Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

Lượm tin tức

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT 

- Video CSGT lớn tiếng, xưng hô mày tao với người vi phạm: ‘CSGT làm việc thiếu chuyên nghiệp, lái xe cũng chẳng phải tay vừa’ (GDVN).
KINH TẾ
- Tài chính ngân hàng nổi bật tuần từ 11 – 17/3/2013: NHNN sẽ mạnh tay với các TCTD yếu kém (CafeF).
VĂN HÓA-THỂ THAO
- “Đối thoại văn chương” của Trần Nhuận Minh – Nguyễn Đức Tùng: Văn chương thôi “gây chiến”, để “đối thoại”(TTVH).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
QUỐC TẾ

Tại sao các cuộc chiến chống Trung Quốc phải đưa vào sách giáo khoa?

ttxcc : Tại vì thế này- Đem vào cho nó chưởi thấy mụ nội à?- Phải “nhớ ơn…” như Phùng Đại tướng dạy chớ.

-Trung Quốc: Đồng chí Tập Cận Bình được bầu làm Chủ tịch nước (QĐND)

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/3/102/102/233031/Default.aspx
Trung Quốc tuyên bố công khai dạy cho Việt Nam một bài học vào năm 1979 khi san bằng 6 tỉnh phía Bắc. RFA file
Trung Quốc tuyên bố công khai dạy cho Việt Nam một bài học vào năm 1979 khi san bằng 6 tỉnh phía Bắc. RFA file
RFA file
Nghe bài này
Cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đối với các tỉnh phía Bắc của Việt Nam đã được 34 năm nhưng Bộ sách giáo khoa của Việt Nam vẫn không có một lời nào miêu tả về chuyện này. Phải chăng các người có trách nhiệm đã đến lúc phải trả lại sự thật cho lịch sử bằng cách miêu tả trung thực những gì mà Trung Quốc đã từng làm cho đất nước để thế hệ học sinh hôm nay không trở thành mù thông tin trong vấn đề lịch sử nước nhà.
Nỗi quốc nhục thấm thía và âm thầm
Ngày 14 tháng Ba là ngày mà nhiều người có quan tâm đến vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa không thể nào quên vì chính trong ngày này vào năm 1988 Trung Quốc đã ngang nhiên đem quân vào các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao của Việt Nam đánh úp một số đơn vị hải quân Việt Nam gây ra cái chết cho 64 chiến sĩ và bắt đi một số bộ đội hải quân khác.
Trong khi báo chí và các trang mạng xã hội Việt Nam đồng loạt đưa tin nhắc nhở lại biến cố đau buồn này thì hai tờ báo Quân Đội và Nhân Dân hoàn toàn im tiếng. Sự im lặng này bị phía Trung Quốc khinh thường khá rõ khi nhiều tờ báo chính thống kỷ niệm ngày mà họ gọi là chiến thắng và quân đội Trung Quốc biết nắm thời cơ để bảo vệ chủ quyền của họ.
Sự im lặng của hai tờ báo Quân đội và Nhân Dân đã làm dấy lên một câu hỏi lớn hơn: Vậy ra Việt Nam đã từng là nước xâm lược Trung Quốc đến nỗi khi họ lớn tiếng xác định như thế thì hai tờ báo này không hề có một bài viết phản hồi, kể cả với ngôn ngữ nhỏ nhẹ và thận trọng nhất.
Trung Quốc nhiều lần tuyên bố công khai là đã đập tan sự ngỗ ngược của VN qua trận hải chiến này cũng như họ đã từng dạy cho VN một bài học vào năm 1979…Bài học ấy lãnh đạo VN thấm thía đến nỗi không dám mở miệng ra nhắc nhở …trong suốt nhiều chục năm, gây ra nỗi quốc nhục thấm thía và âm thầm trong tuyệt đại đa số dân chúng
Trung Quốc nhiều lần tuyên bố công khai là đã đập tan sự ngỗ ngược của Việt Nam qua trận hải chiến này cũng như họ đã từng dạy cho Việt Nam một bài họcvào năm 1979 khi san bằng 6 tỉnh phía Bắc gây ra cái chết cho hàng chục ngàn quân dân Việt Nam.
Tấm bia sơ sài tưởng niệm vụ thảm sát tại Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An. RFA file
 
Tấm bia sơ sài tưởng niệm vụ thảm sát tại Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An. RFA file =>

 Bài học ấy lãnh đạo Việt Nam thấm thía đến nỗi không dám mở miệng ra nhắc nhở trên phương tiện truyền thông của nhà nước trong suốt nhiều chục năm, gây ra nỗi quốc nhục thấm thía và âm thầm trong tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam khi nhà nước của họ, những người nắm quyền lực trong tay đã chọn thái độ cam chịu thay vì khẳng khái đáp trả những luận điệu xuyên tạc và hồ đồ của một nước lớn nhưng đầy tham vọng.Những ngày tưởng niệm cuộc chiến năm 79 im lặng trôi qua khiến vài tờ báo tự vượt qua nỗi sợ, trong đó tờ Dân Trí đã thẳng thắn cho rằng cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 phải được đưa vào sách giáo khoa để các thế hệ sau không cảm thấy nhục nhã ê chề khi bị Trung Quốc nặng lời mạt sát.
Ngay khi các bài báo được phổ biến giới trí thức đã có những phản hồi tích cực về yêu cầu hết sức đứng đắn này. Lịch sử là tấm gương phản chiếu quá trình phát triển của đất nước vì vậy khi học sinh không biết lịch sử, mặc dù chỉ một giai đoạn, hay một biến cố nào đó thì sự đứt quãng này sẽ là khoảng trống vô cùng nguy hiểm cho lòng yêu nước của họ.
Trách nhiệm của sách giáo khoa, của nhà trường là phải cung cấp sự thật và phương pháp phân tích, lý giải, đánh giá và thái độ đối với sự thật ấy. Với sự thật lịch sử thì trách nhiệm thuộc về môn lịch sử
Giáo sư Trần Ngọc Thêm
Sự thật trong lịch sử và sách giáo khoa phải tôn trọng
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng người quan tâm nhiều đến vấn đề sách giáo khoa chia sẻ suy nghĩ của ông về thái độ này:
Tàu chiến Trung Quốc dùng đại liên phòng không những bắn trực xạ vào những người lính công binh Hải quân không tấc sắt trong tay ... không một người nào sống sót
Tàu chiến Trung Quốc dùng đại liên phòng không những bắn trực xạ vào những người lính công binh Hải quân không tấc sắt trong tay … không một người nào sống sót. Screen cap.Chinese TV =>
Tôi thấy dư luận quan tâm tới chuyện này rất nhiều và tôi nghĩ rằng bao giờ sự thật cũng nên có trong lịch sử vì lịch sử là cái mà nó ghi chép lại quá trình của đất nước. Tuy nhiên tôi cũng hiểu rằng ai cũng muốn đưa vào nhưng có những chuyện nó cũng tế nhị. Như anh cũng biết mình đang ở một tình thế là một nước nhỏ và không muốn chiến tranh, chúng ta trải qua chiến tranh quá dài rồi cho nên ai cũng muốn tình hình yên ổn. Tất nhiên việc yên ổn ấy không ảnh hưởng đến chuyện gây cho người ta nghĩ là mình chịu khuất phục. Vì vậy theo tôi trong khi người ta nói mà mình không nói thì không nên. Bởi vì người ta sẽ nói theo kiểu của người ta mà mình yên lặng không nói thì ngay người ta cũng không hiểu. Mình làm cách nào đó phải tuyên truyền đúng sự thật cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc nó khác với cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Riêng cá nhân tôi thì nên nói còn nói mức độ nào thì tùy theo hoàn cảnh tùy theo tình hình chứ không nói gì cả thì mình tỏ ra nhu nhược quá.
Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho biết nhận định của ông về việc cần phải đem sự thật lịch sử vào sách giáo khoa, ông nói:
Trách nhiệm của sách giáo khoa, của nhà trường là phải cung cấp sự thật và phương pháp phân tích, lý giải, đánh giá và thái độ đối với sự thật ấy. Với sự thật lịch sử thì trách nhiệm thuộc về môn lịch sử. Đúng như anh nói từ năm 79 cho đến giờ thì nó đã là thời gian quá dài rồi. Sách giáo khoa cần phải phân hóa ra, ví dụ như nhà trường phổ thông nó sẽ khác và đại học nó sẽ khác. Nếu mình chưa đưa vào phổ thông thì ít ra phải đưa vào đại học.
Trong mấy chục năm vừa qua thì cũng đã đủ thời gian để khoa lịch sử hiện đại cần phải có.Tôi cũng hiểu được lý do đưa đến chuyện không có trong sách giáo khoa ấy. Cá nhân tôi thì tôi vẫn cho là sự thật là trên hết và càng tôn trọng sự thật bao nhiêu thì cái lợi càng lâu dài và bền vững bấy nhiêu. Khi mà quan hệ xấu đi như hiện nay thì rõ ràng việc không công bố sự thật nó lớn hơn rất nhiều.
Tàu vận tải HQ-505 và HQ-604 bị tàu chiến Trung Quốc nã pháo, bắn cháy - chìm
 
Tàu vận tải HQ-505 và HQ-604 bị tàu chiến Trung Quốc nã pháo, bắn cháy – chìm =>


Lấy sự im lặng làm vũ khí đấu tranh với lòng tham của kẻ xâm lược không bao giờ là sách lược của tiền nhân và vì vậy khi lịch sử vẫn bị o ép nằm trong những chiếc cặp da ngoại giao thì tiền đồ dân tộc khó tránh khỏi vết xe của Tân Cương hay Tây Tạng
Câu hỏi tại sao nhà nước lại có hành vi cản trở việc công khai sự thật lịch sử nhất là âm thầm không cho phép Bộ Giáo dục đưa vào sách Giáo khoa đã được nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân giải thích:
Thật ra thì nhà nước cũng không ngăn cản đâu nhưng những sự kiện lịch sử nó phải có những bước lùi một chút để có đánh giá nó đầy đủ. Theo tôi thì bây giờ có thể đưa vào sách giáo khoa được rồi. Tôi chưa được nghe về phía chính thức của nhà nước phát biểu hay là cản trở chuyện này nhưng theo quan điểm của tôi như vừa nói tức là khi độ lùi nó đã đủ để mình nhìn nhận lại chín chắn vấn đề thì có thể đưa nó vào sách giáo khoa. Lịch sử nó là khách quan, sự thật nó như vậy thì mình phải đưa vào để các em học sinh nó hiểu được lịch sử đó hơn nữa nó cũng liên quan đến giáo dục lòng yêu nước nữa.
Thông thường thì những vấn đề lịch sử xa thì không cần phải hỏi ý kiến gì bởi vì cái đó đã vào chính sử rồi, còn vấn đề liên quan đến nhạy cảm như ta nói như hiện nay thì chắc là phải có ý kiến.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng, cũng là đại biểu quốc hội ba khóa liền cho rằng trách nhiệm đưa các cuộc chiến đối với Trung Quốc vào sách giáo khoa là trách nhiệm của Quốc Hội, ông cho biết:
Tôi nghĩ Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội cần đưa ra thảo luận tại Quốc hội. Bởi vì Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nếu Quốc hội quyết định thì Bộ Giáo dục phải chấp nhận, còn nếu chỉ để cho các trang mạng xã hội lên tiếng thì nó không có gì là chính thức cả. Thực ra hiện nay thì chỉ có các mạng xã hội lên tiếng thôi còn báo chí thì không có chỗ nào nhắc đến cho nên cần có sự thảo luận công khai. Giữ gìn tình hữu nghị khác với việc ta dấu sự thật.
Khi biết được sự thật lịch sử thì thanh niên Việt Nam sẽ có cách đối phó với những chiêu bài tuyên truyền xuyên tạc của Trung Quốc. Lịch sử dân tộc từng chứng minh rằng càng kiêng dè, sợ hãi thì kẻ thù càng lấn lướt, đè bẹp vì vậy thế hệ trẻ Việt Nam có quyền biết những thông tin này bất kể sự sợ hãi của nhà nước lớn đến đâu.
Lấy sự im lặng làm vũ khí đấu tranh với lòng tham của kẻ xâm lược không bao giờ là sách lược của tiền nhân và vì vậy khi lịch sử vẫn bị o ép nằm trong những chiếc cặp da ngoại giao thì tiền đồ dân tộc khó tránh khỏi vết xe của Tân Cương hay Tây Tạng.

Hồ Cẩm Đào lùi một bước để tiến hai bước với mục đích kiềm chế Giang Trạch Dân?

Nói ‘không’ với Giang Ông Lý, ủy viên Bộ chính trị và từng là trưởng Ban Tổ chức trung ương Đảng, được biết đến là người có đầu óc cải cách và thân cận với cựu Chủ tịch Hồ Cầm Đào, người vừa từ nhiệm cách nay vài ngày.

Trước đó, người ta đã từng tin rằng ông Lý ‘đã thất sủng’ khi không vào được cơ cấu Thường vụ Bộ Chính trị gồm bảy thành viên tại Đại hội Đảng lần thứ 18 hồi tháng 11 năm ngoái.

Có tin cho rằng các vị nguyên lão trong Đảng, dẫn đầu là cựu chủ tịch Giang, đã phản đối ông Lý Nguyên Triều.

Nhưng giờ đây nhiều người đã bất ngờ khi ông Lý trở thành phó chủ tịch nước. Mặc dù chỉ là một chức danh mang tính lễ nghi, nhưng kể từ năm 1998 trở đi phó chủ tịch nước luôn phải là một ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị.
"Quyết định quan trọng của Chủ tịch Hồ (Cẩm Đào) đã cho thấy suy nghĩ sâu sắc của đồng chí về vận mệnh chung của Đảng, đất nước và quân đội và thể hiện đạo đức gương mẫu và phẩm giá của đồng chí. - Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
Khai mạc Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc
Hồ Cẩm Đào lùi một bước để tiến hai bước với mục đích kiềm chế Giang Trạch Dân?
Giang Trạch Dân được cho là can thiệp sâu vào việc sắp xếp nhân sự tại Đại hội 18

Việc Lý Nguyên Triều được đưa vào ghế phó chủ tịch nước là một dấu hiệu nữa cho thấy ảnh hưởng của nhà cựu lãnh đạo Giang Trạch Dân đối với thế hệ lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc đang suy giảm.

Đây là nhận định do BBC Monitoring, bộ phận theo dõi và phân tích thời sự của BBC, đưa ra sau kỳ họp Quốc hội để hoàn tất việc chuyển giao thế hệ lãnh đạo của Trung Quốc.

Theo hãng tin Anh Reuters, Tân Chủ tịch kiêm Tổng bí thư Tập Cận Bình đã chống lại một chiến dịch vận động của Giang Trạch Dân để đưa ông Lưu Vân Sơn lên nắm chiếc ghế này.

Lưu Vân Sơn hiện là ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị và trước đây nắm bộ máy tuyên giáo của Đảng.

“Đây là quyết định của ông Tập và là một dấu hiệu cho thấy ông ta đủ sức mạnh để có thể nói ‘không’ với ông Giang,” Reuters dẫn một nguồn tin thân cận với giới lãnh đạo Trung Quốc cho biết.

Giang Trạch Dân, nay đã 86 tuổi, đã không nắm bất cứ vị trí chính thức nào kể từ năm 2004. Tuy nhiên bất chấp tuổi cao sức yếu, ông vẫn hoạt động rất tích cực sau hậu trường trong suốt thời gian cầm quyền của Hồ Cẩm Đào, người kế nhiệm và cũng là đối thủ của ông.

Với kết quả của Đại hội 18, hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng ‘Thượng Hải Đảng’ của ông Giang, vốn từng là bí thư Thành ủy Thượng Hải, đã chiến thắng trong cuộc đấu đá quyền lực khi các đồng minh của ông áp đảo trong cơ cấu Thường vụ Bộ Chính trị mới.

Giáng cấp đột ng̣ột
"Ông Hồ đã làm gương về việc rút lui hoàn toàn, rút lui ‘trắng’. Điều này đã gây sức ép lên ông Giang phải làm theo và chấm dứt can thiệp vào công việc của Đảng, nhất là trong vấn đề sắp xếp nhân sự. " - Willy Lam, một chuyên gia chính trị ở Hong Kong
Cái cách mà truyền thông Trung Quốc lâu nay nêu tên ông Giang lên trước hầu hết các ủy viên đương nhiệm của Thường vụ Bộ Chính trị mỗi khi Giang xuất hiện dường như là minh chứng cho điều này.

Hôm 27/11, tức là không lâu sau khi Đại hội 18 kết thúc, tên ông Giang chỉ đứng sau các ông Hồ và Tập và đứng trước Chủ tịch Quốc hội Ngô Bang Quốc và Thủ tướng Ôn Gia Bảo trong bản tin của Tân Hoa Xã về tang lễ của Giám mục Đinh Quang Huấn.

Tuy nhiên đã có thay đổi không lâu sau đó, Hôm 21/1, tại lễ tang của Tướng Dương Bạch Băng, tên tuổi ông Giang đã bị đưa ra phía sau Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình và tất cả các tân ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị.

Việc giáng cấp đột ngột này ngay lập tức đã gây chú ý cho giới truyền thông và cộng đồng mạng.

Hai ngày sau, truyền thông nhà nước Trung Quốc giải thích rằng chính Giang Trạch Dân đã yêu cầu thay đổi như thế và đó là một hành động thể hiện ‘đạo đức gương mẫu, phẩm giá và cách nghĩ thoáng đạt của một người cộng sản’.

Tuy nhiên, hành động ‘gương mẫu’ này đã từng được Hồ Cầm Đào thực hiện trước đó hơn hai tháng.
Hồ và Giang
Hồ Cẩm Đào là người được Đặng Tiểu Bình chọn để kế nhiệm Giang Trạch Dân
Không giống như Giang Trạch Dân, vốn vẫn nắm ghế chủ tịch Quân ủy Trung ương thêm gần hai năm nữa sau khi đã xuống ghế tổng bí thư Đảng hồi năm 2002, Hồ Cẩm Đào đã nhường lại cả vị trí lãnh đạo Đảng và Quân ủy ngay tại Đại hội 18.

Tập Cận Bình đã không tiếc lời khen ngợi Hồ Cẩm Đào cho hành động này.

“Quyết định quan trọng của Chủ tịch Hồ đã cho thấy suy nghĩ sâu sắc của đồng chí về vận mệnh chung của Đảng, đất nước và quân đội’ và thể hiện ‘đạo đức gương mẫu và phẩm giá của đồng chí,’ Tập Cận Bình từng phát biểu.

Vào lúc đó, việc Hồ Cẩm Đào rút lui hoàn toàn được rất nhiều người hiểu là ông đã thất bại trong cuộc đấu quyền lực với Giang Trạch Dân.

Nước cờ cao?

Tuy nhiên giờ đây nhiều nhà phân tích tin rằng đây là một nước cờ chiến lược nhằm để kiềm chế ảnh hưởng của Giang Trạch Dân và các vị nguyên lão khác.

“Ông Hồ đã làm gương về việc rút lui hoàn toàn, rút lui ‘trắng’. Điều này đã gây sức ép lên ông Giang phải làm theo và chấm dứt can thiệp vào công việc của Đảng, nhất là trong vấn đề sắp xếp nhân sự,” Willy Lam, một chuyên gia chính trị ở Hong Kong, nói với hãng tin Pháp AFP.
Ba ông Giang, Hồ, Tập
Ông Tập đang tìm cách kiềm chế ảnh hưởng của ông Giang?
Tuy nhiên, nếu như Giang Trạch Dân bị buộc phải chấm dứt can thiệp quá mức vào nội tình Đảng, thì chắc chắn ông vẫn còn thể giật dây sau hậu trường thông qua các đồng minh của ông đã được đặt vào Thường vụ Bộ Chính trị chứ?
Khi Đại hội 18 kết thúc, nhiều nhà phân tích cho rằng liên minh giữa ‘Thượng Hải Đảng’ và ‘Thái tử Đảng’ đã giành thế đa số với tỷ số 6-1 trước ‘Đoàn phái’, tức những nhân vật đi lên từ Đoàn Thanh niên Cộng sản, của ông Hồ Cẩm Đào vốn chỉ có mỗi ông Lý Khắc Cường.
Tuy nhiên, suy nghĩ cho rằng Tập Cận Bình là một trong các đồng minh của Giang Trạch Dân đang ngày càng trở nên xa vời.
Việc ông Tập lựa chọn Lý Nguyên Triều làm phó chủ tịch bất chấp sự phản đối của Giang dường như là nỗ lực mới nhất của Tập để chứng minh rằng ông chỉ làm theo quyết định của mình.
Liên minh Tập-Hồ? 
 Việc Tập Cận Bình chọn đồng minh của Hồ Cẩm Đào chứ không chọn người mà Giang Trạch Dân ủng hộ cũng cho thấy rằng có thể Tập đang cùng với phe ông Hồ tìm cách kiềm chế sự can thiệp quá mức của ông Giang.
"Có lẽ Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định thay đổi từ cách ‘lãnh đạo tập thể’ của Thường vụ Bộ Chính trị dưới thời ông Hồ, vốn được cho là làm suy yếu các lãnh đạo hàng đầu và là nguyên nhân dẫn đến tranh giành quyền lực, sang mô hình ‘lãnh đạo hạt nhân’ của bộ đôi Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường." - Nhật báo Hong Kong Apple Daily
Tất cả những ủy viên còn lại trong Thường vụ Bộ Chính trị, ngay cả khi tất cả đều trung thành với Giang, cũng không thể đối trọng lại với Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường, nhân vật số 1 và số 2 trong Thường vụ Bộ Chính trị.

Trong vòng những tháng qua, truyền thông Trung Quốc chỉ tập trung đưa tin về các bài diễn văn và các chuyến công cán về địa phương của hai ông Tập và Lý. Còn tất cả năm ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị còn lại hầu như không được nhắc đến, nhật báo Apple Daily của Hong Kong cho biết.

Tờ báo này nhận định rằng có lẽ Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định thay đổi từ cách ‘lãnh đạo tập thể’ của Thường vụ Bộ Chính trị dưới thời ông Hồ, vốn được cho là làm suy yếu các lãnh đạo hàng đầu và là nguyên nhân dẫn đến tranh giành quyền lực, sang mô hình ‘lãnh đạo hạt nhân’ của bộ đôi Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường.

Nếu quả đúng như thế thì ‘thắng lợi to lớn’ của phe Giang Trạch Dân tại Đại hội Đảng bốn tháng trước bây giờ hóa ra chỉ là chiến thắng hão.

(BBC)

NGUYỄN NỄ – BẬC KỲ TÀI

nguyentrongtao


«BẬC KỲ TÀI,  VUA QUANG TRUNG NỂ VÌ HỌC THỨC, THƯỜNG GIÓNG NGỰA QUÝ TỚI THĂM»
       TS  PHẠM TRỌNG CHÁNH
Từ cuối  năm 1790, đến 1794. Nguyễn Du về sống tại Thăng Long, thời gian này anh Nguyễn Nễ đang làm quan Tây Sơn tại Thăng Long. Đó là người anh thân thương nhất của Nguyễn Du, cùng cha cùng mẹ, cha mất lúc Nguyễn Du  10 tuổi, mẹ mất lúc 12 tuổi, anh em được ông anh cả Nguyễn Khản nuôi dưỡng. Ông anh cả Nguyễn Khản trong vụán Trịnh Tông năm 1780, bị giam, nhà chúa nể tình tha cho không bị giết. Khi chúa Trịnh Sâm mất năm 13 tháng chín năm Nhâm Dần 1782 thọ 44 tuổi, Trịnh Cán còn thơấu được phe Quận Huy, Đặng thị Huệ bế lên làm chúa, quân lính không phục nổi loạn giết quận Huy, phò Trịnh Tông từ nhà giam lên nối ngôi, Nguyễn Khản thầy dạy Trịnh Tông trở thành Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa và Thái Nguyên, năm đó Nguyễn Du thi đỗ Tam Trường, được Nguyễn Khản phong chức Chánh Thủ Hiệu quân Hùng hậu hiệu, nắm giữ đội quân hùng hậu nhất Thái Nguyên, cùng thuộc hạ là Nguyễn Đăng Tiến , tước Quản Vũ Hầu làm quyền Trấn thủ Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh làm Trấn Tả Đội.
Tại Thăng Long Nguyễn Khản cùng em Thái Phi là Dương Khuông trở thành rường cột của triều đình toan thiết lập uy quyền.Nhân có 4 kiêu binh giả danh nghĩa hiếp đáp một người lái buôn mượn thuyền, bị đội trưởng phát giác, triều đình đem chém cả bốn. Tiếp đến kiêu binh rước hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ, bị giam con Thái Tử Lê Duy Vỹ bị chúa Trịnh bức tử,đưa Duy Kỳ lên làm Hoàng Thái Tử. Kiêu binh càng lộng quyền vì cho rằng chúa và vua đều do chúng dựng nên, họ kéo đến cung cua đòi ban thưởng, vua sai đánh cá hồ sen lên làm gỏi thết đãi cả bọn. Trong lúc kiêu binh đang chè chén. Nguyễn Khản và nhà chúa bàn và sai Triêm vũ hầu đem quân đến bắt được 7 tên, triều đình nghị sựđem ra chém. Vụ này làm bùng lên sự nổi giận của đám kiêu binh. Nguyễn Khản bị kiêu binh kéo đến đốt phá tiêu tan cả dinh thự, nhờ có người kiếm khách  gốc người Trung Quốc chống cự, Nguyễn Khản trốn được lên Sơn Tây với Nguyễn Điều, đang làm Trấn Thủ Sơn Tây. Dương Khuông và Nguyễn Triêm trốn vào phủ chúa. Chúa Trịnh và Thái Phi phải ra khóc lóc kêu nài, và xin đem tiền chuộc mạng cho em Thái Phi là Dương Khuông, mới được tha. Triêm Vũ hầu Nguyễn Triêm bị kiêu binh giết chết. Nguyễn Khản và Dương Khuông đều bị bãi chức. Nguyễn Khản toan đem quân các trấn về, nhưng kiêu binh giam giữ chúa Trịnh nên không làm gì được, Nguyễn Khản bỏ về Hà Tĩnh. Quyền bính về tayđám kiêu binh, uy quyền vua Lê, chúa Trịnh chẳng còn gì cả. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc hạ của Hoàng Đình Bảo phe quận Huy và Đặng Thị Huệ phò vương tử Cán, Quận Huy bị kiêu binh giết, Chỉnh sang đầu hàng Tây Sơn, làm tiên phong dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc, quân chúa Trịnh đánh đâu thua đó.Năm 1786,  Nguyễn Khản từ Nghệ An về kinh làm cố vấn cho nhà chúa, bàn mưu chống cự Tây Sơn, bị bọn kiêu binh họp nhau ồn ào ầm ỹ, cho rằng Nguyễn Khản đưa giặc đến. Khản phải cướp đường chạy đi Sơn Tây. Trịnh Tông tế voi ra chiến đấu, thua trận chạy trốn và bị bắt phải tự vẫn. Nhà Trịnh sụp đổ, hai ông anh lớn Nguyễn Khản, Nguyễn Điều gia phả chép bị bệnh mà mất trong hoàn cảnh này và được an táng tại làng Tiên Điền.
Nguyễn Nể ra làm quan Tây Sơn, chống đỡ sự sụp đổ của gia đình. Có lẽ chúng ta chưa nghiên cứu kỹ về Nguyễn Nể và những đóng góp Nguyễn Nể với triều đại Tây Sơn. Lời Đoàn Nguyễn Tuấn khi sứ thần nhà Thanh hỏi : Ai là đỉnh cao thi ca nước Nam ?Đoàn Nguyễn Tuấn trả lời : Là Quế Hiên Nguyễn Nể . Dưới ngòi bút Phan Huy Ích : Nguyễn Nể là bậc kỳ tài, Vua Quang Trung nể vì học thức, thường gióng ngựa quý đến thăm .
Vua Quang Trung là người biết trọng nhân tài, trong lịch sử Việt Nam ít ai sánh bằng. Không ai cười vua Quang Trung văn viết nôm na, ít học khi viết phê việc Văn Miếu bị phá, nhưng kính trọng vua Quang Trung là người biết dùng nhân tài. Vua Quang Trung dùng Trần Văn Kỷ, Nguyễn Thiếp, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở.. chúng ta đã biết,  nhưng với Nguyễn Nể, vua không sai người triệu đến hỏi ý kiến mà thường gióng ngựa quý tới thăm, chứng tỏ Vua Quang Trung còn trân trọng với Nguyễn Nể, người anh của Nguyễn Du đến bậc nào.
Anh Nguyễn Nể,(1761-1805)con quan Tư Đồ (Tể Tướng) Nguyễn Nghiễm vàbà Trần thị Tần, ông ngoại là Trần Ôn, hiệu Quyển Lự, làm chức Câu Kê (Kế toán) cho Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, gia phả họ Trần sao chép năm Thành Thái thứ sáu (1906) làng Hoa Thiều,  Từ Sơn, Bắc Ninh có hai người đỗđạt là Tiến Sĩ  Trần Ngạn Húc và Tiến Sĩ Trần Phi Nhãn.
Theo gia phả Nguyễn Nhiệm vị tổ đầu tiên gốc làng Canh Hoạch, Thanh Oai Hà Tây, sau khi ý đồ phục hưng nhà Mạc không thành vàio Tiên Điền tạo dựng cơ nghiệp vào giữa thế kỷ XVI. Nguyễn Nhiệm gắn bó với dân làng bằng nghề bốc thuốc. Trong trước tác họ Nguyễn Tiên Điền có hai tác phẩm về y học là Nam Dương tập yếu kinh nguyên và TừÂu chân truyền của Nguyễn Quỳnh. Nguyễn Quỳnh sinh ba người con trai là Nguyễn Huệ, Nguyễn  Nghiễm, và Nguyễn Trọng.
Quan Tư Đồ Nguyễn Nghiễm (1708-1775) tự Hy Tư, tiểu húy là Thiều, hiệu Nghị Hiên, Hồng Ngư cư sĩ, Anh ông là Nguyễn Huệ (1705-1733) tự Tư Hoà, hiệu Giới Hiên đỗ Tiến sĩ năm 1733 và mất sau ngày vinh quy năm 29 tuổi. Em ông là Nguyễn Trọng ( 1710-1789) tự Thúc Văn hiệu Nhã Hiên, 1732 đỗ Tứ Trường Thi Hương, làm Tri huyện Trường Khánh Lạng Sơn, 1743 thi Hội đỗ Tam Trường thăng Thừa Chánh Sứ Lạng Sơn. 1771 đổi sang võ chức Tham Đốc.
Nguyễn Nghiễm, đỗ Tiến Sĩ từng làm Tế Tửu Quốc Tử Giám sau làm quan đến chức Tư Đồ (Tể Tướng) tước Xuân Quận Công, ông có 8 người vợ và 21 người con trong đó có 12 người con trai.
Người cả là Nguyễn Khản (1734-1786) con bà Đặng Thị Dương quê Hà Tĩnh. Đỗ Tiến Sĩ năm 1760, làm quan to Tả Thị Lang, kiêm Hiệp Trấn Sơn Tây rồi Thượng Thư Bộ Lại. Ông là người phong lưu rất mực thích thơ nôm vàđã diễn ca Chinh Phụ Ngâm (văn bản mới tìm được lại  là bản F trong sách Chinh Phụ Ngâm  bị Khảo của GS Hoàng Xuân Hãn). Ông là thầy của Thế Tử Trịnh Tông, và là bạn câu cá, ngâm thơ, hát xướng được ngồi ngang hàng với chúa Trịnh Sâm. Ngoài ra ông còn có tài kiến trúc, mọi việc xây dựng từ hòn non bộ đến cung vua phủ chúa đều do ông.Chính thất ông là Đặng Thị Vệ (1736 ?) người nuôi dưỡng anh em Nguyễn Du. Con ông Nguyễn Công  tham gia Sùng Chính Viện của Nguyễn Thiếp đời Tây Sơn, hai con gái là Nguyễn Thị Bành, Nguyễn thịĐài lần lượt kết hôn với Nguyễn Huy Tự(1743-1790). Huy Tự đậu Tứ Trường thi Hương, làm quan Trấn Thủ Hưng Hóa, tác giả truyện nôm Hoa Tiên. Nguyễn Huy Tự có con là Nguyễn Huy Phó (1765-1838) đỗ giải nguyên, con thứ Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) tác giả Mai Đình Mộng Ký.
Nguyễn Điều hay Điền hay Cương ( 1736 – 1786), con bà Đặng Thị Thuyết em bà cả người Hà Tĩnh, đỗ Tứ Trường kỳ thi Hương năm Kỷ Mão 1759, làm Hiệp Trấn Sơn Tây, Hoàng Lê NTC đánh giá là người nhiều mưu kế. Con ông và bà phu nhân họ Bùi, con gái Đoan quận Công Bùi ThếĐạt  là Nguyễn Thiện (1763-1818), tự Khả Dục, hiệu Thích Hiên, đỗ Tứ Trường năm Quý Mão 1783, có tham gia Sùng Chính Viện thời Tây Sơn, đời Gia Long ông ẩn cưở quê nhà và nhận sắc truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự.  Con thứ Nguyễn Điều là Nguyễn Hành (1771-1824) hay Đạm tự Tử Kính, hiệu Nam Thúc, Ngọ Nam, Nhật Nam, là một trong năm người  An Nam ngũ tuyệt. Mất cha năm 15 tuổi, không thấy  Nguyễn Hành ra thi cử thời Gia Long,  ông sống thanh bần khi ở Thăng Long, khi ở quê nhà Hồng Lĩnh, ông có tham gia soạn Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh với Ngô Thời Nhậm.Hưởng dương 53 tuổi ông để lại hai tập thơ Quan Đông Hải và Minh Quyên thi tập.
Nguyễn Nhưng con bà Hồ Thị Ngạn ở Hà Tĩnh, đậu Tứ Trường năm Quý Mão 1783ông ở Hà Tĩnh và sống về nghề thuốc. Có con là Nguyễn Y, tự là Giác Phủ người soạn tục biên gia phả  họ Nguyễn Tiên Điền, những lầm lẫn trong gia phả Nguyễn Tiên Điền về Nguyễn Du có lẽ xuất phát từđây vì Nguyễn Y chỉở Tiên Điền nên không biết rõ những sự kiện xãy ra ở Thăng Long, Thái Nguyên cũng nhưở Quỳnh Hải cũng nhưở Hoa Thiều, Chu Kiều, Bắc Ninh.
Nguyễn Quýnh (1761-1791) hiệu Sĩ Hữu ,con bà  Nguyễn Thị Xuyên, đậu Tam Trường làm quan Trấn Tả Đội,  khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Tư Nông cùng Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến, bị chỉ huy Giáo bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm tha chết, cùng Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Du đi Vân Nam, đến Liễu Châu lại trở về chống Tây Sơn tại Tiên Điền, bị Trấn Thủ Tây Sơn là Lê Văn Dụ bắt giết, làng Tiên Điền bị làm cỏ.
Nguyễn Trứhay Trừ (1760-1809)con bà Nguyễn thị Xuân quê làng Chu Kiều xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh  đậu Tứ Trường khoa Kỷ Hợi, năm 1779, từng làm tri huyện Siêu Loại, tri phủ Kinh Môn, Nam Sách, (Hưng Hóa), Theo Lê Quý kỷ sự tr 57 chép :Khi Lê Chiêu Thống lên ngôi,  Nguyễn Trứ được mật dụ nhà vuasai tuyển phiên mục Hưng Hóa là bọn Đinh Công Hồ và Đinh Công Trinh dấy quân vào bảo vệ hoàng thành để gìn giữ cho nhà vua. Hồ vâng chiếu chỉ điều bát hết quân các bộ lạc và quân miền sơn cước Sơn Tây, được đến hơn một vạn người. Trấn Sơn Tây bị rung động. Chưởng phủ sự Hoàng Phùng Cơ xin với nhà chúa Trịnh Bồng kéo quân về Sơn Tây để trấn áp bọn Hồ. Thời loạn lạc ông về quê mẹ làm nghề thuốc. Có con gái là Nguyễn Thị Uyên nổi tiếng là thầy thuốc giỏi, được tuyển vào cung vua Gia Long làm ngự y chữa bệnh cho các cung nữ sau bà trở về quê mẹ huyện Yên Phong Bắc Ninh và mất năm 49 tuổi. Con trai là Nguyễn Trù làm tri phủ Vĩnh Tường.
Nguyễn Nghi, hiệu  là Chu Kiều,  con bà Nguyễn Thị Xuân, làm nghề thầy thuốc, có con là Nguyễn Toản ( hay Tản), nhà xã Cẩm Chương, Bắc Ninh, đậu Cử Nhân Khoa Mậu Tý (1828), đỗ Đồng Tiến Sĩ khoa Nhâm Thìn (1832)đời Minh Mạng làm quan đến chức Viên ngoại Lang, Nguyễn Toản học với quan Tế Tửu Phạm Đình Hổ, đỗ Tiến sĩ được Phạm Đình Hổ tặng hai câu : Thanh thủy luân khôi, Khoa đồ phát nhẫn (nước xanh đỗ trạng, khoa đồ vẻ vang)
Nguyễn Nghi diễn ca truyện thơ Quân Trung Đối, 1 116 câu(GS Võ Thu Tịnh giới thiệu in lại bản trên tạp chí Luận Đàm Sài Gòn năm 1961-1962 số 4-9, do GS Nghiêm Toản chú thích, nxb Đông Nam Á Paris ấn hành 1997, sách này lầm lẫn cho là tác phẩm Quân Trung Đối  của Nguyễn Ức, nhưng Nguyễn Ức  không phải là thân sinh của Nguyễn Toản và cũng không làm nghề thầy thuốc). Từ sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Tiên Điền bị làm cỏ, chi ở Chu Kiều hưng thịnh ngày nay còn giữ lại nhiều kỷ vật của Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm.
Ngoài ra có Nguyễn Cảnh không rõcon  các bà Phan Thị Diên, hay bà Hoàng Thị Thược là một thầy thuốc giỏi, gia phả cũng ghi : Ông học rộng, hay thơ nhưng không ra làm quan, chịu khó sưu tầm các sách y học.. Ông chế biến rất tài tình, nên người ta gọi thuốc ông là thuốc thánh. Nguyễn Hành gọi là lương tướng.
Bà  Trần Thị Tần(1735-1778) là vợ thứ ba có  4 người con trai và một người con gái :
-          Nguyễn Trụ tức Dao (1758-1776) thi Hương đậu Tứ Trường năm Tân Mão1771,  15 tuổi, được bổ làm Hồng Lô tự thừa. Có tài thơ văn được Chúa Trịnh khen là Hổ phụ sinh hổ tử, tiếc thay mất lúc 18 tuổi.
-          Nguyễn Nể tức Đề (1761-1805) (Nể là kính nể viết dấu hỏi) đậu Tứ Trường năm Kỷ Hợi 1779.
-          Nguyễn Thị Diên, có chồng là Tiến Sĩ Vũ Trinh (1769-1828)đỗ Hương tiến năm 1786. Không rõ Nguyễn Thị Diên là chị hay em Nguyễn Du, gia phả chép là chị, nếu là chị sanh khoảng năm 1764 thì lớn tuổi hơn chồng nhiều quá ? có lẽ là em thìđúng hơn vì như thế sanh khoảng năm 1769, 1770.
-          Nguyễn Du (1766-1820) sinh ngày 23-11 năm Ất Dậu, âm lịch tính ra dương lịch là ngày 3-1-1766,đậu Tam Trường năm Quý Mão 1783.
-          Nguyễn Ức (1767-1823) tập ấm Hoàng Tín Đại Phu, Trung thành môn vệúy. Năm 1811 Vua Gia Long vời ra bổ làm Thiêm sự Bộ Công đời Gia Long tước hầu, kiến trúc sư chỉ huy vẽ kiểu, sáng chế, tính toán các công trình xây dựng Kinh thành Huế thời Gia Long , Minh Mạng có con là Nguyễn Thắng..
Nguyễn Nể tự là Tiến Phủ, hiệu Quế Hiên , thi đậu đầu khảo khóa Quốc Tử Giám, đậu đầu thi hạch. Năm 1779 thi Hương đậu Tứ Trường, Nguyễn Nể được bổ vào Thị Nội Văn thường trực tại nhà học con chúa Trịnh (Trịnh Tông), sau kiêm Trị thị nội thư tảở Phủ Chúa, cai quản đội quân Nhất Phẩm. Năm 1783 Nguyễn Điều thay anh  Nguyễn Khản, Thượng Thư Bộ Lại làm Hiệp Trấn Sơn Tây, Nguyễn Nể phụ tá làm Hiệp tán quân cơđạo quân Sơn Tây.
Khi Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh tôn phò nhà Lê năm 1786, được Vua Lê gả công chúa Ngọc Hân, vua Lê Hiển Tông băng hà, cháu nội Lê Duy Kỳ nối ngôi hiệu Chiêu Thống, nhân dịp quân Nam tôn phò, vua Chiêu Thống hăng hái tự gánh lấy việc nhất thống. Ngoài việc sai các hoàng thân, ai về quê quê ngoại nấy chiêu tập binh mã, vua còn tìm các nho sĩ mời vào giúp việc cho mình. Hoàng Lê NTC tr 149 chép : « về mặt quan văn đã thu dùng được  Ngô Vi Quý, Vũ Trinh(1769-1828), Nguyễn Nể. vua Lê ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo ». Sau đó không còn thấy dấu vết Nguyễn Nể HLNTC chép mâu thuẩn giữa Ngô Vi Quýâm mưu giết Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Trinh can gián âm mưu này với vua Lê. Vũ Trinh tiếp tục là một vị quan  đắc lực cho triều vua Chiêu Thống. Khi Tôn Sĩ Nghị sang nước ta Vũ Trinh là Chánh Sứ phụ trách mọi công việc bang giao với Tôn Sĩ Nghị. Suốt triều Tây Sơn, (1789-1801) Vũ Trinh lánh thân ở Hồ Sơn vùng Hà Nam ngày nay, dạy học và soạn sách. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, Vũ Trinh được mời ra tham chính, nhận chức Thị Trung Học sĩ được thăng Hữu Tham Tri Bộ Hình năm 1807 làm Chánh Sứ cùng Ngô Nhân Tĩnh đi sứ nhà Thanh. Năm 1816 ông cóý bênh vực cho học tròông là Nguyễn Văn Thuyên, con Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành nên bịđày đi Quảng Nam 12 năm, đến năm 1828 mới được ân xá, trở về quê vài ngày thì bị bệnh mất hưởng dương 59 tuổi.
Thời gian 1788,  Tôn Sĩ Nghị sang chiếm nước ta, vua Lê Chiêu Thống thanh trừng những người cộng tác với nhà Tây Sơn. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích nhận chức tước của vua Quang Trung, bịđục tên khỏi bia Văn Miếu, truất về làm dân về làng gánh vác sai dịch. Phạm Như Toại bắt em vua nộp cho Tây Sơn, Nguyễn Bành dẫn quân đuổi theo vua,  bị chém ngang lưng.  Nguyễn Quý Nha, Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn viết thư mạo xưng giám quốc Sùng Nhượng Công để mong xin hoãn binh, đều bị hạ ngục. Nguyễn Nể làm gì trong thời gian này, ông không có trong danh sách những người bị tội, cólẽông về quê mẹ, làng Hoa Thiều, Bắc Ninh. Năm 1789 vua Quang Trung ra Bắc đánh bại Tôn Sĩ Nghi quét sạch quân Thanh ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Nể được vời ra bổ làm Hàn Lâm Thị Thư và làm Phó Sứ sang Trung Quốc cầu phong nhà Thanh cho Vua Quang Trung, Vũ Huy Tấn làm Chánh Sứ, sứđoàn còn có Ngô Vi Quý , Nguyễn Đình Cử, Nguyễn Quang Hiến.. Trong cuộc đi sứ, vua Càn Long mời dự yến ở Các Tứ Quang ông làm thơ chúc mừng, vua Càn Long thưởng cho một tấm đoạn, hai thỏi mực và 3 tập hoa tiên lụa. Trở về được thăng Đông Các Học Sĩ, Thái tử Tả Thị Lang, Nghi Thành Hầu, được giao việc cai trị tại Bắc Hà.  Do đó từ năm 1789 cho Nguyễn Nể và Vũ Huy Tấn là người có trách nhiệm về ngoại giao với nhà Thanh.
Vua Quang Trung mất ngày 29 tháng 7 năm 1792, để lại sự nghiệp dỡ dang, vua Cảnh Thịnh lên ngôi mới mười tuổi, mọi việc trong tay người cậu là Bùi Đắc Tuyên, không đủ bản lĩnh dùng người, các tướng lĩnh chia phe đánh nhau. Quân sư Trần Văn Kỷ bịđày, Ngô Thời Nhiệm từ năm 1798 lui về Bích Câu trở thành Hải Lượng Đại Hoà Thượng viết Trúc Lâm Tông chỉ Nguyên Thanh, Phan Huy Ích lui về dạy học tại hồ Kim Âu .  Năm 1794, Nguyễn Nể vào Phú Xuân làm việc Viện Cơ Mật,ông giao phó tiền bạc cho hai em là Nguyễn Du và Nguyễn Ức về xây dựng lại từ đường, đền thờ, cầu Tiên, chùa Trường Ninh làng Tiên Điền bị Hiệp Trấn Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt phá nhân vụ Nguyễn Quýnh khởi nghĩa.Nguyễn Nể sau đó được phong Tả phụng Nghi Bộ Binh, hàm Tam phẩm,  được cử làm Hiệp Tán Nhung vụ Quy Nhơn. Năm 1795 được cử làm Chánh Sứ sang dự lễ vua Càn Long nhường ngôi cho con là vua Gia Khánh. Nguyễn Nể dâng hai bài thơứng chế được vua Càn Long đích thân mời uống rượu và dự yến Các Tử Quang. Nguyễn Nể được vua Càn Long khen thơ và ban thưởng : gấm đoạn, trà sen, gậy tuổi già, ngọc nhưý, tứ bửu.. Cháu 24 đời Chu Văn Công tri phủ Tứ Thành tặng bốn chữ Thiên Môn Tái Đăng (hai lần lên cổng trời) Trung Hiếu Đại Phu Hoàng Phu Thái tặng bốn chữ Hồng Sơn Thế Phổ (dòng dõi nổi tiếng núi Hồng), mùa thu 1796 sứđoàn về nước, hai lần đi sứ của Nguyễn Nể đều được vẻ vang, vua và triều đình nhà Thanh kính trọng,trở về được vua Cảnh Thịnh ban thưởng 40 mẫu ruộng và thăng chức Tả Đồng Nghị Trung thư sảnh.
Khi Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân năm 1802,  lên ngôi lấy hiệu Gia Long, Nguyễn Nể trốn tránh được gọi ra. Nguyễn Nể dâng sớ được Vua Gia Long ban thưởng và cho theo ra Bắc làm việc dưới quyền Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, (sự việc này các sách thường lầm lẫn với Nguyễn Du, vì lúc đó Nguyễn Nểđã có danh tiếng, nên Vua Gia Long đang cần đến ngoại giao với nhà Thanh mới mời ra, còn Nguyễn Du lúc đó vô danh, Nguyễn Nể không bị Đặng Trần Thường đem ra đánh tại Văn Miếu như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan..)
Nguyễn Nể lo việc chỉ dẫn cho sứđoàn Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đứcđi sứ cầu phong năm 1802. nhưng không thấy ông nhận một chức vụ gì. Năm Quí Hợi 1803-1804  sứđoàn Tề Bồ Sâm nhà Thanh đến phong vương cho vua Gia Long, được Gia Long tiếp . Nguyễn Du là người tiếp sứ cùng với Tri phủ Thượng Hồng Trần Quý Chuyên, tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên cùng tri phủ Tiên Hưng là Trần Lưu đi nghênh tiếp từ Lạng Sơn. Thơ văn tống tiễn sứ đều do Nguyễn Du thảo ra.  Có lẽNguyễn Nể cũng đóng một vai trò cố vấn trong việc phong vương lần đầu tiên này, nhưng vì  vua Gia Long  vì muốn tránh tiếng hay nghi kỵ, không muốn dùng người Tây Sơn đã dùng, nên dùng  Nguyễn Du thay cho Nguyễn Nể, và Ngô Thời Vị thay cho anh là Ngô Thời Nhiệm.Phan Huy Thực, Phan Huy Chú thay cha Phan Huy Ích. Phan Huy Thực, Chánh sứ năm 1817 Phan Huy Chú đi sứ làm Chánh sứ năm 1825, 1830. Năm 1820, Khi Nguyễn Du mất Ngô Thời Vị được thay làm Chánh Sứ. Năm 1805 nhân có người thiếp mất,  Nguyễn Nể về quê bị tri phủ Trần Văn Chiêu truy bức, ông uất ức mà mất lúc 44 tuổi.
Các bạn đồng thời, những ngòi bút lớn như Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ninh Tốn.. ca tụng, và quý mến Nguyễn Nể một bậc kỳ tài, tài đức toàn diện. Ta thử đọc các bài thơ người đồng thời viết về Nguyễn Nể : Phan Huy Ích, trong Dụ Am Ngâm Lục tập II nxb KHXH Hà Nội tr 96 -101, Không biết trong sử sách có người nào được ca tụng hơn thế này không ? Nguyễn Nể được vua Quang Trung nể vì học thức thường gióng ngựa quý tới thăm, được vua trọng vọng nơi cung điện. Là bậc kỳ tài của châu Hoan, đạo đức làm rạng rỡ quê tổ tiên. Là người tiến thủ, tài ba, khí phách, (có lẽ Phan Huy Ích muốn nói, thời Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị trở về, trả thùông không bị tội, thời Gia Long lên không trị tội mà còn dùng ông) từ trẻ đã tỏ ra xuất sắc cơ trí ở đời từng trải sớm. Đức độ kiến thức ngày càng rộng lớn. Khí tiết như thông chịu đựng sương buốt. Phẩm chất như ngọc bao phen mài dũa. Bản lĩnh có từ lòng trung tín. Hành động cử chỉ đều lỗi lạc. Hiểu nghĩa lý đến tận kẻ tóc chân tơ. Thoáng câu chuyện tỏ ra người sắc bén. Làm bạn khắp thế gian, gắn bó như ruột thịt. Nhìn rõ mọi việc thiên hạ. Nắm vững để vận dụng. Tạo hóa ban phẩm chất kỳ lạ. Giao cho trách nhiệm thật xứng đáng… Ba năm cây đàn, thanh kiếm đi khắp đó đây. Khi chén rượu câu thơ vẫn thường vui vẻ. Đấng trượng phu trên đường công danh. Giữ chí sao mà đoan trang đúng mực . Phía Nam biển rộng mênh mang. Đất mới khai thác của triều thịnh. Quy Nhơn là ấp thang mộc quê hương  vua Quang Trung. Cũng là nơi then chốt cần bậc anh tài. Dân vừa được vỗ về yên ổn. Uy danh quân đội đang lừng lẫy. Khi triều đình cần người đến trấn giữ bờ cõi, thì khẳng khái đến nơi hổ trướng cầm quân. Lòng hùng khiến mây khói khí độc tan hết, tiếng thanh cao tỏ rõ ở cây đàn, con hạc. Cửa bể Thị Nại sóng cuồn cuộn, đỉnh núi Cù Mông mây man mác, chí bốn phương nay thoả nguyền. mài núi khắc câu thơ đẹp. Khúc khài ca công lớn tâu lên. Miếng đỉnh chung ơn trên thấm xuống. Nâng chén rượu tiễn lá cờ người lên đường, kẻ ở lại lòng tự thấy thẹn. Còn có sự ca tụng nào hơn nhất là dưới một ngòi bút lừng danh như Phan Huy Ích từng dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc.
Bài Tiễn ông Tả Phụng Nghị Bộ Binh Nghi thành hầu
họ Nguyễn đi  thành Quy Nhơn.
Sông núi Hoan gấm vóc,
Chung đúc bậc kỳ nhân.
Rạng rỡ quê đạo đức,
Điềm lành sinh phượng lân.
Tiến thủ biết khí phách.
Từ trẻ tỏ xuất sắc,
Cơ trí từng trải đời,
Đức độ rộng kiến thức.
Khí tiết như tùng bách,
Phẩm chất mài như ngọc.
Bản lĩnh tự tín trung,
Hành động thường lỗi lạc.
Hiểu lý tận tóc tơ,
Nói chuyện người bén sắc.
Làm bạn khắp thế gian,
Gắn bó như ruột thịt.
Nhìn rõ việc thiên hạ,
Nắm vững để vận hành.
Tạo hóa tính kỳ lạ,
Giao trách nhiệm xứng danh.
Gặp gỡ thánh minh trị;
Đi thăm gióng ngựa quý.
Học thức vua nể vì,
Nơi thanh toả dốc trí.
Ba năm dạo gươm đàn,
Thơ rượu thường vui vẻ.
Đấng trượng phu công danh,
Chí dũng giữ đúng thể.
Phía Nam biển mênh mang,
Đất mới triều khai thác.
Ấp thang mộc Quy Nhơn,
Anh tài nơi then chốt.
Dân vỗ về yên ổn,
Uy danh quân  lẫy lừng,
Triều đình cần người trấn,
Khẳng khái đến cầm quân.
Lòng hùng khí độc tan,
Thanh cao tiếng hạc đàn.
Thị Nại sóng cuồn cuộn,
Cù Mông mây mác man.
Chí bốn phương thoả nguyền,
Mài núi khắc thơ hùng.
Bài khải ca tấu khúc,
Miếng đỉnh chung thấm ơn.
Nâng chén rượu lên đường,
Kẻ ở lòng thấy thẹn.
Thơ Phan Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Tiễn Binh Bộ Tả phụng nghị Nghi thành Nguyễn hầu
phó Quy Nhơn thành
Ngã Hoan hảo giang sơn,
Chung bẩm đa kỳ trác.
Thế đức diệu tiên hương,
Nhân thụy xuất lân nhạc.
Tiến phủ bão tài khí,
Diệu linh kiến đầu giác,
Cơ thức tảo duyệt thục,
Khí thế du hoành bác.
Tùng tiết nại nghiêm ngưng,
Ngọc chất kinh ma trác.
Bản lĩnh tự trung tín,
Động tức thường lỗi lạc.
Chúc lý cập hào mang
Lập đàn sinh phong ngọc.
Biến giao thế gian nhân,
Hệ thuộc vi tâm lạc.
Nhàn thị thiên hạ sự,
Vận dụng tại chưởng ác.
Tạo hóa dữ kỳ phẩm,
Giáng nhậm lương bất thác.
Tao tế thánh minh thì,
Tuân tư giá hoa lạc.
Vọng học vu thần cố,
Chu tuyền thanh tỏa các.
Tam niên cầm kiếm du,
Ngâm chước bất cải lạc.
Trượng phu pho công danh,
Bỉnh chí há đoan xác.
Hạo diểu hải chi nam,
Hy đại tân khai thác.
Quy Nhơn thang mộc địa,
Khu hoản ỷ khôi thạc.
Dân dung sơ phủ tập,
Quân thanh phương trấn bạc.
Triều đình trọng hành biên,
Khẳng khái tựu nhung mạc.
Tráng tâm tễ yên lam,
Thanh khiếu đái cầm hạc.
Thị Nại đào hung dũng,
Cù Mông vân lạc mạc.
Huyền hồ thù sơ chí,
Ma nhai lặc giai tác.
Khải ca tấu kỳ huân,
Chung đỉnh đàm tân ác.
Bả bôi tống chinh huy,
Cư giả diệc tâm tạc.
Đoàn Nguyễn Tuấn  trong bài Kỷ Dậu trọng thu nghinh tiếp sách sứ.  Sau khi Nguyễn Nể làm Phó Sứ cùng Vũ Huy Tấn làm Chánh Sứ sang nhà Thanh năm 1789-1790. Một sứđoàn nhà Thanh sang phong vương, sứ giả hỏi: Ai là người hay thơ nhất nước Nam ?, Đoàn Nguyễn Tuấn trả lời :ấy là Quế Hiên Nguyễn Nể, đỉnh cao nhất trong thi ca Việt Namđương thời: Sau gió Bắc Phong ca hát lại đến Nam Phong. Sau khi sứđoàn nhà Thanh ngâm thơ tặng xong lại đến các quan Việt Nam. Vận nước cơ trời đổi thay, lại thông thương tiếp sứ với nhau. Chưa hỏi các ngôi sao sáng trong văn học Việt Nam đương thời, tôi chỉ là người khách biển theo phò. Lại làm quen với tao ông mặc khách từng ngao du sơn thủy khắp nơi. Tôi chỉ là người phương xa quê mùa, mấy thuở mới thấy được hội xiêm áo chốn cung đình, nửa đời công bút nghiên sắp vất hết để về vườn. Nếu khách hỏi ai là người giỏi nhất thi ca nước Nam hiện nay, thì Quế Hiên làđỉnh cao nhất.
THÁNG TÁM NĂM KỶ DẬU
ĐÓN TIẾP SỨ GIẢ SANG PHONG VƯƠNG
Bắc Phong ca hát đến Nam Phong,
Thay đổi cơ trời cùng lại thông.
Chưa hỏi Đầu Ngưu phò hải khách,
Làm quen sơn thủy với tao ông.
Phương xa mấy thuở hội xiêm áo,
Sắp ném nửa đời công bút nghiên.
Tiệc khách hỏi ai thơ nhất nước,
Quế Hiên thi trận đỉnh cao phong.
Thơ chữ Hán Đoàn Nguyễn Tuấn, Hải Ông thi tập
Nhất Uyên dịch thơ.
Phiên âm Hán Việt:
KỸ DẬU TRỌNG THU NGHINH TIẾP SÁCH SỨ
Bắc Phong ca bãi hựu Nam Phong,
Tạo hóa chân cơ nhất biến thông.
Vị vãn Đẩu Ngưu phù hải khách,
Quản giao sơn thủy thức tao ông.
Thù phương kỷ kiến y quan hội,
Bàn thế tương phao bút nghiễn công.
Tân  tích nhược rạn ngô quốc tú,
Quế Hiên thi trận tối đầu phong.
Chú thích:
Ngưu Đẩu: hai ngôi sao trong Nhị thập bát tú (28 ngôi sao văn học) theo CổĐại Thiên Văn Học vị trí hai ngôi sao này ở phương Bắc.
Hải Khách: Đoàn Nguyễn Tuấn thường tự xưng mình là hải khách, khách biển, ông chài biển quê mùa.
Ninh Tốn (1743- ?) người xã Côi Trì huyện Yên Mô, Ninh Bình, 19 tuổi đỗ Hương Cống, năm 1778 đỗ Hội Nguyên, giữ chức Tri bình Phiên sĩ, Hình Bộ Hữu Thị Lang. Năm 1788 ra cộng tác với Tây Sơn giữ chức Hàn Lâm Trực Học Sĩ, năm 1790 thăng Binh Bộ Thượng Thư tước Trường Nguyên Bá. Trong Chuyết Sơn thi tập của ông có bài:  Thơ tặng Nguyễn Nể khi ông được cử làm Chánh Sứđi sứ lần thứ hai, Ninh Tốn xem ông là bậc phi thường, bậc tuấn kiệt mới được cử hai lần đi sứ, đi sứ làđiển lễ lớn  của thánh hiền giao hảo với lân bang, Ông  quen biết rộng như ngựa quý nhân, kỳ quen đường đi, là bậc hiền tài như lân, phượng ít khi xuất hiện sự trọng vọng càng thêm cao. Núi sông lại mừng sẽ có thêm thơ mới. Mặt trăng, mặt trời lại soi rực rỡ cờ tiết mao đi sứ. Sau này trong tướng phủ trù tính việc gì với phương Bắc. Mọi cái ông đều nắm trong lòng bàn tay không có gì khó nhọc.
TẶNG TIÊN ĐIỀN NGHI ĐÌNH HẦU ĐI SỨ LẦN THỨ HAI (1795).
Giao hảo lân bang lễ thánh hiền,
Hai lần đi sứ bậc phi thường.
Nhân kỳ ngựa thuộc đường quen rộng,
Lân phượng tài danh trọng vọng tăng.
Giang sơn mừng có thêm thơ mới,
Nhật nguyệt soi cờ tiết ruổi rong.
Sau này tướng phủ cần phương Bắc,
Mọi việc trong tay chẳng nhọc công.
Thơ chữ Hán Ninh Tốn, Nhất Uyên dịch
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TẶNG TIÊN ĐIỀN NGHI ĐÌNH HẦU TÁI SỨ
Thánh hiền đại điển tại lân giao,
Lưỡng độ hoàng hoa thuộc tuấn mao.
Am lộ nhân kỳ tư dị biến,
Tri danh lân phượng vọng tăng cao.
Giang sơn tục hỷ tân thi cú,
Nhật nguyệt trùng lâm cựu tiết mao.
Tướng phủ tha niên trù bắc sự,
Thủ trung vận lượng định vô lao.
Chú Thích:
Trong Tinh tuyển Văn Học Việt Nam quyển 5 tập 1. Văn Học thế kỷ XVIII; nxb KHXH Sài gòn 2004, tr 695 . PGS Nguyễn Thạch Giang biên soạn cho rằng Ninh Tốn mất năm 1790, điều này không đúng, vì 5 năm sau, 1795 Nguyễn Nểđi sứ lần thứ hai, Ninh Tốn làm tặng bài thơ này.
Nhân, Kỳ hai giống ngựa hay
Lân, phượng: Kỳ lân và Phượng hoàng hai giống  linh vật ít khi xuất hiện giống như người tài được đời ngưỡng vọng.
Các người bạn đương thời ca tụng Nguyễn Nể, như thế, nhưng Nguyễn Du viết thế nào khi anh đi nhậm chức tại thành Quy Nhơn ? Một chức quan buộc anh ở phía Nam toà thành sáu tháp. Nguyễn Du không thích nhà Tây Sơn nên cho rằng chức quan chỉ làđiều bó buộc. Ban đêm vượt đèo Hải Vân đá lỏm chòm. Năm 2011 tôi đi qua đèo này nay là một con đường rộng rãi, đọc lại thơ Nguyễn Du tưởng tượng ngày trước chỉ là một con đường đá cho xe ngựa chạy,đá lỏm chỏm,đi qua ban đêm hẵn nhiều gian nan, đường dốc, có cả cọp gầm trong bóng đêm, chưa kể có Ma lai Chiêm Thành.. Ba năm đóng thú nơi vùng núi lam chướng. Qui Nhơn  nơi kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành, ấp thang mộc nơi quê hương của nhà vua Tây Sơn, Nguyễn Du vẫn xem là vùng núi hẻo lánh đầy sương lam chướng khí. Tiết tháng hai lạnh lẽo nhìn hoa khói quê nhà. Một phen từ biệt không biết rồi đây ở nơi nào. Cuộc trùng phùng có lẽ phải đợi đến kiếp sau. Trời biển mênh mông, đường xa nghìn dậm. Hồn phách tìm nhau, dù trong giấc mộng cũng khó. Năm 1794 Nguyễn Du từ Tiên Điền vào thăm anh ở Phú Xuân, để nhận thêm tiền bạc về xây dựng lại làng Tiên Điền, được tin anh sắp đổi đi Quy Nhơn làm quan. Nguyễn Du lúc đó chắc đã nghĩ đến chuyện vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh nên nghĩ rằng sẽ không còn gặp anh nữa !  Điều đáng lưu ý là Nguyễn Du viết cho anh chỉ đềỨc gia huynh, không để tên anh, cũng không đề tự Tiến Phủ, không để cả bút hiệu Quế Hiên. Bài viết cho em Nguyễn Ức cũng thế : Ngô gia đệ cựu ca cơ. Người hát cũ của em tôi. Nhưng lạ thay thơ Nguyễn Nể viết cho Nguyễn Du lại viết: Ký Tố Như đệ, hay Ký đồng hoài Thanh Hiên Tố Như đệ. Anh em trong nhà không ai gọi nhau bằng bút hiệu cả, cũng không bao giờ ai viết hai bút hiệu một lượt, đó là dấu vết người sao văn bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ đời sau khoảng năm 1920, tựý thêm vào. Trường hợp Nguyễn Hành vàĐoàn Nguyễn Tuấn cũng thế.
NHỚ ANH
Lục tháp thành Nam buộc chức quan,
Gập gềnh đá vượt Hải Vân đêm.
Chướng lam ba tết xa đồn trú,
Hoa khói tháng hai nhớ quê hương.
Một biệt phương nào ai nhớ nhỉ ?
Kiếp sau hẹn đến cuộc tương phùng.
Biển trời mù mịt đường ngàn dậm,
Trong mộng tìm nhau cũng khó khăn.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
ỨC GIA HUYNH
Lục tháp thành Nam hệ nhất quan,
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.
Cùng xu lam chướng tam niên thú,
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.
Nhất biệt bất tri hà xứ trú,
Trùng phùng đương tác tái sinh khan.
Hải thiên mang điểu thiên dư lý,
Thần phách tương cầu mộng diệc nan.
__________
Chú thích:
Lục tháp: chỉ thành Quy Nhơn, có tảy 8 cụm tháp, nhưng chỉ có 6 cụm ở gần đường nên gọi là lục tháp thành.
Hải Vân: đèo nằm giữa Thừa Thiên và Quảng Nam, nơi hiểm yếu được gọi là Đệ nhất hùng quan.
Cùng lam xu chướng, vùng núi sâu nhiều khí độc.
Paris 19-3-2013

Nhầm lẫn khái niệm “Hiến pháp” và quyền con người với quyền cơ bản

TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức *

Bài 1: Nhầm lẫn khái niệm “Hiến pháp”

Trong bài “Bao nhiêu ý dân thì đủ?”**, tác giả Phạm Thị Hoài đã sử dụng nhầm lẫn hai khái niệm Verfassung (Hiến pháp) khác với Grundgesetz (Luật cơ bản) vốn có quan hệ nội hàm “cành, nhánh” hay “mẹ, con”.

Để phủ định quyền dân phúc quyết hiến pháp, tác giả Phạm Thị Hoài viện dẫn thực tế quá trình lập hiến Đức (trích): Nhân dân CHLB Đức chưa bao giờ được trưng cầu ý kiến về văn bản tối thượng mang tên Grundgesetz (Luật Cơ bản) của mình. Nó được soạn thảo bởi 65 vị trong Parlamentarischer Rat (Hội đồng Nghị viện), dưới sự ủy nhiệm và kèm cặp của chính quyền quân quản Anh, Pháp và Mỹ sau Thế chiến II. Sau khi được thông qua với 53 phiếu thuận và 12 phiếu chống trong Hội đồng Nghị viện, nó được trình cho ba chính quyền Đồng minh nêu trên xét duyệt. Sau khi được các Thống đốc Quân sự Anh, Pháp, Mỹ chấp nhận, nó được gửi đến các nghị viện tiểu bang để phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn, ngày 23-5-1949 nó được Hội đồng Nghị viện chính thức tuyên bố là văn bản lập quốc. Nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức cũ) ra đời với bản Hiến pháp ấy. Bản hiến pháp được coi là hoàn hảo nhất trong lịch sử nước Đức ấy không do ý nguyện dân chủ từ dưới lên sinh ra, mà do ý chí chính trị từ trên xuống, thậm chí với áp đặt từ các thế lực ngoại bang.
Năm 1990, trong quy trình thốnng nhất nước Đức, nghị viện của các tiểu bang thuộc Đông Đức cũ cũng phê chuẩn và gia nhập Hiến pháp này mà nhân dân Đức ở cả bên Đông lẫn bên Tây đều không được trực tiếp biểu quyết. Trong 64 năm từ khi ra đời, Hiến pháp Đức có 59 bổ sung, sửa đổi, lần cuối cùng vào giữa năm ngoái. Không một lần nào có trưng cầu ý dân. Song điều đó không cản trở nước Đức … thành một trong những nền dân chủ trưởng thành và ổn định nhất trên thế giới”, (Hết trích).
Tác giả đã sử dụng nhầm lẫn hai khái niệm Verfassung (Hiến pháp) khác với Grundgesetz (Luật cơ bản) vốn có quan hệ nội hàm “cành, nhánh” hay “mẹ, con”. Từ năm 1949 tới nay, nước Đức chỉ có Luật Cơ bản năm 1949 và sửa toàn diện năm 1990, được coi như Hiến pháp chứ không phải Hiến pháp. Nó được xuất bản với tờ bìa mang tên “Grundgesetz” và gọi đúng tên đó trên các văn bản pháp lý trích nó. Luật, bất cứ là luật gì cơ bản hay không, do nghị viện ban hành đều không nhất thiết phải phúc quyết, bởi đó là quyền lập pháp của họ, giải thích tại sao Luật Cơ bản Cộng hoà Liên bang Đức chưa bao giờ phúc quyết. Còn đã gọi là “Hiến pháp” thì phải do người dân phúc quyết, vốn chỉ họ mới có quyền lập hiến, xuất phát từ nguyên lý: Hiến pháp của dân phải do dân quyết, giống như chính quyền của dân thì phải do dân bầu. Đó là dấu hiệu khác nhau giữa nội hàm khái niệm “Luật cơ bản” và nội hàm “Hiến pháp”. Điểm giống nhau là chúng cùng quy định: a- thiết chế nhà nước và b- khẳng định quyền con người và quyền công dân mà nhà nước có trách nhiệm phải thực hiện không được xâm phạm – tức quyền cơ bản. Nếu chỉ dừng lại ở đó, thông qua nghị viện, rồi ký lệnh ban hành, thì được gọi là “Luật Cơ bản”, còn thực hiện thêm công đoạn tiếp theo “Phúc quyết” thì được gọi là hiến pháp. Lý do tại sao Luật Cơ bản CHLB Đức năm 1949 lại không trưng cầu dân ý, tác giả Phạm Thị Hoài đã lý giải đúng sự kiện. Còn lý do tại sao tới lần sửa đổi toàn diện năm 1990 vẫn không phúc quyết, bởi chỉ đơn giản do CHDC Đức gia nhập CHLB Đức, nghĩa là phải chấp nhận Luật Cơ bản của họ, giống như Việt Nam sau 1975, chứ không phải hai bên thống nhất thành lập một quốc gia để ban hành một Hiến pháp mới cho mình.
Điều đó cũng giải thích tại sao Hiến pháp mới thông thường gắn liền với các hệ quả đổ vỡ một thiết chế, cách mạng xã hội, tranh chấp bạo lực, chiến tranh (đã trình bày ở bài Hiến pháp sao phải sửa?). Ngoại lệ có thể tìm thấy trong trường hợp Nam Phi hay Miến Điện. Khi đó Hiến pháp không còn là mục đích trực tiếp của đổ vỡ, cách mạng, bạo lực, chiến tranh, mà trở thành phương tiện hoà bình để vượt qua nó.
Với nội hàm khái niệm Hiến pháp nêu trên, các nước có thể mặc định, tức tự hiểu đã là Hiến pháp tất phải phúc quyết (lẽ tự nhiên như quyền ăn uống hít thở, không nhất thiết phải đưa vào hiến pháp) hoặc hiến định như Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946: Điều 21, “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp”.
Tới Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này, người chấp bút đã không tuân thủ nguyên lý logic học, cũng sử dụng nhầm lẫn giữa 2 khái niệm Hiến pháp và Luật Cơ bản như trường hợp Phạm Thị Hoài, khi viết Điều 123: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Hệ lụy, một khi đã gọi là hiến pháp thì đương nhiên trước hết phải là luật cơ bản, vì vậy Điều 123 nhắc lại là thừa. Mặt khác, đưa ra 1 câu mang tính tiền đề như Điều 123, làm người đọc dễ ngộ nhận, nhầm tưởng khái niệm hiến pháp nằm trong khái niệm luật cơ bản, trong khi luật cơ bản chỉ là một phần nội hàm của khái niệm Hiến pháp
Hệ trọng hơn, về nội dung, Điều 74 hiến định Quốc hội thực hiện quyền lập hiến vốn thuộc của dân, tới Điều 75 diễn giải tiếp, Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn “Làm Hiến pháp“ hiểu theo nghĩa dự thảo là đương nhiên. Nhưng đến Điều 124, hiến định vai trò thụ động của người dân, “Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định“; tất dẫn tới hệ lụy chưa thể xác định sau khi Quốc hội thông qua, Việt Nam sẽ có Luật Cơ bản như Đức bởi hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy (nếu không trưng cầu dân ý), hay là một bản Hiến pháp đúng khái niệm của nó (trong trường hợp được trưng cầu dân ý).
Hiến pháp là hình ảnh thể chế của một quốc gia trong con mắt thế giới, chứ không phải văn bản lưu hành nội bộ chỉ riêng trong quốc gia đó, vì vậy để có một bản Hiến pháp được họ nhìn nhận ưu việt tiến bộ “sánh vai các cường quốc năm châu“ như ta mong muốn, điều kiện cần đầu tiên là kỹ thuật lập hiến phải tuân thủ đúng các khái niệm khoa học pháp lý phổ quát, trước và trên hết chính khái niệm “hiến pháp“.

Bài 2: Nhầm lẫn quyền con người với quyền cơ bản

Hiến pháp chỉ hiến định một số trong vô vàn quyền con người, chứ không phải toàn bộ, bởi trước hết, do hiến pháp đóng vai trò luật cơ bản, mà đã là luật thì nó chỉ điều chỉnh những quyền con người liên quan tới pháp luật, tức nhà nước, chứ không phải mọi quyền con người như ăn ngủ hít thở, yêu ghét, chẳng hạn.
Bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (DTHP), chương II “quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân” đưa ra 38 điều; so với Hiến pháp năm 1992, lời văn, cấu trúc được sửa lại và bổ sung thêm chín quyền trong chín điều.
Mục đích sửa đổi trên được Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lý giải trong “Báo cáo Thuyết minh”: “Để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp”. Từ mục đích đó, DTHP có nhiệm vụ “làm rõ nội dung quyền con người, quyền công dân…”.
Đã là quyền con người thì do “tạo hoá” sinh ra nằm trong chính mỗi con người. Nếu xét theo hành vi, tổng hợp hết từ chừng 7 tỷ người khác nhau trên quả đất hiện nay, thì quyền con người sẽ vô cùng tận, từ sinh lý, ăn, uống, hít thở, khóc cười, nhìn, nghe, sờ mó… đến hành vi tình cảm, yêu, ghét, hiến, tặng…, tới tâm linh thờ phụng, tín ngưỡng, hay kinh tế, mua bán, cho mượn, đổi chác, hoặc chính trị tham gia đảng phái, bộ máy nhà nước, góp ý chính sách…, không một hiến pháp nào trên thế giới này dù muốn cũng không thể liệt kê nổi, chứ chưa nói khẳng định giá trị, làm rõ nội dung. Vì vậy, nếu lấy nội dung quyền con người làm đối tượng hiến định, thì DTHP nước ta đã không đạt mục đích đề ra. Và cứ theo quan điểm đó, thì hiến pháp nước nào đưa ra càng nhiều quyền con người càng dân chủ tiến bộ ưu việt.
Nhưng thực tế không phải vậy. Nga, Hiến pháp năm 1993 có tới 48 điều về “quyền và tự do của con người và của công dân”, chỉ số dân chủ năm 2007 xếp thứ hạng 102; Trung Quốc, Hiến pháp năm 1982 có 33 điều xếp thứ hạng dân chủ 138; Đức chỉ có 19 điều ở thứ hạng 13; Đan Mạch có 15 điều, đứng thứ 5; Mỹ, chỉ liên quan tới 10 điều tu chính, xếp thứ 17.
Lý do, Hiến pháp chỉ hiến định một số trong vô vàn quyền con người, chứ không phải toàn bộ, bởi trước hết, do hiến pháp đóng vai trò luật cơ bản, mà đã là luật thì nó chỉ điều chỉnh những quyền con người liên quan tới pháp luật, tức nhà nước, chứ không phải mọi quyền con người như ăn ngủ hít thở, yêu ghét, chẳng hạn. Chức năng của nó là chế tài, không có chức năng thay thế sách giáo khoa, hay tài liệu khoa học, để lý giải đưa ra kết luận về giá trị, vai trò quan trọng, nội dung của quyền con người, mà chỉ dựa trên cơ sở khoa học đó để hiến định quyền con người. Tiếp theo, quyền con người mặc dù do tạo hoá sinh ra, “lẽ phải không ai chối cãi được”, nhưng một khi quyền lực nhà nước vốn của dân đã được trao vào tay bộ máy nhà nước thực thi, thì quyền tạo hoá đó của họ trên thực tế rất có thể: 1- Bị quyền lực nhà nước xâm phạm, mà người dân thấp cổ bé họng không làm gì được. Có thể thấu hiểu rõ nhất điều đó ở những nước thuộc điạ, như khi thực dân Pháp “mang lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái” đến nước ta tuyên bố “khai hoá văn minh”, nhưng thực tế lại “cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta (Tuyên ngôn độc lập)” hay trường hợp các nước Ả Rập vừa qua, cách mạng xã hội bùng nổ do quyền làm người bị tước mất, được châm ngòi bởi Mohamed Bouazizi phải tự thiêu, thà chết còn hơn. 2- Không thể thực hiện, bởi bộ máy nhà nước ăn lương có bổn phận đảm bảo quyền tạo hóa của dân, nhưng đã không cung cấp cho họ điều kiện vật chất, hành lang pháp lý thực hiện quyền đó.
Nguyên tắc hiến định quyền con người, vì vậy, chỉ nhắm vào những quyền pháp lý có nguy cơ bị nhà nước xâm phạm hoặc phải được nhà nước bảo đảm tiền đề vật chất cho nó thực hiện. Những quyền đó, khoa học hiến pháp gọi là quyền cơ bản, không hiểu theo nội hàm “hạt cơ bản” trong vật lý, mà theo nghĩa nhà nước bị chế tài trách nhiệm bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Nói cách khác, quyền cơ bản là quyền con người được ghi vào hiến pháp, khi nó thoả mãn đồng thời 3 yếu tố: 1- chắc chắn, 2- liên tục, 3- được viện tới toà án chống lại nhà nước, nếu họ bị thiếu những điều kiện bảo đảm quyền đó được thực hiện.
Có thể hiểu qua ví dụ về “quyền được bảo đảm an sinh xã hội”, ghi trong Ðiều 35 DTHP, được Điều §75 Hiến pháp Đan Mạch quy định tại điểm (1): “Ai không thể tự nuôi sống mình, và không còn nguồn thu nhập nào khác, nhà nước có trách nhiệm trợ cấp đủ”. Ở Đức, xuất phát từ Điều 1, Luật Cơ bản, “nhân phẩm con người không thể xâm phạm. Chú ý và bảo vệ nó là trách nhiệm mọi cơ quan quyền lực nhà nước”, Bộ Luật Xã hội Đức quy định nhà nước phải cấp cho bất kỳ người dân nào không có thu nhập, kể cả người nước ngoài sinh sống ở Đức, 374 Euro/tháng/người (năm 2013) cộng tiền thuê nhà, điện, nước. Cách tháng trước, một hộ gia đình bị cấp thiếu 15 Cent do cơ quan cấp làm tròn số lẻ, khiếu nại không được liền kiện ra toà, được toà xử thắng và phạt cơ quan cấp phải trả án phí 600 Euro. Cũng viện dẫn Điều 1 trên, trong 1 vụ kiện, Toà án Hiến pháp Đức đã bác bỏ điều khoản Bộ luật Xã hội Đức ấn định mức trợ cấp cho người nước ngoài chờ xét tỵ nạn thấp hơn tiêu chuẩn trợ cấp cho người Đức, với lập luận, trợ cấp là mức tối thiểu để bảo đảm nhân phẩm con người vốn không thể phân biệt đã được hiến định.
Xuất phát từ bản chất quyền cơ bản nêu trên, ở họ hiến định quyền cơ bản thực chất là hiến định trách nhiệm nhà nước phải bảo đảm quyền đó được thực hiện, bằng những chuẩn mực, thước đo, quy tắc xử sự có thể đong đo đếm được. Và chỉ khi đó, người dân mới có cơ sở hiến định để tự bảo vệ quyền của mình, bằng cách viện đến toà án được coi là cán cân công lý; các cơ quan quyền lực nhà nước mới bị ràng buộc bởi các cơ sở pháp lý, phải thực thi nếu không sẽ bị chế tài. Đó cũng chính là bản chất của nhà nước pháp quyền do pháp luật định đoạt, khác với nhà nước độc tài do kẻ cầm quyền quyết định.
Còn DTHP ở ta, do hiểu mục đích hiến định nhằm “khẳng định giá trị, vai trò”, “nội dung quyền con người”, nên Điều 35 DTHP nêu trên chỉ ghi vắn tắt đúng 11 chữ “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”, không hề quy định các chuẩn mực thước đo quy tắc xử sự để chế tài trách nhiệm nhà nước phải bảo đảm cho quyền đó thực thi, như trường hợp Đức, Đan Mạch chế tài nhà nước phải trợ cấp cho bất cứ ai không có thu nhập đủ bảo đảm cuộc sống bình thường.
Chính do nhầm lẫn giữa quyền con người và quyền cơ bản, nên DTHP đã đưa ra nhiều quyền, thậm chí nhiều góp ý còn đòi bổ sung thêm bao quyền ước mong nữa. Trong số đó có những quyền, nhiều nước hiện đại chưa dám đề cập, như Điều 38 DTHP: “Công dân có quyền làm việc”, họ không thể hiến định bởi thất nghiệp là bản chất của kinh tế thị trường, chỉ có thể hạn chế chứ không thể chấm dứt. Điều 40 “trẻ em có quyền… được chăm sóc giáo dục”, họ chỉ có thể bảo đảm được một phần chứ không phải tất cả, và đó còn là trách nhiệm gia đình. Tương tự, Điều 41 “có quyền được bảo vệ sức khoẻ” (nghĩa là trách nhiệm nhà nước chữa bệnh cho dân miễn phí?); Điều 44 “quyền hưởng thụ các giá trị văn hoá” (nhà nước miễn phí tham quan du lịch, biểu diễn nghệ thuật, hội hè?); Điều 46 “quyền được sống trong môi trường trong lành” (trách nhiệm nhà nước bồi thường khi dân ngộ độc thực phẩm?), Điều 42, “công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” (nhà nước miễn học phí và cấp học bổng?). Chưa nói DTHP hiến định cả những quyền tình cảm không thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật, như Điều 39 “Nam nữ có quyền kết hôn và ly hôn” (chẳng nhẽ ai ế, nhà nước phải có trách nhiệm mai mối cho họ kết hôn?); hay điều chỉnh cả công dân nước khác, khi Điều 19 hiến định Việt kiều với quá nửa đã thôi quốc tịch Việt Nam “là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam” và chỉ thuộc phạm trù tình cảm cội nguồn không thể chế tài.
Hệ luỵ nguy hại ở chỗ, do không chứa đựng đầy đủ ba thuộc tính cần có của khái niệm quyền cơ bản, nên quyền con người dù có ghi vào hiến pháp vẫn không hề thay đổi bản chất, tức thiếu tính pháp lý khả thi, làm mất thuộc tính tối thượng vốn có của hiến pháp, trở thành một bản tuyên ngôn, mất giá trị sử dụng khi ban hành! Có thể tham khảo trường hợp EU hiện cũng đang soạn thảo bổ sung Hiến pháp quyền cơ bản “có tài khoản ngân hàng”, dự kiến thông qua tháng 6.2013. Để bổ sung điều khoản đó, họ phải dựa trên kết quả điều tra thực tế, hiện có 30 triệu công dân EU không có tài khoản do thiếu tiền trả lệ phí, phải chịu thiệt thòi không tiếp cận được Internet, ký hợp đồng điện thoại, hay thuê nhà, tất cả đều đòi điều kiện phải có số tài khoản; từ đó dự toán sẵn quỹ tài chính để miễn lệ phí tài khoản, bảo đảm quyền có tài khoản một khi đã hiến định là được thực thi.
Hiến định quyền cơ bản, vì vậy, khâu đầu tiên hoàn toàn không nằm ở câu chữ mà ở chỗ: 1- phải xác định được chính xác ý nguyện thực tế của người dân, 2- dự liệu được tiền đề để chế tài trách nhiệm thực thi của bộ máy nhà nước vốn đóng vai trò công bộc chứ không phải cai trị – hai yếu tố quyết định cả sức sống trường tồn lẫn vai trò tối thượng của hiến pháp.
N.S.P.
* Trên đây là một phản hồi của TS Nguyễn Sĩ Phương, trong bài “Trước hết Hiến pháp phải quy định cái gì?” của GSTS  Nguyễn Đăng Dung, chúng tôi xin đăng lên thành một bài và đặt tựa theo tinh thần bài viết.
** Bao nhiêu ý dân thì đủ? (pro&contra)

Tử huyệt của đảng: Quân đội

Nguyễn Tâm Linh
Nỗi sợ lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam đang dần trở thành hiện thực, nguy cơ tự diễn biến từ một mối nguy hiểm mơ hồ nay đã hiển hiện trước mắt. Cảm nhận được nguy cơ tự diễn biến trong quân đội ngày một lớn cùng với khả năng mất quyền kiểm soát quân đội dẫn đến sụp đổ chế độ như đã từng xảy ra tại các quốc gia cộng sản Đông Âu đã khiến thượng tầng chính trị Việt Nam có những bước đi trước. Ấy là khi các tờ báo chính thống như Tiền Phong, Tạp Chí Cộng Sản, Quân Đội Nhân Dân ồ ạt tung ra các bài báo với luận điểm tuyệt đối hóa sự lãnh đạo của đảng với quân đội, khẳng định quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội do chính đảng cộng sản Việt Nam tổ chức thành lập, quân đội phải tuyệt đối trung thành với đảng.
Khẳng định sở hữu quân đội: Hệ lụy và mục đích
 
Hầu như, tất cả các bài viết đăng trên các tờ báo chính thống trên đều khẳng định chắc chắn rằng: “quân đội nhân dân Việt Nam là do đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tổ chức và lãnh đạo” trong bài viết “Quân đội không thể và không nên trung lập về chính trị – Lịch sử đã cảnh báo” [1] đăng trên tạp chí cộng sản đã nhấn mạnh: “Quân đội đó, trước hết là do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập; là một bộ phận cấu thành của Đảng và trước tiên là để thực hiện các mục tiêu chính trị và quân sự của Đảng”. Còn ở bài viết “Không có quân đội đứng ngoài chính trị” [2], trung tướng Nguyễn Tiến Bình tiếp tục khẳng định “Quân đội nhân dân Việt Nam là một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện”. 
 
Như vậy, khi những quan điểm đó được khẳng định trên Tạp Chí Cộng Sản (cơ quan lý luận chính trị của trung ương đảng cộng sản Việt Nam) và trên báo Quân Đội Nhân Dân (cơ quan của quân ủy trung ương và bộ quốc phòng, tiếng nói của lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam), đảng cộng sản Việt Nam đã công khai thừa nhận quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của đảng, hoàn toàn không phải quân đội quốc gia nên không thể phi đảng phái hóa, tuyệt đối không thể đứng ngoài chính trường và phục vụ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân.
 
Sự khẳng định quyền sở hữu quân đội vào thời điểm này có thể được xem như một bất ngờ lớn. Sự khẳng định này sẽ đem đến nhiều hệ lụy khôn lường cho đảng cộng sản.
Khi khẳng định quân đội là một bộ phận cấu thành của đảng, được đảng tổ chức và rèn luyện. quân đội phải tuyệt đối trung thành với đảng thì quân đội đó sẽ không được sử dụng lãnh thổ Việt Nam cho các hoạt động của mình, không được sử dụng ngân sách quốc phòng trích từ tiền thuế do nhân dân đóng góp. Bên cạnh đó, công dân Việt Nam không phải đảng viên hoặc cảm tình đảng có quyền hợp pháp từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự với một đội quân của một tổ chức chính trị.
 
Đặc biệt, khi công khai quyền sở hữu quân đội, đảng cũng gián tiếp thừa nhận quân đội nhân dân Việt Nam là cú lừa lịch sử với dân tộc khi đội quân này không phải do nhân dân thông qua đại diện của mình thành lập tổ chức nhưng bao nhiêu năm qua lại sử dụng tiền thuế của nhân dân cho các hoạt động của mình. Nếu vẫn giữ lập trường cũ, đảng sẽ phải giải trình, hoàn trả toàn bộ tiền thuế theo tỷ giá hiện hành và chịu trách nhiệm trước nhân dân vì sự lừa dối đó. Ngoài ra, đảng cộng sản cũng sẽ phải đối mặt với việc kiện tụng đòi bồi thường những mất mát của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam khi ép buộc họ thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc, đổ xương máu cho một đội quân không phải đại diện cho quốc gia mình.
 
Hơn nữa, khi không phải là quân đội quốc gia, với những hoạt động trong quá khứ, quân đội nhân dân Việt Nam có thể bị cộng đồng thế giới xem như một lực lượng khủng bố, rất có khả năng phải hứng chịu những cáo buộc liên quan tới tội ác chống lại nhân loại và điều đó đồng nghĩa với việc sẽ hứng chịu những lệnh cấm vận triệt để từ Liên Hợp Quốc.
 
Công khai không chấp nhận quốc gia hóa quân đội, hiến định sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng với quân đôi, đảng đã tạo ra một tiền lệ không hay. Khi chiếu theo nguyên tắc bình đẳng, thì tất cả đảng phái khác, các hội đoàn, tổ chức chính trị đều có quyền thành lập quân đội. Khi đó, Việt Nam sẽ thành một chiến trường cho các đội quân đó thi thố. Trớ trêu thay, đội quân nào cũng có thể xưng danh quân đội nhân dân Việt Nam. 
 
Như vậy, có thể thấy, cái giá của việc công khai quyền sở hữu quân đội là quá đắt với đảng. Không lẽ, những nhà lý luận quân sự của đảng lại không thấy điều đó? Hay, cái giá đó chính là “chi phí cơ hội” mà đảng sẵn sàng chấp nhận vì những mục đích lớn hơn ẩn phía sau những lời khẳng định ấy?
 
Điều gì khiến đảng cộng sản Việt Nam phải chơi một ván bài với chi phí cá cược cao đến như thế, khi cuộc chơi trên chính trường Việt Nam vẫn là màn độc diễn của đảng? Để làm rõ điều này, cần phải xem lại những biến cố và thách thức gần đây với thượng tầng đảng cộng sản Việt Nam.
 
Chưa bao giờ, quyền lực của đảng bị thách thức như hiện nay, tại hội nghị trung ương 6, nhóm lợi ích (giai cấp?!) nằm trong đảng đã vô hiệu hóa quyền lực đầu não của đảng là bộ chính trị. Thực tế, tại hội nghị trung ương 6, nhóm lợi ích đã kết vòng hoa tang tiễn đảng với bản chất là một tổ chức chính trị vào dĩ vãng. Làm được điều tưởng chừng như không thể ấy, họ đã có sự giúp đỡ không thể tuyệt vời hơn với sự trở cờ của quân đội, điều mà những lãnh đạo bảo thủ trong đảng không ngờ tới. Thế nên, sẽ chẳng có gì bất ngờ khi những lãnh đạo đó tận dụng khoảng thời gian mà đối thủ đang tơi tả để đưa quân đội với tư cách công cụ bạo lực của đảng về phía mình, sẵn sàng cho những cuộc chơi chính trị tiếp theo.
 
Kinh tế Việt Nam đang có dấu hiện sụp đổ do khủng hoảng kinh tế kéo dài cùng với sự lãnh đạo kém cỏi của đảng. Tình trạng này có thể thổi bùng những bất mãn xã hội đã tích tụ bấy lâu nay, châm ngòi cho các cuộc đấu tranh của nhân dân. Kinh nghiệm từ Liên Xô và các nước Đông Âu đã chỉ ra rằng, quân đội sẽ đứng về phía nhân dân khi áp lực từ phong trào dân sự đủ lớn. Mất quyền kiểm soát quân đội, chính phủ các nước cộng sản này nhanh chóng sụp đổ. Cũng cần phải thấy rằng, tại các nước cộng sản đã sụp đổ trước đây, quân đội đã mất niềm tin vào đảng cầm quyền khi nhận thức được vấn đề chính của quốc gia. Điều này khiến các quốc gia trong hệ thống xã hội chủ nghĩa còn rơi rớt lại làm tất cả mọi cách để giữ quyền kiểm soát quân đội, cột chặt quân đội quốc gia vào ý thức hệ của mình, qua đó chi phối, sử dụng công cụ bạo lực trong vấn đề đối nội nhằm giữ quyền lực trước những biến cố có thể xảy ra. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ, khi tính chính danh của quyền lực bị thách thức nghiêm trọng, bởi ngoài sử dụng bạo lực để duy trì quyền lực liệu còn phương pháp nào tối ưu hơn?.
 
Thế nên, để giữ quyền lực tuyệt đối, với những đặc quyền đặc lợi không tưởng thì cái giá bị xem là quá đắt ấy, khi chưa thật sự có một đối thủ xứng tầm thách thức xem ra cũng đáng để chấp nhận. Nhưng về lâu dài, kiểu chơi dao này sớm muộn cũng dẫn tới đứt… mạng.
 
Khẳng định tử huyệt: Đảng ôm bom
 
Khẳng định quân đội là công cụ bạo lực của riêng mình, đảng sẽ có những ưu thế lớn trong cuộc chiến giữ quyền lực. Thế nhưng, ưu thế đó chỉ mang tính thời điểm. Khi phong trào dân sự đủ mạnh, ưu thế bạo lực đảng đang có sẽ trở thành quả bom ngay trong lòng đảng. Đó không đơn thuần là một quả bom thông thường mà sẽ là một quả bom hạt nhân, với sức công phá khủng khiếp đủ để đưa đảng vào dĩ vãng.
 
Đảng đang siết chặt chiếc thòng lọng ý thức hệ vào quân đội, nhưng hiệu quả của chiếc thòng lòng đó gần như con số không với ngay cả đảng và các quân nhân xuất thân bình dân trong quân đội. Có chăng, chỉ là trao thêm quyền lợi và quyền lực cho nhóm tướng tá lãnh đạo và các sỹ quan xuất thân “hoàng gia” (COCC). Điều này không giải quyết vấn đề chỗ dựa cho đảng trong cuộc chiến quyền lực, bởi khi để các lãnh đạo quân đội tham gia quá sâu vào chính trường, trao quá nhiều quyền lực cho nhóm tướng lĩnh lãnh đạo thì càng tạo thêm nguy cơ tiềm ẩn về quyền lực của đảng. An ninh quyền lực chưa chắc được đảm bảo thì có thể đối diện với bất ổn vì suy cho cùng, dù lãnh đạo quân đội có là một gã thất phu đi chăng nữa thì gã vẫn có súng.
 
Vấn đề của quân đội, nếu xem xét kỹ còn trầm trọng hơn vấn đề của đảng, quân đội đã tha hóa trầm trọng, năng lực chiến đấu kém cỏi, tham nhũng, chạy chức chạy quyền tràn lan từ thượng tầng tướng lĩnh tới tận cấp phân đội. Cơ chế quản lý lỗi thời đã tạo điều kiện cho quân đội tha hóa, thì việc để quân đội làm kinh tế đẩy lực lượng tha hóa tới mức không thể cứu chữa. Quân đội làm kinh tế đã tạo ra những tên tư sản lưu manh mang quân hàm và súng. Đây chính là kíp nổ chính của quả bom mà đảng đang cố gắng ôm.
 
Ngoài ra, mâu thuẫn của nhóm sỹ quan “hoàng gia” mang nhiều đặc quyền đặc lợi với đại bộ phận quân nhân xuất thân bình dân, sống với mức thu nhập chỉ đủ thoi thóp trong cơn bão giá cũng là một nguy cơ tiềm ẩn. Khẳng định “quân đội là một bộ phận cấu thành của đảng” thì mâu thuẫn bắt nguồn từ đó, sẽ khiến đảng đi tới con đường sụp đổ nhanh nhất. Khi sức mạnh chính của quân đội không nằm ở ý thức hệ, cũng không phải từ đám sỹ quan con ông cháu cha mà ở đám đông quân nhân bình dân kia. Bất mãn của đội quân đó đã được kiểm nghiệm tại các chính thể đã sụp đổ ở Đông Âu, gần đây nhất là quân đội Iraq thời Saddam Hussein hay quân đội Libia của Gadafi, trước các biến cố mang tính thời đại, họ đã quay súng trở về với nhân dân, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang đối lập, đẩy nhanh hơn quá trình sụp đổ của chế độ.
 
Sự chuẩn bị đưa quân đội thống nhất làm một bộ phận của đảng đã được các bộ phận có liên quan thực hiện một cách tỉ mỉ, từ việc áp dụng nghị quyết 51 của bộ chính trị về chế độ chính ủy trong quân đội, đến các bài báo xuất hiện dày đặc trên loại hình báo chí chính thống và bản dự thảo hiến pháp bổ sung sửa đổi hiến pháp năm 1992. Dù vậy, đảng cũng không thể lường hết những rủi ro mà mình sẽ phải hứng chịu. Vấn đề sống còn của đảng nằm ở yếu tố quân đội và chấp nhận đánh bài ngửa bằng lá bài quân đội. Xem ra, lần này đảng đang như một vị vua già quẫn trí.
 
Điều 71, bản dự thảo sửa đổi hiến pháp, đã cố ý bỏ cụm “nhà nước xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng” từ điều 46 hiến pháp năm 1992 với dụng ý gì? [3] Phải chăng là một màn tung hỏa mù, gây lẫn lộn trong danh xưng quân đội quốc gia hay quân đội của tổ chức chính trị. Cụm từ “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng” trong điều 71, bản dự thảo sửa đổi hiến pháp, có thể được dự trù để trong trường hợp khi cần có thể ngụy xưng quân đội quốc gia, khi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ lợi ích cho đảng có thể công khai thừa nhận là quân đội của đảng nên tuyệt đối trung thành vì lợi ích của đảng.
 
Nên nhớ rằng, nhân dân là chủ thể đóng thuế để nuôi toàn bộ bộ máy nhà nước, trong đó một phần tiền thuế được trích ra để nuôi quân đội quốc gia. Việc điều hành công việc của quốc gia dù do bất kỳ cơ quan nào cũng phải chiếu theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Chỉ duy nhất nhân dân thông qua đại diện của mình là quốc hội mới có quyền thành lập, tổ chức, xây dựng quân đ.ội lấy danh nghĩa quân đội quốc gia, được phép sử dụng ngân sách của nhà nước, được quyền sử dụng không phận, hải phận và địa phận cho các hoạt động hợp pháp của mình. Nếu hiến pháp cố tình viết một cách mù mờ như vậy, thì công dân ai cũng có quyền xây dựng quân đội, khi đó e rằng đảng có kịp vứt quả bom kia hay không?
 
Vì thế, khi đảng đã không thể tự điều chỉnh, không thể thay đổi được chính bản thân của đảng thì việc đảng lạm dụng bạo lực, lôi kéo quân đội về phía mình để chiến thắng chỉ mang tính hiện tượng, nhất thời. Còn về lâu dài, chính đảng sẽ chết ngay trên tử huyệt của mình dẫu có ra sức che dấu, củng cố hay ngụy biện. Có lẽ, đó là con đường và cái kết không thể tránh khỏi của bất kỳ một chính thể đọc tài nào thành hình, tồn tại dựa trên bạo lực và sợ hãi.
.
N.T.L.
.
Nguồn: Dân làm báo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét