CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
Úc chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với Việt Nam qua viện trợ phát triển (VOA0 – Australia sản xuất số lượng nông phẩm gấp ba lần nhu cầu và có thể nuôi sống trên 60 triệu người mỗi năm tại các quốc gia bên ngoài Úc Châu
‘Đánh VN, Đặng Tiểu Bình sai lầm’ (BBC) – Đặng Tiểu Bình đã sai lầm khi xua quân ‘dạy cho Việt Nam một bài học’?====>>>>
Chưa rõ ý đồ người Trung Quốc thuê đất trồng lúa lạ (ĐV)
Bộ Tài chính có 9 thứ trưởng ký giấy tờ (ĐV)- Đến 9 ngài Thứ!!! Dân không nghèo là chuyện lạ!!!!
Bắt đầu bán quặng bôxít Tân Rai sang Trung Quốc, Malaysia (ĐV)
Những câu trả lời lạc hướng. (RFA) -Câu chuyện về thay đổi Hiến pháp năm 1992 tại Việt Nam chuyển sang một bước ngoặc mới khi ông Phan Trung Lý, Trưởng ban biên tập Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp gửi thư trả lời kiến nghị của 72 nhân sĩ trí thức từ chối những góp ý của họ và cho rằng trái với pháp luật.
Bắc Kinh: Đường rút an toàn của CSVN? (Lý thái Hùng -RCTM)
Chuyển động ngoại giao dồn dập ở Đông Nam Á » -Đàn Chim Việt
(ĐCV) – T/G Đào Văn Bình: Trong bối cảnh “Xuân Thu Chiến Quốc” ngày hôm
nay – Việt Nam, do rất nhiều yếu tố như: địa lý chính trị, lịch sử và
trật tự thế…
<<<====Bia Mộ -Hu Zi – (DCVOnline) - “Bia mộ” là cuốn sách điều tra đầy đủ nhất, ghi chép toàn diện nhất về nạn đói lớn dưới thời cai trị của hoàng đế đỏ Mao Trạch Đông với hơn 36 triệu nạn nhân đã chết đói trong giai đoạn này.
Tôi đã trở thành người Mỹ như thế nào (phần 1) (Phan Ba) >>>Tôi đã trở thành người Mỹ như thế nào (hết)
Chiến tranh Việt Nam (Phan Ba) -Phan Ba blog tập hợp những bài dịch đã đăng trên báo Der Spiegel và báo Die Zeit do Phan Ba dịch về chiến tranh VN và Mậu Thân tại đây-Bà con nào cần thì tham khảo
KINH TẾ
- Phó thủ tướng bắt đầu công việc tại Bộ Tài chính (VNE).
- Mỏ vàng di sản (ĐĐK).
- Đổi “khoa học” thành “hàn lâm”: Có tạo bước đột phá? (LĐ).
- Vật vã đi khám bệnh đầu năm (TN).
- Nga điều hai máy bay chở hàng viện trợ tới Syria (TTXVN). - Hezbollah “tấn công” quân nổi dậy Syria (NLĐ).
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Từ ngày nghe bài giảng ông Đại tá Trần Đăng Thanh, trên Internet tràn ngập bài đánh giá ông là ngu, ngu đủ kiểu, từ ngu tuyển tập đến ngu toàn tập, thậm chí “ngu như Trần Đăng Thanh”. Tuy nặng lời nhưng không oan ức. Trong cương vị một đại tá, phó giáo sư, cán bộ giảng dạy Học Viện Chính Trị nhưng những đánh giá của ông về các mối quan hệ chính trị trong vùng cũng như thế giới thấp đến mức không thể nào tin được rằng tri thức của ông đang trong trạng thái bình thường. Tuy nhiên, cũng thật bất công và xúc phạm nếu chỉ trích dẫn những điều ấu trĩ, sai lầm trong bài giảng của ông mà không phân tích.
Làm thế nào để có thể “không được mất chủ quyền và quyền chủ quyền nhưng phải ưu tiên tối thượng là giữ được môi trường hòa bình” trước một Trung Quốc đang âm mưu khống chế toàn thế giới để vừa nuôi dưỡng chế độ độc tài toàn trị vừa nuôi sống nền kinh tế khổng lồ nhưng đầy tham nhũng và thất thoát? Cách diễn dịch duy nhất theo lý luận của Trần Đăng Thanh là đầu hàng Trung Quốc. Quan điểm của ông là quan điểm “Nhập Tống” của Trần Nhật Hiệu trong cuộc Kháng Nguyên lần thứ nhất. Đất nước này không chỉ bị mất đi một lần nhưng đã giành lại được, Thăng Long không chỉ bị đốt cháy một lần nhưng đã xây lại được, bởi vì tinh thần độc lập, tự chủ đã hòa trong máu của dân tộc từ thuở tổ tiên lên đường đi khai phá phương nam nhiều ngàn năm trước.
Ngay cả trường hợp “Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ” phát xuất từ… “trái tim bồ tát” của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đi nữa, chẳng lẽ hôm nay làm ngơ để chúng chiếm đoạt toàn bộ biển Đông, đẩy Việt Nam từ một quốc gia bán đảo nhìn ra Thái Bình Dương bao la và phong phú tài nguyên thành một nước không có biển như Lào, Mông Cổ. Đôi mắt ông Trần Đăng Thanh nhìn đâu mà không thấy đường lưỡi bò do Trung Quốc công bố gần như phủ kín Biển Đông và ép Việt Nam, đất nước hình chữ S phì nhiêu thành một thân xác già nua co ro trên bờ biển dài hơn ba ngàn cây số?
Ngày xưa “Ra khơi, thấy lòng phơi phới, thấy tình thế giới, thấy mộng ngày mai, thấy niềm tin mới”, ngày nay mỗi chuyến ra khơi của ngư dân Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa là mỗi lần phó thác số phận không chỉ cho sóng to gió lớn mà còn trong những viên đạn không một chút xót thương của hải quân Trung Quốc. Ba mươi tám năm qua, lương tâm ông Trần Đăng Thanh cất giấu ở đâu mà không cảm thông cho sự chịu đựng vô cùng đau thương của hàng ngàn ngư dân Việt Nam, người bị giết, tàu bè bị đâm thủng, những em bé chiều chiều ra biển chờ cha đi đánh cá không bao giờ trở về. Ba mươi tám năm, nói như nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa Tổ quốc tôi như miếng da lừa, một lần ước mất đi một góc, ước phồn vinh: rừng mất cây, biển mất cá, ước vẹn toàn: mất hải đảo, mất Cao Nguyên. Hoàng Sa đã rơi vào tay Trung Quốc từ lâu và Trường Sa mang tiếng là của Việt Nam nhưng đến nay chỉ còn vài đảo nhỏ trong quần đảo rộng lớn này, ông biết không?
Ông Trần Đăng Thanh nhắc nhở học viên “không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên” mà không biết rằng Trung Quốc chẳng quan tâm gì đến chuyện “giải phóng miền Nam” hay “thống nhất đất nước”. Trong buổi gặp gỡ Henry Kissinger năm 1971, Chu Ân Lai tiết lộ Trung Quốc “nhường cơm xẻ áo” cho Việt Nam chẳng phải là chiến lược hay tư tưởng CS gì cả mà dựa hoàn toàn trên gánh nợ lịch sử của tổ tiên y giao phó. Họ Chu lúc đó nghĩ đến việc Mỹ không thua nên chỉ muốn kiểm soát miền Bắc Việt Nam trong gọng kèm chặt chẽ theo truyền thống cai trị chư hầu thời phong kiến. Ngay cả khi chiến tranh chưa chấm dứt, Trung Quốc đã xây dựng các trục lộ từ Trung Quốc sang Lào để kịp thời can thiệp trong trường hợp chư hầu Việt Nam đủ mạnh đứng lên khởi nghĩa và thôn tính nước Lào. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai rồi Đặng Tiểu Bình không phải là những kẻ chủ trướng chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc mà là những người khai triển chính sách Đại Hán đô hộ các nước nhỏ lân bang truyền thống của tổ tiên y trong thời đại toàn cầu. Trần Đăng Thanh cóp nhặt rất nhiều thông tin nhưng lại bỏ sót những dữ kiện rất hiển nhiên trong lịch sử này.
Trần Đăng Thanh khẳng định, Mỹ “đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha” nhưng không biết rằng chỉ có hai lãnh đạo quốc gia mà Đặng Tiểu Bình không thuyết phục được sự ủng hộ để đánh Việt Nam là Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu và Tổng thống Mỹ Jimmy Carter. Lý Quang Diệu sáng suốt chỉ ra cho họ Đặng thấy “Không có một cộng đồng Nga kiều nào tại các nước Đông Nam Á có thể dẫn đến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản do Liên Xô ủng hộ nhưng ở đâu cũng có các cộng đồng Hoa kiều được đảng và nhà nước CS Trung Quốc xúi dục và ủng hộ.” Với Mỹ, ngày 30 tháng 1 năm 1979, Tổng thống Jimmy Carter mời Đặng Tiểu Bình gặp riêng và trong buổi họp này Tổng thống Carter đọc cho họ Đặng nghe quan điểm của Mỹ từ lá thư do chính tay tổng thống soạn thảo, trong đó, Tổng thống Carter yêu cầu họ Đặng vì sự ổn định của Đông Nam Á và thế giới, cố tự chế hành động xâm lược Việt Nam. Cá nhân Jimmy Carter có thể thương hay ghét Việt Nam nhưng rõ ràng chính sách và tầm nhìn của một tổng thống Mỹ chẳng bao giờ là “chưa bao giờ tốt thật sự với Việt Nam” như Trần Đăng Thanh “suy bụng ta ra bụng người”.
Gát qua một bên chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” tào lao được mấy cái loa tuyên truyền lập đi lập lại đến nhàm chán mà cứ tạm xem đế quốc Mỹ cũng là kẻ thù của Việt Nam, thì giữa Trung Quốc và Mỹ, kẻ thù nào đe dọa trực tiếp đến an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và trong trường hợp phải chọn một để đi, người khôn ngoan nên biết chọn ai?
Một người có kiến thức chính trị bình thường cũng biết chỗ dựa phải là Mỹ. Trong quan hệ chính trị quốc tế không có chuyện “tốt với Việt Nam” hay “xấu với Việt Nam” mà chỉ có “thuận với quyền lợi Việt Nam” hay “nghịch với quyền lợi Việt Nam”.
Trần Đăng Thanh biết ăn cắp câu nói nổi tiếng của cố Thủ tướng Anh Lord Palmerston thời Nữ Hoàng Victoria “Nước Anh không có đồng minh bất diệt, kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia dân tộc là bất diệt và vĩnh viễn” nhưng không hiểu tại sao Thổ Nhĩ Kỳ biết liên minh với Anh, Mỹ, những cựu thù ở xa, để chống kẻ thù độc tài hung bạo Liên Xô ở gần. Sau thế chiến thứ hai, các quốc gia Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ ngã về phía Mỹ và sau khi khối Liên Xô sụp đổ hầu hết các nước Đông Âu Cộng Sản cũ cũng ngã về phía Mỹ. Lý do rất dễ hiểu, các quốc gia vừa bước ra khỏi chiến tranh hay độc tài lạc hậu rất cần khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục, giao thương kinh tế. Không có gì hổ thẹn phải đi học cái hay cái đẹp của người khác đem về áp dụng cho đất nước mình, chỉ có những kẻ “ngồi trong đáy giếng thấy trời bằng vung” mới nghĩ không ai khôn hơn mình.
Ông bà ta dạy “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, Trung Quốc không chỉ là mực mà là đế quốc tội ác, thâm độc, bất nhân. Lãnh đạo CS Trung Quốc không thương xót ba chục triệu dân họ chết dưới bàn tay của Mao Trạch Đông thì thương xót gì một dân tộc nhỏ nhoi mà tổ tiên nhà Hán của chúng đã nhiều lần cố đồng hóa mà không được.
Ông Trần Đăng Thanh có biết “côn đồ” Đặng Tiểu Bình đã từng muốn xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy) khi nói với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi” không?
Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.
Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ nhưng ít ra không phải về tay trắng. Mỹ đồng ý giúp Đặng theo dõi sự động binh của 55 sư đoàn Liên Xô phía Bắc. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”.
“Côn đồ” Đặng Tiểu Bình với chính sách cây gậy
Lý do Trung Quốc đánh Việt Nam năm 1979 ngày nay đã quá tỏ tường. Trung Quốc đánh Việt Nam trước hết phát xuất từ nỗi lo sợ bị bao vây. Tháng 4 năm 1968, Chu Ân Lai tiết lộ với Phạm Văn Đồng: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng đáp: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Việc Việt Nam ngã theo Liên Xô đã xác định vòng vây hoàn toàn khép chặt chung quanh Trung Quốc. Riêng một Việt Nam đã quá lo, nếu cộng thêm Miên và Lào với tổng số gần 100 triệu dân thù địch nằm ngay phía nam là một đe dọa lớn.
Để ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y vào tháng Ba năm 1976. Tháng Sáu năm 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.
Một lý do khác, Đặng Tiểu Bình khinh rẻ lãnh đạo CSVN là phường “ăn cháo đá bát”. Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Lý do thứ ba là sự khinh bỉ, căm ghét Việt Nam của cá nhân họ Đặng. Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Như tôi đã viết trong bài Chu kỳ thù hận Việt Trung Miên, đảng CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng Tư năm 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến. Với những đóng góp xương máu đó, việc họ Đặng tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học” không phải là chuyện tự nhiên. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền hình Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó.
Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ chính trị đảng CS Trung Quốc nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và Mỹ. Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức, lịch sử và duy nhất với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Từ cuối năm 1978 đến đầu 1979, Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á.
Trong số các quốc gia họ Đặng viếng thăm, chuyến viếng thăm Mỹ là quan trọng nhất. Sự đe dọa của Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong nghị trình giữa Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo Mỹ. Nói chung, Mỹ từ chối việc ủng hộ phương án quân sự nhưng để giữ mối quan hệ đang tiến triển tốt, Mỹ đồng ý cung cấp tin tức tình báo về các hoạt động quân sự của Liên Xô vùng biên giới phía bắc Trung Quốc. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 400 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.
Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN vẫn tin người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ lòng đem quân đánh đàn em CS Việt Nam, những người từ trong tay áo Trung Quốc chui ra. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.” Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia. Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Quốc. Nếu ngày đó giới lãnh đạo Đảng không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Lần nữa, như lịch sử đã nhiều lần minh chứng, không có khẩu súng nào bắn chính xác hơn khẩu súng của lòng yêu nước.
“Côn đồ” Đặng Tiểu Bình chuyển sang chính sách củ cà rốt
Đối với Đặng Tiểu Bình, tổn thất vài chục ngàn quân không quan trọng, điều quan trọng là y đã bao vây được Việt Nam và đẩy CSVN vào chỗ nghèo nàn, lạc hậu và cô lập. Sau mười năm thù địch, Đặng Tiểu Bình, để thích nghi với điều kiện kinh tế toàn cầu, đã thay đổi chính sách từ cây gậy sang củ cà rốt.
Trung Quốc vào thời điểm 1990 đang phát triển mạnh nên cần chiếm biển Đông chiến lược đầy tài nguyên, và họ Đặng cũng biết, sau khi Liên Xô sụp đổ, CSVN như những kẻ đang chới với trong đại dương đang tuyệt vọng cần một cái phao. Nghe triệu tập giống như nghe lịnh đại xá, Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười và Phạm Văn Đồng đã vội vàng đưa nhau sang Thành Đô triều kiến. Tại khách sạn Kim Ngưu, thủ phủ Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, lúc 2 giờ chiều ngày 4 tháng 9 năm 1990, các lãnh đạo CSVN và Trung Quốc đã ký kết thỏa hiệp tái lập quan hệ giữa hai đảng CS.
Hơn hai mươi năm qua, nội dung của thỏa hiệp Thành Đô được hai bên giữ bí mật. Phía Trung Quốc dĩ nhiên không dại gì công bố và phía lãnh đạo CSVN không thể công bố, đơn giản bởi vì đó là thỏa hiệp mang nội dung bán nước. Nếu các điều khoản trong thỏa hiệp nhấn mạnh đến việc tái lập bang giao trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác cùng có lợi giống như phần lớn các thỏa hiệp quốc tế giữa các nước có chủ quyền, lãnh đạo CSVN đã tổ chức đại lễ công khai hóa lâu rồi. Tuy nhiên, dù giữ kín tới đâu, nội dung chính không phải là khó đoán: CSVN nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông để đổi lấy sự tồn tại của đảng CSVN trong vòng ảnh hưởng kinh tế, chính trị và tư tưởng của CS Trung Quốc.
Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Quốc ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài các Trung Quốc còn ngang ngược ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất cả diễn biến trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1990 đến nay cho thấy thỏa hiệp Thành Đô, về ý nghĩa, cũng tương tự như hòa ước Giáp Thân hay còn gọi hòa ước Patenôtre được ký giữa đại thần nhà Nguyễn Phạm Thận Duật và đại diện Pháp Jules Patenôtre chia đất nước Việt Nam thành ba mảnh và đặt quyền bảo hộ Việt Nam vào ngày 6 tháng 6 năm 1884 tại Huế. Việt Nam thực chất là một chư hầu của Trung Quốc và vị trí của nhà nước CSVN cũng không hơn gì vị trí của triều đình nhà Nguyễn sau hòa ước Patenôtre.
Thỏa hiệp Thành Đô là một chiến thắng lớn của Trung Quốc. Giang Trạch Dân vui vẻ tặng phái đoàn CSVN hai câu thơ của Lỗ Tấn “Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông nhau cười, thù oán sạch không”. “Anh em còn đó” tức chú em vong ơn, phản trắc CSVN đã biết phục thiện trở về trong vòng kim cô Trung Quốc.
Sỡ dĩ Trung Quốc chưa chiếm trọn quần đảo Trường Sa vì tranh chấp chủ quyền Trường Sa liên quan đến nhiều quốc gia không phải chỉ riêng với Việt Nam và ngoài ra, các môi quan hệ kinh tế chính trị vô cùng phức tạp trong thời đại toàn cầu hóa, việc sử dụng các biện pháp quân sự mạnh không phải là quyết định dễ dàng. Trung Quốc sau ba mươi năm phát triển nhưng vẫn chưa đủ mạnh bên ngoài và rất yếu bên trong. Mặc dù tuyên bố hung hăng, quá khích, phô trương tàu chiến, gây hấn qua vài hành động quân sự nhỏ có tính cục bộ để giữ gìn sự đoàn kết nội bộ, Trung Quốc cần ổn định hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng và luôn tránh né việc quốc tế hóa các tranh chấp quốc tế.
Nhiều người có thể phản biện lý luận này khi cho rằng Việt Nam vẫn phản đối Trung Quốc và tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vâng, nhưng xin đừng quên quyền được phản đối giới hạn cũng có thể là một điều khoản của thỏa ước Thành Đô. Nếu ai thắc mắc hãy so sánh lời tuyên bố của các phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao CSVN từ Lê Dũng trước đây đến Lương Thanh Nghị hôm nay sẽ thấy những lời phản đối chỉ khác về ngày tháng, còn nội dung đều tương tự như nhau, toàn là những câu phản đối ngoại giao sáo rỗng, lấy lệ, chẳng ai quan tâm và không gây một tác dụng gì. Dưới chế độ CS, việc phản đối, ủng hộ, hoan hô, đả đảo chỉ là một hình thức tuyên truyền và không phản ảnh chính sách bên trong của đảng. Trong buổi hội kiến giữa Mao Trạch Đông và Tổng thống Mỹ Richard Nixon ngày 21 tháng 2 năm 1972, họ Mao nhắc chừng cho tổng thống Mỹ biết quan hệ hai quốc gia đã cải thiện tốt đẹp và đang tiến đến việc bình thường hóa nhưng đừng lấy làm lạ khi Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục công kích Mỹ.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với chính sách bao vây Trung Quốc của Mỹ hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không. Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, đặt quyền lợi dân tộc lên trên, chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng. Lịch sử không thể viết lại nhưng cơ hội luôn còn đó cho những ai thành tâm quay đầu về với tổ tiên.
Trần Trung Đạo
Tham khảo:
Đại tá Trần Đăng Thanh giảng về Biển Đông cho lãnh đạo các trường Đại học, Blog BS
Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Blog Ngô Đức Thọ
Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
Time, China-Vietnam Border War, 30 Years Later, a photo essay.
Wikipedia Đặng Tiểu Bình
Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
Tôi cho rằng Ủy ban MTTQ TPHCM, nơi hiệp thương thống nhất giới thiệu ông Phước (người tự ứng cử) cần bày tỏ thái độ về vấn đề này. Bên cạnh đó, Ban công tác ĐB của UB Thường vụ QH cũng cần có ý kiến để sau này không lặp lại những trường hợp tương tự.
ĐB Hoàng Hữu Phước lại có quan điểm khác về vấn đề này. “Tôi ủng hộ biểu tượng Khuê Văn Các. Chùa Một Cột là một phiên bản, còn Tháp Rùa nhìn quen mắt, nhưng không có người ở, không ý nghĩa bằng Khuê Văn Các. Đây là công trình do một đấng minh quân xây dựng, vừa khuyến học, vừa ghi danh nhân tài, nên làm”.
Quốc hội biểu quyết riêng điều luật quy định về biểu tượng thủ đô, có 385 đại biểu tán thành, 74 đại biểu không tán thành, 9 đại biểu không biểu quyết. Trước đó, khi lấy phiếu ý kiến đại biểu Quốc hội đã có 307/363 đại biểu tán thành với lựa chọn hình ảnh Khuê Văn Các làm biểu tượng của thủ đô.
Việc đại biểu Quốc hội xúc phạm một đại biểu Quốc hội khác trên một
trang cá nhân và để chế độ công cộng cho mọi người cùng xem, theo tôi,
là hành vi vi phạm pháp luật dân sự mà cụ thể là vi phạm vào điều 37
của Bộ luật dân sự 2005 về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
của công dân.
Theo đó, mỗi cá nhân đều có nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của các cá nhân khác và pháp luật sẽ bảo vệ quyền này. Một công dân nói xấu một công dân khác tại nơi công cộng thì đó chỉ là sự vi phạm pháp luật dân sự, nhưng nếu là một đại biểu Quốc hội nói xấu một đại biểu Quốc hội khác thì rõ ràng bên cạnh việc vi phạm pháp luật, quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, vị đại biểu đó còn xúc phạm đến một hình tượng đại diện cho nhân dân khác, cũng như làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Quốc hội.
(Tuổi trẻ)
(Dân trí) - “Ở Quốc hội lâu nay, việc các đại biểu có ý kiến trái ngược nhau là chuyện bình thường nhưng chì chiết, thóa mạ nhau một cách nặng nề như blog của đại biểu Phước thì chưa có tiền lệ. Tôi cho rằng đó là vấn đề khá nghiêm trọng trong văn hóa ứng xử…"
Phó Chủ nhiệm UB Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội Lê Như Tiến trao đổi về việc đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước đăng bài viết “Dương Trung Quốc và bốn điều sai năm cũ” (tứ đại ngu) trên blog cá nhân vừa qua.
Bài viết về đại biểu Dương Trung Quốc đăng trên blog của đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước đã làm nóng dư luận những ngày đầu năm mới vừa qua. Ông có thể chia sẻ quan điểm của mình về sự việc?
Tôi đã đọc bài viết đăng trên blog Hoàng Hữu Phước và hơn 200 comment của độc giả đã phát biểu. Thực ra tôi thấy rất đáng tiếc nếu đó là sự thật. Tôi vẫn hi vọng khả năng có một kẻ nào đó đã mạo danh đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước để viết bài như vậy chứ không phải đại biểu. Nhưng khi đại biểu Phước xác nhận đây đúng là phát ngôn của mình thì đó là điều rất đáng buồn.
Việc một vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau giữa các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là việc rất bình thường. Các ý kiến khác nhau qua tranh luận là để tiệm cận đến chân lý, đó là điều rất tốt. Từ ý kiến khác nhau, tranh luận khác nhau như vậy mà dẫn đến bài viết như vừa qua mới là điều không bình thường. Không bình thường ở chỗ người viết dùng ngôn từ không phù hợp, ngay cả với một người bình thường chứ không nói gì đến người có vị trí đại diện cho dân như ĐBQH. Là người thay mặt nhân dân để quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước càng cần sự cẩn trọng trong mỗi lời nói, mỗi phát biểu.
Đọc các ý kiến phản hồi của người đọc tôi cũng thấy yêu cầu về việc xử lý của các cơ quan có trách nhiệm như đoàn ĐBQH TPHCM, Ban công tác đại biểu của QH hay UB Thường vụ QH có thái độ gì. Họ có lý khi đặt vấn đề đó vì ứng xử với nhau cần có văn hóa, ngôn từ, lời lẽ sâu sắc nhưng lịch sự, luôn tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng người khác. Đó là văn hóa cần có của mỗi người. Nhiều đại biểu tôi biết phát biểu những vấn đề rất gai góc trên nghị trường nhưng ngôn từ nói rất chừng mực, tế nhị, có văn hóa. Tôi cho là việc có văn hóa trong ứng xử, phát ngôn, trong lời nói hoặc giao tiếp với nhau rất quan trọng đối với ĐBQH.
Có thể ý kiến các đại biểu từ những góc nhìn khác nhau về một vấn đề nhưng không thể vì thế mà dùng những ngôn từ để thóa mạ, mạt sát hay hạ nhục nhau. Điều đó hoàn toàn không nên.
Chưa đặt vấn đề đúng sai về nội dung thì những ngôn từ trong bài viết có thể nhìn nhận thế nào, thưa ông?
Việc người viết dùng từ “đại ngu” để nói về người khác là một từ rất mạnh, ngay với những người bình thường, thậm chí những người có trình độ rất thấp cũng không dùng với nhau, không thiếu những cách nói khác để thể hiện. Vậy mà nói nặng nề kiểu “đại ngu”, “tứ đại ngu”, nói ngụ ý kiến thức của đồng nghiệp thấp, ít học… thì hết sức không nên. Trong bài viết cũng rất nhiều từ ngữ khác mang tính chất thóa mạ như “loạn ngôn”, “hiếu chiến”, “háo thắng”, "bất tri vô trí”, loạn ngôn, loạn hành, loạn trí, “Dương Trung Quốc đã nói xằng bậy”, “tự làm lộ cho toàn dân biết mình không biết ngoại ngữ trong khi bản thân là một nhà sử học”, “danh xưng nhà đĩ học bên cạnh nhà sử học”… là quá nặng nề, đến mức rất phản cảm. Không thể dùng những từ này để nói về một ĐBQH, một người đồng nghiệp với mình.
Tình huống xấu nhất đã được xác định - đây chính là phát ngôn của đại biểu Hoàng Hữu Phước. Vấn đề đặt ra là Quốc hội hiện tại có cơ chế, quy định nào về điều kiện, giới hạn của việc nêu những ý kiến khác nhau đối với mỗi ĐBQH như này?
Các đại biểu có rất nhiều cách để trao đổi, để truyền thông điệp của mình. Trên diễn đàn QH, trong các cuộc họp tổ, trao đổi trực tiếp với nhau đại biểu không thiếu cơ hội để đăng ký phát biểu, thậm chí phản biện nhau, nêu quan điểm trái chiều nhau là chuyện bình thường. Ngoài ra, các đại biểu hoàn toàn có thể gửi thư, viết mail trao đổi, gọi diện tranh luận… Ví dụ, có ý kiến khác nhau về luật Biểu tình chẳng hạn, mỗi đại biểu hoàn toàn có thể gửi kiến nghị bằng văn bản đến đoàn đại biểu QH, đến Ủy ban mà mình là thành viên, đến cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra hoặc UB Thường vụ QH, gửi cho lãnh đạo QH để thể hiện chính kiến của mình…
Có rất nhiều kênh để đại biểu trao đổi với nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp như thế, tại sao không làm, lại viết tung lên blog như thế.
Nhiều người đặt vấn đề, blog đúng là một trang nhật ký cá nhân trên mạng nhưng đặc điểm lại là một phương tiện truyền tải mà nhiều người có thể tiếp cận, phổ biến rộng rãi. Vậy những phát ngôn chưa phù hợp của một đại biểu như ông đã phân tích, dư luận quan tâm hướng xử lý, giải quyết giờ thế nào?
Tôi nghĩ hiện Chính phủ đã có nhiều quy định để quản lý các trang blog cá nhân. Dù blog có thể là của bất kỳ ai, ai cũng có thể tạo ra trang nhật ký riêng trên mạng như vậy nhưng không phải vì vậy mà muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói. Không thể vu khống, bôi nhọ Đảng và nhà nước, không được bôi nhọ nhân phẩm và danh dự của người khác, không thể nói tùy thích cho “sướng miệng” mình mà làm phương hại đến người khác. Luật Hình sự có quy định cụ thể về những hành vi, tội danh liên quan đến vấn đề này. Trong Hiến pháp hiện hành, Điều 71 cũng như điều 22 sửa đổi bổ sung điều 71 này trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi đang đưa ra lấy ý kiến cũng giữ quy định “không được lợi dụng tự do, dân chủ để nói xấu, bôi nhọ Đảng, nhà nước, các tổ chức và cá nhân”. Nếu ai dùng phương tiện này khác để thóa mạ, bôi xấu người khác như trường hợp này thì pháp luật cũng quy định cách thức xử lý cụ thể.
Trong Nội quy kỳ họp và quy chế hoạt động của ĐBQH cũng có quy định đại biểu không được xúc phạm lẫn nhau và người khác.
Ở Quốc hội, lâu nay, chuyện này chưa có tiền lệ. Việc có ý kiến trái ngược nhau thì nhiều nhưng nói với nhau một cách nặng nề, có tính chất chì chiết, thóa mạ, hạ nhục nhau như này thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử. Tôi cho rằng đó cũng là vấn đề khá nghiêm trọng trong văn hóa ứng xử với nhau, nhất là ở cương vị ĐBQH. Đã là một đại biểu, một chính khách phải có lời ăn tiếng nói, ứng xử phù hợp với vị thể một người đại diện cho người dân cả nước. Nếu không được như thế thì rất đáng tiếc và tôi cho rằng ai thể hiện như thế thì người đó đã tự đánh mất mình, đánh mất uy tín của mình trong lòng cử tri, nhân dân. Và thực tế đã thể hiện, rất nhiều ý kiến phản đối bài viết trên blog Hoàng Hữu Phước và ủng hộ các ý kiến của đại biểu Dương Trung Quốc đã nêu tại diễn đàn Quốc hội.
Sự việc đã như vậy cơ quan chức năng nên có biện pháp can thiệp nào?
Khi sự việc đã như thế, các cơ quan chức năng như Đoàn ĐBQH TPHCM, Ban Công tác đại biểu, UB Thường vụ QH… nên có chỉ đạo làm rõ vì đây không phải việc của cá nhân với cá nhân nữa mà đã thành các luồng ý kiến khác nhau, thành điểm nóng trong mấy ngày đầu xuân, tết đến vừa qua, làm xôn xao dư luận. Đoàn ĐBQH TPHCM, Ban Công tác đại biểu, UB Thường vụ cũng nên có hình thức nhắc nhở để đại biểu có hành động phù hợp với vị thế của mình. Sự việc đã như thế, không thể lờ đi coi như không có, không thấy việc đã xảy ra.
Ông có bình luận gì về nội dung “nói lại” của đại biểu Dương Trung Quốc cho rằng bài viết này không thể gọi là phản biện, là không có gì đáng phản hồi, bình luận?
Tôi cho rằng anh Dương Trung Quốc là người rất bình thản, điềm tĩnh và có bản lĩnh. Nếu rơi vào nhiều người khác thì đã nổi sung, nổi đóa lên rồi nhưng anh Quốc vẫn rất bình thản. Anh có nói “đã không cùng ngôn ngữ thì không thể trao đổi với nhau được” là cách nói rất sâu sắc, khéo léo. Anh Quốc cũng nói một ý “hãy để cho cử tri, độc giả tự bình luận” và quả thật khi độc giả bình luận thì quan điểm đưa ra rất gay gắt.
Tôi cũng được biết, đoàn ĐBQH TPHCM đã có buổi làm việc với đại biểu Hoàng Hữu Phước về việc này và ông Phước cũng đã gỡ bài viết khỏi blog của mình. Tôi cho rằng đây là phản ứng kịp thời của đoàn cơ quan quản lý trực tiếp đại biểu cũng như thái độ tích cực, thể hiện đại biểu đã nhận thấy sai sót của mình. Tích cực hơn, ông Phước nên có lời xin lỗi trực tiếp với đại biểu Dương Trung Quốc. Nhiều đại biểu cũng gọi điện cho tôi bày tỏ quan điểm không tán thành việc làm của ông Hoàng Hữu Phước trên blog cá nhân của mình.
Xin cảm ơn ông!
P.Thảo thực hiện
(Dân trí)
(Quê Choa)
Tác giả và cuốn “Bia Mộ”
Dương Kế Thằng người huyện Hy Thủy tỉnh Hồ Bắc, sinh tháng 11 năm 1940, tốt nghiệp trung học năm 1960 ở trường trung học số 1 Hy Thủy, năm 1962 thi đỗ vào trường đại học Thanh Hoa, tháng 4 năm 1964 gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc. Tốt nghiệp chuyên nghành lái máy cày khoa động lực học ở đại học Thanh Hoa năm 1966, ông gia nhập vào Tân Hoa Xã từ ngày 10 tháng 1 năm 1968 với chức vụ là phóng viên Tân Hoa Xã ở phân xã Thiên Tân và làm việc ở đây cho tới năm 2001. Trong thời gian công tác 33 năm ở đây, ông đã viết hàng ngàn bài báo, điều tra báo cáo và nhiều trong số đó được tầng lớp lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng đánh giá cao. Năm 1984 được chọn là phóng viên ưu tú. Sau khi nghỉ hưu năm 2001 ông làm trong ban biên tập, cố vấn cho nhiều tạp chí như “Cải cách Trung Quốc”; năm 2003 Dương Kế Thằng bắt đầu làm phó tổng biên tập cho tạp chí “Viêm Hoàng Xuân Thu” cho tới nay. Ông có nhiều tác phẩm như “Thời đại Đặng Tiểu Bình” “Phân tích giai tầng xã hội Trung Quốc đương đại” “Đấu tranh chính trị trong thời đại cải cách mở cửa ở Trung Quốc”, v.v.
Cuốn “Bia mộ” bản tiếng Trung được xuất bản năm 2008 ở Hongkong, tại Trung Quốc được liệt vào sách cấm, được giới trí thức ưa chuộng đồng thời tác giả cũng bị theo dõi và gây áp lực. Đấy là một tác phẩm của một trí thức Trung Quốc thực hiện trong hơn 10 năm thu thập tài liệu thực địa, hàng ngàn trang tài liệu của chính Đảng Cộng sản và những cuộc phỏng vấn, ghi chép đầy đủ nhất về giai đoạn cầm quyền của Trung Cộng trong thời gian 1958-1961. “Bia mộ” là cuốn sách điều tra đầy đủ nhất, ghi chép toàn diện nhất về nạn đói lớn dưới thời cai trị của hoàng đế đỏ Mao Trạch Đông với hơn 36 triệu nạn nhân đã chết đói trong giai đoạn này. Điểm chính Dương Kế Thằng đã chứng minh rằng Đảng Công sản, từ trưởng thôn đến Chủ tịch Mao, biết chính xác những gì đang xảy ra nhưng đã quá biến thái vì ý thức hệ để thay đổi chính sách để hàng chục triệu người phải chết. Dương Kế Thằng trong một phỏng vấn với đài RFI đã nói: “Đây không chỉ là một bi kịch của Trung Quốc, nó còn là bi kịch của cả loài người. Bài học này không những cần người Trung Quốc tổng kết nó, mà cả nhân loại cũng cần rút ra bài học, để từ nay trở về sau vĩnh viễn không phát sinh ra thảm kịch tương tự”.
Nguyên bản tiếng Trung gồm hai tập tổng cộng 1800 trang do đó chỉ một phần nhỏ của cuốn “Bia Mộ” sẽ được giới thiệu đến bạn đọc.
Chương 1 – Họa từ Trung Nguyên
Tỉnh Hà Nam nằm ở khu vực Trung Nguyên của Trung Quốc. Vào những năm 60 của thế kỷ 20, ngọn cờ đỏ nơi đây được giương cao nhất, “kinh nghiệm” cũng được đưa ra nhiều nhất, nạn đói cũng mười phần nghiêm trọng. Nạn đói ở Hà Nam chính là bắt đầu từ phong trào chính trị. Vào tháng 7 năm 1957 có 7 vạn người bị mang ra đấu tố với tội danh “thành phần phái hữu”, chiếm 15% trên tổng số 55 vạn người trên toàn quốc, cũng chiếm 15% tổng số cán bộ của tỉnh Hà Nam. Tới năm 1958 trong đảng lại triển khai “ phong trào phê bình đấu tranh chống lại phái hữu Phan Dương Vương và bè lũ”. Những phong trào chính trị này tạo nên không khí khủng bố sợ hãi và điên cuồng, tạo nên …cùng sự tàn nhẫn, kéo theo một loạt những thảm kịch về nhân mạng, trong đó có “sự kiện Tín Dương”gây sự chú ý nhiều.
1. Sự kiện Tín Dương
Căn cứ theo lời kể của đặc phái viên được ủy ban giám sát Trung Công Trung Ương (tiền thân của ủy ban kỷ luật đảng hiện nay) phái đi điều tra Hà Nam là Lý Kiên nói với tôi, tỉnh Hà Nam có 3 địa phương có số người chết đói nhiều nhất, một là Tín Dương, hai là Nam Dương, ba là Hứa Xương. Năm đó sự kiện Tín Dương có sức ảnh hưởng lớn nhất, tạo thành chấn động một thời với cái tên “sự kiện Tín Dương”.
Tín Dương nằm ở phía Đông Nam tỉnh Hà Nam, giáp giới với Hiếu Cảm của tỉnh Hồ Bắc, với Hoàng San, An Khánh, Lục An, Phụ Dương của tỉnh An Huy. Vào năm 1958, khu vực Tín Dương bao gồm 18 huyện là Tín Dương, Tức Huyện, Cố Sử, Hoàng Xuyên, Tân Huyện, La Sơn, Hoài Tân, Thương Thành, Quang Sơn, Xác Sơn, Tây Bình, Nhữ Nam, Tân Thái, Tẩm Dương, Toại Bình, Thượng Thái, Bình Dư, Chính Dương và 2 trấn là Tín Dương và Trú Mã Điếm (vào thời điểm đó Trú Mã Điếm là trấn). Toàn khu vực có diện tích 28.000 km2, dân số 8.5 triệu người. Một nửa diện tích khu vực này là lão căn cứ địa Đại Biệt Sơn, Đồng Bách Sơn, trong thời chiến tranh hy sinh khoảng mười mấy vạn người.
Năm đó có người già đã nói “đối với đảng cộng sản mà nói, mỗi gốc cây, ngọn cỏ ở Đại Biệt Sơn đều có công lao”. Khu vực này là vùng cung cấp bông và lương thực trọng điểm của tỉnh Hà Nam, còn sản xuất cả trà, gỗ, tre bương, cây trẩu, dược liệu, còn được gọi là xứ giàu cơm cá. Nơi đây còn có khu thắng cảnh Công Kê Sơn nổi tiếng. Người ta thường nói tỉnh Hà Nam có tam dương thái bình (Tín Dương, Nam Dương, Lạc Dương) chính là 3 nới có điều kiện kinh tế tự nhiên tốt nhất Hà Nam. Từ cuối năm 1959 tới mùa xuân năm 1960, có ít nhất 1 triệu người chết đói, chiếm tỉ lệ 1/8 dân số trở lên. Mặt khác trong nhiều năm, sự việc động trời này bị ỉm đi, thời gian đã cách hơn 40 năm mà bên ngoài cũng không biết được sự thật bên trong.
Vào tháng 9 năm 1999, để tìm hiểu chân tướng của “sự kiện Tín Dương”, tôi đã có chuyến đi tới đấy, đi cùng có phóng viên cao cấp của Tân Hoa Xã ở Hà Nam là Cố Nguyệt Trung và phóng viên thường trú Tín Dương của Tân Hoa Xã thời kỳ nạn đói lớn là Lỗ Bảo Quốc (sau này nghỉ hưu ở vị trí chủ tịch ban tuyên truyền của đảng ủy thành phố Trú Mã Điếm). Do mối quan hệ tốt giữa Cố Nguyệt Trung và cán bộ địa phương, thị ủy Tín Dương đối đãi rất nhiệt tình với chúng tôi, nhưng sau khi biết được mục đích chuyến đi của chúng tôi thì cảm thấy rất khó xử, họ bèn đem ban tuyên truyền dẫn chúng tôi đi thăm thú Công Kê Sơn, hy vọng chúng tôi sẽ đi chơi mấy hôm rồi lại quay về. Chúng tôi đi chơi trên núi 1 ngày, hôm sau liền xuống núi, rồi lợi dụng hơn 1 tuần thời gian để hoàn thành nhiệm vụ điều tra tìm hiểu này.
Chúng tôi đã tổ chức một buổi gặp gỡ nói chuyện với những nhân chứng của “Sự kiện Tín Dương” tại khách sạn nơi ở là khách sạn Sư Hà với những nhân vật mấu chốt (những cán bộ đảng ủy cấp xã và cấp huyện lúc đó), sau đó còn xuống tận nơi thăm một số nông dân địa phương. Sau khi quay về Trịnh Châu còn đọc thêm nhiều tài liệu lịch sử liên quan, sau đó đã làm rõ tường tận được tình hình của “sự kiện Tín Dương” khi đó.
a. Những lời hồ ngôn loạn ngữ dưới áp lực chính trị của cấp trên đưa xuống
Với thể chế chính trị như thế ở Trung Quốc: mệnh lệnh được cấp trên ban ra và cấp dưới phải thi hành, cấp trên có tranh chấp chính trị, cấp dưới cũng làm một cuộc đấu tranh chính trị giống y như vậy, càng xuống dưới càng mở rộng, càng tàn khốc. Tỉnh Hà Nam sau khi tổ chức phê đấu “Phan, Dương, Vương” (xem chú thích) liền tổ chức tiếp phong trào chống thành phần phái hữu.
Chúng ta có thể nhìn thấy tính chất tàn khốc của những cuộc phê bình đấu tố chính trị qua huyện Quang Sơn khu vực Tín Dương. Ngày 11 tháng 11 năm 1959, huyện Quang Sơn tổ chức hội nghị đảng ủy mở rộng để phê bình đấu tố một thành viên trong ban bí thư huyện ủy là Trương Phú Hồng. Trương Phú Hồng bị chụp cho 2 cái mũ “phái hữu” và “phần tử thoái hóa biến chất”.
Trên hội nghị đấu tố, Bí thư huyện ủy là Mã Long Sơn đi đầu đá ông Trương 1 cái, quần chúng liền ùn ùn kéo lên, người thì giật tóc, người kéo tai, người thì đạp vào đầu gối. Ngày 12 trên hội nghị huyện ủy mở rộng cũng đấu tố Trương thêm 2 ngày, đánh cho ông ta máu mồm, máu mũi, máu tai chảy cả ra ngoài, tóc thì cũng bị giật mất một mảng, trên người thì bộ quân phục màu vàng bị xé thành từng miếng từng miếng, đi lại rất khó khăn. Sang tới ngày 13 thì lại giao Trương cho cán bộ bên cơ quan huyện ủy tiếp tục đấu tố. Mã Long Sơn trên hội nghị đấu tố lại tiếp tục bạt tai Trương 2 cái, sau khi đấu tố thêm 1 ngày, Trương đã không thể đi lại được nữa. Sang ngày 14 lại tiếp tục đấu tố ở một cơ quan trực thuộc huyện ủy. Ngày 15 lại giao cho các cán bộ công xã tiếp tục đấu tố, lúc này thì Trương chỉ còn có thể bò dài trên đất mà thôi. Những người tham gia đấu tố thì dùng chân đạp, tóc thì từng mảng, từng mảng bị giật mất sạch. Sang ngày 16 lại giao cho công xã đấu tố thêm nửa ngày, lúc này Trương sắp chết, liền được kéo về phòng ở, lúc này đã mất kiểm soát tiểu tiện, đại tiện, không ăn uống được nữa. Sang ngày 17 thì nói rằng Trương đang giả bệnh, lại rồi ra đấu tố lần nữa. Ngày 18 thì nói Trương là thành phần phản động, đang mong chờ Tưởng Giới Thạch quay lại, lại tổ chức cán bộ lôi Trường từ trên giường xuống đất đấu tố tiếp, Trương muốn uống nước cũng không có ai đưa cho uống, sang buổi trưa ngày 19 thì Trương chết.
Theo hồi ức của đặc phái viên khu vực Tín Dương là Trương Thụ Phiên, vào mùa xuân năm 1959, để giải quyết vấn đề nạn đói của nông dân, Mã Long Sơn từng để Trương Phú Hồng đến một đội sản xuất để thí điểm sản xuất khoán cho từng hộ (vào lúc đó ở những nơi khác làm như vậy, Trung Cộng Trung Ương cũng không phê bình). Sau hội nghị Lư Sơn, thì ghép việc khoán sản xuất đến từng hộ vào tội thành phần chủ nghĩa phái hữu. Mã Long Sơn đã không gánh trách nhiệm, lại nói là do Trương tự ý làm. Trương không phục liền nói do bí thư Mã phái anh ta đi làm. Ở dưới chế độ chuyên chế, quan to một cấp có thể ép chết người, sau đó Trương Phú Hồng phải chịu kết cục bi thảm.
Việc đấu tố ở những huyện khác cũng diễn ra rất tàn khốc, ví dụ Tức huyện tổ chức phê bình đấu tố phó bí thư huyện ủy là Phong Bội Nhiên, nói anh ta phủ định đường lối ba ngọn cờ hồng. Bí thư huyện ủy là Từ Tích Lan tổ chức hội nghị đấu tranh phê bình, trên hội nghị thì họ Từ với sung ngắn để bên cạnh, Phong Bội Nhiên đứng ở dưới, có người nắm lấy cổ, có người đấm vào anh ta, có người thì xông vào đạp.
Theo như phó bí thư cấp ủy Tín Dương, đặc phái viên Trương Thụ Phiên nhớ lại, toàn khu có tới 12.000 lượt người bị mang ra đấu tố đánh đập. Dưới áp lực chính trị từ trên đè xuống, cán bộ cấp dưới phải hồ ngôn loạn ngữ nói quàng xiên để thoát tội cho mình.
Vào ngày 8 tháng 6 năm 1958, “Nhân Dân Nhật Báo” cho đăng một bản tin nói rằng đội sản xuất số 2 thuộc công xã nông nghiệp Vệ Tinh huyện Toại Bình trồng tiểu mạch với năng suất bình quân 2015 cân/mẫu (1 cân Tàu bằng 0.5kg). Sau khi tin tức được truyền đi rộng rãi. Ngày 12 tháng 6 thì Nhân Dân Nhật Báo lại đăng thêm một tin tức nữa là phân đội sản xuất số 2 thuộc đội sản xuất số 1 thuộc công xã nông nghiệp Vệ Tinh huyện Toại Bình trồng tiểu mạch với năng suất bình quân là 3530.75 cân. Sang ngày 12 tháng 7, “Nhân Dân Nhật Báo “lại truyền đi bản tin công xã Thành Quan thuộc huyện Tây Bình lại xuất hiện tiểu mạch có năng suất là 7320 cân/mẫu, lại càng được đề cao tuyên truyền điển hình.
3 “ngôi sao sáng” điển hình này đều là tin tức từ Tín Dương, là kết quả của phong trào “chống phái hữu”. Dưới không khí đấu tranh chính trị cao như thế, chỉ cần ai có sự hoài nghi đối với kết quả sản xuất nông nghiệp có sản lượng cao như vậy, ngay lập tức bị chụp ngay cái mũ “vấy bẩn vào điển hình sản xuất tiên tiến” “thành phần thuộc phái hoài nghi”, chỉ cần ai nói việc sản xuất có năng suất cao là giả đều sẽ bị mang ra đấu tố.
Vào năm 1959 ở Tín Dương có nạn hạn hán. Vào thời gian đó toàn quốc đều là một dải nắng nóng, Huyện ủy Tín Dương đề ra khẩu hiệu” Đại hạn được mùa lớn”. Dưới tình huống bị thiên tai rõ ràng như thế, lại nói muốn có sản lượng vượt qua năm 1959. Phó bí thư phụ trách nông nghiệp, đặc phái viên Trương Thụ Phiên vào tháng 8 đã tổ chức hội nghị huyện Tín Dương, muốn mọi người nói ra tình hình thực tế để đánh giá thiệt hại, hiểu biết tình trạng thiên tai, có biện pháp hạn chế thiệt hại, chuyển qua trồng các loại hoa màu khác, dự phòng nạn đói. Sau đó hội nghị xuất hiện các ý kiến khác nhau. Không lâu sau đó, tinh thần hội nghị Lư Sơn quán triệt đưa xuống, áp lực chính trị càng ngày càng lớn, cấp ủy yêu cầu các huyện báo cáo tình hình thu hoạch vụ thu vượt sản lượng. Dưới tình hình này thì sản lượng càng báo lên càng cao, báo cáo sau luôn vượt báo cáo trước, lãnh đạo các huyện không dám báo cáo lên trước tiên, sợ báo cáo ít sẽ bị phê bình. Căn cứ vào hồi ức sau 40 năm của chuyên viên hội nghị lúc đó là Dư Đức Hồng nói với tác giả cuốn sách, ban đầu báo lên là 300 ức cân Tàu - 15 triệu tấn. Lúc đó Trương Thụ Phiên và Khâu Tấn Mẫn hai người không tin là nhiều như vậy, yêu cầu mọi người báo cáo lại, sau đó báo là 7.5 triệu tấn, sau cuối cùng rớt xuống còn 3.6 triệu tấn. Đảng ủy địa phương khi thảo luận thì có 8 trên 9 người trong ban thường vụ cho rằng năm 1959 có sản lượng thu hoạch vượt qua năm 1958. Năm 1958 có sản lượng là 56 ức cân – 2.8 triệu tấn, năm 1959 là 72 ức cân - 3.6 triệu tấn là chuyện rất bình thường. Tuy nhiên Trương Thụ Phiên chỉ tin con số thực vào khoảng 30-40 ức cân – 1.5 tới 2 triệu tấn.
Vào cuối tháng 8 đầu tháng 9, Ủy ban thường vụ tỉnh ủy Hà Nam triệu tập hội nghị mở rộng quán triệt tinh thần hội nghị Lư Sơn, bên Tín Dương do Trương Thụ Phiên dẫn đầu tham gia hội nghị(bí thư đảng ủy địa phương Lộ Hiến Văn không dẫn đầu). Hội nghị vừa mở đầu đã yêu cầu bí thư các nơi báo cáo sản lượng. Trương Thụ Phiên báo cáo với thường vụ con số mà bên đảng ủy địa phương đã thảo luận là 72 ức cân, sau đó lại nói ý kiến của cá nhân mình(khoảng 30-40 ức cân), bên thường vụ tỉnh ủy rất không vừa ý với ý kiến của Trương Thụ Phiên, liền hỏi Lộ Hiến Văn: “bên Tín Dương các anh làm ăn kiểu gì vậy?”. Dưới áp lực của ủy ban thường vụ tỉnh, Lộ Hiến Văn triệu tập hội nghị những cán bộ huyện Tín Dương tham gia hội nghị lần này, những cán bộ này đều cúi đầu không nói gì khi hội nghị bắt đầu, dưới áp lực của Lộ Hiến Văn, có người to gan hỏi lại: “Không phải là lúc ở địa phương đã báo cáo qua rồi à?”. Lộ Hiến Văn nói :”Có người có ý kiến với báo cáo sản lượng ở địa phương”. “Có người” ở đây chính là ám chỉ Trương Thụ Phiên. Tiếp đó, tại hội nghị mở rộng, phải làm theo ý kiến chỉ đạo của tỉnh ủy, muốn mỗi địa phương tìm cho ra điển hình của “phe hữu” vào tiếp tục tiến hành đấu tố. Sau đó triển khai đấu tố với chủ tịch huyện Bình Dư là Tào Minh vì đã nói thật, sau đó bãi miễn chức vụ của Tào Minh.
b. Căn cứ vào những lời hồ ngôn loạn ngữ để xác định chỉ tiêu trưng thu
Những con số không phải là khoe khoang mà có được, chính nông dân là những người phải gánh chịu hậu quả thảm khốc thực tế chứ không phải đám quan chức bàn giấy quan liêu. Báo cáo sản lượng nông nghiệp cao sẽ dẫn tới việc phải trưng thu lương thực cho đủ thành tích. Hà Nam là một trong những tỉnh có sản lượng nông nghiệp đi đầu Trung Quốc, nên áp lực trưng thu đủ chỉ tiêu rất lớn, đối với những địa phương có thể trưng thu được liền trưng thu. Trương Thụ Phiên trong đoạn ghi âm hồi ức này viết lại như sau:
DCVOnline: Dương Kế Thằng (Yang Jisheng), Mộ Bia (Mubei), Hà Nam (Henan), Tín Dương (Xinyang), Nam Dương (Nanyang), Hứa Xương (Xuchang), Hồ Bắc (Hubei), Hiếu Cảm (Xiao Gan), An Huy (Anhui), An Khánh (Anqing), Phụ Dương (Fuyang), Lục An (Lu’an), Hoàng San (Huangshan), Đại Biệt Sơn (Dabie Shan)
Giới hạn của quyền lực: cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968
Những tội phạm dũng cảm (phần 1, phần 2, hết): Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 và tổng quan về cuộc chiến cho tới thời điểm đó.
Sau bảy giờ chỉ còn được phép chết: Phóng sự về Sài Gòn trong Tết Mậu Thân
Chết sau những bồn hoa: Cuộc tấn công vào Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn trong Tết Mậu Thân
Cố gắng cuối cùng: Tường thuật của biên tập viên báo Spiegel từ Huế trong thời gian Tết Mậu Thân
Giết chết lòng nhân đạo: về việc bốn bác sĩ người Đức ở Đại học Huế bị giết chết trong thời gian Tết Mậu Thân
Hai chiếc xe tăng trên nóc hầm: Trận đánh chiếm căn cứ Lang Vei của Mỹ
Một Verdun ở Việt Nam: SPIEGEL phỏng vấn nhà chiến lược của Điện Biên Phủ, tướng Rene Cogny, về Khe Sanh
“Thần Chiến tranh giúp những người Cộng Sản”: Mậu Thân và những tuần sau đó
Thời điểm thử thách của Hoa Kỳ
Tìm Việt Cộng bằng que dò mạch nước: Trận đánh ở Huế, cái vào lúc ban đầu được tiến hành với một đại đội, cuối cùng kéo dài gần bốn tuần và người ta đã phải sử dụng đến tất cả các cỡ hỏa lực có được ở Việt Nam.
Chết ở Việt Nam vì độc giả: về những ký giả đã chết tại Việt Nam
Không đủ lính: “… Tướng Westmoreland, muốn tăng cường cho đội quân viễn chinh Mỹ thêm 206.000 người lên khoảng ba phần tư triệu lính. Nhưng Johnson không có 206.000 người lính…”
Con đường đi lên của Westmoreland
Còn phải đổ nhiều máu: Không chỉ những kẻ phá hoại ở cả hai bên, cả những mục đích đàm phán trái ngược nhau của các bên cũng khiến cho người ta lo ngại rằng sẽ còn đổ nhiều máu nữa ở Việt Nam.
Ở bất kỳ nơi nào và không ở đâu cả: Hà Nội liên kết Genève với những hồi tưởng đen tối như người Mỹ với Kaesong: từ lần chia cắt được quyết định ở Genève năm 1954, Hồ Chí Minh có cảm giác bị cuỗm mất lần chiến thắng người Pháp của mình.
Quyền lực và đạo đức
Cuộc chiến nhỏ của người Bắc Việt ở Paris: từ hơn hai mươi năm nay, Hồ Chí Minh của Hà Nội đã phải chịu đựng lần chấn thương vì đã thua mất trên bàn đàm phán những gì mà ông ấy đã thắng được trên chiến trường, hay là đã bị các đối thủ chơi xỏ.
Những tiếng hô Hồ Chí Minh: Trong những ngày đầu tiên đến Paris, người Việt Nam đã ngửi hơi cay trong phòng của họ mặc cho mọi sự bảo vệ, nhưng hơi cay không phải là dành cho họ.
Thuyết dẫn đường sai lầm trong chính trị của Hoa Kỳ (phần 1, hết): Phân tích Thuyết Domino
Việt Cộng dư thừa vũ khí:Tờ “Figaro” ở Paris tường thuật rằng quân đội Đồng minh đã phát hiện thấy “vũ khí dư thừa” trong tuần vừa rồi vào lúc bắt được lính Việt Cộng – nhiều đến mức ví dụ Biệt Động Quân Nam Việt Nam đã chiến đấu chống lại những người anh em đỏ với vũ khí chiến lợi phẩm đỏ.
Những dấu hiệu nhỏ bé của hòa bình: Từ khi bàn về hòa bình thì cuộc chiến lại càng ác liệt hơn nữa.
Chiến tranh ác liệt hơn trước: Những người lính thủy quân lục chiến mệt mỏi cho nổ tung các công sự mà ở trong đó họ đã sống sót qua được những loạt đạn đại bác bắn liên hồi của quân địch 77 ngày. Họ san phẳng những con hào và phá hủy đường băng, cái nhiều tuần liền là dãy kết nối duy nhất của họ ra thế giới bên ngoài.
Cuộc chiến tranh ném bom của Mỹ: Gần 120.000 lần trong vòng ba năm rưỡi, các “Giôn xơn” (Johnsons) – như nông dân Bắc Việt gọi máy bay chiến đấu Mỹ – đã bay để đánh phá nước cộng hòa của Hồ Chí Minh.
Vào Dinh Độc Lập sau nửa đêm: Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker đã đến gặp Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu trong Dinh Độc Lập ở Sài Gòn mười lần trong vòng hai tuần.
Bốn sự công bằng: Nguyễn Cao Kỳ, phó Tổng Thống cứng rắn của Nam Việt Nam, tỏ ra khiêm tốn. “Chúng tôi không yêu cầu phía bên kia đầu hàng, mà chỉ yêu cầu công bằng và lý trí phải chiến thắng”, ông ấy nói lúc đến Paris.
Chiến tranh và tham nhũng ở Việt Nam (phần 1, phần 2, phần 3, phần 4, hết): Kẻ thù nguy hiểm nhất của Mỹ ở Việt Nam là tham nhũng.
- Đại sứ Trung Quốc tại Philippines: Trung Quốc và Philippines… ‘vẫn là bạn tốt’ (PT).
- Hàn Quốc thể hiện sức mạnh trên biển (GDTĐ).
- Mục tiêu, chủ thể ban hành và sửa đổi Hiến pháp (ĐBND). - Cần có luật về Đảng (VNN). - Đảng phải có luật để công khai, minh bạch (NĐT).
- Đại biểu Quốc hội viết blog công kích ông Dương Trung Quốc (VNE). - Đại biểu Dương Trung Quốc: “Sau chút khó chịu, tôi cũng… vô cảm!” (DT). - “Vụ việc của đại biểu Phước khá nghiêm trọng về văn hóa ứng xử!” (DT). - GS Nguyễn Minh Thuyết: Chẳng ai dại mà giật dây cho… ‘tứ đại ngu’ (PT). - Những phát biểu thẳng thắn của ông Dương Trung Quốc tại Quốc hội (GDVN). - Tác giả của ‘Tứ đại ngu’ từng phát biểu những gì trước Quốc hội? (PT). - Kiểu tranh luận làm bạn đọc choáng váng! (TT). - Chủ đề “Tứ đại ngu” nhằm vào ông Dương Trung Quốc bị hacker tấn công? (LĐ).
- Những “bao công“ thời nay trải lòng (PLVN).
- Giáo hoàng Benedict XVI làm gì sau khi thoái vị? (TN). - Giáo hoàng Benedict sẽ lĩnh lương hưu trên 2.100 bảng Anh (VOV). - Cuộc sống ĐTC Bênêđíctô XVI sau khi từ nhiệm (Vietcatholic).
- New York Times: Lần ra trụ sở hacker của Bộ Quốc phòng Trung Quốc (GDVN). - Tiết lộ chuyện cựu giám đốc công an Trùng Khánh xin tị nạn tại Anh (DT).
- Đặc phái viên Nhật đến Trung Quốc thảo luận về Triều Tiên (VOV). - Mỹ “dễ tổn thương bởi tên lửa Triều Tiên” (NLĐ).
Úc chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với Việt Nam qua viện trợ phát triển (VOA0 – Australia sản xuất số lượng nông phẩm gấp ba lần nhu cầu và có thể nuôi sống trên 60 triệu người mỗi năm tại các quốc gia bên ngoài Úc Châu
‘Đánh VN, Đặng Tiểu Bình sai lầm’ (BBC) – Đặng Tiểu Bình đã sai lầm khi xua quân ‘dạy cho Việt Nam một bài học’?====>>>>
Chưa rõ ý đồ người Trung Quốc thuê đất trồng lúa lạ (ĐV)
Bộ Tài chính có 9 thứ trưởng ký giấy tờ (ĐV)- Đến 9 ngài Thứ!!! Dân không nghèo là chuyện lạ!!!!
Bắt đầu bán quặng bôxít Tân Rai sang Trung Quốc, Malaysia (ĐV)
Những câu trả lời lạc hướng. (RFA) -Câu chuyện về thay đổi Hiến pháp năm 1992 tại Việt Nam chuyển sang một bước ngoặc mới khi ông Phan Trung Lý, Trưởng ban biên tập Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp gửi thư trả lời kiến nghị của 72 nhân sĩ trí thức từ chối những góp ý của họ và cho rằng trái với pháp luật.
Bắc Kinh: Đường rút an toàn của CSVN? (Lý thái Hùng -RCTM)
Đừng lấy dối trá làm lẽ sống (Aleksandr Solzhenitsyn (Thái Phục Nhĩ dịch) -RCTM
“Bên Thắng Cuộc” đã thắng » -Đàn Chim Việt
(ĐCV) | T/G Ngô Minh: Tại sao người đọc say mê Bên Thắng Cuộc ? Vì Bên
Thắng Cuộc đã trả lời cho người đọc những câu hỏi rất bức xúc của đất
nước từ…
Những ngày căm hận của sinh viên Việt nam tại Liên xô » -Đàn Chim Việt
(ĐCV) – T/G Nguyễn Hưng Đạt: Tại sao Trung quốc lại có thể dễ dàng
triệt thoái được 300,000 lính và chừng đó dân binh mà không bị tấn công
tiêu diệt? Gần như đa…
Quang Trung và nhu cầu Tây Sơn thời đại » -Lê Minh Nguyên
(ĐCV) – Quyền lợi của các quốc gia không phải lúc nào cũng tương đồng
với nhau, nhưng có thể nói đây là thời điểm mà quyền lợi của dân tộc VN
tương đồng với…
<<<====Bia Mộ -Hu Zi – (DCVOnline) - “Bia mộ” là cuốn sách điều tra đầy đủ nhất, ghi chép toàn diện nhất về nạn đói lớn dưới thời cai trị của hoàng đế đỏ Mao Trạch Đông với hơn 36 triệu nạn nhân đã chết đói trong giai đoạn này.
Tôi đã trở thành người Mỹ như thế nào (phần 1) (Phan Ba) >>>Tôi đã trở thành người Mỹ như thế nào (hết)
Chiến tranh Việt Nam (Phan Ba) -Phan Ba blog tập hợp những bài dịch đã đăng trên báo Der Spiegel và báo Die Zeit do Phan Ba dịch về chiến tranh VN và Mậu Thân tại đây-Bà con nào cần thì tham khảo
- Phó thủ tướng bắt đầu công việc tại Bộ Tài chính (VNE).
- Thêm 2 “cây cao bóng cả“ phải thoái vốn “nghề tay trái“ (PLVN). - Petrolimex lập tổng công ty “lấn sân” Vinashin và Vinalines (VnEco). - “PVF tiếp tục làm việc với Vinashin và Vinalines để thu nợ”(VnEco). - Sacombank lỗ nặng vì chứng khoán (PT).
- Doanh nghiệp xăng dầu lại kêu lỗ (TBKTSG).
- Sửa chuẩn an toàn nhà băng: Hết thời “liệu pháp sốc”? (VnEco). - Cần lộ trình dài hơi thanh toán không bằng tiền mặt đối với giao dịch tài sản lớn (ĐBND).
- Đổ xô mua vàng lấy may ngày “vía Thần Tài” (PLXH). - Đã thực hiện tạm xuất tái nhập vàng khối (VOV).
- Mua tạm trữ 1 triệu tấn lúa, gạo: Nông dân thấp thỏm chờ giá lên (SGGP). - Nông dân sợ gì? (ĐĐK).
- Lợi nhuận ngành cá tra giảm mạnh (TBKTSG).
VĂN HÓA-THỂ THAO- Mỏ vàng di sản (ĐĐK).
- Dấu ấn của tản văn (SKĐS).
- Khủng hoảng nhân tài (TGĐA).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC- Đổi “khoa học” thành “hàn lâm”: Có tạo bước đột phá? (LĐ).
- Cô giáo có duyên với các “học trò” cứng đầu (PL&XH).
- Vì sao giáo dục Thụy Điển đứng đầu thế giới? (VietQ).
- Làm gì nếu thiên thạch nổ ở Việt Nam? (VTC). - Toàn cảnh vụ thiên thạch rơi tại Nga (VNE). - Những thiên thạch “khủng” nhất từng tấn công trái đất (DT).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG- Vật vã đi khám bệnh đầu năm (TN).
- Không nên mua và sử dụng ô mai “Tàu” (PL&XH).
- Sao bảo dân tui cướp hoa? (LĐ).
- Sừng tê giác: Lắm tiền mà tiên vẫn giả (CAND).
QUỐC TẾ- Nga điều hai máy bay chở hàng viện trợ tới Syria (TTXVN). - Hezbollah “tấn công” quân nổi dậy Syria (NLĐ).
- Nhân dân Venezuela phấn khởi chào đón Tổng thống Chavez trở về (ND). - Tổng thống Venezuela chỉ đứng thứ hai sau Tổng thống Mỹ (LĐ).
- Những thông tin từng khiến cả thế giới điêu đứng (VnMedia).
1622. QUAN HỆ TRUNG QUỐC-MIANMA ĐỐI DIỆN VỚI NHIỀU THÁCH THỨC
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Năm, ngày 14/2/2013
QUAN HỆ TRUNG QUỐC-MIANMA ĐỐI DIỆN VỚI NHIỀU THÁCH THỨC
TTXVN (Hồng Công 8/2)
Trong bài viết trên tờ “Đại Công báo” (Hồng Công),
Liễu Phàm, nhà nghiên cứu ngoại giao Trung Quốc, cho rằng sau chuyến
thăm mang tính lịch sử của Tổng thống Mỹ Obama tới Mianma, dư luận báo
chí phương Tây dồn dập đưa ra dự báo rằng quan hệ Mỹ-Mianma cải thiện sẽ
dẫn tới “quan hệ Trung Quốc – Mianma thụt lùi”, thậm chí còn lo ngại
rằng “quan hệ Trung Quốc-Mianma đang đối mặt với sự chuyển ngoặt”.
Mianma hiện nay đã trở thành một chiếc “bánh thơm” của các nước phương
Tây. Mỹ, Nhật Bản và thậm chí cả Ấn Độ đều đang ra sức lôi kéo nước này,
một số người Mianma cũng muốn dựa vào phương Tây. Trước thực tế này, có
thể nói rằng quan hệ Trung Quốc-Mianma đối diện với thách thức, song
mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước vẫn chưa có sự đảo ngược.
Thứ
nhất, quan hệ Trung Quốc-Mianma có cơ sở lâu bền. Làng bản hai nước
Trung Quốc và Mianma nhìn sang nhau, có chung cội nguồn dân tộc, cư dân
hai nước sang sinh sống ở bên kia biên giới, văn hóa tương đồng, tập tục
gần gũi, nhân dân hai nước từ lâu đã chung sống hòa thuận, Mianma là
nước đầu tiên ngoài các nước XHCN công nhận nước Trung Quốc mới. Nhiều
năm trở lại đây, Trung Quốc kiên trì phương châm ngoại giao láng giềng
“thân thiện với láng giềng, lấy láng giềng làm đối tác” và chính sách
ngoại giao láng giềng “hòa thuận láng giềng, yên ổn láng giềng, làm giàu
láng giềng”, ủng hộ Mianma thúc đẩy dân chủ pháp trị, phát triển kinh
tế quốc dân, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ thống nhất đất nước.
Lãnh đạo cấp cao hai nước luôn duy trì các chuyến viếng thăm lẫn nhau.
Trong chuyến thăm Trung Quốc hồi tháng 5/2011, Tổng thống Mianma Thein
Sein đã có cuộc hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong việc
làm sâu sắc hơn nữa tình hữu nghị giữa hai nước, hai bên đã đạt được một
loạt nhận thức chung trong các vấn đề duy trì giao lưu lãnh đạo cấp
cao, tăng cường lòng tin chiến lược, nâng cấp hợp tác kinh tế thương
mại…, lãnh đạo hai nước quyết định xây dựng mối quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện. Mới đây, trong buổi tiếp Thứ trưởng Ngoại giao
Trung Quốc Phó Oánh và Phó Tổng Tham mưu trưởng quân Giải phóng Thích
Kiến Quốc tới thăm Mianma, Tổng thống Thein Sein đã nhất trí bảo vệ hòa
bình ổn định tại khu vực biên giới giữa hai nước. Thích Kiến Quốc bày tỏ
Trung Quốc xưa nay không can thiệp vào công việc nội bộ của Mianma, hy
vọng phía Mianma chú trọng vào công tác hòa giải dân tộc trong nước, vì
hòa bình của khu vực phía Bắc và an ninh biên giới Trung Quốc-Mianma, áp
dụng các biện pháp hữu hiệu để thực hiện sự ổn địnhcủa khu vực biên
giới. Cuộc hội đàm này được tiến hành chưa đầy 24 giờ sau khi nhà chức
trách Mianma đưa ra tuyên bố ngừng bắn tại bang Kachin, điều này cho
thấy phía Trung Quốc hết sức coi trọng việc duy trì quan hệ với Mianma.
Đồng thời với đó, hợp tác kinh tế thương mại song phương cũng không
ngừng phát triển. Trong 11 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu song phương đã vượt mức 6,1 tỷ USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm
trước. Tính đến cuối năm 2011, Trung Quốc đã đầu tư hơn 20,2 tỷ tại
Mianma, đúng vị trí hàng đầu về cả thương mại đối ngoại và đầu tư nước
ngoài của Mianma. Bên cạnh đó, tuyến đường dẫn khí đốt nối Mianma với
Trung Quốc đến tháng 5 này sẽ hoàn tất và chính thức được đưa vào sử
dụng. Hiện nay, hợp tác kinh tế và đầu tư song phương Trung Quốc-Mianma
đã hình thành bố cục hợp tác đa tầng cấp, đa lĩnh vực, đa hình thức.
Thứ
hai, chính sách đối với Trung Quốc của Mianma sẽ không có thay đổi mang
tính căn bản. Mianma đã nhận thức được rằng củng cố và phát triển quan
hệ với Trung Quốc là duy trì độc lập dân tộc của Mianma, thực hiện hòa
giải dân tộc, thúc đẩy nhu cầu phát triển toàn diện, phù hợp với lợi ích
căn bản của Mianma. Gần nửa thế kỷ qua, sự viện trợ và ủng hộ của Trung
Quốc luôn có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc duy trì ổn định
chính trị, bảo vệ an ninh quốc gia và giải quyết khó khăn kinh tế của
Mianma. Từ lâu, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã dành cho Mianma sự
ủng hộ về chính trị và giúp đỡ về kinh tế, chính phủ và nhân dân Mianma
sẽ không quên điều này. Trong chuyến thăm Mianma hồi năm ngoái của ủy
viên trưởng Ngô Bang Quốc, Tổng thống Thein Sein đã bày tỏ phía Mianma
mong muốn tiếp tục cùng Trung Quốc phối hợp chặt chẽ, duy trì trao đổi
giao lưu cấp cao, tăng cường hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực cơ sở
hạ tầng, nông nghiệp và năng lượng…, thúc đẩy hợp tác đầu tư và mậu dịch
biên giới, nâng cao lòng tin hợp tác của các
doanh nghiệp. Phía Mianma hoan nghênh cấc doanh nghiệp Trung Quốc đến
Mianma đầu tư, phát triển ngành nghề tập trung nhiều lao động và ngành
gia công mật hàng nông sản và
sẽ tạo thuận lợi cho sự đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc. Tổng
thống Mianma nhắe lại rằng Mianma sẽ tiếp tục kiên định chính sách một
nước Trung Quốc kiên định ủng hộ lập trường và chủ trương của Trung Quốc
trong việc bảo vệ lợi ích cốt lỗi. Điều không thểphủ nhận là trong mấy
năm gần đây, quan hệ Trung Quốc-Mianma có một số vấn đề không có tiếng
nói chung chưa giải quyết được, đặc biệt là chính phủ mới của Mianma đột
nhiên tuyên bố ngừng xây dựng đập thủy điện Myitsone, một công trình
hợp tác giữa hai nước; mỏ khai thác đồng với tổng vốn đầu tư 1 tỷ USD
cũng bị đình chỉ do phản đối của người dân địa phương… Những sự kiện này
rõ ràng đã ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ Trung Quốc-Mianma. Tuy nhiên,
có thể khẳng định rằng cho dù Chính phủ Mianma sau này có biến động,
các thế lực trong nước Mianma đối lập như thế nào, phe phái nào lên nắm
quyền cũng khó có thể thay đổi quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Bà Aung
San Suu Kyi từng nhiều lần nhấn mạnh “một Mianma dân chủ không nhằm vào
Trung Quốc”, bà hy vọng Mianma có thể tìm kiếm sự hợp tác mật thiết hơn
với Mỹ, song vẫn duy trì được “quan hệ hữu nghị” với Trung Quốc.
Thứ
ba, sự cải thiện quan hệ Mỹ-Mianma khó có thể xóa bỏ triệt để sức ảnh
hưởng của Trung Quốc. Những năm gần đây, Mỹ tập trung điều chỉnh chính
sách đối với Mianma với ba mục tiêu: Một là Obama viết thêm một thành
tích ngoại giao trong việc mở rộng dân chủ kiểu Mỹ trên thế giới. Hai là
mượn việc cải thiện quan hệ với Mianma để phối phợp với mục tiêu chính
sách “trở lại” Đông Nam Á của Mỹ. Mianma có tài nguyên thiên nhiên phong
phú và vị trí chiến lược rất quan trọng. Lấy việc Obama tham dự Hội
nghị Cấp cao Đông Á làm tiêu chí, có thể thấy chiến lược “trở lại” Đông
Nam Á của Mỹ rõ ràng đang được thực thi. Ba là nâng cao quan hệ
Mỹ-ASEAN, tăng cường sức ảnh hưởng của Mỹ đối với ASEAN, cân bằng sức
ảnh hưởng của Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản tại khu vực này, để cho Mỹ
có được quyền chủ động nhiều hơn trong bố cục lực lượng tại Đông Á.
Trong chuyến thăm Mianma hồi cuối năm ngoái, Obama đã hứa sẽ cung cấp
viện trợ trị giá 170 triệu USD cho Mianma trong vòng 2 năm, song con số
này không thể so sánh nổi với những lợi ích kinh tế to lớn mà Trung Quốc
mang lại cho Mianma trong nhiều năm qua. Trung Quốc là nguồn vốn nước
ngoài chủ yếu của Mianma, đồng thời cũng có ưu thế địa lý khi là nước
láng giềng có đường biên giới chung dài với Mianma, quan chức Mỹ từng
thừa nhận rằng Bắc Kinh đầu tư vào Mianma hàng tỷ USD, phía Mỹ không thể
sánh được với Trung Quốc trong lĩnh vực này. Do đó, các quan chức
Mianma chỉ hy vọng duy trì được sự cân bằng giữa Mỹ vàTrung Quốc, sẽ
không mạo hiểm trở thành công cụ của phương Tây mà mất đi lợi ích kinh
tế to lớn từ Trung Quốc. Một cựu quan chức cấp cao Mỹ nói rằng “họ
(Mianma) biết rằng bản thân cần phải tốt với cả Mỹ và Trung Quốc”.
Nói tóm lại, sự
thay đổi và phát triển tình hình chính trị, kinh tế và ngoại giao của
Mianma đã và đang có ảnh hưởng sâu sắc đối với Chính phủ và nhân dân
Mianma, đối với Đông Nam Á và cả Trung Quốc. Đối với quan hệ Trung
Quốc-Mianma, mặc dù Trung Quốc là láng giềng quan trọng của Mianma, hai
bên có điểm chung về lợi ích chiến lược, song cũng cần tỉnh táo nhận
thức rằng Mianma ngày nay đã trở thành một trong những chiến trường
chính của cuộc đọ sức giữa các nước lớn. Tình hình chính trị Mianma thay
đổi, xung đột sắc tộc leo thang, các vụ tấn công vào đầu tư của Trung
Quốc xảy ra liên tục, nhất là sự điều chỉnh quan hệ với Mianma của Mỹ,
chắc chắn sẽ làm gia tăng tính phức tạp và không xác định của Mianma,
những điều này tạo ra thách thức đối với quan hệ Trung Quốc-Mianma. Cùng
với sự trở lại của Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, ưu thế truyền thống của Trung
Quốc tại Mianma đang ngày càng giảm đi, nếu không tích cực hành động,
Trung Quốc có thể bị gạt ra ngoài lề. Chỉ có làm tốt khâu chuẩn bị, có
phương án dự phòng với các tình huống phức tạp mới, có thể ngăn ngừa hữu
hiệu rủi ro và thiệt hại có thể xảy ra./.
Trần Trung Đạo: “Côn đồ” Đặng Tiểu Bình qua quan hệ Việt Trung
“Khôn ngoan” và “ngu dốt” là hai tĩnh từ để chỉ khả năng nhận xét, phán đoán một vấn đề dựa theo kiến thức sẵn có. Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, bản in 1970 “khôn ngoan là biết phân biệt lợi hại, phải quấy, khôn ngoan giữa đám ba bề, đừng cho ai lận, chớ hề lận ai” và “ngu dốt là ngu đần dốt nát, chẳng hiểu việc phải trái ở đời hay lễ nghĩa xã giao ở đời.” Vì sự kính trọng dành cho đồng loại, nhất là với những người mang bịnh chậm khôn, khi cần diễn tả cái ngu, người ta thường dùng thú vật để so sánh như “ngu như bò”, “ngu như trâu” chứ không nói là ngu như một người nào đó.Từ ngày nghe bài giảng ông Đại tá Trần Đăng Thanh, trên Internet tràn ngập bài đánh giá ông là ngu, ngu đủ kiểu, từ ngu tuyển tập đến ngu toàn tập, thậm chí “ngu như Trần Đăng Thanh”. Tuy nặng lời nhưng không oan ức. Trong cương vị một đại tá, phó giáo sư, cán bộ giảng dạy Học Viện Chính Trị nhưng những đánh giá của ông về các mối quan hệ chính trị trong vùng cũng như thế giới thấp đến mức không thể nào tin được rằng tri thức của ông đang trong trạng thái bình thường. Tuy nhiên, cũng thật bất công và xúc phạm nếu chỉ trích dẫn những điều ấu trĩ, sai lầm trong bài giảng của ông mà không phân tích.
Làm thế nào để có thể “không được mất chủ quyền và quyền chủ quyền nhưng phải ưu tiên tối thượng là giữ được môi trường hòa bình” trước một Trung Quốc đang âm mưu khống chế toàn thế giới để vừa nuôi dưỡng chế độ độc tài toàn trị vừa nuôi sống nền kinh tế khổng lồ nhưng đầy tham nhũng và thất thoát? Cách diễn dịch duy nhất theo lý luận của Trần Đăng Thanh là đầu hàng Trung Quốc. Quan điểm của ông là quan điểm “Nhập Tống” của Trần Nhật Hiệu trong cuộc Kháng Nguyên lần thứ nhất. Đất nước này không chỉ bị mất đi một lần nhưng đã giành lại được, Thăng Long không chỉ bị đốt cháy một lần nhưng đã xây lại được, bởi vì tinh thần độc lập, tự chủ đã hòa trong máu của dân tộc từ thuở tổ tiên lên đường đi khai phá phương nam nhiều ngàn năm trước.
Ngay cả trường hợp “Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ” phát xuất từ… “trái tim bồ tát” của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đi nữa, chẳng lẽ hôm nay làm ngơ để chúng chiếm đoạt toàn bộ biển Đông, đẩy Việt Nam từ một quốc gia bán đảo nhìn ra Thái Bình Dương bao la và phong phú tài nguyên thành một nước không có biển như Lào, Mông Cổ. Đôi mắt ông Trần Đăng Thanh nhìn đâu mà không thấy đường lưỡi bò do Trung Quốc công bố gần như phủ kín Biển Đông và ép Việt Nam, đất nước hình chữ S phì nhiêu thành một thân xác già nua co ro trên bờ biển dài hơn ba ngàn cây số?
Ngày xưa “Ra khơi, thấy lòng phơi phới, thấy tình thế giới, thấy mộng ngày mai, thấy niềm tin mới”, ngày nay mỗi chuyến ra khơi của ngư dân Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa là mỗi lần phó thác số phận không chỉ cho sóng to gió lớn mà còn trong những viên đạn không một chút xót thương của hải quân Trung Quốc. Ba mươi tám năm qua, lương tâm ông Trần Đăng Thanh cất giấu ở đâu mà không cảm thông cho sự chịu đựng vô cùng đau thương của hàng ngàn ngư dân Việt Nam, người bị giết, tàu bè bị đâm thủng, những em bé chiều chiều ra biển chờ cha đi đánh cá không bao giờ trở về. Ba mươi tám năm, nói như nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa Tổ quốc tôi như miếng da lừa, một lần ước mất đi một góc, ước phồn vinh: rừng mất cây, biển mất cá, ước vẹn toàn: mất hải đảo, mất Cao Nguyên. Hoàng Sa đã rơi vào tay Trung Quốc từ lâu và Trường Sa mang tiếng là của Việt Nam nhưng đến nay chỉ còn vài đảo nhỏ trong quần đảo rộng lớn này, ông biết không?
Ông Trần Đăng Thanh nhắc nhở học viên “không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên” mà không biết rằng Trung Quốc chẳng quan tâm gì đến chuyện “giải phóng miền Nam” hay “thống nhất đất nước”. Trong buổi gặp gỡ Henry Kissinger năm 1971, Chu Ân Lai tiết lộ Trung Quốc “nhường cơm xẻ áo” cho Việt Nam chẳng phải là chiến lược hay tư tưởng CS gì cả mà dựa hoàn toàn trên gánh nợ lịch sử của tổ tiên y giao phó. Họ Chu lúc đó nghĩ đến việc Mỹ không thua nên chỉ muốn kiểm soát miền Bắc Việt Nam trong gọng kèm chặt chẽ theo truyền thống cai trị chư hầu thời phong kiến. Ngay cả khi chiến tranh chưa chấm dứt, Trung Quốc đã xây dựng các trục lộ từ Trung Quốc sang Lào để kịp thời can thiệp trong trường hợp chư hầu Việt Nam đủ mạnh đứng lên khởi nghĩa và thôn tính nước Lào. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai rồi Đặng Tiểu Bình không phải là những kẻ chủ trướng chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc mà là những người khai triển chính sách Đại Hán đô hộ các nước nhỏ lân bang truyền thống của tổ tiên y trong thời đại toàn cầu. Trần Đăng Thanh cóp nhặt rất nhiều thông tin nhưng lại bỏ sót những dữ kiện rất hiển nhiên trong lịch sử này.
Trần Đăng Thanh khẳng định, Mỹ “đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha” nhưng không biết rằng chỉ có hai lãnh đạo quốc gia mà Đặng Tiểu Bình không thuyết phục được sự ủng hộ để đánh Việt Nam là Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu và Tổng thống Mỹ Jimmy Carter. Lý Quang Diệu sáng suốt chỉ ra cho họ Đặng thấy “Không có một cộng đồng Nga kiều nào tại các nước Đông Nam Á có thể dẫn đến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản do Liên Xô ủng hộ nhưng ở đâu cũng có các cộng đồng Hoa kiều được đảng và nhà nước CS Trung Quốc xúi dục và ủng hộ.” Với Mỹ, ngày 30 tháng 1 năm 1979, Tổng thống Jimmy Carter mời Đặng Tiểu Bình gặp riêng và trong buổi họp này Tổng thống Carter đọc cho họ Đặng nghe quan điểm của Mỹ từ lá thư do chính tay tổng thống soạn thảo, trong đó, Tổng thống Carter yêu cầu họ Đặng vì sự ổn định của Đông Nam Á và thế giới, cố tự chế hành động xâm lược Việt Nam. Cá nhân Jimmy Carter có thể thương hay ghét Việt Nam nhưng rõ ràng chính sách và tầm nhìn của một tổng thống Mỹ chẳng bao giờ là “chưa bao giờ tốt thật sự với Việt Nam” như Trần Đăng Thanh “suy bụng ta ra bụng người”.
Gát qua một bên chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” tào lao được mấy cái loa tuyên truyền lập đi lập lại đến nhàm chán mà cứ tạm xem đế quốc Mỹ cũng là kẻ thù của Việt Nam, thì giữa Trung Quốc và Mỹ, kẻ thù nào đe dọa trực tiếp đến an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và trong trường hợp phải chọn một để đi, người khôn ngoan nên biết chọn ai?
Một người có kiến thức chính trị bình thường cũng biết chỗ dựa phải là Mỹ. Trong quan hệ chính trị quốc tế không có chuyện “tốt với Việt Nam” hay “xấu với Việt Nam” mà chỉ có “thuận với quyền lợi Việt Nam” hay “nghịch với quyền lợi Việt Nam”.
Trần Đăng Thanh biết ăn cắp câu nói nổi tiếng của cố Thủ tướng Anh Lord Palmerston thời Nữ Hoàng Victoria “Nước Anh không có đồng minh bất diệt, kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia dân tộc là bất diệt và vĩnh viễn” nhưng không hiểu tại sao Thổ Nhĩ Kỳ biết liên minh với Anh, Mỹ, những cựu thù ở xa, để chống kẻ thù độc tài hung bạo Liên Xô ở gần. Sau thế chiến thứ hai, các quốc gia Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ ngã về phía Mỹ và sau khi khối Liên Xô sụp đổ hầu hết các nước Đông Âu Cộng Sản cũ cũng ngã về phía Mỹ. Lý do rất dễ hiểu, các quốc gia vừa bước ra khỏi chiến tranh hay độc tài lạc hậu rất cần khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục, giao thương kinh tế. Không có gì hổ thẹn phải đi học cái hay cái đẹp của người khác đem về áp dụng cho đất nước mình, chỉ có những kẻ “ngồi trong đáy giếng thấy trời bằng vung” mới nghĩ không ai khôn hơn mình.
Ông bà ta dạy “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, Trung Quốc không chỉ là mực mà là đế quốc tội ác, thâm độc, bất nhân. Lãnh đạo CS Trung Quốc không thương xót ba chục triệu dân họ chết dưới bàn tay của Mao Trạch Đông thì thương xót gì một dân tộc nhỏ nhoi mà tổ tiên nhà Hán của chúng đã nhiều lần cố đồng hóa mà không được.
Ông Trần Đăng Thanh có biết “côn đồ” Đặng Tiểu Bình đã từng muốn xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy) khi nói với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi” không?
Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.
Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ nhưng ít ra không phải về tay trắng. Mỹ đồng ý giúp Đặng theo dõi sự động binh của 55 sư đoàn Liên Xô phía Bắc. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”.
“Côn đồ” Đặng Tiểu Bình với chính sách cây gậy
Lý do Trung Quốc đánh Việt Nam năm 1979 ngày nay đã quá tỏ tường. Trung Quốc đánh Việt Nam trước hết phát xuất từ nỗi lo sợ bị bao vây. Tháng 4 năm 1968, Chu Ân Lai tiết lộ với Phạm Văn Đồng: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng đáp: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Việc Việt Nam ngã theo Liên Xô đã xác định vòng vây hoàn toàn khép chặt chung quanh Trung Quốc. Riêng một Việt Nam đã quá lo, nếu cộng thêm Miên và Lào với tổng số gần 100 triệu dân thù địch nằm ngay phía nam là một đe dọa lớn.
Để ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y vào tháng Ba năm 1976. Tháng Sáu năm 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.
Một lý do khác, Đặng Tiểu Bình khinh rẻ lãnh đạo CSVN là phường “ăn cháo đá bát”. Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Lý do thứ ba là sự khinh bỉ, căm ghét Việt Nam của cá nhân họ Đặng. Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Như tôi đã viết trong bài Chu kỳ thù hận Việt Trung Miên, đảng CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng Tư năm 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến. Với những đóng góp xương máu đó, việc họ Đặng tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học” không phải là chuyện tự nhiên. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền hình Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó.
Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ chính trị đảng CS Trung Quốc nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và Mỹ. Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức, lịch sử và duy nhất với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Từ cuối năm 1978 đến đầu 1979, Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á.
Trong số các quốc gia họ Đặng viếng thăm, chuyến viếng thăm Mỹ là quan trọng nhất. Sự đe dọa của Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong nghị trình giữa Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo Mỹ. Nói chung, Mỹ từ chối việc ủng hộ phương án quân sự nhưng để giữ mối quan hệ đang tiến triển tốt, Mỹ đồng ý cung cấp tin tức tình báo về các hoạt động quân sự của Liên Xô vùng biên giới phía bắc Trung Quốc. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 400 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.
Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN vẫn tin người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ lòng đem quân đánh đàn em CS Việt Nam, những người từ trong tay áo Trung Quốc chui ra. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.” Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia. Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Quốc. Nếu ngày đó giới lãnh đạo Đảng không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Lần nữa, như lịch sử đã nhiều lần minh chứng, không có khẩu súng nào bắn chính xác hơn khẩu súng của lòng yêu nước.
“Côn đồ” Đặng Tiểu Bình chuyển sang chính sách củ cà rốt
Đối với Đặng Tiểu Bình, tổn thất vài chục ngàn quân không quan trọng, điều quan trọng là y đã bao vây được Việt Nam và đẩy CSVN vào chỗ nghèo nàn, lạc hậu và cô lập. Sau mười năm thù địch, Đặng Tiểu Bình, để thích nghi với điều kiện kinh tế toàn cầu, đã thay đổi chính sách từ cây gậy sang củ cà rốt.
Trung Quốc vào thời điểm 1990 đang phát triển mạnh nên cần chiếm biển Đông chiến lược đầy tài nguyên, và họ Đặng cũng biết, sau khi Liên Xô sụp đổ, CSVN như những kẻ đang chới với trong đại dương đang tuyệt vọng cần một cái phao. Nghe triệu tập giống như nghe lịnh đại xá, Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười và Phạm Văn Đồng đã vội vàng đưa nhau sang Thành Đô triều kiến. Tại khách sạn Kim Ngưu, thủ phủ Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, lúc 2 giờ chiều ngày 4 tháng 9 năm 1990, các lãnh đạo CSVN và Trung Quốc đã ký kết thỏa hiệp tái lập quan hệ giữa hai đảng CS.
Hơn hai mươi năm qua, nội dung của thỏa hiệp Thành Đô được hai bên giữ bí mật. Phía Trung Quốc dĩ nhiên không dại gì công bố và phía lãnh đạo CSVN không thể công bố, đơn giản bởi vì đó là thỏa hiệp mang nội dung bán nước. Nếu các điều khoản trong thỏa hiệp nhấn mạnh đến việc tái lập bang giao trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác cùng có lợi giống như phần lớn các thỏa hiệp quốc tế giữa các nước có chủ quyền, lãnh đạo CSVN đã tổ chức đại lễ công khai hóa lâu rồi. Tuy nhiên, dù giữ kín tới đâu, nội dung chính không phải là khó đoán: CSVN nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông để đổi lấy sự tồn tại của đảng CSVN trong vòng ảnh hưởng kinh tế, chính trị và tư tưởng của CS Trung Quốc.
Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Quốc ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài các Trung Quốc còn ngang ngược ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất cả diễn biến trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1990 đến nay cho thấy thỏa hiệp Thành Đô, về ý nghĩa, cũng tương tự như hòa ước Giáp Thân hay còn gọi hòa ước Patenôtre được ký giữa đại thần nhà Nguyễn Phạm Thận Duật và đại diện Pháp Jules Patenôtre chia đất nước Việt Nam thành ba mảnh và đặt quyền bảo hộ Việt Nam vào ngày 6 tháng 6 năm 1884 tại Huế. Việt Nam thực chất là một chư hầu của Trung Quốc và vị trí của nhà nước CSVN cũng không hơn gì vị trí của triều đình nhà Nguyễn sau hòa ước Patenôtre.
Thỏa hiệp Thành Đô là một chiến thắng lớn của Trung Quốc. Giang Trạch Dân vui vẻ tặng phái đoàn CSVN hai câu thơ của Lỗ Tấn “Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông nhau cười, thù oán sạch không”. “Anh em còn đó” tức chú em vong ơn, phản trắc CSVN đã biết phục thiện trở về trong vòng kim cô Trung Quốc.
Sỡ dĩ Trung Quốc chưa chiếm trọn quần đảo Trường Sa vì tranh chấp chủ quyền Trường Sa liên quan đến nhiều quốc gia không phải chỉ riêng với Việt Nam và ngoài ra, các môi quan hệ kinh tế chính trị vô cùng phức tạp trong thời đại toàn cầu hóa, việc sử dụng các biện pháp quân sự mạnh không phải là quyết định dễ dàng. Trung Quốc sau ba mươi năm phát triển nhưng vẫn chưa đủ mạnh bên ngoài và rất yếu bên trong. Mặc dù tuyên bố hung hăng, quá khích, phô trương tàu chiến, gây hấn qua vài hành động quân sự nhỏ có tính cục bộ để giữ gìn sự đoàn kết nội bộ, Trung Quốc cần ổn định hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng và luôn tránh né việc quốc tế hóa các tranh chấp quốc tế.
Nhiều người có thể phản biện lý luận này khi cho rằng Việt Nam vẫn phản đối Trung Quốc và tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vâng, nhưng xin đừng quên quyền được phản đối giới hạn cũng có thể là một điều khoản của thỏa ước Thành Đô. Nếu ai thắc mắc hãy so sánh lời tuyên bố của các phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao CSVN từ Lê Dũng trước đây đến Lương Thanh Nghị hôm nay sẽ thấy những lời phản đối chỉ khác về ngày tháng, còn nội dung đều tương tự như nhau, toàn là những câu phản đối ngoại giao sáo rỗng, lấy lệ, chẳng ai quan tâm và không gây một tác dụng gì. Dưới chế độ CS, việc phản đối, ủng hộ, hoan hô, đả đảo chỉ là một hình thức tuyên truyền và không phản ảnh chính sách bên trong của đảng. Trong buổi hội kiến giữa Mao Trạch Đông và Tổng thống Mỹ Richard Nixon ngày 21 tháng 2 năm 1972, họ Mao nhắc chừng cho tổng thống Mỹ biết quan hệ hai quốc gia đã cải thiện tốt đẹp và đang tiến đến việc bình thường hóa nhưng đừng lấy làm lạ khi Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục công kích Mỹ.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với chính sách bao vây Trung Quốc của Mỹ hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không. Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, đặt quyền lợi dân tộc lên trên, chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng. Lịch sử không thể viết lại nhưng cơ hội luôn còn đó cho những ai thành tâm quay đầu về với tổ tiên.
Trần Trung Đạo
Tham khảo:
Đại tá Trần Đăng Thanh giảng về Biển Đông cho lãnh đạo các trường Đại học, Blog BS
Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Blog Ngô Đức Thọ
Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
Time, China-Vietnam Border War, 30 Years Later, a photo essay.
Wikipedia Đặng Tiểu Bình
Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
Đà Nẵng thời kỳ "hậu Nguyễn Bá Thanh" sẽ ra sao?
Cái cách Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ Đà Nẵng Trần Thọ (tạm thời phụ
trách Thành uỷ Đà Nẵng trong khi chờ đợi có Bí thư Thành uỷ mới) lì xì
đầu năm mới cho thủ trưởng các sở, ban, ngành, địa phương khiến nhiều
người hy vọng Đà Nẵng thời kỳ "hậu Nguyễn Bá Thanh" sẽ càng mới, lạ và
hay!
Sau rất nhiều năm dưới sự lãnh đạo của Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch HĐND TP
Nguyễn Bá Thanh, tại cuộc gặp mặt đầu xuân Quý Tỵ 2013 tổ chức sáng
18/2, nhiều cán bộ chủ chốt của Đà Nẵng không khỏi cảm thấy hụt hẫng khi
lần đầu tiên thiếu vắng những lời phát biểu truyền đi xung lực mạnh mẽ
đầu xuân mới của ông.
Ông Trần Thọ, Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ Đà Nẵng lì xì đầu năm mới cho thủ trưởng các sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn TP - Ảnh: HC |
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ Đà Nẵng hiểu rằng, dù di sản mà ông Nguyễn Bá
Thanh để lại cho TP này quá lớn lao thì cũng đã đến lúc họ phải làm quen
với việc phải tự mình tiến lên mà không còn có sự thúc giục trực tiếp
của ông nữa. Và một tín hiệu như vậy có lẽ đã được truyền đi qua cách
Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ Đà Nẵng Trần Thọ lì xì đầu năm cho thủ
trưởng các sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn.
Sau khi lì xì, ông Trần Thọ nói: "Mọi năm anh Thanh lì xì, ai có tờ tiền
9 điểm thì được đổi thành 2 tờ. Bây giờ tôi phụ trách Thành uỷ thì ai
có tờ tiền 10 điểm đem lên đây. Và chỉ được 3 người thôi đấy". Nghe vậy,
liền có 3 người đem tờ tiền vừa được lì xì lên "nộp", những mong sẽ
được đổi thành 2 tờ như trước đây!
Đến lúc này ông Trần Thọ mới tuyên bố: "Trước đây 9 điểm thì được đổi
thành 2 tờ, còn bây giờ 10 điểm tức là bù. Mà bù thì bị rút lại một
nửa!". Và thế là 3 người lên "nộp" tờ 100.000 đồng chỉ còn nhận lại được
mỗi người 50.000 đồng. Cả ba "chưng hửng" nhưng cả hội trường thì được
một phen cười thoải mái. Nhiều người nói cách xử lý của ông Trần Thọ
tưởng là vẫn theo kiểu cũ, hoá ra lại có những điểm mới, lạ và hay.
Mong rằng sự mới, lạ và hay đó không chỉ dừng ở một chuyện nhỏ là lì xì
đầu năm mà sẽ còn xuyên suốt trong cả quá trình sau này, để Đà Nẵng thời
kỳ "hậu Nguyễn Bá Thanh" tiếp tục có sự bứt phá đi lên mạnh mẽ hơn nữa,
sáng tạo hơn nữa như mong muốn mà ông Nguyễn Bá Thanh từng nhiều lần
bày tỏ trước khi rời TP quê hương ra TƯ nhận trọng trách mới!
(Infonet) Kiểm tra vụ “người Trung Quốc thuê đất trồng lúa”
Sáng 18.2, đại diện ngành nông nghiệp H.Châu Thành và tỉnh Long An tiến
hành kiểm tra đối với 1,4 ha đất tọa lạc tại ấp 1, xã Hòa Phú (H.Châu
Thành), được cho là do người Trung Quốc thuê trồng lúa giống từ tháng
1.2013.
Diện tích đất này của ông Nguyễn Văn Bền và bà Trần Thị Thật (cùng ngụ
ấp 1) cho thuê với giá 30 triệu đồng/ha/mùa, cao hơn khoảng 2 lần giá
thuê đất tại địa phương. Hiện nay, cánh đồng lúa giống này đã trổ đều,
cao dàn hơn so với lúa địa phương.
“Thời điểm đoàn kiểm tra đến, chuyên gia người Trung Quốc (hiện vẫn chưa
xác định chính xác tên họ, địa chỉ) vẫn có mặt tại cánh đồng để hướng
dẫn nhân công chăm sóc lúa. Qua thông tin từ người dân, người Trung Quốc
này nhờ một số cán bộ ngành nông nghiệp của huyện trước đây môi giới và
đứng tên trên hợp đồng thuê đất. Nhóm người thuê đất này không đăng ký
với chính quyền địa phương và ngành nông nghiệp huyện nên chúng tôi hoàn
toàn không hay biết”, Trưởng phòng NN-PTNT H.Châu Thành Nguyễn Thị Đậm
nói.
Nhân công địa phương được thuê chăm sóc diện tích lúa lai của người Trung Quốc |
Cũng theo bà Đậm, giống lúa lai nói trên có thể có nguồn gốc từ Trung
Quốc, hiện đang phổ biến ở các tỉnh phía bắc do khí hậu phù hợp. Đặc
điểm của giống lúa này là không thể tự thụ phấn mà phải dùng dây kéo để
thụ phấn. "Việc đơn vị thuê đất khảo nghiệm giống mới mà không đăng ký
đúng theo quy định của nhà nước, có thể gây tác động xấu đến sản xuất
tại địa phương. Phấn hoa từ giống lúa lai này có thể bay sang lúa địa
phương hiện cũng đang sắp trổ, từ đó có thể gây lai tạp giống”, bà Đậm
nhận định.
Theo Trưởng phòng Trồng trọt, Sở NN-PTNT Trần Thị Lệ Thu, do vụ việc có
liên quan đến người nước ngoài nên Sở đang phối hợp với các cơ quan liên
quan, liên lạc với phía đơn vị thuê đất để sớm có hướng xử lý.
Trong khi đó, TTXVN dẫn lời ông Lê Minh Đức, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh
Long An, nói vào chiều 18.2 rằng thông tin việc người Trung Quốc thuê
đất ruộng của nông dân ở xã Hòa Phú (Châu Thành, Long An) là chưa chính
xác. Theo ông Đức, kết quả điều tra xác minh ban đầu của các ngành chức
năng cho thấy ông Trần Minh Nhu, thường trú tại tỉnh Long An - cán bộ kỹ
thuật thuộc Viện Khoa học nông nghiệp miền Nam - đã đứng ra thuê đất
trồng lúa tại xã Hòa Phú, đồng thời thuê một nhân viên người Trung Quốc
làm chuyên gia kỹ thuật trong quá trình canh tác. Mặt khác, ông Đức cho
biết Sở đang “khẩn trương thanh tra để trả lời dư luận”.
(Thanh niên)
GS Nguyễn Minh Thuyết: ĐB Hoàng Hữu Phước lỗ mãng, thiếu văn hóa
Trao đổi với Infonet, GS Nguyễn Minh Thuyết, ĐB Quốc hội (ĐBQH)
khoá XI, XII khẳng định việc ĐBQH Hoàng Hữu Phước viết bài công kích
ĐBQH Dương Trung Quốc với những lời lẽ phỉ báng, kém văn hóa như vậy
lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Quốc hội. GS Thuyết cho rằng Ủy
ban MTTQ TP.HCM, Ban công tác ĐB của UB Thường vụ QH, đặc biệt là cử
tri TPHCM cần lên tiếng về vấn đề này.
Dư luận đang tỏ ra bất bình khi ĐB Hoàng Hữu Phước (Đoàn ĐBQH
TP.HCM) có bài viết công kích đại biểu Dương Trung Quốc với những lời lẽ
hết sức nặng nề, gay gắt trên blog cá nhân của mình. Quan điểm của GS
thế nào về vấn đề này?
Tôi không ngạc nhiên, nhưng qua sự việc này tôi thấy có bốn điều thật đáng buồn.
Thứ nhất, nếu bài viết đó là của ĐB Phước thì có thể nói ông ấy đã hành
xử một cách lỗ mãng, không phù hợp với tiêu chuẩn văn hóa thông thường
chứ chưa nói đến văn hóa nghị trường. Trong cuộc sống, mọi người đều
có thể có những ý kiến khác nhau, thậm chí nảy sinh mâu thuẫn. Nhưng
chỉ những người kém văn hóa mới dùng những lời lẽ nặng nề phỉ báng
nhau. Đặc biệt khi ĐB này nói đến chuyện mại dâm đã dùng quá nhiều câu
chữ rất phản cảm, chợ búa. Những điều này nói từ miệng một người bình
thường có học đã tỏ ra không ổn. Còn trên cương vị một ĐB mà viết như
thế thì từ ngày tôi biết về QH đến nay chưa bao giờ thấy.
GS Nguyễn Minh Thuyết trao đổi với báo điện tử Infonet chiều 18/2 về những phát ngôn trên blog của ĐB Hoàng Hữu Phước |
Cái đáng buồn thứ hai là hiểu biết của ĐB Hoàng Hữu Phước về pháp luật
rất hạn chế. Khi công kích ĐB Dương Trung Quốc về chuyện chất vấn Thủ
tướng tại kỳ họp vừa qua, ông Phước đã làm trái quy định tại điều 49
Luật Tổ chức Quốc hội. Bên cạnh đó, ông Phước còn quên rằng, điều 46
Luật Tổ chức QH đã quy định ĐB phải gương mẫu trong việc chấp hành hiến pháp và pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng.
Ngoài ra, khi miệt thị, xúc phạm nhân phẩm người khác, nhất là phỉ
báng một ĐBQH vì những ý kiến của ĐB đó trong lúc thi hành công vụ, ĐB
Phước còn có thể vi phạm quy định của Bộ luật Hình sự.
Điều đáng buồn thứ ba là hình như ông Phước không có tiến bộ nào trong
nhận thức và hành động kể từ khi làm ĐBQH. Tại kỳ họp thứ 2 của QH khóa
XIII, khi phát biểu về xây dựng Luật Biểu tình, ĐB Phước có những nhận
thức lệch lạc và lời lẽ xúc phạm cử tri. Bởi vậy, khi tiếp xúc cử tri
sau kỳ họp, ông Phước đã bị cử tri chất vấn. Lúc đó ông Phước đã phải
nói với cử tri hãy coi mình là con cháu và bỏ qua cho những sai sót đó.
Đáng lẽ biết sai phải sửa, nhưng đến giờ ông Phước vẫn nói lại những
chuyện đó như thể mình đúng.
Thứ tư, tôi thực sự lấy làm buồn cho cử tri TP HCM. Một thành phố phát
triển hàng đầu, nơi tập trung rất nhiều nhân tài, đòi hỏi ĐB của mình
phải như thế nào? Điều này đối với cử tri cả nước cũng là một sự kiện
đáng buồn.
Cách công kích phỉ báng như vậy là chuyện riêng của các ĐBQH, hay
các đơn vị liên quan sẽ phải vào cuộc? Theo GS, đơn vị nào cần phải lên
tiếng sau sự việc này?
ĐBQH là một nhà hoạt động chính trị thì từ lời ăn tiếng nói đến cuộc
sống riêng phải hết sức giữ gìn. Những phát ngôn của ĐB về ĐB khác, về
tổ chức trong nước và nước ngoài càng không thể tùy tiện được. Việc ông
Phước viết bài trên blog của mình phỉ báng một cơ quan ngôn luận nước
ngoài sau khi họ đăng bài phỏng vấn ĐB Dương Trung Quốc cũng tỏ ra thiếu
kiềm chế. Phát ngôn của một ĐBQH có thể làm người ta hiểu sai về đường
lối đối ngoại của nước ta. Nếu bài đó đăng báo, ông Phước có thể bị
lôi vào một vụ kiện rắc rối.
“Trong cuộc sống, mọi người đều có thể có những ý kiến khác nhau, thậm
chí nảy sinh mâu thuẫn. Nhưng chỉ những người kém văn hóa mới dùng
những lời lẽ nặng nề phỉ báng nhau. Đặc biệt khi ĐB này nói đến chuyện
mại dâm đã dùng quá nhiều câu chữ rất phản cảm, chợ búa. Những điều này
nói từ miệng một người bình thường có học đã tỏ ra không ổn. Còn trên
cương vị một ĐB mà viết như thế thì từ ngày tôi biết về QH đến nay chưa
bao giờ thấy.” – GS Nguyễn Minh Thuyết.
Tôi cho rằng Ủy ban MTTQ TPHCM, nơi hiệp thương thống nhất giới thiệu ông Phước (người tự ứng cử) cần bày tỏ thái độ về vấn đề này. Bên cạnh đó, Ban công tác ĐB của UB Thường vụ QH cũng cần có ý kiến để sau này không lặp lại những trường hợp tương tự.
Đặc biệt, người có vai trò quan trọng nhất với ĐB chính là cử tri. Cử
tri là “ông sếp” của ĐB, có quyền giám sát ĐB, thậm chí kiến nghị và bỏ
phiếu miễn nhiệm đối với ĐB do mình bầu ra.
Là ĐBQH nhiều năm, lại cùng hoạt động với ĐB Dương Trung Quốc ở cùng
một Ủy ban của Quốc hội, GS có ấn tượng gì với hoạt động của ĐB Dương
Trung Quốc?
Trước tiên tôi phải khẳng định bất kể chúng ta có đánh giá thế nào về
chất lượng hoạt động của ĐB Dương Trung Quốc thì một sự công kích đối
với ĐB như trường hợp đã nêu là hoàn toàn sai trái.
Tôi đã hoạt động cùng ĐB Dương Trung Quốc hai khóa QH liền, và bây giờ
là cử tri thường xuyên theo dõi, tôi thấy ông Quốc là một người sắc sảo
và lịch duyệt. Không phải mọi ý kiến của ĐB Dương Trung Quốc tôi đều
đồng tình nhưng những vấn đề ông Quốc nêu lên đều là những vấn đề cử
tri rất quan tâm, và về phương pháp tư duy, ông Quốc thường có cách nhìn
độc đáo, mới mẻ, đặt ra nhiều vấn đề đáng suy nghĩ. Không chỉ tôi mà
công chúng nói chung đều đánh giá cao ĐB Dương Trung Quốc.
Ngoài ra tôi còn biết đến ĐB Quốc với các hoạt động xã hội rất tâm
huyết. Có những đóng góp lặng lẽ của ông Quốc mà ít ai biết đến, như
việc vận động xây dựng tủ sách cho tù nhân ở các trại giam.
Dư luận tỏ ra nghi ngờ về sự bất thường trong vụ việc này. Theo GS,
điều này là bất thường hay đơn giản chỉ là một sự hồ đồ nhất thời của
ĐB Phước?
Tôi cho rằng vụ việc này chỉ phản ánh sự thiếu lịch duyệt của người
viết chứ không có chuyện ai đó đứng đằng sau như một số người suy diễn.
Nếu ai đó đứng đằng sau một người như thế thì đúng là quá dại.
Trong một số phiên họp QH, đã từng xảy ra trường hợp ĐB phê phán
nhau hay ĐB phê phán những người được chất vấn với lời lẽ gay gắt. GS
bình luận gì về vấn đề này?
Tôi tham gia QH và đã học được nhiều lắm. ĐB phần lớn là người từng
trải, có trình độ lý luận và thực tiễn. Tôi học được nhiều điều qua cách
tư duy và phát biểu của những người đồng nhiệm. Từng trải qua nhiều cơ
quan, tôi thấy QH là môi trường sinh hoạt rất dân chủ. Tôi cũng từng
là một ĐB mạnh miệng, nhưng chưa bao giờ có ai vỗ vai bảo mình nên thế
này, không nên thế kia.
Nhưng tôi cho rằng một ĐB khi phát biểu về bất cứ vấn đề gì cũng phải
đúng pháp luật và đáp ứng các yêu cầu của chuẩn mực giao tiếp. Những
lời lẽ quá gay gắt, chủ quan thường không được đồng nhiệm và cử tri tán
thành.
Trong thực tế, có những ĐB nói quá lời, nhưng tôi tin chỉ là lỡ lời
thôi. Ngược lại, cũng có một số đại biểu hăng hái một cách thái quá khi
“chụp mũ” những ĐB phê bình cái sai của chính quyền. Dư luận cho rằng
đó là cách “ghi điểm” với lãnh đạo, với chính quyền.
Tuy nhiên, suốt từ khi có đủ nhận thức để theo dõi hoạt động của QH đến
nay và trải qua 2 nhiệm kỳ làm ĐBQH, tôi chưa bao giờ thấy ĐB nào sử
dụng những lời lỗ mãng, thiếu văn hóa để phê bình hay tranh luận.
Quốc hội nhiều nước đã từng xảy ra tình trạng các ĐB đôi co gay gắt,
thậm chí đánh nhau tại hội trường. Còn ở ta chuyện ĐB viết bài phỉ
báng ĐB lần đầu tiên xảy ra. Theo GS, ĐB Hoàng Hữu Phước phải có hành
động gì cho đúng mực trong trường hợp này?
Từng dự khán các phiên họp QH ở một số nước, tôi thấy mỗi nước một
khác. Chẳng hạn ở QH một nước châu Âu, tôi có quan sát một cuộc họp Hạ
viện. Mặc dù Hạ viện có tới 250 người, tôi chỉ thấy có vài chục người
trong hội trường. Một nữ nghị sĩ đang đứng phát biểu, ĐB khác chẳng để
tâm, người đọc báo, người nói chuyện riêng, người lên bàn thư ký, quay
lưng lại QH, giơ cả hai tay trao đổi ý kiến rất sôi nổi...
Lần khác tôi đến QH một nước châu Á. Khi một nghị sĩ đứng lên phát
biểu, khá nhiều người ở phía đối lập đập bàn đập ghế không cho nói. Rồi
hai phe đứng lên chỉ vào mặt nhau tranh cãi ồn ào. Cảnh nghị sĩ nước
này, nước kia đánh nhau thì ta đều thấy qua ti vi rồi. Có thể ở những
nước đó cử tri chấp nhận những chuyện như vậy và chuyện đó không phạm
luật. Còn ở nước ta thì cả văn hóa truyền thống lẫn luật đều không cho
phép làm chuyện đó. Cử tri cũng không chấp nhận ĐB nói năng lỗ mãng,
càng không chấp nhận ĐB lăng mạ nhau.
Trong trường hợp này, ĐB Hoàng Hữu Phước cần lên tiếng (và đã lên
tiếng) trước công luận, nhận lỗi không chỉ với cá nhân ĐB Dương Trung
Quốc mà với cả cử tri là điều nên làm. Vì trường hợp như thế này chưa
từng xảy ra và không thể chấp nhận đối với một ĐBQH nước ta. Qua báo
chí, ông Phước đã công khai nói lời xin lỗi như vậy, đó là một điều đáng
mừng.
Xin cảm ơn GS!
ĐB Dương Trung Quốc lên tiếng sau khi Nghị Phước xin lỗi
"Anh Phước đã có lời xin lỗi thì mình vui vẻ nhận lời thôi"- ông Dương
Trung Quốc phản hồi sau khi đọc bài trả lời phỏng vấn của ĐB Hoàng Hữu
Phước đăng trên VietNamNet sáng nay.
Liên hệ với ĐHQH Dương Trung Quốc, ông cho hay từ sáng sớm đã đọc bài
phỏng vấn "ĐB Hoàng Hữu Phước xin lỗi ĐB Dương Trung Quốc". Trong đó,
ông Phước thông qua VietNamNet gửi lời xin lỗi vì đã "sai khi sử dụng
phương pháp trình bày các ý kiến qua blog" khi nhằm vào cá nhân ĐB Dương
Trung Quốc.
"Anh Phước đã có lời xin lỗi thì mình vui vẻ nhận lời thôi. Đấy là ứng
xử tối thiểu" - ĐB Dương Trung Quốc bày tỏ và cho rằng, sạu những ồn ào,
với tư cách là tác giả bài viết, ông Phước là người có những xem xét,
điều chỉnh lại.
Ông Quốc trao đổi thêm: "Cá nhân tôi vẫn tôn trọng anh Phước vì anh
Phước đang là ĐBQH TP.HCM. Sau những sự việc như vậy thì mỗi người đều
có bài học cho riêng mình. Quan trọng nhất vẫn là ý kiến của cử tri bầu
ra mình".
Ông Quốc cũng nói "không có ý kiến" trước một số ý kiến cho rằng những
ngôn từ có tính công kích, thậm chí thóa mạ nặng nề ông trong bài viết
của ĐB Phước xứng đáng bị đem ra bãi miễn tư cách ĐBQH.
Không nhiều người đồng tình
Trước đó, hôm 17/2, trước những phản ứng dữ dội từ dư luận, ĐB Phước đã
gỡ bỏ bài viết “Dương Trung Quốc và bốn điều sai năm cũ (tứ đại ngu)”
trên trang Emotino.
Sáng 18/2, thường trực đoàn ĐBQH TP.HCM đã có cuộc làm việc với ĐB Hoàng
Hữu Phước xung quanh bài viết trên. Các ý kiến nêu tại cuộc họp bày tỏ
không đồng tình với bài viết. đồng thời yêu cầu ông Phước phải có cách
khắc phục những hậu quả.
Báo Tuổi trẻ dẫn lời ông Lê Như Tiến, phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo
dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng QH cho rằng vụ việc của ông
Phước "chưa có tiền lệ trong sinh hoạt nghị trường ở Việt Nam" và việc
làm này "sẽ có nhiều người không đồng tình".
Bài viết "Dương Trung Quốc - Bốn điều sai năm cũ" của ĐBQH Hoàng Hữu Phước |
"Tôi cho rằng việc các ĐBQH tranh luận, trao đổi với nhau là chuyện bình
thường, sẽ làm tăng sức hấp dẫn và tính dân chủ trong sinh hoạt nghị
trường. Tuy nhiên, việc dùng blog cá nhân để đánh giá, nhận xét đại biểu
khác bằng những lời lẽ thóa mạ, thiếu tôn trọng như dùng từ “ngu”,
“ngậm miệng lại”... thì không thể chấp nhận được... Cách làm này không
thể chấp nhận đối với một người bình thường chứ chưa nói anh Phước là
một ĐBQH." - ông Tiến phát biểu.
Trong khi đó, luật sư Nhuyễn Văn Hậu, phó chủ tịch Hội Luật gia TP.HCM
dẫn quy định tại điều 1 của quy chế hoạt động của đại biểu QH và đoàn
đại biểu QH ban hành kèm theo nghị quyết số 08/2002/QH11 của QH khóa XI
kỳ họp thứ hai.
ĐB Dương Trung Quốc
Điều 3 của quy chế là ĐBQH phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến
pháp, pháp luật, sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công
cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, có nhiệm vụ tham gia tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, động viên nhân dân và người thân trong gia đình chấp hành
pháp luật, tham gia quản lý nhà nước. Nếu ĐBQH vi phạm pháp luật, không
tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng cũng tức là xúc phạm danh dự,
uy tín của nhân dân, của Nhà nước.
"Việc ĐBQH xúc phạm một ĐBQH khác trên một trang cá nhân và để chế độ
công cộng cho mọi người cùng xem, theo tôi, là hành vi vi phạm pháp luật
dân sự mà cụ thể là vi phạm vào điều 37 của Bộ luật dân sự 2005 về
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân... Một công
dân nói xấu một công dân khác tại nơi công cộng thì đó chỉ là sự vi phạm
pháp luật dân sự, nhưng nếu là một ĐBQH nói xấu một ĐBQH khác thì rõ
ràng bên cạnh việc vi phạm pháp luật, quy chế hoạt động của ĐBQH, vị đại
biểu đó còn xúc phạm đến một hình tượng đại diện cho nhân dân khác,
cũng như làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Quốc hội" - luật sư Hậu nói trên
tờ Tuổi trẻ.
Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu trao đổi với tờ Thanh Niên cũng cho rằng,
việc ĐBQH trao đổi mà lại có tính chất mạt sát nhau, xúc phạm nhau là
hoàn toàn không nên. “Anh có thể phát biểu chính kiến quan điểm của anh
với những lập luận, lý lẽ thuyết phục, có văn hóa, xây dựng nhưng không
thể thóa mạ, xúc phạm nhau”, Phó Chủ tịch QH nói.
Ông đồng thời cho biết, trong các nội quy của kỳ họp của QH, quy chế về
hoạt động của ĐBQH cũng đều cấm các ĐBQH xúc phạm, thóa mạ lẫn nhau,
không chỉ trong kỳ họp mà cả hoạt động của ĐB giữa hai kỳ họp.
Ông Hoàng Hữu Phước sinh năm 1957, được Ủy ban MTTQ TP.HCM giới thiệu ra
ứng cử ĐHQB khóa XIII, đơn vị bầu cử số 1. Trúng cử, ông Phước cam kết
“luôn giữ gìn danh dự quốc gia, danh dự Quốc hội và tư cách người ĐBQH;
trau dồi tu dưỡng để đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn nêu tại điều 3,
chương I, Luật bầu cử Quốc hội; tận tụy phục vụ cử tri và nhân dân”.
Linh Thư (VNN)
Các phát biểu ngu của ông Nghị tác giả "Tứ Đại Ngu"
Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước đã từng có những phát ngôn làm nóng các kì họp của Quốc hội khóa XIII. Và mới đây, bài viết “Dương Trung Quốc và bốn điều sai năm cũ (Tứ đại ngu)” trên trang blog cá nhân của ông nhằm vào đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, không chỉ tạo nên làn sóng trong giới chính trị gia mà còn trong cả cộng đồng người Việt.
Tờ báo Thanh Niên dẫn nguồn: sáng 18.2,
Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM đã có cuộc họp với đại biểu Hoàng Hữu
Phước về bài viết Dương Trung Quốc - Bốn điều sai năm cũ.
Tại cuộc họp, ông Phước thừa nhận bài viết trên là của mình và cách thức tranh luận trong bài viết là không phù hợp. Trước mắt, ông đã gỡ bỏ bài viết khỏi trang web của ông và sẽ phản hồi về vấn đề này, công khai trên báo chí cùng việc gửi lời xin lỗi ông Dương Trung Quốc.
Liên quan đến tranh luận này, lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc hội cũng cho rằng bài viết nói trên không phù hợp với văn hóa nghị trường Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, việc dùng blog để công kích (mang tính cá nhân) các đại biểu khác là không nên. Nếu không cùng quan điểm, các đại biểu có thể gửi thư về đoàn đại biểu địa phương, Thường vụ Quốc hội để nêu rõ quan điểm của mình, hoặc thẳng thắn tranh luận trực tiếp tại nghị trường.
Thân thế của ĐBQH Hoàng Hữu Phước
Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước, Thạc sĩ kinh doanh quốc tế, Cử nhân Anh văn, sinh năm 1957, quê gốc Nam Định. Ông sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn. Từ năm 1976 – 1981, Hoàng Hữu Phước học lớp Anh văn, khoa Ngữ văn nước ngoài, trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tại cơ sở 2, đường Đinh Tiên Hoàng, Q1 (bây giờ là Đại học KHXH & Nhân văn).
Sau đó trở thành giáo viên Anh văn tại Trường Cao đẳng Sư phạm TP. Hồ Chí Minh từ năm 1982 đến năm 1988. Từ năm 1988 đến năm 2005, ông làm việc cho nhiều thể chế của các công ty, tổ chức nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2006 đến nay, ông là Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại - Dịch vụ - Tư vấn - Đầu tư Doanh thương Mỹ Á.
Tại cuộc họp, ông Phước thừa nhận bài viết trên là của mình và cách thức tranh luận trong bài viết là không phù hợp. Trước mắt, ông đã gỡ bỏ bài viết khỏi trang web của ông và sẽ phản hồi về vấn đề này, công khai trên báo chí cùng việc gửi lời xin lỗi ông Dương Trung Quốc.
Liên quan đến tranh luận này, lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc hội cũng cho rằng bài viết nói trên không phù hợp với văn hóa nghị trường Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, việc dùng blog để công kích (mang tính cá nhân) các đại biểu khác là không nên. Nếu không cùng quan điểm, các đại biểu có thể gửi thư về đoàn đại biểu địa phương, Thường vụ Quốc hội để nêu rõ quan điểm của mình, hoặc thẳng thắn tranh luận trực tiếp tại nghị trường.
Thân thế của ĐBQH Hoàng Hữu Phước
Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước, Thạc sĩ kinh doanh quốc tế, Cử nhân Anh văn, sinh năm 1957, quê gốc Nam Định. Ông sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn. Từ năm 1976 – 1981, Hoàng Hữu Phước học lớp Anh văn, khoa Ngữ văn nước ngoài, trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tại cơ sở 2, đường Đinh Tiên Hoàng, Q1 (bây giờ là Đại học KHXH & Nhân văn).
Sau đó trở thành giáo viên Anh văn tại Trường Cao đẳng Sư phạm TP. Hồ Chí Minh từ năm 1982 đến năm 1988. Từ năm 1988 đến năm 2005, ông làm việc cho nhiều thể chế của các công ty, tổ chức nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2006 đến nay, ông là Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại - Dịch vụ - Tư vấn - Đầu tư Doanh thương Mỹ Á.
Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước (ảnh: internet). |
Năm 2011, ông Phước được Mặt trận Tổ
quốc TP. Hồ Chí Minh giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội khóa XIII, tại
đơn vị bầu cử Quận 1, 3 và 4. Trong chương trình hành động của mình, ông
cam kết: “Sau khi trúng cử sẽ tích cực thực hiện tốt vai trò Đại biểu
Quốc hội tại địa phương, tích cực gần gũi, tiếp xúc, lắng nghe ý kiến,
giải đáp các thắc mắc của cử tri; tham gia cùng cơ quan chức năng tiếp
cận, ghi nhận sự việc, giải tỏa bức xúc của dân ngay khi xảy ra tập
trung khiếu kiện đông người tại thành phố Hồ Chí Minh để bảo đảm tình
hình an ninh trật tự”.
Trên bình diện quốc gia, ông cam kết sẽ
tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; đóng góp ý
kiến xây dựng Nhà nước và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh và
hiện đại hóa quân đội”. Kết quả, ông đã nhận được 52,49% số phiếu hợp lệ
và trúng cử đại biểu Quốc hội.
Là thạc sỹ kinh doanh Quốc tế, giỏi
tiếng Anh, có uy tín trong giới kinh doanh, có nhiều kinh nghiệm trong
lĩnh vực tham mưu phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh doanh,
chiến lược kinh doanh, nhiều năm nay, ông Hoàng Hữu Phước đã âm thầm tư
vấn, hỗ trợ cho nhiều doanh nghiệp, các tỉnh nghèo.
Những phát ngôn “hâm nóng” nghị trường
Tại các kì họp của Quốc hội khóa XIII,
trên các báo như Tuổi trẻ, Thanh niên, Dân trí, VOV online, Sài Gòn giải
phóng… đã cập nhật chi tiết phát biểu của đại biểu Quốc hội đại diện
cho cử tri các địa phương bàn về các dự án Luật được Quốc hội đưa ra.
Tại đây, đại biểu Hoàng Hữu Phước đã có 1 số phát biểu gây sự chú ý trên
nghị trường.
* Thảo luận về Luật Biểu tình
Trong bài phát biểu tại Quốc hội ngày
17/11/2011, ông đã “Kính đề nghị Quốc hội loại bỏ Luật biểu tình khỏi
danh sách dự án luật suốt nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII này”, vì những lý
do như sau:
Trong dự kiến Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Ủy ban thường vụ Quốc hội
đề xuất đưa Luật Biểu tình vào chương trình chuẩn bị. Phát biểu tại Quốc
hội, vị đại biểu này đã thẳng thắn trình bày quan điểm của mình: “Việt
Nam có cần cho cuộc biểu tình chống Chính phủ Việt Nam hay không, chống
các chủ trương, chính sách, đạo luật của Chính phủ Việt Nam hay không.
Nếu không cần tại sao lại đưa dự án Luật biểu tình…”.
Đại biểu Hoàng Hữu Phước) đã thực sự làm
"nóng" hội trường khi thẳng thắn đề nghị không đưa Luật Lập hội và Luật
Biểu tình vào Chương trình xây dựng pháp luật.
Theo đại biểu Hoàng Hữu Phước, với trình
độ dân trí và điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, việc cho
ra đời Luật Biểu tình là chưa cần thiết, thậm chí rất dễ bị một số đối
tượng lợi dụng.
“Tập họp đông người ngoài trời thường là
hại nhiều hơn lợi, gây tắc đường, ảnh hưởng quyền lợi chính đáng của
nhiều người dân. Nếu trưng cầu ý kiến, tôi tin rằng đa số công dân sẽ
không đồng ý Luật Biểu tình vì tính chất dễ gây tổn thương của nó”, đại
biểu Hoàng Hữu Phước khẳng định.
Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc (bên trái) và Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước (ảnh: internet). |
Để đề xuất của mình có sức thuyết phục
trước Quốc hội, ông Hoàng Hữu Phước đã lấy dẫn chứng những cuộc biểu
tình cả trong và ngoài nước. Ví như: “Khi đi ngang qua vài cuộc tập hợp
đông người gần đây ở TP. HCM chống đường lưỡi bò tôi đã nghe những người
bị kẹt xe lớn tiếng nguyền rủa, thóa mạ, văng tục đầy đe dọa những
người đang tập hợp mà ta gọi là biểu tình ấy”.
Hay “Ở đất nước có nền văn học hoàng
kim, mặt trời không bao giờ lặn trên cương thổ vương quốc Anh và Bắc Ái
Nhĩ Lan, cuộc biểu tình tháng 8 vừa qua tại Luân Đôn và lan ra một số
thành phố lớn khác đã biến thành bạo loạn, cướp bóc, đốt nhà, làm ô danh
đất nước”.
Rồi “Cuộc biểu tình chiếm phố Wall suốt 2
tháng nay tại NewYork và hơn 20 thành phố lớn ở Mỹ vừa bị cảnh sát ra
tay dẹp do tình trạng bẩn thỉu, mất vệ sinh, ẩu đả, trộm cắp và hiếp dâm
xảy ra tại các nơi biểu tình làm ô danh nước Mỹ”.
Ngược dòng thời gian thì: “Kể từ khi có
cuộc biểu tình đầu tiên trong lịch sử loài người năm 1913 do Gandhi tổ
chức nhằm phản đối Chính phủ Vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan áp bức
nhân dân Ấn Độ, mãi cho đến những năm 60 của thế kỷ trước từ ngữ “biểu
tình” mới xuất hiện ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ bắt đầu từ việc chống lại
Chính phủ Kennedy đã đẩy mạnh cuộc chiến tranh Việt Nam...”.
Và: “Điều nhất thiết phải khẳng định ở
đây là ngay từ khởi thủy và cho tới tận ngày nay biểu tình là để chống
lại Chính phủ nước mình hoặc chống lại một chủ trương của Chính phủ nước
mình. Khi một triệu người dân Mỹ đổ về thủ đô Washington tháng 9 năm
2009 họ chống lại Tổng thống Obama, gọi ông là kẻ có dã tâm, biến Hoa Kỳ
thành quốc gia xã hội chủ nghĩa, bày ra kế sách bảo hiểm y tế vì người
nghèo...”.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là: “Liệu cái
gọi là quyền biểu tình ấy có lớn hơn quyền được kiếm sống của người dân,
quyền được ra đời của con cái của người dân, quyền được sử dụng công lộ
của người dân, quyền được mưu cầu hạnh phúc của người dân…”.
Sau những dẫn chứng rất cụ thể ấy, trước
khi kết thúc bài phát biểu của mình, đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước
một lần nữa nhấn mạnh: “Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có
thể đài thọ cho một sự ô danh”.
* Thảo luận về dự án Luật phòng, chống rửa tiền
Hoạt động rửa tiền ngày nay không chỉ
diễn ra trong các giao dịch ngân hàng mà có thể là trong mua bán bất
động sản, chứng khoán, tham nhũng và thậm chí là mua bán ma túy... Nhận
định trên được khá nhiều các đại biểu đưa ra tại buổi thảo luận tổ về dự
án Luật Phòng chống rửa tiền ngày 9/11/2012.
Từ kinh nghiệm làm việc với các công ty
tài chính quốc tế, ĐB Hoàng Hữu Phước (TPHCM) cho rằng, việc ban hành
Luật Phòng, chống rửa tiền “có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh
nghiệp tài chính”.
Đại biểu Hoàng Hữu Phước cho rằng, Luật
Phòng, chống rửa tiền nên được thông qua càng sớm càng tốt bởi, ngay
trong quy mô một doanh nghiệp, vấn đề này cũng được đặc biệt quan tâm từ
nhiều năm trước.
“Năm 2002 tôi làm giám đốc nhân sự của
công ty Manulife nhưng đã phải căng đầu ra để làm các nội dung xoay
quanh phòng, chống rửa tiền, chứng tỏ lãnh đạo các doanh nghiệp, đặc
biệt là doanh nghiệp nước ngoài họ rất chú ý đến loại tội phạm này”, đại
biểu Phước nói.
* Thảo luận về dự thảo luật sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân
Chiều 5/11/2012, thảo luận ở tổ về dự
thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân,
hầu hết các đại biểu Quốc hội đều đề nghị nên áp dụng Luật sửa đổi từ
ngày 1/1/2013, thay vì 1/7/2013 như đề xuất của Chính phủ.
Nhiều đại biểu đồng tình cho rằng nâng
mức giảm trừ cho người đóng thuế lên mức 9 triệu đồng/tháng (hiện tại 4
triệu đồng) là phù hợp.
Nhìn ở khía cạnh khác, Đại biểu Hoàng
Hữu Phước cho rằng, dù mức giảm trừ gia cảnh là 3,6 hay 4,5 triệu thì
mỗi khi tăng lương cho người lao động hoặc giảm trừ… thì dường như lúc
nào chúng ta cũng chạy theo sự tăng giá thị trường. Dù được tạo nhiều
thuận lợi hơn nhưng người lao động cũng vẫn vất vả chạy theo chi tiêu
hàng ngày. Vì thế, Nhà nước cần thiết có chính sách vĩ mô để không làm
giảm tác dụng những nỗ lực nhằm gia tăng thu nhập cho người lao động.
Cùng với đại biểu Đoàn Nguyễn Thùy
Trang, ông Hoàng Hữu Phước đề xuất nâng mức giảm trừ cho người phụ thuộc
lên 4,5 triệu đồng/người/tháng, thay vì 3,6 triệu đồng/người/tháng như
đề xuất của Chính phủ (hiện nay là 1,6 triệu đồng/người/tháng).
“Các khó khăn như tờ trình của Chính phủ
nêu hoàn toàn có thể gỡ, trong tầm tay, do vậy cần quyết tâm khắc phục
để kịp áp dụng từ 1/1/2013” - đại biểu Hoàng Hữu Phước nói.
* Thảo luận về Luật Thủ đô
Chiều 27/10/2012, Quốc hội thảo luận ở
tổ về dự án Luật Thủ đô. Nhiều ĐB Quốc hội bày tỏ quan điểm cần xem xét
thấu đáo hơn khi chọn Khuê Văn Các (Văn Miếu - Quốc Tử Giám) là biểu
tượng của Thủ đô.
Khuê Văn Các - biểu tượng của Thủ đô (Ảnh minh họa). |
ĐB Hoàng Hữu Phước lại có quan điểm khác về vấn đề này. “Tôi ủng hộ biểu tượng Khuê Văn Các. Chùa Một Cột là một phiên bản, còn Tháp Rùa nhìn quen mắt, nhưng không có người ở, không ý nghĩa bằng Khuê Văn Các. Đây là công trình do một đấng minh quân xây dựng, vừa khuyến học, vừa ghi danh nhân tài, nên làm”.
Quốc hội biểu quyết riêng điều luật quy định về biểu tượng thủ đô, có 385 đại biểu tán thành, 74 đại biểu không tán thành, 9 đại biểu không biểu quyết. Trước đó, khi lấy phiếu ý kiến đại biểu Quốc hội đã có 307/363 đại biểu tán thành với lựa chọn hình ảnh Khuê Văn Các làm biểu tượng của thủ đô.
Thảo luận về dự án Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá
Thảo luận tại hội trường về dự án Luật
Phòng, chống tác hại của thuốc lá sáng 16/11/2012, các đại biểu Quốc hội
nhất trí là cần thiết phải ban hành luật này song lại băn khoăn về tính
khả thi của nhiều quy định trong dự thảo.
“Khi chúng ta nhìn lại tỉ lệ nộp ngân
sách năm 2011 mà Nhà nước ấn định cho Vinataba là 15.000 tỉ và nhìn lại
tốc độ sản xuất của họ là 5 tỉ bao/năm, trong đó có 1 tỉ bao dành cho
xuất khẩu. Chúng ta cũng nhìn lại hằng năm như vậy có 800 triệu bao được
nhập lậu vào Việt Nam gây thất thu 4.000 tỉ đồng. Nếu chúng ta tăng
cường bài trừ, gọi là phòng, chống thuốc lá thì nên đặt lại chỉ tiêu
ngân sách thấp hơn cho Vinataba kể từ năm 2012” - ĐB Hoàng Hữu Phước
nói.
"Quy định buộc làm mờ hình ảnh diễn viễn hút thuốc là hợp lý, hợp thời" (Ảnh minh họa). |
Về vấn đề sử dụng hình ảnh diễn viên…
hút thuốc lá, đại biểu Hoàng Hữu Phước nêu dẫn chứng để thấy quy định
buộc làm mờ hình ảnh diễn viễn hút thuốc là hợp lý, hợp thời.
Đại biểu Hoàng Hữu Phước cho rằng, việc
sử dụng hình ảnh diễn viên cầm điếu thuốc lá để biểu đạt dụng ý nào đó
đã lỗi thời. “Thời Nguyễn Chánh Tín cầm điếu thuốc lá để biểu đạt nội
tâm đã qua. Phim ảnh Hollywood ngày nay không còn cảnh sử dụng thuốc lá
điếu. Nếu có cũng dụng ý người sử dụng thuốc lá đều là diễn viên thật
mập, hoặc thật gày gò, ốm yếu, làm sao cho điếu thuốc không tôn lên vẻ
sang trọng hay vẻ đẹp của người diễn. Nếu không phải nhân vật chính thì
người diễn viên cũng vào vai một tên lưu manh, phản diện. Kết quả của
những diễn viên hút thuốc cũng không có hậu, anh ta sẽ bị bắn hạ”.
Và mới đây nhất, là bài viết “Dương
Trung Quốc và bốn điều sai năm cũ (Tứ đại ngu)” trên trang blog cá nhân
được cho là của đại biểu Quốc hội TP. HCM Hoàng Hữu Phước nhằm vào đại
biểu Quốc hội Dương Trung Quốc. Bài viết không chỉ tạo nên làn sóng
trong giới chính trị gia mà còn trong cả cộng đồng người Việt. Nhiều cử
tri thậm chí còn đề nghị đoàn đại biểu TP. HCM xem xét tư cách, đạo đức
văn hóa ứng xử của ông đại biểu phát biểu thiếu suy nghĩ trong bài viết
“tứ đại ngu” nếu đây đúng là blog của ông và do ông viết.
(GDVN)
(GDVN)
Quốc hội sẽ đề nghị bãi nhiệm đại biểu Hoàng Hữu Phước?
Ông Lê Như Tiến. |
Xung quanh bài viết "Tứ đại ngu của ông Dương Trung Quốc" của ĐBQH
Hoàng Hữu Phước, ông Lê Như Tiến - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo
dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho rằng, việc
dùng blog cá nhân để đánh giá, nhận xét đại biểu khác bằng những lời lẽ
thóa mạ, thiếu tôn trọng như dùng từ “ngu”, “ngậm miệng lại”... thì
không thể chấp nhận được.
* Ông Lê Như Tiến (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội):
Quốc hội nên có ý kiến về đề nghị bãi nhiệm đại biểu Hoàng Hữu Phước
Tôi cho rằng việc các đại biểu Quốc hội tranh luận, trao đổi với nhau
là chuyện bình thường, sẽ làm tăng sức hấp dẫn và tính dân chủ trong
sinh hoạt nghị trường. Tuy nhiên, việc dùng blog cá nhân để đánh giá,
nhận xét đại biểu khác bằng những lời lẽ thóa mạ, thiếu tôn trọng như
dùng từ “ngu”, “ngậm miệng lại”... thì không thể chấp nhận được. Đây là
việc chưa có tiền lệ trong sinh hoạt nghị trường ở VN. Là người theo
dõi lĩnh vực văn hóa, tôi cho rằng sẽ có nhiều người không đồng tình
với cách làm của đại biểu Hoàng Hữu Phước. Cách làm này không thể chấp
nhận đối với một người bình thường chứ chưa nói anh Phước là một đại
biểu Quốc hội.
Tôi có đọc trên các diễn đàn mạng thì có những ý kiến đề nghị bãi nhiệm
đại biểu Hoàng Hữu Phước. Tôi nghĩ các cơ quan có trách nhiệm của Quốc
hội nên có ý kiến về vấn đề này.
* Luật sư NGUYỄN VĂN HẬU (Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP.HCM):
Hành vi vi phạm pháp luật dân sự
Theo quy định tại điều 1 của quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội ban hành kèm theo nghị quyết số 08/2002/QH11
của Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ hai thì đại biểu Quốc hội không chỉ đại
diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân
cả nước. Chính vì vậy đại biểu Quốc hội phải cẩn trọng hơn trong hành
vi, ngôn ngữ của mình.
Điều này càng được khẳng định hơn tại điều 3 của quy chế là đại biểu Quốc hội phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nhiệm vụ tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân và người thân trong gia đình chấp hành pháp luật, tham gia quản lý nhà nước. Nếu đại biểu Quốc hội vi phạm pháp luật, không tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng cũng tức là xúc phạm danh dự, uy tín của nhân dân, của Nhà nước.
Điều này càng được khẳng định hơn tại điều 3 của quy chế là đại biểu Quốc hội phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nhiệm vụ tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân và người thân trong gia đình chấp hành pháp luật, tham gia quản lý nhà nước. Nếu đại biểu Quốc hội vi phạm pháp luật, không tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng cũng tức là xúc phạm danh dự, uy tín của nhân dân, của Nhà nước.
Theo đó, mỗi cá nhân đều có nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của các cá nhân khác và pháp luật sẽ bảo vệ quyền này. Một công dân nói xấu một công dân khác tại nơi công cộng thì đó chỉ là sự vi phạm pháp luật dân sự, nhưng nếu là một đại biểu Quốc hội nói xấu một đại biểu Quốc hội khác thì rõ ràng bên cạnh việc vi phạm pháp luật, quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, vị đại biểu đó còn xúc phạm đến một hình tượng đại diện cho nhân dân khác, cũng như làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Quốc hội.
(Tuổi trẻ)
-----------------
“Vụ việc của đại biểu Phước khá nghiêm trọng về văn hóa ứng xử!”
(Dân trí) - “Ở Quốc hội lâu nay, việc các đại biểu có ý kiến trái ngược nhau là chuyện bình thường nhưng chì chiết, thóa mạ nhau một cách nặng nề như blog của đại biểu Phước thì chưa có tiền lệ. Tôi cho rằng đó là vấn đề khá nghiêm trọng trong văn hóa ứng xử…"
Phó Chủ nhiệm UB Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội Lê Như Tiến trao đổi về việc đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước đăng bài viết “Dương Trung Quốc và bốn điều sai năm cũ” (tứ đại ngu) trên blog cá nhân vừa qua.
Bài viết về đại biểu Dương Trung Quốc đăng trên blog của đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước đã làm nóng dư luận những ngày đầu năm mới vừa qua. Ông có thể chia sẻ quan điểm của mình về sự việc?
Tôi đã đọc bài viết đăng trên blog Hoàng Hữu Phước và hơn 200 comment của độc giả đã phát biểu. Thực ra tôi thấy rất đáng tiếc nếu đó là sự thật. Tôi vẫn hi vọng khả năng có một kẻ nào đó đã mạo danh đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước để viết bài như vậy chứ không phải đại biểu. Nhưng khi đại biểu Phước xác nhận đây đúng là phát ngôn của mình thì đó là điều rất đáng buồn.
Việc một vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau giữa các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là việc rất bình thường. Các ý kiến khác nhau qua tranh luận là để tiệm cận đến chân lý, đó là điều rất tốt. Từ ý kiến khác nhau, tranh luận khác nhau như vậy mà dẫn đến bài viết như vừa qua mới là điều không bình thường. Không bình thường ở chỗ người viết dùng ngôn từ không phù hợp, ngay cả với một người bình thường chứ không nói gì đến người có vị trí đại diện cho dân như ĐBQH. Là người thay mặt nhân dân để quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước càng cần sự cẩn trọng trong mỗi lời nói, mỗi phát biểu.
Đọc các ý kiến phản hồi của người đọc tôi cũng thấy yêu cầu về việc xử lý của các cơ quan có trách nhiệm như đoàn ĐBQH TPHCM, Ban công tác đại biểu của QH hay UB Thường vụ QH có thái độ gì. Họ có lý khi đặt vấn đề đó vì ứng xử với nhau cần có văn hóa, ngôn từ, lời lẽ sâu sắc nhưng lịch sự, luôn tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng người khác. Đó là văn hóa cần có của mỗi người. Nhiều đại biểu tôi biết phát biểu những vấn đề rất gai góc trên nghị trường nhưng ngôn từ nói rất chừng mực, tế nhị, có văn hóa. Tôi cho là việc có văn hóa trong ứng xử, phát ngôn, trong lời nói hoặc giao tiếp với nhau rất quan trọng đối với ĐBQH.
Có thể ý kiến các đại biểu từ những góc nhìn khác nhau về một vấn đề nhưng không thể vì thế mà dùng những ngôn từ để thóa mạ, mạt sát hay hạ nhục nhau. Điều đó hoàn toàn không nên.
Chưa đặt vấn đề đúng sai về nội dung thì những ngôn từ trong bài viết có thể nhìn nhận thế nào, thưa ông?
Việc người viết dùng từ “đại ngu” để nói về người khác là một từ rất mạnh, ngay với những người bình thường, thậm chí những người có trình độ rất thấp cũng không dùng với nhau, không thiếu những cách nói khác để thể hiện. Vậy mà nói nặng nề kiểu “đại ngu”, “tứ đại ngu”, nói ngụ ý kiến thức của đồng nghiệp thấp, ít học… thì hết sức không nên. Trong bài viết cũng rất nhiều từ ngữ khác mang tính chất thóa mạ như “loạn ngôn”, “hiếu chiến”, “háo thắng”, "bất tri vô trí”, loạn ngôn, loạn hành, loạn trí, “Dương Trung Quốc đã nói xằng bậy”, “tự làm lộ cho toàn dân biết mình không biết ngoại ngữ trong khi bản thân là một nhà sử học”, “danh xưng nhà đĩ học bên cạnh nhà sử học”… là quá nặng nề, đến mức rất phản cảm. Không thể dùng những từ này để nói về một ĐBQH, một người đồng nghiệp với mình.
Tình huống xấu nhất đã được xác định - đây chính là phát ngôn của đại biểu Hoàng Hữu Phước. Vấn đề đặt ra là Quốc hội hiện tại có cơ chế, quy định nào về điều kiện, giới hạn của việc nêu những ý kiến khác nhau đối với mỗi ĐBQH như này?
Các đại biểu có rất nhiều cách để trao đổi, để truyền thông điệp của mình. Trên diễn đàn QH, trong các cuộc họp tổ, trao đổi trực tiếp với nhau đại biểu không thiếu cơ hội để đăng ký phát biểu, thậm chí phản biện nhau, nêu quan điểm trái chiều nhau là chuyện bình thường. Ngoài ra, các đại biểu hoàn toàn có thể gửi thư, viết mail trao đổi, gọi diện tranh luận… Ví dụ, có ý kiến khác nhau về luật Biểu tình chẳng hạn, mỗi đại biểu hoàn toàn có thể gửi kiến nghị bằng văn bản đến đoàn đại biểu QH, đến Ủy ban mà mình là thành viên, đến cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra hoặc UB Thường vụ QH, gửi cho lãnh đạo QH để thể hiện chính kiến của mình…
Có rất nhiều kênh để đại biểu trao đổi với nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp như thế, tại sao không làm, lại viết tung lên blog như thế.
Nhiều người đặt vấn đề, blog đúng là một trang nhật ký cá nhân trên mạng nhưng đặc điểm lại là một phương tiện truyền tải mà nhiều người có thể tiếp cận, phổ biến rộng rãi. Vậy những phát ngôn chưa phù hợp của một đại biểu như ông đã phân tích, dư luận quan tâm hướng xử lý, giải quyết giờ thế nào?
Tôi nghĩ hiện Chính phủ đã có nhiều quy định để quản lý các trang blog cá nhân. Dù blog có thể là của bất kỳ ai, ai cũng có thể tạo ra trang nhật ký riêng trên mạng như vậy nhưng không phải vì vậy mà muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói. Không thể vu khống, bôi nhọ Đảng và nhà nước, không được bôi nhọ nhân phẩm và danh dự của người khác, không thể nói tùy thích cho “sướng miệng” mình mà làm phương hại đến người khác. Luật Hình sự có quy định cụ thể về những hành vi, tội danh liên quan đến vấn đề này. Trong Hiến pháp hiện hành, Điều 71 cũng như điều 22 sửa đổi bổ sung điều 71 này trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi đang đưa ra lấy ý kiến cũng giữ quy định “không được lợi dụng tự do, dân chủ để nói xấu, bôi nhọ Đảng, nhà nước, các tổ chức và cá nhân”. Nếu ai dùng phương tiện này khác để thóa mạ, bôi xấu người khác như trường hợp này thì pháp luật cũng quy định cách thức xử lý cụ thể.
Trong Nội quy kỳ họp và quy chế hoạt động của ĐBQH cũng có quy định đại biểu không được xúc phạm lẫn nhau và người khác.
Ở Quốc hội, lâu nay, chuyện này chưa có tiền lệ. Việc có ý kiến trái ngược nhau thì nhiều nhưng nói với nhau một cách nặng nề, có tính chất chì chiết, thóa mạ, hạ nhục nhau như này thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử. Tôi cho rằng đó cũng là vấn đề khá nghiêm trọng trong văn hóa ứng xử với nhau, nhất là ở cương vị ĐBQH. Đã là một đại biểu, một chính khách phải có lời ăn tiếng nói, ứng xử phù hợp với vị thể một người đại diện cho người dân cả nước. Nếu không được như thế thì rất đáng tiếc và tôi cho rằng ai thể hiện như thế thì người đó đã tự đánh mất mình, đánh mất uy tín của mình trong lòng cử tri, nhân dân. Và thực tế đã thể hiện, rất nhiều ý kiến phản đối bài viết trên blog Hoàng Hữu Phước và ủng hộ các ý kiến của đại biểu Dương Trung Quốc đã nêu tại diễn đàn Quốc hội.
Sự việc đã như vậy cơ quan chức năng nên có biện pháp can thiệp nào?
Khi sự việc đã như thế, các cơ quan chức năng như Đoàn ĐBQH TPHCM, Ban Công tác đại biểu, UB Thường vụ QH… nên có chỉ đạo làm rõ vì đây không phải việc của cá nhân với cá nhân nữa mà đã thành các luồng ý kiến khác nhau, thành điểm nóng trong mấy ngày đầu xuân, tết đến vừa qua, làm xôn xao dư luận. Đoàn ĐBQH TPHCM, Ban Công tác đại biểu, UB Thường vụ cũng nên có hình thức nhắc nhở để đại biểu có hành động phù hợp với vị thế của mình. Sự việc đã như thế, không thể lờ đi coi như không có, không thấy việc đã xảy ra.
Ông có bình luận gì về nội dung “nói lại” của đại biểu Dương Trung Quốc cho rằng bài viết này không thể gọi là phản biện, là không có gì đáng phản hồi, bình luận?
Tôi cho rằng anh Dương Trung Quốc là người rất bình thản, điềm tĩnh và có bản lĩnh. Nếu rơi vào nhiều người khác thì đã nổi sung, nổi đóa lên rồi nhưng anh Quốc vẫn rất bình thản. Anh có nói “đã không cùng ngôn ngữ thì không thể trao đổi với nhau được” là cách nói rất sâu sắc, khéo léo. Anh Quốc cũng nói một ý “hãy để cho cử tri, độc giả tự bình luận” và quả thật khi độc giả bình luận thì quan điểm đưa ra rất gay gắt.
Tôi cũng được biết, đoàn ĐBQH TPHCM đã có buổi làm việc với đại biểu Hoàng Hữu Phước về việc này và ông Phước cũng đã gỡ bài viết khỏi blog của mình. Tôi cho rằng đây là phản ứng kịp thời của đoàn cơ quan quản lý trực tiếp đại biểu cũng như thái độ tích cực, thể hiện đại biểu đã nhận thấy sai sót của mình. Tích cực hơn, ông Phước nên có lời xin lỗi trực tiếp với đại biểu Dương Trung Quốc. Nhiều đại biểu cũng gọi điện cho tôi bày tỏ quan điểm không tán thành việc làm của ông Hoàng Hữu Phước trên blog cá nhân của mình.
Xin cảm ơn ông!
P.Thảo thực hiện
(Dân trí)
Luật gia Trần Đình Thu - Quốc hội cần khẩn cấp xem xét sức khỏe tâm thần của đại biểu Hoàng Hữu Phước
Ông Hoàng Hữu Phước |
Tôi
từng nghiên cứu kỹ về hiện tượng Bùi Giáng trong cuốn sách đã xuất bản
“Bùi Giáng thi sĩ kỳ dị” nên có thể mạnh dạn phát biểu rằng, Đại biểu
quốc hội Hoàng Hữu Phước có dấu hiểu khởi phát của căn bệnh cuồng ngôn
như thi sĩ Bùi Giáng vào những năm đầu của thập niên 1960. Hồi ấy, ngay
trong bản dịch tiểu thuyết Hoàng tử Bé của Saint Exupéry hoặc các bản
dịch của Albert Camus, Bùi Giáng đã vô tình để lộ dấu hiệu căn bệnh khi
ông viết những đoạn văn “không giống ai”.
Về sau khi ông phát cuồng phải vào Bệnh viện tâm thần Biên Hòa chữa
trị ngót một năm, so sánh lại thời kỳ đầu thì mới thấy rằng, cuồng ngôn
quả thật có thể là dấu hiệu sớm của căn bệnh cuồng. Bùi Giáng được các
bác sĩ nhận xét, ông đã mắc bệnh cuồng thể nhẹ từ khi viết những dòng
văn “không giống ai” nhưng không được chữa trị nên lâu ngày phát triển
thành cuồng nặng. Cho đến cuối đời ông ăn mặc nhố nhăng ăn bờ ngủ bụi,
trở thành “khất sĩ” thực thụ.
Tôi nhận ra điều nay nơi ông Hoàng Hữu Phước vào hồi năm ngoái khi đọc
vài bài viết trên blog của ông, nhưng tôi chưa tiện nói đến. Nay đọc
thêm bài viết ông công kích Đại biểu Dương Trung Quốc, tôi xin nói
luôn. Bỏ qua những yếu tố chính trị, tôi chỉ xin nói đến góc độ khoa
học của vấn đề.
Trong bài viết có tựa “Ông Trương Tấn Sang” viết vào hồi năm ngoái, đoạn mở đầu ông Phước viết như sau: “Ông Trương Tấn Sang là vị Tổng thống thứ 8 của nước Việt Nam thống nhất. Đây là điều ai cũng biết”.
Một đại biểu quốc hội mà gọi Chủ tịch nước là “Tổng thống” một cách
thản nhiên như thế lại không đặt trong dấu ngoặc kép, đó là một dấu hiệu
bất thường về mặt tư duy ngôn ngữ. Ở một đoạn khác của bài này, ông
Phước viết: “Điều may mắn là ông Trương Tấn Sang trở thành vị tổng thống đầu tiên có tài hùng biện đúng nghĩa …”.
Trong phần chú thích việc mình dùng từ “Tổng thống” cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, ông Phước viết: “Tôi không hiểu sao ở Việt Nam vẫn còn “thẹn thùng”
đối với từ “tổng thống” vì từ “chủ tịch” quá nhàm chán, quá lẫn lộn,
với cấp nào cũng có “chủ tịch”, từ xã đến huyện đến thị trấn đến thành
phố đến tỉnh đến mọi cấp mọi nơi, từ công việc theo nhiệm kỳ đến công
việc ngắn hạn như chủ tịch giải thi đấu này nọ.. .Tôi vẫn sử dụng từ
“tổng thống” cũng như tôi chỉ sử dụng từ “hàng không mẫu hạm” vì “tàu
sân bay” rất yếu ớt và có nội dung hoàn toàn sai do “mẫu hạm” chính xác
hơn, thực tế hơn, với danh xưng tàu “mẹ” vì mỗi hàng không mẫu hạm đều
luôn có “đàn con” dữ dội gồm hàng chục chiến hạm, khu trục hạm, ngư lôi
hạm và tiềm thủy đỉnh tức tàu ngầm bảo vệ dày đặc xung quanh bao trùm
cả khoảng không gian mặt biển rộng khắp”.
Đọc qua chỉ một bài như thế, chúng ta thấy rõ ông Phước có dấu hiệu rối
loạn ngôn ngữ khá nặng. Không một người bình thường có chức vụ nào dám
bỡn cợt như ông Phước. Không phải là vấn đề chính trị mà là nó “không
giống ai”.
Đến đây xin nói về bài viết đang “hot” của ông Phước nói về Đại biểu
quốc hội Dương Trung Quốc. Bài viết này, ông Phước dùng cái tựa có mở
ngặc ba chữ “Tứ đại ngu” quả là quá bất thường. Bất thường vì trong tư
cách đại biểu quốc hội viết về đồng nghiệp, hầu như không ai có cách
hành văn như vậy.
Bài viết có cấu trúc rất kỳ lạ. Ngay sau phần mở đầu tràng giang đại
hải luận về Khổng Tử thì đến phần “Giới thiệu đôi nét về Dương Trung
Quốc”. Không ai đi viết bài tranh luận với một người khác, nhất là với
một người đã quá nổi tiếng như ông Dương Trung Quốc mà có thêm phần
này. Nó có vẻ gì đấy “bất thường” trong lo gich tư duy ngôn ngữ.
Cái tựa nhỏ tiếp theo của ông Phước mới quả thật gây sốc: “Nhất Đại Ngu
của Dương Trung Quốc: Đĩ”. Ở đây tôi không nói đến việc mạt sát ông
Dương Trung Quốc nữa vì ở trên nó có nhiều rồi, nhưng tôi muốn nói đến
từ “đĩ” ông Phước dùng. Một nghĩ sĩ không ai dùng từ này. Nhưng ngộ hơn
nữa khi ông Phước giải thích về nghề mại dâm như sau: “Mại dâm không
là nghề cổ xưa nhất của nhân loại mà là nghề…đạo chích, tức trộm cắp”.
Dấu hiệu rối loạn ngôn ngữ quá rõ.
Nhưng phải đến đoạn này mới thật là “thượng thừa” theo cách nói của Bùi Giáng: “Dương
Trung Quốc hoàn toàn không biết rằng mại dâm bao gồm đĩ cái, đĩ đực,
đĩ đồng tính nữ, đĩ đồng tính nam, và đĩ ấu nhi. Dương Trung Quốc hoàn
toàn không biết rằng khi “công nhận” cái “nghề đĩ” để “quản lý” và “thu thuế”, thì phát sinh … nhu cầu phải có trường đào tạo nghề đĩ thuộc các hệ phổ thông đĩ, cao đẳng đĩ, đại học đĩ; có các giáo viên và giáo sư phân khoa đĩ; có tuyển sinh hàng năm trên toàn quốc cho phân khoa đĩ; có chương trình thực tập cho các “môn sinh” khoa đĩ; có trình luận văn tốt nghiệp đĩ
trước hội đồng giảng dạy đĩ; có danh sách những người mua dâm để tuyên
dương vì có công tăng thu nhập thuế trị giá gia tăng cho ngành công nghiệp đĩ; có chính sách giảm trừ chi phí công ty hay cơ quan nếu có các hóa đơn tài chính được cấp bởi các cơ sở đĩ, đặc biệt khi cơ quan dùng vé “chơi đĩ cái” tặng nam nhân viên và vé “chơi đĩ đực”
cho nữ nhân viên nào ưu tú trong năm tài chính vừa qua; ban hành quy
định mở doanh nghiệp cung cấp đĩ, trường dạy nghề đĩ, giá trị chứng chỉ
văn bằng đĩ trên cơ sở so sánh giá trị nội địa, khu vực, hay quốc tế;
và có các hướng dẫn về nội dung tờ bướm, tờ rơi, bảng quảng cáo ngoài
trời, quảng cáo bên hông xe buýt và trên thân máy bay, cũng như quảng
cáo online về đĩ, tập đoàn đĩ lên sàn (chứng khoán), v.v. và v.v.”.
Đoạn này quá bất ngờ với tôi. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây quả là một trường hợp quá rõ của căn bệnh cuồng chữ.
Thiết tưởng không cần phải viết thêm nhiều nữa, tôi khẳng định, Quốc
hội cần khẩn cấp xem xét sức khỏe tâm thần của Đại biểu quốc hội Hoàng
Hữu Phước, không để một người như thế này đi bàn việc đại sự quốc gia.
Luật gia Trần Đình Thu
Tác giả gửi QC
Việc chọn người thay ông Nguyễn Bá Thanh ở Đà nẵng gặp rắc rối
Ông Trần Thọ |
Theo tin từ Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng sáng nay 19.2 cho hay, Bộ Chính
trị có quyết định phân công ông Trần Thọ, Phó Bí thư Thường trực Thành
ủy Đà Nẵng, tạm thời phụ trách Thành ủy thay ông Nguyễn Bá Thanh.
Trước đó, Bộ Chính trị phân công ông Nguyễn Bá Thanh, ủy viên Trung ương
Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội TP
Đà Nẵng giữ chức Trưởng Ban Nội chính Trung ương. Ban Nội chính Trung
ương đã chính thức hoạt động từ ngày 1/2.
Với việc phân công ông Trần Thọ, chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng đã tạm
thời có người đảm trách. Nhưng vị trí Chủ tịch HĐND TP và Trưởng đoàn
đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng hiện vẫn chưa có người thay thế khi ông
Thanh được điều lên Trung ương.
Hôm 7/2, HĐND TP Đà Nẵng triệu tập cuộc họp bất thường để bầu chức danh
Chủ tịch HĐND TP. Tuy nhiên, cuộc họp được thông báo tạm hoãn vì lý do
đột xuất. Được biết vấn đề nhân sự cho chức vụ Bí thư TP. Đà nẵng đang
gặp trở ngại do những ý kiến trái chiều, từ cơ quan đảng và chính phủ.
Hiện nay vấn đề Quyết định đưa trung tướng, thứ trưởng Bộ Công an Tô Lâm
đang được Ban Tổ chức TƯ. xem xét lại theo đề nghị của ông Nguyễn Bá
Thanh Trưởng Ban Nội chính Trung ương.
(TTHN)
Quyết định thay đổi hàng loạt nhân sự cấp cao
Ông Trần Thọ đã làm việc với ông Nguyễn Bá Thanh một thời gian dài
Bộ Chính trị Đảng CSVN vừa phân công ông Trần Thọ phụ trách thành ủy Đà Nẵng thay cho ông Nguyễn Bá Thanh, người nay làm Trưởng ban Nội chính.
Theo quyết định số 682-QĐNS/TW, ông Trần Thọ, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Đà Nẵng nay tạm đảm nhiệm chức vụ của ông Thanh, người đã ra Hà Nội.
Tuy nhiên ông Thanh vẫn còn kiêm nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng do chưa tìm được người thay thế.
Ông Trần Thọ sinh năm 1956, quê ở xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng.
Ông đã làm phó bí thư thường trực một thời gian khá dài và được đánh giá là gây ấn tượng tốt.
Trong khi đó, tại Thái Nguyên, ông Nguyễn Đình Phách vừa được phân công giữ chức Bí thư Tỉnh ủy thay ông Phạm Xuân Đương.
Ông Phách, sinh năm 1954 tại Hưng Yên, t̀ưng giữ các nhiều chức vụ ở Hưng Yên trước khi làm ủy viên Ủyban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội.
Chức vụ mới đây nhất của ông là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
Ông Phạm Xuân Đương trước đó đã chuyển sang làm Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
Lãnh đạo bộ Tài chính
Trong một diễn biến liên quan nhân sự, báo Việt Nam đưa tin Phó Thủ tướng Võ Văn Ninh vừa chủ trì cuộc họp giao ban đầu năm của Bộ Tài chính vào thứ Ba 19/2.
Tại đó, lãnh đạo chính phủ đã làm rõ thắc mắc về chức danh của ông Vương Đình Huệ, người vừa được phân công thôi kiêm nhiệm để tập trung vào công việc Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
Về nguyên tắc, cho tới khi được Quốc hội thông qua miễn nhiệm vào kỳ họp tháng Năm tới, ông Vương Đình Huệ vẫn là Bộ trưởng Tài chính nhưng sẽ không ký các văn bản do Bộ Tài chính ban hành.
Từ ngày 6/2, ông Vũ Văn Ninh đã nhận bàn giao công việc của Bộ Tài chính thay ông Huệ.
Ông Ninh là người đã làm bộ trưởng tài chính nhiều năm, cho tới khi ông Huệ kế nhiệm ông vào tháng 8/2011.
Được biết, ông Vương Đình Huệ cũng đã đề nghị Chính phủ cho thôi không đảm nhiệm các chức danh khác gồm Chủ tịch hội đồng quản lý Bảo hiểm Việt Nam; và Chủ tịch hội đồng thành viên Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
(BBC) Bộ Chính trị Đảng CSVN vừa phân công ông Trần Thọ phụ trách thành ủy Đà Nẵng thay cho ông Nguyễn Bá Thanh, người nay làm Trưởng ban Nội chính.
Theo quyết định số 682-QĐNS/TW, ông Trần Thọ, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Đà Nẵng nay tạm đảm nhiệm chức vụ của ông Thanh, người đã ra Hà Nội.
Tuy nhiên ông Thanh vẫn còn kiêm nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng do chưa tìm được người thay thế.
Ông Trần Thọ sinh năm 1956, quê ở xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng.
Ông đã làm phó bí thư thường trực một thời gian khá dài và được đánh giá là gây ấn tượng tốt.
Trong khi đó, tại Thái Nguyên, ông Nguyễn Đình Phách vừa được phân công giữ chức Bí thư Tỉnh ủy thay ông Phạm Xuân Đương.
Ông Phách, sinh năm 1954 tại Hưng Yên, t̀ưng giữ các nhiều chức vụ ở Hưng Yên trước khi làm ủy viên Ủyban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội.
Chức vụ mới đây nhất của ông là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
Ông Phạm Xuân Đương trước đó đã chuyển sang làm Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
Lãnh đạo bộ Tài chính
Trong một diễn biến liên quan nhân sự, báo Việt Nam đưa tin Phó Thủ tướng Võ Văn Ninh vừa chủ trì cuộc họp giao ban đầu năm của Bộ Tài chính vào thứ Ba 19/2.
Tại đó, lãnh đạo chính phủ đã làm rõ thắc mắc về chức danh của ông Vương Đình Huệ, người vừa được phân công thôi kiêm nhiệm để tập trung vào công việc Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
Về nguyên tắc, cho tới khi được Quốc hội thông qua miễn nhiệm vào kỳ họp tháng Năm tới, ông Vương Đình Huệ vẫn là Bộ trưởng Tài chính nhưng sẽ không ký các văn bản do Bộ Tài chính ban hành.
Từ ngày 6/2, ông Vũ Văn Ninh đã nhận bàn giao công việc của Bộ Tài chính thay ông Huệ.
Ông Ninh là người đã làm bộ trưởng tài chính nhiều năm, cho tới khi ông Huệ kế nhiệm ông vào tháng 8/2011.
Được biết, ông Vương Đình Huệ cũng đã đề nghị Chính phủ cho thôi không đảm nhiệm các chức danh khác gồm Chủ tịch hội đồng quản lý Bảo hiểm Việt Nam; và Chủ tịch hội đồng thành viên Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Ai sẽ thay Nguyễn Tấn Dũng nếu bị bãi nhiệm?
Hai ứng viên nặng ký? |
Hà nội - Đã đến lúc người ta lại đang bàn lại việc tìm người kế nhiệm
ông Thủ tướng trong trường hợp ông ta bị đối thủ của ông hạ bệ. Khi mà
bộ máy của Ban Nội chính TW của ông Nguyễn Bá Thanh bắt đầu chính thức
đi vào hoạt động với động cơ tối cao là quyết tâm triệt hạ bằng được ông
Dũng, người được ám chỉ bằng cái tên đồng chí X, mà đã còn quá ít thiện
cảm của người dân ở Việt nam trong lúc này.
Kể từ khi thống nhất đất nước tới nay, theo thông lệ người nắm chức vụ
phó Thủ tướng thứ nhất luôn luôn trở thành Thủ tướng khi vị Thủ tướng về
hưu hoặc lý do khác. Hiện nay có bốn phó Thủ tướng, tất cả đều do ông
Dũng lựa chọn. Đó là các ông Nguyễn Xuân Phúc, Hoàng Trung Hải, Nguyễn
Thiện Nhân và Vũ Văn Ninh. Tuy vậy không một ai trong số bốn người này
được chỉ định làm phó Thủ tướng thứ nhất. Cho dù người đứng đầu danh
sách này là ông Phúc, nguyên chủ nhiệm Văn phòng chính phủ, là người
thân cận với thủ tướng và cũng là phó Thủ tướng duy nhất đang là ủy viên
Bộ Chính trị.
Nếu thủ tướng Dũng bị loại, liệu những người chỉ trích ông có chấp nhận
việc bổ nhiệm một trong những người được ông đỡ đầu hay không ? Trước
đây, có tin đồn là cựu Phó Thủ tướng, hiện là chủ tịch Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, ủy viên Bộ Chính trị, ông Nguyễn Sinh Hùng, có thể được chỉ
định làm quyền thủ tướng. Cuối năm 2006, khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
mới được bổ nhiệm, ông đã tìm cách giảm số lượng phó thủ tướng xuống để
bổ nhiệm thêm hai ứng viên trong ềkíp của ông là Hoàng Trung Hải và
Nguyễn Thiện Nhân. Khi đó đề xuất của ông Dũng đã gây ra bất đồng và
cuối cùng, số lượng phó Thủ tướng tăng từ ba lên thành năm. Một trong
những phó Thủ tướng mà ông Dũng nhiều lần tìm cách gạt bỏ là ông Nguyễn
Sinh Hùng. Là ủy viên Bộ Chính trị, theo tin báo chí, ông Hùng là người
khôn khéo, thường dùng chiêu thức châm chọc, khích bác các bên xung đột
để hưởng lợi. Cụ thể đôi khi ông Hùng chỉ trích cách thức xử lý của ông
Dũng đối với cuộc khủng hoảng kinh tế 2007 – 2008 ; cuộc khủng hoảng này
bắt đầu với tình trạng lạm phát phi mã và tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính thế giới. Song một mặt ông ta tỏ ý không ủng hộ việc triệt hạ
ông Dũng từ phe ông Trọng và ông Sang. Điều này đã khiến nhiều người
tưởng rằng ông Nguyễn Sinh Hùng sẽ ủng hộ phe của ông Dũng, mà không
biết rằng đó là kế sách "Tọa sơn, quan hổ đấu". Mà bên nào thắng thì ông
Nguyễn Sinh Hùng cũng có lợi.
Nhưng thời thế đã có nhiều thay đổi, ý đồ của ông Nguyễn Sinh Hùng đã bị
lộ. Sắp tới trong tháng 3 tới đây, việc chốt danh sách cơ cấu nhân sự
cấp cao trong đảng sẽ có kết quả rõ ràng. Sẽ có nhiều thay đổi nhân sự
liên quan đến các thành viên Ban Chấp hành TW và Bộ Chính trị và Ban Bí
thư khóa XI, đã và đang tiến hành. Ai sẽ là người được bầu bổ xung vào
chiếc ghế thứ 15 của Bộ Chính trị và ai sẽ ra đi rồi ai sẽ ngồi thay?
Đay là câu hỏi sẽ được chính thức công bố câu trả lời vào hạ tuần tháng
4.2012. Kết quả này sẽ thể hiện rõ tương quan lực lượng giữa các phe
phái trong đảng, đặc biệt là hai phe Sang+Trọng và phe đồng chí X.
Tương quan lực lượng này sẽ là điều quyết định Ban Nội chính TW của
Nguyẽn Bá Thanh sẽ được phép "nổ súng" tấn công trước hay không? Đồng
thời nó cũng là sự quyết định tương lai con đường chính trị của hai ông
Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ trong việc tiến tới chiếc ghế người
đứng đầu chính phủ. Tuy vậy, mức độ cục diện xung đột phe phái sẽ quyết
định cụ thể sẽ là ai, Nguyễn Bá Thanh hay Vương Đình Huệ?
Đừng quên cái gì cũng có giá phải trả, kể cả chức vụ Thủ tướng.
Được hay mất chỉ là gang tấc, nếu thế cờ bị đảo ngược.
(TTHN)
Bia Mộ
Hu ZiTác giả và cuốn “Bia Mộ”
Dương Kế Thằng người huyện Hy Thủy tỉnh Hồ Bắc, sinh tháng 11 năm 1940, tốt nghiệp trung học năm 1960 ở trường trung học số 1 Hy Thủy, năm 1962 thi đỗ vào trường đại học Thanh Hoa, tháng 4 năm 1964 gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc. Tốt nghiệp chuyên nghành lái máy cày khoa động lực học ở đại học Thanh Hoa năm 1966, ông gia nhập vào Tân Hoa Xã từ ngày 10 tháng 1 năm 1968 với chức vụ là phóng viên Tân Hoa Xã ở phân xã Thiên Tân và làm việc ở đây cho tới năm 2001. Trong thời gian công tác 33 năm ở đây, ông đã viết hàng ngàn bài báo, điều tra báo cáo và nhiều trong số đó được tầng lớp lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng đánh giá cao. Năm 1984 được chọn là phóng viên ưu tú. Sau khi nghỉ hưu năm 2001 ông làm trong ban biên tập, cố vấn cho nhiều tạp chí như “Cải cách Trung Quốc”; năm 2003 Dương Kế Thằng bắt đầu làm phó tổng biên tập cho tạp chí “Viêm Hoàng Xuân Thu” cho tới nay. Ông có nhiều tác phẩm như “Thời đại Đặng Tiểu Bình” “Phân tích giai tầng xã hội Trung Quốc đương đại” “Đấu tranh chính trị trong thời đại cải cách mở cửa ở Trung Quốc”, v.v.
Dương Kế Thằng... một nhà báo có gan bằng thép (Tania Branigan, The Guardian) Nguồn ảnh: Adam Dean/Panos |
Cuốn “Bia mộ” bản tiếng Trung được xuất bản năm 2008 ở Hongkong, tại Trung Quốc được liệt vào sách cấm, được giới trí thức ưa chuộng đồng thời tác giả cũng bị theo dõi và gây áp lực. Đấy là một tác phẩm của một trí thức Trung Quốc thực hiện trong hơn 10 năm thu thập tài liệu thực địa, hàng ngàn trang tài liệu của chính Đảng Cộng sản và những cuộc phỏng vấn, ghi chép đầy đủ nhất về giai đoạn cầm quyền của Trung Cộng trong thời gian 1958-1961. “Bia mộ” là cuốn sách điều tra đầy đủ nhất, ghi chép toàn diện nhất về nạn đói lớn dưới thời cai trị của hoàng đế đỏ Mao Trạch Đông với hơn 36 triệu nạn nhân đã chết đói trong giai đoạn này. Điểm chính Dương Kế Thằng đã chứng minh rằng Đảng Công sản, từ trưởng thôn đến Chủ tịch Mao, biết chính xác những gì đang xảy ra nhưng đã quá biến thái vì ý thức hệ để thay đổi chính sách để hàng chục triệu người phải chết. Dương Kế Thằng trong một phỏng vấn với đài RFI đã nói: “Đây không chỉ là một bi kịch của Trung Quốc, nó còn là bi kịch của cả loài người. Bài học này không những cần người Trung Quốc tổng kết nó, mà cả nhân loại cũng cần rút ra bài học, để từ nay trở về sau vĩnh viễn không phát sinh ra thảm kịch tương tự”.
Nguyên bản tiếng Trung gồm hai tập tổng cộng 1800 trang do đó chỉ một phần nhỏ của cuốn “Bia Mộ” sẽ được giới thiệu đến bạn đọc.
Trẻ em đói khát (Thượng Hải) Nguồn ảnh: Topography/ TopFoto |
Chương 1 – Họa từ Trung Nguyên
Tỉnh Hà Nam nằm ở khu vực Trung Nguyên của Trung Quốc. Vào những năm 60 của thế kỷ 20, ngọn cờ đỏ nơi đây được giương cao nhất, “kinh nghiệm” cũng được đưa ra nhiều nhất, nạn đói cũng mười phần nghiêm trọng. Nạn đói ở Hà Nam chính là bắt đầu từ phong trào chính trị. Vào tháng 7 năm 1957 có 7 vạn người bị mang ra đấu tố với tội danh “thành phần phái hữu”, chiếm 15% trên tổng số 55 vạn người trên toàn quốc, cũng chiếm 15% tổng số cán bộ của tỉnh Hà Nam. Tới năm 1958 trong đảng lại triển khai “ phong trào phê bình đấu tranh chống lại phái hữu Phan Dương Vương và bè lũ”. Những phong trào chính trị này tạo nên không khí khủng bố sợ hãi và điên cuồng, tạo nên …cùng sự tàn nhẫn, kéo theo một loạt những thảm kịch về nhân mạng, trong đó có “sự kiện Tín Dương”gây sự chú ý nhiều.
1. Sự kiện Tín Dương
Căn cứ theo lời kể của đặc phái viên được ủy ban giám sát Trung Công Trung Ương (tiền thân của ủy ban kỷ luật đảng hiện nay) phái đi điều tra Hà Nam là Lý Kiên nói với tôi, tỉnh Hà Nam có 3 địa phương có số người chết đói nhiều nhất, một là Tín Dương, hai là Nam Dương, ba là Hứa Xương. Năm đó sự kiện Tín Dương có sức ảnh hưởng lớn nhất, tạo thành chấn động một thời với cái tên “sự kiện Tín Dương”.
Tín Dương nằm ở phía Đông Nam tỉnh Hà Nam, giáp giới với Hiếu Cảm của tỉnh Hồ Bắc, với Hoàng San, An Khánh, Lục An, Phụ Dương của tỉnh An Huy. Vào năm 1958, khu vực Tín Dương bao gồm 18 huyện là Tín Dương, Tức Huyện, Cố Sử, Hoàng Xuyên, Tân Huyện, La Sơn, Hoài Tân, Thương Thành, Quang Sơn, Xác Sơn, Tây Bình, Nhữ Nam, Tân Thái, Tẩm Dương, Toại Bình, Thượng Thái, Bình Dư, Chính Dương và 2 trấn là Tín Dương và Trú Mã Điếm (vào thời điểm đó Trú Mã Điếm là trấn). Toàn khu vực có diện tích 28.000 km2, dân số 8.5 triệu người. Một nửa diện tích khu vực này là lão căn cứ địa Đại Biệt Sơn, Đồng Bách Sơn, trong thời chiến tranh hy sinh khoảng mười mấy vạn người.
Đại Biệt Sơn, Nguồn ảnh: flickr.com |
Năm đó có người già đã nói “đối với đảng cộng sản mà nói, mỗi gốc cây, ngọn cỏ ở Đại Biệt Sơn đều có công lao”. Khu vực này là vùng cung cấp bông và lương thực trọng điểm của tỉnh Hà Nam, còn sản xuất cả trà, gỗ, tre bương, cây trẩu, dược liệu, còn được gọi là xứ giàu cơm cá. Nơi đây còn có khu thắng cảnh Công Kê Sơn nổi tiếng. Người ta thường nói tỉnh Hà Nam có tam dương thái bình (Tín Dương, Nam Dương, Lạc Dương) chính là 3 nới có điều kiện kinh tế tự nhiên tốt nhất Hà Nam. Từ cuối năm 1959 tới mùa xuân năm 1960, có ít nhất 1 triệu người chết đói, chiếm tỉ lệ 1/8 dân số trở lên. Mặt khác trong nhiều năm, sự việc động trời này bị ỉm đi, thời gian đã cách hơn 40 năm mà bên ngoài cũng không biết được sự thật bên trong.
Vào tháng 9 năm 1999, để tìm hiểu chân tướng của “sự kiện Tín Dương”, tôi đã có chuyến đi tới đấy, đi cùng có phóng viên cao cấp của Tân Hoa Xã ở Hà Nam là Cố Nguyệt Trung và phóng viên thường trú Tín Dương của Tân Hoa Xã thời kỳ nạn đói lớn là Lỗ Bảo Quốc (sau này nghỉ hưu ở vị trí chủ tịch ban tuyên truyền của đảng ủy thành phố Trú Mã Điếm). Do mối quan hệ tốt giữa Cố Nguyệt Trung và cán bộ địa phương, thị ủy Tín Dương đối đãi rất nhiệt tình với chúng tôi, nhưng sau khi biết được mục đích chuyến đi của chúng tôi thì cảm thấy rất khó xử, họ bèn đem ban tuyên truyền dẫn chúng tôi đi thăm thú Công Kê Sơn, hy vọng chúng tôi sẽ đi chơi mấy hôm rồi lại quay về. Chúng tôi đi chơi trên núi 1 ngày, hôm sau liền xuống núi, rồi lợi dụng hơn 1 tuần thời gian để hoàn thành nhiệm vụ điều tra tìm hiểu này.
Chúng tôi đã tổ chức một buổi gặp gỡ nói chuyện với những nhân chứng của “Sự kiện Tín Dương” tại khách sạn nơi ở là khách sạn Sư Hà với những nhân vật mấu chốt (những cán bộ đảng ủy cấp xã và cấp huyện lúc đó), sau đó còn xuống tận nơi thăm một số nông dân địa phương. Sau khi quay về Trịnh Châu còn đọc thêm nhiều tài liệu lịch sử liên quan, sau đó đã làm rõ tường tận được tình hình của “sự kiện Tín Dương” khi đó.
a. Những lời hồ ngôn loạn ngữ dưới áp lực chính trị của cấp trên đưa xuống
Với thể chế chính trị như thế ở Trung Quốc: mệnh lệnh được cấp trên ban ra và cấp dưới phải thi hành, cấp trên có tranh chấp chính trị, cấp dưới cũng làm một cuộc đấu tranh chính trị giống y như vậy, càng xuống dưới càng mở rộng, càng tàn khốc. Tỉnh Hà Nam sau khi tổ chức phê đấu “Phan, Dương, Vương” (xem chú thích) liền tổ chức tiếp phong trào chống thành phần phái hữu.
Chúng ta có thể nhìn thấy tính chất tàn khốc của những cuộc phê bình đấu tố chính trị qua huyện Quang Sơn khu vực Tín Dương. Ngày 11 tháng 11 năm 1959, huyện Quang Sơn tổ chức hội nghị đảng ủy mở rộng để phê bình đấu tố một thành viên trong ban bí thư huyện ủy là Trương Phú Hồng. Trương Phú Hồng bị chụp cho 2 cái mũ “phái hữu” và “phần tử thoái hóa biến chất”.
Trên hội nghị đấu tố, Bí thư huyện ủy là Mã Long Sơn đi đầu đá ông Trương 1 cái, quần chúng liền ùn ùn kéo lên, người thì giật tóc, người kéo tai, người thì đạp vào đầu gối. Ngày 12 trên hội nghị huyện ủy mở rộng cũng đấu tố Trương thêm 2 ngày, đánh cho ông ta máu mồm, máu mũi, máu tai chảy cả ra ngoài, tóc thì cũng bị giật mất một mảng, trên người thì bộ quân phục màu vàng bị xé thành từng miếng từng miếng, đi lại rất khó khăn. Sang tới ngày 13 thì lại giao Trương cho cán bộ bên cơ quan huyện ủy tiếp tục đấu tố. Mã Long Sơn trên hội nghị đấu tố lại tiếp tục bạt tai Trương 2 cái, sau khi đấu tố thêm 1 ngày, Trương đã không thể đi lại được nữa. Sang ngày 14 lại tiếp tục đấu tố ở một cơ quan trực thuộc huyện ủy. Ngày 15 lại giao cho các cán bộ công xã tiếp tục đấu tố, lúc này thì Trương chỉ còn có thể bò dài trên đất mà thôi. Những người tham gia đấu tố thì dùng chân đạp, tóc thì từng mảng, từng mảng bị giật mất sạch. Sang ngày 16 lại giao cho công xã đấu tố thêm nửa ngày, lúc này Trương sắp chết, liền được kéo về phòng ở, lúc này đã mất kiểm soát tiểu tiện, đại tiện, không ăn uống được nữa. Sang ngày 17 thì nói rằng Trương đang giả bệnh, lại rồi ra đấu tố lần nữa. Ngày 18 thì nói Trương là thành phần phản động, đang mong chờ Tưởng Giới Thạch quay lại, lại tổ chức cán bộ lôi Trường từ trên giường xuống đất đấu tố tiếp, Trương muốn uống nước cũng không có ai đưa cho uống, sang buổi trưa ngày 19 thì Trương chết.
Theo hồi ức của đặc phái viên khu vực Tín Dương là Trương Thụ Phiên, vào mùa xuân năm 1959, để giải quyết vấn đề nạn đói của nông dân, Mã Long Sơn từng để Trương Phú Hồng đến một đội sản xuất để thí điểm sản xuất khoán cho từng hộ (vào lúc đó ở những nơi khác làm như vậy, Trung Cộng Trung Ương cũng không phê bình). Sau hội nghị Lư Sơn, thì ghép việc khoán sản xuất đến từng hộ vào tội thành phần chủ nghĩa phái hữu. Mã Long Sơn đã không gánh trách nhiệm, lại nói là do Trương tự ý làm. Trương không phục liền nói do bí thư Mã phái anh ta đi làm. Ở dưới chế độ chuyên chế, quan to một cấp có thể ép chết người, sau đó Trương Phú Hồng phải chịu kết cục bi thảm.
Việc đấu tố ở những huyện khác cũng diễn ra rất tàn khốc, ví dụ Tức huyện tổ chức phê bình đấu tố phó bí thư huyện ủy là Phong Bội Nhiên, nói anh ta phủ định đường lối ba ngọn cờ hồng. Bí thư huyện ủy là Từ Tích Lan tổ chức hội nghị đấu tranh phê bình, trên hội nghị thì họ Từ với sung ngắn để bên cạnh, Phong Bội Nhiên đứng ở dưới, có người nắm lấy cổ, có người đấm vào anh ta, có người thì xông vào đạp.
Theo như phó bí thư cấp ủy Tín Dương, đặc phái viên Trương Thụ Phiên nhớ lại, toàn khu có tới 12.000 lượt người bị mang ra đấu tố đánh đập. Dưới áp lực chính trị từ trên đè xuống, cán bộ cấp dưới phải hồ ngôn loạn ngữ nói quàng xiên để thoát tội cho mình.
Vào ngày 8 tháng 6 năm 1958, “Nhân Dân Nhật Báo” cho đăng một bản tin nói rằng đội sản xuất số 2 thuộc công xã nông nghiệp Vệ Tinh huyện Toại Bình trồng tiểu mạch với năng suất bình quân 2015 cân/mẫu (1 cân Tàu bằng 0.5kg). Sau khi tin tức được truyền đi rộng rãi. Ngày 12 tháng 6 thì Nhân Dân Nhật Báo lại đăng thêm một tin tức nữa là phân đội sản xuất số 2 thuộc đội sản xuất số 1 thuộc công xã nông nghiệp Vệ Tinh huyện Toại Bình trồng tiểu mạch với năng suất bình quân là 3530.75 cân. Sang ngày 12 tháng 7, “Nhân Dân Nhật Báo “lại truyền đi bản tin công xã Thành Quan thuộc huyện Tây Bình lại xuất hiện tiểu mạch có năng suất là 7320 cân/mẫu, lại càng được đề cao tuyên truyền điển hình.
3 “ngôi sao sáng” điển hình này đều là tin tức từ Tín Dương, là kết quả của phong trào “chống phái hữu”. Dưới không khí đấu tranh chính trị cao như thế, chỉ cần ai có sự hoài nghi đối với kết quả sản xuất nông nghiệp có sản lượng cao như vậy, ngay lập tức bị chụp ngay cái mũ “vấy bẩn vào điển hình sản xuất tiên tiến” “thành phần thuộc phái hoài nghi”, chỉ cần ai nói việc sản xuất có năng suất cao là giả đều sẽ bị mang ra đấu tố.
Vào năm 1959 ở Tín Dương có nạn hạn hán. Vào thời gian đó toàn quốc đều là một dải nắng nóng, Huyện ủy Tín Dương đề ra khẩu hiệu” Đại hạn được mùa lớn”. Dưới tình huống bị thiên tai rõ ràng như thế, lại nói muốn có sản lượng vượt qua năm 1959. Phó bí thư phụ trách nông nghiệp, đặc phái viên Trương Thụ Phiên vào tháng 8 đã tổ chức hội nghị huyện Tín Dương, muốn mọi người nói ra tình hình thực tế để đánh giá thiệt hại, hiểu biết tình trạng thiên tai, có biện pháp hạn chế thiệt hại, chuyển qua trồng các loại hoa màu khác, dự phòng nạn đói. Sau đó hội nghị xuất hiện các ý kiến khác nhau. Không lâu sau đó, tinh thần hội nghị Lư Sơn quán triệt đưa xuống, áp lực chính trị càng ngày càng lớn, cấp ủy yêu cầu các huyện báo cáo tình hình thu hoạch vụ thu vượt sản lượng. Dưới tình hình này thì sản lượng càng báo lên càng cao, báo cáo sau luôn vượt báo cáo trước, lãnh đạo các huyện không dám báo cáo lên trước tiên, sợ báo cáo ít sẽ bị phê bình. Căn cứ vào hồi ức sau 40 năm của chuyên viên hội nghị lúc đó là Dư Đức Hồng nói với tác giả cuốn sách, ban đầu báo lên là 300 ức cân Tàu - 15 triệu tấn. Lúc đó Trương Thụ Phiên và Khâu Tấn Mẫn hai người không tin là nhiều như vậy, yêu cầu mọi người báo cáo lại, sau đó báo là 7.5 triệu tấn, sau cuối cùng rớt xuống còn 3.6 triệu tấn. Đảng ủy địa phương khi thảo luận thì có 8 trên 9 người trong ban thường vụ cho rằng năm 1959 có sản lượng thu hoạch vượt qua năm 1958. Năm 1958 có sản lượng là 56 ức cân – 2.8 triệu tấn, năm 1959 là 72 ức cân - 3.6 triệu tấn là chuyện rất bình thường. Tuy nhiên Trương Thụ Phiên chỉ tin con số thực vào khoảng 30-40 ức cân – 1.5 tới 2 triệu tấn.
Vào cuối tháng 8 đầu tháng 9, Ủy ban thường vụ tỉnh ủy Hà Nam triệu tập hội nghị mở rộng quán triệt tinh thần hội nghị Lư Sơn, bên Tín Dương do Trương Thụ Phiên dẫn đầu tham gia hội nghị(bí thư đảng ủy địa phương Lộ Hiến Văn không dẫn đầu). Hội nghị vừa mở đầu đã yêu cầu bí thư các nơi báo cáo sản lượng. Trương Thụ Phiên báo cáo với thường vụ con số mà bên đảng ủy địa phương đã thảo luận là 72 ức cân, sau đó lại nói ý kiến của cá nhân mình(khoảng 30-40 ức cân), bên thường vụ tỉnh ủy rất không vừa ý với ý kiến của Trương Thụ Phiên, liền hỏi Lộ Hiến Văn: “bên Tín Dương các anh làm ăn kiểu gì vậy?”. Dưới áp lực của ủy ban thường vụ tỉnh, Lộ Hiến Văn triệu tập hội nghị những cán bộ huyện Tín Dương tham gia hội nghị lần này, những cán bộ này đều cúi đầu không nói gì khi hội nghị bắt đầu, dưới áp lực của Lộ Hiến Văn, có người to gan hỏi lại: “Không phải là lúc ở địa phương đã báo cáo qua rồi à?”. Lộ Hiến Văn nói :”Có người có ý kiến với báo cáo sản lượng ở địa phương”. “Có người” ở đây chính là ám chỉ Trương Thụ Phiên. Tiếp đó, tại hội nghị mở rộng, phải làm theo ý kiến chỉ đạo của tỉnh ủy, muốn mỗi địa phương tìm cho ra điển hình của “phe hữu” vào tiếp tục tiến hành đấu tố. Sau đó triển khai đấu tố với chủ tịch huyện Bình Dư là Tào Minh vì đã nói thật, sau đó bãi miễn chức vụ của Tào Minh.
b. Căn cứ vào những lời hồ ngôn loạn ngữ để xác định chỉ tiêu trưng thu
Những con số không phải là khoe khoang mà có được, chính nông dân là những người phải gánh chịu hậu quả thảm khốc thực tế chứ không phải đám quan chức bàn giấy quan liêu. Báo cáo sản lượng nông nghiệp cao sẽ dẫn tới việc phải trưng thu lương thực cho đủ thành tích. Hà Nam là một trong những tỉnh có sản lượng nông nghiệp đi đầu Trung Quốc, nên áp lực trưng thu đủ chỉ tiêu rất lớn, đối với những địa phương có thể trưng thu được liền trưng thu. Trương Thụ Phiên trong đoạn ghi âm hồi ức này viết lại như sau:
Trong báo cáo của tổ công tác do Trung Ương và tỉnh ủy vào ngày 18 tháng 6 năm 1960 với nhan đề “Báo cáo điều tra về vấn đề tử vong do thiếu lương thực ở khu vực Tin Dương tỉnh Hà Nam” viết chỉ tiêu trưng thu nhỏ hơn số liệu 800 nghìn tấn của Trương Thụ Phiên một chút, nhưng cũng cho rằng chính trưng thu quá nhiều đã đem lại hàng loạt vấn đề nghiêm trọng:Sau hội nghị mở rộng, tôi lãnh nhiệm vụ quay lại địa bàn phụ trách trưng thu lương thực. Tỉnh ủy vẫn căn cứ theo sản lượng vụ thu năm 1958 để làm căn cứ cho chỉ tiêu trưng thu. Khu vực chúng tôi vừa hoàn thành chỉ tiêu 16 ức cân – 800 nghìn tấn, đem cả lương thực khẩu phần của nông dân, lẫn cả thóc giống nộp lên trên, nhiều nơi không còn gì để ăn, bắt đầu xuất hiện nạn đói ở một số nơi. Rất nhiều nhà bếp ở các công xã nông nghiệp không thể nổi lửa vì không có gì cả, nông dân các nơi không còn cách nào khác, ở nhà bắt đầu ăn lá khoai, rau dại trừ bữa.
Năm 1959 khu vực Tín Dương có nạn hạn hán, do đó sản lượng lương thực toàn khu vực chỉ là 32.58 ức cân(1.62 triệu tấn), ít hơn so với sản lượng năm 1958 tới 46.1%, trong lúc đó bên đảng ủy Tín Dương dự báo sản lượng là 64.27 ức cân(3.21 triệu tấn). Tỉnh ủy liền căn cứ vào con số dự báo này đề ra chỉ tiêu trưng thu là 9.6 ức cân(480 nghìn tấn), nhiều hơn con số năm 1958 tới 21500 tấn. Đảng ủy địa khu lại tăng thêm 5% khi giao chỉ tiêu về các huyện, tổng chỉ tiêu trưng thu là 10.49 ức cân(524,500 tấn). Toàn vùng sau khi thu đủ chỉ tiêu, trừ đi số thóc giống, số làm thức ăn chăn nuôi thì chỉ còn lại khẩu phần lương thực trung bình mỗi người trong 1 năm là 164.5 cân thóc (82.25kg), nếu tính mỗi tháng mỗi người ăn hết 35 cân(17.5kg) có thể ăn trong 4 tháng. Vào lúc đó không có lương thực phụ, không có dầu ăn, 35 cân thóc thì quy ra gạo chỉ cỡ 25 cân gì đó (12-13 kg), tức là vào tình trạng nửa no nửa đói. Thêm vào trong vùng có khoảng 1.8 triệu người phải làm các công trình thủy lợi, cũng ăn hết một bộ phận đáng kể lương thực.
Theo điều tra
của tỉnh ủy Hà Nam sau sự kiện Tín Dương: “Vào năm ngoái, tổng sản lượng
lương thực thu hoạch vụ thu của Tín Dương chỉ khoảng hơn 20 ức cân(hơn 1
triệu tấn) nhưng lại nói láo lên thành 64 ức cân(3.2 triệu tấn), trên
tỉnh đưa chỉ tiêu cho Tín Dương trưng thu là 9.6 ức cân(480 nghìn tấn),
lại thêm địa khu, huyện, xã lại tăng thêm chỉ tiêu, làm cho tổng chỉ
tiêu trưng thu nhiều hơn mức của tỉnh đưa xuống ít nhất là 20%. Vào
trung tuần tháng 10, sau khi hoàn thành việc trưng thư được hơn 7 ức
cân(350 nghìn tấn) thì có 3751 nhà ăn tập thể phải ngừng hoạt động
(khoảng 370.000 người), dưới tình hình này lại còn tổ chức hoạt động bố
ráp “chống việc che giấu, không giao nộp lương thực”, cho rằng hiện
tượng cất giấu lương thực ở mức phổ biến, cơ hồ các hợp tác xã, các đội
sản xuất đều có, từ đó tăng cường thêm các hoạt động khám xét, bố ráp,
làm nghiêm trọng thêm tình hình nạn đói.
http://www.youtube.com/watch?v=32KM9JtGFZ0&feature=player_embedded
Năm 1958, Tín Dương tổ chức các đội luyện thép với quy mô 1.2 triệu người, chiếm 30% tổng số lao động toàn vùng. Huyện Thương Thành phao ra tin tức sản lượng luyện thép mỗi ngày đạt tới 6000 tấn, trở thành “ngôi sao sáng”, bộ gang thép liền tổ chức hội nghị ở ngay hiện trường. Lò luyện thép đắp bằng đất thủ công không sản xuất ra được thép, liền lấy nồi niêu nấu ăn của nông dân, các tay nắm trên cửa, chuông đồng trong các đền miếu nấu chảy thành thép phế liệu rồi báo cáo sản lượng lên trên làm tin mừng. Việc luyện thép này đã làm tiêu tốn một lượng lớn lương thực. Với hơn 500 nghìn người làm các trục, con lăn thép, hơn 2 triệu người làm các công trình thủy lợi, số này chỉ việc mở da bụng ra ăn cũng hết một lượng lớn lương thực, số lương thực còn ở các đội sản xuất còn ít hơn nữa.
© DCVOnline
http://www.youtube.com/watch?v=32KM9JtGFZ0&feature=player_embedded
Năm 1958, Tín Dương tổ chức các đội luyện thép với quy mô 1.2 triệu người, chiếm 30% tổng số lao động toàn vùng. Huyện Thương Thành phao ra tin tức sản lượng luyện thép mỗi ngày đạt tới 6000 tấn, trở thành “ngôi sao sáng”, bộ gang thép liền tổ chức hội nghị ở ngay hiện trường. Lò luyện thép đắp bằng đất thủ công không sản xuất ra được thép, liền lấy nồi niêu nấu ăn của nông dân, các tay nắm trên cửa, chuông đồng trong các đền miếu nấu chảy thành thép phế liệu rồi báo cáo sản lượng lên trên làm tin mừng. Việc luyện thép này đã làm tiêu tốn một lượng lớn lương thực. Với hơn 500 nghìn người làm các trục, con lăn thép, hơn 2 triệu người làm các công trình thủy lợi, số này chỉ việc mở da bụng ra ăn cũng hết một lượng lớn lương thực, số lương thực còn ở các đội sản xuất còn ít hơn nữa.
© DCVOnline
DCVOnline: Dương Kế Thằng (Yang Jisheng), Mộ Bia (Mubei), Hà Nam (Henan), Tín Dương (Xinyang), Nam Dương (Nanyang), Hứa Xương (Xuchang), Hồ Bắc (Hubei), Hiếu Cảm (Xiao Gan), An Huy (Anhui), An Khánh (Anqing), Phụ Dương (Fuyang), Lục An (Lu’an), Hoàng San (Huangshan), Đại Biệt Sơn (Dabie Shan)
Chiến tranh Việt Nam
Trang này tập hợp tất cả các bài viết về Chiến tranh Việt Nam đã đăng trên báo Der Spiegel và báo Die Zeit do Phan Ba dịch, theo thứ tự thời gian.1968
Có thể tải toàn bộ những bài viết về Chiến tranh Việt Nam trên báo Der Spiegel năm 1968 dưới dạng pdf ở trang Tủ sách Phan Ba
Khi mùa mưa đến: Khe Sanh, 1968Giới hạn của quyền lực: cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968
Những tội phạm dũng cảm (phần 1, phần 2, hết): Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 và tổng quan về cuộc chiến cho tới thời điểm đó.
Sau bảy giờ chỉ còn được phép chết: Phóng sự về Sài Gòn trong Tết Mậu Thân
Chết sau những bồn hoa: Cuộc tấn công vào Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn trong Tết Mậu Thân
Cố gắng cuối cùng: Tường thuật của biên tập viên báo Spiegel từ Huế trong thời gian Tết Mậu Thân
Giết chết lòng nhân đạo: về việc bốn bác sĩ người Đức ở Đại học Huế bị giết chết trong thời gian Tết Mậu Thân
Hai chiếc xe tăng trên nóc hầm: Trận đánh chiếm căn cứ Lang Vei của Mỹ
Một Verdun ở Việt Nam: SPIEGEL phỏng vấn nhà chiến lược của Điện Biên Phủ, tướng Rene Cogny, về Khe Sanh
“Thần Chiến tranh giúp những người Cộng Sản”: Mậu Thân và những tuần sau đó
Thời điểm thử thách của Hoa Kỳ
Tìm Việt Cộng bằng que dò mạch nước: Trận đánh ở Huế, cái vào lúc ban đầu được tiến hành với một đại đội, cuối cùng kéo dài gần bốn tuần và người ta đã phải sử dụng đến tất cả các cỡ hỏa lực có được ở Việt Nam.
Chết ở Việt Nam vì độc giả: về những ký giả đã chết tại Việt Nam
Không đủ lính: “… Tướng Westmoreland, muốn tăng cường cho đội quân viễn chinh Mỹ thêm 206.000 người lên khoảng ba phần tư triệu lính. Nhưng Johnson không có 206.000 người lính…”
Con đường đi lên của Westmoreland
Còn phải đổ nhiều máu: Không chỉ những kẻ phá hoại ở cả hai bên, cả những mục đích đàm phán trái ngược nhau của các bên cũng khiến cho người ta lo ngại rằng sẽ còn đổ nhiều máu nữa ở Việt Nam.
Ở bất kỳ nơi nào và không ở đâu cả: Hà Nội liên kết Genève với những hồi tưởng đen tối như người Mỹ với Kaesong: từ lần chia cắt được quyết định ở Genève năm 1954, Hồ Chí Minh có cảm giác bị cuỗm mất lần chiến thắng người Pháp của mình.
Quyền lực và đạo đức
Cuộc chiến nhỏ của người Bắc Việt ở Paris: từ hơn hai mươi năm nay, Hồ Chí Minh của Hà Nội đã phải chịu đựng lần chấn thương vì đã thua mất trên bàn đàm phán những gì mà ông ấy đã thắng được trên chiến trường, hay là đã bị các đối thủ chơi xỏ.
Những tiếng hô Hồ Chí Minh: Trong những ngày đầu tiên đến Paris, người Việt Nam đã ngửi hơi cay trong phòng của họ mặc cho mọi sự bảo vệ, nhưng hơi cay không phải là dành cho họ.
Thuyết dẫn đường sai lầm trong chính trị của Hoa Kỳ (phần 1, hết): Phân tích Thuyết Domino
Việt Cộng dư thừa vũ khí:Tờ “Figaro” ở Paris tường thuật rằng quân đội Đồng minh đã phát hiện thấy “vũ khí dư thừa” trong tuần vừa rồi vào lúc bắt được lính Việt Cộng – nhiều đến mức ví dụ Biệt Động Quân Nam Việt Nam đã chiến đấu chống lại những người anh em đỏ với vũ khí chiến lợi phẩm đỏ.
Những dấu hiệu nhỏ bé của hòa bình: Từ khi bàn về hòa bình thì cuộc chiến lại càng ác liệt hơn nữa.
Chiến tranh ác liệt hơn trước: Những người lính thủy quân lục chiến mệt mỏi cho nổ tung các công sự mà ở trong đó họ đã sống sót qua được những loạt đạn đại bác bắn liên hồi của quân địch 77 ngày. Họ san phẳng những con hào và phá hủy đường băng, cái nhiều tuần liền là dãy kết nối duy nhất của họ ra thế giới bên ngoài.
Cuộc chiến tranh ném bom của Mỹ: Gần 120.000 lần trong vòng ba năm rưỡi, các “Giôn xơn” (Johnsons) – như nông dân Bắc Việt gọi máy bay chiến đấu Mỹ – đã bay để đánh phá nước cộng hòa của Hồ Chí Minh.
Vào Dinh Độc Lập sau nửa đêm: Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker đã đến gặp Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu trong Dinh Độc Lập ở Sài Gòn mười lần trong vòng hai tuần.
Bốn sự công bằng: Nguyễn Cao Kỳ, phó Tổng Thống cứng rắn của Nam Việt Nam, tỏ ra khiêm tốn. “Chúng tôi không yêu cầu phía bên kia đầu hàng, mà chỉ yêu cầu công bằng và lý trí phải chiến thắng”, ông ấy nói lúc đến Paris.
Chiến tranh và tham nhũng ở Việt Nam (phần 1, phần 2, phần 3, phần 4, hết): Kẻ thù nguy hiểm nhất của Mỹ ở Việt Nam là tham nhũng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét