Trong khi đảng “ta” tha thiết quan hệ 2 đảng là “di sản ngàn đời”…
Trung Quốc định khai thác triệt để tài nguyên ở cái gọi là “thành phố Tam Sa”
Linh Phương (Petrotimes) Chủ
tịch tỉnh Hải Nam Trung Quốc Jiang Dingzhi vừa ngang nhiên cho biết các
kế hoạch mới được công bố của tỉnh sẽ tăng cường quy hoạch cơ sở hạ
tầng để khai thác triệt để các nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có ở cái gọi là “thành phố Tam Sa” mà Trung Quốc đã lập nên trái phép hồi tháng 7/2012.
Trước đó, hồi tháng 9, giới chức ở cái gọi là “thành phố Tam Sa” đã vạch kế hoạch phát triển 4 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện chương trình xây dựng nhà ở tại “thành phố” phi pháp này.
Các dự án này bao gồm việc xây dựng (trái phép) hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa – nơi đặt trụ sở của cái gọi là “thành phố Tam Sa” phi pháp.
Theo kế hoạch nói trên, 7 con đường với tổng chiều dài 5km sẽ được cải tạo hoặc xây dựng mới để cải thiện tình hình giao thông trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa.Bên cạnh đó, Trung Quốc sẽ xây dựng (trái phép) một nhà máy lọc nước khử muối có khả năng xử lý 1.000 m3 nước biển/ngày trên đảo để đảm bảo nguồn cung cấp nước ngọt cho lực lượng công vụ (quân sự, cảnh sát, hải giám, ngư chính, công chức…) và những ngư dân đang sinh sống, đồn trú trái phép tại đảo Phú Lâm.
Ngoài ra, các dự án cũng bao gồm việc xây dựng (trái phép) các công trình giao thông nối kết các đảo, xây một bến tàu và xây dựng phát triển đảo Cây, cũng thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đồng thời triển khai chương trình xây dựng nhà ở với tổng vốn đầu tư 2.970.000USD.
“Chúng tôi sẽ đẩy nhanh các dự án xây dựng ở (cái gọi là – PV) “Tam Sa” trong các lĩnh vực bao gồm cả giao thông, viễn thông, cung cấp điện nước, hậu cần và xử lý nước thải”, Jiang tuyên bố.
Theo Jiang, tỉnh Hải Nam cũng sẽ ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển nguồn lực. Ngoài ra, tỉnh cũng sẽ tiếp tục hỗ trợ phát triển các ngành thủy sản, du lịch, dầu mỏ và khí đốt.
Đây là những hành động ngang ngược của Trung Quốc tiếp nối một loạt các hoạt động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Linh Phương
Trụ sở của cái gọi là “thành phố Tam Sa” phi pháp
được đặt ở đảo Phú Lâm,
Theo Tân hoa xã ngày 26/10, tuyên bố trên được ông Jiang đưa ra tại một hội nghị về khai thác đại dương được tổ chức mới đây.
thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Trước đó, hồi tháng 9, giới chức ở cái gọi là “thành phố Tam Sa” đã vạch kế hoạch phát triển 4 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện chương trình xây dựng nhà ở tại “thành phố” phi pháp này.
Các dự án này bao gồm việc xây dựng (trái phép) hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa – nơi đặt trụ sở của cái gọi là “thành phố Tam Sa” phi pháp.
Theo kế hoạch nói trên, 7 con đường với tổng chiều dài 5km sẽ được cải tạo hoặc xây dựng mới để cải thiện tình hình giao thông trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa.Bên cạnh đó, Trung Quốc sẽ xây dựng (trái phép) một nhà máy lọc nước khử muối có khả năng xử lý 1.000 m3 nước biển/ngày trên đảo để đảm bảo nguồn cung cấp nước ngọt cho lực lượng công vụ (quân sự, cảnh sát, hải giám, ngư chính, công chức…) và những ngư dân đang sinh sống, đồn trú trái phép tại đảo Phú Lâm.
Ngoài ra, các dự án cũng bao gồm việc xây dựng (trái phép) các công trình giao thông nối kết các đảo, xây một bến tàu và xây dựng phát triển đảo Cây, cũng thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đồng thời triển khai chương trình xây dựng nhà ở với tổng vốn đầu tư 2.970.000USD.
“Chúng tôi sẽ đẩy nhanh các dự án xây dựng ở (cái gọi là – PV) “Tam Sa” trong các lĩnh vực bao gồm cả giao thông, viễn thông, cung cấp điện nước, hậu cần và xử lý nước thải”, Jiang tuyên bố.
Theo Jiang, tỉnh Hải Nam cũng sẽ ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển nguồn lực. Ngoài ra, tỉnh cũng sẽ tiếp tục hỗ trợ phát triển các ngành thủy sản, du lịch, dầu mỏ và khí đốt.
Đây là những hành động ngang ngược của Trung Quốc tiếp nối một loạt các hoạt động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Linh Phương
Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng trái phép hạ tầng ở Hoàng Sa
Văn Khoa (TNO) -
Tân Hoa xã hôm nay 26.10 đưa tin giới chức tỉnh Hải Nam (Trung Quốc)
vừa thông báo kế hoạch tăng tốc xây dựng cơ sở hạ tầng ở cái gọi là
“TP.Tam Sa”.
Trung Quốc ngang nhiên lập ra “TP.Tam Sa” tại đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa (Việt Nam) hồi tháng 7 để tự cho mình quyền quản lý cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Chủ tịch tỉnh Hải Nam Tưởng Định Chi ngày 25.10 lên giọng nhấn mạnh: “Chúng tôi sẽ đẩy mạnh các dự án xây dựng giao thông, viễn thông, nước, cung cấp điện, hậu cần và xử lý chất thải”.
Cũng theo ông Tưởng, chính quyền Hải Nam sẽ ưu tiên xây dựng các cơ
sở phục vụ việc khai thác tài nguyên, đồng thời hỗ trợ phát triển ngành
thủy sản, du lịch và ngành dầu khí.
Đây là hành động mới nhất nằm trong ý đồ hợp lý hóa cái gọi là “TP.Tam Sa”.
Trụ sở “TP.Tam Sa” do Trung Quốc xây phi pháp
trên đảo Phú Lâm (thuộc Hoàng Sa của Việt Nam) – Ảnh: AFP
Trước đó, Trung Quốc ngang nhiên tổ chức lễ kéo cờ kỷ niệm Quốc
khánh tại đảo Phú Lâm, tổ chức diễn tập tại khu vực vùng biển Hoàng Sa
hay lập Phòng khí tượng trên đảo Phú Lâm…
Ngày 11.10, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị
nêu rõ: “Những hoạt động nói trên của phía Trung Quốc xâm phạm nghiêm
trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa”.
*
2012-10-26Một nhóm học giả Trung Quốc và Đài Loan chuẩn bị nghiên cứu
về đường lưỡi bò với mục đích đưa ra cơ sở pháp lý cho tuyên bố chủ
quyền của mình.
Liệu đây sẽ là một trong những bước đầu tiên để Bắc Kinh và Đài Bắc hợp tác sâu hơn trên Biển Đông? Quỳnh Chi hỏi chuyện ông Dean Cheng, chuyên gia về Biển Đông tại Quỹ Heritage, Washington D.C.
Trước tiên, trả lời câu hỏi “Liệu nghiên cứu này sẽ là một dấu hiệu tích cực?” ông cho biết:
Dean Cheng: Đàm phán nào cũng đều có lợi cả. Bản thân tôi không nghĩ là việc làm này của nhóm có thể mang lại kết quả nào nhưng nói chung trao đổi, đàm phán thì không bao giờ có hại cả.
Quỳnh Chi: Cho đến bây giờ cộng đồng quốc tế cũng không chắc chắn về định nghĩa đường lưỡi bò của Trung Quốc. Ông có nghĩ là nghiên cứu này sẽ đưa ra một định nghĩa rõ ràng hơn?
Dean Cheng: Quan điểm của Trung Quốc về đường lưỡi bò luôn khác nhau. Quan điểm chính phủ Trung Quốc thay đổi bất kể đó là tuyên bố về lịch sử, tuyên bố về lãnh hải hay tuyên bố chủ quyền. Nếu mà kết quả của nhóm nghiên cứu này trùng với quan điểm của chính phủ thì nó sẽ làm rõ nhiều thứ bất kể là về lịch sử hay luật pháp. Nhưng câu hỏi tôi đặt ra là nghiên cứu có thực sự có kết quả hay không và cũng không biết phía chính phủ có chấp nhận kết quả nghiên cứu này không.
Quỳnh Chi: Nhiều người quan ngại rằng đây là một trong những bước khởi đầu để Bắc Kinh và Đài Bắc có những hợp tác sâu hơn trên Biển Đông, ý ông thế nào?
Dean Cheng: Dĩ nhiên là có thể. Vấn đề là có nhiều nước tuyên bố chủ quyền trong đó có cả Trung Quốc và Đài Loan. Mặc dù Bắc Kinh và Đài Loan có những vấn đề riêng, đối với vấn đề Biển Đông, hai nước này có quan điểm và ở một cái thế khá giống nhau xét về tuyên bố lãnh hải. Cho đến giờ phút này thì Trung Quốc và Đài Loan càng có một quan điểm nhất quán về Biển Đông. Các nước như Việt Nam, Philippines, Brunei… có thể có cảm giác rằng họ đang đối đầu với một khối hơn là một nước. Nếu Trung Quốc và Đài Loan hợp tác về mặt chính trị và ngoại giao thì việc này hiểu được. Còn hợp tác quân sự thì là một chuyện khác. Tôi không nghĩ là có ai đó có thể nói rằng Trung Quốc sẽ cho tàu sửa chữa và tiếp nhiên liệu ở các cảng Đài Loan.
Quỳnh Chi: Giả dụ rằng Đài Loan và Trung Quốc sẽ hợp tác sâu rộng hơn trên Biển Đông, liệu nó có gây ra bất lợi nào cho phía Đài Loan?
Dean Cheng: Dĩ nhiên là nó sẽ tạo ra một vấn đề khá thú vị liên quan đến Hoa Kỳ. Mọi người cũng thấy đấy, việc Đài Loan gởi tàu ra phía Bắc đảo Điếu Ngư làm Hoa Kỳ phản ứng mạnh mẽ. Nói về vấn đề Biển Đông, Hoa Kỳ cũng nhiều lần nói rằng nước này không đứng về phía nào và muốn một giải pháp hòa bình và đảm bảo tự do hàng hải. Nếu mà tàu của Đài Loan xâm phạm lãnh hải của Việt Nam hay Philippines chẳng hạn thì đó là lúc nước này gặp rắc rối với Hoa Kỳ.
Quỳnh Chi: Trở lại công tác nghiên cứu của nhóm học giả Trung Quốc và Đài Loan thưa ông, dư luận nên nhìn nhận hoạt động này như thế nào? Ý tôi là xem nó như một hoạt động tư nhân hay của chính phủ?
Dean Cheng: Tôi không có danh sách những nhân vật trong nhóm nghiên cứu này. Nhưng đối với phía Đài Loan thì những hoạt động, hội thảo như thế này thường là từ những nhóm tư nhân. Nói về phía Trung Quốc thì càng khó biết. Nếu những học giả đó nằm trong các viện chính sách hay các trường đại học thì ắt hẳn là có liên quan đến chính phủ. Không có một viện chính sách (think tank) độc lập nào ở Trung Quốc; tất cả phải liên quan đến các bộ, ngành. Về một mức độ nào đó, nghiên cứu cũng có thể làm cho chính phủ nhận thức vấn đề.
Mục đích của nhóm nghiên cứu
Quỳnh Chi: Ông có đoán được mục đích chính của nhóm nghiên cứu này?
Dean Cheng: Tôi nghĩ là Trung Quốc đang có hai mục đích. Thứ nhất là tìm những điểm chung với Đài Loan trong vấn đề lãnh hải nhằm tăng cường tuyên bố chủ quyền của mình ở đường lưỡi bò. Cho đến bây giờ thì tôi nghĩ là Trung Quốc có thể làm Đài Loan công nhận là đường lưỡi bò có trước năm 1949 – là năm mà Đài Loan dựa vào để tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Nếu việc này thành công thì Trung Quốc càng mạnh mẽ hơn trong tuyên bố chủ quyền của mình. Thứ hai là nghiên cứu các khía cạnh luật pháp để hỗ trợ cho tuyên bố của mình. Tôi muốn nói rằng Trung Quốc sẽ tuyên bố chủ quyền dựa vào luật pháp theo cách hiểu rất “đặc biệt” của Bắc Kinh về luật biển. Theo đó, Bắc Kinh xem vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác cũng là lãnh hải cũng họ.
Quỳnh Chi: Cuối cùng thưa ông, liệu kết quả nghiên cứu này có ảnh hưởng gì đến lập trường của quốc tế về đường lưỡi bò?
Dean Cheng: Cộng đồng quốc tế thường xuyên lặp lại yêu cầu của mình là Trung Quốc phải giải thích ý nghĩa của đường lưỡi bò. Và tại các địa điểm và thời điểm khác nhau thì Trung Quốc đưa ra giải thích khác nhau. Nếu hiểu một cách chung chung thì Trung Quốc cho rằng chủ quyền lãnh hải của mình nằm trong đường lưỡi bò. Bất kể là kết quả nghiên cứu như thế nào, tôi không nghĩ là cộng đồng quốc tế sẽ chấp nhận nó một cách dễ dàng. Nói chung, tôi vẫn nghĩ là mục đích của nghiên cứu này chỉ nhằm làm Bắc Kinh và Đài Bắc xích lại gần nhau hơn trong vấn đề Biển Đông.
Quỳnh Chi: Xin cám ơn ông.
Trong cuộc họp báo hôm 23 tháng 10, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, ông Ngô Sĩ Tồn công bố rằng mục đích của nghiên cứu này là nhằm giải thích đường lưỡi bò trên cơ sở pháp lý. Dự tính, nghiên cứu này sẽ được thực hiện trong vòng 1 năm. Theo giới quan sát, quan điểm của cả Trung Quốc và Đài Loan là Biển Đông thuộc về “người Trung Quốc”.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/cn-tw-research-u-shape-is-reliable-qc-10262012125421.html
Ông T.Friedman và ông Mahbubani
Ông Daniel Bell
Tập Cận Bình. Người thống trị hơn một tỷ dân Trung Quốc
J.Kowalska-Iszkowska, Newsweek
Bản Việt ngữ © 2012 Lê Diễn Đức
—————————————————-
KBC chính là “con cưng” của ông “nghị” Đặng Thành Tâm.==>>>
Báo cáo tài chính hợp nhất 6 tháng đầu năm 2012 của KBC có nêu: Doanh thu của công ty vỏn vẹn chỉ có 175 tỷ đồng, giảm hơn 50% so với năm trước. Trong khi đó chi phí lãi vay lên tới 158 tỷ đồng. Trước đó, năm 2011 lợi nhuận sau thuế của KBC chỉ đạt 35 tỷ đồng, giảm rất mạnh so với năm trước đó. Hiện tại, tình trạng tài chính của KBC đang rất bấp bênh khi nợ vay của công ty lên đến gần 4.000 tỷ đồng, hàng tồn kho gần 6.000 tỷ đồng. Với bối cảnh thị trường bất động sản hiện nay thì chắc chắn KBC sẽ còn phải gánh chịu không ít khó khăn phía trước.
Và điều này cũng được khẳng định trong văn bản số 175/2012/KBC/CBTT ngày 7/9/2012, gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước giải trình về kết quả kinh doanh công ty mẹ và hợp nhất sau xét toán 6 tháng đầu năm 2012, đại diện của KBC có nêu: Lợi nhuận sau thuế của Công ty mẹ là âm 12,24 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế của Tổng công ty khi hợp nhất là âm 124,63 tỉ đồng.
Mặc dù kết quả kinh doanh của các công ty mà ông Đặng Thành Tâm làm Chủ tịch HĐQT hoặc Tổng giám đốc là rất bết bát nhưng theo thông tin từ NHNN thì đó chưa phải là tất cả. Cụ thể, theo bà Nguyễn Thị Phụng – Phó Vụ trưởng vụ I Thanh tra, giám sát NHNN, sau khi có kết luận thanh tra, NHNN đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, xử lý những vi phạm của ông Đặng Thành Tâm và những người liên quan có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Và theo nguồn tin riêng của Petrotimes thì, sai phạm của ông Đặng Thành Tâm và những người liên quan cũng được xác định trị giá có thể lên tới 3.324,258 tỉ đồng. “Quả bom” này được ông Đặng Thành Tâm cũng những người liên quan “chế tạo” thông qua việc mua bất động sản không công chứng, không đầy đủ yếu tố pháp lý như Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở không qua công chứng; giá thỏa thuận không qua Hội đồng Thẩm định giá;…
Như Petrotimes đã phản ánh trong bài “Trận đồ bát quái” thị trường tài chính – ngân hàng, “ẩn hoạ” từ việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng và mối quan hệ chặt chẽ hơn mức bình thường giữa doanh nghiệp và ngân hàng dưới sự chi phối của một cá nhân hay một nhóm lợi ích sẽ gây ra nhiều bất ổn cho nền kinh tế. Với những thông tin xoay quanh hoạt động kinh doanh của ông Đặng Thành Tâm và các ngân hàng mà ông hoặc người thân của ông nắm quyền chi phối thì khoản tiền hơn 3.300 tỉ đồng trên hoàn toàn có thể bốc hơi bởi phần lớn khoản tiền này đã được thực hiện trái với quy định của pháp luật hoặc được dùng sai mục đích.
Navibank không thể thu hồi số tiền trên cũng đồng nghĩa với việc ông Đặng Thành Tâm sẽ trở thành “con nợ”. Khả năng này xem ra là rất cao khi mà trong những ngày gần đây, giá trị cổ phiếu của các công ty do mà ông Đặng Thành Tâm nắm giữ liên tục sụt giảm bởi cả nhà đầu tư trong và ngoài nước đều thấy “ghê tay”. Trong khi đó, thị trường bất động sản liên tục tụt dốc, hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ, ế ẩm khiến lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản hoặc tạm ngừng sản xuất tăng cao sẽ khiến khả năng thu hồi khoản tiền trên là rất thấp.
Nhóm Phóng viên Petrotimes
Hai cái tên Nguyễn Đức Kiên, Dương Chí Dũng và vấn đề lợi ích nhóm trong giới nhà băng, quả nhiên trở thành chủ đề nóng khi các vị đại biểu QH thảo luận về công tác phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm.
Điều này không lạ. Chính Bộ trưởng Trần Đại Quang, trong báo cáo trình Quốc hội hồi đầu tuần, đã đưa ra con số tổn thất “hàng ngàn tỷ đồng” mà tội phạm kinh tế, tài chính, ngân hàng đã gây ra với những hành vi hết sức nghiêm trọng “lừa đảo, làm hồ sơ giả, móc nối với cán bộ ngân hàng để chiếm đoạt, huy động vốn của nhiều doanh nghiệp” làm ảnh hưởng đến hệ thống tài chính tiền tệ cũng như niềm tin của nhân dân.
Nhưng tội phạm ngân hàng không đơn thuần chỉ là việc giám đốc ngân hàng
ôm tiền bỏ trốn, không thô thiển là những vụ việc đại loại “nhân viên
ngân hàng thâm quỹ 47 tỷ để cá độ” vẫn xuất với tần xuất ngày càng dày
đặc trên các báo. Bởi vấn đề lớn nhất ẩn sau những cây cột bức tường
thâm nghiêm và kiên cố của nhà băng, là vấn đề lợi ích nhóm.
Bầu Kiên, với tội danh “kinh doanh trái phép”, cựu Bộ trưởng Trần Xuân Giá, cha đẻ của Luật Doanh nghiệp, bị khởi tố về hành vi cố ý làm trái có lẽ chỉ là một ví dụ trong tình trạng “đúng sai bất phân, thật giả khó lường”. Xử lý những vụ như vậy, cái khó, có lẽ không đơn thuần chỉ là việc chứng minh tội phạm, mà ở vấn đề quan hệ, vấn đề lợi ích nhóm. Huống chi trong thực tế, tồn tại phổ biến tình trạng mà ĐBQH Đỗ Văn Đương gọi là “Hành chính hóa, nội bộ hóa các vụ tham nhũng”.
Hôm qua, nhóm lợi ích đã lại được nhắc đến trong các phát biểu. ĐBQH Nguyễn Văn Giàu nói về nhóm lợi ích như sau: Lần đầu tiên tại hội nghị TƯ 4, Tổng bí thư công khai thực tế nước ta có nhóm lợi ích… Tuy nhiên, báo cáo của các cơ quan tư pháp với QH đánh giá về nhóm lợi ích chưa đủ “độ”.Thực ra, nói “chưa đủ độ” là một cách nhìn nhận rất lạc quan, bởi chính ông Giàu, ngay sau đó đã đề nghị “Cần nhận diện nhóm lợi ích nằm ở đâu, ở chỗ nào”. Một ví dụ được ông Giàu đưa ra chính là vụ bầu Kiên “Tại sao không đánh giá đầy đủ hơn? Chúng ta biết lâu chưa, tại sao bây giờ mới xử?
ĐBQH Phan Trung Lý thì nói “người dân đặt câu hỏi”: Dương Chí Dũng bỏ trốn, người dân đặt ngay câu hỏi, vì sao trốn được.
Ông Nguyễn Văn Giàu nguyên là Thống đốc Ngân hàng nhà nước, hiện đang đảm nhiệm chức vụ Ủy ban Kinh tế. Còn ông Phan Trung Lý, đang đương chức Chủ nhiệm UB Pháp luật của Quốc hội.
Những điều mà các vị ĐBQH nghĩ, cũng chính là những điều mà người dân đang suy nghĩ, bức xúc. Những câu hỏi mà các vị đặt ra, xin cảm ơn, cũng chính là những câu hỏi của những người dân thấp cổ bé họng.
Nhưng nếu một cựu thống đốc, một Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế còn chưa nhận diện được “lợi ích nhóm”, kể cả lợi ích nhóm trong lĩnh vực ông từng làm “tư lệnh”, thì làm sao người dân có thể biết nó là ai, ở đâu. Nếu một vị Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật còn chưa biết vì sao Dương Chí Dũng có thể bỏ trốn thì chẳng lẽ người dân lại có thông tin để giải tỏa thắc mắc. Có lẽ vấn đề lớn nhất tại buổi thảo luận tại Quốc hội, về tội phạm, là các đại biểu QH, dù thảo luận, nhưng không có thông tin, ngoài ý kiến và những câu hỏi mà người dân đã nêu ra.
Nếu “thảo luận” là làm rõ thực trạng để tìm ra giải pháp, thì hôm qua, ở Quốc hội, thực trạng tồn tại dưới dạng những câu hỏi. Liệu người chiến sĩ ra chiến trường tay không tấc sắt, không biết kẻ địch là ai, đang trốn ở đâu, thì có bảo vệ được nhân dân, và chính bản thân mình?
Đào Tuấn
(Blog ĐT)
* Minh Diện
“Không gì lãi bằng buôn vua và không gì chết nhanh bằng buôn vua”.
Bản đồ đường lưỡi bò -
Photo courtesy of Us Defense Department Trước tiên, trả lời câu hỏi “Liệu nghiên cứu này sẽ là một dấu hiệu tích cực?” ông cho biết:
Dean Cheng: Đàm phán nào cũng đều có lợi cả. Bản thân tôi không nghĩ là việc làm này của nhóm có thể mang lại kết quả nào nhưng nói chung trao đổi, đàm phán thì không bao giờ có hại cả.
Quỳnh Chi: Cho đến bây giờ cộng đồng quốc tế cũng không chắc chắn về định nghĩa đường lưỡi bò của Trung Quốc. Ông có nghĩ là nghiên cứu này sẽ đưa ra một định nghĩa rõ ràng hơn?
Dean Cheng: Quan điểm của Trung Quốc về đường lưỡi bò luôn khác nhau. Quan điểm chính phủ Trung Quốc thay đổi bất kể đó là tuyên bố về lịch sử, tuyên bố về lãnh hải hay tuyên bố chủ quyền. Nếu mà kết quả của nhóm nghiên cứu này trùng với quan điểm của chính phủ thì nó sẽ làm rõ nhiều thứ bất kể là về lịch sử hay luật pháp. Nhưng câu hỏi tôi đặt ra là nghiên cứu có thực sự có kết quả hay không và cũng không biết phía chính phủ có chấp nhận kết quả nghiên cứu này không.
Quỳnh Chi: Nhiều người quan ngại rằng đây là một trong những bước khởi đầu để Bắc Kinh và Đài Bắc có những hợp tác sâu hơn trên Biển Đông, ý ông thế nào?
Dean Cheng: Dĩ nhiên là có thể. Vấn đề là có nhiều nước tuyên bố chủ quyền trong đó có cả Trung Quốc và Đài Loan. Mặc dù Bắc Kinh và Đài Loan có những vấn đề riêng, đối với vấn đề Biển Đông, hai nước này có quan điểm và ở một cái thế khá giống nhau xét về tuyên bố lãnh hải. Cho đến giờ phút này thì Trung Quốc và Đài Loan càng có một quan điểm nhất quán về Biển Đông. Các nước như Việt Nam, Philippines, Brunei… có thể có cảm giác rằng họ đang đối đầu với một khối hơn là một nước. Nếu Trung Quốc và Đài Loan hợp tác về mặt chính trị và ngoại giao thì việc này hiểu được. Còn hợp tác quân sự thì là một chuyện khác. Tôi không nghĩ là có ai đó có thể nói rằng Trung Quốc sẽ cho tàu sửa chữa và tiếp nhiên liệu ở các cảng Đài Loan.
Quỳnh Chi: Giả dụ rằng Đài Loan và Trung Quốc sẽ hợp tác sâu rộng hơn trên Biển Đông, liệu nó có gây ra bất lợi nào cho phía Đài Loan?
Dean Cheng: Dĩ nhiên là nó sẽ tạo ra một vấn đề khá thú vị liên quan đến Hoa Kỳ. Mọi người cũng thấy đấy, việc Đài Loan gởi tàu ra phía Bắc đảo Điếu Ngư làm Hoa Kỳ phản ứng mạnh mẽ. Nói về vấn đề Biển Đông, Hoa Kỳ cũng nhiều lần nói rằng nước này không đứng về phía nào và muốn một giải pháp hòa bình và đảm bảo tự do hàng hải. Nếu mà tàu của Đài Loan xâm phạm lãnh hải của Việt Nam hay Philippines chẳng hạn thì đó là lúc nước này gặp rắc rối với Hoa Kỳ.
Quỳnh Chi: Trở lại công tác nghiên cứu của nhóm học giả Trung Quốc và Đài Loan thưa ông, dư luận nên nhìn nhận hoạt động này như thế nào? Ý tôi là xem nó như một hoạt động tư nhân hay của chính phủ?
Dean Cheng: Tôi không có danh sách những nhân vật trong nhóm nghiên cứu này. Nhưng đối với phía Đài Loan thì những hoạt động, hội thảo như thế này thường là từ những nhóm tư nhân. Nói về phía Trung Quốc thì càng khó biết. Nếu những học giả đó nằm trong các viện chính sách hay các trường đại học thì ắt hẳn là có liên quan đến chính phủ. Không có một viện chính sách (think tank) độc lập nào ở Trung Quốc; tất cả phải liên quan đến các bộ, ngành. Về một mức độ nào đó, nghiên cứu cũng có thể làm cho chính phủ nhận thức vấn đề.
Mục đích của nhóm nghiên cứu
Quỳnh Chi: Ông có đoán được mục đích chính của nhóm nghiên cứu này?
Dean Cheng: Tôi nghĩ là Trung Quốc đang có hai mục đích. Thứ nhất là tìm những điểm chung với Đài Loan trong vấn đề lãnh hải nhằm tăng cường tuyên bố chủ quyền của mình ở đường lưỡi bò. Cho đến bây giờ thì tôi nghĩ là Trung Quốc có thể làm Đài Loan công nhận là đường lưỡi bò có trước năm 1949 – là năm mà Đài Loan dựa vào để tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Nếu việc này thành công thì Trung Quốc càng mạnh mẽ hơn trong tuyên bố chủ quyền của mình. Thứ hai là nghiên cứu các khía cạnh luật pháp để hỗ trợ cho tuyên bố của mình. Tôi muốn nói rằng Trung Quốc sẽ tuyên bố chủ quyền dựa vào luật pháp theo cách hiểu rất “đặc biệt” của Bắc Kinh về luật biển. Theo đó, Bắc Kinh xem vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác cũng là lãnh hải cũng họ.
Quỳnh Chi: Cuối cùng thưa ông, liệu kết quả nghiên cứu này có ảnh hưởng gì đến lập trường của quốc tế về đường lưỡi bò?
Dean Cheng: Cộng đồng quốc tế thường xuyên lặp lại yêu cầu của mình là Trung Quốc phải giải thích ý nghĩa của đường lưỡi bò. Và tại các địa điểm và thời điểm khác nhau thì Trung Quốc đưa ra giải thích khác nhau. Nếu hiểu một cách chung chung thì Trung Quốc cho rằng chủ quyền lãnh hải của mình nằm trong đường lưỡi bò. Bất kể là kết quả nghiên cứu như thế nào, tôi không nghĩ là cộng đồng quốc tế sẽ chấp nhận nó một cách dễ dàng. Nói chung, tôi vẫn nghĩ là mục đích của nghiên cứu này chỉ nhằm làm Bắc Kinh và Đài Bắc xích lại gần nhau hơn trong vấn đề Biển Đông.
Quỳnh Chi: Xin cám ơn ông.
Trong cuộc họp báo hôm 23 tháng 10, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, ông Ngô Sĩ Tồn công bố rằng mục đích của nghiên cứu này là nhằm giải thích đường lưỡi bò trên cơ sở pháp lý. Dự tính, nghiên cứu này sẽ được thực hiện trong vòng 1 năm. Theo giới quan sát, quan điểm của cả Trung Quốc và Đài Loan là Biển Đông thuộc về “người Trung Quốc”.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/cn-tw-research-u-shape-is-reliable-qc-10262012125421.html
Thương mại Việt-Trung: Tình cảm với đảng, tình cảm giao thương
Mặc dù nhiều hệ thống phương tiện
truyền thông chính thức của hai nước có xu hướng ca tụng tình bạn lớn
giữa hai quốc gia, nhưng láng giềng Việt Nam và Trung Quốc có một quá
trình lịch sử lâu dài và hỗn loạn. Chương trình hợp tác hữu nghị giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ gần đây được hiểu như một tường thành ngoại giao
nhằm chống lại người bạn khổng lồ ở phía bắc. Mối quan hệ của Việt Nam
đối với Trung Quốc khá phức tạp ở nhiều khía cạnh, không ít trong số đó
là vấn đề thương mại.
Vào đầu tháng Sáu, Bộ trưởng Quốc phòng
Hoa Kỳ, Leon Panetta, đã ghé thăm Vịnh Cam Ranh – một cảng nước sâu
từng được kiểm soát bởi lực lượng hải quân Hoa Kỳ trong thời chiến
tranh với Việt Nam. Ông đến để trao đổi các món đồ tạo tác từ thời
chiến tranh với kẻ thắng cuộc tại Hà Nội. Tâm trí này được các báo chí
Mỹ mô tả là thiết lập để tăng cường mối quan hệ giữa hai nước “cựu
thù-không trở thành-đồng minh”.
Phải chăng đó là một phần trong chính
sách ngăn chặn Trung Quốc? Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ đã
trao đổi các chuyến thăm hàng năm kể từ năm 2003. Người tiền nhiệm của
ông Panetta, Robert Gates, thường xuyên đến thăm Việt Nam nhân các
chuyến tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng trong năm 2010, chương
trình được hỗ trợ bởi Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN.
Chắc chắn rằng Việt Nam đặt nhiều nghi
vấn đối với Trung Quốc từ nhiều thế kỷ nay, nếu không muốn nói là nhiều
thiên niên kỷ. Hàng trăm năm qua các hoàng đế Trung Quốc thay phiên
nhau cai trị nhiều mảnh đất của Việt Nam, nhưng Việt Nam thì thường đặt
tên những anh hùng chống lại quân xâm lược nước ngoài cho các đại lộ
lớn nhất đất nước, trong đó bao gồm luôn cả quân xâm lược Trung Quốc.
Mặc dù đường lối cứng rắn trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản có thể
thích tìm đến Trung Quốc hơn là Hoa Kỳ, đặc biệt là các vấn đề an ninh
nội bộ, nhưng sau cuộc cách mạng thì Việt Nam không phải lúc nào cũng
hài lòng với người hàng xóm này. Năm ngoái, các cuộc biểu tình chống
Trung Quốc diễn ra 12 tuần liên tiếp nhằm phản đối Trung Quốc gây hấn ở
Biển Đông là một minh chứng sống động nhất.
Carlyle Thayer, một chuyên gia về Việt
Nam tại Học viện Quốc phòng Australia, đã viết rằng: “Bộ trưởng Panetta
phải liên tục cố gắng đảm bảo rằng bất kỳ hình thức tăng cường nào đối
với việc hợp tác quốc phòng cũng không thể phối hợp với nhóm bảo thủ
trong đảng [Cộng sản] Việt Nam như một nỗ lực để đưa Việt Nam vào một
liên minh chống và ngăn chặn chính sách Trung Quốc”.
Tuy nhiên, tất cả điều đó không thể
nghi ngờ lẫn nhau. Trong suốt những năm gần đây, thương mại giữa Việt
Nam và Trung Quốc diễn ra rất tốt đẹp. Trung Quốc là đối tác thương mại
lớn nhất của Việt Nam. Năm ngoái, thương mại giữa hai nước đạt đến 36
tỷ USD, trong khi thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ đạt 22 tỷ USD.
Tuy nhiên, thương mại hai chiều của họ [Việt-Trung] lại nghiên về
hướng một chiều so với ý muốn của Việt Nam. Theo Văn phòng Thống kê của
Việt Nam thì thâm hụt thương mại trong hai tháng đầu năm 2012 đã lên
đến 1,85 tỷ USD.
Điều này thậm chí chưa tính các khoản
thương mại chợ đen rất lớn trên vùng biên giới như Móng Cái ở phía bắc,
hay Lạng Sơn, nơi nổi tiếng là thị trường tiêu thụ các đồ chơi tình
dục người lớn (các mặt hàng này là bất hợp pháp tại Việt Nam).
Jonathan Pincus, kinh tế gia tại Đại
học Harvard, ước tính một phần của vấn đề nằm ở ngành công nghiệp xuất
khẩu. Việt Nam phải nhập khẩu rất nhiều nguyên liệu thô từ Trung Quốc
để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Da cho giày dép, vải cho ngành may
mặc, và còn nhiều thứ khác. Có thể các doanh nghiệp nhà nước nên tập
trung vào mặt hàng này và không nên đầu tư ra ngoài lĩnh vực chuyên môn
của mỗi doanh nghiệp.
Lê Đăng Doanh, một kinh tế gia Việt
Nam, có vẻ thất vọng khi phát biểu tại một hội nghị cách đây hơn một
năm. Việt Nam, ông nói, “xuất khẩu than đá và sau đó lại nhập khẩu
điện. Họ xuất khẩu cao su nhưng lại nhập khẩu lốp xe ô tô. Đối với
ngành công nghiệp may mặc, nếu Trung Quốc ngừng cung cấp vật liệu thì
ngành công nghiệp này sẽ phải đối mặt với những khó khăn rất lớn”.
Đó là nỗi ám ảnh về sự phụ thuộc mà rất
nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam cảm thấy nên thận trọng, hơn nữa, không ai
muốn phụ thuộc vào Trung Quốc cả. Trong thực tế thì Việt Nam đang lo
sợ sẽ trở thành một thị trường bị Trung Quốc giam cầm nên đã dẫn đến
các cuộc biểu tình chống mỏ bauxite trong năm 2009 và 2010. Các mỏ này
được điều hành bởi các công ty Trung Quốc, và đã bị dân chúng chỉ trích
rất dữ dội. Vấn đề môi trường là tối quan trọng. Mặt khác, Việt Nam
cũng lo sợ sẽ bị kẹt vào vòng quay xuất khẩu alumina giá rẻ cho Trung
Quốc. “Kìm hãm” Trung Quốc là một mục tiêu làm hài lòng đám đông trong
một vài thời điểm nhưng kìm hãm sự mất cân bằng trong thương mại có thể
sẽ mang lại thành tích hữu hiệu hơn.
Đặng Khương chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Theo The Economist
© Bản tiếng Việt TC Phía trướcTheo The Economist
Tại sao chúng ta lại có thể mê muội đến như thế?
“...Chế độ độc đảng chắc chắn có những hạn chế của nó. Nhưng ...chế độ độc đảng cũng có thể mang lại nhiều lợi ích...”
Lời tòa soạn:The
Economist vừa cho đăng một bài về Trung Quốc và số phận của một số học
giả Tây Phương vẫn thường choáng ngộp trước những thành công bề nổi
của quốc gia này. Một cách gián tiếp, bài báo cũng giúp mọi người chất
vấn giới trí thức Tây Phương với câu hỏi : Tại sao họ lại có thể mê
muội đến như thế?
Một
lời cuối và cũng là một lời riêng: bài báo cũng cho phép chúng ta đề
cao cảnh giác trước sự ra đời của những nhóm, những học viện hay ủy ban
mà đa số thành viên là những cố vấn, học giả, chuyên gia uyên bác Tây
Phương… điển hình là Học Viện Trần Nhân Tông gần đây.
Học giả Tây Phương vẫn chẳng hiểu gì khi tiếp tục tâng bốc thể chế « chiêu hiền đãi sĩ » theo kiểu mẫu Trung Hoa.
*
Cách đây một thế kỷ và sau hàng ngàn năm phong kiến, Trung Quốc đã thử nghiệm chính quyền dân cử đầu tiên. Không lâu sau đó, vị Tổng thống đầu tiên, ông Tôn Dật Tiên, đã rút lui. Người kế vị – ông Viên Thế Khải, một quân nhân « râu kẽm » – đã được Tây Phương tôn vinh như một nhà « bảo thủ có xu hướng cấp tiến ». Họ Viên đã từng kêu gọi chính quyền Hoa Kỳ giúp đỡ Trung Quốc phác thảo một hiến pháp mới. Một học giả xuất thân từ Đại học Columbia - Frank Goodnow - đã đến Bắc Kinh vào năm 1913 để cố vấn phác thảo hai phiên bản hiến pháp. Phiên bản thứ nhất trao cho Viên Thế Khải gần như toàn quyền trên đời sống người dân, trên ngân sách và trên chính sách ngoại giao. Với phiên bản thứ hai, vào năm 1915, họ Viên được tôn làm hoàng đế. Nhưng ông ta đã mất ngay sau đó, vào năm 1916.
Cách đây một thế kỷ và sau hàng ngàn năm phong kiến, Trung Quốc đã thử nghiệm chính quyền dân cử đầu tiên. Không lâu sau đó, vị Tổng thống đầu tiên, ông Tôn Dật Tiên, đã rút lui. Người kế vị – ông Viên Thế Khải, một quân nhân « râu kẽm » – đã được Tây Phương tôn vinh như một nhà « bảo thủ có xu hướng cấp tiến ». Họ Viên đã từng kêu gọi chính quyền Hoa Kỳ giúp đỡ Trung Quốc phác thảo một hiến pháp mới. Một học giả xuất thân từ Đại học Columbia - Frank Goodnow - đã đến Bắc Kinh vào năm 1913 để cố vấn phác thảo hai phiên bản hiến pháp. Phiên bản thứ nhất trao cho Viên Thế Khải gần như toàn quyền trên đời sống người dân, trên ngân sách và trên chính sách ngoại giao. Với phiên bản thứ hai, vào năm 1915, họ Viên được tôn làm hoàng đế. Nhưng ông ta đã mất ngay sau đó, vào năm 1916.
Học
giả Goodnow tin tưởng rằng văn hoá và môi trường Trung Hoa lúc bấy giờ
chưa hội đủ điều kiện để một chính quyền dân chủ ra đời. Goodnow quan
niệm rằng Viên Thế Khải là một nhà chuyên quyền mà Trung Quốc cần. Lịch
sử đã đánh giá vai trò của họ Viên thấp hơn: Nhân vật Viên Thế Khải
chỉ ôm ấp những tham vọng tồi bại của mình và đã xéo nát nền cộng hoà
non trẻ.
Về
phần Goodnow đáng thương hại, hậu thế sẽ nhắc đến ông như một tên bù
nhìn ngoại quốc của độc tài Trung Quốc. Goodnow đã muộn màng nhận ra
rằng đã bị lợi dụng bởi những người đã thấy ông có ích cho họ. Goodnow
không là người cố vấn Tây Phương đầu tiên và cũng không là người cuối
cùng có nhận thức tương tự. Thế nhưng ông vẫn kiên định rằng một chế độ
chuyên chính « hữu hiệu và ổn định » có ích hơn một « chính quyền tự do
xuất phát từ dân ». Một luật án về Goodnow đã đánh giá ông với tựa đề
« Một tôn quân… lúng túng ».
Rất
nhiều học giả Tây Phương đã nối gót Goodnow để tin tưởng rằng lịch sử
độc nhất vô nhị và nền kinh tế lạc hậu của Trung Quốc khiến một chế độ
dân cử – hay một « thể chế dân chủ Tây Phương kiểu mẫu », như một số
nhà phê phán Trung Hoa mệnh danh – không thích hợp cho quốc gia này.
Vào thập niên 60 và 70, một vài trí thức Tây Phương, hân hoan trước cơn
sốt cách mạng Trung Quốc, đã quả quyết rằng Mao Trạch Đông đã thành
công trong việc thiết lập một xã hội công bằng. Họ quan niệm rằng Đảng
Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã loại bỏ được tính vị kỷ và đã tôn vinh
lòng hy sinh cùng thái độ phục vụ xã hội. Dần dần, với những dữ kiện
được đưa ra ánh sáng dư luận – như nạn đói 1958-62 mà chính họ Mao là
thủ phạm, như những rối loạn mà Cách mạng Văn Hóa mang lại – những quan
niệm này trở nên lố bịch. Hầu hết những phần tử, một thời hâm mộ Mao
Trạch Đông, đã thừa nhận điều này. Một vài người đang tiếp tục lớn
tiếng chỉ trích ĐCSTQ.
Thế
rồi ngày hôm nay, nhờ vào sự phát triển ngoạn mục của nền kinh tế
Trung Quốc, nhóm người ngưỡng mộ lại xuất diện. Lời cổ vũ của họ ngày
càng cường điệu kể từ khi khủng hoảng tài chánh toàn cầu đã phơi bày
một cách trần truồng những khuyết điểm Tây Âu. Thomas Friedman, bình
luận gia của nhật báo New York Times, đã tuyên bố vào năm 2009
rằng nhiều khía cạnh của nền chuyên chính Trung Quốc có vẻ quyến rũ hơn
nền dân chủ lủng củng của Hoa Kỳ. Ông Friedman cũng cho rằng « Chế độ
độc đảng chắc chắn có những hạn chế của nó. Nhưng khi nó được lãnh đạo
bởi một nhóm người tinh anh, như trường hợp Trung Quốc hiện nay, chế độ
độc đảng cũng có thể mang lại nhiều lợi ích ».
Ông T.Friedman và ông Mahbubani
Một
phần của lòng tin vào sự anh minh Trung Quốc đã được gầy dựng trên cảm
nhận cho rằng guồng máy lãnh đạo Trung Hoa ngày càng dựa vào nguyên
tắc « Chiêu hiền đãi sĩ ». Đảo quốc Tân Gia Ba thường
được xem như mẫu mực của chính sách này: Trong sạch, có hiệu quả và
được quản lý bởi giới Nanny – một loại chế độ biết anh minh trọng dụng
« nhân tài », được kết tinh từ cái gọi là « giá trị Châu Á ».
Kishore Mahbubani – một thời là ngoại giao của Tân Gia Ba và là khoa
trưởng trường Đại học Chính sách công Lý Quang Diệu – đã từ lâu biện hộ
rằng Tây Phương không thấu hiểu vấn đề. Ông cho rằng Trung Quốc đang
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc đến kỹ năng quản lý đất nước ngang
tầm với Tân Gia Ba. Ông Mahbubani vừa cho đăng một bài trên nhật báo Financial Times với
quan niệm rằng Trung Quốc « không hề là một chế độ độc tài độc đoán.
Ngược lại, có lẽ ĐCSTQ đang thành công trong công cuộc thiết lập một hệ
thống quyền hạn pháp định bền vững và chắc nịch ». Ông cũng quan niệm
rằng « thể chế này đã chọn lọc được một hàng ngũ lãnh đạo tinh anh nhất
mà Trung Quốc có thể mong đợi ». Ông Jim O’Neill – phân tích gia thuộc
ngân hàng Goldman Sachs, người đã sáng chế ra chữ tắt « BRIC » để ám
chỉ các nền kinh tế đang trỗi dậy như Ba-Tây (Brazil), Nga (Russia), Ấn
Độ (India) và Trung Quốc (China) – cũng ví von rằng nếu Trung Quốc là
một đội banh thì mọi người đều mong muốn được mặc đồng phục của đội
banh này.
Ông Daniel Bell
Một
trong những phần tử đòi mặc đồng phục của đội banh là một luật gia-học
giả Gia Nã Đại, ông Daniel Bell, thuộc Đại Học Thanh Hoa Bắc Kinh. Ông
là đồng tác giả của quyển sách « Một trật tự hiến định nho giáo: cách
thức mà quá khứ cổ xưa có thể an bài tương lai chính trị Trung Quốc »
(“A Confucian Constitutional Order: How China’s Ancient Past Can Shape Its Political Future”).
Học giả Bell tin tưởng rằng mối ưu tư của ĐCSTQ đã nghiêng về « công
tác gầy dựng hệ thống quản lý đất nước hoàn hảo. Hệ thống này được lãnh
đạo bởi những phần tử tài đức ». Đây là những phần tử lãnh đạo trí
thức, tương tự như giới thượng lưu cầm quyền và am hiểu tình hình đất
nước ở Vương Quốc Anh xa xưa. Ông Bell cho biết, ĐCSTQ trọng dụng những
phần tử tinh anh nhất. Ngoài ra, đối với hàng ngũ lãnh đạo cao cấp,
thủ tục tuyển dụng và thăng cấp ngày càng trở nên khách quan và khắt
khe – mặc dù, theo ông Bell, vẫn còn nhiều khuyết điểm cần được khắc
phục qua nguyên tắc minh bạch.
Nhưng tin tưởng rằng chữ « đức »
sẽ ngự trị trong một hệ thống như Trung Quốc là một niềm tin khá kỳ
quặc. Chính quyền và xã hội Trung Quốc chìm ngập trong tham nhũng. Ngay
cả báo chí nhà nước cũng thường loan tin về những cán bộ được thăng
quan tiến chức nhờ vào quen biết chứ không nhờ vào tài cán. Mặc dù đã
có một vài vụ án nghiêm xử những cán bộ tham ô, chính quyền đã bất lực
trong việc đương đầu với tham nhũng. « Tu thân tích đức » là một khái niệm nho giáo đáng khâm phục. Nhưng nó bỏ qua một chi tiết quan trọng: Bản chất của con người.
Đức hạnh của luật pháp
Tìm về cội nguồn của « đức hạnh »
chắc chắn sẽ không là đáp số cho những thử thách mà Trung Quốc đang
trực diện. Nó chưa bao giờ hiện hữu. Nếu có một bài học cần được rút tỉa
từ lịch sử Trung Quốc vào thế kỷ thứ 19, đó là sự thất bại toàn diện
của một chính quyền « chiêu hiền đãi sĩ » mơ hồ, đậm màu nho
giáo, không bị cạnh tranh và không được kiềm chế. Hệ thống quản lý nhà
nước Tây Âu cũng chứa đựng nhiều khuyết tật. Những đại gia và phe nhóm,
với của cải và quyền lực ngày càng nhiều, vẫn tìm cách duy trì ảnh
hưởng của họ trên xã hội. Nhưng đối với người ngoài cuộc, cơ hội nhập
cuộc vẫn hiện hữu. Chỉ cần có tài ba, họ có thể thăng tiến, nắm được
tài lực và quyền lực và, quan trọng hơn hết, họ cũng có thể mất tất cả.
Richard Nixon đã bị hạ bệ bởi làng báo tự do và bởi những định chế
thuộc chính quyền của mà ông đứng đầu. Và Nixon không bao giờ bị truất
phế như thành viên Bộ Chính trị Bạc Hy Lai: bởi một kẻ tuỳ tùng đã trở
mặt và chạy trốn vào một Lãnh sự quán. Một chính quyền anh minh ở Trung
Quốc chỉ được thai nghén từ phát triển kinh tế liên tục; từ chính sách
giáo dục đại chúng; từ nền cạnh tranh mở rộng; ở một làng báo ngày
càng tự do; ở một hệ thống tư pháp độc lập và, cuối cùng, từ một hệ
thống chính trị dân cử.
The Economist
Nguyễn Gia Dương chuyển ngữ
Nguyễn Gia Dương chuyển ngữ
Tập Cận Bình. Người thống trị hơn một tỷ dân Trung Quốc
Tập Cận Bình được sinh ra trong bối cảnh giàu sang, nhưng thời tuổi trẻ
ông đã trải qua nghèo đói. Giờ đây, trong 10 năm tới, ông sẽ cai trị
hơn một tỷ người Trung Quốc, nền kinh tế thứ hai trên thế giới.
Nếu Tập Cận Bình là có tài khoản cá nhân trên Facebook, chắc chắn ông
sẽ trở thành một trong những người nổi tiếng nhất trên Internet. Bởi vì
thật thích thú khi được kết bạn với một người nổi tiếng mà số phận của
1,3 tỷ người sẽ phụ thuộc vào người đó.
Rốt cuộc thì đề nghị làm quen với ông Tập là Rupert Murdoch, một trong
những nhân vật có thế lực nhất thế giới trên phương tiện truyền thông,
và Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ. – Tập sẽ rất khác so với
các nhà lãnh đạo cũ. Sẽ từ từ giải quyết các vấn đề của đất nước –
Murdoch nói – Ông ta sẽ cố gắng cải cách nội bộ sâu rộng – Kissinger
phán đoán.
Hai tuần tới đây, sự chú ý của thế giới sẽ được tập trung vào Mỹ, nơi
diễn ra cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 6 tháng 11, nhưng có lẽ một cái
gì đó quan trọng hơn sẽ xảy ra hai ngày sau ở Bắc Kinh. Lúc đó sẽ bắt
đầu Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 với sự thay đổi lãnh đạo
-Tập Cận Bình sẽ thay thế Hồ Cẩm Đào.
Những ông quan hiện đại
Có vẻ các đồng chí Trung Quốc đã thành công trong việc đương đầu với
nhiệm vụ khó khăn nhất đối với một chế độ độc tài – chuyển giao suôn sẻ
quyền lực. Ở Trung Quốc, điều này còn khó khăn hơn, vì không có truyền
thống ra quyết định tập thể. Qua hàng nghìn năm, đất nước này được cai
trị bởi các hoàng đế, những người có quyền lực tuyệt đối. Như Khổng Tử
đã nói, hoàng đế như sao Bắc Đẩu – tất cả mọi thứ xung quanh ông ta trở
nên bất động. Nếu một quốc gia man rợ nào đó xâm lược, nạn đói xảy ra
hay lũ lụt tàn phá, thì với thuộc cấp điều rõ ràng là, nhà vua đã không
còn làm được “trọng trách Trời giao”. Trong tình trạng này, Trời sẽ
gửi tới một người kế vị, mà trong thực tế có nghĩa là lật đổ hoàng đế
và đặt người đó lên ngai Rồng.
Một ông vua như thế gần đây nhất là Mao Trạch Đông. – Ông ta là người
ra mệnh lệnh. Còn hôm nay, các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải cai trị
bằng cách thỏa hiệp với các lãnh đạo khác của đảng – Henry Kissinger
giải thích. Đây không phải là hoàng đế, mà là một dạng quan lại hiện
đại, những cán bộ, công chức thực sự có ảnh hưởng và tiếng tăm, nhưng
không có sức thu hút như “Thiên tử”. Một vị quan như thế rõ ràng có vẻ
có thể là Tập Cận Bình đẫy đà, ở tuổi 59. Nhưng điều này chỉ là giả tạo.
Tập Cận Bình được xem là thế hệ lãnh đạo thứ năm. |
Trung Nam Hải là điện Kremlin Trung Quốc – được rào chắn trong khu vực
cạnh Cấm Thành Bắc Kinh, nơi các hoàng đế đã từng sống. Từ thời Mao là
trụ sở của giới chóp bu cai trị của Trung Quốc hiện đại. Khi Tập Cận
Bình mới vài tuổi, đã sống ở đây với gia đình. Cha ông là một quan chức
và là một trong những cộng sự gần gũi nhất của Mao. Trong khi dường như
cả Trung Quốc nghèo đói, gia đình của Tập có đầu bếp riêng, có người
giúp việc và limousine với tài xế riêng.
Hôm nay, Tập Cận Bình thuộc nhóm thái tử đảng, tức là con cái của các
chức sắc cũ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. – Ông có cơ hội để
ứng phó linh hoạt và tự do hơn so với người tiền nhiệm. Là thái tử đảng,
ông được nể trọng nhiều hơn trong hàng ngũ đảng – Giáo sư Xie Yue, nhà
khoa học chính trị tại Đại học Tongji ở Thượng Hải, nói. – Nếu ông lựa
chọn phương hướng cải cách tự do, nguồn gốc của ông có thể là cứu cánh
trước sự nổi loạn của những người bảo thủ cứng đầu.
Người con của mảnh đất vàng
Đó là một vùng trũng nằm ở miền trung Trung Quốc (thuộc tỉnh Giang Tây – ND),
được gọi là Liangjiahe. Ngôi làng được bao quanh bởi đồi núi có màu
vàng đặc trưng. Ấy là năm 1969. Môt cậu thiếu niên 15 tuổi điển trai đến
từ Bắc Kinh. Cậu ta phải làm việc như bao dân làng khác, mặc dù là con
trai của một chức sắc trong đảng. Nhưng điều đó không có ý nghĩa gì.
Tại Trung Quốc Cách mạng Văn hóa đang diễn ra điên loạn. Những cộng sự
thân cận nhất của Mao bị vào tù, và hàng triệu người Trung Quốc có học
bị đưa đi các tỉnh làm việc nặng nhọc. Tập Cận Bình sống ở làng quê sáu
năm. Ông đã sống trong hang. Nằm trên những viên gạch được trải chăn.
Chủ yếu ăn ngô và hạt kê. Bọ chét luôn chọc phá. Ông đã nằm ở mức tận
cùng.
- Hôm nay, đảng sẵn sàng gợi lại giai đoạn này trong cuộc đời của Tập –
Thomas Koenig, chuyên gia về Trung Quốc tại Hội đồng châu Âu về Quan
hệ đối ngoại (ECFR), nói. – Tập muốn để mọi người thấy rằng nhà lãnh đạo
tương lai của đất nước không phải là thái tử, mà là một người đã nếm
trải số phận của những người nghèo. Tại sao nó lại quan trọng như vậy?
Suy nghĩ về Trung Quốc, hầu hết người châu Âu thường nghĩ tới những tòa
nhà chọc trời hiện đại ở Thượng Hải, các nhà máy ở Thẩm Quyến, hay các
ngôi chùa ở Tây Tạng. Về những nơi như làng Liangjiahe họ không có khái
niệm gì cả.
Cái làng, nơi nhà lãnh đạo tương lai của Trung Quốc đã làm việc, gần
đây các nhà báo của “New York Times” đã mò tới. Trong 40 năm qua, không
có nhiều thay đổi. Mọi người vẫn sống trong các hang động và ăn ngô.
Những ngôi làng vẫn đứng tại chỗ như vầy ở Trung Quốc có hàng ngàn.
Không có gì đáng ngạc nhiên, những người nông dân tuyệt vọng ở các tỉnh
phía Đông khi nghe về phép lạ kinh tế, đang bắt đầu nổi loạn. Theo ước
tính của phương Tây, chỉ trong năm 2011, có 180 ngàn cuộc biểu tình,
với sự tham gia của hàng trăm người. Cuộc chiến chống bất bình đẳng xã
hội là ưu tiên tuyệt đối đối với nhà chức trách có thẩm quyền ở Trung
Quốc – Koenig nói – Vì vậy, Tập được mô tả như là một người hiểu được
nỗi thống khổ của người nghèo.
Ứng cử viên lý tưởng
Mặc dù bị những người Cộng sản đày đi lao động ở nông thôn, Tập vẫn
phấn đấu gia nhập đảng. “Anh ta hạ quyết tâm sẽ đỏ hơn màu đỏ” – một nhà
ngoại giao Hoa Kỳ đã viết như thế trong một thông điệp bí mật vào năm
2010 mà WikiLeaks đã tiết lộ. Năm 1975, Tập được phép trở lại Bắc Kinh,
học đại học, môn hóa. Sau đó, ông ghi danh học trường luật và khoá học
chủ nghĩa Mác-Lênin. Chằng bao lâu sau thân phụ của Tập được phục hồi
và có thể lo liệu cho tương lai của con trai mình. Trong khi đó Tập
chăm chú leo dần lên các bậc thang danh vọng. Không thực sự nổi bật,
nhưng không làm gì sai lầm. Tuy nhiên, vào cuối những năm 80, đã đến
với Tập một cơ hội khó tin. Ông gặp Bành Lệ Viên, ngôi sao ca nhạc lớn
nhất của Trung Quốc. Tập bị tiếng sét ái tình, yêu cô ca sĩ ngay từ cái
nhìn đầu tiên và – như ông kể sau này – sau 40 phút trò chuyện ông
biết cô ca sĩ sẽ là vợ mình. Sự tác hợp giữa một người nổi tiếng với
một chính trị gia chưa được biết rộng rãi vào năm 1987 là một sự kiện
giật gân lớn.
Tập tiến thân theo đà đi lên. Khi người đứng đầu của Đảng ở Thượng Hải
biển thủ 400 triệu USD từ quỹ hưu trí, ông được cử tới đó để làm dịu
cơn thịnh nộ của dân chúng. Ngay sau đó, ông trở thành Phó chủ tịch
nước và được giao một nhiệm vụ quan trọng: đảm bảo chăm lo những khấu
chuẩn bị cuối cùng cho Thế vận hội Olympic tại Bắc Kinh vào năm 2008.
Đối với tất cả đã trở nên rõ ràng rằng, ông được chuẩn bị để trở thành
người lãnh đạo tiếp theo của Trung Nam Hải.
Tập có vẻ là ứng viên lý tưởng – chưa bao giờ gây ra vụ bê bối nào,
không làm tổn hại bất cứ ai. Không giống như nhiều đồng nghiệp nếu không
có điểm yếu với rượu thì cũng tình ái. Ông được biết đến như một người
ham mê làm việc và có tham vọng. Ông cũng ít cứng nhắc hơn so với các
nhà lãnh đạo ra đi của Trung Quốc và cởi mở hơn với thế giới. Ông thích
ngao du, có chị gái ở Canada, và con gái đang theo học tại Đại học
Harvard tại Mỹ dưới một tên giả.
Tài sản của người chị
Quả bom phát nổ cách đây bốn tháng. Tài sản doanh nghiệp của gia đình
Tập Cận Bình trị giá 376 triệu đô la – theo Bloomberg. Đó là một công
ty bất động sản tham gia khai thác mỏ, khoáng sản và có các công ty
thuộc ngành công nghiệp viễn thông. Hầu hết các tài sản thuộc về chị gái
của nhà lãnh đạo tương lai của Trung Quốc và chồng.
Tuy nhiên, các nhà báo đã không tìm thấy bất cứ điều gì liên can tới
Tập hoặc vợ của ông. Ngoài ra cũng không có bằng chứng rằng, ông đã lợi
dụng vị trí của mình để giúp doanh nghiệp gia đình. Mặc dù vậy, điện
Kremlin Trung Quốc hoảng loạn. Trang web của Bloomberg bị chặn trên toàn
quốc. Người Trung Quốc không nên biết gia đình của nhà lãnh đạo tương
lai có rất nhiều tiền. Tại sao lại có phản ứng lo lắng này? Tập Cận
Bình sẽ trở thành nhà lãnh đạo mới mà một trong những lý do là một
người trong sạch có tiếng – không nhận hối lộ và không có tư tưởng gia
đình trị, những điều ở Trung Quốc là bệnh dịch hạch.
Năm nay mức độ bê bối tham nhũng với mức khôn lường. Trong tháng Tám,
vợ của một trong những ông chủ lớn nhất, Bạc Hy Lai, đã bị kết án tử
hình vì giết chết tình nhân, người đã giúp bà ta trong những chuyện làm
ăn đáng ngờ. Bản thân Bạc Hy Lai đã bị trục xuất khỏi đảng vì tham
nhũng. Vào mùa hè, một con cá mập khác của đảng, Ling Jihua, đã tìm cách
che đậy con trai trong một tai nạn xe Ferrari. Con ông ta lái xe trong
tư thế trần truồng, còn trong xe là hai người phụ nữ mặc đồ hở hang.
Cuộc chiến chống tham nhũng nằm ở vị trí thứ nhì, sau bất bình đẳng xã
hội, là ưu tiên của Tập. Nạn ăn cắp trên đỉnh cao quyền lực làm tổn
thương hơn bao giờ hết những người làm việc nặng nhọc trong tầng lớp
trung lưu của Trung Quốc, ước tính ở mức gần 250 triệu. – Tầng lớp trung
lưu, cho dù chỉ để bảo vệ lợi ích kinh tế của họ, sẽ đòi hỏi các quyền
chính trị. Không có thể tránh được xung đột giữa họ với chính phủ –
Giáo sư Xie Yue cho biết.
Tình hình lo ngại hơn cho đảng là người Trung Quốc ngày càng ham muốn
sử dụng Internet, nơi không thể hoàn toàn kiểm duyệt. Vào tháng Chín,
Tập Cận Bình đột nhiên biến mất không lời nào, trên mạng nổ ra những tin
đồn về một cơn đau tim, và thậm chí một cuộc đảo chính. Tuy nhiên, sau
hai tuần, ông xuất hiện nguyên vẹn và khoẻ mạnh trước công chúng,
nhưng không giải thích những gì ông đã làm gì trong thời gian đó.
Internet đã trở thành vũ khí của kẻ yếu. Nhân dân ngày mỗi biết nhiều
hơn và mạnh bạo hơn thách thức vị trí chính thức của đảng – Yanzhong
Huang, chuyên gia của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Mỹ (CFR), cho biết.
Đặng Tiểu Bình, trong những năm 80, mở cửa Trung Quốc ra thế giới, đã
nói với những dân chúng rằng: “Hãy làm giàu, nhưng đừng dính vào chính
trị”. Dễ dàng để nhận thấy rằng hệ thống này sẽ ngự trị cho tới lúc nền
kinh tế còn chuyển động về phía trước. Trong thứ Năm tuần trước, dữ
liệu công bố cho thấy kinh tế đang bị hãm lại. Thay vì 10% tăng trưởng
mà người Trung Quốc đã quen, năm nay ở mức 7,4%. Điều này có thể có
nghĩa là vấn đề lớn cho đảng. Bởi vì một trong những giá trị được tôn
trọng ở Trung Quốc là sự hài hòa. Theo nguyên tắc của Đạo giáo, người
cai trị khôn ngoan tránh hành động không cần thiết, tranh chấp, đưa ra
các tiêu chuẩn không cần thiết. Quản lý giống như chiên một con cá nhỏ –
nếu bạn lật quá thường xuyên, sẽ làm hỏng nó. Một nhà lãnh đạo khôn
ngoan là biết làm rỗng tâm trí dân và lấp đầy dạ dày họ. Hai nhiệm vụ
này của Tập Cận Bình sẽ rất khó khăn.
Ngày 25/10/2012J.Kowalska-Iszkowska, Newsweek
Bản Việt ngữ © 2012 Lê Diễn Đức
—————————————————-
* Bài được dịch từ tiếng Ba Lan, của JoannaKowalska-Iszkowska, cộng tác với Robert Tomaszewski, đăng trên tuần báo quốc tế newsweek, ấn bản Ba Lan ngày 25/10/2012, tại link: http://swiat.newsweek.pl/xi-jinping–wladca-miliarda-chinczykow,97416,1,1.html
“Bom” KBC sắp phát nổ!
(Petrotimes)
– Tên tuổi của Tổng công ty Phát triển đô thị Kinh Bắc (Mã chứng khoán
KBC) luôn gắn liền với tên tuổi của ông Đặng Thành Tâm. Tuy nhiên, khi
ông Đặng Thành Tâm đang dính tới một loạt sai phạm trong hoạt động đầu
tư, uỷ thác đầu tư, môi giới chứng khoán,… trong lĩnh vực ngân hàng và
kết quả kinh doanh của các công ty ông đang giữ vai trò Chủ tịch HĐQT
hoặc Tổng giám đốc lại vô cùng bết bát khiến nhiều nhà đầu tư lo ngại.
Thị trường tài chính thời gian tới sẽ chứng kiến “quả bom tài chính”
mang thương hiệu của ông Đặng Thành Tâm sẽ phát nổ.
KBC chính là “con cưng” của ông “nghị” Đặng Thành Tâm.==>>>
Báo cáo tài chính hợp nhất 6 tháng đầu năm 2012 của KBC có nêu: Doanh thu của công ty vỏn vẹn chỉ có 175 tỷ đồng, giảm hơn 50% so với năm trước. Trong khi đó chi phí lãi vay lên tới 158 tỷ đồng. Trước đó, năm 2011 lợi nhuận sau thuế của KBC chỉ đạt 35 tỷ đồng, giảm rất mạnh so với năm trước đó. Hiện tại, tình trạng tài chính của KBC đang rất bấp bênh khi nợ vay của công ty lên đến gần 4.000 tỷ đồng, hàng tồn kho gần 6.000 tỷ đồng. Với bối cảnh thị trường bất động sản hiện nay thì chắc chắn KBC sẽ còn phải gánh chịu không ít khó khăn phía trước.
Và điều này cũng được khẳng định trong văn bản số 175/2012/KBC/CBTT ngày 7/9/2012, gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước giải trình về kết quả kinh doanh công ty mẹ và hợp nhất sau xét toán 6 tháng đầu năm 2012, đại diện của KBC có nêu: Lợi nhuận sau thuế của Công ty mẹ là âm 12,24 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế của Tổng công ty khi hợp nhất là âm 124,63 tỉ đồng.
Mặc dù kết quả kinh doanh của các công ty mà ông Đặng Thành Tâm làm Chủ tịch HĐQT hoặc Tổng giám đốc là rất bết bát nhưng theo thông tin từ NHNN thì đó chưa phải là tất cả. Cụ thể, theo bà Nguyễn Thị Phụng – Phó Vụ trưởng vụ I Thanh tra, giám sát NHNN, sau khi có kết luận thanh tra, NHNN đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, xử lý những vi phạm của ông Đặng Thành Tâm và những người liên quan có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Và theo nguồn tin riêng của Petrotimes thì, sai phạm của ông Đặng Thành Tâm và những người liên quan cũng được xác định trị giá có thể lên tới 3.324,258 tỉ đồng. “Quả bom” này được ông Đặng Thành Tâm cũng những người liên quan “chế tạo” thông qua việc mua bất động sản không công chứng, không đầy đủ yếu tố pháp lý như Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở không qua công chứng; giá thỏa thuận không qua Hội đồng Thẩm định giá;…
Như Petrotimes đã phản ánh trong bài “Trận đồ bát quái” thị trường tài chính – ngân hàng, “ẩn hoạ” từ việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng và mối quan hệ chặt chẽ hơn mức bình thường giữa doanh nghiệp và ngân hàng dưới sự chi phối của một cá nhân hay một nhóm lợi ích sẽ gây ra nhiều bất ổn cho nền kinh tế. Với những thông tin xoay quanh hoạt động kinh doanh của ông Đặng Thành Tâm và các ngân hàng mà ông hoặc người thân của ông nắm quyền chi phối thì khoản tiền hơn 3.300 tỉ đồng trên hoàn toàn có thể bốc hơi bởi phần lớn khoản tiền này đã được thực hiện trái với quy định của pháp luật hoặc được dùng sai mục đích.
Navibank không thể thu hồi số tiền trên cũng đồng nghĩa với việc ông Đặng Thành Tâm sẽ trở thành “con nợ”. Khả năng này xem ra là rất cao khi mà trong những ngày gần đây, giá trị cổ phiếu của các công ty do mà ông Đặng Thành Tâm nắm giữ liên tục sụt giảm bởi cả nhà đầu tư trong và ngoài nước đều thấy “ghê tay”. Trong khi đó, thị trường bất động sản liên tục tụt dốc, hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ, ế ẩm khiến lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản hoặc tạm ngừng sản xuất tăng cao sẽ khiến khả năng thu hồi khoản tiền trên là rất thấp.
Báo cáo của Ủy ban Kinh tế ghi chú: “Một ví dụ tiêu biểu cho trường
hợp này là trường hợp của ông Đặng Thành Tâm với Ngân hàng Nam Việt
(Navibank) và Ngân hàng Phương Tây (Western Bank)”.
Cụ thể, theo ghi chú tại báo cáo trên, tuy ông Đặng Thành Tâm chỉ sở
hữu 2,97% tại Navibank và không có cổ phần tại Western Bank, nhưng ông
lại sở hữu gián tiếp cả hai ngân hàng này. Ông Đặng Thành Tâm nắm 23,69% cổ phần Công ty Cổ phần Viễn thông Sài Gòn (SGT), nắm 34,94% cổ phần của Tổng công ty Phát triển nhà Kinh Bắc (KBC). Mối quan hệ sở hữu gián tiếp là: SGT trực tiếp sở hữu 9,41% cổ phần Western Bank; còn KBC đầu tư 483 tỷ đồng tại Công ty Cổ phần năng lượng Sài Gòn – Bình Định, vốn chiếm 9,85% vốn sở hữu tại Western Bank và 11,93% tại Navibank. |
Nhóm Phóng viên Petrotimes
Đào Tuấn - Chống lợi ích nhóm bằng những dấu hỏi
Nếu “thảo luận” là làm rõ thực trạng để tìm ra giải pháp, thì hôm qua, ở Quốc hội, thực trạng “lợi ích nhóm” tồn tại dưới dạng những câu hỏiHai cái tên Nguyễn Đức Kiên, Dương Chí Dũng và vấn đề lợi ích nhóm trong giới nhà băng, quả nhiên trở thành chủ đề nóng khi các vị đại biểu QH thảo luận về công tác phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm.
Điều này không lạ. Chính Bộ trưởng Trần Đại Quang, trong báo cáo trình Quốc hội hồi đầu tuần, đã đưa ra con số tổn thất “hàng ngàn tỷ đồng” mà tội phạm kinh tế, tài chính, ngân hàng đã gây ra với những hành vi hết sức nghiêm trọng “lừa đảo, làm hồ sơ giả, móc nối với cán bộ ngân hàng để chiếm đoạt, huy động vốn của nhiều doanh nghiệp” làm ảnh hưởng đến hệ thống tài chính tiền tệ cũng như niềm tin của nhân dân.
Chưa bao giờ, vấn đề lợi ích nhóm và tội phạm ngân hàng lại nóng như hiện nay. |
Bầu Kiên, với tội danh “kinh doanh trái phép”, cựu Bộ trưởng Trần Xuân Giá, cha đẻ của Luật Doanh nghiệp, bị khởi tố về hành vi cố ý làm trái có lẽ chỉ là một ví dụ trong tình trạng “đúng sai bất phân, thật giả khó lường”. Xử lý những vụ như vậy, cái khó, có lẽ không đơn thuần chỉ là việc chứng minh tội phạm, mà ở vấn đề quan hệ, vấn đề lợi ích nhóm. Huống chi trong thực tế, tồn tại phổ biến tình trạng mà ĐBQH Đỗ Văn Đương gọi là “Hành chính hóa, nội bộ hóa các vụ tham nhũng”.
Hôm qua, nhóm lợi ích đã lại được nhắc đến trong các phát biểu. ĐBQH Nguyễn Văn Giàu nói về nhóm lợi ích như sau: Lần đầu tiên tại hội nghị TƯ 4, Tổng bí thư công khai thực tế nước ta có nhóm lợi ích… Tuy nhiên, báo cáo của các cơ quan tư pháp với QH đánh giá về nhóm lợi ích chưa đủ “độ”.Thực ra, nói “chưa đủ độ” là một cách nhìn nhận rất lạc quan, bởi chính ông Giàu, ngay sau đó đã đề nghị “Cần nhận diện nhóm lợi ích nằm ở đâu, ở chỗ nào”. Một ví dụ được ông Giàu đưa ra chính là vụ bầu Kiên “Tại sao không đánh giá đầy đủ hơn? Chúng ta biết lâu chưa, tại sao bây giờ mới xử?
ĐBQH Phan Trung Lý thì nói “người dân đặt câu hỏi”: Dương Chí Dũng bỏ trốn, người dân đặt ngay câu hỏi, vì sao trốn được.
Ông Nguyễn Văn Giàu nguyên là Thống đốc Ngân hàng nhà nước, hiện đang đảm nhiệm chức vụ Ủy ban Kinh tế. Còn ông Phan Trung Lý, đang đương chức Chủ nhiệm UB Pháp luật của Quốc hội.
Những điều mà các vị ĐBQH nghĩ, cũng chính là những điều mà người dân đang suy nghĩ, bức xúc. Những câu hỏi mà các vị đặt ra, xin cảm ơn, cũng chính là những câu hỏi của những người dân thấp cổ bé họng.
Nhưng nếu một cựu thống đốc, một Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế còn chưa nhận diện được “lợi ích nhóm”, kể cả lợi ích nhóm trong lĩnh vực ông từng làm “tư lệnh”, thì làm sao người dân có thể biết nó là ai, ở đâu. Nếu một vị Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật còn chưa biết vì sao Dương Chí Dũng có thể bỏ trốn thì chẳng lẽ người dân lại có thông tin để giải tỏa thắc mắc. Có lẽ vấn đề lớn nhất tại buổi thảo luận tại Quốc hội, về tội phạm, là các đại biểu QH, dù thảo luận, nhưng không có thông tin, ngoài ý kiến và những câu hỏi mà người dân đã nêu ra.
Nếu “thảo luận” là làm rõ thực trạng để tìm ra giải pháp, thì hôm qua, ở Quốc hội, thực trạng tồn tại dưới dạng những câu hỏi. Liệu người chiến sĩ ra chiến trường tay không tấc sắt, không biết kẻ địch là ai, đang trốn ở đâu, thì có bảo vệ được nhân dân, và chính bản thân mình?
(Blog ĐT)
CHẮC THỦ TƯỚNG CHƯA QUÊN !
Bùi văn Bồng blog
Bộ đội địa phương Kiên Giang giúp dân chống lũ* Minh Diện
Trong cuốn sổ tay phóng viên của tôi còn ghi lại một chuyện xảy ra cách đây 34 năm.
Hôm ấy là ngày 21-8-1978, một đoàn cán bộ Trung ương
Đoàn do Bí thư Trung ương Đoàn, Anh hùng quân đội Lê Thanh Đạo, dẫn đầu
đến xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang sau vụ thảm sát của Khmer
đỏ. Đại tá Lê Thanh Đạo, sĩ quan không quân, phi công dũng cảm tham gia 8
trận đánh, tiêu diệt 6 máy bay F4 của giặc Mỹ. Cùng đi có nhà báo lão
thành Ba Dân, nguyên Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, cùng các
nhà báo Việt Thảo, Đình Khuyến, Phạm Hậu…
Từ sáng sớm, đoàn chúng tôi khởi hành từ Sài Gòn bằng
hai chiếc xe U-OÁT cũ kỹ, theo quốc lộ 4 về miền Tây. Con đường bị tàn
phá trong chiến tranh, lại bị lũ lớn xói lở, ổ gà ổ trâu lổn nhổn, thỉnh
thoảng phải tránh những hố bom hố pháo chưa kịp lấp. Hai bên đường làng
xóm xác xơ. Cứ cách vài cây số lại gặp một trạm Ba-rie chắn ngang
đường, đó là những trạm kiểm soát liên hợp, kiểm tra tất cà các phương
tiện giao thông chống buôn lậu, vượt biên, đặc biệt là ngăn người lên
biên giới vì chiến sự đang hết sức căng thẳng.
Càng đến gần biên giới không khí càng ngột ngạt. Người
dân bồng bế con, gồng gánh chạy từ biên giới về, bộ đội hành quân lên
biên giới thanh niên nam nữ vác chông tre đi rào làng.
Đất nước mới hòa bình chưa bao lâu, hố bom chưa kịp lấp,
vết thương trên da thịt chưa kịp lành, đang phải ăn bo bo thay gạo, lại
xảy ra chiến tranh, kẻ thù lại là người đồng chí từng môi hở răng lạnh,
chung một chiến hào đánh Mỹ, từng hy sinh máu xương vì nhau! Đau quá!
Chúng tôi đến xã Ba Chúc, huyện
Tri Tôn, An Giang, nơi bọn lính Pôn bốt mới tràn sang tàn sát đồng bào
ta đêm 17 rạng 18 tháng 4. Không bao giờ tôi có thể quên được những gì
mình nhìn thấy buổi chiều năm ấy. Những đống xác người chồng chất trong
chùa, trong trường học, dưới chân núi Tượng, núi Dài, bên bờ kinh. Người
bị chặt đầu , người bị cắt cổ , mổ bụng , trẻ em bị lưỡi lê đâm , phụ
nữ bị lột hết quần áo lấy cọc tre đóng vào cửa mình . Không thể đếm xuể
bao nhiêu xác chết. Bọn lính Pôn Pốt tràn sang lúc nửa đêm, khi bà con
ta vẫn ngủ say. Chỉ bảy, tám tiếng đồng hồ, chúng đã giết hại hàng ngàn
người dân vô tội.
<<<<====Hành quân lên biên giới
Bộ đội và dân quân lấy bao ni lông gói xác người đưa
lên xe bò chở ra hố chôn tập thể . Người thân của các nạn nhân còn sống
sót chạy tản cư hết , làng xóm bỏ hoang, điêu tàn. Cách chỗ chúng tôi
chưa đầy một tầm đạn súng cối , bọn Khmer đỏ núp trong công sự dưới
rặng thốt nốt vẫn thường xuyên bắn sang và rình rập , lừa phía ta sơ hở
là tập kích bất ngờ gây thêm tội ác . Khắp xã Ba Chúc , từ núi Tượng
đến ngôi chùa của người Miên , nồng nặc mùi tử khí , rải rác xác người
chết, từng bầy chó hoang nháo nhác vục mõm vào xác chết đang phân hủy…
Từ Ba Chúc , An Giang , chúng tôi sang Kiên Giang,
đến Trung đoàn 152 (Bộ đội địa phương Kiên Giang) đang chiến đấu bảo vệ
biên giới. Đồng chí Chủ nhiệm chính trị ân cần đón tiếp chúng tôi. Đó là
một đại úy rất trẻ . Anh nói những diễn biến trên tuyến biên giới do
đơn vị mình phụ trách , và quyết tâm của anh em trong đơn vị đánh trả
bọn Pôn bốt . Khi kể lại chuyện bọn Pôn bốt giết hại đồng bào mình,
người đại úy trẻ nghẹn lời, lấy tay chùi nước mắt. Gương mặt anh quắt
lại, mắt đỏ ngầu.
Chúng tôi đề nghị ra thăm bộ đội ngoài trận địa , chủ
nhiệm chính trị hơi ngần ngừ vì cuộc chiến đấu đang hết sức căng thẳng ,
nhưng khi anh Lê Thanh Đạo nói, hầu hết thành viên trong đoàn đếu là
người đã qua khói lửa , đồng chí đại úy trẻ kêu thêm hai chiến sỹ bảo vệ
, cùng mình dẫn chúng tôi lên chốt.
Trên đường ra trân địa có một đoạn lầy , bánh xe bị lún
sâu không lên được . Chủ nhiệm chính trị hô: “ Nào các đồng chí theo
tôi !”. Anh nhảy xuống ghé lưng cõng nhà báo lão thành từ xe qua vũng
lầy .Tiếp đến chị Hằng . Hai chiến sỹ cùng chúng tôi, cả anh Lê Thanh
Đạo nhảy xuống làm theo đồng chí đại úy. Mọi người khiêng bổng hai
chiếc xe qua bãi lầy. Khi xe tiếp tục lăn bánh, viên đại úy mặt mũi đầy
bùn, nhoẻn một nụ cười rất hồn nhiên. Nhà báo lão thành Ba Dân nhìn viên
đại úy, nói với chúng tôi: “Người cán bộ phải dấn thân như thế !”.
Lẽ thường vốn vậy, tốt-xấu do mình, khen chê là quyền của mọi người, ai cũng có cách nhìn nhận và chính kiến của họ, chặn miệng thế gian là việc làm ngược cách. Dư luận trong dân chúng (trừ những động cơ cá nhân nào đó của một vài người hay thiểu số) phần lớn thường khách quan, công bằng; việc đáng khen thì khen, việc đáng chê thì chê, khi cần phỉ nhổ thì cũng không ngán. Có điều, người bị chê phải biết tự nhận diện, tự xem xét lại mình, không nên chủ quan hoặc tìm cách khỏa lấp, chống chế vì những động cơ cá nhân thấp hèn.
Lẽ thường vốn vậy, tốt-xấu do mình, khen chê là quyền của mọi người, ai cũng có cách nhìn nhận và chính kiến của họ, chặn miệng thế gian là việc làm ngược cách. Dư luận trong dân chúng (trừ những động cơ cá nhân nào đó của một vài người hay thiểu số) phần lớn thường khách quan, công bằng; việc đáng khen thì khen, việc đáng chê thì chê, khi cần phỉ nhổ thì cũng không ngán. Có điều, người bị chê phải biết tự nhận diện, tự xem xét lại mình, không nên chủ quan hoặc tìm cách khỏa lấp, chống chế vì những động cơ cá nhân thấp hèn.
Buổi tối hôm ấy, Ban chỉ huy trung đoàn 152 mời chúng
tôi ăn cơm với thịt trâu luộc. Bấy giờ đang thời buổi đói kém, và đã
trải qua một ngày vất vả , mệt nhọc , nhưng chúng tôi không tài nào nuốt
nổi miếng cơm vì hình ảnh ghê rợn ở Ba Chúc vẫn còn lởn vởn trước mắt.
Tôi kê cuốn sổ tay lên đầu gối ghi lại những việc xảy ra trong ngày , và
tự nhiên bật ra những câu thơ không vần điệu. Trước khi tạm biệt Ban
chỉ huy trung đoàn, tôi đọc bài thơ ấy cho mọi người nghe:
Ta lại hành quân về biên giới Tây Nam
Mộc Hóa, Tân Biên lửa ngút ngàn
Máu dân nhuộm đỏ đồng Ba Chúc
Sa Mát, Cà Tum …trắng khăn tang.
Những tên lính áo đen
Ném trẻ con vào lửa
Đập đầu , mổ bụng người già
Đâm cọc nhọn vào cửa mình phụ nữ
Miệng hô vạn tuế Ăng-ca
Những tên đập đầu dân Cam-pu-chia
Xây dựng “chính quyền năm không” quái dị
Chúng với ta từng là đồng chí
Thắm tình hữu nghị anh em
Đường hành quân về biên giớ Tây Nam
Qua những hố bom chưa kịp lấp
Qua những chiếc cầu đổ sập
Gặp những mẹ già chua kịp xả khăn tang
Ta lại hành quân về biên giớ Tây Nam
Thành phố sau lưng chập chờn ánh điện
Con khát sữa chụp bình cháo loãng
Mẹ đói lòng nhai tạm bo bo
Vợ ta còm cõi xác xơ
Đêm ngày lại đỏ mắt chờ đợi ta!
Mọi người lặng đi một lát . Đồng chí đại úy chủ nhiệm
chính trị bắt tay tôi và xin bài thơ chép tay để đăng báo tường đơn vị.
Đồng chí đại úy trẻ ấy chính là Thủ tường Nguyễn Tấn Dũng bây giờ.
Hơn ba chục năm đã qua chưa một lần tôi gặp lại ông Nguyễn
Tấn Dũng, nhưng tôi không quên hình ảnh người đại úy trẻ khóc khi kể về
những người đồng bào của mình bị sát hại và nhảy xuống cõng nhà báo lão
thành qua đầm lầy lên mặt trận biên giới năm ấy.
Tôi nghĩ, ông Nguyễn Tấn Dũng là một người được sinh ra giữa
đồng đất Nam Bộ phì nhiêu , giữa những người dân trọng nghĩa hiệp ,
phóng khoáng, là người từ gian khổ hy sinh mà trưởng thành. Một con
người biết khóc trước nỗi đau của dân, biết tôn trọng một nhà báo lão
thành, biết tìm về tận quê người bạn chiến đấu là anh Phan Trung Kiên để
trả ơn, một người như thế không thể “hỏng ” được – Tôi dùng chữ “HỎNG”
là chữ của cố nhà báo, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, nguyên Trưởng Ban
tuyên huấn Trung ương cục miền Nam. Chắc Thủ tướng chưa quên những năm
tháng lăn lộn, sống chết vì nhan dân và chiến sĩ để đánh Pôn Pốt, tay
sai của Trung Nam Hải; chưa quên những gian nan cơ cực của người dân
vùng đầu nguồn lũ ĐBSCL. Nay trước giá cả tăng vọt, đại gia lại cướp
tiền bán cá, nợ tiền mua lúa, mua mía của dân, ngân hàng khó khăn nên
dân cũng khó cậy nhờ, cơ cực lắm! Cùng với sự mất giá trầm trọng của
đồng tiền, tỉ lệ hộ nghèo ở các địa phương trong cả nước đều tăng …
Vậy thì những sai lầm khuyết điểm của Thủ tướng là do đâu?
Vừa qua Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tự kiểm điểm sâu
sắc và các Ủy viên Bộ chính trị, rồi Ủy viên Trung ương đã đóng góp
thẳng thắn , chí tình chí lí rồi. Thủ tướng đã nhận khuyết điểm trước
Quốc hội rồi.
Nhưng, với góc nhìn của một người không ở phe nhóm nào
và không có bất kỳ tham vọng hay nhu cầu lợi lộc nào, tôi trộm nghĩ,
không đến mức do những hối thức của kinh tế thị trường mà Thủ tướng quên
hết những năm tháng gian nan, thử thách khi là một sĩ quan “Bộ đội Cụ
Hồ”. Vợ con, gia đình Thủ tướng có hối thúc, xúi bẩy hoặc can thiệp gì
không? Sai lầm lớn nhất của Nguyễn Tấn Dũng là chủ quan, liệu rằng có
nhẹ dạ, cả tin, lại không biết lắng nghe và không tin dùng người hiền
tài, trung chính và có tâm huyết.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn thể hiện vị trí độc lập
của Chính phủ, muốn xóa cái lối mòn in đậm trong hành pháp của nước ta,
là Chính phủ chỉ thi hành mọi chủ trương chính sách của Bộ Chính trị
vạch sẵn, Thủ tướng chỉ như một Trưởng ban, thậm chí không bằng trưởng
ban Tổ chức Trung ương dưới thời Lê Đức Thọ. Ông Phạm Văn Đồng đã làm
Thủ tướng như vậy mấy chục năm. Ông Võ Văn Kiệt đã nới rộng cái vòng
kim cô ra một chút . Đến ông Phan Văn Khải thì co vào. Ông Nguyễn Tấn
Dũng quyết bung ra, tập trung quyền hành vào mình. Không hiểu vì mục
đích gì, nhưng khi chính phủ ôm quyền quá nhiều lại nhảy qua thái
cực trở thành độc đoán chuyên quyền, có khi lai chặt đứt vai trò lãnh
đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và vi phạm dân chủ nghiêm
trọng. Đó là mối nguy lớn!
Những người có quyền hành thường nhiễm bệnh quan liêu ,
mệnh lệnh, chủ quan duy ý chí , coi mình như trời, lời nói là khuôn vàng
thước ngọc, không lắng nghe người ngay nói thẳng. Phải thật tỉnh táo
thì mới tránh được điều đó. Ông Võ Văn Kiệt quy tụ bên mình những trí
thức hàng đầu, cả người của chế độ cũ như tiến sỹ Nguyễn Xuân Oánh mà ai
cũng biết rất thẳng. Ông Phan Văn Khải thành lập một Ban tư vấn gồm các
nhà kinh tế, khoa học, văn hóa . Ông Sáu Dân và ông Sáu Khải biết lắng
nghe những lời nói thẳng, biết chọn lựa cái tinh, gạt bỏ tạp chất qua
“cái rây” phản biện của những trí thức tâm huyết với đất nước. Đáng
tiếc, ông Nguyễn Tấn Dũng lại giải tán cái cơ quan người tiền nhiệm đã
sử dụng có hiệu quả, hơn nữa, còn ép dẹp Viện nghiên cứu phát triển
ISD do Tiến sỹ Nguyễn Quang A, Lê Đăng Doanh, Hoàng Tụy, Phạm Chi Lan
và nhiều trí thức tên tuổi khác thành lập, không dùng kinh phí nhà nước,
chỉ muốn giữ vai trò phản biện độc lập, để giúp Chính phù có những lựa
chọn công bằng và hợp lý hơn trong quyết sách xây dựng và phát triển
kinh tế.
Giá như Thủ tướng biết lắng nghe họ, biết đâu đã có thể hạn chế những sai lầm nghiêm trọng như Vinasin, Vinaline, đã có thể cảnh giác với nhóm lũng đoạn ngân hàng.
Giá như Thủ tướng biết lắng nghe họ, biết đâu đã có thể hạn chế những sai lầm nghiêm trọng như Vinasin, Vinaline, đã có thể cảnh giác với nhóm lũng đoạn ngân hàng.
Trong khi giải tán nhóm phản biện độc lập, vì là phản
biện nên họ thường đưa ra những ý kiến trái chiều, thường căn vặn những ý
tứ chưa rõ và soi mói những góc khuất, thì Thủ tướng lại chọn nhóm tư
vấn mà trong đó, có những chuyên viên không có tâm, còn thấp tầm, bụng
dạ chứa đầy chất cơ hội. Đó là những kẻ chỉ nịnh nọt, không can gián bề
trên, thậm chí nói sai nói điêu, xúi giục bề trên đưa ra những chính
sách có lợi cho phe nhóm mình. Qủa thật, tôi không tin tự tâm của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn ra lệnh bắt bớ người biểu tình khi chính ông
nói cần có luật biểu tình. Không phải tự tâm ông muốn đàn áp những người
dân Văn Giang giữ đất khi ông vừa ra lệnh xử nghiêm vụ Tiên Lãng. Cũng
chẳng phải cái tâm muốn xỷ lý các trang mạng khi ký chỉ thị 7169. Và
cũng không phải ông ngây thơ chính trị đến mức tháng trước cho con gái
làm Phó Chủ tịch Ngân hàng Bản Việt, tháng sau đề bạt con trai làm Thứ
trưởng, giữa lúc kinh tế đang khó khăn, vụ Vinasin, Vinaline chưa giải
quyết và lòng dân đang bức xúc vì tham những không giảm khi ông là người
cầm đầu lực lượng chống tham nhũng.
Phải chăng bị lợi dụng bởi những kẻ đứng sau xu nịnh, cơ
hội xúi bẩy, khuấy lên những chuyện đó làm mất uy tín của ông để đục
nước béo cò? Có những kẻ dựa bóng, mượn danh ông gây ra những vụ oan
khốc, thậm chí tàn ác, liệu Thủ tướng có biết? Chưa chắc những kẻ đó đã
có báo cáo thật với Thủ tướng về những việc đã làm. Nhưng, hậu quả và
tai tiếng thì chính Thủ tướng phải gánh chịu. Tôi hiền giúp cho vua
sáng, tớ gian giật đổ ngai vàng. Đời vốn vậy!
Tôi nghĩ, với sự sắc sảo, thông minh và tham vọng của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nếu ông biết lắng nghe và chọn những người có
tài, có đức thực sự để giúp việc cho mình thì ông sẽ thành công. Việc
không thể khác là tự nhận ra mình, xem lại “đội ngũ đệ tử”, nghe lời
khuyên phải, trọng dụng hiền tài.
Khuất Nguyên===>>
Sử cũ còn ghi lại nhiều chuyện để răn đời: Khi vua chúa
quá kém trong thuật dùng người, bị kẻ tiểu nhân mơn trớn, xúc xiểm, cậy
quyền lại trở thành bạo chúa, lộng quyền, để lại ô danh muôn đời, sinh
bao cảnh nước mất nhà tan, oan khiên dậy đất. Sở là một nước mạnh, đứng
đầu các nước Tần, Tề, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy thời Chiến quốc. Khuất
Nguyên vừa là nhà thơ vứa là nhà chính trị lỗi lạc, được vua tin yêu
phong đến chức Tả đồ. Khuất Nguyên nhận ra triều đình rệu rã, nhiều
chính sách sai, nhiều quan tham ăn chơi thác loạn, bè phái hoành hành,
dân chúng lầm than bị ức hiếp, nên thẳng thắn tâu vua sửa sai. Nhưng vì
kiêu ngạo, lại cả tin lời sàm nịnh ton hót, Sở Hoài Vương chẳng những
không nghe Khuất Nguyên mà gét bỏ ông, đày đi biệt xứ. Ông thương nước
Sở, hận Sở Vương, trút hết nỗi sầu vào thi phẩm Ly Tao và trầm mình
xuống dòng sông Mịch La. Đời sau Lý Bạch khóc Khuất Nguyên: “Khuất Bình
tử phú huyền nhật nguyệt. Sở Vương đài tạ không sơn khâu !” (Gía như Sở Vương lắng nghe lời ngay của Khuất Nguyên thì nước Sở còn, sự nghiêp Sở Hoài Vương còn).
Ở nước ta đời vua Trần Nghệ Tông (1321-1391) lúc đầu theo nếp
cũ vua cha Minh Tông lấy pháp luật nghiêm minh làm thước đo, lấy dưỡng
dân làm nền tảng sách lược nên nước thịnh, nhưng sau ông lại tin dùng kế
của kẻ nịnh, cất nhắc bọn Đỗ Tử Bình và Qúy Ly, nên bị quan quân phân
rã, lòng dân oán thán, ngoại bang vốn lăm le từ lâu thừa cơ ra tay, dẫn
đến cơ nghiệp nhà Trần sụp đổ.
M.D
Được đăng bởi buivanbong
“Không gì lãi bằng buôn vua và không gì chết nhanh bằng buôn vua”.
Trần Hùng – Quechoa
NQL: Mình rất ghét dùng ngôn ngữ bựa quá đáng. Có vài chủ blog rất thông minh sắc sảo, nhiều ý kiến mới lạ, hấp dẫn, chỉ vì dùng ngôn ngữ bựa dày đặc đến nỗi không ngửi nổi, mình phải bỏ chạy. Cái gì cũng vậy, vừa phải thì lạ miệng ngon xơi, nhiều quá hóa nhàm, ghê răng, ít ai chịu nổi. Bài này dùng ngôn ngữ bựa rất vừa phải, mình thích.
Nhân đọc bài Ông Tâm bà Yến trên blog Nguyễn Thông, nhiều người không đồng tình.
Lão hiểu ý Bác Thông.
Doanh dân mần chánh trẹo là phù hợp với xu thế thời đại, nhưng xứ Lừa cần cân nhắc kỹ, cũng như muốn làm Mafia nước Vịt thiên đàng không đơn giản tý nào!.
Không ít người đã chết hoặc thân bại danh liệt vì buôn vua: Minh Phụng, Lã Thị Kim Oang, Khánh Trắng, Năm Cam, Bùi Tiến Dũng, Phạm Thanh Bình, Bầu Kiên, Dương Chí Dũng…
Giá như ông Tâm, bà Yến không thích làm dân biểu thì mặc sức làm giàu, ai xoi mói đời tư làm gì.
Giá như Hoàng Hữu Phước không mơ làm ông nghị, thì đâu đến nổi ôm đá và bị cả nước nghi tâm thần.
Giá như Đ L Nguyên Vũ không muốn ghi tên tuổi Danh nhân thì đâu đến nổi loay hoay cắm lá cờ nhân văn trên thế giới.
Giá như Huỳnh Phi Dũng không thành Huỳnh Uy Dũng, thì chả ai bồn ẻ vào thơ con cóc của ông làm gì.
Giá như Hoàng Quang Thuận không mơ giải Lô ben thì ai biết ông đạo văn và chơi sừng tê giác.
Giá như Lão thợ cạo không ngu mơ thành người hùng Bôn sê vích thì biết đâu bây giờ chẳng ngồi trà đạo với Hải đăng Nguyễn Chí Vịnh, tội gì chai đít gõ phím linh tinh.
Chỉ có Trương Gia Bình quan sát kỹ mặt trống đồng hiểu mật mã của quá khứ nên đã hạ cánh an toàn.
Còn chúa đảo Đào Hồng Tuyển vui với các em vô tư đi, từ Thượng sĩ lên Thượng tá là ngon rồi, lên nữa, hãy coi chừng!
…
Theo blog TH
NQL: Mình rất ghét dùng ngôn ngữ bựa quá đáng. Có vài chủ blog rất thông minh sắc sảo, nhiều ý kiến mới lạ, hấp dẫn, chỉ vì dùng ngôn ngữ bựa dày đặc đến nỗi không ngửi nổi, mình phải bỏ chạy. Cái gì cũng vậy, vừa phải thì lạ miệng ngon xơi, nhiều quá hóa nhàm, ghê răng, ít ai chịu nổi. Bài này dùng ngôn ngữ bựa rất vừa phải, mình thích.
Nhân đọc bài Ông Tâm bà Yến trên blog Nguyễn Thông, nhiều người không đồng tình.
Lão hiểu ý Bác Thông.
Doanh dân mần chánh trẹo là phù hợp với xu thế thời đại, nhưng xứ Lừa cần cân nhắc kỹ, cũng như muốn làm Mafia nước Vịt thiên đàng không đơn giản tý nào!.
Không ít người đã chết hoặc thân bại danh liệt vì buôn vua: Minh Phụng, Lã Thị Kim Oang, Khánh Trắng, Năm Cam, Bùi Tiến Dũng, Phạm Thanh Bình, Bầu Kiên, Dương Chí Dũng…
Giá như ông Tâm, bà Yến không thích làm dân biểu thì mặc sức làm giàu, ai xoi mói đời tư làm gì.
Giá như Hoàng Hữu Phước không mơ làm ông nghị, thì đâu đến nổi ôm đá và bị cả nước nghi tâm thần.
Giá như Đ L Nguyên Vũ không muốn ghi tên tuổi Danh nhân thì đâu đến nổi loay hoay cắm lá cờ nhân văn trên thế giới.
Giá như Huỳnh Phi Dũng không thành Huỳnh Uy Dũng, thì chả ai bồn ẻ vào thơ con cóc của ông làm gì.
Giá như Hoàng Quang Thuận không mơ giải Lô ben thì ai biết ông đạo văn và chơi sừng tê giác.
Giá như Lão thợ cạo không ngu mơ thành người hùng Bôn sê vích thì biết đâu bây giờ chẳng ngồi trà đạo với Hải đăng Nguyễn Chí Vịnh, tội gì chai đít gõ phím linh tinh.
Chỉ có Trương Gia Bình quan sát kỹ mặt trống đồng hiểu mật mã của quá khứ nên đã hạ cánh an toàn.
Còn chúa đảo Đào Hồng Tuyển vui với các em vô tư đi, từ Thượng sĩ lên Thượng tá là ngon rồi, lên nữa, hãy coi chừng!
…
Theo blog TH
Thay đổi
Văn Cầm – Quechoa
NQL: Tác giả nói năng nhỏ nhẹ kín kẽ, nhưng đọc kĩ thì hiểu muốn tái cấu trúc nền kinh tế trước hết phải tái cấu trúc chính phủ
Mặc dù mang tiêu đề “Tình hình kinh tế – xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013”, báo cáo của Chính phủ tại phiên họp khai mạc kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII vào đầu tuần này lại tiếp cận theo cách kiểm điểm những điều làm được và chưa làm được của Chính phủ nên người nghe khó lòng hình dung chính xác “tình hình kinh tế” năm nay qua báo cáo. Thay vào đó, người nghe có thể bị cuốn vào những thành tựu như “kiềm chế lạm phát”, “lãi suất cho vay đã giảm”, “tỷ giá ổn định”, “xuất khẩu tăng 18,9%”, “dự trữ ngoại hối tăng”, “ước thu ngân sách đạt kế hoạch”, “giữ bội chi ngân sách ở mức 4,8% GDP”, “hàng tồn kho giảm”, “sản xuất công nghiệp tăng dần qua từng quí”…
Thậm chí những điểm chưa làm được, tức chưa đạt chỉ tiêu do Quốc hội thông qua vào năm ngoái như tăng trưởng GDP cũng làm người nghe hình dung khác về nền kinh tế khi nghe “tăng trưởng kinh tế chín tháng đạt 4,73%, ước cả năm đạt khoảng 5,2%, thấp hơn kế hoạch nhưng quí sau cao hơn quí trước”. “Quí sau cao hơn quí trước” thì không có gì đáng lo, mọi chuyện đang tốt dần lên. Nói tóm lại, cách nói “đạt và vượt 10 trên 15 chỉ tiêu kế hoạch” là cách tư duy rất cũ kỹ trong khi tình hình thực của nền kinh tế không được nhận diện đầy đủ và chính xác.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế Quốc hội cũng nhận định, trong ủy ban một số ý kiến cho rằng: “Báo cáo của Chính phủ đánh giá chưa sát với tình hình, một số số liệu còn có độ vênh so với thực tế, chưa phản ánh hết mức độ khó khăn của đời sống xã hội và nền kinh tế, đặc biệt là khó khăn của doanh nghiệp”.
Nhìn từ góc độ doanh nghiệp, nếu hỏi họ vấn đề gì là lớn nhất của nền kinh tế trong năm 2012, câu trả lời ắt là chi phí tài chính đang là gánh nặng đè bẹp nhiều người, tiền lãi làm ra bao nhiêu cũng chưa đủ để trả lãi vay ngân hàng. Lẽ ra báo cáo phải làm rõ vì sao tiền không chảy vào nền kinh tế, Chính phủ sẽ làm gì với tình hình nợ xấu đang làm nghẽn dòng tín dụng, vì sao chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay vẫn còn lớn như hiện nay…
Với đại đa số người dân, tình hình kinh tế đồng nghĩa với cuộc sống ngày càng khó khăn hơn vì đồng tiền mất giá, thu nhập giảm sút. Báo cáo cho biết “qua chín tháng đã giải quyết được 1,13 triệu việc làm mới, ước cả năm đạt khoảng 1,52 triệu”. Đây là con số rất đáng lạc quan nếu nó chính xác tuy mức độ chính xác khó mà đo lường cho được. Khu vực doanh nghiệp nhà nước thì hầu như không tạo ra được việc làm nào mới trong khi khu vực tư nhân khó lòng tạo ra số việc làm khổng lồ này khi số doanh nghiệp ngưng hoạt động tăng mạnh so với những năm trước.
Cũng bởi nhìn tình hình kinh tế, xã hội dưới lăng kính các chỉ tiêu nên báo cáo không đề cập đến các vấn đề gây bức xúc trong dân chúng, từ chuyện cụ thể như cách giải quyết đập thủy điện Sông Tranh 2 đến các vấn đề an sinh như tăng viện phí gây tác động lớn lên người dân. Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế nêu lên những nghịch lý của nền kinh tế trong khi báo cáo của Chính phủ hoàn toàn không đề cập gì đến những nghịch lý này.
Điều mọi người trông đợi ở báo cáo hay nói đúng ra ở bộ máy điều hành kinh tế là một sự thay đổi căn bản về tư duy điều hành: không bám theo các chỉ tiêu cứng nhắc mà là phân tích và tìm giải pháp cho những vấn đề lớn của kinh tế, xã hội. Đó là tìm mô hình tăng trưởng mới khi đầu tư không còn là động lực thúc đẩy tăng trưởng nữa (ít nhất là trong những năm tập trung giải quyết nợ xấu của nền kinh tế). Trong mô hình này, việc tăng năng suất phải được đặt ra, việc cạnh tranh bình đẳng phải được khuyến khích và việc thay đổi cán cân xuất nhập khẩu theo hướng giảm nhập siêu một cách bền vững phải được coi trọng.
Nhìn rộng ra, đặc điểm lớn nhất của nền kinh tế hiện nay là sự sụt giá của nhiều loại bong bóng tài sản, sau nhiều năm phình to. Sự sụt giá này diễn ra rộng khắp, từ chứng khoán, bất động sản đến cơ hội làm ăn, mức lãi hàng năm… dẫn đến nhiều hệ lụy trong đó có cả sự sụt giảm tiêu dùng và ngân sách ngày càng eo hẹp. Bộ máy điều hành kinh tế phải thấy được đặc điểm này và có kế sách phù hợp chứ không thể bám theo khuôn khổ cũ.
Làm nên bộ máy là từng con người cụ thể. Vì thế thay đổi tư duy cả về khía cạnh nhân sự để có những con người phù hợp với cách suy nghĩ mới trước những vấn đề mới cũng là điều cấp thiết không kém. Người đứng đầu Chính phủ đã nhận lỗi về “những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành” – vấn đề là những thay đổi sau đó.
Tác giả gửi cho Quê choa
Đừng trách độc giả non dạ đọc truyện ngôn tình nhảm nhí. Hãy hỏi những ai mang truyện nhảm nhí dúi vào tay độc giả trẻ?
1. Năm 2006, có một người đàn bà bốn mươi tuổi đã táo tợn đưa Khổng Tử và Trang Tử vào thẩm mỹ viện, trét lên mặt hai nhà tư tưởng này một lớp son phấn mới y như kỹ nữ múa cột, chỉ dùng để mua vui cho công chúng. Bà khiến đám đông nhận ra Trang Tử và Khổng Tử chính là một thứ “thực phẩm chức năng” mới của thời công nghiệp: Giúp con người tìm thấy cách sống hạnh phúc hơn, trong thời thế chính trị đảo lộn tại Trung Quốc, và đồng tiền làm bá chủ thay cho đạo đức ngàn năm mà người Trung Quốc từng tôn sùng “tam tôn”, thậm chí cả những giá trị truyền thống bị xua đuổi trong thời Cách mạng văn hóa rồi lại được Đảng cộng sản Trung Quốc rước vào để tạo ra cơn sốt nhân tạo đầy mưu mô chính trị mang tên “Quốc học” mấy năm nay tại Trung Quốc.
Người đàn bà này tên là Vu Đan (Yu Dan). Một nửa Trung Quốc nhổ nước bọt vào những gì Vu Đan nói. Hàng chục học giả của Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh liên kết lại mở những hội nghị phỉ báng Vu Đan trong suốt những năm qua. Một nửa Trung Quốc còn lại phát điên lên hâm mộ một nữ tác gia làm sống lại những giá trị khô cứng của Luận Ngữ dưới sự soi sáng của tư duy vị nhân sinh. Phó chủ tịch Quốc hội của Trung Quốc cũng phải lên tiếng vì phát ngôn của người đàn bà này về Khổng Tử. Bởi, trong khi chính quyền Trung Quốc vài năm nay đang cố gắng biến Khổng Tử thành một đặc sản Trung Hoa để đại diện cho mưu đồ bá chủ và tập quyền, dân chủ theo “kiểu Trung Quốc”. Chính phủ Trung Quốc muốn Khổng Tử là một thứ công cụ tư tưởng phục vụ cho mục đích khiến người dân có xu hướng phục tùng quyền lực độc tôn. Thậm chí Trung Quốc vạch ra kế hoạch phải “xuất khẩu” bằng được các Học viện Khổng Tử ra nước ngoài, thì “Khổng Tử tinh hoa” của Vu Đan đã biến Khổng Tử thành một món mì ăn liền tư tưởng!
Trên mạng Trung Quốc tràn lan những bài phỉ báng tác giả Vu Đan – một trong mười nữ trí thức đẹp nhất Trung Quốc hiện nay, như “Thư tình của anh Khổng Tử gửi chân dài Vu Đan nhân lễ Valentine cô đơn!”, hoặc mỉa mai, thay Khổng Tử gửi tâm thư cho Vu Đan: “Trước ta tưởng đàn bà vô Tài tức là có Đức đó! 2.500 năm nay, Khổng Tử ta mới gặp một người đàn bà vừa có tài, vừa có đức, lại vừa đẹp, như nàng!”
Nhưng nói cách khác, Vu Đan cũng làm cho đông đảo giới trí thức trẻ Trung Quốc bừng tỉnh dậy vì cách khai thác các giá trị tư tưởng truyền thống dưới nhãn quang hiện đại. Nếu tư tưởng, luận thuyết không làm cho người dân tìm ra cách sống hạnh phúc hơn, thì tư tưởng còn giá trị gì? Một phong trào đọc – tìm – chú giải – khám phá – chia sẻ về những giá trị văn hóa “kiểu Trung Quốc” lại đã vô tình tiếp sức mạnh mẽ cho phong trào “Quốc học” ở toàn Trung Quốc. Nói một cách khác, Vu Đan lại cũng có vai trò vô cùng lớn để truyền bá cho học thuyết của Khổng Tử. Với chính quyền Trung Quốc, bà vừa có tội – rất to, lại vừa có công – rất lớn!
Sách của bà đã lập tức được dịch ra tiếng Pháp và nhiều thứ tiếng khác, với 10 triệu bản (chính thức) và khoảng gấp rưỡi bản lậu được bán ra trong vài năm qua.
“Khổng Tử tinh hoa” và ngay cả “Trang Tử tâm đắc” của Vu Đan đã được xuất bản sang tiếng Việt. Nhưng, bi kịch là ngay cả người mua bản quyền sách đó về Việt Nam cũng không hề biết mình đang làm cuốn sách có gì đặc biệt, có vị thế nào trong thị trường đọc và có giá trị gì về tư tưởng, văn hóa. Giới thiệu về cuốn này ở Việt Nam được viết bằng những dòng không thể nhảm nhí và sáo rỗng hơn: “Dù thời gian trôi qua, những giá trị của Khổng Tử luôn sống mãi với thời gian!”
Ai thèm đọc một cuốn sách được giới thiệu vô trách nhiệm như thế?
Hoặc nói một cách bản chất hơn: Việt Nam có cây bút giới thiệu sách nào có uy tín với độc giả đại trà chưa? Đủ để, điểm được những sách hay cho độc giả đọc? Hoặc, lôi kéo được độc giả đi theo mình với vai trò người dẫn đường văn hóa đọc?
2. Sau một thời gian lựa các tựa sách và nội dung để mua bản quyền giùm một số công ty sách và đại lý bản quyền, tôi phát hiện ra một bí mật của sách ngôn tình “Made in China” tại Việt Nam: Công ty sách chọn mua bản quyền theo màu của bìa sách gốc!
Bìa sách văn học Trung Quốc dùng màu hồng và nhiều màu trắng là được ưu tiên chọn mua về dịch nhiều nhất. Bìa vẽ theo hình thức Manga, thậm chí cán nhũ sẽ được lựa chọn gần như tuyệt đối! Các công ty sách sẽ chỉ nhăm nhăm một việc là “trông mặt mà bắt hình dong”, cho dù trước đó họ đã đọc qua giới thiệu sách, mô tả về tác giả và tác phẩm đi nữa, thì họ cũng sẽ chọn ngay cuốn nào mà bìa có vẻ lãng mạn tươi sáng, hình vẽ ngọt ngào. Và đã là ngôn tình, thì tên sách hay tên tác giả chẳng quan trọng nữa, nói gì tới… trong sách viết cái gì?
Thậm chí, mấy năm trước, có lần lựa được vài cuốn sách văn học thiếu nhi có vẻ tử tế một chút để mua bản quyền về Việt Nam, xong tôi loại những sách văn học ngôn tình ra một thùng khác trả lại đại lý bản quyền. Ngay lập tức, một công ty sách tư nhân mới mở của Việt Nam chạy tới bảo, ngôn tình chứ gì, để anh lấy cả thùng này luôn! Rồi họ bê đi hơn năm mươi cuốn ngôn tình, không thèm mở ra xem là cuốn gì. Nghe nói, số sách đó họ phát hành trong hơn một năm rưỡi, thu về tính ra gần một tỷ.
Thậm chí khi sách dịch xong được xuất bản, những tên sách ngây ngô vừa sai với bản gốc vừa thách tiền tỷ cũng không ai hiểu nổi như “Đồng lang cộng hôn” (thực ra tên sách là Hôn Sói) hoặc “Huyền của ôn noãn” (thực ra tên sách là Sợi Dây Đàn Ấm Áp, lấy từ một câu hát, với bìa gốc vẽ những nốt nhạc lãng mạn buông xuống quanh vai cô bé tuổi mộng), chính là một cách coi thường độc giả. Và cũng coi thường luôn các nhà xuất bản, những vị học giả phê bình văn học trịnh trọng, người quản lý xuất bản, hay những quan chức của Hội Nhà Văn Việt Nam coi việc người Việt đọc gì là thứ nằm ngoài trách nhiệm của mình!
3. Đầu nậu bảo tôi, ngôn tình đẽo mãi cũng nhạt lắm rồi, văn học kỳ ảo cũng nguội rồi, mấy tháng nay ngồi chờ thị trường xem có lối thoát nào khác. Đang chuyển hướng đánh sang ngôn tình Hàn Quốc.
Thật tội cho độc giả, đọc thấy cuốn nào cũng in chữ Best-seller trên bìa, và những bài giới thiệu sách ở Việt Nam là loại bài đặc biệt được báo chí cho phép hào phóng mỹ từ khen tặng tót vời. Độc giả đâu biết đó là một thứ bi kịch!
Trang Hạ
Hà Anh - Tiến Dũng
(VnExpress)
Mỹ: Quan sát thận trọng
Trái với sự câm lặng choán gần hết thời gian của vở diễn, không khí bên ngoài nơi công chúng lại đang huyên náo hơn bao giờ hết. Vừa chấm dứt vở diễn người ta đã la ó, chửi bới, mạt sát, và thất vọng tràn trề cả về nội dung lẫn hình thức. Thực ra họ cũng không lạ gì "loại hình nghệ thuật" này nhưng trước vở diễn nhiều nhà phê bình cả chuyên lẫn không chuyên đưa ra dự đoán với suy diễn một chiều, khiến công chúng hy vọng chắc "vở kịch" sẽ có một kết cục rất "hoành tráng", song nó lại không như dự đoán. Cuối cùng họ đã bị lừa, bị chưng hửng và thất vọng.
Chẳng riêng gì công chúng, ngay chính những nhà "phê bình điện ảnh", nhà "nghiên cứu sân khấu" cũng bị bất ngờ. Thế rồi cả công chúng lẫn phần lớn các nhà phân tích đều thống nhất cho rằng vở kịch thất bại, vai diễn quá tồi.
Theo dư luận, sự thất bại biểu hiện ở chỗ: nếu sự diễn xuất tẻ ngắt theo kiểu "kịch câm nửa mùa" khiến công chúng chán ngán và thất vọng một phần, thì chín phần còn lại là do đoạn kết của vở diễn. Khi mà đến cả "Vua" cũng không dám gọi tên kẻ "phản phúc". Tội lỗi của y thì đã hai năm rõ mười.
Thế mới biết làm cái nghề sân khấu không phải là dễ.
Tuy nhiên khi xem xét đến sự thành công hay không của một vở diễn thì ngoài số lượng khán giả còn phải tính đến cái "giá trị nghệ thuật" của nó. Nhiều vở kịch hay bộ phim rất ăn khách nhưng chưa chắc đã phải là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao.
Nghệ thuật là cả một quá trình lao động sáng tạo của nghệ sĩ, nó đòi hỏi phải có sự thăng hoa và sáng tạo. Mặt khác sự thành công của vở kịch còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như kịch bản, đạo diễn... còn diễn viên cũng chỉ đóng một vai trò nhất định thôi. Vậy hãy bình tĩnh một chút, suy ngẫm lại một chút thì thấy cả vở kịch lẫn vai diễn cũng có những thành công nhất định. Hãy thử phân tích theo những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Đã là kịch câm thì ngôn ngữ chính là hình thể chứ không phải bằng lời nói thông thường. Về khía cạnh này thì vở diễn khá đạt, ít nhất là đã thể hiện đúng hình thức của một "vở kịch câm".
Thứ hai: Trong khía cạnh nghệ thuật (mà ở đây, kịch chính là nghệ thuật sử dụng ngôn từ), có những lúc không nhất thiết phải biểu đạt một cách cụ thể, mà chỉ cần nói xa, nói xôi, nói úp mở... cách nói đó gọi là ngôn ngữ ẩn dụ. Nhiều khi dùng lối nói ẩn dụ lại truyền đạt được nhiều hơn là nói cụ thể. Lấy ví dụ như đoạn văn sau đây được trích từ một tiểu thuyết:
"... Trong lúc vội vàng tìm chỗ ngồi trên xe buýt, Hùng vô tình đặt tay mình vào đúng "chỗ ấy" của một thiếu nữ trên xe. Cô gái giật mình, vội khép đùi lại, rồi quay sang nhìn Hùng, khuôn mặt đẹp của cô bỗng đỏ rần rần. Hùng lúng túng, ấp úng định xin lỗi, song cũng chẳng biết là xin lỗi cái gì. Thế rồi cả hai cùng im lăng, cùng quay mặt đi."
Ở đoạn văn trên, nếu ta thay "chỗ ấy" bằng cái... của cô gái thì thật chẳng ra làm sao, mà thậm chí mất đi sức truyền cảm của cái mà người ta cần nhấn mạnh. Không phải lý do để lịch sự, tế nhị mà cách nói như thế còn làm nổi bật thêm cái cần nói. Chẳng cần phải gọi đúng tên, mọi người đều hiểu "chỗ ấy" là cái gì thì mới là hay.
Cũng tương tự, cụ Tổng đã nói hết những tội danh của cái "đồng chí X" rồi còn gì? Nào là thất bại trong điều hành chính phủ để thất thoát rất lớn trong các Tập đoàn kinh tế, đặc biệt là Vinashin, Vinaline; nào là để các nhóm lợi ích lũng đoạn tài chính, thôn tính ngân hàng; nào là có biểu hiện dung túng cho người nhà, người thân lợi dụng chức quyền làm giàu bất chính... và cái "đồng chí ấy" lại ở trong BCT thì còn ai vào đấy nữa? Nói như thế đã là "bắt tận tay day tận trán" rồi còn gì?
Cả đoạn văn trên và đoạn cuối "diễn văn bế mạc Hội nghị" của cụ Tổng đều giống nhau ở cách diễn đạt ngôn ngữ ẩn dụ rất thành công. Tuy không nói mà mọi người đều hiểu rõ ràng "chỗ ấy" chỉ có thể là "cái ấy" và cái "đồng chí X" cũng chỉ có thể là "đồng chí ấy" mà thôi. Lối nói đó trên thực tế còn có sức mạnh công phá hơn là gọi đúng cái tên cúng cơm của nó. Có lẽ ngài đã cân nhắc chán, suy nghĩ chán rồi mới diễn xuất như thế.
Xem ra cụ Tổng tuy học về chính trị Mác-Lê và tư tưởng Hồ chí Minh nhưng cũng khá sành ngôn ngữ và kịch nghệ chứ không phải tay vừa.
25/10/2012
Tùng Lâm
(Dân luận)
(Dân luận)
NQL: Tác giả nói năng nhỏ nhẹ kín kẽ, nhưng đọc kĩ thì hiểu muốn tái cấu trúc nền kinh tế trước hết phải tái cấu trúc chính phủ
Mặc dù mang tiêu đề “Tình hình kinh tế – xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm 2013”, báo cáo của Chính phủ tại phiên họp khai mạc kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII vào đầu tuần này lại tiếp cận theo cách kiểm điểm những điều làm được và chưa làm được của Chính phủ nên người nghe khó lòng hình dung chính xác “tình hình kinh tế” năm nay qua báo cáo. Thay vào đó, người nghe có thể bị cuốn vào những thành tựu như “kiềm chế lạm phát”, “lãi suất cho vay đã giảm”, “tỷ giá ổn định”, “xuất khẩu tăng 18,9%”, “dự trữ ngoại hối tăng”, “ước thu ngân sách đạt kế hoạch”, “giữ bội chi ngân sách ở mức 4,8% GDP”, “hàng tồn kho giảm”, “sản xuất công nghiệp tăng dần qua từng quí”…
Thậm chí những điểm chưa làm được, tức chưa đạt chỉ tiêu do Quốc hội thông qua vào năm ngoái như tăng trưởng GDP cũng làm người nghe hình dung khác về nền kinh tế khi nghe “tăng trưởng kinh tế chín tháng đạt 4,73%, ước cả năm đạt khoảng 5,2%, thấp hơn kế hoạch nhưng quí sau cao hơn quí trước”. “Quí sau cao hơn quí trước” thì không có gì đáng lo, mọi chuyện đang tốt dần lên. Nói tóm lại, cách nói “đạt và vượt 10 trên 15 chỉ tiêu kế hoạch” là cách tư duy rất cũ kỹ trong khi tình hình thực của nền kinh tế không được nhận diện đầy đủ và chính xác.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế Quốc hội cũng nhận định, trong ủy ban một số ý kiến cho rằng: “Báo cáo của Chính phủ đánh giá chưa sát với tình hình, một số số liệu còn có độ vênh so với thực tế, chưa phản ánh hết mức độ khó khăn của đời sống xã hội và nền kinh tế, đặc biệt là khó khăn của doanh nghiệp”.
Nhìn từ góc độ doanh nghiệp, nếu hỏi họ vấn đề gì là lớn nhất của nền kinh tế trong năm 2012, câu trả lời ắt là chi phí tài chính đang là gánh nặng đè bẹp nhiều người, tiền lãi làm ra bao nhiêu cũng chưa đủ để trả lãi vay ngân hàng. Lẽ ra báo cáo phải làm rõ vì sao tiền không chảy vào nền kinh tế, Chính phủ sẽ làm gì với tình hình nợ xấu đang làm nghẽn dòng tín dụng, vì sao chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay vẫn còn lớn như hiện nay…
Với đại đa số người dân, tình hình kinh tế đồng nghĩa với cuộc sống ngày càng khó khăn hơn vì đồng tiền mất giá, thu nhập giảm sút. Báo cáo cho biết “qua chín tháng đã giải quyết được 1,13 triệu việc làm mới, ước cả năm đạt khoảng 1,52 triệu”. Đây là con số rất đáng lạc quan nếu nó chính xác tuy mức độ chính xác khó mà đo lường cho được. Khu vực doanh nghiệp nhà nước thì hầu như không tạo ra được việc làm nào mới trong khi khu vực tư nhân khó lòng tạo ra số việc làm khổng lồ này khi số doanh nghiệp ngưng hoạt động tăng mạnh so với những năm trước.
Cũng bởi nhìn tình hình kinh tế, xã hội dưới lăng kính các chỉ tiêu nên báo cáo không đề cập đến các vấn đề gây bức xúc trong dân chúng, từ chuyện cụ thể như cách giải quyết đập thủy điện Sông Tranh 2 đến các vấn đề an sinh như tăng viện phí gây tác động lớn lên người dân. Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế nêu lên những nghịch lý của nền kinh tế trong khi báo cáo của Chính phủ hoàn toàn không đề cập gì đến những nghịch lý này.
Điều mọi người trông đợi ở báo cáo hay nói đúng ra ở bộ máy điều hành kinh tế là một sự thay đổi căn bản về tư duy điều hành: không bám theo các chỉ tiêu cứng nhắc mà là phân tích và tìm giải pháp cho những vấn đề lớn của kinh tế, xã hội. Đó là tìm mô hình tăng trưởng mới khi đầu tư không còn là động lực thúc đẩy tăng trưởng nữa (ít nhất là trong những năm tập trung giải quyết nợ xấu của nền kinh tế). Trong mô hình này, việc tăng năng suất phải được đặt ra, việc cạnh tranh bình đẳng phải được khuyến khích và việc thay đổi cán cân xuất nhập khẩu theo hướng giảm nhập siêu một cách bền vững phải được coi trọng.
Nhìn rộng ra, đặc điểm lớn nhất của nền kinh tế hiện nay là sự sụt giá của nhiều loại bong bóng tài sản, sau nhiều năm phình to. Sự sụt giá này diễn ra rộng khắp, từ chứng khoán, bất động sản đến cơ hội làm ăn, mức lãi hàng năm… dẫn đến nhiều hệ lụy trong đó có cả sự sụt giảm tiêu dùng và ngân sách ngày càng eo hẹp. Bộ máy điều hành kinh tế phải thấy được đặc điểm này và có kế sách phù hợp chứ không thể bám theo khuôn khổ cũ.
Làm nên bộ máy là từng con người cụ thể. Vì thế thay đổi tư duy cả về khía cạnh nhân sự để có những con người phù hợp với cách suy nghĩ mới trước những vấn đề mới cũng là điều cấp thiết không kém. Người đứng đầu Chính phủ đã nhận lỗi về “những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành” – vấn đề là những thay đổi sau đó.
Tác giả gửi cho Quê choa
Bi kịch của độc giả Việt
Trang Hạ
Đừng trách độc giả non dạ đọc truyện ngôn tình nhảm nhí. Hãy hỏi những ai mang truyện nhảm nhí dúi vào tay độc giả trẻ?
1. Năm 2006, có một người đàn bà bốn mươi tuổi đã táo tợn đưa Khổng Tử và Trang Tử vào thẩm mỹ viện, trét lên mặt hai nhà tư tưởng này một lớp son phấn mới y như kỹ nữ múa cột, chỉ dùng để mua vui cho công chúng. Bà khiến đám đông nhận ra Trang Tử và Khổng Tử chính là một thứ “thực phẩm chức năng” mới của thời công nghiệp: Giúp con người tìm thấy cách sống hạnh phúc hơn, trong thời thế chính trị đảo lộn tại Trung Quốc, và đồng tiền làm bá chủ thay cho đạo đức ngàn năm mà người Trung Quốc từng tôn sùng “tam tôn”, thậm chí cả những giá trị truyền thống bị xua đuổi trong thời Cách mạng văn hóa rồi lại được Đảng cộng sản Trung Quốc rước vào để tạo ra cơn sốt nhân tạo đầy mưu mô chính trị mang tên “Quốc học” mấy năm nay tại Trung Quốc.
Người đàn bà này tên là Vu Đan (Yu Dan). Một nửa Trung Quốc nhổ nước bọt vào những gì Vu Đan nói. Hàng chục học giả của Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh liên kết lại mở những hội nghị phỉ báng Vu Đan trong suốt những năm qua. Một nửa Trung Quốc còn lại phát điên lên hâm mộ một nữ tác gia làm sống lại những giá trị khô cứng của Luận Ngữ dưới sự soi sáng của tư duy vị nhân sinh. Phó chủ tịch Quốc hội của Trung Quốc cũng phải lên tiếng vì phát ngôn của người đàn bà này về Khổng Tử. Bởi, trong khi chính quyền Trung Quốc vài năm nay đang cố gắng biến Khổng Tử thành một đặc sản Trung Hoa để đại diện cho mưu đồ bá chủ và tập quyền, dân chủ theo “kiểu Trung Quốc”. Chính phủ Trung Quốc muốn Khổng Tử là một thứ công cụ tư tưởng phục vụ cho mục đích khiến người dân có xu hướng phục tùng quyền lực độc tôn. Thậm chí Trung Quốc vạch ra kế hoạch phải “xuất khẩu” bằng được các Học viện Khổng Tử ra nước ngoài, thì “Khổng Tử tinh hoa” của Vu Đan đã biến Khổng Tử thành một món mì ăn liền tư tưởng!
Trên mạng Trung Quốc tràn lan những bài phỉ báng tác giả Vu Đan – một trong mười nữ trí thức đẹp nhất Trung Quốc hiện nay, như “Thư tình của anh Khổng Tử gửi chân dài Vu Đan nhân lễ Valentine cô đơn!”, hoặc mỉa mai, thay Khổng Tử gửi tâm thư cho Vu Đan: “Trước ta tưởng đàn bà vô Tài tức là có Đức đó! 2.500 năm nay, Khổng Tử ta mới gặp một người đàn bà vừa có tài, vừa có đức, lại vừa đẹp, như nàng!”
Nhưng nói cách khác, Vu Đan cũng làm cho đông đảo giới trí thức trẻ Trung Quốc bừng tỉnh dậy vì cách khai thác các giá trị tư tưởng truyền thống dưới nhãn quang hiện đại. Nếu tư tưởng, luận thuyết không làm cho người dân tìm ra cách sống hạnh phúc hơn, thì tư tưởng còn giá trị gì? Một phong trào đọc – tìm – chú giải – khám phá – chia sẻ về những giá trị văn hóa “kiểu Trung Quốc” lại đã vô tình tiếp sức mạnh mẽ cho phong trào “Quốc học” ở toàn Trung Quốc. Nói một cách khác, Vu Đan lại cũng có vai trò vô cùng lớn để truyền bá cho học thuyết của Khổng Tử. Với chính quyền Trung Quốc, bà vừa có tội – rất to, lại vừa có công – rất lớn!
Sách của bà đã lập tức được dịch ra tiếng Pháp và nhiều thứ tiếng khác, với 10 triệu bản (chính thức) và khoảng gấp rưỡi bản lậu được bán ra trong vài năm qua.
“Khổng Tử tinh hoa” và ngay cả “Trang Tử tâm đắc” của Vu Đan đã được xuất bản sang tiếng Việt. Nhưng, bi kịch là ngay cả người mua bản quyền sách đó về Việt Nam cũng không hề biết mình đang làm cuốn sách có gì đặc biệt, có vị thế nào trong thị trường đọc và có giá trị gì về tư tưởng, văn hóa. Giới thiệu về cuốn này ở Việt Nam được viết bằng những dòng không thể nhảm nhí và sáo rỗng hơn: “Dù thời gian trôi qua, những giá trị của Khổng Tử luôn sống mãi với thời gian!”
Ai thèm đọc một cuốn sách được giới thiệu vô trách nhiệm như thế?
Hoặc nói một cách bản chất hơn: Việt Nam có cây bút giới thiệu sách nào có uy tín với độc giả đại trà chưa? Đủ để, điểm được những sách hay cho độc giả đọc? Hoặc, lôi kéo được độc giả đi theo mình với vai trò người dẫn đường văn hóa đọc?
2. Sau một thời gian lựa các tựa sách và nội dung để mua bản quyền giùm một số công ty sách và đại lý bản quyền, tôi phát hiện ra một bí mật của sách ngôn tình “Made in China” tại Việt Nam: Công ty sách chọn mua bản quyền theo màu của bìa sách gốc!
Bìa sách văn học Trung Quốc dùng màu hồng và nhiều màu trắng là được ưu tiên chọn mua về dịch nhiều nhất. Bìa vẽ theo hình thức Manga, thậm chí cán nhũ sẽ được lựa chọn gần như tuyệt đối! Các công ty sách sẽ chỉ nhăm nhăm một việc là “trông mặt mà bắt hình dong”, cho dù trước đó họ đã đọc qua giới thiệu sách, mô tả về tác giả và tác phẩm đi nữa, thì họ cũng sẽ chọn ngay cuốn nào mà bìa có vẻ lãng mạn tươi sáng, hình vẽ ngọt ngào. Và đã là ngôn tình, thì tên sách hay tên tác giả chẳng quan trọng nữa, nói gì tới… trong sách viết cái gì?
Thậm chí, mấy năm trước, có lần lựa được vài cuốn sách văn học thiếu nhi có vẻ tử tế một chút để mua bản quyền về Việt Nam, xong tôi loại những sách văn học ngôn tình ra một thùng khác trả lại đại lý bản quyền. Ngay lập tức, một công ty sách tư nhân mới mở của Việt Nam chạy tới bảo, ngôn tình chứ gì, để anh lấy cả thùng này luôn! Rồi họ bê đi hơn năm mươi cuốn ngôn tình, không thèm mở ra xem là cuốn gì. Nghe nói, số sách đó họ phát hành trong hơn một năm rưỡi, thu về tính ra gần một tỷ.
Thậm chí khi sách dịch xong được xuất bản, những tên sách ngây ngô vừa sai với bản gốc vừa thách tiền tỷ cũng không ai hiểu nổi như “Đồng lang cộng hôn” (thực ra tên sách là Hôn Sói) hoặc “Huyền của ôn noãn” (thực ra tên sách là Sợi Dây Đàn Ấm Áp, lấy từ một câu hát, với bìa gốc vẽ những nốt nhạc lãng mạn buông xuống quanh vai cô bé tuổi mộng), chính là một cách coi thường độc giả. Và cũng coi thường luôn các nhà xuất bản, những vị học giả phê bình văn học trịnh trọng, người quản lý xuất bản, hay những quan chức của Hội Nhà Văn Việt Nam coi việc người Việt đọc gì là thứ nằm ngoài trách nhiệm của mình!
3. Đầu nậu bảo tôi, ngôn tình đẽo mãi cũng nhạt lắm rồi, văn học kỳ ảo cũng nguội rồi, mấy tháng nay ngồi chờ thị trường xem có lối thoát nào khác. Đang chuyển hướng đánh sang ngôn tình Hàn Quốc.
Thật tội cho độc giả, đọc thấy cuốn nào cũng in chữ Best-seller trên bìa, và những bài giới thiệu sách ở Việt Nam là loại bài đặc biệt được báo chí cho phép hào phóng mỹ từ khen tặng tót vời. Độc giả đâu biết đó là một thứ bi kịch!
Trang Hạ
TT. Nguyễn Tấn Dũng bị tước bớt quyền lực
(NV) - Quốc Hội
CSVN họp hôm 26 tháng 12, 2012 chuẩn bị cho một dự thảo sửa đổi Luật
Phòng Chống Tham Nhũng, theo đó sẽ chuyển “Ban Chỉ Ðạo Trung Ương Phòng
Chống Tham Nhũng” từ tay Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa sang tay tổng bí
thư đảng Nguyễn Phú Trọng.
Ông Huỳnh Phong Tranh, tổng thanh tra chính phủ, và cũng là đại biểu Quốc Hội, đọc tờ trình của chính phủ về cái dự thảo luật vừa nói, kết quả của quyết định phiên họp trung ương đảng kỳ 6, một tuần trước khi họp Quốc Hội.
Theo tờ trình này được các báo tại Việt Nam phổ biến rộng rãi, điều nổi bật nhất trong dự thảo sửa đổi Luật Phòng Chống Tham Nhũng là gạt bỏ quy định thủ tướng là người cầm đầu Ban Chỉ Ðạo Phòng Chống Tham Nhũng.
Chuyển tay người chỉ huy chống tham nhũng từ nhà nước sang đảng từng được quyết định từ kỳ họp trung ương đảng kỳ 5 hồi giữa tháng 5, 2012 nhưng vẫn không có một văn kiện chính thức nên ông thủ tướng vẫn ôm cái “Ban Chỉ Ðạo Trung Ương” cho đến nay.
Ngoài sự sửa đổi lấy quyền chống tham nhũng ra khỏi tay ông thủ tướng, hiện chưa dứt khoát còn có thêm gì khác được sửa chữa hay thay đổi của Luật Phòng Chống Tham Nhũng biểu quyết thông qua từ khóa họp Quốc Hội tháng 11 năm 2005.
Ông Nguyễn Tấn Dũng khi biểu quyết luật chống tham nhũng là phó thủ tướng. Sáu tháng sau được đôn lên làm thủ tướng. Ngày 27 tháng 6, 2006 được Quốc Hội “nhất trí” cử làm thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã mạnh mồm tuyên bố “Nếu không chống được tham nhũng tôi xin từ chức”.
Nhưng tham nhũng ngày càng tồi tệ hơn. Ông đã bị đả kích kịch liệt trong cả hai kỳ họp đảng vừa qua về vấn đề tham nhũng.
Khóa họp Quốc Hội cuối năm ngoái, ông lên tiếng nhận lỗi về tai tiếng tham nhũng thất thoát bạc tỉ đô la ở tập đoàn đóng tàu Vinashin. Năm nay lại xảy ra vụ tổng công ty tàu biển Vinalines, một số người bị bắt với nghi vấn lũng đoạn thị trường tài chính.
Khi ra Quốc Hội hôm 22 tháng 10 năm 2012, ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ xin lỗi về những yếu kém của chính phủ chứ không hề nói đến từ chức.
Tháng 5 năm 2011 ông chủ tịch nước CSVN Trương Tấn Sang được báo chí tường thuật kêu trước mặt cử tri ở Sài Gòn: “Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là ‘chết’ cái đất nước này.”
Ngay sau cuộc họp trung ương đảng đầu tháng 10 này ông Sang không nói thẳng tên ông thủ tướng mà chỉ đổ lên đầu “đồng chí X” tội làm cho tham nhũng ngày một tràn lan làm cử tri “bức xúc”.
Năm ngoái, khi tiếp xúc với cử tri, ông tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng kêu “Hiện tượng hư hỏng, tham nhũng, tiêu cực đúng là lắm lúc nghĩ hết sức sốt ruột, nhìn vào đâu cũng thấy, sờ vào đâu cũng có...”
Ông Huỳnh Phong Tranh, tổng thanh tra chính phủ, và cũng là đại biểu Quốc Hội, đọc tờ trình của chính phủ về cái dự thảo luật vừa nói, kết quả của quyết định phiên họp trung ương đảng kỳ 6, một tuần trước khi họp Quốc Hội.
Theo tờ trình này được các báo tại Việt Nam phổ biến rộng rãi, điều nổi bật nhất trong dự thảo sửa đổi Luật Phòng Chống Tham Nhũng là gạt bỏ quy định thủ tướng là người cầm đầu Ban Chỉ Ðạo Phòng Chống Tham Nhũng.
Chuyển tay người chỉ huy chống tham nhũng từ nhà nước sang đảng từng được quyết định từ kỳ họp trung ương đảng kỳ 5 hồi giữa tháng 5, 2012 nhưng vẫn không có một văn kiện chính thức nên ông thủ tướng vẫn ôm cái “Ban Chỉ Ðạo Trung Ương” cho đến nay.
Ngoài sự sửa đổi lấy quyền chống tham nhũng ra khỏi tay ông thủ tướng, hiện chưa dứt khoát còn có thêm gì khác được sửa chữa hay thay đổi của Luật Phòng Chống Tham Nhũng biểu quyết thông qua từ khóa họp Quốc Hội tháng 11 năm 2005.
Ông Nguyễn Tấn Dũng khi biểu quyết luật chống tham nhũng là phó thủ tướng. Sáu tháng sau được đôn lên làm thủ tướng. Ngày 27 tháng 6, 2006 được Quốc Hội “nhất trí” cử làm thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã mạnh mồm tuyên bố “Nếu không chống được tham nhũng tôi xin từ chức”.
Nhưng tham nhũng ngày càng tồi tệ hơn. Ông đã bị đả kích kịch liệt trong cả hai kỳ họp đảng vừa qua về vấn đề tham nhũng.
Khóa họp Quốc Hội cuối năm ngoái, ông lên tiếng nhận lỗi về tai tiếng tham nhũng thất thoát bạc tỉ đô la ở tập đoàn đóng tàu Vinashin. Năm nay lại xảy ra vụ tổng công ty tàu biển Vinalines, một số người bị bắt với nghi vấn lũng đoạn thị trường tài chính.
Khi ra Quốc Hội hôm 22 tháng 10 năm 2012, ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ xin lỗi về những yếu kém của chính phủ chứ không hề nói đến từ chức.
Tháng 5 năm 2011 ông chủ tịch nước CSVN Trương Tấn Sang được báo chí tường thuật kêu trước mặt cử tri ở Sài Gòn: “Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là ‘chết’ cái đất nước này.”
Ngay sau cuộc họp trung ương đảng đầu tháng 10 này ông Sang không nói thẳng tên ông thủ tướng mà chỉ đổ lên đầu “đồng chí X” tội làm cho tham nhũng ngày một tràn lan làm cử tri “bức xúc”.
Năm ngoái, khi tiếp xúc với cử tri, ông tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng kêu “Hiện tượng hư hỏng, tham nhũng, tiêu cực đúng là lắm lúc nghĩ hết sức sốt ruột, nhìn vào đâu cũng thấy, sờ vào đâu cũng có...”
Tham nhũng nhiều, xử phạt ít
Trong buổi họp đầu tiên của khóa họp Quốc Hội, hôm 22 tháng 10 năm 2012, ông Huỳnh Phong Tranh thay mặt chính phủ báo cáo khoe phát hiện và truy tố tội phạm tham nhũng năm 2012 “đều tăng hơn so với cùng kỳ năm ngoái”.
Ông khoe rằng trong 5 năm qua, các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết được 59,496 vụ trên tổng số 70,587 vụ tố cáo tham nhũng, tức chỉ giải quyết được 84.3% vụ. Tuy nhiên, trong số đó lại chỉ chuyển đến cho các cơ quan điều tra có 464 vụ, tức chưa được 1% của tổng số vụ việc.
Ông Tranh kêu rằng các vụ việc chuyển cho cơ quan điều tra “ít là do thanh tra có khuyết điểm là thanh tra phát hiện vi phạm chưa đến nơi đến chốn, do chất lượng cán bộ thanh tra chưa cao”.
Nhưng ông nhìn nhận “Tham nhũng nghiêm trọng, gây bất bình trong xã hội”. Trong cuộc họp này, ông Tranh công nhận “có tiêu cực trong hoạt động thanh tra” đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến ít vụ việc tham nhũng bị truy tố.
Bản chỉ số xếp hạng tham nhũng tại Việt Nam hàng năm của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế năm 2011 cho Việt Nam 2.9 điểm. Ba năm liền từ 2008 đến 2010, Việt Nam chỉ được 2.7 điểm trên tổng số 10 điểm (là ít tham nhũng nhất).
Ngày 3 tháng 5 năm 2012, một bản báo cáo về vấn đề kiểm soát tham nhũng được UNDP và Trung Tâm Nghiên Cứu Phát Triển và Hỗ Trợ Cộng Ðồng (CECODES) phối hợp với nhà cầm quyền CSVN mở cuộc nghiên cứu thấy rằng 77% người ở Việt Nam không tin nhà cầm quyền “nghiêm túc xử lý các vụ việc tham nhũng đã phát hiện”, theo VNEconomy.
Theo tin các báo tại Việt Nam, việc sửa đổi luật đưa cơ quan chống tham nhũng về tay đảng, sẽ được thi hành như thế nào nay vẫn chưa rõ ràng. Mới chỉ thấy hé lộ một điều căn bản là “Việc thành lập, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng sẽ do đảng quy định”. Trong khi đó “công tác chỉ đạo phòng, chống tham nhũng của cơ quan này sẽ được thực hiện thông qua các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của đảng”, không theo một luật nào.
Như thế, vấn đề chống tham nhũng cũng vẫn sẽ co giãn tùy theo nhu cầu phe nhóm, sự gia ơn hay trừng phạt tùy tiện của kẻ nắm quyền lực trong đảng, thay vì chống theo luật và do cơ quan tư pháp hành động độc lập cũng như có thực quyền.
Ông Jairo Acuna-Alfaro, cố vấn chính sách của LHQ trong Cơ Quan Phát Triển LHQ (UNDP) tại Việt Nam, đưa ra nhận xét: “Sửa không khéo, luật chống tham nhũng như hổ không răng”, theo VietNamNet tường thuật.
(Người Việt)
Trong buổi họp đầu tiên của khóa họp Quốc Hội, hôm 22 tháng 10 năm 2012, ông Huỳnh Phong Tranh thay mặt chính phủ báo cáo khoe phát hiện và truy tố tội phạm tham nhũng năm 2012 “đều tăng hơn so với cùng kỳ năm ngoái”.
Ông khoe rằng trong 5 năm qua, các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết được 59,496 vụ trên tổng số 70,587 vụ tố cáo tham nhũng, tức chỉ giải quyết được 84.3% vụ. Tuy nhiên, trong số đó lại chỉ chuyển đến cho các cơ quan điều tra có 464 vụ, tức chưa được 1% của tổng số vụ việc.
Ông Tranh kêu rằng các vụ việc chuyển cho cơ quan điều tra “ít là do thanh tra có khuyết điểm là thanh tra phát hiện vi phạm chưa đến nơi đến chốn, do chất lượng cán bộ thanh tra chưa cao”.
Nhưng ông nhìn nhận “Tham nhũng nghiêm trọng, gây bất bình trong xã hội”. Trong cuộc họp này, ông Tranh công nhận “có tiêu cực trong hoạt động thanh tra” đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến ít vụ việc tham nhũng bị truy tố.
Bản chỉ số xếp hạng tham nhũng tại Việt Nam hàng năm của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế năm 2011 cho Việt Nam 2.9 điểm. Ba năm liền từ 2008 đến 2010, Việt Nam chỉ được 2.7 điểm trên tổng số 10 điểm (là ít tham nhũng nhất).
Ngày 3 tháng 5 năm 2012, một bản báo cáo về vấn đề kiểm soát tham nhũng được UNDP và Trung Tâm Nghiên Cứu Phát Triển và Hỗ Trợ Cộng Ðồng (CECODES) phối hợp với nhà cầm quyền CSVN mở cuộc nghiên cứu thấy rằng 77% người ở Việt Nam không tin nhà cầm quyền “nghiêm túc xử lý các vụ việc tham nhũng đã phát hiện”, theo VNEconomy.
Theo tin các báo tại Việt Nam, việc sửa đổi luật đưa cơ quan chống tham nhũng về tay đảng, sẽ được thi hành như thế nào nay vẫn chưa rõ ràng. Mới chỉ thấy hé lộ một điều căn bản là “Việc thành lập, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng sẽ do đảng quy định”. Trong khi đó “công tác chỉ đạo phòng, chống tham nhũng của cơ quan này sẽ được thực hiện thông qua các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của đảng”, không theo một luật nào.
Như thế, vấn đề chống tham nhũng cũng vẫn sẽ co giãn tùy theo nhu cầu phe nhóm, sự gia ơn hay trừng phạt tùy tiện của kẻ nắm quyền lực trong đảng, thay vì chống theo luật và do cơ quan tư pháp hành động độc lập cũng như có thực quyền.
Ông Jairo Acuna-Alfaro, cố vấn chính sách của LHQ trong Cơ Quan Phát Triển LHQ (UNDP) tại Việt Nam, đưa ra nhận xét: “Sửa không khéo, luật chống tham nhũng như hổ không răng”, theo VietNamNet tường thuật.
(Người Việt)
Thủ tướng Ôn Gia Bảo làm giàu ra sao?
(Washington Post) -Nhà
cầm quyền Trung Quốc hôm Thứ Sáu đã cho đóng trang mạng của báo New
York Times ngay sau khi đăng một bài phóng sự điều tra nói là gia đình
Thủ Tướng Ôn Gia Bảo (Wen Jiabao) có tài sản trị giá tổng cộng tới 2.7
tỷ dollars.
|
Thủ Tướng Ôn Gia Bảo (Wen Jiabao)
|
Phản ứng cương quyết và mau chóng này không là điều lạ ở vào một thời
điểm được coi là “nhạy cảm” của chính trị Trung Quốc khi đang sắp đến
giai đoạn chuyển giao quyền lực trong ban lãnh đạo. Ðể người dân đọc
biết và bàn tán rộng rãi về những tin nổ lớn gây chấn động dư luận bị
coi là phương hại đến an ninh trật tự xã hội và uy tín của đảng cầm
quyền.
Cả hai phiên bản Anh ngữ và Hoa ngữ của trang mạng đều đồng thời bị
đóng lại. Trên lưới điện toán và các dụng cụ điện tử di động, vào bộ dò
đánh lên hàng chữ New York Times hay bằng chữ Hán đều không có trả lời.
Trang BBC TV cũng bị gián đoạn một thời gian ngắn khi tường trình về bài
báo New York Times.
Ðây là một thua thiệt đáng kể cho tờ New York Times trong nỗ lực đi
vào thị trường Trung Quốc. Tờ báo đã đầu tư khá tốn kém, thuê thêm hơn
30 ký giả mới, thông dịch viên và kỹ thuật gia, để mở trang mạng Hoa ngữ
từ cuối tháng 6 vừa qua.
Nữ phát ngôn viên Eileen Murphy tuyên bố: “Chúng tôi hy vọng truy cập
đầy đủ trở lại trang mạng sẽ sớm được phục hồi và sẽ yêu cầu nhà chức
trách Trung Quốc bảo đảm rằng độc giả có thể tiếp tục đọc những bài vở
tin tức tuân thủ đúng tiêu chuẩn chuyên nghiệp của New York Times.” Bà
nói thêm: “Xã hội Trung Quốc càng ngày càng cởi mở hơn và truyền thông
đa dạng hơn. Sự đáp ứng với trang mạng Hoa ngữ cho thấy Times có thể
đóng một vai trò quan trọng trong nỗ lực nâng cao phẩm chất báo chí cho
nhân dân Trung Quốc.”
Bộ Ngoại Giao Trung Quốc gọi bài báo của tờ New York Times là một
hành động có tính cách bôi nhọ và mang hàm ý xấu. Trong cuộc họp báo
thường ngày, phát ngôn viên Hong Lei của bộ nói rằng việc ngăn chặn
trang nhà của tờ New York Times là “theo đúng luật lệ hiện hành,” tuy
nhiên không bình luận hay bác bỏ nội dung bài báo.
Hồi tháng 6, bản tin của Bloomberg News cho hay đại gia đình của Phó
Chủ Tịch Nước Tập Cận Bình (Xi Jinping), người sắp lên chức lãnh đạo
thay thế Chủ Tịch Hồ Cẩm Ðào vào tháng 11, có tài sản tới $376 triệu.
Sau đó trang điện tử Bloomberg hoàn toàn bị Trung Quốc đóng cửa.
Mặc dầu ở một đất nước mà “sự giầu sang và quyền lực hội tụ” như tờ
New York Times viết, tài sản khổng lồ của gia đình Thủ Tướng Ôn Gia Bảo
được nêu lên vẫn là trái bom gây sự kinh ngạc lớn. Ký giả David Barboza
và ban biên tập đã nghiên cứu thu thập chi tiết từ nhiều nguồn khác nhau
và những số liệu căn cứ theo hồ sơ tài liệu chính thức để làm bài phóng
sự.
Ôn Gia Bảo, 70 tuổi, quê quán ở Thiên Tân, bà mẹ là giáo viên và ông
bố đã bị đưa đi làm việc nuôi heo vào thời kỳ cải tạo Cách Mạng Văn Hóa.
Năm ngoái, kể lại thời niên thiếu của mình trong một lần phát biểu
trước công chúng, Ôn đã nói “gia đình tôi hết sức nghèo.” Nhưng từ khi
vào vị trí lãnh đạo, phó thủ tướng năm 1998 và 5 năm sau là thủ tướng,
bây giờ tình trạng hoàn toàn đảo ngược, gia đình của ông cũng như của
nhiều cán bộ đảng viên cao cấp khác ở Trung Quốc là những đại gia có tài
sản đứng hàng đầu các triệu phú trên thế giới.
Bà góa phụ Yang Zhiun, mẹ ông, năm nay 90 tuổi, căn cứ trên hồ sơ các
công ty xí nghiệp và tài liệu của các cơ quan giám sát, từ năm 2007 đã
giữ một tài sản trị giá $120 triệu. Bằng cách nào bà thu góp được khoản
tiền ấy, ít nhất trên giấy tờ, là điều chưa rõ; cũng như không biết bà
có thật sự hiểu rằng tên của mình đang đứng làm chủ nhiều tài sản như
vậy không.
Theo New York Times, trải qua hơn 10 năm cầm quyền của Ôn Gia Bảo,
gia đình và thân quyến của ông từ con trai con gái, đến em ruột, em rể
và những người họ hàng xa gần khác, đã trở nên giầu có vượt bậc. Trong
nhiều trường hợp, tên các đương sự này không tìm thấy trên giấy tờ vì
được che đậy qua một mạng lưới phức tạp các thủ thuật tinh vi về đầu tư
quản lý của một xã hội đầy rẫy điều bí ẩn.
Tờ New York Times nói rằng họ tìm thấy những cổ phần của gia đình Ôn
Gia Bảo trong nhiều ngân hàng, tổ hợp tài chính, công ty du lịch, thương
mại, xây dựng, các dự án phát triển hạ tầng cơ sở và cả các tổ chức
kinh doanh nước ngoài. Gia đình này chiếm vị trí trọng yếu trong Tổ hợp
Bảo hiểm Ping An, một trong những tổ hợp tài chính lớn hàng đầu thế
giới.
Ở vị trí thủ tướng trong một nền kinh tế mà nhà nước hãy còn nắm giữ
vai trò chỉ đạo, Ôn Gia Bảo có rất nhiều quyền hạn đối với các công ty
xí nghiệp và điều kiện để thân nhân của ông có thể dựa vào đó sử dụng để
làm giầu, có hay không có sự tán trợ của ông là điều người ta chưa thể
biết hết. Chẳng hạn người em trai của ông có một công ty đã ký được hợp
đồng hơn $30 triệu về việc xử lý nước thải và phế liệu y tế cho các
thành phố lớn. Hợp đồng này có sau khi nhà nước ban hành quy định kiểm
soát chặt chẽ các chất thải sau vụ bệnh dịch SARS năm 2003.
Năm 2004, Hội Ðồng Chính Phủ mà Ôn Gia Bảo là chủ tịch ban hành quy
chế cho phép các công ty tài chính mở rộng không giới hạn lãnh vực hoạt
động. Ping An đã trở thành một công ty công cộng, bán IPO (cổ phiếu công
khai) gây vốn được $1.8 tỷ và gia đình Ôn Gia Bảo đã thủ lợi bằng việc
đầu tư trước khi công ty ra công khai. Các tài liệu kế toán năm 2007,
năm cuối cùng mà hồ sơ chứng khoán được phổ biến, cho biết gia đình và
những đối tác nắm giữ $2.2 tỷ chứng khoán của Ping An.
Mặc dầu đảng Cộng Sản Trung Quốc yêu cầu cán bộ công nhân viên kê
khai tài sản của mình và gia đình nhưng đòi hỏi này chỉ liên hệ đến
những thân nhân trực tiếp bao gồm vợ và con; anh chị em và những người
họ hàng quyến thuộc khác không nằm trong quy định ấy và trở thành một
ngõ dễ dàng cho sự trốn tránh.
Trương Bồi Lợi (Zhang Beili), bà vợ của Ôn Gia Bảo, là người rất ít
khi xuất hiện trong những sinh hoạt chính thức cùng với chồng. Nhưng dân
chúng Trung Quốc cũng như giới kinh doanh thương mại ngoại quốc đều
biết đến bà với biệt danh “Nữ hoàng kim cương.” Là một cựu kỹ sư địa
chất, bà là người đã giúp lập ra những quy định trong ngành thương mại
hột xoàn và đá quý, thành lập thị trường trao đổi kim cương ở Thượng Hải
và trung tâm xét nghiệm ở Bắc Kinh mà tất cả những giới buôn bán kim
cương đều cần phải có chứng chỉ xác nhận của trung tâm này. Bà Trương là
chủ tịch công ty quốc doanh kim cương do bà thành lập năm 1993, đến nay
người em trai của bà và mấy người thân khác nắm giữ tới 80% cổ phần.
Tài liệu do Wikileaks tiết lộ nói rằng có lúc Thủ Tướng Ôn Gia Bảo
muốn ly dị với bà Trương vì bà lợi dụng khai thác quá đáng vị trí lãnh
đạo của ông vào việc làm ăn. Tuy nhiên đến nay gia đình này vẫn ổn định
bình thường và dịch vụ kinh doanh tiếp tục không có gì trở ngại.
Thủ Tướng Ôn Gia Bảo nổi tiếng là người có chủ trương đổi mới, ông
nhiều lần lên tiếng kêu gọi cải cách kinh tế và cả chính trị ở Trung
Quốc. Ông cũng là người mạnh mẽ đề xướng thanh lọc nhân sự, tiêu trừ
tham nhũng. Tuy không thể rõ ông có thực tâm thi hành đến đâu nhưng sự
kiện này chắc chắn khiến ông gặp sự chống đối của một số phe phái trong
đảng. Vào thời gian cuối cùng của nhiệm kỳ và trước khi ông rời khỏi vị
trí lãnh đạo và có lẽ chỉ còn giữ một chức vị tượng trưng, không hiểu
việc phổ biến công khai hiện tượng tiêu cực từ gia đình ông có phải là
nằm trong mưu đồ đấu tranh nội bộ rất thường thấy ở chế độ độc tài đảng
trị này hay không.
Rất nhiều tình tiết cũng như thắc mắc nghi vấn về chuyện Thủ Tướng Ôn
Gia Bảo như trình bày trong bài báo New York Times, sẽ còn phải chờ
thời gian mới có thể hiểu sự thật. Chính ông cũng đã từng có lần hé lộ
cho thấy rằng biết tất cả những dư luận đồn đại về mình và gia đình,
nhưng luôn luôn khẳng định là “chưa bao giờ lợi dụng chức quyền để kiếm
lợi ích riêng.” Trong một cuộc họp báo tại Bắc Kinh hồi tháng 3, Thủ
Tướng Ôn Gia bảo tuyên bố: “Tôi có đủ can đảm đối diện với nhân dân và
lịch sử. Có những người sẽ tán đồng các việc tôi đã làm nhưng cũng có
nhiều người sẽ chỉ trích. Chung cuộc thì lịch sử sẽ có lời phán xét tối
hậu.”
Phúc thay cho Bà Trưng, Bà Triệu
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao)
- Phúc cho các Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, Bà Triệu Ẩu, ngày xưa chưa có
“Điều 88/ Bộ luật Hình sự”. Giá như sinh lùi vào thời Đồ… Bán Nước hôm
nay, các Bà cũng chỉ làm khổ bố mẹ, bạn bè, như cô sinh viên Nguyễn
Phương Uyên, vì cái tội chống giặc Tàu xâm lăng.
Ngoại trừ các cháu quàng khăn đỏ ngày nay (năm 2012) được học bài tập đọc “Hai
Bà Trưng” trong sách giáo khoa chính thức của nhà nước CHXHCNVN (Tiếng
Việt 3, tập 2, trang 4 và 5), chỉ thấy Hai Bà Trưng đánh giặc nhưng “ông
ơi, cháu đọc hoài mà vẫn không hiểu Hai Bà đánh giặc nào” (1) ,
người Việt Nam ai cũng biết hai chị em Bà Trưng Trưng Nhị, và Bà Triệu
Ẩu là những vị anh hùng dân tộc có công chiêu binh mộ tướng phất cờ khởi
nghĩa chống xâm lăng từ phương Bắc. Hai Bà Trưng chống quân Đông Hán
(năm 40-43); Bà Triệu chống quân Đông Ngô (năm 248).
Ngày đó chưa có xe đạp xe máy, xe ôtô, xeo phôn, in tờ nét, nên các
Bà vất vả lắm và tốn nhiều thời gian để liên lạc, trao đổi tin tức,
tuyển mộ quân sĩ v.v… nhưng mọi sự đều suôn sẻ cho đến giờ phất quân
khởi nghĩa, không bị nhà cầm quyền “nửa bộ lạc nửa phong kiến” làm khó
dễ, hay là vì các Bà bị “bọn phản động chống phá tổ quốc” lúc ấy quá
mạnh chăng. Hay là chính nhờ vào phương tiện truyền thông chỉ thuần túy
mồm-tai-tay, nên không có chỗ cho CAM mằn mò trên mạng, trộm email, hoặc
không có máy com piu tờ cho côn đồ xông vào nhà cả đêm lục lạo phần
cứng phần mềm, có khi “phần mềm” của các Bà chúng cũng không tha. Vân
vân và vân vân…
Chứ như bây giờ, cũng chính bọn giặc ấy đến, chúng đã cướp chiếm
Trường Sa, Hoàng Sa, lăm le vùng biển, giết người cướp của, bắt nạn nhân
đòi chuộc, đánh chìm ghe tàu của ngư dân ta; trên bờ, chúng đã leo lên
nóc nhà Tây nguyên, “thuê” trọn rừng núi biên cương; xây riêng thành
phố; lập khu cấm kỵ (người Việt), lộng hành thương trường; xỏ xiên hàng
hóa, độc hóa thực phẩm… Tàu Cộng ngày còn gian manh ác độc nham hiểm hơn
gấp bội tổ tiên chúng Đông Hán Đông Ngô thời các Bà Trưng, Bà Triệu.
Trước vận mạng của Tổ quốc như sợi chỉ treo mành, người Việt còn
hồn Việt có ai không sôi sục lòng yêu nước; trong giới nữ nhi đã không
ít người noi gương tiền nhân. Nhưng hó hé là bị bọn phản động chính cống
chính hiệu con nai vàng trong giới cầm quyền “xử lý” ngay. Như cô Phan
Thanh Nghiên chỉ treo cái biểu ngữ ghi mấy chữ “HS-TS-VN” treo trong…
nhà mình để phản đối Tàu xâm lăng mà cũng bị bắt tù 4 năm. Và những nữ
nhi hậu duệ các Bà mới chỉ “lên tiếng” tinh thần Trưng Triệu, chứ chưa
nói đến chuyện lên thớt voi lưng ngựa, như các anh thư Đỗ Minh Hạnh,
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trịnh Kim Tiến, Nguyễn Hoàng Vi, Bùi Thị Minh
Hằng, Đặng Bích Phượng, Huỳnh Thục Vy… đã bị bọn phản quốc khống chế
ngay bằng những phương tiện phi pháp và thủ đoạn đểu cáng, đê hèn, vô
nhân tính.
Nhưng, “Đừng sợ hãi”. Phải chăng, nhờ thấm nhuần được tinh
thần của lời nhắn gửi riêng cho thanh niên Ba Lan, nhưng là chung cho
thanh niên những quốc gia đang bị áp bức, của Đức Giáo hoàng Gioan Phao
Lô ll, người được mệnh danh “vĩ nhân thời đại”: “Tôi là người con của
tổ quốc Ba Lan. Tôi yêu tổ quốc tôi. Tôi đã không dửng dưng với những
áp bức mà tổ quốc tôi phải gánh chịu, thì nay tôi cũng không dửng dưng
với những thử thách mới trước sự tự do mà tất cả chúng ta đang đối diện…
Chúng ta đang vượt qua Biển Đỏ.”
Phải chăng, nhờ mang trong mình giòng máu Nhị Trưng được vua Tự Đức diễn tả trong “Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục”:
“Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm
khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn,
không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử
sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người
khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm!”
Cùng với tinh thần Triệu Ẩu: (Theo “Đại Nam Quốc sử Diễn ca”)
“Gặp cơn thảo muội cơ trời,
Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh”;
Phải chăng nhờ tất cả những thứ đó, truyền thống tổ tiên cùng tinh
hoa thời đại kết hợp với nhau thành sức mạnh hồn thiêng sông núi phả vào
tâm hồn cô sinh viên bé bỏng Nguyễn Phương Uyên “hiền lành, học giỏi, dễ thương, vui tính, tốt bụng, yêu đời, yêu quê hương đồng bào…” như nhận xét của một số bạn cùng lớp Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành Hồ trao đổi với phóng viên đài RFA (2), mà Phương Uyên đã dám vươn vai Phù Đổng giữa lệnh… cấm của triều đình!
Và Nguyễn Phương Uyên đã bị bắt vì chống ngoại xâm bằng những câu
thơ, biểu ngữ, xuống đường bày tỏ lòng yêu nước ôn hòa, bởi chính nhà
cầm quyền của nước em; chứ không được cái may mắn như thánh nữ anh hùng
Jeanne d’Arc của nước Pháp bị quân Anh bắt nơi trận tiền gươm giáo.
Thật phúc cho các Bà Trưng bà Triệu được sinh ra thời Việt Nam còn
văn minh “nửa Bộ Lạc nửa Phong kiến”, chưa được ánh sáng Mác Lê chiếu
vào, nên còn được quyền chống ngại xâm để bảo vệ Độc lập cho Tổ quốc Dân
tộc mà không cần gắn liền với CHXH, cái thứ bây giờ cô gái bé bỏng học
trò Nguyễn Phương Uyên thắt khăn đỏ bao nhiêu năm qua cũng đã buồn nôn
lắm rồi, huống gì các Bà khi đó đã có chồng có nghén.
Sinh vào thời đại Đồ Đảng này, các Bà cũng không thoát khỏi số phận
của đám hậu duệ yêu quí của các Bà giống như cô sinh viên lúc nào cũng
nở nụ cười trên môi nhưng lòng thì đau thắt vừa bị bắt cóc giữa thanh
thiên bạch nhật nơi Trường Đại Học tại Thành Phố mang tên Hồ Chí Minh.
___________________________________________
Chú thích:
___________________________________________
Phó chủ tịch Quốc hội đề nghị tử hình bằng xử bắn
Từng phản đối việc tiêm thuốc độc, ông Huỳnh Ngọc Sơn cho rằng, trong số
gần 500 người đang chờ thi hành án, nhiều người làm đơn xin được chết
sớm nhưng Việt Nam lại gặp khó khăn trong việc nhập loại thuốc này.
Chiều 26/10, tại buổi thảo luận ở tổ về công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; thi hành án năm 2012, Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn cho biết, hiện Bộ Công an đã xây được 10 khu vực thử nghiệm tiêm thuốc độc, song chưa thể tiến hành vì không nhập được thuốc độc. Nguyên nhân là do, thuốc phải nhập qua EU, trong khi liên minh này đang yêu cầu Việt Nam bỏ án tử hình.
Theo ông Sơn, hiện số tử tù đã đến mức phải thi hành án lên đến gần 500 người. Nhiều tử tù làm đơn xin được chết sớm vì không muốn kéo dài cuộc sống, một số người đã chết trong trại giam vì bệnh tật và chờ đợi thi hành án quá lâu. Các giám thị gặp nhiều khó khăn và áp lực khi giám sát những người này.
Là người từng phản đối việc tiêm thuốc độc, Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn nói, năm 2009 ông đã đặt câu hỏi việc này liệu có làm được không bởi việc tiêm thuốc không hề đơn giản và không phải cứ có thuốc là làm được ngay.
Ông Sơn cho hay, Thường vụ Quốc hội cho biết, tháng 5 - 6/2013 mới có thuốc độc nhưng sẽ phải mất thêm thời gian để thử nghiệm trước khi thực hiện. "Nếu không thi hành được việc tiêm thuốc độc thì không thể kéo dài mãi tình trạng này. Như vậy sẽ không mang tính răn đe và giáo dục...", Phó chủ tịch Quốc hội nói và cho biết, sẽ kiến nghị để sửa đổi luật thi hành án bằng việc quay lại hình thức xử bắn. Ông gợi ý, khi xử tử tù nếu người bắn sợ bị ám ảnh thì có thể súng tự động.
Trước đó, tại phiên thảo luận năm 2009, một số hình thức áp dụng với tử tù đã được các đại biểu Quốc hội đưa ra. "Có người đề xuất hình thức treo cổ, nhưng dã man quá. Cho ngồi ghế điện thì tàn nhẫn và đáng sợ, lại vẫn gây áp lực tâm lý cho phạm nhân và người thi hành án", Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nói và kết luận tiêm thuốc độc là hình thức tử hình nhân đạo nhất.
Còn Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang cho biết, Luật thi hành án hình sự (có hiệu lực từ 1/7/2011) cho phép thay đổi từ xử bắn tử tù sang tiêm thuốc độc. Các điều kiện đã sẵn sàng chỉ còn chờ Bộ Y tế nhập thuốc về. "Nếu gặp khó khăn, Việt Nam sẽ nghiên cứu sản xuất thuốc trong nước để phục vụ kịp thời việc thi hành án tử hình", người đứng đầu ngành công an cho hay.
Chiều 26/10, tại buổi thảo luận ở tổ về công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; thi hành án năm 2012, Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn cho biết, hiện Bộ Công an đã xây được 10 khu vực thử nghiệm tiêm thuốc độc, song chưa thể tiến hành vì không nhập được thuốc độc. Nguyên nhân là do, thuốc phải nhập qua EU, trong khi liên minh này đang yêu cầu Việt Nam bỏ án tử hình.
Theo ông Sơn, hiện số tử tù đã đến mức phải thi hành án lên đến gần 500 người. Nhiều tử tù làm đơn xin được chết sớm vì không muốn kéo dài cuộc sống, một số người đã chết trong trại giam vì bệnh tật và chờ đợi thi hành án quá lâu. Các giám thị gặp nhiều khó khăn và áp lực khi giám sát những người này.
Là người từng phản đối việc tiêm thuốc độc, Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn nói, năm 2009 ông đã đặt câu hỏi việc này liệu có làm được không bởi việc tiêm thuốc không hề đơn giản và không phải cứ có thuốc là làm được ngay.
Ông Sơn cho hay, Thường vụ Quốc hội cho biết, tháng 5 - 6/2013 mới có thuốc độc nhưng sẽ phải mất thêm thời gian để thử nghiệm trước khi thực hiện. "Nếu không thi hành được việc tiêm thuốc độc thì không thể kéo dài mãi tình trạng này. Như vậy sẽ không mang tính răn đe và giáo dục...", Phó chủ tịch Quốc hội nói và cho biết, sẽ kiến nghị để sửa đổi luật thi hành án bằng việc quay lại hình thức xử bắn. Ông gợi ý, khi xử tử tù nếu người bắn sợ bị ám ảnh thì có thể súng tự động.
Trước đó, tại phiên thảo luận năm 2009, một số hình thức áp dụng với tử tù đã được các đại biểu Quốc hội đưa ra. "Có người đề xuất hình thức treo cổ, nhưng dã man quá. Cho ngồi ghế điện thì tàn nhẫn và đáng sợ, lại vẫn gây áp lực tâm lý cho phạm nhân và người thi hành án", Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nói và kết luận tiêm thuốc độc là hình thức tử hình nhân đạo nhất.
Còn Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang cho biết, Luật thi hành án hình sự (có hiệu lực từ 1/7/2011) cho phép thay đổi từ xử bắn tử tù sang tiêm thuốc độc. Các điều kiện đã sẵn sàng chỉ còn chờ Bộ Y tế nhập thuốc về. "Nếu gặp khó khăn, Việt Nam sẽ nghiên cứu sản xuất thuốc trong nước để phục vụ kịp thời việc thi hành án tử hình", người đứng đầu ngành công an cho hay.
Theo Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp (Bộ Công an), mỗi năm phạm nhân bị thi hành án tử hình tăng 80 - 100 người. Các tử tù chủ yếu phạm tội giết người cướp tài sản và buôn bán ma túy.
Theo Nghị định về thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc có hiệu lực từ 1/11/2011, thuốc tiêm được sử dụng gồm: gây mê; làm tê liệt hệ thần kinh, cơ bắp và ngừng hoạt động tim. 3 loại tân dược này do Bộ Y tế cấp theo đề nghị của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Trước khi bị tiêm thuốc độc bằng máy tự động, tử tù được viết thư, ghi âm lời nói cuối cùng...
(VnExpress)
Các ông Cục trưởng, Viện trưởng nói chuyện “tiếu lâm” về dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận!
“Quan điểm của Việt Nam là: Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận là
dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam nên cần thực hiện hết sức
chặt chẽ. Việc chuẩn bị đầu tư và đầu tư phát triển các dự án Nhà máy
điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 phải bảo đảm được ba yêu cầu
cơ bản là: Bảo đảm an toàn, an ninh cao
nhất. Thực hiện đúng quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về đầu tư
xây dựng và phù hợp với tài liệu hướng dẫn của IAEA. Yêu cầu thứ ba là
dự án phải có hiệu quả kinh tế”.
Đó là ba yêu cầu của lãnh đạoViệt
Nam trước khi đi đến quyết định có nên phát triển dự án nhà máy điện
hạt nhân tại Việt Nam hay không, được nêu ra trong bài phóng sự của
phóng viên Hồng Vân, báo Nhân Dân ngày 25/10/2012.
Thử xem dự án điện hạt nhân Việt Nam có bảo đảm thỏa mãn ba yêu cầu cấp thiết và rất quan trọng này không.
Bảo đảm an toàn an ninh cao nhất?
Cho đến thời điểm này ông Trần
Trí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng Hạt nhân, tại cuộc trao đổi với
báo chí trong cuộc họp báo giới thiệu Triển lãm quốc tế “khuyến mãi”
điện hạt nhân 2012 tại Hà Nội – thị trường nhà máy điện hạt nhân béo bở
dể ăn dể bảo trị giá tổng cộng hơn 30 tỷ USD, cho biết họ vẫn còn đang
đi lanh quanh. Ông Trần Trí Thành nói đang “tìm hiểu và lựa chọn công nghệ mới và an toàn nhất cho dự án hạt nhân của nước ta”. Cho
đến khi nào mới tìm ra được một công nghệ tuyệt đối an toàn như Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang đại diện đảng và nhà nước Việt Nam yều cầu,
trong khi ai ai đều biết rằng không có một công nghệ điện hạt nhân nào
trên thế giới trong lúc này và cả sau này sẽ tuyệt đối an toàn. Ngay đến
dư luận hiện nay trong cả nước như báo điện tử Vietnam Net
cho biết an toàn hạt nhân là vấn đề “NÓNG”, đồng nghĩa với chưa biết rỏ
có được an toàn hay không, chứ không nói đến tuyệt đối an toàn!
Chúng ta có thể kết luận rằng cho
đến thời điểm này chưa có công nghệ nào BẢO ĐẢM AN TOÀN AN NINH CAO
NHẤT chứ chưa nói đến AN TOÀN TUYỆT ĐỐI như theo yêu cầu của lãnh đạo
đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, và “nếu không tuyệt đối an toàn thì
không làm” theo lệnh của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Thưc hiện đúng qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam về vận hành và sản xuất điện hạt nhân?
Theo bài vết trên báo Nhân Dân ngày 25/10/2012: Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam Trần Chí Thành cho biết Việt Nam đang trong quá trình xây dựng văn bản pháp quy về điện hạt nhân, và sẽ cập nhật những quy chế được thắt chặt của IAEA.
Như vậy là cho đến thời điểm này
tại Việt Nam vẫn chưa có một bộ luật hay pháp qui nào qui định về vận
hành và sản xuất năng lượng hạt nhân. Có chăng chỉ là thỏa thuận ban đầu
với chính phủ Nhật Bản trong thời gian gần đây qua đó chính phủ Nhật
Bản giúp soan thảo pháp qui về năng lượng hạt nhân.
Việt Nam chưa có các pháp qui về
xây dựng, vận hành, an toàn, giãi quyết các chất phế thải phóng xạ (rác
phóng xạ), chế độ bồi thường và qui trách nhiệm mà chúng ta lại giao
khoán cho các tập đoàn sản xuất và lắp ráp toàn quyền làm theo ý của họ
theo kiểu chìa khoá trao tay mà nhiều công trình xây dựng tại Việt Nam
đang bị chết dở sống dở vì bên nhà thầu xây dựng chơi xấu, là việc làm
tắc trách. Đặc biệt nguy hiểm hơn đối với dự án nhà máy điện hạt nhân
với kỹ thuật vô cùng phúc tạp và đòi hỏi trình độ cao của viên chức kiểm
tra mà Việt Nam bây giờ và trong một thời gian nhiều năm nữa cũng không
có ai có đủ khả năng và kinh nghiệm vận hành nhà máy điện hạt nhân.
Chúng ta lại một lần nữa có thể
kết luận là không có gì bảo đảm rằng các tập đoàn thầu xây cất nhà máy
điện hạt nhân thực hiện đúng hay sai hay thiết bị lắp ráp không bị tráo đổi và rút ruột, vì Việt Nam KHÔNG có pháp qui về năng lượng hạt nhân để làm thước đo việc thực hiện công trình là ĐÚNG!
Bảo đảm dự án phải có hiệu quả kinh tế?
“Chưa xác định giá thành nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam!” – Đó
là một phần của câu trả lời có thể nói rằng rất “tiếu lâm” của ông Viện
trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Trần Trí Thành trước câu hỏi của
phóng viên về giá thành của nhà máy điện hạt nhân khị bổ sung công nghệ
mới đã được Việt Nam tính toán chưa?
Một dự án khổng lồ với chi phí
cho mỗi nhà máy khoản 10 tỷ USD theo dự tính ban đầu, và tất cả khoảng
30 tỷ USD cho 3 nhà máy như theo kế hoạch, mà những người lãnh đạo dự án
lại vô tư tuyên bố “chưa” xác định giá thành. Thật là không tưởng
tượng nổi tư duy “tiền chùa”, “tiền âm phủ” và kinh doanh theo định
hướng XHCN – con chung không ai khóc – của họ.
Kinh nghiệm về xây cất nhà máy điện hạt nhân tại các nước tiên tiến Âu Mỹ, cho thấyviệc các tập đoàn thầu xây dựng NMĐHN lập lờ trong các hợp đồng ĐHN là rất tràn lan. Hậu quả là giá thành nhà máy điện hạt nhân bị nâng giá lên thêm từ 30% đến 50% trên giá thoả thuận ban đầu.
Không những giá thành của nhà máy
điện hạt nhân chưa xác định, chi phí giải quyết chất thải rác nguyên
tử, cơ sở nhà máy sẽ rất tốn kém, tương đương với chí phi xây dựng ban
đầu. Nguồn kinh phí này sẽ đến từ đâu trong khi đất nước đang nghèo
đói? Ngoài ra phải cần ít nhất 30 năm với chi phí tương đương với giá
thành khi xây nhà máy (hơn 10 tỷ USD cho mỗi nhà máy) để thu dọn nhà máy
và làm sạch (?) môi trường với hàng ngàn tấn rác nguyên tử đầy phóng xạ
chết người cần phải có nơi an toàn để chôn cất trong nhiều thế kỷ, mà
trên đất nước nhỏ hẹp Việt Nam không có nơi nào đủ điều kiện để chứa
loại rác diệt chủng này! Nước Đức, Mỹ đang điên đầu với rác nguyên tử vì không tìm được nơi đủ an toàn để chứa các thanh nhiên liệu và chất thải hạt nhân.
Chúng ta lại một lần nữa kết luận
rằng dự án điện hạt nhân không có chứng cứ thuyết phục là hiệu quả kinh
tế vì ngay đến giá thành của dự án cũng không thể xác định là 10 tỷ, 15
tỷ hay 20 tỷ USD cho mỗi nhà máy thì làm sao tính toán được hiệu quả
kinh tế của dự án!
Đại diện cơ quan quản lý Việt Nam
lại cứ vô tư cho biết Việt Nam vẫn thực hiện đúng lộ trình trước đó, và
nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Ninh Thuận sẽ được khởi công vào năm
2014. Đây là lời tuyên bố vô trách nhiệm, vi phạm nghiêm trọng các điều
kiện mà lãnh đạo đảng và nhà nước đề ra, đặc biệt ba yêu cầu cơ bản
được nêu bên trên.
Dự án phát triển điện hạt nhân
Việt Nam không bảo đảm đươc ba yêu cầu tối thiểu này thì không có lý do
gì được phép thực hiện bằng mọi giá như theo phát biểu của ông Trần Trí
Thành, ban quản lý dự án và các nhóm lợi ích điện hạt nhân trong và
ngoài nước.
Đất nước Việt Nam nghèo khổ bất
hạnh không thể nào cứ tiếp đi theo vết xe đổ của các tập đoàn nhà nước
Vinashin, Vinalines, Petrovietnam, Than và Khoáng sản, Điện Việt Nam, hệ
thống ngân hàng… Khi mà nhà máy điện hạt nhân đổ – nổ – thì không chỉ
quăng qua cửa sổ vài chục ngàn tỷ như các tập đoàn mà nó sẽ xóa sổ cả
đất nước Việt Nam.
Con đường duy nhất cho dự án điện hạt nhân là phải hủy bỏ nó vĩnh viễn! Không những đất nước và dân tộc tránh được tai họa kinh tế, mà quan trong nhất là tránh nguy cơ thảm họa hạt nhân có thể đe dọa đến sự tồn vong của dân tộc.
Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Hùng
……………………………………….
Tài liệu tham khảo:
- Chưa xác định giá thành nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam! http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/khoa-hoc/khoa-h-c/ch-a-xac-nh-gia-thanh-nha-may-i-n-h-t-nhan-vi-t-nam-1.373784
– Điện hạt nhân VN: Vẫn ‘nóng’ chuyện an toàn!
– Soaring costs threaten to blow nuclear plans apart
– Bài học tồn vong từ thảm họa (hạt nhân)
http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=readwriting&w=BaiHocTonVongTuThamHoa-20121019
– Thật khủng khiếp về “Sự tuyệt vời của Điện Hạt Nhân” !
- THẬT KHỦNG KHIẾP! MÁY MÓC CỦA LÒ PHẢN ỨNG HẠT NHÂN DO TẬP ĐOÀN ĐIỆN HẠT NHÂN NGA “ROSATOM” LẮP RÁP LÀ HÀNG DỎM!
Tiền xây dựng nhà máy điện hạt nhân nổi đầu tiên trên thế giới “Mikhail Lomonosov” bị ăn cắp
– Nước Đức với 50 năm điện hạt nhân và báo Tia Sáng: không có gì để ăn mừng (chỉ toàn ân hận)
– MỸ NGỪNG XÂY CẤT VÀ HOẠT ĐỘNG NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN TRÊN TOÀN QUỐC
– Chương trình phóng sự truyền hình 60 phút Úc: Fukushima bây giờ gây nhiễm xạ cho mọi người
– Bản dịch những lời đối thoại của chương trình phóng sự truyền hình 60 phút
Trung Quốc sẽ chọn đối thoại hay đấu súng?
Ngoài những đường chồng lấn trên bản đồ, tình thế đối đầu đã xuất hiện tại các khu vực tranh chấp lãnh thổ Biển Đông.
Tranh
chấp đang ngả theo hướng trở thành điểm nóng quân sự và tiềm ẩn nguy cơ
gây bất ổn khu vực xoay quanh những toan tính an ninh năng lượng phức
tạp trong tham vọng dài hạn là đóng một vai trò lớn hơn trong địa chính
trị khu vực của Trung Quốc.
Tiềm năng dầu khí tại Biển Đông
Để
đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề an ninh năng lượng, có lẽ nên
nhìn vào khu vực qua lăng kính của những toan tính về năng lượng. Theo
Thống kê của BP, năm 2011, khu vực châu Á - Thái Bình Dương chỉ chiếm
2,5% trữ lượng dầu được kiểm chứng trên toàn thế giới, nhưng chiếm tới
trên 1/3 lượng tiêu thụ. Về khí tự nhiên, châu Á - Thái Bình Dương đóng
góp 8% trữ lượng đã được kiểm chứng trên toàn thế giới và 18% tổng tiêu
thụ toàn cầu.
Châu Á - Thái Bình Dương là khách hàng tiêu thụ năng
lượng lớn nhất thế giới, chiếm gần 40% tổng mức tiêu thụ. Kể từ năm
2001, sức tiêu thụ dầu và khí gas của khu vực tăng hơn gấp đôi tốc độ
tăng trưởng tiêu dùng năng lượng trên thế giới. BP dự báo, lượng tiêu
thụ của châu Á - Thái Bình Dương sẽ còn tiếp tục duy trì cao hơn gấp đôi
tốc độ gia tăng tiêu thụ năng lượng toàn thế giới cho tới năm 2030.
Trung Quốc là một trong những nhân tố chính đóng góp vào sự gia tăng
này.
Rủi ro kinh tế đang tăng lên. Khi châu Á ngày càng khát dầu
và khí tự nhiên. Do vậy, việc đảm bảo nguồn cung năng lượng ổn định sẽ
có ý nghĩa quan trọng mang tính quyết định. An ninh năng lượng đòi hỏi
giảm phụ thuộc vào nguồn cung ở những nơi xa xôi và hay rối loạn trong
các xung đột. Do vậy, yếu tố địa chính trị được quan tâm hàng đầu.
Dưới
đáy Biển Đông được cho là có một trữ lượng dầu khí tương đối lớn. Trữ
lượng ước tính dao động từ 28 tỷ thùng cho tới 213 tỷ thùng; nếu đúng là
con số 213 tỷ thùng thì điều này sẽ đưa Biển Đông lên vị trí thứ ba
trong số các khu vực có trữ lượng dầu được kiểm chứng lớn nhất. Khoảng
50% cơ hội vùng biển này có 3,8 nghìn tỷ m3 khí gas, tương
đương khoảng ¼ trữ lượng khí tự nhiên được kiểm chứng của khu cả châu Á -
Thái Bình Dương. Biển Đông cũng là tuyến lưu chuyển dầu khí quan trọng
trong khu vực. Giá trị kim ngạch thương mại ước tính khoảng 5 nghìn tỷ
USD.
|
Trung Quốc: Đối thoại hay đối đầu?
Do
những toan tính lợi ích kinh tế, nên việc Trung Quốc mong muốn thực thi
mở rộng tầm ảnh hưởng là điều dễ hiểu. Biển Đông có thể được coi là cứu
cánh cho nước này khi mà cơn khát năng lượng đang nàng càng lớn. Hàng
năm, Trung Quốc đang phải nhập khẩu ròng dầu khí. Do đó Trung Quốc sẽ
không bỏ qua cơ hội triển khai quyền lực ra khu vực. Khối lượng dầu khí
dưới đáy Biển Đông cũng có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam và
Philippine, hai nước cũng nhập khẩu ròng dầu khí, trong khi Brunei và
Malaysia là những nước xuất khẩu ròng.
Giai đoạn hiện nay chính là
cơ hội để Trung Quốc triển khai sự lãnh đạo chiến lược và gia tăng ảnh
hưởng trong khu vực cũng như ra thế giới. Nhưng một thái độ cẩu thả và
sẵn sàng gây khiêu khích ở thời điểm quan trọng này có thể làm giảm sút
nghiêm trọng uy tín của Trung Quốc không chỉ với các nước trong khu vực
mà còn cả với các đối thủ địa chính trị toàn cầu. Để trỗi dậy là một
thành viên có trách nhiệm trong phạm vi toàn cầu, Trung Quốc cần phải
lựa chọn giữa đối thoại hay đấu súng.
Triển vọng đạt được một giải
pháp mang tính tập thể cho vấn đề, có thể dưới sự trung gian của ASEAN,
có vẻ rất mờ nhạt, thể hiện ở sự bế tắc chưa từng có giữa các nước
thành viên. Việc không thể thông qua bản thông cáo chung lần đầu tiên
trong 45 năm qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN cũng không phải
là điều quá bất ngờ khi khả năng đạt được một sự đồng thuận trên thực
tế cho vấn đề Biển Đông còn rất hạn chế. Tuyên bố duy nhất được đưa ra,
Nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông, lại dẫn chiếu rõ ràng hai lần tới Công
ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS). Một điểm mà Trung Quốc phản đối không áp
dụng cho tình huống hiện nay là nó liên quan đến chủ quyền lịch sử.
Do
vậy, dễ hiểu khi Trung Quốc ưu tiên đàm phán song phương hơn là xây
dựng sự đồng thuận đa phương, khi nước này có sức nặng đàm phán lớn hơn
với từng quốc gia nhỏ lẻ, nhờ vào vị thế kinh tế vượt trội. Việc các
cuộc đàm phán song phương có nhằm đạt được các hiệp ước đa phương hay
không vẫn là điều phải bàn cãi. Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục sử
dụng ngoại giao song phương để giành sự ủng hộ của các quốc gia nhỏ hơn
không tranh chấp, kết hợp với thể hiện những sự khiêu khích nhỏ.
Việc
Trung Quốc cảm nhận thời điểm leo thang vấn đề, trong bối cảnh sắp diễn
ra cuộc bầu cử tại Mỹ, đã mở đường cho "những kẻ cơ hội". Tuy nhiên,
Trung Quốc phải cân nhắc cuộc chuyển giao lãnh đạo cấp cao sắp diễn ra ở
trong nước, nơi những lợi ích nhóm riêng sẽ trỗi dậy. Một động thái
hiếu chiến với khối ASEAN có thể làm trầm trọng thêm vấn đề, khi đẩy các
nước nhỏ hơn vào vòng tay của Mỹ. Hậu quả, Trung Quốc sẽ phải lựa chọn
giữa chấp nhận, hay thể hiện lập trường cứng rắn. Thiệt hại sẽ rất lớn
nếu đụng độ dẫn tới một cuộc đối đầu toàn diện.
Mỹ: Quan sát thận trọng
Chiến
lược an ninh quốc gia của Mỹ công khai nhìn nhận sự trỗi dậy của Trung
Quốc là một ảnh hưởng địa chính trị cần được tính đến, bên cạnh sự trỗi
dậy như một cường quốc kinh tế. Quyết định "xoay trục" chiến lược về
châu Á của Mỹ thể hiện những quan ngại trong việc quản lý sự trỗi dậy
quá nhanh chóng của Trung Quốc trong cuộc đối đầu quyền lực toàn cầu.
Washington đang đứng trước nhiều câu hỏi cấp bách là nên xuống thang hay
leo thang khi cuộc bầu cử đang tới gần. Cuộc tranh luận cô lập hay can
thiệp từ thời Franklin D. Roosevelt lại nổi lên với "những vấn đề phương
Đông" - Israel-Iran, Syria ở Trung Đông và Biển Đông ở Viễn Đông. Dường
như Mỹ đang cảm thấy có trách nhiệm can thiệp vào trên cơ sở để bảo vệ
lợi ích của mình, không chỉ về mặt thương mại mà cả về địa chính trị,
trong khu vực.
Sau khi đóng một vai trò quan trọng trên phạm vi
toàn cầu trong gần nửa thế kỷ, Mỹ sẽ thận trọng hơn với những hành động
có thể đánh mất sự kiểm soát cho đối thủ, đặc biệt là Trung Quốc. Sự can
thiệp của Mỹ có thể có khả năng gây nguy hiểm cho mối quan hệ song
phương giữa Mỹ và Trung Quốc, khi mà mức độ căng thẳng nào đó đang tồn
tại dưới lớp vỏ hài hòa, đe dọa dẫn tới sự rạn nứt "đại hồng thủy". Có
rất nhiều bất đồng từ cả hai bên, với Trung Quốc nghi ngờ Mỹ cố tình gây
cản trở sự vươn lên về quân sự và kinh tế của mình.
Hậu quả, sự
tiếp tục chính sách bên miệng hố chiến tranh quân sự của Trung Quốc sẽ
là trao lợi thế cho phía Mỹ. Điều này sẽ tạo cho Mỹ cái cớ để triển khai
theo ý mình trong tình huống này, đứng về phía các quốc gia nhỏ hơn
trong khối ASEAN. Nếu Trung Quốc thể hiện lập trường hài hòa với các
nước láng giềng, Mỹ sẽ rất khó tham gia về mặt ngoại giao. Mặc dù tính
chất chính trị bầu cử ở trong nước, Mỹ sẽ vẫn đảm nhận tốt vai trò của
người quan sát thận trọng trong cuộc xung đột, và để cho các bên liên
quan trong khu vực đi đến một giải pháp hòa bình.
Việt Nam và Philippine: Lựa chọn nào?
Trong
lời cáo buộc mạnh mẽ sau khi không thể đưa ra thông cáo chung,
Philippine đã nhắc đến Trung Quốc là "láng giềng phương Bắc" và thẳng
thắn nêu ra nhu cầu cần phải giải quyết đa phương hơn là thảo luận song
phương. Những hành động ăn miếng trả miếng giữa các bên càng làm sâu sắc
thêm những mâu thuẫn. Các nước nhỏ hơn rõ ràng có lý do để lo ngại về
sự chuyển dịch cán cân quyền lực trong khu vực. Nỗ lực quốc tế hóa vấn
đề đi ngược với nỗ lực khu vực hóa của Trung Quốc. Sự bế tắc này có thể
nhanh chóng leo thang hơn nữa nếu không có những cuộc đối thoại tích
cực.
Mối quan hệ về thương mại với Trung Quốc đã đặt Việt Nam và
Philippine vào thế yếu hơn trong các cuộc đàm phán với Trung Quốc trong
phạm vi kinh tế, quân sự. Theo một số cách, các nước nhỏ có thể tìm sự
ủng hộ từ phía Mỹ nếu Trung Quốc vẫn ngoan cố leo thang đối đầu.
Trung Quốc nên góp phần củng cố an ninh khu vực
Cũng
trong thời điểm này, rắc rối giữa Trung Quốc và Nhật Bản vẫn đang âm ỉ
xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông. Những tuyên bố
cứng rắn của Trung Quốc có nguy cơ đẩy một tranh chấp lãnh thổ nữa giữa
hai nước láng giềng vốn không ưa nhau vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Các
nhà hoạt động Trung Quốc đã đổ bộ lên các hòn đảo và truyền thông Trung
Quốc lập tức nắm bắt lấy những hình ảnh này để thổi bùng tinh thần chủ
nghĩa dân tộc. Khi các nhà hoạt động Nhật Bản đáp lại, các cuộc biểu
tình chống Nhật Bản lập tức nổ ra ở khắp Trung Quốc. Vấn đề lãnh thổ có
xu hướng dễ dàng làm kích động tâm lý dân tộc chủ nghĩa của dân chúng.
Đây sẽ là một vấn đề mà các chính phủ rất cần thận trọng giải quyết nếu
nó vượt quá ngưỡng chịu đựng.
Một mặt, Trung Quốc tuyên bố đây là
vấn đề chủ quyền, do đó nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của UNCLOS; mặt
khác cũng thể hiện sẵn sàng khẳng định các tuyên bố chủ quyền trong khu
vực. Tuy nhiên, Trung Quốc không nên leo thang sức mạnh hải quân và thay
vào đó dành sức lực cho các nỗ lực đảm bảo an ninh khu vực. Quyết tâm
của Trung Quốc sẽ được chào đón, nếu nó hướng tới đạt được giải pháp đa
phương cho vấn đề và không đi quá phạm vi các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế.
Một sự phân phối cân bằng và khai thác chung các
nguồn tại nguyên dầu khí dưới đáy biển có lẽ là giải pháp hợp lý nhất
cho các bên liên quan trong khu vực. Tuy nhiên, triển vọng giải quyết
tranh chấp lãnh thổ giữa các bên tuyên bố chủ quyền còn rất mờ nhạt, nếu
không nói là đang sa lầy trong bế tắc. Thái độ của các bên đang làm
tăng nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang. Trong khi đó, sự trung gian hòa
giải của Mỹ có thể đồng nghĩa với việc làm sứt mẻ hình ảnh của Trung
Quốc với tư cách là một nhà lãnh đạo có trách nhiệm mới trên trường quốc
tế.
Đình Ngân
(Foreign policy journal)
Ông Tổng BT cũng sành chơi chữ
Hội nghị TW6 đã kết thúc. "Vở kịch câm" đã hạ màn. Các vai diễn lặng lẽ rút khỏi sân khấu, chẳng có lấy một tràng vỗ tay tán thưởng, đèn sân khấu đã tắt.Trái với sự câm lặng choán gần hết thời gian của vở diễn, không khí bên ngoài nơi công chúng lại đang huyên náo hơn bao giờ hết. Vừa chấm dứt vở diễn người ta đã la ó, chửi bới, mạt sát, và thất vọng tràn trề cả về nội dung lẫn hình thức. Thực ra họ cũng không lạ gì "loại hình nghệ thuật" này nhưng trước vở diễn nhiều nhà phê bình cả chuyên lẫn không chuyên đưa ra dự đoán với suy diễn một chiều, khiến công chúng hy vọng chắc "vở kịch" sẽ có một kết cục rất "hoành tráng", song nó lại không như dự đoán. Cuối cùng họ đã bị lừa, bị chưng hửng và thất vọng.
Chẳng riêng gì công chúng, ngay chính những nhà "phê bình điện ảnh", nhà "nghiên cứu sân khấu" cũng bị bất ngờ. Thế rồi cả công chúng lẫn phần lớn các nhà phân tích đều thống nhất cho rằng vở kịch thất bại, vai diễn quá tồi.
Theo dư luận, sự thất bại biểu hiện ở chỗ: nếu sự diễn xuất tẻ ngắt theo kiểu "kịch câm nửa mùa" khiến công chúng chán ngán và thất vọng một phần, thì chín phần còn lại là do đoạn kết của vở diễn. Khi mà đến cả "Vua" cũng không dám gọi tên kẻ "phản phúc". Tội lỗi của y thì đã hai năm rõ mười.
Thế mới biết làm cái nghề sân khấu không phải là dễ.
Tuy nhiên khi xem xét đến sự thành công hay không của một vở diễn thì ngoài số lượng khán giả còn phải tính đến cái "giá trị nghệ thuật" của nó. Nhiều vở kịch hay bộ phim rất ăn khách nhưng chưa chắc đã phải là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao.
Nghệ thuật là cả một quá trình lao động sáng tạo của nghệ sĩ, nó đòi hỏi phải có sự thăng hoa và sáng tạo. Mặt khác sự thành công của vở kịch còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như kịch bản, đạo diễn... còn diễn viên cũng chỉ đóng một vai trò nhất định thôi. Vậy hãy bình tĩnh một chút, suy ngẫm lại một chút thì thấy cả vở kịch lẫn vai diễn cũng có những thành công nhất định. Hãy thử phân tích theo những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Đã là kịch câm thì ngôn ngữ chính là hình thể chứ không phải bằng lời nói thông thường. Về khía cạnh này thì vở diễn khá đạt, ít nhất là đã thể hiện đúng hình thức của một "vở kịch câm".
Thứ hai: Trong khía cạnh nghệ thuật (mà ở đây, kịch chính là nghệ thuật sử dụng ngôn từ), có những lúc không nhất thiết phải biểu đạt một cách cụ thể, mà chỉ cần nói xa, nói xôi, nói úp mở... cách nói đó gọi là ngôn ngữ ẩn dụ. Nhiều khi dùng lối nói ẩn dụ lại truyền đạt được nhiều hơn là nói cụ thể. Lấy ví dụ như đoạn văn sau đây được trích từ một tiểu thuyết:
"... Trong lúc vội vàng tìm chỗ ngồi trên xe buýt, Hùng vô tình đặt tay mình vào đúng "chỗ ấy" của một thiếu nữ trên xe. Cô gái giật mình, vội khép đùi lại, rồi quay sang nhìn Hùng, khuôn mặt đẹp của cô bỗng đỏ rần rần. Hùng lúng túng, ấp úng định xin lỗi, song cũng chẳng biết là xin lỗi cái gì. Thế rồi cả hai cùng im lăng, cùng quay mặt đi."
Ở đoạn văn trên, nếu ta thay "chỗ ấy" bằng cái... của cô gái thì thật chẳng ra làm sao, mà thậm chí mất đi sức truyền cảm của cái mà người ta cần nhấn mạnh. Không phải lý do để lịch sự, tế nhị mà cách nói như thế còn làm nổi bật thêm cái cần nói. Chẳng cần phải gọi đúng tên, mọi người đều hiểu "chỗ ấy" là cái gì thì mới là hay.
Cũng tương tự, cụ Tổng đã nói hết những tội danh của cái "đồng chí X" rồi còn gì? Nào là thất bại trong điều hành chính phủ để thất thoát rất lớn trong các Tập đoàn kinh tế, đặc biệt là Vinashin, Vinaline; nào là để các nhóm lợi ích lũng đoạn tài chính, thôn tính ngân hàng; nào là có biểu hiện dung túng cho người nhà, người thân lợi dụng chức quyền làm giàu bất chính... và cái "đồng chí ấy" lại ở trong BCT thì còn ai vào đấy nữa? Nói như thế đã là "bắt tận tay day tận trán" rồi còn gì?
Cả đoạn văn trên và đoạn cuối "diễn văn bế mạc Hội nghị" của cụ Tổng đều giống nhau ở cách diễn đạt ngôn ngữ ẩn dụ rất thành công. Tuy không nói mà mọi người đều hiểu rõ ràng "chỗ ấy" chỉ có thể là "cái ấy" và cái "đồng chí X" cũng chỉ có thể là "đồng chí ấy" mà thôi. Lối nói đó trên thực tế còn có sức mạnh công phá hơn là gọi đúng cái tên cúng cơm của nó. Có lẽ ngài đã cân nhắc chán, suy nghĩ chán rồi mới diễn xuất như thế.
Xem ra cụ Tổng tuy học về chính trị Mác-Lê và tư tưởng Hồ chí Minh nhưng cũng khá sành ngôn ngữ và kịch nghệ chứ không phải tay vừa.
25/10/2012
Tùng Lâm
(Dân luận)
Nước Mắt Anh Hùng Lau Chả Ráo
Tôi đến vàm Nhựt Tảo thuộc tỉnh Long An vào một ngày tháng chạp. Từ Sài
Gòn, tôi chạy xe máy xuống Tân An (thủ phủ của Long An) mất gần hai
tiếng dù đoạn đường chỉ hơn 50 cây số. Tân An là điểm đầu tiên cho mọi
tuyến xe từ Sài Gòn xuống miền Tây, tôi đã qua đây không biết bao nhiêu
lần nhưng đây là lần đầu lon ton chạy honda vào thị xã. Đường phố sạch
và khá rộng, cứ thấy đường là chạy chứ chẳng biết phương hướng gì, thời
may chạy tới một ngã tư thì thấy một quán cà phê vườn rất lớn, trước
quán có một cây sung sai trái và một bụi tre la ngà màu vàng. Thật mát
mẻ và lý tưởng để nghỉ chân vì lúc đó đã gần giữa trưa.
Trong cuốn du ký Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Nguyễn Hiến Lê mô tả Tân
An là một châu thành sầm uất, một trong các điểm giáp ranh của Đồng
Tháp Mười, gồm các địa danh Mộc Hóa (cũng thuộc Long An), Hồng Ngự và
Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp), Cái Bè (Tiền Giang). Tôi học thuộc lòng tấm
bản đồ vẽ tay trong cuốn sách của ông, so sánh bản đồ hiện nay thì không
khác mấy, và dự tính sẽ chạy xe theo lộ trình mà Nguyễn Hiến Lê đã đi
từ 70 năm trước.
Theo chỉ dẫn tìm trên mạng, ở Long An có một khu bảo tồn vùng trũng Đồng
Tháp Mười là Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn Phát triển Dược liệu Đồng
Tháp Mười thuộc xã Bình Phong Thạnh, huyện Mộc Hóa, cách Tân An khoảng
60 cây số. Trung Tâm này có trên 800 ha rừng nguyên sinh. Theo quốc lộ
62 từ Tân An lên Mộc Hóa, ngang cầu Quảng Dài thì xuống ghe đi chừng 45
phút nữa sẽ tới Trung Tâm. Cách mô tả rất hấp dẫn, hứa hẹn một chút gì
sót lại từ vùng đất hoang sơ vào thời Nguyễn Hiến Lê du khảo Đồng Tháp
Mười.
Ra khỏi Tân An trên 10 cây số, hai bên đường đã khá thưa vắng, các hàng
cây bạch đàn thẳng tắp xì xạc trong tiết trời mát dịu của những ngày áp
xuân. Thỉnh thoảng những vùng nước trũng hiện ra phấp phới, những đám
hoa rau muống tươi trắng, hoa lục bình (bèo) tím lơ, hoa lau trắng lắt
lơ, hoa phượng vàng mơ và không khí thoang thoảng hương thơm. Đến cầu
Quảng Dài như chỉ dẫn hỏi nhà dân nhưng không ai biết đường vào Trung
Tâm, chạy thêm một khúc nữa thì qua cầu Quảng Cụt, thêm 10 cây số nữa
đến Mộc Hóa, đánh một vào huyện lỵ buồn tênh giữa trưa vắng, hỏi các ông
xe ôm thì họ chỉ ngược lại đoạn đường mới đi qua. Tôi chạy trở lui, ghé
vào hai bến đò nhưng không ai biết. Thế là mất hy vọng ngủ đêm giữa
Đồng Tháp Mười, hết hy vọng qua một đêm giữa rừng trên quê hương Nguyễn
Trung Trực, nơi ông từng ngang dọc đánh Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông, trên
vàm Nhựt Tảo, và chắc còn nhiều chỗ khác mà chính sử không ghi.
* * *
Chiều hôm sau, lúc đó đã gần 5 giờ, tôi hỏi đường lên vàm Nhựt Tảo và
“cái tàu ông Nguyễn Trung Trực đốt của tụi Tây”. Bác xe ôm ở một góc
đường thị xã Tân An có vẻ rành, bác chỉ qua cầu Tân An (bắc ngang sông
Vàm Cỏ Tây), qua cầu Bến Lức (sông Vàm Cỏ Đông), đến ngã tư Tân Trụ rẻ
phải rồi “cứ vừa đi vừa hỏi”.
Theo hướng bác chỉ đến ngã tư Tân Trụ rẻ phải, chạy thêm chừng năm cây
số thì gặp một ngả ba đường đất đỏ. Không biết đường mà gặp ngả ba
thường rất là phiền. Thôi cứ liều chạy thẳng. Đường xấu và bụi, nhưng
rồi nhà dân dần thưa thớt, hai bên đồng ruộng không bát ngát lắm nhưng
đủ để phóng tầm mắt một cách thoải mái, màu xanh của lúa rủ hết bụi bặm
đô thành.
Người miền quê có một khái niệm về đường dài rất… nhà quê. Theo kinh
nghiệm hỏi đường thì khi họ nói “chút nữa là tới” thì có nghĩa phải đi
cả năm hay bảy cây số nữa cũng chưa biết chừng. Tôi vừa chạy vừa hỏi,
không ai biết con tàu bị đắm nhưng Nhựt Tảo thì họ biết. Có một chị dắt
con đi nói “đằng kia kìa kia kìa chốc nữa là có bến đò đó”.
Con đường đất đỏ có đoạn ôm tròn một vòng cung ruộng lúa xanh rì rất đỗi
thanh bình trong ánh chiều tà. Lại đến một ngả ba. Ở đây người ta cắm
một cái bảng lớn vẽ các khu vực qui hoạch, nhìn kỹ không thấy có sân
golf trên đó (thật may, tưởng tượng đồng ruộng lần lượt nhường chỗ cho
sân gôn thì nông dân biết về đâu).
Lại chạy tiếp, đường càng lúc càng xấu và bắt đầu thấy nản. Nhưng khi
chạy ngang một cái cầu trên trên con sông nhỏ thì chợt nhìn bên trái,
tôi thấy một ngôi đền đang xây dựng dở dang khuất sau những đám sậy,
linh tính báo tôi quay lại, dựng xe, hỏi một chị đang chờ phà.
- Chị ơi vàm Nhựt Tảo ở đâu vậy?
- Đây này! Cô gái chỉ ngay dòng sông trước mặt.
- Vậy cái phà này đi đâu?
- Đi qua Cần Đước.
Mon men hỏi một người đàn ông trung niên đang ngồi tựa ở dốc cầu treo,
ông nói khá rành rọt. Ông nội của ông năm nay 100 tuổi có kể rằng thời
còn trẻ có thấy một ống khói tàu nằm ở ngả ba sông kia kìa (người đàn
ông đưa tay chỉ ra ngả ba sông), nhưng bây giờ thì không có gì, có thời
người ta lặn xuống đáy sông mò được một vài món đồ cổ gì đó.
Vậy ra là tôi đang đứng ngay ngả ba sông, nơi Nguyễn Trung Trực đánh đắm
chiến thuyền Espérance của Pháp năm 1861. Trong Tập san Sử Địa số 12
(1968) xuất bản ở Sài Gòn để kỷ niệm 100 năm ngày mất Nguyễn Trung Trực,
có ghi lại trận đánh này theo tài liệu của Pháp, như sau:
“Ấy là ngày 10 tháng 12 năm 1861 (thứ Ba mồng 9 tháng 11 Tân Dậu).
“Hồi ấy lúc 12 giờ trưa, sĩ quan chỉ huy chiếc lorcha l’Espérance đi lên
bờ theo đuổi một lũ đầu trộm đuôi cướp cách tàu lối hai dặm. Bốn hay
năm chiếc ghe có mui thả theo bìa tàu; thủy thủ đoàn đang nghỉ từng trên
của tàu không hề nghi kỵ chi hết; viên hạ sĩ quan đóng vai tuồng
trưởng-phó nghiêng mình ra khỏi cửa sổ tàu tưởng là người buôn bán muốn
ghé xin nhận giấy phép lưu thông, viên hạ sĩ quan vô phước kia bị một
mũi giáo vô ngực và một đám đông người từ các mui ghe của tên công kích
tàu và la thật lớn.
Trong vài sao đồng hồ, hơn một trăm năm mươi người An nam tay cầm giáo,
cầm gươm và cầm đuốc, tràn ngập cả từng trên tàu và một cuộc xáp-lá-cà
không tương xứng xảy ra. Trong vài phút đồng hồ sau, lửa táp vào nóc lá
của tàu và cháy mau lẹ. Bị nóng quá, đôi bên nhảy đùng xuống sông hay
tuột xuống ghe.
Năm thủy thủ trong số đó có hai Pháp và ba Tagals (người bổn xứ ở Ma-Ni)
phóng xuống một ghe nhỏ, không súng ống chi cả và ràng sức chèo. Ở xa,
năm thủy thủ này thấy chiếc l’Espérance nổ tung, các mảnh tàu văng xa
đến hai bờ sông, mười bảy người Pháp hay Ma-Ni đều chết đắm trong cuộc
tai biến này.”
Cũng theo tài liệu của Pháp sau đó “[N]hững thường dân ở làng Nhựt Tảo
hùa theo những kẻ đốt tàu đều bị đốt nhà hết vì tàu đậu ngay làng ấy.”
Tôi đi loanh quanh trên con đường đất nhỏ, nơi mà gần một thế kỷ rưỡi
trước nhà cửa bị Tây đốt sạch. Đi sâu vào trong khuôn viên ngôi đền
Nguyễn Trung Trực đang xây dựng chỉ thấy cỏ lau um tùm, không biết có
phải vì đã chiều nên công nhân về hết hay công trình đang bị bỏ dở, chỉ
thấy trong khuôn viên ngay ngả ba sông một màu hoang vắng, dăm ba đứa
con nít đang chơi đá banh trên bãi đất trống, lau sậy um sùm từng bụi
che khuất đó đây, ngôi đền lớn đang xây nằm chính giữa khu đất (xem hình
1) có một vẻ uy nghi nhưng cô độc. Tôi băng qua sân rộng đến sát mép
sông, thấy một cái miếu nhỏ bé, cửa miếu hướng ra bờ sông. Vòng ra mặt
trước miếu nhìn vào mới biết đó là miếu ngũ hành, cả gian miếu âm u chập
chờn. Tôi bước vào miếu, tự dưng xương sống lạnh buốt như đang bước vào
một nơi nhiều âm khí dù trời chưa tối hẵn. Không gian trong ngôi miếu
nhỏ tịch mịch quá, tưởng như nghe được tiếng sông chảy bên ngoài. Bên
góc phải bàn thờ ngũ hành có một hộc bàn thấp lè tè, trên để tấm hình
Nguyễn Trung Trực chít khăn đen, bên dưới ghi:
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (1838-1868) |
Nguyễn Đình Chiểu viết “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo.” Thật là nao
lòng quá. Một dũng tướng ngang dọc từ Tân An đến Rạch Giá, lập những
chiến công “oanh thiên địa” và “khấp quỷ thần” trong lứa tuổi 20, ngay
nơi chiến tích của ông cách đây 146 năm, nay chỉ có một ngôi đền xây
dang dở, và một bức hình nhỏ trên một bệ thờ thấp, nằm ké trong cái miếu
ngũ hành tàn tạ âm u vôi lở sơn tróc hương tàn bàn lạnh.
Đôi mắt ông thao thiết nhìn ra sông, rất lặng lẽ. Trong Tập san Sử Địa
số đã dẫn, nhà biên khảo Trương Bá Phát có thuật lại chuyện ông gặp nhà
văn Sơn Nam ở thư viện S.E.I trong Sở Thú khi đi tìm tài liệu về Nguyễn
Trung Trực. Ông Sơn Nam kể: “Trên Sài Gòn đây, chúng ta thấy toàn là ghe
có cặp mắt tròn dài, tròng trắng ở ngoài, tròng đen ở giữa, còn ghe
Rạch Giá có cặp mắt tròn vo, vành ngoài sơn xanh, màu đen ở trong. Người
ta nói hồi 1868, sau khi rút lui khỏi Rạch Giá, Trực ra đảo Phú Quốc.
Muốn đi biển Trực ngồi trước mũi ghe, gặp sóng lớn Trực trợn cặp mắt là
sóng bớt ngay. Dân đi ghe bắt chước theo cặp mắt Trực, sơn hai bên mũi
ghe, hai con mắt in như cặp nhãn của Trực vậy.”
Miếu Ngũ Hành ở Tân An, nơi có để hình thờ (ké) của cụ Nguyễn Trung Trực. (Ảnh Từ Khanh) |
Tôi ra đứng trước cửa miếu nhìn ngả ba sông Nhựt Tảo qua những cây hoang
um sùm. Dòng sông trong vắt và êm đềm, thỉnh thoảng một chiếc phà nhỏ
chở khách ngang qua. Trời đã chập choạng và một tiếng chim chợt kêu. Ở
quán nước sát mé sông, tôi hỏi bà chủ quán:
- Chị ạ, chắc tấm hình ông Nguyễn Trung Trực người ta thờ tạm hả chị, chờ khi cái đền lớn xây xong?
- Đâu có, cái miếu nhỏ đó hổng phải thờ ông Nguyễn Trung Trực. Mấy bữa
trước có một bà dưới Rạch Giá đem hình ổng lên để thờ ké trong miếu đó!
Người ở rạch Giá đem ảnh lên thì đúng rồi. Ở Rạch Giá, đền ông Nguyễn
rất trang nghiêm (người dân kiêng tên, chỉ gọi là ‘ông Nguyễn’). Từ đền
ông Nguyễn trên đường Nguyễn Công Trứ thuộc thành phố Rạch Giá nhìn ra
có mặt sông, phía phải là cửa biển có rất nhiều tàu đánh cá neo đậu.
Trước sân đền có tượng ông đang tuốt kiếm. (Trước đây pho tượng này màu
đen, bằng đồng, trước đây dựng trước chợ Rạch Giá, không hiểu sao bây
giờ người ta ‘trùng tu’ thành màu đỏ nâu.)
Tôi chưa từng thấy một ngôi đền nào thờ phụng trang nghiêm như ngồi đền
này. Điện chính gồm năm gian, mỗi gian có hình và hương án, các hàng giá
dựng cờ và gươm giáo, hai bên đều có lộng đỏ, hạc chầu, và câu đối thếp
vàng bằng chữ Hán, riêng gian trong cùng có ảnh thờ lớn nhất, hai bên
có hai cây đèn cầy cao 3.25 mét, nặng 360 ký. Hương đèn thắp sáng dù
không phải ngày lễ, không khí toát lên một vẻ trang nghiêm kính cẩn.
Thờ ké trong miếu! Phải, cái bàn thờ ông thấp và bé hơn bàn thờ năm
tượng ngũ hành nhiều lần, bên di ảnh ông có một chai nhựa khô nước (hay
rượu), trước có một con ngựa nhỏ màu trắng. Có lẽ cái bệ thờ này để thờ
bạch mã – như trong nhiều miếu ở miền quê thường có thờ “Bạch Mã Thái
Giám” tức con ngựa trắng để đỡ chân cho thành hoàng của làng xã – rồi
người đàn bà Rạch Giá tội nghiệp kia đem hình ông lên không biết đặt đâu
nên để ‘ké’ vào bệ thờ con ngựa trắng, trước hình ông là một bình hoa
giả, hai chén nước nhỏ, một bát nhang lạnh.
Vậy thôi!
Đúng một trăm bốn mươi năm trước Nguyễn Trung Trực đánh trận cuối, đuổi
sạch Tây ra khỏi Rạch Giá. Và cũng 140 năm trước ông bị Tây xử chém ở
chợ Rạch Giá. Lúc đó ông 30 tuổi.
Chiều đã vàng rịm, trên ngã ba sông có một cánh bèo trôi lẳng lạnh.
Ba tuần sau tôi lại đi Nhật Tảo. Lần trước là tháng Chạp trước tết, lần
này là mồng 5 tết Kỷ Sửu. Sáng sớm rủ một người bạn ở nước ngoài về
“xuống Long An uống cà phê rồi trưa về”, thì nhận được tin nhắn một chữ
ngắn ngủi: “mèn”. Coi như là một lời từ chối ớn lạnh, thôi thì xách xe
lên đường solo.
Tới ngã tư Tân Trụ cách Sài Gòn non 50 cây số, thay vì rẻ trái vô Nhật
Tảo tôi rẻ phải theo bảng chỉ đường đi hướng Thủ Thừa. Trong cuốn Bảy
Ngày Trong Đồng Tháp Mười, ông Nguyễn Hiến Lê vẽ bản đồ giải thích thủy
triều lên xuống ở miền Tây khác ngoài Bắc như thế nào, rồi phán: “Thủy
triều ở biển tiến vào sông Vàm Cỏ Lớn rồi chia làm hai luồng vào hai
sông Vàm Cỏ Đông và Tây, sau cùng một mặt đổ vào Kinh Mới, một mặt đổ
vào Thủ Thừa: Thủ Thừa thành một chỗ giáp nước.”
Theo ông chỗ giáp nước là nơi ghe thuyền neo đậu chờ đổi con nước nên
thường có chợ. Cái khám phá này thực thú vị nên khi chạy về hướng Thủ
Thừa, tôi cứ tẩn mẩn nghĩ không biết con đường trơn láng này ngày xưa
Nguyễn Hiến Lê đã đi qua chưa. Ai dè con đường láng này chỉ có cái bề
ngoài, mới chạy một khúc thì hết đường nhựa mà toàn đường đất bụi mù
mịt. Nhìn con đường lồi lõm thấy rất nản, hai bên lúa vừa lên nhưng
đường đi càng lúc càng nhỏ và xấu.
Nông dân kéo ống nước từ ruộng này băng qua đường đến ruộng kìa đổ tèm
lem cả mặt khúc đường, xe chạy ngang nước văng lên ướt tới mông. Chạy
riết cũng không thấy gì cả trừ đất bụi mù mịt. Không dám mạo hiểm vì
xăng sắp hết, tôi quay ngược chạy về hướng Nhật Tảo sau khi đã vào một
quán cốc bên đường làm một ly cà phê đá ngon tuyệt trần ai. (Điềm) may
hơn nữa là đang ngồi thì một trái sung rơi vô túi áo, đầu năm xuất hành
mà được sung rụng kiểu này chắc năm này khấm khá rồi.
Con đường đất nhỏ cũng như ba tuần trước, chỉ khác bây giờ đã gần trưa.
Tôi chạy một vèo tới Vàm Nhật Tảo, vô thẳng ngôi đền ông Nguyễn Trung
Trực đang xây cất dở dang, chụp một vài tấm hình (lần trước không đem
theo máy), xong chạy ra cầu treo chờ phà qua Cần Đước.
Đứng trên phà nhìn ngược lên mỏn đất cất đền rất đã vì có thể hình dung
nghĩa quân núp trên bờ tràn ngập lau sậy, giữa sông chiếc Espérance neo
đậu. Rồi một chiếc ghe đám cưới rề tới trình việc đi rước dâu cho quan
Tây. Chú rể khúm núm dâng lễ vật cho quan Tây rồi bất thần, chú rể chính
– Nguyễn Trung Trực – rút búa xán lên đầu viên xếp, mọi người hô to
“Xáp chiến”!
Đó là buổi trưa 148 năm trước. Nhưng đúng lúc chiếc phà ra giữa sông thì
từ hướng Tây, một con tàu sắt nước ngoài rất lớn tiến lại. Chiếc phà đi
chậm mà tàu sắt tuy thấy chạy chậm nhưng phút chốc đã sát bên hông, nó
né chiếc phà nhỏ và ngẫu nhiên cái mũi tàu khồng lồ của nó in hình song
song với ngôi đền ông Nguyễn Trung Trực ở bờ bên kia. Bên hông tàu có
hàng chữ Vitamin Gas, còn trước bong tàu có một hàng chữ Trung Hoa. Ngày
xưa là tàu Espérance (Hy Vọng), bây giờ là Vitamin Gas (trên tàu chở
một thùng phuy khí hóa lỏng (LPG) rất to). Nói có bến phà làm chứng lỡ
dại mà con tàu này… tự nhiên bốc cháy thì cũng đã lắm chứ chẳng phải
chơi!
Từ Khanh(Dân luận)
Fan của Bằng Kiều “chịu chơi” hơn cả Tây
Giữa ảnh hưởng của bão số 8, “cơn sốt” giá vé chương
trình Bằng Kiều - Nơi tình yêu bắt đầu tại Hà Nội có vẻ vẫn chưa hạ
nhiệt khi những cặp vé “siêu” VIP vẫn được rao bán với giá hàng chục
triệu đồng.
Nếu tối nay (28/10), 3.800 chỗ ngồi của
Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà Nội được phủ kín thì có thể kết luận
rằng: khán giả của Bằng Kiều “chịu chơi” hơn cả người Anh.
Người
Anh, đang sống ở đất nước có nền kinh tế mạnh nhất, nhì châu Âu, thu
nhập bình quân đầu người năm 2011 (theo công bố của Ủy ban châu Âu) là
35.860 USD, thế mà lại… “hẹp hòi” đến mức phẫn nộ với cái giá vé xem ca
nhạc!? Chả là cuối tháng 11/2012 tới, ban nhạc huyền thoại The Rolling
Stones sẽ diễn hai đêm tại London. Mức giá được đưa ra là 375 bảng Anh
(tương đương hơn 600 USD) cho một chỗ ngồi đã bị người Anh xem là… cắt
cổ!!!
Một cặp vé mời show Bằng Kiều |
Chắc
người Anh không đọc báo hay các diễn đàn ở Việt Nam (tất nhiên rồi, do
bất đồng ngôn ngữ) và cũng có thể không tưởng tượng được rằng, khán giả
Việt dám bỏ ra cả bảy tám trăm đô (có tin rằng tới cả ngàn USD) sở hữu
những cặp vé siêu VIP để được gặp thần tượng một thời. Bằng Kiều trở lại
góp phần “hâm nóng” thị trường vé ca nhạc bấy lâu khá “trầm lắng”.
Nhưng có điều thì chắc ai cũng biết, so với thu nhập bình quân đầu người
35.860 USD kia, người Việt mới chỉ đạt con số khiêm tốn: khoảng 1.300
USD/người/năm.
Cách đây ít lâu, không ít người khá
ngạc nhiên trước một công bố của Quỹ Kinh tế mới (NEF) tại Anh cho biết:
Việt Nam xếp thứ 2/151 về chỉ số hạnh phúc. Hóa ra, lâu nay, dù hàng
ngày có thể chúng ta phải chịu cảnh tắc đường, bụi bặm tới mức cứ ra
khỏi nhà là bịt khẩu trang kín mít hay nộp đơn xin học cho con phải xếp
hàng từ nửa đêm… thì phần đông chúng ta vẫn hài lòng với cuộc sống! Từ
cái chỉ số hạnh phúc nói trên, người ta cũng suy ra nhiều tính cách của
người Việt. Nào là nhu cầu sống của chúng ta đơn giản, mua nhà, sắm xe
hơi, hay cuối tuần thì thư giãn bằng việc đi xem ca nhạc, kể cả giá vé
có cao ngất ngưởng.
Rõ ràng, người Việt “chịu chơi” hơn cả Tây! Thảo nào, chúng ta đứng thứ hai thế giới về chỉ số hạnh phúc!
(Thể thao Văn hóa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét