Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

Cập nhật Tin thứ Năm, 16-08-2012

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Tương Lai: QUẦN CHÚNG VÀ LỊCH SỬ, HAY LÀ “SỰ BÍ ẨN CỦA LỊCH SỬ”   –   (Người Lót Gạch).
- Ông Nguyễn Ngọc Oai- Cục trưởng Cục Khai thác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Yên tâm bám biển  (NNVN).
- Ngụy biện về đường lưỡi bò: Trung Quốc lộ “gót chân achilles” (TP).
Hải Phòng: Tin đồn thất thiệt về kho súng và ma túy ở chùa Cao Linh (GDVN). Không ngạc nhiên! Và xin nhắc lại bữa qua khi bình về vụ Cháy lớn tại khu công nhân Trung Quốc (TT)  BS có đề cập tới nguồn tin về những “đồ chơi” kinh dị của công nhân TQ trong một nhà máy điện ở TP này… Lâu nay, những ngôi chùa Tàu đặc sệt, những ông “sư Tàu”, núp bóng “Đài Loan”, gây ảnh hưởng tới cả giới chức cao cấp, … và rồi tới những đồn đại kinh dị như trên, thêm cho ta những cảnh báo nguy cơ.
KINH TẾ
Rủi ro không nằm ở các con số báo cáo (TBKTSG). VĂN HÓA-THỂ THAO
Tình cát 9 (Quê Choa).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Cô giáo uất ức tự tử trước mặt lãnh đạo (VTC). (bây h thì uất ức tràn lan khắp nơi, khắp ngành nghề......)
Thi sáng chế bàn cầu không cần nước (VOA). “Ông Gates hứa tài trợ 370 triệu đôla cho các dự án phát minh bàn cầu không cần nước, điện hoặc bình tự hoại, không ô nhiễm với giá khoảng 5 xu Mỹ một ngày”.
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Để sức khỏe toàn dân được bảo vệ công bằng (SGTT). - Xử lý rác thải y tế nguy hại vẫn bỏ lửng (Infonet).
Tăng cường kiểm soát rau quả nhập khẩu (VTV). (có điều lạ là có rất nhiều ban ngành mà không kiểm soát nổi là sao, trong khi đó Quản lý thị trường thì dù có bà gánh rau nấp trong hẻm cũng vẫn không thoát@@@)
Hôi của (ĐĐK).
ĐÀN VOI RỪNG VỀ VIẾNG TANG ÂN NHÂN (Nguyễn Trọng Tạo).
QUỐC TẾ

Tàu ngầm hạt nhân Nga lượn sát sườn Mỹ (VNN). (cái này thì rõ là chưa thể khẳng định đúng hay sai)

  NHỮNG PHẢN HỒI VỀ BÀI VIẾT "SỰ THẤT VỌNG VĨ ĐẠI SAU NGHỊ QUYẾT 5"

Trí Nhân Media
15-8-2012
Ngày 2-7-2012, TNM đăng bài viết "SỰ THẤT VỌNG VĨ ĐẠI SAU NGHỊ QUYẾT 5" của tác giả Hạ Đình Nguyên, sau đó vào ngày 10-8-2012 bạn đọc Thành Sơn đã gửi phản hồi phân tích những điểm trong bài viết của tác giả HĐN (mà theo Thành Sơn) là thiếu cơ sở lý luận là thiển cận là "do có lập trường thù địch hoặc do không phân tích khoa học đúng đắn hiện tượng chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hoặc do cố tình bôi đen tình hình của xã hội VN". Cũng theo Thành Sơn: "cho thấy nhân dân thế giới đang nhận thức được rằng CNXH là giải pháp tốt nhất".

Nhưng với tác giả Lê Phi qua bài viết tựa đề "Trả Lời Thành Sơn" thì "Cách lý luận của Thành Sơn đưa ra các dẫn chứng không liên quan, không thích hợp, phiến diện rồi nhảy tới kết luận “cho thấy nhân dân thế giới đang nhận thức được rằng CNXH là giải pháp tốt nhất” quá hoang tưởng, lạc đề.  Loại lý luận đó chỉ được coi là đúng đắn trong chủ thuyết cộng sản mà thôi vì nó không cần phải chứng nghiệm với thực tế hay lẽ phải."

Mời bạn đọc theo dõi và đóng góp ý kiến ...


=======0000=========


Trả lời Thành Sơn
Lê Phi
15-8-2012
Trước hết tôi có vài nhận xét về Thành Sơn chỉ qua những dòng trả lời của Thành Sơn cho tác giả Hạ Đình Nguyên. Thứ nhất, Thành Sơn là người có trình độ văn hóa, là người được giáo dục kỹ lưỡng về lý luận chính trị Mác-Lê và thuộc về thành phần thông hiểu theo cách lý luận đó.  Thứ nhì (đây là lý do tôi viết để trả lời cho Thành Sơn) Thành Sơn vẫn còn tin tưởng vững chắc vào tất cả những gì được học hỏi như chủ nghĩa Mác-Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường lên chủ nghĩa xã hội của VN, ĐCSVN và sự lãnh đạo của nó trên VN ...  Tóm lại, Thành Sơn về tư tưởng là thành đạt kiểu mẫu dưới giáo dục của CSVN.
Tương tự như Thành Sơn viết “cách hiểu về “đột phá lí luận” của tác giả HĐN và của ĐCSVN là khác nhau hoàn toàn, là xa nhau hoàn toàn”, cách hiểu về hai chữ “đột phá” của tôi hoàn toàn khác với Thành Sơn và ĐCSVN.  Thông thường khi mọi chuyện êm xuôi, bình thường, tốt đẹp, người ta không dùng chữ đột phá.  Chỉ khi có sự bế tắc, bao vây không lối thoát, hay bị cản trở, lúc ấy mới cần phải đột phá chẳng hạn như “đột phá vòng vây”.  Vì vậy khi nghe tới hai chữ “đột phá”, tôi liên tưởng đến cái gì mới mẻ hơn, khác lạ hơn, và có thể đảo lộn luôn cả cái gì sẵn có.  Còn nếu cứ vũ như cẩn – vẫn như cũ, bình mới rượu cũ thì tất cả chỉ là sự lừa bịp, khoác lác, “mười voi chả được bát nước xáo”. 
Thành Sơn viết: “Tác giả HĐN quên rằng chế độ ta không phải là sự thống trị của một tầng lớp nào, một nhóm nào, không phải là sự cạnh tranh giữa các tầng lớp để tranh giành thống trị, mà phải tam quyền phân lập!  Xã hội ta phấn đấu là một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân làm chủ, cho nên thực hành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là sự phân công có phối hợp giữa các thành tố của nhà nước, đảm bảo nhà nước là của dân do dân vì dân, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.”  Qua đoạn văn trên, theo Thành Sơn vì có sự thống trị của một tầng lớp, nhóm nào và có sự cạnh tranh để tranh giành thống trị nên mới cần phải có tam quyền phân lập, và trong cái gọi là “nhà nước” của CSVN thì “thực hành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là sự phân công có phối hợp giữa các thành tố của nhà nước,”.  
Thành Sơn đã hiểu sai hoàn toàn lý do và mục đích của tam quyền phân lập. Tam quyền phân lập chia quyền điều hành quốc gia làm ba phần độc lập: lập pháp, hành pháp, và tư pháp nhằm mục đích kiểm soát và cân bằng lẫn nhau.  Điều này tránh quyền lực tập trung vào một người/một nhóm  đưa đến thối nát vì không có kiểm soát. Vấn đề kiểm soát độc lập không chịu ảnh hưởng của cơ cấu bị kiểm soát là căn bản của quản trị minh bạch áp dụng cho tất cả mọi hình thức tổ chức: thương mại, kỹ nghệ, chính trị ...  Một thí dụ để minh họa về thể thao, trong một trận đá bóng cần phải có luật chơi bóng, trọng tài, và đội tham dự.  Luật chơi bóng không thể do một đội đề ra vì có thể thiên vị cho đội nhà nên phải được độc lập.  Trọng tài áp dụng luật chơi bóng phán xét bên nào có lỗi cần phải độc lập và không thiên vị.  Như thế thì các đội bóng mới có thể tranh tài dự trên khả năng chân thực của chính mình. Còn nếu “thực hành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là sự phân công có phối hợp giữa các thành tố của nhà nước” thì không những “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà còn có thể đổi luật chơi tùy thích ngay trong trận bóng.
Còn “...đảm bảo nhà nước là của dân do dân vì dân, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.”  chỉ là một loại khẩu hiệu trưng bày mà thôi vì trong cơ chế quyền lực của các quốc gia theo cộng sản chẳng thấy có cách nào để người dân có ý kiến, chọn lựa người lãnh đạo cho quốc gia chớ chưa nói đến phế bỏ kẻ cầm quyền vì thiếu khả năng.  Cái trò “đảng cử dân bầu chỉ là trò mỵ dân rẻ tiền giống như đưa cho bát cơm bảo lựa giữa một bát muối ớt và bát muối tiêu bảo ăn rồi sau đó bảo dân đã chọn cơm với muối phản đối các món thịt cá rau đậu vì không hợp khẩu vị với người dân.  Một khi dân đã không có quyền chọn lựa người đại diện, các vấn đề quan trọng đến quốc gia đều không được bày tỏ ý kiến, với lập luận “để đảng và nhà nước lo” thì “mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân” là nhân dân nào?  Có lẽ đó là các “ngài nhân dân” trong quốc hội và cơ cấu quyền lực chứ không phải là những thằng dân cong lưng làm việc nuôi bộ máy chính quyền.
Xã hội ta phấn đấu là một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân làm chủ, ...” có nghĩa là gì khi gần như mọi thứ đều dựa trên lý lịch, từ đi học, đi làm, cho đến thăng thưởng, xét khả năng.  Làm sao có được đoàn kết chưa nói đến đại đoàn kết toàn dân tộc khi có sự kỳ thị phân biệt rõ ràng trong tất cả các chủ trương, chính sách, đường lối của nhà cầm quyền CSVN.  Chỉ có những kẻ thiếu nhận xét, ngu xuẩn hay cực kỳ vô liêm sỉ mới có thể phủ nhận sự phân biệt, kỳ thị dựa trên căn bản lý lịch ở Việt Nam.  Tôi không nghĩ Thành Sơn là người thiếu nhận xét thì làm sao giải thích được sự đoàn kết này đây.  
Sau đó  “nhân dân làm chủ” mà dân không được biết gì về những thỏa ước về lãnh thổ, lãnh hải được ký kết bởi nhà cầm quyền CSVN với Trung Cộng.  “Nhân dân làm chủ” mà những dự luật ảnh hưởng tới đời sống người dân, những món nợ khổng lồ mượn trên danh nghĩa “nhân dân” lại không được quyền biết tới.  “Nhân dân làm chủ” mà những số tiền khổng lồ thất thoát trong các doanh nghiệp nhà nước không bao giờ được đưa ra ánh sáng, rõ ràng tại sao xảy ra, ai trách nhiệm, và xử phạt có tương ứng với tội hay không.
“... cho nên nhiều quốc gia đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, ...”  Hiện nay trừ các nước theo cộng sản thì nước nào có chế độ sở hữu toàn dân với đất đai tương tự như Việt Nam có lẽ Thành Sơn cũng không biết.  “Nhiều cuộc cách mạng tư sản triệt để trên thế giới đã từng quốc hữu hóa đất đai, xóa bỏ chế độ tư hữu ruộng đất của địa chủ.” thì đúng nhưng chỉ “xóa bỏ chế độ tư hữu ruộng đất của địa chủ” mà thôi chứ không áp dụng với tất cả toàn bộ các người dân và chỉ trong giai đoạn mà thôi.  Chuyện truất hữu ruộng đất đại điền chủ đã xảy ra ở miền Nam dưới cả hai thời cộng hòa.  Chính phủ truất hữu quyền sở hữu một số ruộng đất của các đại điền chủ và phát không cho nông dân nghèo bằng cách mua lại với giá cao, trả góp có lời qua công khố phiếu.  Như vậy, nông dân nghèo có quyền sở hữu trên mảnh ruộng của mình, đại điền chủ được đền bù dư đủ cho phần đất đai họ bị truất hữu nên không có ai cảm thấy bị thiệt hại.  Và người dân vẫn có quyền tư hữu đất đai.
Chỉ có như thế đất đai mới được sử dụng có kế hoạch, quy hoạch một cách tốt nhất cho lợi ích của toàn dân tộc.”  Dưới sự cai trị của CSVN, cho tới cái gọi là “Đổi Mới” mà thực chất là theo cách làm ăn cũ của miền Nam trước 1975, đất đai đã bị đưa vào hợp tác xã cũng để “sử dụng có kế hoạch, quy hoạch một cách tốt nhất cho lợi ích của toàn dân tộc” và kết quả ra sao thì Thành Sơn cũng đã thừa hiểu.  Như vậy chỉ trên mặt lý thuyết lấy gì để bảo rằng “sử dụng có kế hoạch, quy hoạch” lần này sẽ đúng.  Và nếu lần này đúng thì bao nhiêu năm nay ĐCSVN lãnh đạo sai bét hết phải không?  
Hơn nữa nhìn vào thực tế thì những người dân mất đất có cuộc sống tốt đẹp, sung sướng hơn sau khi mất đất hay đã nghèo đói mà lại bần cùng thêm.  “Toàn dân tộc” có được thêm bao nhiêu nhà thương, trường học cho những người dân mất đất hay chỉ thêm những khu vực dành riêng cho tầng lớp được ưu đãi, giàu có mà người dân bình thường không với tới.  Chỉ cần nhìn vào số lượng người dân oan khiếu kiện và khoảng thời gian họ đã khiếu kiện thì cũng biết được câu trả lời.  Không ai muốn lê lết năm này qua tháng nọ không nơi cư ngụ nếu họ có cuộc sống sung sướng hơn cũ, hay ngay cả khổ cực hơn nhưng vẫn còn sống được.  Nếu “lợi ích cho toàn dân tộc” tại sao không học cách hai chế độ VNCH đã làm: bồi thường với giá trị cao hơn cho thị trường cho người mất đất.  Thành Sơn cũng biết có những người dân “được” bồi thường chưa bằng một phần trăm giá trị thị trường của mảnh đất họ mất, chưa kể những giá trị không thể hoàn trả bằng vật chất trên mảnh đất của họ.  Chính quyền có thực sự là của dân, do dân, vì dân hay không là những vấn đề này chứ không phải từ những câu khẩu hiệu rỗng tuếch, những lý luận nhập nhằng mà thành.
Nói CNXH bế tắc, khủng hoảng, thì chỉ là cách nhìn thiển cận. Cách nhìn này là do có lập trường thù địch hoặc do không phân tích khoa học đúng đắn hiện tượng chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hoặc do cố tình bôi đen tình hình của xã hội VN.” Vào thời điểm cực thịnh của chủ thuyết cộng sản đầu thập niên 80, có khoảng 26 quốc gia nằm dưới quỹ đạo cộng sản và một số khác chịu ảnh hưởng nặng nề.  Đến nay chỉ còn lại năm quốc gia còn theo cộng sản là Trung cộng, Bắc Hàn, Việt Nam, Lào, và Cuba.  
Trong các nước từ bỏ chế độ cộng sản có khối Đông Âu và Liên Xô, nơi phát triển và kiện toàn lý thuyết cộng sản trước nhất.  Không những vậy, đó là các nước có nền công nghiệp phát triển cao hơn hẳn các nước còn lại.  Theo kinh điển Mác-Lê thì chủ nghĩa xã hội chỉ là giai đoạn chuyển tiếp để đi lên chủ nghĩa cộng sản, là giai đoạn phát triển công nghiệp trước khi bước vào thiên đường cộng sản.  Các nước dẫn đầu, đi trước, có nhiều điều kiện thành công nhất mà lại cương quyết xóa sạch chủ nghĩa cộng sản thì có phải là chủ thuyết đó đã bị phá sản, bế tắc không đem lại những gì nó hứa hẹn hay sao.  Như vậy mà không gọi chủ nghĩa xã hội khủng hoảng thì gọi là gì?  Hãy nhớ lại là chủ nghĩa xã hội chỉ là giai đoạn chuyển tiếp trong chủ thuyết cộng sản nên sự phá sản về lý thuyết cộng sản là sự cáo chung của cái gọi là xã hội chủ nghĩa.  
Thực tế phơi bày không thể chối cãi thì không chấp nhận mà lại vu cáo là “do có lập trường thù địch” hay “cố tình bôi đen tình hình của xã hội VN”.  Đó đâu phải là lý luận mà đó chỉ là vì ngu dốt nên ngang bướng không chấp nhận sự thật.
Khí thế bừng bừng cách mạng của các nước Mĩ La Tinh, thành công của cải cách, đổi mới của TQ, VN, sự trụ vững của chế độ chính trị ở Cuba...cho thấy nhân dân thế giới đang nhận thức được rằng CNXH là giải pháp tốt nhất.”  Như đã nói trên, trước kia có một số quốc gia tại châu Mỹ la tinh theo chủ thuyết cộng sản nhưng nay chẳng còn nữa (trừ Cuba).  Vậy thì “khí thế bừng bừng cách mạng của các nước Mĩ La Tinh” nào đó có liên quan gì tới cái gọi là chủ nghĩa xã hội mà Thành Sơn nói tới đâu.  Các nước ấy có tổng thống thiên tả cũng như Pháp hiện nay có tổng thống thiên tả đâu có nghĩa là “chủ nghĩa xã hội” theo chủ thuyết cộng sản phát triển hơn đâu.  Còn “...thành công của cải cách, đổi mới của TQ, VN” là sự từ bỏ lý thuyết kinh tế Mác-Lê, áp dụng lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa tư bản nên mới có sự thay đổi đó. 
Tuy nhiên vì vẫn giữ mô hình chính trị của chủ thuyết cộng sản nên đó là nền kinh tế của tư bản lúc cách mạng công nghiệp bắt đầu.  Loại kinh tế tư bản hoang dã như Mác mô tả trong Tư Bản Luận với giá rất đắt cho tầng lớp người lao động.  
Thành Sơn chỉ cần sống thật với lòng mình trong chốc lát là có thể cảm nhận được nỗi khổ của người dân Việt hiện nay vì nó xảy ra khắp mọi nơi, mọi lúc trên quê hương ta hiện nay trong cái “thành công của cải cách, đổi mới của TQ, VN”.  
Chủ nghĩa Mác-Lê tóm lại có ba phần là triết học với duy vật biện chứng, chính trị với chuyên chính vô sản, và kinh tế với làm chủ tập thể.  Cuba là nước tương đối đi sát với chủ nghĩa Mác-Lê nhất hiện nay.  Vì vậy “sự trụ vững của chế độ chính trị ở Cuba” bị trả với giá của nền kinh tế đứng yên với thời gian như vào thập niên 50, 60 của thế kỷ trước (chưa nói đến các mất mát khác).  
Thế giới bên ngoài xem xét trên nhiều mặt khác nhau chứ không riêng về ổn định chính trị thôi.  Gần chúng ta nhất có Thái Lan với nhiều bất ổn chính trị gần đây.  Nhưng so sánh với Thái Lan thì Việt Nam hiện nay còn thua rất xa.  Như vậy sự phát triển của quốc gia, sự đánh giá một chế độ đâu phải ở điểm ổn định chính trị.  Cứ vịn vào “ổn định chính trị” để đàn áp người dân, bịt miệng người yêu nước, bào chữa cho các thất bại trong việc điều hành quốc gia là cung cách của bọn ký sinh ăn bám, sống bằng máu mủ của dân mà vẫn tham quyền cố vị.  Cách lý luận của Thành Sơn đưa ra các dẫn chứng không liên quan, không thích hợp, phiến diện rồi nhảy tới kết luận “cho thấy nhân dân thế giới đang nhận thức được rằng CNXH là giải pháp tốt nhất” quá hoang tưởng, lạc đề.  Loại lý luận đó chỉ được coi là đúng đắn trong chủ thuyết cộng sản mà thôi vì nó không cần phải chứng nghiệm với thực tế hay lẽ phải.
Câu cuối cùng “Trong đối sánh , khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu (trước hết là khủng hoảng toàn cầu TBCN) càng cho người ta thức tỉnh thêm rằng CNXH là giải pháp của tiến bộ nhân loại.” chứng tỏ Thành Sơn chỉ lập lại những gì đã được nhồi nhét mà không có khái niệm về kinh tế, sự phân biệt giữa chế độ chính trị và chủ thuyết kinh tế, và cũng không thấy cái bong bóng kinh tế phát triển của Việt Nam và Trung Cộng.  Cái chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết đã được nói từ thời Lê Nin còn sống mà sao nó cứ mỗi ngày một cải tiến, tốt hơn, hùng cường hơn và còn phát triển mạnh nơi thành trì cách mạng vô sản mọi nơi trên thế giới.  Cái gọi là kinh tế xã hội chủ nghĩa là cuộc thí nghiệm hoang phí đầy thất bại của lịch sử nhân loại.  Thế giới bên ngoài đã vứt bỏ chúng vào thùng rác tương tự như chủ thuyết quốc xã Đức.  Nếu nhân loại tiến bộ hơn kiếm ra một con đường nào mới thì chắc chắn cũng chẳng là thứ đã bỏ thùng rác như cái chủ nghĩa xã hội Thành Sơn nói đến.
Như lý do tôi đã viết từ đầu, Thành Sơn là người có trình độ văn hóa, có khả năng để tự suy xét lại, và tôi tin rằng Thành Sơn vẫn còn có trái tim để cảm nhận nỗi khổ của người dân hiện nay.  Thành Sơn nên đối chiếu thực tế xã hội để suy nghĩ lại các điều đã học có đúng với thực tế hay chỉ là hoang tưởng.  Hy vọng rằng Thành Sơn sẽ thấy được điều tôi trình bày, thấy rõ các điều hoang tưởng, dũng cảm dứt khoát chúng, để đem tài sức phục vụ cho dân tộc trên căn bản thực dụng hơn. 



====================================

Về bài của HĐN

Thành Sơn 
10/8/2012

HĐN (HĐN) viết bài này nhằm phản bác, phủ định NQ của BCHTW ĐCSVN với mục đích cuối cùng là phủ định chế độ và vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Trong đó tác giả HĐN đã lợi dụng cụm từ “đột phá lí luận” để riễu cợt công tác lí luận cùng những chủ trương lớn của Đảng, cuối cùng không ngoài mục đích khêu gợi thay đổi chế độ và lật đổ Đảng.

HĐN riễu rằng “đột phá lí luận mà lại không tam quyền phân lập, đất đai vẫn được khẳng định là của toàn dân, quả không một chút ánh sáng, dù của 1 que diêm” và rằng “XHCN của là một cụm từ bế tắc, vô cùng bế tắc và gây khủng hoảng” 

Như vậy cách hiểu về “đột phá lí luận” của tác giả HĐN và của ĐCSVN là khác nhau hoàn toàn, là xa nhau hoàn toàn. ĐCSVN kêu gọi “đột phá lí luận” trên cơ sở nền tảng tư tưởng là CN Mác-Lê nin và tư tưởng HCM, trên cơ sở giữ vững độc lập và con đường đi lên CNXH, “đột phá lí luận” để đổi mới có hiệu quả hơn nữa, vững chắc hơn nữa, “đột phá lí luận” để có những chủ trương, những chính sách tốt hơn nữa, đặc biệt có những hình thức, phương thức, phương pháp tốt hơn nữa cho con đường XHCN. Không phải “đột phá lí luận” là tìm ra những lí luận đối lập với những lí luận đúng đắn, đối lập với con đường XHCN,là sửa cả hệ thống, là thay đổi hết cả từ gốc đến ngọn, thay đổi toàn bộ chế độ XH!

Tác giả HĐN quên rằng chế độ ta không phải là sự thống trị của một tầng lớp nào, một nhóm nào, không phải là sự cạnh tranh giữa các tầng lớp để tranh giành thống trị, mà phải tam quyền phân lập! Xã hội ta phấn đấu là một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân làm chủ, cho nên thực hành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là sự phân công có phối hợp giữa các thành tố của nhà nước, đảm bảo nhà nước là của dân do dân vì dân, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

Còn nói về đất đai: bề mặt quả đất là giới hạn tuyệt đối không thể tăng thêm, trong khi dân số và nhu cầu thường xuyên tăng lên, cho nên nhiều quốc gia đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, và từ đó mà thực hiện cả quyền sở hữu toàn dân đối với mọi tài nguyên hầm mỏ, lãnh hải...Nhiều cuộc cách mạng tư sản triệt để trên thế giới đã từng quốc hữu hóa đất đai, xóa bỏ chế độ tư hữu ruộng đất của địa chủ. Chỉ có như thế đất đai mới được sử dụng có kế hoạch, quy hoạch một cách tốt nhất cho lợi ích của toàn dân tộc.

Nói CNXH bế tắc, khủng hoảng, thì chỉ là cách nhìn thiển cận. Cách nhìn này là do có lập trường thù địch hoặc do không phân tích khoa học đúng đắn hiện tượng chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hoặc do cố tình bôi đen tình hình của xã hội VN. Khí thế bừng bừng cách mạng của các nước Mĩ La Tinh, thành công của cải cách, đổi mới của TQ, VN, sự trụ vững của chế độ chính trị ở Cuba...cho thấy nhân dân thế giới đang nhận thức được rằng CNXH là giải pháp tốt nhất. Trong đối sánh , khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu (trước hết là khủng hoảng toàn cầu TBCN) càng cho người ta thức tỉnh thêm rằng CNXH là giải pháp của tiến bộ nhân loại. 
24-7-2012 

==================
Bài gốc
SỰ THẤT VỌNG VĨ ĐẠI SAU NGHỊ QUYẾT 5

Hạ Đình Nguyên
Sự thất vọng luôn đồng nghĩa với đau khổ. Nhưng đau khổ vì một ý nghĩa lớn, như nỗi đau của Nguyễn Trãi khi tiễn cha qua Ải Nam Quan, là nỗi đau vĩ đại. Những giọt nước mắt đậm màu máu phải nuốt vào lòng lúc này, sẽ biến thành sức mạnh phục vụ cho tương lai. Không phải chỉ vì động cơ mất cha, mà còn vì mất nước. Nó sẽ tạo nên những Ải Chi Lăng…

Cuộc chiến tranh giành độc lập cho Tổ quốc và tự do cho nhân dân Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua, đã có biết bao con người như thế, như Nguyễn Trãi. Những Anh hùng Liệt sĩ đã nằm xuống trong ý chí khát khao về một nền Độc Lập, về một cuộc sống Dân chủ cho toàn dân, với đầy đủ giá trị làm người. Đoàn quân đã ra đi trong nỗi đói rét cùng cực với tấm lòng yêu thương vô bờ bến của các tầng lớp nhân dân, trong đó cống hiến nhiều nhất về số lượng, là xương máu của các thế hệ nông dân. Họ ra đi vì mình, vì tất cả, nói rộng ra là Tổ quốc.


Nghị quyết 5 của Đảng Cộng sản Việt Nam kết thúc với lời khẳng định gắn liền với sinh mệnh chính trị của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Không tam quyền phân lập! Đất đai là của toàn dân mà quyền là do nhà nước định đoạt! Lời tuyên bố gọn lỏn, rất uy quyền, như lệnh truyền từ một lãnh đạo tối cao: Toàn dân nghe đây! Không tam quyền phân lập! Nhà nước thống nhất quản lý đất đai!

“Đột phá về lý luận” mà lại không tam quyền phân lập, đất đai vẫn được khẳng định là của“toàn dân”, quả không một chút ánh sáng, dù của một que diêm!

Vậy thì dân chủ chỗ nào? Ai là người chủ đất nước? Sức mạnh của dân tộc ở đâu để giữ nước?

Thế là, từ 1945 đến nay, 67 năm đi trên con đường đấu tranh đẫm máu vẫn chưa tới đích! Người dân, có miệng mà không được nói, nông dân có đất mà không được quyền. Muốn nói, phải nói theo y hệt ông Tổng Bí thư, đất đai thì để cho “nhóm lợi ích” quy hoạch với nhân danh là phát triển đất nước. Độc lập, nhưng phài nghe lời khuyên của “bạn”, kẻ đã từng “dạy ta một bài học” năm 1979, với trên 10.000 sinh mạng chiến sĩ, tài nguyên buông lỏng để chúng khai thác, rừng biển để chúng nuôi trồng… người dân lên tiếng phản đối thì bị đàn áp.

Lời tuyên bố kết luận Nghị quyết 5 của ông Tổng Bí thư, liên quan đến vận mệnh Quốc gia là một bước ngoặt suy đồi hay hưng thịnh, trong một tình hình gay go đòi hỏi một sự chuyển hóa thông minh và phù hợp với nhân dân ở thời đại này.

Tại Đại hội XI, ông từng tuyên bố xanh rờn: Phải “đột phá” về lý luận! Đó là niềm hy vọng le lói cho một sự đổi mới của người dân. Té ra, chẳng có gì cả! Không phải hình ảnh con ngựa kéo xe, mà xe đẩy con ngựa chạy tới, theo trớn quay vô cảm của bánh xe, mà người ta gọi tế nhị là lỗi hệ thống. Ai cũng biết “lỗi hệ thống” là gì! Người dân hỏi, cái gốc vấn đề là ở đâu? Hỏi tức là đã biết, biết rõ cái nguyên nhân của mọi nguyên nhân! Nó nằm ngay trong tư tưởng của ông Tổng Bí thư, qua lệnh truyền của ông: Không tam quyền phân lập! Đất đai thì của toàn dân, mà do nhà nước định đoạt! Chung quy, ông rất lo cho sự tồn vong của Đảng này thôi, như trong Nghị quyết Đại hội 11 bộc lộ. Ông sợ rằng, có dân chủ, có tam quyền phân lập, thì Đảng sẽ mất vị trí lãnh đạo độc tôn. Trả quyền sở hữu đất đai về cho dân, quyền lực nhà nước các cấp sẽ bị suy giảm, cơ hội tham nhũng sẽ bị phanh phui, sẽ… gây ra tình trạng mất ổn định xã hội! Vậy sự tồn vong của Đảng trên nền tảng nào?

Ta thử lui lại, nhớ về một thuở ban đầu lưu luyến ấy:

“Đảng ta sinh ở trên đời
Một hòn máu đỏ nên người hôm nay
Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây, xương sắt da đồng
Đảng ta, muôn vạn công nông
Đảng ta, muôn vạn tấm lòng niềm tin”

Đảng do nhân dân mà có, ăn cơm gạo của nhân dân mà lớn lên, phục vụ mục tiêu tối thượng của dân tộc mà tồn tại, nhân dân là sinh lực của Đảng. Vậy mà, Đảng ngày nay không giống như thế nữa. Không còn là hòn máu đỏ trong sự chia sẻ đùm bọc của nhân dân, mà đang lớn mạnh, gắn bó với đặc quyền lực và đặc lợi. Đàng có trăm tay nghìn mắt, nhưng không phải của nhân dân, mà của Đảng, để theo dõi nhân dân, nhằm che mắt, bịt miệng nhân dân. Đệ tứ quyền – quyền của báo chí– nằm trong tay, hoặc là trong đầu của chỉ vài con người. Nay, tiếng nói của người dân trên mạng cũng bị triệt phá.Đảng ngày nay không có gì để phải kiên cường đấu tranh, với ví von xương sắt da đồng, mà đã khác xưa, xương đã thấm chất cường quyền, da đã dày tính tham nhũng. Muôn vạn công nông bị mất đất và không có việc làm. Mất đất theo cái cách “đúng quy định”, cứ thế mà diễn ra, từ địa phương này tới địa phương khác. Còn, muôn vạn tấm lòng niềm tin, thì Tổng Bí thư đã nói rồi đó, nó bị “xói mòn”! Ôi, róc rách giống như nước suối chảy qua khe!

Thế nhưng, lời nói của ông Tổng Bí thư có đạt hiệu quả “nhất hô bá ứng” hay không? Các cấp Ủy ban, Hội, Đoàn từ Trung ương đến địa phương, lại có cả Quốc hội nữa, có ý kiến gì chưa? Lẽ nào ren rét một bề về cái “chân lý” ông Tổng Bí thư khẳng định? Khó tin điều này có thật! Nhân dân đã bày tỏ bằng nhiều cách, từ việc trần truồng thí mạng cùi, cho đến việc dùng súng hoa cải liều thân cho đỡ tức. Một số đại biểu các cấp và trong Quốc hội cũng đã phản ứng, đã nói nhiều, dù trong chừng mực. Có phải tất cả 14 vị trong Bộ Chính trị đều nhất trí với Tổng Bí thư? 170 vị Uỷ viên Trung ương Đảng cũng cùng nhất trí với ông Tổng Bí thư? Không một ai trong số đó chia sẻ tư duy của cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An và nhiều vị nhân sĩ trí thức, các vị cách mạng lão thành về thực tế lùng bùng của đất nước? Nguyên lý “tập trung dân chủ” là một mật mã bí hiểm, tương tự như mật mã “ làm chủ tập thể”, mà không một nhà toán học nào đủ khả năng có thể “sơ đồ hóa” nổi! Không tam quyền phân lập, để thay thế bằng: Nhà Nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chúng ta còn có các hệ lụy: con người xã hội chủ nghĩa, nhà trường xã hội chủ nghĩa, bệnh viện xã hội chủ nghĩa, vân vân và vân vân… Tất cả đều là cụ thể, là hiện thực, lại đang bày ra đấy, trên cái nền mơ hồ, mới chỉ gọi được tên là “định hướng xã hội chủ nghĩa”! Mới chỉ là định hướng mà đã có được “pháp quyền”, thật là khó hiểu! Những mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, lý luận và thực tiễn được biện giải trong một “hộp đen” có tên là “giai đoạn quá độ”. Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc… vượt qua bao nhiêu nữa những ghềnh thác để đến chân trời xã hội chủ nghĩa? Xã hội chủ nghĩa quả là một cụm từ bế tắc, vô cùng bế tắc, và gây khủng hoảng! Chân trời cứ mãi lùi xa trong vô vọng, vì quả đất tròn. Ông Giordano Bruno (1548-1600) liều sinh mạng mà cương quyết khẳng định điều ấy.

Sửa đổi Hiến pháp là công việc trọng đại của toàn dân, toàn quân, của đại biểu các cấp, các tổ chức Hội, Đoàn thể…, nó phải được phát động sâu rộng khắp nước tham gia. Sao ông Tổng Bí thư vội vàng úp bộ trong cái khung rất hẹp và chủ quan của mình lên đầu 90 triệu nhân dân? Việt Nam tuy là một quốc gia, nhưng là một quốc gia nhỏ bé, lẽ nào muốn dẫn đầu thế giới về Chủ nghĩa xã hội, như hơi đã bốc ra ở bài nói chuyện trật nhịp tại Cuba? Lẽ ra Trung Quốc, với giấc mơ làm “anh cả đỏ”, mới là nước đi đầu của “phe xã hội chủ nghĩa”, nếu có! Họ đã không đi đầu, mà chuyển sang ”lợi ích cốt lõi” và bành trướng. Thế,“bạn đã khuyên ta” đi lên hàng đầu chăng? Ở Trung Quốc, người dân ít nghe nói đến từ ngữ chủ nghĩa xã hội, các quan chức của họ cũng không nói đến từ ngữ này, khi ra giao dịch quốc tế, trừ khi đến Việt Nam. Sao họ khôn thế?

Mới đây, như thông tin chính thức đã loan, ông Đinh Thế Huynh đã cầm đầu một phái đoàn ta đi dự tập huấn tại Hải Phòng, do “bạn” sang “thảo luận” về lý luận xã hội chủ nghĩa, hẳn đã đem lại một cuộc “đột phá” ngoạn mục? Dân ta biết rằng thực phẩmTrung Quốc chứa đầy chất độc hại, từ sữa mélamine, trái cây, đến áo quần, giày dép… Nhưng thực phẩm tinh thần càng nguy hiểm hơn, nhất là các món hàng về lý luận. Họ lý luận cho họ là một chuyện, họ lý luận giúp ta thì khác! Họ lũng đoạn cách làm ăn để ta tự lụn bại, ngóc đầu không lên, họ xâm nhập vào hệ thần kinh não bộ, vào hệ thần kinh dạ dày, vào khắp lục phủ ngũ tạng. Họ muốn một Việt Nam bệnh hoạn để trở thành chư hầu! Họ rủ rê ta cùng nhìn ở “tầm cao chiến lược”, trong khi dân ta không hề mơ bá chủ. Lưu Vân Sơn, Ủy viên Bộ Chính trị Trung Quốc, trưởng đoàn tập huấn đã tiếp tục nhắc lại với Đinh Thế Huynh: “đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện” nhằm “củng cố địa vị cầm quyền của mỗi đảng”, và hứa hẹn“giải quyết thỏa đáng những vấn đề tồn tại trong quan hệ giữa hai nước”. Ta không có tầm cao chiến lược nào chung với Trung Quốc về mộng siêu cường. Dị mộng sao bảo ta đồng sàng? Muốn giải quyết thỏa đáng những tồn tại, muốn thực hiện 16 chử vàng và 4 tốt, thì Việt Nam sẵn sàng, nhưng hãy lập tức tuyên bố trả toàn bộ Hoàng Sa lại cho Việt Nam! Ngẩng mặt lên mà nhìn thế giới bằng cái nhìn chân thật và thân thiện, không tham lam, không gian dối, thì mới nên nói những lời nhân nghĩa, hòa hiếu. Nhân dân Trung Quốc không thiếu những người có lương tri và nhân cách.

Trong thời đại ngày nay, một quốc gia muốn trở thành siêu cường, làm anh thiên hạ, thì không thể dùng kiểu dao búa “sức mạnh trên đầu mũi súng” được nữa. Bất chấp tàu ngầm, máy bay, kể cả việc đưa người lên vũ trụ, chẳng dọa được ai! Một siêu cường phải đi tiên phong về văn hóa, phải thể hiện được văn minh nhân bản, phải sòng phẳng, công bằng, phải tôn trọng luật chơi, được sự nể trọng và tin cậy của cộng đồng thế giới, phải lấy nhân loại làm mục tiêu xây dựng, lấy trái đất làm đối tượng bảo vệ. Có hào phóng, cao cả mới mong được thế giới hưởng ứng. Một đất nước còn đàn áp, hà khắc với nhân dân mình, còn cắt cổ mổ bụng nhân dân để bán nội tạng, còn ăn cắp kỹ thuật, còn làm thực phẩm độc cho nhân dân ăn và xuất khẩu, bên ngoài thì tham lam đất đai, chiếm đảo, giành biển, lộ rõ tướng gian, thì không ai tin. Một cái Đảng như thế, không ai làm bạn được. Cái “giềng mối xã hội” của Khổng Tử, cái “đạo đức” của nhà Chu xa xưa của Trung Quốc, từng có ảnh hưởng đến các nước lân cận, đã bị Đảng Cộng sản chôn vùi trong âm u lòng đất.

Các nỗ lực làm áp lực, đi đêm thầm kín, và lời đường mật rủ rê bè đảng trong chuyến công cán của Lưu Vân Sơn sang Việt Nam, đã hoàn toàn thất bại. Và Việt Nam đã trả lời. Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Biển, khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, phản ảnh đúng tiếng nói yêu nước thiêng liêng nghìn đời của toàn dân với số phiếu đa số tuyệt đối.

Quốc hộiViệt Nam đã tiến lên một bước về phía trước, trong tự tin và chính nghĩa.

Một vị Tướng Việt Nam đã nói: “Không đưa Quân đội Nhân dân đàn áp Nhân dân”, liên quan việc lấy đất giao cho các nhóm lợi ích theo cách “đúng quy định”. Lời nói trên đã đưa vai trò quân đội về đúng với nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của quân đội, là củng cố sức lực để cùng toàn dân chống xâm lược.

Nhưng nội bộ Việt Nam, Quốc hội, Đảng, và Chính quyền các cấp, sẽ nói gì với nhân dân về dân chủ và quyền sở hữu đất đai? Có phải lời của Tổng Bí thư là mệnh lệnh tuyệt đối của một lãnh tụ?
Đảng Cộng sảnViệt Nam đã bước ra khỏi bóng râm của một thời kỳ thần thánh, điều kiện lịch sử đã cho phép nó trở về vị trí một chính đảng của xã hội, dân chủ, bình đẳng, và là một tập thể gồm những con người bình thường. Không phải là “bất hạnh”, mà đích thực là “hạnh phúc” được làm một con người bình thường, gắn liền với trọng trách mà luật pháp xã hội đã giao cho. May mắn vì đã qua rồi, thời kỳ mà Đảng được mặc định là không bao giờ sai lầm. Nhưng Đảng đã từng sai lầm, và nay qua Đại hội 11 thì Đảng thừa nhận đang suy thoái. Đó là một một khẳng định công khai, dũng cảm, lành mạnh.Vì thế, Đảng cần tiếp nhận sự phê phán của xã hội, xã hội có quyền phê phán Đảng một cách đường hoàng, công khai, và phải thừa nhận phê phán là quyền của công dân. Đó là một trong những vấn đề quan trọng của ý thức dân chủ.mà Đảng cần thể hiện.

Lãnh tụ là người được cộng đồng tôn vinh, theo cách tự nguyện chứ không áp đặt, với sự kính trọng và yêu quý, là một người thông minh gắn liền với tầm nhìn thời đại. Thông minh là không lội ngược dòng thời đại, vượt qua những chủ thuyết lạc hậu, những đam mê quyền lực cá nhân, gắn kết với mục tiêu nhân bản và biết đấu tranh, xây dựng các giá trị nhân quyền. Bất kể người đó xuất thân từ một nước nhỏ hay nước lớn, từ một xứ sở văn minh hay còn lạc hậu, ngay cả ở một vùng văn hóa thấp hay trong lao tù. Cộng đồng thế giới từng ngợi ca những con người biết đấu tranh, bênh vực cho người dân bị áp bức, bị ngược đãi của đất nước mình, biết hướng đên tư duy nhân bản và nêu gương đấu tranh xây dựng lý tưởng nhân quyền ở tầm rộng lớn hơn, như người tù da màu Mandela của châu Phi, bà San Suu Kyi của Miamar, đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng… Nhân cách của lãnh tụ gắn liền với các giá trị thời đại, mạnh dạn thoát ra khỏi hào quang của quá khứ, bước ra khỏi bóng râm của quyền lực tưởng rằng bất khả xâm phạm, tin tưởng vào nhân dân, hướng đến việc xây dựng một nền dân chủ thật sự, thật lòng. Tiếng thơm để đời là chắc chắn, nếu không, thì như cụ Nguyễn Du nói: “những phường giá áo, túi cơm sá gì!”.

Bao giờ Việt Nam có một lãnh tụ như thế?
Tháng 6-2012
H. Đ. N.
http://boxitvn.blogspot.com/2012/07/su-that-vong-vi-ai-sau-nghi-quyet-5.html 
 
Thành Sơn comment:
Về bài của HĐN
HĐN (HĐN) viết bài này nhằm phản bác, phủ định NQ của BCHTW ĐCSVN với mục đích cuối cùng là phủ định chế độ và vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Trong đó tác giả HĐN đã lợi dụng cụm từ “đột phá lí luận” để riễu cợt công tác lí luận cùng những chủ trương lớn của Đảng, cuối cùng không ngoài mục đích khêu gợi thay đổi chế độ và lật đổ Đảng.
HĐN riễu rằng “đột phá lí luận mà lại không tam quyền phân lập, đất đai vẫn được khẳng định là của toàn dân, quả không một chút ánh sáng, dù của 1 que diêm” và rằng “XHCN của là một cụm từ bế tắc, vô cùng bế tắc và gây khủng hoảng”
Như vậy cách hiểu về “đột phá lí luận” của tác giả HĐN và của ĐCSVN là khác nhau hoàn toàn, là xa nhau hoàn toàn. ĐCSVN kêu gọi “đột phá lí luận” trên cơ sở nền tảng tư tưởng là CN Mác-Lê nin và tư tưởng HCM, trên cơ sở giữ vững độc lập và con đường đi lên CNXH, “đột phá lí luận” để đổi mới có hiệu quả hơn nữa, vững chắc hơn nữa, “đột phá lí luận” để có những chủ trương, những chính sách tốt hơn nữa, đặc biệt có những hình thức, phương thức, phương pháp tốt hơn nữa cho con đường XHCN. Không phải “đột phá lí luận” là tìm ra những lí luận đối lập với những lí luận đúng đắn, đối lập với con đường XHCN,là sửa cả hệ thống, là thay đổi hết cả từ gốc đến ngọn, thay đổi toàn bộ chế độ XH!
Tác giả HĐN quên rằng chế độ ta không phải là sự thống trị của một tầng lớp nào, một nhóm nào, không phải là sự cạnh tranh giữa các tầng lớp để tranh giành thống trị, mà phải tam quyền phân lập! Xã hội ta phấn đấu là một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân làm chủ, cho nên thực hành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là sự phân công có phối hợp giữa các thành tố của nhà nước, đảm bảo nhà nước là của dân do dân vì dân, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Còn nói về đất đai: bề mặt quả đất là giới hạn tuyệt đối không thể tăng thêm, trong khi dân số và nhu cầu thường xuyên tăng lên, cho nên nhiều quốc gia đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, và từ đó mà thực hiện cả quyền sở hữu toàn dân đối với mọi tài nguyên hầm mỏ, lãnh hải...Nhiều cuộc cách mạng tư sản triệt để trên thế giới đã từng quốc hữu hóa đất đai, xóa bỏ chế độ tư hữu ruộng đất của địa chủ. Chỉ có như thế đất đai mới được sử dụng có kế hoạch, quy hoạch một cách tốt nhất cho lợi ích của toàn dân tộc.
Nói CNXH bế tắc, khủng hoảng, thì chỉ là cách nhìn thiển cận. Cách nhìn này là do có lập trường thù địch hoặc do không phân tích khoa học đúng đắn hiện tượng chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hoặc do cố tình bôi đen tình hình của xã hội VN. Khí thế bừng bừng cách mạng của các nước Mĩ La Tinh, thành công của cải cách, đổi mới của TQ, VN, sự trụ vững của chế độ chính trị ở Cuba...cho thấy nhân dân thế giới đang nhận thức được rằng CNXH là giải pháp tốt nhất. Trong đối sánh , khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu (trước hết là khủng hoảng toàn cầu TBCN) càng cho người ta thức tỉnh thêm rằng CNXH là giải pháp của tiến bộ nhân loại.
24-7-2012
 

741-Kẻ nào đang rắp tâm phá long mạch Hồ Tây?

Khách thập phương đổ về Phủ Tây Hồ – Hà Nội lễ bái vào dịp đầu năm và các ngày rằm, mùng 1 đầu tháng

Dạo này bận qúa nên cũng ít thời gian vào mạng. Hôm nay tình cờ ghé thăm, ngoài Biển Đông dậy sóng. Thấy cả Hồ Tây cũng như nổi phong ba, khi nhận được dòng tin dữ “Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Văn Khôi vừa có văn bản giao cho các Sở Quy hoạch kiến trúc, Giao thông vận tải, Xây dựng và Cục Đường sắt Việt Nam kiểm tra, đề xuất và báo cáo với lãnh đạo thành phố phương án xây dựng công trình “Đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Nam Hồ Tây – Ngọc Khánh – Láng – Hòa Lạc – Ba Vì” trước ngày 12/8…”.
Trước đó Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cũng đã giao Bộ Giao thông và UBND thành phố Hà Nội nghiên cứu dự án đường sắt đô thị Hà Nội (tuyến số 5) từ Hồ Tây – Ngọc Khánh – Láng – Hòa Lạc – Ba Vì. Phó Thủ tướng yêu cầu các đơn vị trên xác định hình thức đầu tư hiệu quả và nguồn vốn thực hiện để trình Thủ tướng xem xét quyết định.” (Báo Dân trí - http://dantri.com.vn/c20/s20-628693/duong-sat-ho-tay-ba-vi-xuyen-qua-8-quan-huyen-o-ha-noi.htm
Nhìn tấm bản đồ qui hoạch tuyến đường sắt Hồ Tây - Ba Vì (hay Ba Vì – Hồ Tây) đã được trưng bày ở Khu triển lãm Vân Hồ từ năm 2010, người có chút kiến thức về phong thủy sẽ cảm thấy bất an. Bởi sự kết hợp giữa vành đai hồ phía Tây-Nam với tuyến đường sắt xuyên qua bán đảo lớn của làng Nghi Tàm thật chả khác gì hình của một cây cung/ nỏ khổng lồ hướng từ phía Biển Đông nhằm thẳng đỉnh Tản Viên (Ba Vì) ở phía tây mà bắn.
Theo sách Lĩnh Nam chích quái là một pho sách cổ được biên soạn vào khoảng cuối đời nhà Trần phần nói về Tản Viên Sơn Thánh có đoạn chép rằng:
“Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm vạn (?) Ba núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên ấy. Theo sách Ai giao châu tự của Đường Tăng thì Đại Vương núi này là Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Thường thường, vào những ngày quang đãng như có bóng cờ xí thấp thoáng trong hang núi. Dân trong vùng nói rằng đó là Sơn thần hiển hiện. Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc áo quần vào rồi đặt ngồi trên ngai tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các thần đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi. Biền than rằng: “Linh khí ở phương Nam không thể lường được cái vượng khí đời nào hết được!” Sự linh ứng đã hiển hiện ra như vậy đó. Xưa kia đại vương trông thấy phong cảnh núi Tản Viên đẹp đẽ bèn làm một con đường từ bến Bạch Phiên đi lên phía nam núi Tản Viên, qua động An Vệ, tới các ngọn nguồn lạch suối đều dựng điện để nghỉ ngơi. Rồi lại đi qua ria núi đến chỏm núi có mây che thì định cư ở đó. Đôi lúc rong chơi trên sông Tiểu Hoàng Giang xem đánh cá, phàm đi qua các làng xóm đều dựng điện để nghỉ ngơi. Về sau, nhân dân theo dấu vết các điện đó mà lập đền miếu để thờ cúng.” (http://vi.wikisource.org/wiki/L%C4%A9nh_Nam_ch%C3%ADch_qu%C3%A1i/Truy%E1%BB%87n_n%C3%BAi_T%E1%BA%A3n_Vi%C3%AAn)
Trong tín ngưỡng dân gian của Việt Nam ta thì ngoài Tản Viên Sơn Thánh ra còn có Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh là 4 vị THÁNH TỨ BẤT TỬ đã được dân ta thờ cúng ở rất nhiều nơi từ lâu đời rồi. Ba vị đầu xuất hiện từ thời Hùng Vương. Riêng Mẫu Liễu Hạnh là phụ nữ duy nhất, mới được đưa vào hệ thống thần thánh từ đời Hậu Lê.
Điều làm người ta ngạc nhiên nhất là tuyến đường sắt Ba Vì – Hồ Tây, theo bản đồ qui hoạch sẽ đi qua Phủ Tây Hồ, nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh và di tích đền thờ Thần Kim Ngưu (trâu vàng) (http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Phu-Tay-Ho-va-den-tho-than-Kim-Nguu/20099/180.vnplus)

Tuyến đường sắt số 5 này sẽ phải cắm cọc sâu xuống Hồ Tây, làm phá vỡ linh khí huyệt đế vương và phá vỡ cảnh quan của Phủ Tây Hồ, một di tích văn hóa tâm linh nổi tiếng. Như vậy tuyến đường sắt này sẽ làm ảnh hưởng tới cả 3 vị trong Tứ Bất Tử là Tản Viên; Liễu Hạnh và Thánh Gióng (Đền Phù Đổng Thiên Vương) cùng nằm trên trục không gian trên.
Chính vì vậy đã có nhiều ý kiến của các trí thức yêu Hà Nội (như KTS Trần Thanh Vân) cảnh báo. Song các ông Phó: Hải và Khôi (Phó TT Hoàng Trung Hải và Phó CT Hà Nội Nguyễn Văn Khôi) vẫn nhắm mắt làm liều thì buộc những người quan tâm tới vấn đề này phải đặt câu hỏi: Có phải các ông này đã mượn chủ trương gấp rút xây dựng đường sắt để giải bài toán ùn tắc giao thông để che dấu động cơ thực nhằm tiếp tay cho đám hậu duệ của Cao Biền nhằm hãm hại bằng được dân tộc và đất nước ta một lần nữa hay không?
Là người đã từng lăn lộn gắn bó đặc biệt với Hồ Tây của Hà Nội từ 20 năm trước (*), Gocomay xin nêu câu hỏi nghi vấn này cho tất cả những ai còn có tâm với xã tắc non sông!
Gocomay
(*) Xem phim Mặt Gương Hồ Tây dài 20 phút do chính chủ GOCOMAY’S BLOG hoàn thành vào tháng 8/1992: http://blog.yahoo.com/_OPGDIC2O75JLF3NXQWDA7P3LAE/ articles/472493/category/M%C3%B4i+Sinh
 

Giải cộng nhi thoát Thành Ðô

Chui đầu vào ‘cái thòng lọng Thành Ðô’

Ngô Nhân Dụng

Vào những ngày cuối tháng 8, trước đây 22 năm, Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh ở Hà Nội đã quyết định phải quay đầu trở lại, xin hợp tác với đảng Cộng Sản Trung Quốc (Trung Cộng).
 Kết quả là hội nghị Thành Ðô, ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, mà Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu gọi là “Cái thòng lọng thứ hai” buộc vào cổ đảng Cộng Sản Việt Nam.
Cái thòng lọng thứ nhất, là quyết định “khai thông biên giới Việt Trung” vào năm 1950 để Cộng Sản Việt Nam (Việt Cộng) nhận được viện trợ và đón các cố vấn Trung Quốc sang chỉ đạo. Hà Sĩ Phu viết: “Do vị trí địa-chính trị nênViệt Nam trở thành cửa ngõ mà chủ nghĩa Ðại Hán buộc phải chiếm lĩnh để bành trướng về phía Nam...” Chủ nghĩa cộng sản đã cho Trung Quốc “một cơ hội bằng vàng. Họ tận dụng những đặc trưng của cộng sản để đưa con mồi vào lưới. Con mồi tự tìm đến cái bẫy, nhưng bị tấm màn ‘Quốc tế đại đồng’ che mắt, nhìn cái bẫy thành chốn ruột thịt nương thân.”
Khi đảng Cộng Sản Việt Nam tự tìm đến Thành Ðô để chui vào cái thòng lọng thứ hai, Hà Sĩ Phu nhận định: Xét trong quan hệ lịch sử giữa hai kẻ thù truyền kiếp thì cuộc cầu hòa này chính là “tuyên bố đầu hàng.”
Nếu biết rõ hơn về hội nghị Thành Ðô, chúng ta sẽ thấy quả thật đó là một “cuộc tuyên bố đầu hàng.” Những sự kiện và ngày tháng kể sau đây dựa trên hồi ký của Trần Quang Cơ, là thứ trưởng Ngoại Giao vào lúc đó, với một tài liệu do Trung Cộng công bố, đã được Lý Nguyên dịch từ mạng Hà Bắc tân văn võng ngày 30 tháng 10, 2007, đăng trên mạng Talawas.
Tháng 10 năm 1989, trùm cộng sản Lào Kaysone Phomvihane thăm Bắc Kinh, xin gặp Ðặng Tiểu Bình với lý do bí mật. Phomvihane chuyển lời Nguyễn Văn Linh xin được làm hòa với Trung Cộng, 10 năm sau khi Ðặng Tiểu Bình đã cho quân sang “dạy một bài học” cho Cộng Sản Việt Nam. Ðặng Tiểu Bình đặt một điều kiện: Trước hết, phải rút hết, rút triệt để quân đội khỏi Cămpuchia. Và Bình còn nói rõ ông không thích Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là ngoại trưởng.
Năm đó, Việt Cộng đã rút hết quân về. Ngày 5 tháng 6 năm 1990, Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư Cộng Sản Việt Nam, gặp Trương Ðức Duy, đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, nhưng cuộc họp có cả Nguyễn Cơ Thạch, chưa nói hết ý. Theo bên Trung Quốc kể lại, ngày 16 tháng 8 năm 1990, Nguyễn Văn Linh sai Hoàng Nhật Tân gặp Trương Ðức Duy, đưa một “mật thư,” và nói miệng gửi lời nhắn riêng: “Không cần đi qua Nguyễn Cơ Thạch,” mặc dù đại sứ một nước chỉ được tiếp xúc qua bộ trưởng Ngoại Giao nước chủ nhà. Trương Ðức Duy quyết định liên lạc bí mật qua Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Lê Ðức Anh. Ngày 21 tháng 8, Trương Ðức Duy ngồi trên một chiếc ôtô du lịch không cắm cờ Trung Quốc theo nghi thức ngoại giao, lén đến Bộ Quốc Phòng bàn riêng với Lê Ðức Anh. Và lúc 7 giờ rưỡi, sáng sớm ngày hôm sau, Nguyễn Văn Linh gặp Trương Ðức Duy tại nhà khách Bộ Quốc Phòng, cả hai bên đều không mang phiên dịch. Linh đề nghị Trương Ðức Duy đổi ngồi một chiếc xe khác hôm qua, và vẫn không cắm quốc kỳ. Một tuần sau, Nguyễn Văn Linh (tổng bí thư) và Ðỗ Mười (thủ tướng) cũng hội kiến Trương Ðức Duy. Chắc đây là buổi họp quyết định. Vì hôm sau, 30 tháng 8, 1990, Bộ Chính Trị họp, Linh đưa ra ý kiến hợp tác với Trung Quốc “để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc,” tiến tới bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.
Những diễn biến trên cho thấy ba người chủ chốt trong vụ này là Nguyễn Văn Linh, Lê Ðức Anh và Ðỗ Mười. Nhưng Lê Ðức Anh có vẻ được Trung Cộng tin cậy hơn cả. Nhưng tại sao bộ ba này thuyết phục được cả Bộ Chính Trị đồng ý với cuộc đầu hàng không điều kiện này? (Chỉ có cố vấn Võ Chí Công không đồng ý). Nguyễn Văn Linh giải thích: Cần hợp tác với Trung Quốc “để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc.”
Thực tế là chế độ cộng sản tại Việt Nam đang lâm nguy. Kinh tế suy sụp vì thiếu viện trợ vốn cũng như kỹ thuật của các nước Ðông Âu và Nga Xô, sau khi cộng sản Ðông Âu sụp đổ, Liên Xô đang bị cùng kiệt về kinh tế. Mấy năm trước dân nhiều nơi miền Trung đã chết đói. Cả thế giới đang tẩy chay Việt Cộng, từ năm 1978. Cộng Sản Việt Nam biết không còn nương tựa vào đâu, phải cầu cứu tới một nước đã từng gọi là “kẻ thù truyền kiếp.”
Trung Cộng không tiếp phái đoàn Việt Cộng tại thủ đô Bắc Kinh mà chỉ mời đến Thành Ðô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Họ giải thích là cần giữ bí mật cho cuộc gặp gỡ này, không cho thế giới biết. Trước khi lên đường, Trương Ðức Duy còn yêu cầu phải có mặt Phạm Văn Ðồng, cố vấn của Bộ Chính Trị, nhìn bên ngoài có địa vị tương đương với “bố già” Ðặng Tiểu Bình. Ðồng chịu đi vì tưởng sẽ được gặp Bình. Nhưng tới nơi thì không. Sự có mặt của Phạm Văn Ðồng có ý nghĩa. Vì trong cuộc họp Trung Cộng có thể đem lá thư ông ta gửi Chu Ân Lai năm 1958, công nhận lập trường của Trung Cộng về Trường Sa, Hoàng Sa. Những gì được ký kết giữa hai bên tới nay vẫn còn giữ bí mật; nhưng chắc phía Trung Cộng họ không dại gì mà không nhắc tới vụ các đảo, sau khi hải quân hai bên mới tử chiến năm 1988, biển vẫn còn tanh mùi máu.
Theo các tài liệu chính thức công bố thì hai bên chỉ bàn chuyện Campuchia. Lúc đầu Việt Cộng đề nghị trong hội nghị đình chiến ở xứ Chùa Tháp, phe Hun Sen và phe chống Việt Cộng, trong đó có Pol Pot, mỗi bên sẽ có 6 người dự vào chính quyền lâm thời ở Campuchia. Trung Cộng đòi có thêm cựu hoàng Sihanouk cho thành 6+6+1, mà ai cũng biết ông hoàng này là người được Trung Cộng nuôi nấng từ 20 năm rồi. Nguyễn Văn Linh cố “bán” ý kiến “Giải pháp đỏ” cho Trung Cộng. Tức là cho hai đảng Cộng sản Campuchia hợp tác đủ rồi, bỏ các phe của Sihanouk ra ngoài. Nhưng Linh thất bại, cuối cùng, bên Việt Cộng không dám cãi, mà cũng không dám đòi hỏi gì; đồng ý sẽ thuyết phục phe Hun Sen chịu “hòa giải” với Pol Pot. Hai bên hứa sẽ giữ bí mật cuộc hội nghị, để các nước khác như Nga, Mỹ, không biết hai chính quyền cộng sản Á Châu toa rập. Giang Trạch Dân nói ở Thành Ðô: “Các nước phương Tây rất chú ý tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề này.”
Nhưng ngay sau đó, cả nhóm lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam thấy ngay mình bị lừa. Khi Nguyễn Văn Linh, Lê Ðức Anh sang thuyết phục phe Hun Sen thì bị đám đàn em chống, vì phe này bị lép vế với tỷ số 6/7. Nguyễn Cơ Thạch kể lại: “Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Ðô cho Phnom Penh. Hun Xen nói là trong biên bản viết là “hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1.”
Trung Cộng đã tiết lộ kết quả cuộc họp cho cả thế giới. Báo Bangkok Post ngày 19 tháng 9 đã đăng công khai Thỏa thuận Thành Ðô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về thành phần chính phủ lâm thời là 6 cộng 7, có Sihanouk! Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông (FEER) số ngày 10 tháng 10 viết về cuộc gặp gỡ “thượng đỉnh” Trung-Việt ở Thành Ðô.
Nhưng cay cú nhất là Trung Cộng còn thông báo cho cả Mỹ biết. Ngoại Trưởng Mỹ James Baker còn nói với Nguyễn Cơ Thạch rằng Trung Quốc khoe với Mỹ là họ đã “bác bỏ đề nghị của lãnh đạo cấp cao nhất Việt Nam là Việt Nam với Trung Quốc đoàn kết bảo vệ Chủ nghĩa Xã hội chống âm mưu của đế quốc Mỹ xóa bỏ Chủ nghĩa Xã hội.” Ông Trần Quang Cơ than: “Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Ðô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ Chủ nghĩa Xã hội, thay thế cho Liên Xô, làm chỗ dựa.”
Trong cuộc họp Bộ Chính Trị vào tháng 5 năm 1991, đủ mặt 12 người và hai cố vấn, họ bắt đầu than thở và chỉ trích lẫn nhau. Võ Văn Kiệt phê bình việc để Phạm Văn Ðồng cùng đi: “Chỉ để gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng, không có Ðặng Tiểu Bình. Mình bị nó lừa nhiều cái quá! Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy!” Phạm Văn Ðồng than: “Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết,... Sau chuyến đi Thành Ðô, tôi vẫn ân hận sao lại mời thêm tôi... Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn, nên đi!”
Nguyễn Văn Linh lại biện hộ tại sao phải theo Tầu, vì “Âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở Châu Á, cả ở Cuba... dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.” Lê Ðức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Ðông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Ðồng minh này là Trung Quốc!”
Rõ ràng, tất cả nhóm người cầm đầu đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa cả nước “chui vào cái thòng lọng” của Trung Cộng, vì muốn “bảo vệ Chủ nghĩa Xã hội.”
Trong thực tế, là bảo vệ ngôi vị độc quyền cai trị nước Việt Nam!
Hà Sĩ Phu không kể các chi tiết trên đây trong bài tham luận mới “Giải Cộng Nhi Thoát,” nhưng ông đã mô tả “cái thòng lọng Thành Ðô” rất cụ thể: “Từ đấy trở đi, chỉ cần 4 năm một lần Trung Quốc khống chế người cầm đầu Việt Nam, tức tổng bí thư đảng, là đủ cho kế hoạch xâm lược tiến hành trôi chảy. Muốn vậy phải giữ cho Việt Nam yên vị theo chế độ cộng sản, không được dân chủ hóa, không được liên kết chiến lược với Hoa Kỳ.”
Khi hiểu rõ “cái thòng lọng Thành Ðô” thì chúng ta cũng hiểu được các hành động của đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1990 đến giờ.

Trung Quốc - SIÊU CƯỜNG ĂN CẮP CÔNG NGHỆ


Trên thế giới không ai phủ nhận về trình độ khoa học đã có từ rất sớm ở Trung Quốc trong nền văn minh nhân loại. Nhưng trong mấy thiên niên kỷ, khoa học Trung Quốc chỉ phát triển mạnh về lý số, về thiên văn, y học đông phương, về các học thuyết mang tính đạo đức-xã hội như Khổng-Trang-Mạnh-Lão tử. So với các nước Âu-Mỹ thì Trung Quốc phát triển chậm về khoa học tự nhiên, nhất là số học và lạc hậu về khoa học công nghệ. Đến tận đời nhà Thanh mà vua còn thấy lạ lẫm, thán phục chiếc xe đạp và khẩu súng nổ từ xa đã làm chết người của Anh quốc. Riêng về thương gia, doanh nhân, buôn bán luồn lách ngang ngửa để kiếm lời, làm hàng nhái, hàng giả ở Trung Quốc thì ít có quốc gia nào sánh kịp.

Từ giữa thế kỷ thứ 20, Trung Quốc mới bắt đầu ăn nhập vào khoa học công nghệ. Đầu tiên là ăn cắp các kỹ thuật công nghệ hàng hải và hải quân của Nga. Năm  1949, Mao Trạch Đông tuyên bố "để chống bọn đế quốc xâm lược, ta cần có một hải quân hùng mạnh". Năm sau, vào tháng 3 năm 1950, trường Sĩ quan Hải quân được thành lập tại Đại Liên, đa số huấn luyện viên người Nga. Tháng 9 cùng năm, Hải quân Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc chính thức thành lập, quân số khởi đầu chọn từ các lực lượng hải quân địa phương trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu tại Khương Yến (nay đặt tại Thái Châu, thuộc tỉnh Giang Tô). Lực lượng này thoạt đầu chỉ là một nhóm chiến hạm ô hợp tịch thu của Trung Hoa Quốc Dân đảng, và hai năm sau tăng cường thêm lực lượng không chiến. Giống như tổ chức quân đội chung, các chính ủy đều được đưa vào mỗi chiến hạm để nắm chắc các hạm trưởng.
Đến năm 1954, số cố vấn hải quân Liên Xô tăng lên đến 2.500 người – tỉ lệ một cố vấn Liên Xô cho 30 quân nhân hải quân Trung Quốc – và Liên Xô bắt đầu viện trợ các loại chiến hạm tối tân hơn. Với viện trợ của Liên Xô, năm 1954-1955, Hải quân Trung Quốc tổ chức lại thành ba hạm đội. Các chức vụ và cấp bậc sĩ quan hải quân cũng được thành lập từ đội ngũ sĩ quan lục quân. Ban đầu, việc chế tạo các chiến hạm nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô, nhưng về sau, Trung Quốc tiến dần từ việc bắt chước chế tạo theo mẫu thiết kế các chiến hạm Liên Xô, đến có thể tự thiết kế và chế tạo chiến hạm các loại. Từng có một thời, quan hệ hai bên mật thiết đến độ có cả bàn tính dự định tổ chức một hạm đội chung cho cả hai hải quân Xô-Trung.
Tuy cũng trải qua những biến động chính trị của thập niên 1950 và 1960, Hải quân Trung Quốc không bị ảnh hưởng nặng nề như Lục quân hoặc Không quân. Dưới thời lãnh đạo của Bộ trưởng Quốc phòng Lâm Bưu, Hải quân vẫn được đầu tư khá nhiều trong những năm nghèo đói sau “Đại nhảy vọt”.  Trong Các mạng văn hóa, tuy một số chính ủy, tư lệnh đầu não bị truất quyền, và một số lực lượng hải quân được sử dụng để đàn áp cuộc bạo loạn tại Vũ Hán tháng 7 năm 1967, nhưng nói chung Hải quân Trung Quốc ít bị dính líu vào các biến động đang xảy ra trên toàn quốc vào thời điểm đó. Hải quân Trung Quốc vẫn tiếp tục công việc đóng thêm chiến hạm, huấn luyện thủy thủ và tu bổ các hạm đội.
Hải quân Trung Quốc đã bước vọt trong những năm gần đây khi họ quyết định mua loại khu trục hạm hạng Sovremenny và mua tàu ngầm hạng Lilo của Nga. Hai khu trục hạm hạng Sovremenny đầu tiên được trang bị tên lửa chống chiến hạm loại SS-N-22, còn gọi là Tên lửa chống chiến hạm vận tốc vượt âm 3M-80E. Theo các nhà nghiên cứu quốc phòng Tây phương, loại tên lửa này có khả năng tiêu diệt hàng không mẫu hạm. Hai khu-trục hạm kế tiếp sau đó được trang bị loại SS-N-26 Yakhont tối tân hơn, và nhiều chiến hạm trang bị loại tên lửa này đang được xây thêm.

Hạm đội tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc cũng có những bước tiến lớn. Các tàu ngầm hạng Kilo có khả năng hoạt động rất im lặng, và được trang bị hai loại vũ khí mới nhất: tên lửa chống chiến hạm loại Klub, còn gọi là Tên lửa chống chiến hạm vận tốc dưới âm 3M-54E1, và tên lửa thủy lôi loại VA-11 Shkval có tốc độ trên 320 km/giờ và tầm hoạt động 7,5 km. Tất cả các tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc, kể cả loại Kilo, đều được trang bị loại máy hoạt động không cần không khí, có nằm chờ rất lâu dưới biển để đột kích kẻ thù.
           Kỹ thuật đóng tàu của hải quân Trung Quốc nay cũng tiến rất xa qua sự giúp đỡ của Nga, và các khu trục hạm mới nhất của Trung Quốc sử dụng trang bị nội hóa có chất lượng không kém so với tiêu chuẩn phương Tây, với ra đa loại AEGIS và sườn tàu thiết kế kiểu chống ra đa.
Những năm đó, Liên Xô hăng hái giúp Trung Quốc vì cũng tưởng nhầm là Đảng cộng sản chân chính, nhưng rồi bị đau điếng vì thủ đoạn thâm hiểm, tinh vi của Trung Quốc mà không “kêu” vào đâu được. Bởi vì lúc đầu Trung Quốc nhờ Liên Xô giúp đỡ, viện trợ, đưa nhiều chuyên gia đầu ngành nhiệt tình sang giúp Trung Quốc. Nhưng Nga không ngờ rằng Trung Quốc lại ăn cắp công nghệ nhanh đến thế, cứ theo mẫu y chang của Liên Xô, lại nhờ hướng dẫn kỹ thuật rồi ăn cắp luôn, chế tạo các loại chiến hạm, tàu chiến, tàu ngầm giống hệt của Liên Xô nhưng mang tên Trung Quốc. Sau khi đã ăn cắp thành công, Trung Quốc “mời” các chuyên gia, cố vẫn Liên Xô về nước.
        Những thủ đoạn và sự tráo trở đó dần dần đã biến Trung Quốc trở thành một nước siêu cường về ăn cắp công nghệ. Ngày 13/5, Strategypage đưa tin, Nga đang tỏ ra lo lắng và tức giận trước việc Trung Quốc sử dụng một cách bất hợp pháp công nghệ quốc phòng của mình. Vụ “scandal” gần đây nhất liên quan đến thiết kế tàu ngầm diesel mới của Trung Quốc, Type 39A (Yuan).
Tàu sân bay Thi Lang

Theo Chinese Military Aviation: Sau 3 thập kỷ gắn bó với loại tàu ngầm hạng Romeo và Ming đã lỗi thời, hải quân Trung Quốc đang dần hiện đại hóa hạm đội tàu ngầm của mình, bằng cách đưa vào SSK hạng Kilo của Nga và SSG hạng Song nội địa. Ngoài ra, nước này còn tìm cách phát triển các thế hệ tiếp theo của tàu ngầm hạng Han SSN và Xia SSBN.
Đây là loại tàu ngầm sử dụng năng lượng hạt nhân đầu tiên của nước này. Hiện Trung Quốc có 5 chiếc. Han 404 SSN (loại 091/09 I, trọng lượng nước rẽ khi lặn là 5.500 tấn) được đưa vào sử dụng đầu những năm 90. Hai chiếc đầu tiên (401 và 402) gặp trục trặc trong khâu tỏa nhiệt. Vấn đề này về sau đã được giải quyết. Tuy nhiên, kể từ cuối những năm 90, chúng hoạt động không được hiệu quả. Từ chiếc 403 trở đi, thân tàu được mở rộng thêm 8 m ở phần thăng bằng phía đuôi. Ngoài ra, nó còn mang thêm một loại ngư lôi điều khiển bằng dây dẫn mới. Nó có khả năng phóng các tên lửa chống tàu YJ-8 SSM từ ống phóng ngư lôi 533 mm.
Hồi tháng 10/1994, ngoài bờ biển CHDCND Triều Tiên, máy bay USN S-3B ASW thuộc nhóm tàu sân bay Kitty Hawk đã lần theo một chiếc tàu ngầm hạng Han. Trung Quốc phải phái 2 máy bay chiến đấu chặn chiếc phi cơ này.

Gần đây, các tàu hạng Han đã được sơn đen (màu phổ biến ở hải quân các nước) thay cho màu xanh lam trước kia. Loại tàu hạng Han được nâng cấp tiếp theo là 093/09 III (trọng lượng của khối nước bị chiếm chỗ khi lặn là 8.000 tấn, tương tự như tàu ngầm hạng Victor III của Nga cuối những năm 70). Người ta cho rằng chiếc đầu tiên đã được hạ thủy cuối năm 2000. Dự kiến Trung Quốc sẽ có 6-8 chiếc 093 SSN như vậy.
Tàu Xia loại 092 ăn cắp hoàn toàn công nghệ của Nga, sau khi được phủ hạng sơn mới màu đen. Đây là tàu ngầm lắp tên lửa đạn đạo và sử dụng năng lượng hạt nhân. Trung Quốc có duy nhất 1 chiếc. Tàu ngầm hạng Xia SSBN (loại 092/09 II, trọng lượng nước bị chiếm chỗ khi lặn là 6.500 tấn) gần đây mới ra khơi trở lại sau 3 năm tu sửa. Giờ đây, nó có hạng sơn mới màu đen, một thiết bị định vị bằng âm thanh lắp ở phần trước thân (giống như tàu Song SSG), một gian được thiết kế lại để chứa những ống phóng tên lửa dài hơn, hệ thống kiểm soát đã qua nâng cấp để phóng các tên lửa SLBM loại mới. Nếu như ban đầu, tàu này được trang bị 12 tên lửa đạn đạo JL-1 (CSS-N-3) (tầm bắn 1.700 km, sử dụng hệ thống chỉ dẫn nhờ quán tính và mang một đầu đạn hạn nhân nặng 1,25 tấn) thì giờ đây nó mang 12 tên lửa JL-2 SLBM (CSS-NX-4, tầm bắn 8.000 km). Từ nhiều năm nay, hải quân Trung Quốc chỉ có một chiếc Xia 406. Mặc dù có tin đồn là họ đã lắp thêm chiếc thứ hai, nhưng thông tin này chưa được xác nhận. Điều này cho thấy thiết kế tàu ngầm có vấn đề, nên người ta không đưa nó vào sản xuất hàng loạt.
Bù vào khiếm khuyết đó, Xia là một nơi thử tên lửa lý tưởng, nhất là từ sau vụ phóng thành công tên lửa JL-1 năm 1988. Mẫu thiết kế mới là loại 094/09 IV (trọng lượng nước bị chiếm chỗ khi lặn: 12.000 tấn). Chiếc đầu tiên thuộc loại này đã được hạ thủy năm 2002. Dự kiến sẽ có tổng cộng 3-4 tàu 094 được sản xuất, mỗi chiếc trang bị 16 tên lửa JL-2 SLBM.
Tàu ngầm động cơ diesel, Trung Quốc hiện có 4 chiếc và chuẩn bị mua thêm 8 chiếc. Mặc dù đội tàu hạng Kilo của Trung Quốc hãy còn thua xa Nga, đây là một bước tiến lớn trong tiến trình phát triển tàu ngầm truyền thống của hải quân Trung Quốc. Tàu ngầm này có thể mang tới 18 ngư lôi TEST-71, TEST-96 hay 53-65 điều khiển bằng dây dẫn, khi bắn sẽ sử dụng 6 ống phóng. Chiếc thứ 3 và thứ 4 (366 và 367) thuộc dự án 636 là một trong những loại tàu ngầm truyền thống chạy êm nhất thế giới.
          Tàu ngầm Kilo 636 đầu tiên được chuyển về Trung Quốc hồi tháng 11/1997, còn chiếc thứ hai cuối năm 1998. Hiện cả 4 tàu ngầm hạng Kilo đều ở căn cứ Xiangshan thuộc Hạm đội Hoa Đông.
Hai tàu ngầm đầu tiên - loại 877EKM (364, 365) - có gặp một số trục trặc về máy móc (ắc quy và máy phát điện bị hỏng hóc) do thủy thủ thiếu kinh nghiệm, nên không được sử dụng trong mấy tháng. Theo thông tin mới nhất thì Trung Quốc đã đặt mua của Nga têm 8 chiếc 636, được trang bị tên lửa Club có tầm bắn 300 km. Đây được coi là biện pháp nhằm đối phó với việc Đài Loan đặt mua 8 tàu ngầm động cơ diesel của Mỹ.

Tàu ngầm mới nội địa hạng SSG (loại 039, trọng lượng nước rẽ khi lặn 2.250 tấn) hạ thủy hồi tháng 5/1994, nhưng đến năm 1998 mới được trang bị vũ khí. Mặc dù vẫn giữ lại tháp chỉ huy có bậc thang giống như tàu ngầm loại cũ (hạng Ming/Romeo), đây là bước tiến lớn so với tàu ngầm hạng Ming. Nó hoạt động tốt hơn về mặt thủy động lực học, các thiết bị định vị bằng âm thanh (sonar) hình trụ lắp ở phần trước tàu, và nó sử dụng động cơ diesel MTU 12V 493 của Đức. Nhờ một chân vịt 7 cánh không đối xứng, tàu ngầm hạng Song chạy êm hơn nhiều so với đàn anh của nó. Người ta từng suy đoán là tàu ngầm này có thể được sử dụng để phóng tên lửa YJ-8/C-801 và ngư lôi điều khiển bằng dây dẫn (có lẽ là Yu-6/Mk-48) từ ống phóng ngư lôi 533 mm.
Tuy nhiên, hải quân Trung Quốc đã bỏ ý định phát triển tàu ngầm loại 039, sau khi con tàu đầu tiên gặp một loạt rắc rối trầm trọng. Họ tìm đến một loại tàu cải tiến gọi là 039A. Chiếc đầu tiên (321) đã qua thử nghiệm trên biển và được đưa vào sử dụng hồi cuối năm 2001. Ở đây, người ta giữ lại bộ thăng bằng truyền thống của tàu, nhưng loại bỏ tháp chỉ huy có bậc thang. 039A có thể được trang bị hệ thống AIP (một hệ thống giúp tàu ngầm chìm sâu trong nước và không bị phát hiện trong một khoảng thời gian dài), từng qua thử nghiệm trên một con tàu hạng Ming SS.
Nhưng việc Bắc Kinh đặt hàng tới 8 chiếc hạng Kilo của Nga cho thấy hải quân Trung Quốc có thể đã bỏ kế hoạch phát triển tàu hạng Song và tìm đến một mẫu thiết kế hoàn toàn mới.
Song hành với các thủ đoạn trắng trợn ăn cắp công nghệ quốc phòng của Nga, Trung Quốc đang gia tăng ăn cắp công nghệ quốc phòng của Mỹ. Thời điểm hải quân Trung Quốc cho chạy thử tàu khu trục Lan Châu trang bị hệ thống tên lửa điều khiển có thể tấn công đồng thời các mục tiêu trên đất liền, trên không và trên biển là vào tháng 6-2005.
          Khác với các tàu khu trục lớp Lộ Dương I, tàu Lan Châu có giàn radar định pha, hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng, tên lửa tầm xa và hệ thống chỉ huy kiểm soát, nghĩa là giống y chang hệ thống chiến đấu Aegis của Mỹ. Câu hỏi đặt ra là Trung Quốc làm thế nào để đạt được trình độ đó trong một thời gian ngắn?

Sau sự kiện tàu Lan Châu vài ngày, nhật báo Mỹ The Washington Times (WT) dẫn lời một quan chức ngành hải quan và di trú (ICE) Mỹ báo động “công nghệ ăn cắp của Trung Quốc đang gia tăng theo đường xuất khẩu”. Phương thức ăn cắp phổ biến nhất là thông qua một nước thứ ba nhập khẩu công nghệ tiên tiến của Mỹ.
Việc ăn cắp này không mấy khó khăn nhờ lòng tham của các doanh nghiệp Mỹ như nhận định của ICE: “Một số công ty Mỹ quan tâm đến lợi nhuận hơn là bảo vệ an ninh quốc gia”. 6.000 công ty Mỹ nằm trong tầm ngắm của Trung Quốc nhằm ăn cắp công nghệ và thiết bị Mỹ qua đường xuất khẩu.
Trung Quốc chủ trương đi tắt bằng chiêu “lấy của người làm của ta”. Chiêu này bao gồm tình báo công nghiệp và nhập khẩu bất hợp pháp công nghệ tiên tiến của Mỹ và châu Âu. Mỹ là nước có nền công nghiệp quốc phòng tiên tiến nhất thế giới nên quân đội Trung Quốc nhắm vào nước này là lẽ đương nhiên.
Phạm vi ăn cắp công nghệ quốc phòng Mỹ rất rộng. Tờ WT cho biết Trung Quốc đã mua được một cách trái phép hoặc bị bắt quả tang ăn cắp công nghệ dạ thị (nhìn xuyên bóng đêm), linh kiện điện tử quân dụng, linh kiện tên lửa điều khiển chính xác, phần mềm tin học phát triển tên lửa...
Một quan chức FBI than thở trên tờ WT: “Trung Quốc biết về quân đội chúng ta nhiều hơn những gì ta biết về nước này”. Ngày 24-3-2008, Chi Mak bị tuyên án 24 năm 6 tháng tù.

Trung Quốc từng tìm cách mua linh kiện máy bay cường kích F-4 và F-5, tên lửa Hawk mà Mỹ cung cấp cho Iran bằng đường biển. ICE cho biết vụ xuất khẩu trái phép nghiêm trọng nhất công nghệ bí mật của Mỹ cho Trung Quốc xảy ra hồi cuối thập niên 1990. Trong vụ này, FBI (Cảnh sát Liên bang Mỹ) đã phá vỡ một ổ gián điệp Trung Quốc ở Los Angeles thu thập thông tin chi tiết hệ thống chiến đấu Aegis trang bị cho các tàu khu trục và tuần dương hiện đại nhất của Mỹ.

Vụ án gián điệp trên được tường thuật chi tiết hồi tháng 10-2005, tức sau sự kiện Lan Châu 4 tháng, phần nào đã giải đáp được câu hỏi nhờ đâu hải quân Trung Quốc sớm có được phiên bản hệ thống chiến đấu Aegis của Mỹ.
Nhân vật chính trong vụ án là Chi Mak, kỹ sư điện người Mỹ gốc Hoa làm việc ở Công ty Power Paragon, chi nhánh của Tập đoàn Power Systems, ở Anaheim, bang California, chuyên nhận thầu các hợp đồng quân sự. Chi Mak được phép tiếp cận các tài liệu đã được giải mật nhưng không được phép tiết lộ ra nước ngoài và tham gia thực hiện hơn 200 hợp đồng quân sự và quốc phòng Mỹ. Chi từng làm việc trên tàu sân bay USS Stennis và có 15 năm công tác trong ngành chế tạo các hệ thống vũ khí hiện đại của Mỹ, bao gồm tàu ngầm và tàu chiến.
Trong báo cáo thường niên với Quốc hội Mỹ công bố vào thứ sáu tuần rồi (18-5), Lầu Năm Góc bày tỏ quan ngại về tốc độ và quy mô hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc đồng thời tố cáo nước này ăn cắp thông tin công nghệ và kinh tế phương Tây, nhất là Mỹ, “tích cực và bền bỉ nhất thế giới”. Báo cáo cho biết thêm “những nỗ lực thu thập thông tin công nghệ và kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục ở mức cao và trở thành mối đe dọa dai dẳng ngày càng phát triển đối với nền kinh tế Mỹ”. Phương pháp thu thập thông tin này có hai dạng: hợp pháp và bất hợp pháp. Như đã nói, hợp pháp là nhập khẩu hàng hóa lưỡng dụng dân sự và quân sự, còn bất hợp pháp là ăn cắp qua mạng hoặc mạng lưới gián điệp ở Mỹ.
Cũng theo Chinese Military Aviation: Phương thức thu thập thông tin tình báo của Trung Quốc có thể gói gọn trong câu “năng nhặt chặt bị”. Tất cả mọi phương tiện đều được tận dụng, từ tình báo mạng đến tình báo con người. Ai cũng có thể trở thành điệp viên Trung Quốc vì lòng ái quốc hoặc vì tiền.

Về tình báo mạng, Mike Rogers, Chủ nhiệm Ủy ban Tình báo Thường trực Hạ viện Mỹ, mô tả: “Mỗi buổi sáng ở Trung Quốc có hàng ngàn tin tặc có trình độ cao thức dậy với một nhiệm vụ: “Ăn cắp sở hữu trí tuệ của Mỹ để Trung Quốc tăng trưởng kinh tế”. Theo Lầu Năm Góc, thông tin kinh tế và công nghệ nhạy cảm của Mỹ đã bị các cơ quan tình báo, công ty tư nhân, các tổ chức nghiên cứu và hàn lâm, công dân của hàng chục nước săn tìm ráo riết nhưng tin tặc Trung Quốc thuộc loại năng động và tích cực nhất.
Về tình báo con người, Trung Quốc không đi theo đường mòn cài thật sâu một vài điệp viên lớn “nằm vùng” lâu năm hoặc tuyển mộ điệp viên hai mang như Liên Xô trước đây. Họ áp dụng chiến thuật một cá nhân thu thập một ít thông tin nhưng cả ngàn người sẽ đem lại một lượng thông tin khổng lồ. Chiến thuật này tỏ ra rất thành công ở Mỹ - nơi có nhiều người Mỹ gốc Hoa được trọng dụng trong các ngành khoa học và kỹ thuật, kể cả công nghiệp quốc phòng với tư cách là kỹ sư, khoa học gia.
Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) cho biết có đến 98% điệp viên không chuyên (từ sinh viên đến các khoa học gia) nhận lời làm việc cho tình báo Trung Quốc thuộc cộng đồng người Hoa ở Mỹ. Vụ án gia đình kỹ sư Chi Mak tuồn tài liệu về hệ thống chiến đấu Aegis của Mỹ giúp Trung Quốc có được một phiên bản ứng dụng vào tàu khu trục Lan Châu là một điển hình.
Báo cáo của Lầu Năm Góc cũng đề cập chiến đấu cơ tàng hình J-20 và tàu sân bay Thi Lang của Trung Quốc. Mẫu thứ 2 của J-20 có tên Mãnh Long 2 vừa thực hiện một chuyến bay thử hồi tuần rồi, còn chiếc Thi Lang (tên cũ là Varyag, vốn là tàu sân bay thời Liên Xô mua lại của Ukraine rồi “mông má” lại thành tàu sân bay) cũng mới cập cảng Đại Liên hôm 15-5 sau 9 ngày chạy thử. Đây là chuyến chạy thử lần 6.
Từ công nghệ gôc của Mỹ, nay J-20 và Thi Lang có phải là địch thủ của Mỹ trong tương lai gần? Một số chuyên gia Mỹ không tin rằng năm 2020, Trung Quốc có được một phi đội chiến đấu cơ tàng hình J-20 ngang ngửa với F-22 hoặc F-35 của Mỹ. Tàu sân bay Thi Lang càng không có khả năng chiến đấu như các tàu sân bay Mỹ chạy bằng động cơ diesel chứ đừng nói gì USS Enterprise chạy bằng động cơ hạt nhân.  Tuy nhiên, một số chuyên gia Mỹ lưu ý rằng không quân Trung Quốc đang học tập cách làm “cuốn chiếu” của Nga, ít mất thời gian hơn Mỹ. Đó là sau vài chuyến bay thử cơ bản, chế tạo một vài chiếc trang bị phương tiện chiến đấu thông thường rồi đưa vào các phi đội chiến đấu. Sau vài năm hoạt động thực tế, kỹ sư sẽ chế tạo một phiên bản mới trang bị hiện đại hơn. Và cứ như thế, tiếp tục hoàn thiện máy bay.
Trung Quốc cũng đang làm y như vậy. Họ vừa cho bay thử vừa sản xuất một số lượng nhỏ J-20. Cách làm này có cái lợi là đưa J-20 vào hoạt động nhanh hơn Mỹ tưởng. Tướng không quân Trung Quốc Hà Vĩ Vinh tuyên bố J-20 sẽ sẵn sàng chiến đấu vào năm 2017 hoặc chậm nhất năm 2019. Nhưng nó cũng dễ gặp trục trặc.
Chiếc F-22 của Mỹ sau 7 năm bay thử mới đưa vào hoạt động, giờ đây buồng lái đang có vấn đề, phi công rất sợ hãi vì hay bị ngất bất ngờ do thiếu ôxy. Chiếc J-20 chắc chắn cũng gặp vấn đề tương tự. Nó không thể sánh bằng F-22 hay F-35 có hơn 10.000 chuyến bay thử. Hơn nữa, chừng nào J-20 vẫn dùng động cơ AL-31 của Nga không thuộc thế hệ 5 thì càng không thể. Trung Quốc chưa thể chế tạo động cơ cho thế hệ này.

Không riêng lĩnh vực quân sự mà Trung Quốc đang là siêu cường về ăn cắp công nghệ, thương hiệu của nhiiều nước tiên tiến. Hàng Trung Quốc tràn ngập khắp nơi, giá rẻ, nhưng người tiêu dùng rất ngán ngại. Hàng nhái, hàng dỏm khá nhiều. Người tiêu dùng đã tẩy chay các loại hàng công nghệ điện tử vi mạch, đồ bán dẫn, xe máy của Trung Quốc. Nhìn về thực chất, Trung Quốc giàu nhưng không mạnh. Quân đội Trung Quốc đông, vũ khí trang bị hiện đại, nhưng chắc chắn là hiệu suất chiến đấu và sự bảo đảm an toàn phương tiện, trạng bị không cao. Trong tác chiến, hơn nhau về trình độ, kinh nghiệm, mưu lược, sáng tạo và lòng gan dạ, không ai đem sự đồ sộ về trang bị kỹ thuật ra mà dọa đối phương để mong giành được chiến thắng. Như năm xưa cũng vậy, Mỹ dốc hết hầu bao quốc phòng của một nước lừng danh trang bị, vũ khí hiện đại cũng phải thua Việt Nam. Nay Trung Quốc có tàu chiến và máy bay chiến đầu các loại được sản xuất hàng loạt, rất nhiều, nhưng công nghệ ăn cắp chắp vá nên khó hoàn thiện và ít phát huy tính năng. Cái lối dùng chiến thuật “biển người” trong chiến tranh bây giờ đã hết thời, lạc hậu rồi, mà nếu dùng “biển người” thì kèm theo đó phải chuốc lấy biển máu. Trình độ kỹ thuật tác chiến hện đại cũng như khả năng sử dụng, vận hành trong tác chiến kỹ thuật của quân đội Trung Quốc chưa phải là mạnh, và không hề có kinh nghiệm.

Bùi Văn Bồng – Nguyễn Cao

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét