc phải trở thành những người lao động nông nghiệp” chị
Siêu nói thêm.
Nhiều bộ tộc địa phương như vậy – được gọi chung là người Thượng – đã
sát cánh với miền Nam được Mỹ hậu thuẫn trong cuộc chiến kéo dài nhiều
thập niên của Việt Nam. Một số đang kêu gọi thêm quyền tự trị, trong khi
những người khác ở nước ngoài thậm chí còn ủng hộ sự độc lập cho khu
vực.
Những vụ biểu tình lớn cuối cùng phản đối việc đất đai truyền thống bị
mất cho những vụ trồng rừng quy mô lớn diễn ra năm 2004 và chính quyền
vẫn đang săn lùng những người liên quan. Mới đây, 8 người đã bị tuyên án
những mức án lên đến 11 năm tù giam cho một vụ biểu tình vào năm 2002.
Cách đây ba thập niên, trước khi Việt Nam bãi bỏ tập thể hóa và bắt đầu
quá trình cải cách thị trường, các vụ tranh chấp đất đai phần lớn dựa
trên số liệu thống kê dân số và lịch sử và tập trung vào những “điểm
nóng” như Tây Nguyên.
Nhưng khi đất nước phát triển và giá trị đất đai gia tăng, sự rắc rối lan sang những thành phố có giá đất cao hơn.
Người ta nhận ra rằng, bằng việc sở hữu đất gần thành phố, họ có thể
“kiếm được rất nhiều tiền hơn” so với từ các đồn điền cà phê xa xôi,
giáo sư Adam Fforde, một chuyên gia về Việt Nam của trường Đại học
Victoria ở Úc, nói.
Theo cụ Lê Hiền Đức, một nhà hoạt động đã trên 80 tuổi, người bắt đầu
làm việc về những vấn đề đất đai vào thập niên 1980 – những vụ cướp đất
trước đây biệt lập nay đã trở nên “tràn lan”.
“Các viên chức địa phương đã cướp đất của dân làng vì lợi ích”, cụ Đức
(người trước đây từng giúp việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập
tôn kính của đất nước) nói.
Dân làng không có cách nào đòi bồi thường, khi chính quyền địa phương –
nơi đầu tiên để họ khiếu kiện – thường có liên quan đến những vụ mua bán
đất đai tham nhũng, bà nói vậy khi kêu gọi một đạo luật đất đai rõ ràng
và một đợt phát động chống tham nhũng nghiêm túc
Trên toàn quốc, khoảng 70% đơn thư khiếu nại gửi đến chính quyền có liên quan đến đất đai.
“Nhưng không có giải pháp”, cụ Đức nói, “người ta bị đá lòng vòng như
trái banh giữa các cấp chính quyền – xã, huyện, tỉnh. Cuối cùng, họ đổ
về Hà Nội”.
Chị Siêu đã đến Hà Nội 3 lần – với chi phí cá nhân tốn kém – để nộp đơn
khiếu kiện hầu mong lấy lại đất của mình ở Tây Nguyên, nhưng không thành
công. Chị không đơn độc trong nỗ lực của mình.
Bất kể mưa nắng hay bị công an đàn áp, người ta có thể thấy những người
biểu tình đứng ở một góc phố đông người gần những tòa nhà chính quyền ở
trung tâm Hà Nội, nắm trong tay những tấm biểu ngữ viết bằng tay kể chi
tiết những khiếu nại đất đai của họ.
“Tôi đã ở đây được 4 tháng rồi. Công an đã cố đuổi tôi đi nhiều lần.
Nhưng tôi sẽ không bỏ đi – chúng tôi sẽ không bỏ đi – cho đến khi họ
giải quyết vấn đề này”, bà Đỗ Thị Ngọc Nguyên, một người đến từ tỉnh
Đồng Nai ở miền Nam, nói.
Với tất cả đất đai do nhà nước sở hữu, người dân phải dựa vào giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, nhưng trong thực tế họ được bảo vệ rất kém.
Vấn đề được đặt ra trở nên gay gắt hơn trong năm nay với việc hết hạn
hợp đồng thuê sử dụng đất 20 năm, mang lại cho nhiều nông dân yêu sách
hợp pháp nào đó đối với đất đai của họ. Chính phủ đã không làm rõ là vấn
đề sẽ được giải quyết như thế nào.
“Việc cướp đất đai, bởi chính quyền địa phương, các viên chức và các
doanh nghiệp, là nguồn gốc của tất cả mọi bất ổn mà chúng ta thấy”, một
học giả Việt Nam hàng đầu ở Hà Nội nói với điều kiện giấu tên, dẫn ra
càng ngày nhiều vụ phản đối tại thủ đô.
“Dân làng luôn bị thua cuộc”, ông nói, giải thích rằng chính quyền sung
công đất đai với danh nghĩa “lợi ich công cộng” chỉ để bán cho những
người phát triển để xây dựng những ngôi nhà đắt tiền và các khu trung
tâm mua sắm.
Công luận kiên quyết đứng về phía những người phản đối về chuyện đất đai.
Nông dân Đoàn Văn Vươn đã trở thành một người hùng của dân chúng sau khi
sử dụng súng tự chế để chống lại vụ cưỡng chế trục xuất vào năm ngoái –
vụ xô xát đã khiến một trang blog được nhiều người biết đến đặt cho ông
danh hiệu “Người của Năm 2012”. Ông đã bị cầm tù 5 năm vào tháng 4 vừa
rồi”.
Một người bảo vệ đất đai khác đã trả một cái giá khác. Ông Lê Thạch Bàn,
74 tuổi, đi khập khiễng sau vụ ông bị những tên côn đồ tấn công vào năm
ngoái, khi ông từ chối giao đất cho một dự phát triển đô thị tại Hưng
Yên, một tỉnh gần Hà Nội.
“Phổi tôi bị thủng và đầu bị nhiều chấn thương, gẫy 3 xương sườn và phải
nằm 23 ngày ở bệnh viện”, ông cho biết, đồng thời tuyên bố sẽ ở lại bất
chấp những nỗ lực hòng đuổi ông đi.
Ông nói: “Chúng tôi sẽ bảo vệ đất đai vốn thuộc về tổ tiên của chúng tôi”.
Bản dịch của Lâm Thành Nhân
Theo: Bangkok Post
(Defend the Defenders)
Vì sao giá vàng không thu hẹp?
Sáng nay (2/7) phiên đấu thầu vàng đầu tiên sau khi quá trình vàng tất
toán dành cho các ngân hàng đã kết thúc, đây sẽ được xem là “phép kiểm
tra” cho nhu cầu vàng thực sự của người dân trong nước. Tìm hiểu về vấn
đề này, Vũ Hoàng có cuộc trao đổi với PGS, TS Ngô Trí Long một chuyên
gia kinh tế của Hà Nội để tìm hiểu về diễn biến này và những vấn đề có
liên quan khác.
Bất cập thị trường vàng
Vũ Hoàng: Trước hết cám ơn P.G.S, T.S Ngô Trí Long đã cho phép chúng
tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này. Thưa ông mấy ngày gần đây, tình hình
diễn biến của thị trường vàng trong nước rất nhiều thay đổi, mà cụ thể
là giá vàng liên tiếp sụt giảm, ông đánh giá về diễn biến này như thế
nào ạ?
PGS.TS Ngô Trí Long: Giá vàng vừa rồi diễn biến trong nước giảm xuống là
theo giá vàng thế giới, vì giá vàng thế giới giảm rất sâu, hiện nay
khoảng 1.200 đô la, mà thời kỳ cao nhất là 1.800 đô la. Đây là thời kỳ
giảm sâu nhất của nó, vì giá vàng trong nước hoàn toàn phụ thuộc vào giá
vàng thế giới, khi giá vàng thế giới giảm thì giá vàng trong nước cũng
giảm. Nhưng sự cách biệt và tốc độ giảm của giá vàng trong nước vẫn chậm
hơn so với thế giới, cho nên vẫn có khoảng chênh lệch giữa giá vàng
trong nước và thế giới.
Hiện nay chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới là khoảng 5
triệu đồng/ 1 lượng, khoảng cách này tương đối là xa. Giai đoạn bình
thường nhất từ trước Nghị định 24, giá vàng trong nước chỉ giảm khoảng
từ 200, 300 hoặc 400.000 đồng thậm chí hơn 1 triệu, nhưng trong bối cảnh
hiện nay, nó giảm rất sâu.
Vũ Hoàng: Vậy theo T.S ngoài lý do là tác động chung của thị trường
thế giới, những điều tiết của Nhà nước mà vẫn hay nói “chỉ điều tiết mà
không bình ổn giá vàng” có ảnh hưởng gì đến những diễn biến gần đây
không ạ?
PGS.TS Ngô Trí Long: Mục đích của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam là
trong quá trình khi vàng của VN cách xa với thế giới và khi 5 ngân hàng
cùng với một công ty vàng tung vàng ra bán để đáp ứng nhu cầu, sau khi
họ bán xong thì không cho họ nhập, nên cuối cùng làm cho lượng vàng của
các ngân hàng bị sụt giảm rất lớn. Và theo quyết định của NHNN 30/6 là
tất toán toàn bộ trạng thái vàng của các NH. Để đáp ứng nhu cầu đó, NHNN
đã tung vàng ra để đấu thầu, nhằm cân bằng cung cầu. Mặc dù, lượng tung
ra rất lớn nhưng giá vàng vẫn không thu hẹp.
Nguyên nhân của giá vàng không thu hẹp, một là, do cầu vàng của Việt Nam
vẫn còn lớn, thứ hai, khi đưa vàng ra đấu thầu, NHNN lại đặt giá sàn
sát với giá thị trường trong nước, mà giá vàng trong nước lại cao hơn
giá vàng thế giới vào khoảng 5-6 triệu đồng/ lượng, chính vì lý do đó,
làm cho khoảng cách của giá vàng trong nước luôn luôn cách xa giá vàng
thế giới mặc dù NHNN có tung một lượng vàng rất lớn ra để cân đối cung
cầu trên thị trường, nhưng giá vàng trong nước cũng không sát được với
giá vàng thế giới.
Vàng miếng thương hiệu quốc gia SJC - RFA |
Nghị định 24
Vũ Hoàng: Cám ơn T.S, vào sáng ngày 2/7, NHNN sẽ tiến hành phiên đấu
thầu vàng mới và đây là phiên đầu tiên sau khi quá trình tất toán vàng
cho các ngân hàng đã kết thúc và phiên sáng 2/7 được xem là thước đo cho
nhu cầu thực sự của người dân trong nước phải vậy không ạ?
PGS.TS Ngô Trí Long: Nhu cầu vàng của VN hiện nay có 2 nguồn chính, một
là của các ngân hàng đang còn thiếu trong trạng thái tất toán, đồng thời
có một số ngân hàng không được Nhà nước cho độc quyền về xuất nhập
khẩu, họ không được quyền xuất nhập khẩu, cho nên nguồn vàng từ NHNN đối
với họ để làm lượng bán ra cho thị trường cũng là nhu cầu thứ nhất.
Ngoài ra, nhu cầu thứ hai là đối với người dân. Mặc dù trong bối cảnh
đến 30/6 là buộc các ngân hàng phải đóng trạng thái, tất toán toàn bộ
trạng thái vàng thì nhu cầu vàng trong nền kinh tế quốc dân vẫn còn, thế
cho nên NHNN vẫn tiếp tục tung vàng ra với hình thức đấu thầu nhằm cung
cấp một lượng vàng cho thị trường. Theo tôi được biết, vào ngày mùng 2,
NH sẽ đưa ra một lượng tiếp để đưa ra đấu thầu với giá sàn, chào ban
đầu là 36,8 triệu.
Vũ Hoàng: Vâng, vậy theo đánh giá của ông, trong ngắn hạn và dài hạn, giá vàng và nhu cầu vàng sẽ như thế nào ạ?
PGS.TS Ngô Trí Long: Nói chung hiện nay, dù là trong ngắn hạn hay dài
hạn, trước mắt là ngắn hạn, nhu cầu vàng đối với thị trường vàng Việt
Nam rất lớn vì thị trường chứng khoán còn èo uột, thị trường bất động
sản không có lối ra, đang đóng băng, sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều
khó khăn, cho nên, hiện nay kênh đầu tư chủ yếu đối với người Việt Nam,
đồng thời, do tâm lý về kinh tế vĩ mô là không ổn định, lạm phát vẫn có
khả năng quay trở lại. Cho nên tâm lý của nhà đầu tư Việt Nam phần lớn
vẫn đầu tư vào vàng.
Mặc dù trong mấy ngày hôm nay, giá vàng thế giới lên xuống thất thường,
đặc biệt xuống rất sâu thì dân Việt Nam đổ xô đi mua vàng. Trước mắt,
ngắn hạn là như vậy. Còn trong dài hạn, vàng vẫn là một kênh đầu tư,
đồng thời với tập quán truyền thống của người Việt Nam thì người ta vẫn
đầu tư vào vàng, là một trong những kênh hết sức quan trọng.
Cho nên đòi hỏi sau hơn một năm thực hiện Nghị định 24, nghị định này đã
bộc lộ một số bất cập. Vì thế, theo quan điểm của tôi, Nhà nước cần
phải nắm được những bất cập của nghị định này, xem những gì còn tồn tại
mà không đi vào cuộc sống và chưa ổn định, đòi hỏi phải sửa đổi cho phù
hợp để làm sao quản lý thị trường vàng một cách hiệu quả và tốt nhất.
Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối thưa T.S, ông có dành một lời khuyên nào đối với những người muốn đầu tư vào thị trường vàng Việt Nam không ạ?
PGS.TS Ngô Trí Long: Ai muốn đầu tư vào thị trường vàng Việt Nam cần
phải xem xét Nghị định 24 bởi nghị định này không phù hợp với thông lệ
quốc tế, không phù hợp với điều kiện thị trường trong điều kiện hội
nhập. Theo quan điểm cá nhân tôi, Nghị định 24 vẫn còn nhiều bất cập và
nhiều bộc lộ đòi hỏi phải sửa đổi.
Vũ Hoàng: Xin được cám ơn PGS TS Ngô Trí Long rất nhiều đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn hôm nay.
Thưa quí vị, nghị định 24 do Thủ tướng ký ban hành ngày 3/4/2012, Chính
phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất
quản lý các hoạt động kinh doanh vàng theo quy định. Theo nhiều chuyên
gia đánh giá Nghị định 24 nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ và tiến tới xóa
bỏ tình trạng "vàng hóa" nền kinh tế... Với động thái này, NHNN sẽ là
người dập ra vàng SJC (loại vàng miếng duy nhất hợp pháp trong nền kinh
tế VN) sau đó bán đầu tiên và qua đó xác định giá vàng trong nước.
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2013-07-02
Ai bảo lãnh Chủ tịch Vĩnh Hưng vay hàng trăm tỷ?
Ông chủ
Vĩnh Hưng, Megastar thế chấp dự án để vay vốn, trong đó rất nhiều dự án mặc dù
chưa được Sở xây dựng cấp phép nhưng vẫn được đảm bảo, cho vay.
Sau hàng loạt vụ bê bối liên quan đến các dự
án bất động sản tầm cỡ ở Hà Nội, mới đây nhất, PC46 Công an Hà Nội đã
tiến hành bắt khẩn cấp, khởi tố bị can Nguyễn Hoàng Long về
hành vi “Lừa đảo, chiếm đoạt tài sản”. Cơ quan công an cũng làm rõ nhiều vấn đề
liên quan đến quá trình huy động vốn, thế chấp dự án để vay vốn đối với ông
Nguyễn Hoàng Long.
Một điều đáng quan tâm là
đến thời điểm thế chấp dự án để vay vốn, một số dự án của ông chủ Vĩnh
Hưng và Vina Megastar chưa được Sở xây dựng Hà Nội cấp phép. Thế nhưng, những bộ
hồ sơ này vẫn “lọt” vào hệ thống, dù rằng, quá trình thẩm định năng
lực tài chính, năng lực pháp lý là hết sức nghiêm ngặt. Sau khi
tiến hành thế chấp các dự án này,
ông Nguyễn Hoàng Long đã vay được hàng trăm tỷ.
Sở Xây dựng TP Hà Nội xác nhận với báo
VietNamNet hàng loạt các dự án: 409 Lĩnh Nam, Hesco Văn Quán, C2 Xuân Đỉnh của
Công ty cổ phần tập đoàn Vina Megastar (Vina Megastar) đều chưa xin phép và chưa
được Sở xây dựng cấp giấy phép xây dựng.
Dự án Hesco Văn Quán từng là niềm hy vọng có nhà ở của nhiều người giờ vẫn là bãi đất hoang. |
Một cán bộ Sở Xây dựng Hà Nội cho biết, từ năm
2012 đến đầu năm 2013, thành phần hồ sơ của các dự án này chưa được nộp về Sở.
Theo giải thích của cán bộ này thì những trường hợp như vậy có thể do chủ đầu tư
chưa thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài chính, thiếu các giấy tờ quy hoạch…
Đối với dự án 409 Lĩnh Nam, kết quả giám sát
của HĐND thành phố Hà Nội cho thấy, quá trình triển khai dự án này có quá nhiều
nhiều sai phạm: tự điều chỉnh quy hoạch, chưa làm thủ tục điều chỉnh đã triển
khai xây dựng...
Thông tin từ đơn vị quản lý dự án 409 Lĩnh Nam
– Quận Hoàng Mai – TP Hà Nội cho biết: năm 2011 chủ đầu tư đã cho khởi công dự
án dù chưa được cấp phép. Địa phương đã có biên bản xử lý và đã báo cáo lên UBND
TP Hà Nội.
Việc nhiều dự án của ông Nguyễn Hoàng Long
chưa được cấp phép xây dựng, chưa hoàn thành các nghĩa vụ về pháp lý nhưng vẫn
được giải ngân số tiền hàng trăm tỉ khiến dư luận đặt câu
hỏi: Động cơ nào khiến ông chủ Vina Megastar được cho vay? Việc giải ngân, cho vay như thế có đúng với quy định của
Ngân hàng nhà nước hay không?
Điêu đứng với Vina Megastar
Việc ông Nguyễn Hoàng Long - Chủ tịch HĐTV công ty TNHH kinh doanh nhà Vĩnh
Hưng, Vina Megastar bị bắt khiến những khách hàng của các dự án rơi vào hoàn
cảnh điêu đứng. Bởi, hàng trăm tỉ có nguy cơ biến mất theo những thương vụ của
Nguyễn Hoàng Long.
Nhiều khách hàng
cho biết từ năm 2009 họ đã
cho Công ty Hạ Long đại diện là ông Phạm Như Quỳnh vay vốn đề kinh doanh
dự án 409 Lĩnh Nam. Theo đó, những khách hàng này sẽ được ưu tiên mua
căn hộ hình thành trong
tương lai của dự án với giá 12 triệu đồng/m2.
Sau gần 3 năm khởi công, dự án vẫn giữ thế
“đắp chiếu”. Đến đầu năm 2012 nhiều nhà đầu tư vội vã xin rút vốn khỏi dự án.
Tuy nhiên, khi tìm đến Công ty Hạ Long rút vốn thì khách hàng nhận được câu trả
lời: toàn bộ số tiền đã được chuyển cho Công ty Vĩnh Hưng, muốn đòi thì đến
Công ty Vĩnh Hưng mà đòi. Đến Vĩnh Hưng, người đại diện lại thoái thác: qua Hạ
Long mà đòi. Cứ thế, quả bóng trách nhiệm được đá đi đá lại, lăn tròn trên quyền
lợi của khách hàng.
Dự án 409 Lĩnh Nam được vẽ đẹp lung linh giờ cũng là bãi đất hoang. |
Một khách hàng tại dự án cho biết: “Tháng
8/2011, tôi có mua lại một “suất” tại dự án với giá hơn 16,5 triệu đồng/m2. Sau
một thời gian, phát hiện chủ đầu tư có nhiều dấu hiệu lừa đảo, chúng tôi đã chạy
vạy đi đòi lại tiền nhưng vẫn vô vọng. Thậm chí, ông Phạm Như Quỳnh – Công ty Hạ
Long còn đem xã hội đen để giải quyết vấn đề với khách hàng.
Thông tin từ khách hàng cho biết đầu năm 2013,
nhiều khách hàng nhận được thông báo chuyển hợp đồng đầu tư từ Công ty Hạ Long
sang Công ty Vĩnh Hưng đi kèm những điều khoản nửa vời. Trong đó có không ít
khách hàng đã thực hiện hợp đồng chuyển đổi.
Một khách hàng khác bức xúc cho biết:
“Chuyện doanh nghiệp – ngân hàng lục đục không phải là vấn đề chúng tôi quan tâm.
Đó là hoạt động kinh doanh là chuyện nội bộ giữa các bên. Bản thân khách hàng
góp vốn vào dự án chỉ biết rằng chúng tôi thực hiện đầy đủ hợp đồng ký kết nhưng
đến nay dự án vẫn không thực hiện. Tìm đến Công ty Hạ Long, Công ty Vĩnh Hưng
hay phía Megastar để được thanh lý hợp đồng cũng không được.
Khách hàng chúng tôi bị “đem con bỏ chợ”.
Vấn đề đặt ra liệu Công ty Vĩnh Hưng có khả năng để thực hiện tiếp các dự án? Và
số tiền hàng trăm tỷ đồng khách hàng đã nộp cho Vĩnh Hưng để sở hữu căn hộ tại
409 Lĩnh Nam có được biến thành nhà hoặc trả lại cho khách hàng hay không?”
Hàng
trăm tỉ mà khách hàng đầu tư vào các dự
án của ông Nguyễn Hoàng Long đang có nguy cơ mất trắng. Hàng trăm tỉ
đồng đã được giải ngân cho ông chủ Công ty Vĩnh Hưng bằng việc thế chấp
những dự án
– dù rằng những dự án này chưa được cấp phép xây dựng khiến dư luận hoài
nghi về
những thế lực ngầm đã thao túng tiền bạc.
TRÍCH QUY CHẾ CHO VAY CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG
(Ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước)Điều 7. Điều kiện vay vốn
Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
1. Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật:
a) Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:
- Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;
- Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
b) Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
2. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
3. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.
5. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Điều 25. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng
1. Tổ chức tín dụng có quyền:
a) Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay;
b) Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn, dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ nguồn vốn để cho vay;
c) Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng;
d) Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng;
Vụ “vỡ trận” bến xe Mỹ Đình: Báo cáo Thủ tướng nhiều nội dung “bất thường”
Mặc dù Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo UBND TP. Hà Nội báo cáo
kết quả xử lý những bất cập tại bến xe Mỹ Đình lên Thủ tướng trước ngày
15/6, nhưng mãi đến ngày 21/6, UBND TP. Hà Nội mới có báo cáo gửi Thủ
tướng về vụ việc trên.
- >> Bài 15: Vụ “vỡ trận” bến xe Mỹ Đình: Thêm văn bản “khóc mướn” cho “nhóm lợi ích”
- >> Bài 14: Vụ “vỡ trận” bến xe Mỹ Đình: “Nhóm lợi ích” tiếp tục “diễn trò”
- >> Bài 13: Vụ “vỡ trận” bến xe Mỹ Đình: Xuất hiện bản kiến nghị “lạ đời”
Điều đáng nói là tại báo cáo này, UBND TP. Hà Nội đã báo cáo nhiều nội
dung “bất thường” khác xa với tình trạng quá tải trầm trọng, hiện tượng
“xe dù”, “bến cóc” gia tăng và những bất cập trong việc cấp phép các
tuyến tại bến xe khách Mỹ Đình.
Các
cơ quan báo chí đặc biệt quan tâm và phản ánh bóng dáng “nhóm lợi ích”
đang cố thủ “chống” chủ trương chung - là tác nhân chính gây ra việc
"vỡ trận" bến xe Mỹ Đình, kéo theo cảnh “xe dù, bến cóc” hoành hành, ùn
tắc giao thông, gây nhức nhối dư luận.
Cụ thể, điều bất thường thứ nhất là ngày 28/5, Văn phòng
Chính phủ đã có công văn hỏa tốc số 4293/VPCP-TTĐT gửi UBND TP. Hà Nội,
Bộ GTVT, Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia nêu rõ:
Trong thời gian qua, một số báo (Báo Dân trí đăng 8 bài liên tiếp – PV)
đăng loạt bài viết phản ánh tình trạng quá tải trầm trọng, hiện tượng
“xe dù”, “bến cóc” gia tăng và những bất cập trong việc cấp phép các
tuyến xe tại bến xe khách Mỹ Đình (Hà Nội), gây ảnh hưởng trật tự an
toàn giao thông khu vực, có biểu hiện tiêu cực tham nhũng...
Về vấn đề này, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Ủy
ban An toàn giao thông Quốc gia giao UBND TP. Hà Nội kiểm tra, làm rõ sự
việc báo nêu; Chủ trì, phối hợp với Bộ GTVT, Ủy ban An toàn giao thông
quốc gia có biện pháp xử lý triệt để những bất cập trong tổ chức hoạt
động của các bến xe khách trên địa bàn TP. Hà Nội, bảo đảm an toàn giao
thông, an ninh trật tự trên địa bàn Thủ đô; báo cáo kết quả lên Thủ
tướng Chính phủ trước ngày 15/6/2013.
Tuy nhiên, cho đến mãi ngày 21/6/2013 (chậm 6 ngày so với thời
gian Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo), thì ông Nguyễn Văn Sửu,
Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội mới ký văn bản số 110A báo cáo Thủ tướng về
vụ việc trên.
Điều bất thường thứ hai của văn bản số 110A báo
cáo Thủ tướng là: Tại văn bản này UBND TP. Hà Nội thừa nhận tình trạng
quá tải của bến xe Mỹ Đình lên đến hơn 400 lượt xe xuất bến/ngày (công
suất thiết kế của bến xe Mỹ Đình là 800 lượt xe xuất bến/ngày), nhưng
trong cả 7 trang báo cáo, UBND TP. Hà Nội không chỉ rõ trách nhiệm làm
“vỡ trận” bến xe Mỹ Đình thuộc về cá nhân ai? Và đến ngày ký văn bản
trên (21/6), bến xe này đã giảm tải được bao nhiêu lượt xe xuất bến? Do
vậy, với cách báo cáo kiểu chung chung, chịu trách nhiệm tập thể như
trên có lẽ bến xe Mỹ Đình còn tiếp tục phải hứng chịu cảnh “vỡ trận”,
quá tải nghiêm trọng trên.
Từ năm 2006, Sở
GTVT Hà Nội đã khẳng định công suất tối đa của bến xe Mỹ Đình là 800
lượt xe trên/ngày. Vậy mà "nhóm lợi ích" đã thả cửa bổ sung thêm gần
500 lượt xe xuất bến/ngày tại bến Mỹ Đình khiến bến xe này "bội thực"
và "vỡ trận", hậu quả đổ lên đầu hàng triệu hành khách/năm.
Điều bất thường thứ ba của văn bản số 110A báo cáo Thủ
tướng là: Trước tình trạng bến xe Mỹ Đình “vỡ trận”, ngày 2/4/2013, Sở
GTVT đã có tờ trình số 391/TTr-SGTVT gửi UBND TP. Hà Nội kiến nghị di
chuyển 525 phương tiện thuộc 59 đơn vị vận tải đang hoạt động tại bến
xe Mỹ Đình. Nhưng đến ngày 18/4/2013, UBND TP. Hà Nội lại ban hành công
văn hồi âm không rõ ràng, chỉ nhấn mạnh việc xử lý tình trạng xe dù,
bến cóc, mà không trả lời dứt khoát là có đồng ý, hay bác đề xuất trên
của Sở GTVT Hà Nội. Do vậy, cho đến ngày hôm nay kế hoạch di chuyển 525
phương tiện ra khỏi bến Mỹ Đình vẫn chỉ nằm trên giấy. Tuy vậy, tại
văn bản báo cáo Thủ tướng, UBND TP. Hà Nội vẫn không nhìn thẳng vào sự
thật này, mà dành hẳn 1 trang giải trình rất chung chung, và rốt cuộc
là vẫn không nói rõ là đồng ý hay bác đề xuất di chuyển 525 phương tiện
để giảm tải bến xe Mỹ Đình theo tờ trình của Sở GTVT Hà Nội.
Điều bất thường thứ tư của văn bản số 110A báo cáo Thủ
tướng là: Sau khi Báo Dân trí và một số cơ quan báo chí khác phản ánh
dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng trong quá trình tiếp nhận, bổ sung xe vào
bến Mỹ Đình, đáng lẽ ra UBND TP. Hà Nội phải thành lập tổ công tác xác
minh cụ thể vấn đề, kết quả ra sao khi đó mới báo cáo lên Thủ tướng
Chính phủ. Nhưng tại văn bản số 110A, UBND TP. Hà Nội lại dựa vào văn
bản số 14/2013/HH-CV ngày 23/5/2013 của Hiệp hội Vận tải (Báo Dân trí đã có bài phân tích những "bất thường" của văn bản này)
cho rằng bến xe Mỹ Đình không quá tải, hoạt động bình thường để kết
luận rằng “chưa phát hiện những hiện tượng tiêu cực, tham nũng như báo
chí phản ánh” là thể hiện sự thiếu trách nhiệm, thiếu khách quan của
UBND TP. Hà Nội trong việc làm rõ nội dung này theo ý kiến chỉ đạo của
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Văn bản của UBND TP. Hà Nội báo cáo Thủ tướng Chính phủ chậm 6 ngày
(Ảnh: Vũ Văn Tiến)
|
Theo thống kê của Sở GTVT Hà Nội cho thấy, hiện nay, tổng số lượt phương
tiện vận tải khách liên tỉnh/ngày tại 6 bến xe khách liên tỉnh của
Thành phố (gồm các bến Mỹ Đình, Giáp Bát, Nước Ngầm, Yên Nghĩa, Gia Lâm,
Lương Yên) là 3.630 lượt xe/ngày, trong khi đó tổng công suất thiết kế
của 6 bến xe là 5.150 lượt xe/ngày. Tức là nếu thực hiện việc điều
chuyển phương tiện theo đúng quy hoạch của UBND TP. Hà Nội thì đâu có
chuyện thiếu chỗ "Tái định cư" cho phương tiện như ông Chủ tịch Hiệp hội
viện dẫn để bảo vệ cho thủ phạm gây nên cảnh "vỡ trận" bến xe Mỹ Đình.
Trong loạt bài điều tra “Vụ “vỡ trận” bến xe Mỹ Đình”, Báo Dân trí đã chỉ rõ: Chính Sở GTVT Hà Nội là đơn vị ban hành hàng loạt văn bản chấp thuận cho doanh nghiệp đưa xe mới vào bến Mỹ Đình hoạt động, mặc dù từ năm 2009, Sở GTVT Hà Nội đã có Thông báo số 1382 yêu cầu không bổ sung xe vào bến Mỹ Đình.
Đến nay, có thể khẳng định Sở GTVT Hà Nội là tác nhân chính gây ra cảnh “vỡ trận” bến xe Mỹ Đình.
Có thể hệ thống những văn bản do Sở GTVT Hà Nội ban hành đã liên tiếp gây “nhiễu loạn” hạt động vận tải ở Thủ đô như sau: Năm 2009, Sở GTVT Hà Nội ban hành Thông báo 1382 yêu cầu không tiếp nhận bổ sung xe vào bến Mỹ Đình. Nhưng sau đó, Sở GTVT Hà Nội chấp thuận cho hàng loạt xe vào bến này hoạt động gây ra cảnh “vỡ trận”.
Đầu tháng 4/2013, Sở GTVT Hà Nội có phương án điều chuyển các xe khách chạy từ Thái Bình, Nam Định, Hòa Bình, Lai Châu, Điện Biên đến bến Mỹ Đình về bến Yên Nghĩa, Gia Lâm.
Ngày 3/6/2013, Sở GTVT Hà Nội có kế hoạch điều chuyển 313 lượt xe tuyến Thái Bình, Nam Đình, Hà Nam, Hòa Bình từ bến xe Mỹ Đình về bến Yên Nghĩa, Nước Ngầm, Gia Lâm.
Ngày 5/6/2013, Sở GTVT Hà Nội lại có thông báo điều chuyển các xe tuyến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh từ bến xe Mỹ Đình về bến Yên Nghĩa, Nước Ngầm.
Chưa dừng lại, ngày 25/6/2013, Sở GTVT Hà Nội lại có văn bản chỉ điều chuyển tuyến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh từ bến xe Mỹ Đình về bến Yên Nghĩa, Nước Ngầm đối với các xe vào bến Mỹ Đình sau ngày 14/10/2009 (ngày ban hành Thông báo 1382).
Liệu trong quá trình thực hiện giảm tải bến Mỹ Đình, Sở GTVT Hà Nội còn ban hành bao nhiêu văn bản thay đổi kiểu "tiền hậu bất nhất" như trên nữa? Quan trọng hơn, liệu kế hoạch giảm tải để cứu bến Mỹ Đình khỏi cảnh “vỡ trận” có được thực hiện như lời hứa của ông Nguyễn Quốc Hùng, Giám đốc Sở GTVT Hà Nội? Hay các kế hoạch này lại tiếp tục thay đổi, “nói không đi đôi với làm” như tiền lệ quản lý ở Sở này (?!).
Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên.
Vũ Văn Tiến
(Dân trí)
Trong loạt bài điều tra “Vụ “vỡ trận” bến xe Mỹ Đình”, Báo Dân trí đã chỉ rõ: Chính Sở GTVT Hà Nội là đơn vị ban hành hàng loạt văn bản chấp thuận cho doanh nghiệp đưa xe mới vào bến Mỹ Đình hoạt động, mặc dù từ năm 2009, Sở GTVT Hà Nội đã có Thông báo số 1382 yêu cầu không bổ sung xe vào bến Mỹ Đình.
Đến nay, có thể khẳng định Sở GTVT Hà Nội là tác nhân chính gây ra cảnh “vỡ trận” bến xe Mỹ Đình.
Có thể hệ thống những văn bản do Sở GTVT Hà Nội ban hành đã liên tiếp gây “nhiễu loạn” hạt động vận tải ở Thủ đô như sau: Năm 2009, Sở GTVT Hà Nội ban hành Thông báo 1382 yêu cầu không tiếp nhận bổ sung xe vào bến Mỹ Đình. Nhưng sau đó, Sở GTVT Hà Nội chấp thuận cho hàng loạt xe vào bến này hoạt động gây ra cảnh “vỡ trận”.
Đầu tháng 4/2013, Sở GTVT Hà Nội có phương án điều chuyển các xe khách chạy từ Thái Bình, Nam Định, Hòa Bình, Lai Châu, Điện Biên đến bến Mỹ Đình về bến Yên Nghĩa, Gia Lâm.
Ngày 3/6/2013, Sở GTVT Hà Nội có kế hoạch điều chuyển 313 lượt xe tuyến Thái Bình, Nam Đình, Hà Nam, Hòa Bình từ bến xe Mỹ Đình về bến Yên Nghĩa, Nước Ngầm, Gia Lâm.
Ngày 5/6/2013, Sở GTVT Hà Nội lại có thông báo điều chuyển các xe tuyến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh từ bến xe Mỹ Đình về bến Yên Nghĩa, Nước Ngầm.
Chưa dừng lại, ngày 25/6/2013, Sở GTVT Hà Nội lại có văn bản chỉ điều chuyển tuyến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh từ bến xe Mỹ Đình về bến Yên Nghĩa, Nước Ngầm đối với các xe vào bến Mỹ Đình sau ngày 14/10/2009 (ngày ban hành Thông báo 1382).
Liệu trong quá trình thực hiện giảm tải bến Mỹ Đình, Sở GTVT Hà Nội còn ban hành bao nhiêu văn bản thay đổi kiểu "tiền hậu bất nhất" như trên nữa? Quan trọng hơn, liệu kế hoạch giảm tải để cứu bến Mỹ Đình khỏi cảnh “vỡ trận” có được thực hiện như lời hứa của ông Nguyễn Quốc Hùng, Giám đốc Sở GTVT Hà Nội? Hay các kế hoạch này lại tiếp tục thay đổi, “nói không đi đôi với làm” như tiền lệ quản lý ở Sở này (?!).
Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên.
Vũ Văn Tiến
(Dân trí)
Ông Đinh Đức Lập ký quyết định sa thải nhà báo Hữu Nguyên
Ông Đinh Đức Lập |
CƠ QUAN ĐIỀU TRA CA TP ĐÀ NẴNG LÀM VIỆC VỚI TBT. ĐINH ĐỨC LẬP
ÔNG ĐINH ĐỨC LẬP KÝ QĐ SA THẢI NHÀ BÁO HỮU NGUYÊN
Hôm nay (2/7/2013) các cán bộ điều tra Công an TP. Đà Nẵng đã tới
yêu cầu ông Lập và ông Khánh phải cung cấp các văn bản, bằng chứng liên
quan đến việc bán công sản Văn phòng báo Đại Đoàn Kết tại 82 Trần Quốc
Toản, TP. Đà Nẵng.
Trước đó, chiều 24/6/2013, với cương vị Chủ tịch Hội đồng kỷ luật
được ông Nguyễn Quốc Khánh – Bí thư chi bộ Phó Tổng biên tập báo Đại
Đoàn Kết đã chủ trì cuộc họp tiến hành “đấu tố” nhà báo Hữu Nguyên (Bùi
Hữu Phước) – Phó Trưởng Ban đại diện báo Đại Đoàn Kết tại TP. Hồ Chí
Minh.
Các cán bộ thân tín của ông Lập thay nhau “nã đạn” vào người vắng
mặt nhà báo Hữu Nguyên. Cuộc đấu tố có phần hơi chùng lại khi ông Chu
Ninh – Trưởng Ban đại diện báo Đại Đoàn Kết tại TP. Hồ Chí Minh – Thành
viên Hội đồng kỷ luật đưa ra biên bản họp của Ban đại diện. Theo đó, cả
Ban đại diện đều nhất trí cho rằng: Tất cả những lỗi gọi là sai phạm của
nhà báo Hữu Nguyên đều vô căn cứ và đây chính là hành động trả thù của
ông Lập và ông Khánh vì đã bị tố cáo.
Ông Chu Ninh cũng phát biểu, cái gọi là bằng chứng mà Hội đồng kỷ
luật do bà Trịnh Thị Ngọc Thủy soạn ra và cung cấp đều là “sáng tác” chứ
không phải căn cứ bằng chứng pháp lý. Tất nhiên là ông Chu Ninh phát
biểu xong liền bị nhóm lợi ích xúm lại phê bình.
Kết cục cuộc bỏ phiếu, ông Chu Ninh tuyên bố bỏ phiếu trắng. Và theo
kịch bản đã chuẩn bị trước, 4 người khác trong Hội đồng kỷ luật là: Ông
Nguyễn Quốc Khánh, bà Nguyễn Mai Loan, bà Trịnh Thị Ngọc Thủy, ông Mai
Ngọc Tuyền đều bỏ phiếu với hình thức cao nhất: Buộc thôi việc.
Hai hôm sau, ngày 26/6/2013, ông Khánh ký tờ trình và ông Lập ngay lập tức đã ký bản Quyết định.
Riêng với trường hợp nhà báo Đặng Thị Kim Ngân, ông Lập chưa kịp
xuống tay thì đột nhiên có “trát” của Luật sư Trần Đình Triển gửi tới
yêu cầu báo phải cung cấp các bằng chứng liên quan đến việc tiến hành kỷ
luật bà Ngân.
Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề trong vài ngày tới.
P.V
(Blog Tễu)
Kiểu đưa tin kích động của RFA
Hình minh họa |
Ngay khi vụ việc xảy ra, một số phạm nhân trong nhóm gây rối đã gọi cho
đài Châu Á Tự do (RFA, Hoa Kỳ), từ đó thông tin này được nhiều trang
mạng sử dụng và rêu rao, xuyên tạc.
Chỉ sau vài câu nói chuyện điện thoại phóng viên RFA đã đưa tin theo
kiểu lên án Việt Nam về nhân quyền. Cách đưa tin của RFA mang tính kích
động và dẫn dắt khi thổi vụ gây rối lên thành “cuộc nổi dậy của tù
nhân”.
Về nguyên tắc báo chí, việc nghe và thu thập thông tin phải từ nhiều phía. Ở đây, trả lời một số trang mạng, phạm nhân Nguyễn Ngọc Cường khoe khoang việc họ đã phá phách các phòng ốc trong trại K1 và khống chế Đại tá Thắng, phá khu kỷ luật của trại. Cường cố tình không kể và RFA cùng lờ đi một sự thật rằng sự việc xảy ra khi các phạm nhân đang được cán bộ trại tổ chức cho chơi thể thao, thi đấu bóng đá. Rằng cán bộ trại giam đã không hề dùng vũ lực để khống chế phạm nhân. Ngay cả lực lượng cảnh sát cơ động và công an các trại giam gần đó được huy động cũng chỉ bảo vệ vòng ngoài, lấy kiên trì thuyết phục làm chính. Những điều đó tự thân nó đã phủ nhận luận điệu của RFA về việc đàn áp tù nhân.
Cao giọng cổ súy cho dân chủ nhân quyền, nhưng RFA hình như có khẩu vị là thọc sâu vào những chuyện nội bộ VN với bình luận phiến diện và cách đưa tin “minh họa” cho luận điệu của mình.
Không một chính quyền nào chấp nhận việc gây rối an ninh trật tự, gây rối trong trại giam lại càng không. Ngay tại Mỹ, mọi cuộc gây rối trong tù đều được dập tắt bằng vũ lực. Ngày 9-8-2009, một vụ gây rối đã xảy ở nhà tù California Institute for Men, Cảnh sát của các khu vực lân cận đã được huy động để dẹp loạn bằng súng hơi cay và và dùi cui. Khi trật tự được vãn hồi, 1300 tù nhân lập tức bị cấm thăm viếng trong một thời gian.
Lên án chính quyền bưng bít thông tin và vi phạm nhân quyền, nhưng chính RFA lờ đi những thông tin hai chiều, mượn miệng tù nhân để minh họa cho ý đồ của mình, cổ súy cho việc gây rối trật tự. Với một vụ việc cụ thể, người đọc, người nghe cũng có thể hình dung ra cách làm báo và sự khách quan của RFA và những trang mạng “ăn theo”.
Nguyên Phong
(PLTP)
Về nguyên tắc báo chí, việc nghe và thu thập thông tin phải từ nhiều phía. Ở đây, trả lời một số trang mạng, phạm nhân Nguyễn Ngọc Cường khoe khoang việc họ đã phá phách các phòng ốc trong trại K1 và khống chế Đại tá Thắng, phá khu kỷ luật của trại. Cường cố tình không kể và RFA cùng lờ đi một sự thật rằng sự việc xảy ra khi các phạm nhân đang được cán bộ trại tổ chức cho chơi thể thao, thi đấu bóng đá. Rằng cán bộ trại giam đã không hề dùng vũ lực để khống chế phạm nhân. Ngay cả lực lượng cảnh sát cơ động và công an các trại giam gần đó được huy động cũng chỉ bảo vệ vòng ngoài, lấy kiên trì thuyết phục làm chính. Những điều đó tự thân nó đã phủ nhận luận điệu của RFA về việc đàn áp tù nhân.
Cao giọng cổ súy cho dân chủ nhân quyền, nhưng RFA hình như có khẩu vị là thọc sâu vào những chuyện nội bộ VN với bình luận phiến diện và cách đưa tin “minh họa” cho luận điệu của mình.
Không một chính quyền nào chấp nhận việc gây rối an ninh trật tự, gây rối trong trại giam lại càng không. Ngay tại Mỹ, mọi cuộc gây rối trong tù đều được dập tắt bằng vũ lực. Ngày 9-8-2009, một vụ gây rối đã xảy ở nhà tù California Institute for Men, Cảnh sát của các khu vực lân cận đã được huy động để dẹp loạn bằng súng hơi cay và và dùi cui. Khi trật tự được vãn hồi, 1300 tù nhân lập tức bị cấm thăm viếng trong một thời gian.
Lên án chính quyền bưng bít thông tin và vi phạm nhân quyền, nhưng chính RFA lờ đi những thông tin hai chiều, mượn miệng tù nhân để minh họa cho ý đồ của mình, cổ súy cho việc gây rối trật tự. Với một vụ việc cụ thể, người đọc, người nghe cũng có thể hình dung ra cách làm báo và sự khách quan của RFA và những trang mạng “ăn theo”.
Nguyên Phong
(PLTP)
Phương Bích - Ai đọc báo Nhân Dân và Hà Nội Mới?
Tháng ngày mê mải thế nào mà tui quên béng mất đặt báo quý III. Sáng nay
ra sạp báo khá to ở chùa Hà, hỏi mua một tờ HNM. Bà chủ sạp lắc đầu
bảo:
- Không có!
- Không có hay là hết hả chị?
- Ôi giời ơi, là không có. Bây giờ chị cứ hỏi báo Nhân dân với báo Hà Nội mới thì chả đâu có cả. Ai đọc? Chỉ có các cơ quan đoàn thể được phát không thì người ta mới đọc thôi.
Cái này là nhà chị sai rồi nhá. Làm gì có chuyện phát không. Cơ quan đoàn thể nào mà chả phải bỏ tiền ra mua? Nhưng bao nhiêu người đọc thì tui không dám chắc.
Tui chưa kịp hỏi có thể mua báo HNM ở đâu được, nghe chị ấy nói vậy thì tiêu tan hy vọng. Nhưng tui không giấu nổi nụ cười rộng tới tận mang tai. Cứ cười hoài cho đến khi về nhà, bá cáo cho cụ nhà tui rõ. Cụ cũng cười tít mắt, bảo rằng chuyện hài nhưng mà đúng thật.
Ấy thế nhưng cụ tui cười thì cứ cười, nhưng vưỡn bảo tui chiều ra bưu điện đặt báo HNM!
Cái này gọi là thói quen khó dời đây.
Đầu giờ chiều, chưa kịp đi đặt báo thì cụ tui gọi, bảo thôi không mua báo HNM nữa!
He he, thế là báo HNM lại mất thêm một độc giả trung thành.
Phương Bích
(chimkiwi.blogspot.com)
- Không có!
- Không có hay là hết hả chị?
- Ôi giời ơi, là không có. Bây giờ chị cứ hỏi báo Nhân dân với báo Hà Nội mới thì chả đâu có cả. Ai đọc? Chỉ có các cơ quan đoàn thể được phát không thì người ta mới đọc thôi.
Cái này là nhà chị sai rồi nhá. Làm gì có chuyện phát không. Cơ quan đoàn thể nào mà chả phải bỏ tiền ra mua? Nhưng bao nhiêu người đọc thì tui không dám chắc.
Tui chưa kịp hỏi có thể mua báo HNM ở đâu được, nghe chị ấy nói vậy thì tiêu tan hy vọng. Nhưng tui không giấu nổi nụ cười rộng tới tận mang tai. Cứ cười hoài cho đến khi về nhà, bá cáo cho cụ nhà tui rõ. Cụ cũng cười tít mắt, bảo rằng chuyện hài nhưng mà đúng thật.
Ấy thế nhưng cụ tui cười thì cứ cười, nhưng vưỡn bảo tui chiều ra bưu điện đặt báo HNM!
Cái này gọi là thói quen khó dời đây.
Đầu giờ chiều, chưa kịp đi đặt báo thì cụ tui gọi, bảo thôi không mua báo HNM nữa!
He he, thế là báo HNM lại mất thêm một độc giả trung thành.
Phương Bích
(chimkiwi.blogspot.com)
Vì sao Trung Quốc thích sao chép?
Nhiều người Trung Quốc thích chụp ảnh cưới ở thành phố 'nhái' kiến trúc Anh
Trung Quốc vẫn nổi tiếng với các loại đĩa hình lậu và điện thoại giả
iPhone, nhưng văn hóa ‘hàng nhái’ này cũng được mở rộng sang lĩnh vực
kiến trúc – đôi khi họ làm giả cả một thành phố.
Khi bạn bước vào Thames Town (thị trấn Thames), tiếng còi xe và cuộc sống đô thị lộn xộn dần chìm đi.
Không còn những người bán bánh bao rong, hay tiếng rao của người đi thu đồng nát trên xe ba bánh.
Con đường bắt đầu uốn lượn, và từ xa xa, bạn thấy có chiếc tháp trông tựa tháp đồng hồ ở làng cổ Cotswold.
“Nơi này trông như châu Âu trong mơ,” ông Tony Mackay, kiến trúc sư người Anh nói về quy hoạch tổng thể nhà của Thames Town và các khu vực xung quanh quận Tùng Giang.
Khi Mackay được chính quyền địa phương thuê thực hiện khu làng này năm 2001, nơi đây chỉ toàn trại nuôi vịt.
Nay là những con đường rải đá, quán rượu và nhà khung gỗ kiểu Tudor.
Thậm chí có cả tượng của Winston Churchill và nhà họp theo kiến trúc thời trung cổ có quảng cáo cánh gà rán và bia bằng chữ Trung Quốc.
Nhưng Mackay không hài lòng lắm. “Trông vẫn không ổn,” ông nói. “Nhìn nó vẫn giả.”
Ông Mackay cho rằng các kiến trúc sư thiết kế các khu nhà theo kiểu cóp nhặt, đặt các phong cách kiến trúc khác nhau vào cùng một khuôn viên và đã bỏ đi tính chân thực.
Chẳng hạn như một số nhà khung gỗ cao tới sáu tầng, và cửa sổ ở nhà thờ trông không được, ông nói.
“Các tỷ lệ bị sai. Cách sử dụng đá cũng sai hết. Họ sẽ không dùng như thế ở các nhà thờ Anh,” ông nói.
Nhà ở khu Thames Town phần lớn được mua để đầu tư, nên nơi này còn yên tĩnh và chỉ mới bắt đầu có hơi thở của cuộc sống bình thường.
Theo Mackay, khu này trông giống phim trường. Một blogger người phương Tây thậm chí còn viết rằng, thị trấn Thames khiến ông nhớ tới bộ phim The Truman Show.
Nhưng Phạm Dụ Triết không quan tâm.
Tôi tìm thấy chú rể Phạm và cô dâu Tốn Kỳ Dao đang nhìn nhau say đắm trong khi người trợ lý ra sức tung cánh hoa để chụp ảnh.
Thames Town đầy những đôi bạn trẻ đi chụp ảnh cưới.
“Tôi thích bóng đá châu Âu, nên tôi rất quan tâm đến những gì của châu Âu,” chú rể nói.
“Tôi mong là sẽ có dịp đến thăm sông Thames thật, ngồi bên bờ sông, uống cốc cà phê và tận hưởng mặt trời Anh quốc.”
Gần đó, người phụ nữ tên Trương Lê ngồi ăn quýt, chơi bài với mẹ và dì.
Cô Trương cho biết cô đến đây vào ngày nghỉ vì các thị trấn Trung Quốc đều quá đông và quá thị trường, nhưng ở đây xanh tươi và êm đềm hơn. Và vì chỉ làm công việc bàn giấy, cô không thể kiếm đủ tiền sang nước Anh.
“Bình thường, nếu bạn muốn nhìn thấy các tòa nhà nước ngoài, bạn phải ra nước ngoài,” cô Zhang nói. “Nhưng chúng tôi đã mang nó vào Trung Quốc, mọi người có thể tiết kiệm tiền mà vẫn được thưởng ngoạn kiến trúc nước ngoài.”
Trung Quốc có đầy những thứ như thế.
Thames Town nằm trong dự án “Một thành phố, Chín Thị trấn” của Thượng Hải, với các thị trấn vệ tinh xây xung quanh thành phố được xây theo kiến trúc quốc tế khác nhau.
Ở những nơi khác ở Trung Quốc, có tháp Eiffel, cầu Tháp – thậm chí Stonehenge cũng có hàng nhái.
Năm ngoái, ngôi làng mô hình của thành phố Hallstatt nước Áo được dựng ở tỉnh Quảng Đông. Bản gốc của ngôi làng được Unesco công nhận là Di sản Thế giới.
Làng Hallstatt thật ở Áo (trái) và làng ở Trung Quốc (phải)
Đây là những ví dụ cho khao khát “duplitecture” (nhại kiến trúc) của Trung Quốc, theo cách gọi của bà Bianca Bosker, tác giả cuốn Original Copies: Architectural Mimicry in Contemporary China.
Tất nhiên, không chỉ có người Trung Quốc thích hàng copy. Một thế kỷ rưỡi trước, nước Mỹ hùng mạnh cũng từng là nơi hay làm đồ giả, hàng nhái, và giờ vẫn còn nhiều dấu vết nhại kiến trúc, kể cả khu đền ở Epcot, Florida, và rất nhiều ví dụ khác ở Las Vegas.
Nhưng theo bà Bosker, trong khi rất nhiều người phương Tây cho rằng, sao chép kiến trúc là điều kỳ lạ, người Trung Quốc lại thấy điều đó đáng yêu.
Hầu hết các thành phố lớn ở Trung Quốc có các khu nhà ở ngoại ô nơi người dân sống trong các tòa nhà lớn, và hai phần ba số nhà cửa được rao bán bởi các nhà môi giới bất động sản theo kiểu phương Tây, bà nói.
Bà Bosker cho rằng, một phần nguyên do là vì người Trung Quốc có thái độ khác đối với copy mẫu mã.
“Văn hóa sao chép ở Trung Quốc rất khác với những gì chúng ta thấy ở phương Tây, nơi coi đây là hành động rất đáng kỵ, và phải tránh bằng mọi giá.”
Ở Trung Quốc, tài bắt chước được xem là “một nghề tinh hoa, thế nên không có gì đáng ngăn cản, mà nên khuyến khích.
Văn hóa này có lịch sử khá lâu đời. Khi vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc Tần Thủy Hoàng, đánh chiếm các vương quốc vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, ông cho xây bản sao của mỗi vương thành của họ trong chính kinh thành của mình.
Cho tới ngày nay, chính phủ Trung Quốc vẫn là nhà đầu tư cho các dự án sao chép này.
Đây là cách để chứng tỏ sức mạnh, bà Bosker nói. “Theo một cách hình tượng, Trung Quốc muốn khoe mẽ khả năng sắp xếp vũ trụ, để sắp xếp những gì tuyệt nhất của phương Tây theo trật tự của họ.”
Tô Châu Viên Lâm được công nhận là di sản thế giới của UNESCO
Không có gì là tình cờ ở đây, theo tác giả, rằng nhà Trắng – biểu tượng tối cao của quyền lực nước Mỹ - là một trong những kiến trúc được sao chép nhiều nhất ở Trung Quốc.
Nhưng không phải tất cả người Trung Quốc đều ủng hộ kiểu kiến trúc sao chép này.
“Tôi chẳng thích chút nào,” Đường Minh, kiến trúc sư ở Thượng Hải nói.
Trung Quốc có di sản kiến trúc riêng giàu có, chẳng hạn như Tô Châu Viên Lâm (vườn cây cổ điển) hay Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, và những tòa nhà gỗ theo kiểu truyền thống, ông Đường Minh nói.
Người Trung Quốc coi trọng lịch sử, nhưng ở thời mọi sự thay đổi rất nhanh chóng, người ta thấy thực dụng hơn – thậm chí dễ dàng hơn – khi sao chép phong cách phương Tây.
“Tôi nghĩ đây chỉ là thời điểm nhất định – người ta không thể giữ mãi thói quen khi mọi sự đang thay đổi.
“Thế nên có thể hiểu được khi họ đi theo những gì họ khâm phục, hoặc hay xuất hiện trên truyền thông đại chúng,” kiến trúc sư Đường Minh nhận xét.
Theo thời gian, kiến trúc Trung Quốc sẽ tìm được con đường của mình, theo ông Đường Minh.
Hình đồ họa dự án Soho ở Vọng Kinh (trái) và mô hình dự án ở Trùng Khánh (phải)
Kiến trúc sư người Anh, Tony Mackay cho rằng, các thành phố bắt chước của Trung Quốc chỉ là mốt nhất thời – là sản phẩm của niềm mong muốn của Trung Quốc được kết nối với thế giới sau nhiều thập kỷ cô lập – và ông thấy có xu hướng mới đang dần trỗi dậy.
Một ví dụ là dự án xây khu phố hiện đại Soho ở Vọng Kinh, ngoại thành Bắc Kinh, bởi kiến trúc sư người Anh gốc Iraq Zaha Hadid.
Khu này được cho là trông như ba con cá lớn nổi dậy từ lòng sông.
Vấn đề là ở chỗ, một kiến trúc tương tự đang được xây ở thành phố Trùng Khánh.
Theo một bài báo trong ngành kiến trúc, bản sao có lẽ sẽ được hoàn thành trước cả bản chính.
(BBC)
Khi bạn bước vào Thames Town (thị trấn Thames), tiếng còi xe và cuộc sống đô thị lộn xộn dần chìm đi.
Không còn những người bán bánh bao rong, hay tiếng rao của người đi thu đồng nát trên xe ba bánh.
Con đường bắt đầu uốn lượn, và từ xa xa, bạn thấy có chiếc tháp trông tựa tháp đồng hồ ở làng cổ Cotswold.
“Nơi này trông như châu Âu trong mơ,” ông Tony Mackay, kiến trúc sư người Anh nói về quy hoạch tổng thể nhà của Thames Town và các khu vực xung quanh quận Tùng Giang.
Khi Mackay được chính quyền địa phương thuê thực hiện khu làng này năm 2001, nơi đây chỉ toàn trại nuôi vịt.
Nay là những con đường rải đá, quán rượu và nhà khung gỗ kiểu Tudor.
Thậm chí có cả tượng của Winston Churchill và nhà họp theo kiến trúc thời trung cổ có quảng cáo cánh gà rán và bia bằng chữ Trung Quốc.
Nhưng Mackay không hài lòng lắm. “Trông vẫn không ổn,” ông nói. “Nhìn nó vẫn giả.”
Ông Mackay cho rằng các kiến trúc sư thiết kế các khu nhà theo kiểu cóp nhặt, đặt các phong cách kiến trúc khác nhau vào cùng một khuôn viên và đã bỏ đi tính chân thực.
Chẳng hạn như một số nhà khung gỗ cao tới sáu tầng, và cửa sổ ở nhà thờ trông không được, ông nói.
“Các tỷ lệ bị sai. Cách sử dụng đá cũng sai hết. Họ sẽ không dùng như thế ở các nhà thờ Anh,” ông nói.
Nhà ở khu Thames Town phần lớn được mua để đầu tư, nên nơi này còn yên tĩnh và chỉ mới bắt đầu có hơi thở của cuộc sống bình thường.
Theo Mackay, khu này trông giống phim trường. Một blogger người phương Tây thậm chí còn viết rằng, thị trấn Thames khiến ông nhớ tới bộ phim The Truman Show.
Nhưng Phạm Dụ Triết không quan tâm.
Tôi tìm thấy chú rể Phạm và cô dâu Tốn Kỳ Dao đang nhìn nhau say đắm trong khi người trợ lý ra sức tung cánh hoa để chụp ảnh.
Thames Town đầy những đôi bạn trẻ đi chụp ảnh cưới.
“Tôi thích bóng đá châu Âu, nên tôi rất quan tâm đến những gì của châu Âu,” chú rể nói.
“Tôi mong là sẽ có dịp đến thăm sông Thames thật, ngồi bên bờ sông, uống cốc cà phê và tận hưởng mặt trời Anh quốc.”
Gần đó, người phụ nữ tên Trương Lê ngồi ăn quýt, chơi bài với mẹ và dì.
Cô Trương cho biết cô đến đây vào ngày nghỉ vì các thị trấn Trung Quốc đều quá đông và quá thị trường, nhưng ở đây xanh tươi và êm đềm hơn. Và vì chỉ làm công việc bàn giấy, cô không thể kiếm đủ tiền sang nước Anh.
“Bình thường, nếu bạn muốn nhìn thấy các tòa nhà nước ngoài, bạn phải ra nước ngoài,” cô Zhang nói. “Nhưng chúng tôi đã mang nó vào Trung Quốc, mọi người có thể tiết kiệm tiền mà vẫn được thưởng ngoạn kiến trúc nước ngoài.”
Trung Quốc có đầy những thứ như thế.
Thames Town nằm trong dự án “Một thành phố, Chín Thị trấn” của Thượng Hải, với các thị trấn vệ tinh xây xung quanh thành phố được xây theo kiến trúc quốc tế khác nhau.
Ở những nơi khác ở Trung Quốc, có tháp Eiffel, cầu Tháp – thậm chí Stonehenge cũng có hàng nhái.
Năm ngoái, ngôi làng mô hình của thành phố Hallstatt nước Áo được dựng ở tỉnh Quảng Đông. Bản gốc của ngôi làng được Unesco công nhận là Di sản Thế giới.
Làng Hallstatt thật ở Áo (trái) và làng ở Trung Quốc (phải)
Đây là những ví dụ cho khao khát “duplitecture” (nhại kiến trúc) của Trung Quốc, theo cách gọi của bà Bianca Bosker, tác giả cuốn Original Copies: Architectural Mimicry in Contemporary China.
Tất nhiên, không chỉ có người Trung Quốc thích hàng copy. Một thế kỷ rưỡi trước, nước Mỹ hùng mạnh cũng từng là nơi hay làm đồ giả, hàng nhái, và giờ vẫn còn nhiều dấu vết nhại kiến trúc, kể cả khu đền ở Epcot, Florida, và rất nhiều ví dụ khác ở Las Vegas.
Nhưng theo bà Bosker, trong khi rất nhiều người phương Tây cho rằng, sao chép kiến trúc là điều kỳ lạ, người Trung Quốc lại thấy điều đó đáng yêu.
Hầu hết các thành phố lớn ở Trung Quốc có các khu nhà ở ngoại ô nơi người dân sống trong các tòa nhà lớn, và hai phần ba số nhà cửa được rao bán bởi các nhà môi giới bất động sản theo kiểu phương Tây, bà nói.
Bà Bosker cho rằng, một phần nguyên do là vì người Trung Quốc có thái độ khác đối với copy mẫu mã.
“Văn hóa sao chép ở Trung Quốc rất khác với những gì chúng ta thấy ở phương Tây, nơi coi đây là hành động rất đáng kỵ, và phải tránh bằng mọi giá.”
Ở Trung Quốc, tài bắt chước được xem là “một nghề tinh hoa, thế nên không có gì đáng ngăn cản, mà nên khuyến khích.
Văn hóa này có lịch sử khá lâu đời. Khi vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc Tần Thủy Hoàng, đánh chiếm các vương quốc vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, ông cho xây bản sao của mỗi vương thành của họ trong chính kinh thành của mình.
Cho tới ngày nay, chính phủ Trung Quốc vẫn là nhà đầu tư cho các dự án sao chép này.
Đây là cách để chứng tỏ sức mạnh, bà Bosker nói. “Theo một cách hình tượng, Trung Quốc muốn khoe mẽ khả năng sắp xếp vũ trụ, để sắp xếp những gì tuyệt nhất của phương Tây theo trật tự của họ.”
Tô Châu Viên Lâm được công nhận là di sản thế giới của UNESCO
Không có gì là tình cờ ở đây, theo tác giả, rằng nhà Trắng – biểu tượng tối cao của quyền lực nước Mỹ - là một trong những kiến trúc được sao chép nhiều nhất ở Trung Quốc.
Nhưng không phải tất cả người Trung Quốc đều ủng hộ kiểu kiến trúc sao chép này.
“Tôi chẳng thích chút nào,” Đường Minh, kiến trúc sư ở Thượng Hải nói.
Trung Quốc có di sản kiến trúc riêng giàu có, chẳng hạn như Tô Châu Viên Lâm (vườn cây cổ điển) hay Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, và những tòa nhà gỗ theo kiểu truyền thống, ông Đường Minh nói.
Người Trung Quốc coi trọng lịch sử, nhưng ở thời mọi sự thay đổi rất nhanh chóng, người ta thấy thực dụng hơn – thậm chí dễ dàng hơn – khi sao chép phong cách phương Tây.
“Tôi nghĩ đây chỉ là thời điểm nhất định – người ta không thể giữ mãi thói quen khi mọi sự đang thay đổi.
“Thế nên có thể hiểu được khi họ đi theo những gì họ khâm phục, hoặc hay xuất hiện trên truyền thông đại chúng,” kiến trúc sư Đường Minh nhận xét.
Theo thời gian, kiến trúc Trung Quốc sẽ tìm được con đường của mình, theo ông Đường Minh.
Hình đồ họa dự án Soho ở Vọng Kinh (trái) và mô hình dự án ở Trùng Khánh (phải)
Kiến trúc sư người Anh, Tony Mackay cho rằng, các thành phố bắt chước của Trung Quốc chỉ là mốt nhất thời – là sản phẩm của niềm mong muốn của Trung Quốc được kết nối với thế giới sau nhiều thập kỷ cô lập – và ông thấy có xu hướng mới đang dần trỗi dậy.
Một ví dụ là dự án xây khu phố hiện đại Soho ở Vọng Kinh, ngoại thành Bắc Kinh, bởi kiến trúc sư người Anh gốc Iraq Zaha Hadid.
Khu này được cho là trông như ba con cá lớn nổi dậy từ lòng sông.
Vấn đề là ở chỗ, một kiến trúc tương tự đang được xây ở thành phố Trùng Khánh.
Theo một bài báo trong ngành kiến trúc, bản sao có lẽ sẽ được hoàn thành trước cả bản chính.
(BBC)
Trịnh Hội - Manila - Hong Kong
Nhiều người Việt, kể cả một số anh chị em tỵ nạn mà tôi quen biết,
thường chê người Philippines là lười biếng, ham vui và không biết lo xa.
Nhưng tôi thì cho là họ biết trân trọng những giá trị căn bản của một
đất nước văn minh, có can đảm đứng lên tranh đấu cho quyền con người của
chính họ, và quan trọng hơn hết là trong suốt hơn ba thập niên vừa qua,
họ đã cưu mang, cứu giúp hàng chục ngàn người Việt tỵ nạn. Chứ tôi chưa
thấy có người Philippines nào vượt biên sang Việt Nam xin ẩn trú.
Tôi phỏng vấn gia đình anh Hoàng ở Manila đúng vào ngày nghỉ lễ quốc
khánh của Philippines nên đường phố vắng lặng hơn ngày thường. Từ văn
phòng ở Makati thường ngày phải mất độ 45 phút cho đến một tiếng mới ra
đến công viên Rizal Park là nơi tôi dự định sẽ gặp mọi người để phỏng
vấn. Nhưng hôm đó chỉ trong vòng 20 phút tôi đã lái xe đến nơi. May mắn
hơn nữa là tôi còn tìm được chổ đậu xe ngay bên kia đường của đài tưởng
niệm. Thế là chắc chắn tôi sẽ phỏng vấn kịp để ngay tối hôm đó còn đủ
thời gian để bay sang Hong Kong, trạm dừng chân thứ hai của tôi.
Rizal Park là nơi tưởng niệm vị anh hùng dân tộc nổi tiếng nhất của
Philippines: Dr. Jose Rizal. Ông là người có công khởi xướng cuộc đấu
tranh giành độc lập từ Tây Ban Nha. Cũng chính vì sự nghiệp này mà ông
đã bị hành quyết ngay thành bên cạnh Rizal Park hơn 100 năm trước.
Nhưng không thành công thì cũng thành nhân và thành danh. Ngày nay, đến
nơi nào trên đất nước có hơn 7.000 hải đảo lớn nhỏ này, bạn cũng sẽ thấy
hai chữ Jose Rizal. Từ công viên cho đến các building, khách sạn.
Không ầm ĩ phô trương chủ nghĩa dân tộc kiểu Tàu. Cũng chẳng cứng nhắc
giáo điều như ở Việt Nam. Nhân dân Philippines rất tôn sùng và yêu mến
vị anh hùng dân tộc Jose Rizal của họ nhưng họ không lấy danh tánh của
ông để đặt tên cho thành phố Manila hay một hòn đảo to lớn nào đó.
Thay vào đó tên của ông được ghi nhớ ở mọi nơi vì chính người dân, các
gia đình, các công ty lớn nhỏ đua nhau lấy tên ông để đặt cho doanh
nghiệp của mình. Theo tôi, chính sự chọn lựa hoàn toàn tự do này của
người dân trong một đất nước dân chủ mới là thước đo chính xác nhất cho
uy danh của những anh hùng dân tộc.
Hơn thế nữa, đối với người Philippines, cái tên Jose Rizal có hỏi họ mới
nói. Chứ chưa bao giờ tôi thấy họ tự động tuyên bố này nọ hoặc ca tụng
ông một cách quá đáng. Nhất là bạn sẽ không bao giờ thấy cờ xí phất phới
bay trên đường phố để tuyên truyền kiểu “Sống và học tập theo gương
Jose Rizal vĩ đại”!
Ngay cả trong ngày lễ Quốc khánh của họ.
Điều khác biệt duy nhất mà tôi nhận thấy ngày hôm đó là đường phố Manila
ít bị kẹt xe hơn. Có nhiều người đến viếng thăm khu công viên, chụp
hình trước đài tưởng niệm hơn. Và có nhiều cờ xí được treo trong khu
vực. Tuyệt nhiên không có lời tuyên bố hùng hồn nào. Từ Tổng thống
Aquino hay Thị trưởng tân cử Estrada.
Đây cũng là một đặc điểm mà tôi rất thích ở người Philippines. Họ rất
giản dị, tự nhiên, thuần phác, và không tính toán. Có thể vì vậy mà
Philippines là nước duy nhất ở Đông Nam Á không có chương trình cưỡng
bách người tỵ nạn hồi hương (đơn giản có lẽ vì họ không nỡ) và cũng là
nước duy nhất cho phép người Việt tỵ nạn được tự do làm ăn, mua bán
trong lúc chờ xin được định cư ở một quốc gia thứ ba từ giữa thập niên
1990 cho đến bây giờ.
Đối với một số khách du lịch, có thể Manila là một thành phố nghèo nàn,
đông đúc, chật chội và... không được đẹp cho lắm. Nó không có những khu
mua sắm sầm uất như ở Hồng Kông. Không có những đền đài nguy nga, thành
quách cổ kính như ở Bangkok. Người Philippines nhìn chung cũng không có
những nét văn hóa dân tộc độc đáo như người Nhật, người Thái.
Nhưng đối với tôi, Philippines là nơi mà tôi có nhiều kỷ niệm nhất của
một thời. Nơi đã cho tôi thấy tình người quan trọng hơn vẻ hào nhoáng
của những kiến trúc đồ sộ, và cũng là nơi đã nhận rõ sự cần thiết phải
ra tay cứu giúp những người cùng quẫn ngay cả khi chính mình đang gặp
khó khăn. Thực tế hơn nữa, đây là đất nước mà bạn có thể sử dụng tiếng
Anh dễ dàng nhất, với bất kỳ ai và ở bất cứ nơi nào.
Philippines thường được (hay bị) cho là “tây phương hóa” nhất trong các nước ở Á Châu.
Không phải ngẫu nhiên mà có nhiều học sinh, sinh viên từ Trung Quốc, Nam
Triều Tiên, v.v... chọn đến Philippines để học tiếng Anh. Và cũng nhờ
“bị” tây phương hóa cao độ mà họ mới trở thành dân tộc đầu tiên trên thế
giới trong lịch sử cận đại dám đứng lên lật đổ một chế độ độc tài - chế
độ Ferdinand Marcos - vào năm 1986.
Họ đi trước cả Thiên An Môn, Bức Tường Bá Linh của năm 1989. Và sức mạnh
“People Power” của dân tộc Philippines đã đi trước phong trào Mùa Xuân
Ả-Rập hơn một phần tư thế kỷ mà không cần bất kỳ một sự giúp đỡ nào từ
Internet!
Nhiều người Việt, kể cả một số anh chị em tỵ nạn mà tôi quen biết,
thường chê người Philippines là lười biếng, ham vui và không biết lo xa.
Nhưng tôi thì cho là họ biết trân trọng những giá trị căn bản của một
đất nước văn minh, có can đảm đứng lên tranh đấu cho quyền con người của
chính họ, và quan trọng hơn hết là trong suốt hơn ba thập niên vừa qua,
họ đã cưu mang, cứu giúp hàng chục ngàn người Việt tỵ nạn. Chứ tôi chưa
thấy có người Philippines nào vượt biên sang Việt Nam xin ẩn trú.
Bởi thế tôi thường nghĩ thế này: trước khi chúng ta mạnh miệng chê bai
một dân tộc nào đó, phê phán là họ thế này, thế nọ, cho là người Việt
chúng ta thông minh, cần cù, cầu tiến, giỏi giang đến độ nào thì chúng
ta cần phải hỏi: Thế thì tại sao nước ta vẫn nghèo và cho đến bây giờ
vẫn còn có nhiều người phải bỏ nước ra đi? Tại sao tuyệt đại đa số người
dân vẫn phải cam chịu, chấp nhận sống trong sợ hãi ngay cả khi những
quyền con người căn bản nhất của họ bị tước bỏ và chà đạp từ ngày này
sang tháng khác?
Chưa cần lạm bàn đến khía cạnh chính trị và lỗi do đâu - do sự đàn áp dã
man của chế độ Cộng sản hay sự thờ ơ của chính dân tộc mình. Ở đây tôi
nghĩ mỗi người Việt chúng ta chỉ cần đặt câu hỏi cho chính mình là đủ để
thấy rằng chúng ta còn phải đi, đọc và học nhiều hơn nữa mới thật sự
“biết người, biết ta”. Bằng không thì cũng như là “ếch ngồi đáy giếng”
như quyển Tổ Quốc Ăn Năn của nhà hoạt động Nguyễn Gia Kiểng (mà tôi đang
đọc) đã chứng minh cho thấy.
Ôi mà thôi. Có thể tôi lại hơi bị lạc đề nữa rồi. Đã gần hết giờ mà tôi
vẫn chưa ra phi trường để bay sang Hồng Kông. 9 giờ tối máy bay cất cánh
mà 7.30pm tôi vẫn còn ở nhà lo packing hối hả. Phải chạy thôi. Hẹn gặp
lại các bạn sau 2 tiếng nữa ở Hồng Kông, hỉ?
Trịnh Hội
(VoA Blog)
Cà Mau - những bi kịch mang tên “cho con học đại học” (1)
Nếu như ở miền Trung, miền Bắc…, một gia đình nghèo, phải vay mượn cho
con cái thực hiện giấc mơ đổi đời bằng cách học đại học, và sẽ trở thành
“tấm gương” của hàng xóm thì ngược lại ở nhiều địa phương của Đồng bằng
sông Cửu Long, điều đó sẽ bị miệt thị kiểu “thân ốc mà bày đặt đòi mang
mai rùa”. Chính sự khinh rẻ này là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều bi
kịch đẫm nước mắt và máu trong thời gian qua…
Kỳ 1: Mẹ treo cổ chết vì... không có tiền đóng học phí cho con
Đã hơn 20 ngày, nhưng gia đình và người dân ấp 5, xã An Xuyên, thành phố
Cà Mau vẫn chưa thôi bàng hoàng về cái chết của chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân.
Họ không tin và không thể nào lý giải nổi rằng vì sao, một bà mẹ của 3
người con, đã sống trên đời này đến 48 năm như chị Nhân lại có thể tự
tay kết liễu cuộc sống của mình chỉ vì không vay được 4 triệu đồng cho
con đóng học phí…
Tôi gặp anh Đinh Ngọc Bảo - người đàn ông trông hom hem và cam chịu
trước mọi thứ - là chồng chị Nhân tại chi nhánh NHNN&PTNT thành phố
Cà Mau, khi anh đang làm thủ tục trả nợ số tiền 25 triệu đồng mà vợ
chồng anh vay cho con đi học trước đó. “Cũng... nhờ có tiền phúng điếu
và cô bác hỗ trợ sau cái chết của vợ, tui mới trả được nợ ngân hàng, nếu
không thì chẳng biết đến năm tháng nào tui mới trả được”. Nói rồi anh
cười, trông như mếu, bảo tôi “ráng chờ chút nữa rồi cùng về nhà nói
chuyện”. Đó là nụ cười duy nhất mà tôi nhận được từ anh Bảo trong suốt
cả một ngày nói chuyện sau đó.
Di ảnh chị Nhân. Ảnh: H.V.M |
“Không lối thoát…”
Giữa trưa. Nhà anh Bảo, giống như bao gia đình nghèo khác ở miền Tây bốn
bề bọc tôn, nóng nực tới mức tưởng như di ảnh của chị Nhân trên bàn thờ
cũng toát mồ hôi như người lạ đang thắp hương cho mình. Hương vừa cắm
xong là anh Bảo lấy tay quệt nước mắt, nắm tay tôi kéo vội xuống nhà
sau. Anh gọi con trai út đang ngồi thu lu một mình sau vườn vào lấy nước
mời khách.
“Nó tên là Ngân. Từ ngày bả mất, nó trở nên lầm lỳ. Nhớ hôm má nó chết,
bà con ra trường chở nó vào. Nó bảo tưởng má hôm nay làm bánh gì ngon
kêu nó vào ăn nên mừng hú...”. Ông Bảo thở dài thườn thượt, nói “hai
mươi ngày nay, đêm nào tui cũng thức trắng, ngồi một mình với hàng trăm
câu hỏi vì sao? Thời gian gần đây, đêm nào vợ tui cũng nói chắc em sẽ
chết thì may ra các con mình mới có cơ hội được tiếp tục đi học. Tui
cũng có la rầy, khuyên bảo, nhưng chỉ nghĩ là vợ mình túng quẫn quá nên
nói bậy, ai ngờ bả chết thiệt...”.
Rồi anh kể, điều được điều mất, trước sau lẫn lộn. Anh và chị Nhân cưới
nhau năm 1990, sinh được ba con trai: Đinh Công Bằng, đang học Cao đẳng
Dầu khí Vũng Tàu; Đinh Thành Tâm, đang học lớp 11 và Đinh Phát Ngân,
đang học lớp 8. Anh chị được cha mẹ hai bên cho 5 công (5 ngàn mét
vuông) đất ruộng. Việc trồng trọt thất bát, cộng thêm vài trận bệnh của
chị, đất phải bán đi để trả nợ nần và lo việc học cho các con.
Khác với phần lớn người dân trong ấp, anh chị cùng có ước mơ sẽ nuôi ba
đứa con trai ăn học đến nơi đến chốn để được đổi đời. Với quyết tâm này,
họ đã quần quật mười mấy năm qua bằng đủ nghề, từ phụ hồ, bán rau cải,
bánh mì ngoài chợ... Và bi kịch cũng bắt đầu từ ước mơ này.
Đầu năm 2011, chị Nhân bị viêm thần kinh số 7, miệng méo và sức khỏe sa
sút. Mỗi ngày chị phải chích thuốc hết 140 ngàn đồng, trong khi tiền
công phụ hồ của anh Bảo chỉ có 100 ngàn đồng một ngày. Không thể cùng
chồng phụ hồ được nữa nên chị xin giúp việc nhà cho một gia đình ở thành
phố Cà Mau.
Khi đó, con trai lớn của chị là Đinh Công Bằng thi đỗ vào Trường Cao
đẳng Dầu khí Vũng Tàu, tiền nong gia đình vì vậy càng thêm bức bách,
nhất là khoản học phí một năm 8 triệu của Đinh Công Bằng. Túng quá, chị
làm đơn ra xã chứng nhận hoàn cảnh khó khăn của gia đình để vay Ngân
hàng Chính sách Cà Mau cho con đi học. Tuy nhiên, ngân hàng từ chối vì
chị không có sổ hộ nghèo.
Chị lại về xin công nhận hộ nghèo nhưng xin mãi chẳng ai cho chị nghèo
với lý do: Nhà chị có hai lao động chính, thu nhập 5 triệu đồng một
tháng (anh làm thợ hồ 3 triệu, chị đi giúp việc được 2 triệu). Số tiền
đó chia cho 5 nhân khẩu thì bình quân mỗi người được 1 triệu đồng một
tháng. Trong khi theo quy định hiện hành, một gia đình muốn được công
nhận là nghèo thì phải có thu nhập bình quân đầu người 401.000 đồng trở
xuống.
Trước buổi chiều định mệnh 24.4 mấy hôm, chị Nhân xin chủ nhà nghỉ một
hôm để đi chạy 4 triệu cho con nộp học phí và sau đó bất ngờ chị bị chủ
nhà cho thôi việc luôn. Không chạy được tiền, lại mất việc, bệnh tật,
rồi nợ nần, cực khổ, tủi nhục chồng chất bây lâu... đã khiến chị Nhân
tìm đến cái chết bằng cách treo cổ ngay trong nhà mình.
Chị chết vào chiều 24.4, để lại một một bức thư tuyệt mệnh 4 trang giấy
học trò. Mở đầu chị viết: “Anh! Trong hoàn cảnh quá khổ sở, không lối
thoát, em đành phải xa anh và các con...”. Chị nói mình chọn cái chết là
vì để cho chồng bớt gánh nặng tiền thuốc men cho vợ, dành phần tiền này
lo cho các con ăn học vì bản thân bệnh nặng, sức khỏe tinh thần đều suy
sụp, vì muốn phù hộ cho chồng con khỏe mạnh, trúng số độc đắc và cuối
cùng là để chính quyền địa phương xót thương mà cấp cho chồng con chị
cái sổ hộ nghèo hoặc cận nghèo. Chị viết: “Xin các cấp chính quyền ấp 5
thấu hiểu cho hoàn cảnh không lối thoát của chúng tôi hiện nay mà cấp sổ
hộ nghèo cho chồng con tôi để sống những ngày tháng còn lại trên
đời...”.
Chết vì sự vô cảm?
Cái chết của chị Nhân đã dấy lên những luồng dư luận trái chiều trên báo
chí và ở Cà Mau, trong đó sự công kích nặng nề nhất dành cho chính
quyền địa phương vì đã cứng nhắc trong việc xét hộ nghèo cho gia đình
chị Nhân, dẫn đến thảm cảnh đau lòng chưa từng thấy ở vùng đất này. Ông
Trần Đại Đoàn - Bí thư Đảng ủy xã An Xuyên; bà Nguyễn Thị Tiến - Hội
trưởng Hội Phụ nữ ấp 5 - những người tôi gặp để tìm hiểu về nguyên nhân
cái chết của chị Nhân, đều khẳng định là chính quyền địa phương không có
lỗi trong cái chết của chị Nhân.
“Dư luận, báo chí nói chị Nhân chết do ấp, xã An Xuyên không xét cấp hộ
nghèo cho chị Nhân là không chính xác. Thực tế là gia đình chị Nhân
không hề nghèo theo quy định và trong ấp, trong xã còn hàng chục gia
đình khác nghèo hơn chị Nhân nhiều, nhưng không ai tìm đến cái chết cả” -
bà Tùng bức xúc.
Theo lời bà Tùng (có xác nhận của ông Đinh Ngọc Bảo) thì “nguyên nhân cơ
bản và quan trọng nhất dẫn đến việc chị Nhân phải thắt cổ tự vẫn ngoài
bệnh tật, thiếu nợ, không chạy được tiền đóng học phí cho con... là sự
vô cảm của anh em, bà con bên nhà chị Nhân”.
Bà Tùng nói: “Từ nhà chị Nhân vạch bán kính một ngàn mét trở lại, đâu
đâu cũng là anh em, bà con của chị. Và chị Nhân từng nhiều lần tâm sự
với tui rằng, trong cơn túng quẫn, đã nhiều lần, kể cả trước khi chết
mấy hôm, chị Nhân đã tìm đến họ, gõ cửa từng nhà để cầu xin sự giúp đỡ,
nếu không chị sẽ tự vẫn chết, nhưng ai cũng làm ngơ. Thậm chí có ông anh
ruột của chị Nhân còn nói đại ý mày về đào mả cha mẹ tao lên để bán mà
lấy tiền cho con mày đi học...”.
Ông Bảo ngồi rũ xuống, nước mắt lăn dài khi nghe bà Tùng nhấn mạnh câu
cuối cùng. Ông kể cách đây mấy hôm, Chi bộ ấp 5 có tổ chức họp để bình
xét lại chuyện nghèo của gia đình anh sau khi chị Nhân chết, có người đã
đứng lên phê phán vợ chồng anh “thân ốc mà bày đặt đòi mang mai rùa” (ý
nói nghèo không có tiền mà bày đặt cho con đi học đại học). Anh nấc lên
từng hồi: “Mấy năm nay, chỉ vì ước mơ cho các con được đổi đời bằng
cách đi học mà vợ chồng tui chịu không biết bao nhiêu điều tiếng của bà
con cô bác. Ai cũng nói vợ chồng tui ngu, nghèo mà không để con ở nhà đi
làm kiếm tiền, cho đi học làm chi để mang nợ...”. Bà Tùng thở dài: “Đó
là lý do khiến cả ấp, cả xã này, số em tốt nghiệp đại học chỉ đếm trên
đầu ngón tay...”.
Ông Bảo lại khóc, nói “cũng may là bả chết không vô nghĩa”. Ông kể sau
khi chị Nhân mất, tiền phúng điếu và cô bác khắp nơi gửi về cho đến nay
đã nhận được hơn 200 triệu đồng, đủ để trả nợ và để dành cho các con đi
học. Rồi một nhà báo giấu tên đã hứa sẽ bảo trợ cho Đinh Công Bằng đến
lúc tốt nghiệp; đích thân Chủ tịch thành phố Cà Mau cũng đã gặp anh Bảo
hứa sẽ dành một suất việc cho Đinh Công Bằng sau khi tốt nghiệp. Với
Đinh Thành Tâm và Đinh Phát Ngân, Giám đốc Sở GDĐT tỉnh Cà Mau cũng hứa
sẽ miễn học phí cho hai em bắt đầu từ năm nay cho đến khi tốt nghiệp 12.
“Vợ tui thắt cổ chết cũng chỉ vì mong có được cái sổ nghèo để vay tiền
cho các con tui đi học. Nghe nói sắp tới ấp và xã sẽ họp lần nữa để xét
công nhận hộ nghèo cho tui. Nhưng tui quyết định rồi, sẽ không xin,
không nhận hộ nghèo nữa...”.
(Lao động)
Việt Nam 'giải độc dư luận' vụ tù nhân nổi dậy
Hệ thống truyền thông của nhà cầm quyền Việt Nam đang tiếp tục đưa thêm
nhiều thông tin liên quan đến vụ tù nhân nổi dậy, chiếm trại giam, bắt
giám thị, xảy ra hôm 30 tháng 6.
Đây là lần đầu tiên, hệ thống này loan báo rộng rãi những tình tiết và
diễn biến một vụ tù nhân nổi dậy, chống lại những kẻ quản lý một trại
giam, thuộc quyền kiểm soát của Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và
Hỗ trợ Tư pháp, Bộ Công An.
Trước đây, hệ thống truyền thông của chính quyền Việt Nam từng có vài
lần cung cấp thông tin về những cuộc nổi loạn, đào thoát tập thể của học
viên trong một số “cơ sở giáo dưỡng”, vốn là những nơi chuyên cưỡng bức
cai nghiên ma túy. Những “cơ sở giáo dưỡng” đó không được xem là trại
giam theo đúng nghĩa của hai từ này.
Phân trại 1 của trại giam Z30A – nơi vừa xảy ra sự kiện tù nhân chiếm trại giam, tạm giữ giám thị. (Hình: Tuổi Trẻ) |
Theo nhiều cựu tù nhân, chuyện tù nhân nổi dậy phản đối sự đối xử khắc
nghiệt của trại giam, đòi cải thiện chế độ lao tù không phải là hiếm,
song những vụ nổi dậy đó chưa bao giờ được hệ thống truyền thông của
chính quyền Việt Nam tường thuật.
Nay, vụ tù nhân Phân trại 1, của trại giam Z30A, tọa lạc ở huyện Xuân
Lộc, tỉnh Đồng Nai nổi dậy chiếm trại giam, tạm giữ giám thị hôm 30
tháng 6 được hệ thống này tường thuật, có thể vì thông tin về vụ nổi
dậy, nhằm phản đối việc đánh đập tù nhân, cắt xén thực phẩm dành cho tù
nhân, phản đối trại giam không tôn trọng, đáp ứng những yêu cầu hợp
pháp, chính đáng của người tù đã được đưa lên Internet gần như ngay lập
tức.
Nhờ tù nhân tịch thu được một điện thoại di động, các tù chính trị đang
bị giam giữ tại Phân trại 1 đã thông báo về vụ nổi dậy với bên ngoài.
Cũng vì vậy, ban đầu, một số nguồn tin khẳng định, vụ nổi dậy do tù
chính trị khởi xướng.
Vào lúc này, dựa trên các tình tiết mới, có thể xác định, vụ nổi dậy do
tù hình sự thực hiện và họ đã nhờ tù chính trị hỗ trợ để đánh động dư
luận bên ngoài.
Vụ nổi dậy mới đây có nhiều tình tiết giống hệt vụ nổi dậy xảy ra hồi năm 2007, cũng xảy ra tại trại giam Z30A.
Năm 2010, Đài Á châu Tự do có một loạt bài mang tựa “Đặc tả nhân quyền
theo kiểu Việt Nam”. Khi trò chuyện với đài này, nhiều cựu tù chính trị
đã kể về vụ nổi dậy năm 2007 ở trại giam Z30A.
Theo đó, vụ nổi dậy năm 2007 diễn ra ở Phân trại 3. Tù hình sự đã chiếm
phân trại này, tạm giữ một số giám thị để đòi chấm dứt ngược đãi tù
nhân, cải thiện chế độ lao tù. Trong vụ nổi dậy hồi năm 2007, tù hình sự
cũng yêu cầu tù chính trị hỗ trợ.
Đây là lý do sau đó, trong một thời gian dài, trại Z30A cách ly tù chính
trị với tù hình sự, không giam chung như trước, nhằm tránh tình trạng
tù hình sự bị tù chính trị tác động.
Sau vụ nổi dậy năm 2007, nhiều tù chính trị và tù hình sự đã bị chuyển sang giam giữ tại các trại giam khác.
Điều này lại vừa xảy ra tại trại giam Z30A. Thân nhân nhiều tù chính trị
vừa cho biết, ngay sau khi Công an Việt Nam dập tắt được cuộc nổi dậy
hôm 30 tháng 6, người thân của họ đã bị chuyển từ trại giam Z30A ở huyện
Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai sang trại giam Xuyên Mộc, tọa lạc tại tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu.
Khi loan tin về vụ nổi dậy vừa xảy ra tại trại giam Z30A hôm 30 tháng 6,
các cơ quan truyền thông của chính quyền Việt Nam xác nhận những tù
nhân “gây rối trật tự” là để đòi cải thiện chế độ lao tù. Các nguồn tin
độc lập chi tiết hóa yêu cầu của tù nhân là đòi trại giam ngưng bớt xén
khẩu phần của họ, ngưng việc bán thực phẩm với giá cao gấp vài lần so
với bên ngoài.
Báo chí Việt Nam cũng cho biết rằng, một viên trung tướng là Tổng cục
trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ Tư pháp đã từ Hà
Nội vào Đồng Nai để “trực tiếp giải quyết vụ gây rối”. Cũng theo báo chí
Việt Nam, Công an Việt Nam đã điều động nhiều đơn vị của Công an tỉnh
Đồng Nai, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Công an tỉnh Bình Thuận đến
trại giam Z30A để “ổn định trật tự”.
Hồi đầu, báo chí Việt Nam cho biết, Công an Việt Nam xác định có 40 tù
nhân tham gia vào vụ “gây rối” và liệt kê danh tính ba tù nhân được cho
là cầm đầu vụ nổi dậy. Cả ba (Phạm Văn Trí, 36 tuổi. Phạm Ngọc Hường, 29
tuổi. Nguyễn Văn Tân, 22 tuổi) đều là tù hình sự. Song đến hôm qua,
cũng theo báo chí Việt Nam thì số lượng tù nhân tham gia vào vụ “gây
rối” đã giảm xuống chỉ còn mười người.
Trả lời báo chí Việt Nam, viên tướng là Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh
sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ Tư pháp, cho biết, những người gây rối
là “lưu manh chuyên nghiệp, không chịu cải tạo, thường xuyên vi phạm
nội quy, kỷ luật của trại giam”.
Một viên tướng khác thì khẳng định những người tù tham gia “gây rối” sẽ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “gây rối trật tự”.
Luật Hình sự Việt Nam có qui định về tội “chống phá trại giam” với hình
phạt tới chung thân. Hình phạt tối đa của tội “gây rối trật tự” chỉ đến
bảy năm. Một vài người nhận xét, việc Công an Việt Nam không đả động gì
đến tội “chống phá trại giam” có thể vì họ không muốn cộng đồng
quốc tế chú ý thái quá tới thực tế của hệ thống trại giam ở Việt Nam.
Cũng theo những người này, công chúng và cộng đồng quốc tế cần chú ý đến
số phận của Phạm Văn Trí, Phạm Ngọc Hường, Nguyễn Văn Tân – vừa bị cáo
buộc là cầm đầu vụ nổi dậy vừa qua.
(Người Việt)
Hà Nội lấy phiếu tín nhiệm 18 lãnh đạo thế nào?
ĐB Chu Sơn Hà (Phó trưởng Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội) trao đổi với Tiền phong bên hành lang Kỳ họp HĐNDTP Hà Nội diễn ra từ 1-5/7.
Ông Chu Sơn Hà cho biết: Đợt lấy phiếu tại QH vừa rồi thành công, làm tăng thêm niềm tin của cử tri đối với Quốc hội. Nhưng chính kết quả đó cũng làm tiền đề, làm mẫu chung cho Hội đồng nhân dân các cấp trong việc lấy phiếu tín nhiệm lần này.
Đại biểu Chu Sơn Hà (Phó trưởng Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội). |
Đây là lần đầu tiên HĐND TP.Hà Nội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm 18 chức danh do HĐNDTP bầu ra, ông có kỳ vọng gì không?
Hà Nội đã có kinh nghiệm trong việc lấy phiếu tín nhiệm tại Thành ủy trước đó. Việc này cũng góp phần bổ sung kinh nghiệm cho lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội vừa qua. Từ các kinh nghiệm đó, chắc chắn việc lấy phiếu các chức danh chủ chốt lần này tại HĐND Thành phố sẽ có thuận lợi, được tổ chức tốt như tại Quốc hội. Bởi khi Quốc hội lấy phiếu, lãnh đạo HĐND Thành phố và các địa phương cũng đã được tham dự, thị sát thực tế việc ĐBQH bỏ phiếu tại nghị trường, thể hiện tín nhiệm của mình với các chức vụ QH bầu và phê chuẩn.
-Với những người mà tín nhiệm thấp quá, như chỉ đạt tín nhiệm dưới 50%, ông có cho rằng cũng cần xem xét về trách nhiệm?
- Đây là hậu quả của việc lấy phiếu. Nghị quyết 35 của Quốc hội đã
quy định và nói rất rõ rồi, chúng ta sẽ thực hiện đúng theo quy định. |
Trước khi lấy phiếu, các chức danh chủ chốt phải gửi báo cáo công tác tới ĐB, ông có hài lòng với các báo cáo đó không?
Vừa qua gần 500 ĐBQH nhận được báo cáo của các chức danh chủ chốt, bộ trưởng, trưởng ngành, chỉ duy nhất một ĐB đề nghị một bộ trưởng có báo cáo bổ sung. Còn ở đây, chúng tôi cũng chưa thấy có ĐB nào đề nghị 18 vị ấy báo cáo thêm vấn đề gì. Chắc thường trực HĐNDTP sẽ có báo cáo cụ thể vấn đề này trước khi làm thủ tục lấy phiếu. Với riêng tôi, cũng không đặt vấn đề là ai báo cáo bổ sung thêm nội dung gì.
Qua nghiên cứu các báo cáo đó, có báo cáo nào thẳng thắn nhận trách nhiệm hay chỉ rõ yếu kém cần khắc phục của lãnh đạo thành phố hay không?
Ngay như Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng vừa rồi tại Quốc hội đã nói, để tai nạn giao thông xảy ra nhiều, có một phần trách nhiệm của bộ trưởng. Tôi nghĩ, chắc chắn trong tồn tại của Thành phố hiện nay, rõ ràng mỗi cá nhân có một phần trách nhiệm. Trong các báo cáo công tác ấy, các đồng chí ấy cũng đã thẳng thắn kiểm điểm những việc đã làm được, những việc chưa làm được, nêu ra giải pháp cho thời gian tới đây là gì. Trong 18 báo cáo, tôi thấy các đồng chí ấy cũng đề cập đầy đủ hai nội dung theo yêu cầu Nghị quyết 35 của Quốc hội, đó là đánh giá công tác và đánh giá quá trình rèn luyện phẩm chất đạo đức.
Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị phát biểu tại kỳ họp thứ 7, HĐND TP Hà Nội. |
Cần sàng lọc thông tin
Hà Nội vẫn còn nhiều vấn đề dân sinh bức xúc, tình trạng lãng phí có ở mọi nơi, đặc biệt Thành phố vừa bị tụt bậc xuống mức thấp hơn. Ông có nghĩ kết quả lấy phiếu sẽ tương xứng với mong muốn của cử tri thủ đô?
Tôi cho rằng tất cả ĐB đều phải có trách nhiệm đối với nhân dân thủ đô. Cũng như ĐBQH, ĐBHĐND TP sẽ nghiên cứu rất kỹ các báo cáo của 18 vị được lấy phiếu đợt này, làm cơ sở bỏ phiếu. Ngoài ra, có rất nhiều luồng thông tin khác nhau có thể tác động tới ĐB. Vì vậy ĐB càng phải thể hiện trách nhiệm với cử tri, chứ không phải nghe dư luận, nghe các thông tin trái chiều mà tin ngay vào đó.
Xem thêm thông tin việc lấy phiếu tín nhiệm:
Cũng như tại Quốc hội, mỗi ĐB khi bỏ phiếu phải hết sức thể hiện trách nhiệm với tinh thần xây dựng cao nhất. Bằng các kênh thông tin khác nhau, ví dụ như báo cáo công tác là một kênh quan trọng, đồng thời còn có quá trình theo dõi, giám sát thường xuyên của HĐND và các Ban chuyên môn. Đợt này HĐNDTP đã gửi rất nhiều Báo cáo giám sát, thậm chí có cả Báo cáo giám sát riêng để ĐB tham khảo. Như vậy, ĐB sẽ có nhiều cơ sở đánh giá, sàng lọc thông tin để đi đến quyết định hết sức chính xác, trước khi bỏ lá phiếu của mình.
Vừa qua sau khi lấy phiếu tại Quốc hội, nhiều ĐB và cử tri cho rằng chỉ nên lấy hai mức tín nhiệm thôi, không nên chia ra ba mức, để tránh cho ĐB phân vân và để kết quả phiếu tập trung hơn?
Cái này tôi không nói thêm vì tại Kỳ họp thứ tư (tháng 10/2012), Quốc hội đã bàn rất kỹ. Nhiều ý kiến ĐBQH cho rằng nên chia thành hai mức phiếu (tín nhiệm, không tín nhiệm), nhưng đa số ý kiến là nên chia ra ba mức (tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp). Nhưng sau đó, Quốc hội đã ban hành nghị quyết với ba mức phiếu tín nhiệm. Cho nên, tôi nghĩ rằng chúng ta chưa cần bàn đến việc này nhiều.
Với kết qủa chỉ đạo, điều hành của Thành phố thời gian qua, theo ông kết quả lấy phiếu lần này sẽ như thế nào, liệu rằng sẽ có những người đạt tín nhiệm rất cao không?
Vừa qua lấy phiếu ở Quốc hội, tất cả những người được lấy phiếu đều quá bán, có nhiều người đạt được nhiều phiếu tín nhiệm cao. Nhưng cũng có một số vị nhận phiếu tín nhiệm thấp với tỷ lệ tương đối. Tôi nghĩ các đồng chí ấy cũng đã nhận thấy vấn đề, nên đã có sự tiếp thu, có biểu hiện rất rõ để khắc phục tình hình. Còn ở HĐND Thành phố, tôi nghĩ là kết quả lần này sẽ phản ánh đúng thực chất những gì chúng ta đã làm được.
Theo chương trình, sáng 4/7 Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội sẽ lấy phiếu tín nhiệm đối với 18 chức danh chủ chốt do HĐNDTP bầu. Kết quả lấy phiếu sẽ công bố trong ngày. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét