Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

Lượm tin tức

Tin tức cập nhật cuộc khủng hoảng nhà máy điện hạt nhân Fukushima tới giai đoạn từ ngày 10-7-2012 đến 12-7-2012 -Blogpost Justin McKeating – 13-7-2012 -HL dịch -Phạm Toàn hiệu đính -Boxitvn

Nhân cái chết của nhà văn Nguyễn Mộng Giác -Những chặng đường của Tạp chí Văn Học -Gửi hương hồn Cao Xuân Huy và Nguyễn Mộng Giác -Hoàng Khởi Phong – Boxitvn

Gửi Thái Bá Tân -Thái Hữu Tình-(Boxitvn)- Lên mạng Dân làm báo/Đọc thơ Thái Bá Tân /Mắng những thằng hỗn láo/Theo giặc, ác với Dân…

Nỗi niềm nông dân -Hai Kim(Boxitvn) - Tôi muốn được một lần/Làm người nông dân Thái/Sướng vui và thoải mái/Khi Chính phủ thương dân……

Làm thế nào để hai dân tộc Mỹ Việt thương kính nhau nhiều hơn -Nguyễn Duy Vinh-Boxitvn

________________________________________________________________________________________
Liệu công lý có được thực hiện? (RFA)-Vào ngày 17 tháng 7 sẽ diễn ra phiên tòa phúc thẩm vụ án xét xử trung tá công an Nguyễn Văn Ninh đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng vào tháng 2 năm 2011.
VN gia hạn hợp đồng với tập đoàn dầu khí Ấn Độ (RFA)   —Việt Nam muốn duy trì sự hiện diện của Ấn Độ ở Biển Đông (RFI)  —Tư lệnh hạm đội TBD thăm Việt Nam (RFA)  —Nông dân Văn Giang bị hành hung tố cáo thủ phạm là người của Ecopark (RFI)
Hàng chục ngàn giáo dân dự lễ cầu nguyện cho Giáo điểm Con Cuông(RFI)  —Cam Bốt bị tố cáo chiều ý Trung Quốc để phá hoại ASEAN(RFI)
Di họa của quá khứ (Ngô nhân Dụng-Nguoiviet) -Ngày Thứ Tư, 11 Tháng Bẩy 2012 vừa qua, hải quân tuần phòng Nhật Bản nhìn thấy ba chiếc tầu tuần duyên của Trung Cộng đi tới gần quần đảo Sensaku, người Trung Hoa gọi là Ðiếu Ngư Ðài, là nơi hai nước đang tranh chấp.
Trung Quốc khai thác mỏ sắt “chui” ở Phú Yên(Nguoiviet)  –Lãnh đạo nhà nước lười xài Internet(Nguoiviet)

Sóng gió Người Việt (BBC) -Báo Người Việt phải sa thải phụ tá chủ bút vì đăng thư “thân cộng”.

 

Sự thật về “lòng yêu nước” của Lê Quốc Quân

Ông Lê Quốc Quân
Thành Tâm
-
Liên tiếp trong hai ngày chủ nhật vừa qua (1 và 8-7), một số người đã tụ tập, tuần hành, biểu tình với danh nghĩa phản đối Trung Quốc. Những hành vi này gây mất ANTT, TTATGT, ảnh hưởng đến hoạt động, sinh hoạt bình thường của người dân Thủ đô.
Nguy hiểm hơn, những hành vi đó bị kích động bởi một số đối tượng có động cơ chống đối chế độ, đòi lật đổ chính quyền. Một trong những kẻ đó là Lê Quốc Quân (sinh năm 1971, trú tại tổ dân cư 64, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy…
Đại diện người dân phường Yên Hòa phát biểu ý kiến. Ảnh: Bảo Lâm
Đối với vấn đề chủ quyền biển đảo, trước tiên phải khẳng định, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng phương pháp đối thoại, hòa bình, trên cơ sở pháp luật quốc tế, bảo đảm môi trường ổn định để phát triển đất nước. Nhằm bảo đảm và duy trì ANTT trên địa bàn TP, giữ vững môi trường hòa bình, hữu nghị, thực hiện tốt đường lối quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước, giữ gìn hình ảnh Thủ đô Hà Nội – Thành phố vì hòa bình, ngày 18-8-2011, UBND TP đã ban hành thông báo yêu cầu chấm dứt mọi hoạt động biểu tình, tuần hành tự phát trên địa bàn.
Cần phải khẳng định những cuộc biểu tình gần đây chắc chắn không làm cho đất nước mạnh lên, trái lại còn khiến tình hình ANTT mất ổn định, tác động tiêu cực tới việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Không những thế, đó còn là cái cớ để các thế lực thù địch ráo riết lợi dụng tiến hành các hoạt động chống đối Đảng, Nhà nước. Những kẻ kích động, lôi kéo người dân đi biểu tình chắc chắn không vì những mục tiêu cao cả như chúng rêu rao, mà chỉ nhằm lợi dụng những sự kiện này để hướng tới ý đồ phá hoại sự ổn định của đất nước…
Là người hiểu biết về pháp luật, thế nhưng Lê Quốc Quân lại đã liên tục vi phạm pháp luật Việt Nam, là một nhân vật thường xuyên xuất hiện tại các đám đông gây rối trật tự công cộng, với vai trò kích động, lôi kéo. Năm 2008, Lê Quốc Quân đã từng tham gia tụ tập đông người, kích động gây rối trật tự công cộng, hủy hoại tài sản, chống người thi hành công vụ tại khu vực 42 Nhà Chung (quận Hoàn Kiếm) và 178 Nguyễn Lương Bằng (quận Đống Đa). Tháng 4-2011, Quân cùng một số người gây rối trật tự công cộng bên ngoài phiên tòa xét xử vụ án Cù Huy Hà Vũ, bị CA quận Hoàn Kiếm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo. Chưa dừng ở đó, từ tháng 7-2011 đến nay, Lê Quốc Quân còn nhiều lần lợi dụng danh nghĩa yêu nước, biểu tình phản đối Trung Quốc để cùng nhiều người tụ tập gây rối trật tự công cộng. Tháng 11-2011, cũng vì tụ tập, gây rối trật tự công cộng tại khu vực tượng đài vua Lý Thái Tổ (quận Hoàn Kiếm), Lê Quốc Quân tiếp tục bị CA quận Hoàn Kiếm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo.
Căn cứ Nghị định 163/CP và hai quyết định xử phạt vi phạm hành chính của CA quận Hoàn Kiếm đối với Quân về hành vi gây rối trật tự công cộng, ngày 13-1-2012, Chủ tịch UBND phường Yên Hòa đã ký quyết định đưa Lê Quốc Quân vào diện giáo dục tại xã, phường trong thời hạn 6 tháng, để chính quyền và nhân dân giáo dục, giúp đỡ Quân tiến bộ. Thế nhưng, trong thời hạn áp dụng quyết định trên, Quân tiếp tục có những hành vi vi phạm, bất hợp tác với chính quyền nhân dân, vi phạm Luật Cư trú đối với người đang thuộc diện quản lý, giáo dục tại xã, phường theo Nghị định 163/NĐ-CP. Quân thường xuyên trả lời phỏng vấn, cung cấp thông tin sai sự thật cho một số cơ quan truyền thông nước ngoài; đăng tải những thông tin chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cá nhân và tổ chức trên blog cá nhân. Gần đây nhất, bất chấp các quy định của pháp luật, ngày 8-7, lợi dụng quyền tự do, dân chủ, lợi dụng danh nghĩa yêu nước, Quân tiếp tục tham gia lôi kéo người dân tụ tập, kích động gây rối trật tự công cộng.
Tối 13-7, UBND phường Yên Hòa đã tổ chức họp tổ dân cư nơi Lê Quốc Quân cư trú để công bố quá trình 6 tháng thực hiện quyết định giáo dục tại xã, phường theo Nghị định 136/CP đối với Lê Quốc Quân. Dù được chính quyền mời họp nhưng một lần nữa, Lê Quốc Quân thể hiện thái độ bất hợp tác, coi thường pháp luật, coi thường chính quyền bằng việc tuyên bố từ chối dự họp. Tại buổi họp, đại diện cán bộ, nhân dân tổ dân phố nơi công dân Lê Quốc Quân cư trú đã thẳng thắn phê phán thái độ ngang ngược, coi thường pháp luật, coi thường chính quyền và nhân dân của Lê Quốc Quân. Ông Nguyễn Duy Khoắc khẳng định, quyết định của UBND phường Yên Hòa là hoàn toàn đúng đắn nhưng trong thời gian qua, Lê Quốc Quân thực hiện nghĩa vụ công dân chưa tốt, chưa có ý thức chấp hành pháp luật. Ông Nguyễn Trọng Tình, tổ trưởng dân phố, người được chính quyền phân công trực tiếp giáo dục Quân cho biết thêm: Quá trình 6 tháng thực hiện quyết định của UBND phường Yên Hòa về giáo dục Lê Quốc Quân tại xã, phường, Lê Quốc Quân hoàn toàn bất hợp tác, không khai báo tạm vắng, không chấp hành giấy triệu tập làm việc của chính quyền, không viết kiểm điểm, không những thế còn tham gia gây rối trật tự công cộng.
Bức xúc về thái độ coi thường pháp luật, coi thường chính quyền và nhân dân nơi cư trú của Lê Quốc Quân, bà Hồ Kiều Oanh, công dân tổ dân cư 64 phường Yên Hòa, phát biểu: Lê Quốc Quân cũng như chúng tôi, đều là công dân Việt Nam và phải chấp hành pháp luật Việt Nam. Anh ta đã làm ảnh hưởng đến cả tổ dân cư chúng tôi. Ông Nguyễn Minh Anh cũng chung quan điểm trên và nhấn mạnh: Nhân dân ở tổ dân cư rất bức xúc và thấy rằng cần phải có biện pháp tiếp tục giáo dục Lê Quốc Quân. Trước những hành vi của Lê Quốc Quân, nhiều người dân tại địa bàn nơi công dân này cư trú đều cho rằng, Lê Quốc Quân là phần tử góp phần gây mất ổn định, ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, đã có nhiều ý kiến kiến nghị chính quyền nên có biện pháp cứng rắn và kiên quyết hơn để giáo dục Lê Quốc Quân. Bà Nguyễn Thị Thanh nhận xét và kiến nghị: Là người hiểu biết pháp luật nhưng Lê Quốc Quân không tôn trọng người dân trong khu dân cư, không tôn trọng pháp luật thì không thể là đại diện cho người dân, vì vậy đề nghị chính quyền và các cơ quan chức năng phải có biện pháp nghiêm khắc hơn để buộc Lê Quốc Quân tôn trọng pháp luật…
Đi từ đám đông gây rối đòi đất đến tham gia đoàn biểu tình chống Trung Quốc, dù khoác áo “yêu nước” nhưng Lê Quốc Quân đã thể hiện thái độ coi thường pháp luật, lộ rõ động cơ chống đối và đòi lật đổ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để phục vụ động cơ đó, Lê Quốc Quân kích động và lợi dụng chính những người biểu tình để gây mất ổn định an ninh chính trị, sau đó đưa lên internet những thông tin xuyên tạc tình hình đất nước, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, kích động chia rẽ quan hệ giữa quần chúng nhân dân với các cấp chính quyền, công khai đòi thay đổi chế độ… Động cơ, hành vi của Lê Quốc Quân thực chất là đi ngược lại lợi ích của đất nước, của nhân dân và cần phải bị lên án, xử lý theo pháp luật.
Theo: HNM
 

Không ai có thể bịt miệng cả một dân tộc (Luis Aragon)


Photo AFP/Hoang Đình Nam. Người Việt Nam tập trung biểu tình trước Tòa đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội hôm 1/7/2012.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-07-15
Chúa Nhật 15 tháng 7 tuần này không có biểu tình tại Hà Nội như hai Chủ Nhật trước đây. Phải chăng lời tuyên bố của chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã làm chùn bước những người từ trước đến nay vẫn thường xuyên tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc?
Mặc Lâm có thêm chi tiết về câu hỏi này.

Vấn đề xâm lược của Trung Quốc đối với chủ quyền biển đảo Việt Nam là rõ ràng và không thể tranh cãi. Các hy sinh của người lính của cả hai chế độ cho thấy điều đó. Hoàng Sa năm 1974, Gạc Ma năm 1988 là những bằng chứng không thể chối cãi trước công luận quốc tế về hành động xâm lược giết người của Trung Quốc. Máu đã đổ xuống trên hai vùng đất này và nhân dân Việt Nam với quyết tâm chống xâm lăng không thể không tiếp tục đổ máu nếu Trung Quốc tiếp tục xâm lược Việt Nam cho dù dưới hình thức nào đi nữa.
Sự chống đối rực lửa ấy đã thể hiện qua nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc mà nhiều nhất là tại Hà Nội vào mỗi Chúa Nhật đã tăng thêm ý thức cảnh giác cho người dân cả nước về mưu toan mới xâm chiếm Biển Đông vì tài nguyên dầu hỏa đã khiến Trung Quốc bất chấp công luận quốc tế. Chỉ sau vài tuần, người biểu tình đã chạm một làn sóng mạnh bạo thậm chí tàn nhẫn của cơ quan an ninh, dân phòng khi đàn áp thẳng tay những công dân yêu nước xuống đường ấy.

Xuống đường, xuống đường….

china-protest-jul012012-2-250
Ông Andre Hồ Cương Quyết giương cao biểu ngữ trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Saigon hôm 01/07/2012. Photo courtesy of NXD’s blog.
Phong trào xuống đường biểu tình chống Trung Quốc được một người Việt gốc Pháp tham dự nhiệt tình, đó là ông Andre Menras. Cái tên Việt Nam Hồ Cương Quyết của ông đã được rất nhiều người Việt biết tới trong các đoàn biểu tình tại TP Hồ Chí Minh, ông cho biết tại sao mình đi biểu tình:
“Bây giờ tôi đã trở thành một công dân Việt Nam có nghĩa là trách nhiệm và nghĩa vụ của tôi là bảo vệ quốc gia Việt Nam, bảo vệ dân tộc Việt Nam, vì vậy khi một nước khác là Trung Quốc xâm lược Việt Nam thì tôi phải xuống đường lên tiếng tố cáo họ.
Bây giờ tôi đã trở thành một công dân Việt Nam có nghĩa là trách nhiệm và nghĩa vụ của tôi là bảo vệ quốc gia Việt Nam, bảo vệ dân tộc Việt Nam, vì vậy khi một nước khác là Trung Quốc xâm lược Việt Nam thì tôi phải xuống đường lên tiếng tố cáo họ.
Ô. Andre Hồ Cương Quyết
Tuy rất hòa bình nhưng cương quyết và để biểu tỏ tôi sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Hồi xưa tôi đã bị tù, tôi đã chịu khổ cũng vì một số anh chị em sinh viên học sinh trong phong trào hồi xưa chống xâm lược của Mỹ thì bây giờ tôi tiếp tục nắm lá cờ của Việt Nam chống cuộc xâm lược mới có thể nguy hiểm hơn cả hồi xưa là cuộc xâm lược của Trung Quốc.”
Ban đầu người biểu tình nghĩ rằng nhà nước sợ cơn sóng Hoa Lài nhân cơ hội biểu tình chống Trung Quốc sẽ tràn vào Việt Nam nhưng ngày qua ngày không có dấu hiệu nào của một cuộc cách mạng tương tự như thế có thể xảy ra tại Việt Nam. Tuy nhiên sự đàn áp người biểu tình vẫn không có chiều hướng thuyên giảm, trái lại ngày một tinh vi và táo bạo hơn.

Lời hứa khó hiểu

toa-dai-su-trung-quoc-250.jpg
Khu vực quanh toà đại sứ TQ ở Hà Nội được tăng cường bảo vệ suốt ngày 1 tháng 7, 2012. AFP photo.
Người dân trên thế giới nếu nghe được câu chuyện Trung Quốc bị nhân dân Việt Nam biểu tình chống đối lại có khả năng ra lệnh cho lãnh đạo Hà Nội cấm người dân đi biểu tình chống mình thì sẽ không ai tin và cho là chuyện tiếu lâm chính trị.
Vậy mà việc này lại xảy ra trên giấy trắng mực đen khi Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng của Việt Nam đã long trọng hứa với Bắc Kinh là “kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam”“dứt khoát không để sự việc tái diễn.”
Nếu cấm đoán mà không nêu được lý do chính đáng thì dư luận sẽ nổi giận và vì vậy chiều 13 tháng 7 mới đây, ông Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch UBND thành phố Hà Nội trong một cuộc họp Hội đồng Nhân dân Thành phố đã nêu lý do mà ông cho là chính đáng để chính thức ra lệnh cấm các cuộc biểu tình mà ông gọi là do thế lực thù địch đứng phía sau kích động xúi giục, ông Thảo nói:
“Gần đây xuất hiện tình trạng tập trung đông người kéo về Hà Nội khiếu kiện có tổ chức theo sự chỉ đạo của đối tượng xấu lợi dụng tình hình trên các thế lực thù địch và số cơ hội chính trị đã kích động người dân, nhất là số người đi khiếu kiện ở các địa phương biểu tình để gây áp lực với chính quyền phải giải quyết những khiếu nại, yêu sách.
Trước tình hình như vậy đồng thời với việc tăng cường thực hiện các biện pháp khôi phục phát triển sản xuất kinh doanh giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm lợi ích chính đáng của dân, thành phố sẽ tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp tuyên truyền vận động đấu tranh về chính trị, về tư tưởng, về hành chính pháp luật, để phối hợp chặt chẽ các lực lượng tại các địa phương, nhằm giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo tuyệt đối an toàn trật tự trên địa bàn thành phố, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo cuộc sống bình yên của nhân dân.
Thực tế những người biểu tình họ rất trật tự ôn hòa và nếu như có phản động thì công an họ đã tìm ra. Thế mà ông ấy nghĩ ngay đến chỗ phản động, xúi giục thì ông dựa vào đâu để ông ấy nói điều đó?
Thạc sĩ Đào Tiến Thi
Ngoài việc khiếu kiện về đất đai, trong hai tuần vừa qua vào ngày Chủ Nhật tại trung tâm thành phố đã diễn ra những cuộc tụ tập biểu tình chống Trung Quốc có những hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo của ta, tuy nhiên đa số những người tham gia là những người khiếu kiện về đất đai, bị lợi dụng để gây phức tạp về an  ninh trật tự.”
Phản ứng trước tuyên bố này là một làn sóng căm phẫn trong cộng đồng mạng. Có người không ngần ngại cho rằng ông Thảo đang có hành vi bán nước vì đã tiếp tay bịt miệng người biểu tình không cho họ tỏ rõ ý chí chống xâm lược. Thạc sĩ Đào Tiến Thi một người có nhiều bài viết mạnh mẽ chống lại việc này cho biết:
“Tôi là người theo dõi việc này rất nhiều và việc ông Nguyễn Thế Thảo nói tôi rất bức xúc và cũng đã có nhiều ý kiến phản ứng. Ở đây cái sai của ông Nguyễn Thế Thảo là tự nhiên kết tội người biểu tình mà không dựa trên bất cứ điều gì cả. Thực tế những người biểu tình họ rất trật tự ôn hòa và nếu như có phản động thì công an họ đã tìm ra. Thế mà ông ấy nghĩ ngay đến chỗ phản động, xúi giục thì ông dựa vào đâu để ông ấy nói điều đó? Đó là điều tôi thấy rất bất bình.
Việc thứ hai, trước sự xâm phạm rất láo xược của Trung Quốc và đất nước đang trong tình thế lâm nguy hiểm nghèo như thế này, ông Thảo là người có trọng trách lớn là chủ tịch thành phố, thủ đô mà ông không lo gì về việc chống xâm lược. Ông không có một đau xót gì, không có một giận dữ gì đối với kẻ xâm lược. Ông không đau xót gì trước tình trạng chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Không đau xót gì trước nguy cơ mất nước ông bỏ qua tất cả mọi chuyện đó thì không thể chấp nhận.”

Vẫn là hòa bình và hợp tác

Hkg856617-250.jpg
Người dân Việt Nam biểu tình chống Trung Quốc hồi năm 2007. AFP PHOTO.
Ông Nguyễn Thế Thảo xác nhận chủ trương của nhà nước về việc đối phó với Trung Quốc trong đó mục tiêu chính vẫn là hòa bình và coi trọng việc hợp tác hữu nghị giữa hai nước, ông nói:
“Chủ trương của đảng và nhà nước ta là cương quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ đồng thời ra sức gìn giữ môi trường hòa bình ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Nhà nước ta kiên trì sử dụng biện pháp hòa bình, sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý.
Chúng ta rất coi trọng việc duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác với Trung Quốc. Thực hiện nhất quán chủ trương trên và từ tình hình thực tiễn UBND thành phố yêu cầu các cấp các ngành cần làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền vận động để người dân hiểu rõ, không bị các phần tử xấu, cơ hội chính trị xúi giục xuống đường tụ tập biểu tình gây rối mất trật tự an ninh của thủ đô.”
Thạc sĩ Đào Tiến Thi nhận xét về những lập luận này như sau:
“Chúng tôi có thể thông cảm cho ông là ông có thể không nói được trong lúc này vì lý do gì đó. Thế nhưng ông không thể nào có thái độ cấm nhân dân đối với kẻ xâm lược. Ông dựa vào đâu mà dám kết luận chuyện biểu tình là do phản động xúi giục kích động? Ông lôi ra vài người phản động thử xem nào? Tôi tin rằng nếu có thì công an họ đã làm.
Phải nói là 11 cuộc biểu tình từ năm ngoái chống Trung Quốc còn trong năm nay thì đã hai cuộc tại Hà Nội, không có một dấu hiệu nào là của phản động cả. Nếu có thì công an người ta đã làm và báo chí đã làm um sùm rồi bởi vì người ta cố tìm và với hệ thống công an lớn như thế thì không có một ông phản động nào lọt vào cả.
Việc mà ông Thảo và một số người nói tôi nghĩ là để trấn áp biểu tình nên ông ấy cố nói như thế thôi vì ông ta không thể nào chứng minh được những gì ông ấy nói.”

Không ai có thể bịt miệng cả một dân tộc

000_Hkg5241371-250.jpg
Người biểu tình bị đàn áp hôm 21/8/2011. AFP photo
Người dân đã phần nào thấy được sức ép mạnh mẽ của Trung Quốc đè chặt trên vai của chính quyền Việt Nam. Sức ép ấy có người cho rằng do kinh tế và quân sự của Việt Nam bị lép vế. Nhưng cũng không ít người cáo buộc hệ thống cầm quyền sở dĩ im lặng vì đã bị mua chuộc, không chế bằng nhiều cách trong đó những đồng tiền bất chính nhận từ Trung Quốc trong các hợp đồng, dự án to lớn và Bắc kinh lấy đó làm bằng chứng, sẵn sàng dùng vào việc bịt miệng một số người tay trót nhúng chàm khi giao hảo với Trung Quốc.
Tuy nhiên rất nhiều người không nằm trong hai luồng ý kiến này. Họ khẳng định rằng cách đối phó với người biểu tình một cách khó hiểu xuất phát từ tâm thế nô lệ của chính quyền mặc dù ngoài miệng họ luôn luôn kêu gọi chống ngoại xâm bằng tất cả sức lực của người dân.
Trên tấm bia ghi công liệt sĩ Yên Bái có khắc lại một câu bất hủ của Luis Aragon viết vào tháng 6-1930 trên Báo Công đoàn Paris về cuộc khởi nghĩa Yên Bái sau khi Nguyễn Thái Học và các đồng chí trong đó có người anh hùng Phó Đức Chính bị chém đầu vào ngày 17 tháng 6 năm 1930 như sau:
“Đây là điều nhắc nhở ta rằng
Không thể bịt miệng một dân tộc
Mà người ta không thể khuất phục
Bằng lưỡi kiếm của đao phủ.”
Dư luận so sánh câu văn bất hủ này nếu áp dụng vào trường hợp của ông Nguyễn Thế Thảo cũng không phải là quá khập khiểng. Mặc dù lý do phản động xúi dục đã làm cuộc biểu tình hôm Chúa Nhật 15 tháng 7 không thể xảy ra, nhưng để bịt miệng cả một dân tộc trước họa ngoại xâm từ Trung Quốc thì chỉ mình ông Thảo chắc chắn là không thể.
Xét cho cùng lưỡi kiếm của đao phủ thực dân có khác gì với miệng lưỡi của chính quyền khi cố dập tắt tiếng nói bất khuất của người dân nước mình. Lịch sử đã chứng minh ai đi ngược với nguyện vọng của thời đại sẽ bị đào thải. Điều này chưa bao giờ sai chỉ có thời gian nhanh hay chậm mà thôi.

Đối diện với TQ, nước cờ nào cho VN trên bàn cờ thế giới hiện nay?

Lê Nguyên
-
VHNA: Tình hình đất nước ta đang có không ít khó khăn. Vấn đề cơ bản nhất, khó khăn nhất là phải đối phó với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của nhà cầm quyền Trung Quốc. Họ đang có nhiều âm mưu, thủ đoạn vừa tinh vi, xảo quyệt, vừa trắng trợn, lỗ mãng  nhằm thôn tính Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Làm gì và làm như thế nào để bảo vệ chủ quyền của đất nước? Đây đang là mối quan tâm của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Bài phân tích tình hình của Lê Nguyên mà chúng tôi giới thiệu là một trong nhiều ý kiến để bạn đọc tham khảo. Đây là ý kiến của cá nhân Lê Nguyên, không phải là quan điểm của VHNA.
Nếu lấy cái mốc 2007-2008 là thời điểm có những sự kiện quan trọng mang tính bước ngoặt – trong nước, năm 2007, lần đầu tiên có sự bùng nổ các phong trào biểu tình chống Trung Quốc vốn kết tụ từ những âm ỉ trước đó, và trong quan hệ với quốc tế, từ năm 2008, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO – thì có thể thấy trong vòng dăm năm trở lại đây, Việt Nam đang dần tiến tới một khúc quanh quan trọng mang tính quyết định cho vận mệnh của chính mình. Nếu đặt Việt Nam giữa các “ông lớn” trên bàn cờ thế giới hiện nay và thu gọn lại thành một quan hệ tay ba Việt Nam – Trung Quốc – Hoa Kỳ thì có thể công thức hoá khúc quanh quan trọng này dưới dạng các câu hỏi mang tính chiến lược, và việc lựa chọn đáp án nào sẽ mang tính quyết định cho vị thế của Việt Nam trên sân khấu chính trị châu Á – Thái Bình Dương cũng như thế giới nói chung: 1/ Đi gần hơn nữa với Trung Quốc trên mặt trận chống lại sức ảnh hưởng (ảnh hưởng vốn có và nỗ lực ảnh hưởng trở lại mang tính chiến lược) của Mỹ? 2/ Cố gắng giữ thăng bằng, hay là đu dây, giữa các cường quốc mà đặc biệt là giữa hai gã khổng lồ của thế kỉ 21 là Mĩ và Trung Quốc? và 3/ Trở thành đồng minh với Mĩ trong nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc?
Thực ra đã có nhiều bài báo từ nhiều phía, nhiều lực lượng khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp cổ xuý và vận động cho từng đáp án này. Trước hết đánh giá một cách sơ bộ về 3 câu hỏi: câu 1 dường như ít có khả năng xảy ra, bất chấp những cáo buộc, đôi khi là cực đoan, của các tiếng nói bất mãn trong và ngoài nước trước những phản ứng có vẻ như quá nhu của Việt Nam trước các động thái của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Ngoại trừ những tuyên bố phần nhiều là có tính toán về mặt ngoại giao và thường được để cho giới lãnh đạo cấp cao Việt Nam về bên Đảng lên tiếng, cộng với những tuyên bố vừa cứng rắn, doạ dẫm, vừa phủ dụ lôi kéo của phía Trung Quốc được thể hiện qua tờ Hoàn cầu Thời báo, thì khó có thể tưởng tượng được kịch bản 1 này lại được Việt Nam lựa chọn. Hai lựa chọn còn lại (giữ thăng bằng, đu dây, hay liên minh với Mĩ) thường gây nhiều tranh cãi nhất, và sẽ là trọng tâm mà tôi phân tích ở đây. Do vậy, trong bài báo này tôi sẽ đặt mối quan hệ này vào một bối cảnh rộng hơn với việc khu biệt hoá thành 6 lực lượng trên sân khấu chính trị châu Á – Thái Bình Dương hiện nay: 1/ Việt Nam – 2/ Trung Quốc – 3/ Hoa Kỳ – 4/ Đông Nam Á – 5/ Các cường quốc bậc trung hoặc từng là siêu cường có mối ràng buộc gần với những động thái giữa ba bên (Việt – Trung – Mỹ) bao gồm Ấn Độ, Nhật, Hàn Quốc, Australia, và Nga – 6/ Liên Âu và phần còn lại của thế giới nói chung. Sau khi phân tích những vấn đề nội tại trong sự phát triển của Việt Nam và mối quan hệ giữa Việt Nam với các lực lượng còn lại, tôi sẽ cố gắng đi tới câu trả lời là một lựa chọn nước cờ cho Việt Nam.
Về cơ bản, mối tương tác giữa các lực lượng nêu trên là mối tương tác dựa trên sự ràng buộc giữa giá trị và lợi ích.[i] Mối quan hệ giữa Việt Nam với các lực lượng còn lại do vậy cần được các nhà hoạch định chính sách nhìn nhận trong mối tương tác giữa giá trị và lợi ích này. Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào một thế giới toàn cầu hoá, không quá khó để xác định và đánh giá bình diện giá trị: đó là các giá trị về tự do, dân chủ và luật chơi quốc tế. Đó là các yếu tố cần thiết vừa đem lại chính “giá trị” và “lợi ích” cho người dân trong nước, vừa tạo nên “quyền lực mềm” cho quốc gia với tư cách là một đối thủ trong cuộc chơi toàn cầu. Bình diện còn lại, “lợi ích,” mới là yếu tố khó giải quyết vì bản chất của con người – xét ở cấp độ cá nhân cũng như một thực thể lớn hơn và trừu tượng hơn là quốc gia – là lòng tham. Lòng tham này được kích thích hay chế ngự dựa vào các yếu tố, thứ nhất là thực lực của bản thân từng đối thủ, và thứ hai là các “giá trị.” Nếu một lực lượng nào đó trên bàn cờ chính trị này bị chi phối quá lớn bởi bình diện “lợi ích” và bất chấp cả bình diện “giá trị,” lúc đó tất yếu nảy sinh mâu thuẫn và xung đột với các lực lượng còn lại. Các thế lực có thực lực yếu hơn, do vậy thường nhấn mạnh bình diện “giá trị,” dựa vào “giá trị” để bảo vệ mình, tất nhiên đồng thời với đó là tranh thủ thời gian để phát triển thực lực, tăng sức mạnh thực tế hỗ trợ cho cuộc cạnh tranh.
Trong thời gian qua, có thể quan sát thấy Việt Nam đã có những bước đi khá khôn ngoan và đúng hướng trong việc nhấn mạnh “giá trị” đồng thời ra sức củng cố và phát triển thực lực của mình. Bên cạnh việc mua sắm thêm nhiều vũ khí hiện đại để xây dựng một lực lượng quân đội ngày càng tinh nhuệ như là những biểu hiện cụ thể nhất của việc phát triển thực lực, ít nhất là đủ sức răn đe đối thủ, việc Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu thông qua luật biển vào cuối tháng 6 vừa rồi với những điều chỉnh cho phù hợp hơn với luật quốc tế, chính là những điều chỉnh khôn ngoan để phát triển bình diện “giá trị,” tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Đó chính là những động tác cụ thể trong chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước thực hiện theo nguyên tắc tự lực tự cường mà Việt Nam đã quá thấm thía trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Song đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá, cộng với một thực tế là thực lực của mình còn rất yếu nếu so sánh với Trung Quốc sát cạnh như một gã khổng lồ và tham lam, những động tác trên là không đủ nếu thiếu đi những tương tác với các lực lượng bên ngoài còn lại trong sơ đồ nêu trên. Vấn đề cần đặt ra, do vậy, là phải đánh giá được “giá trị,” “lợi ích” và ý đồ của mỗi thế lực nêu trên trong cuộc chơi để từ đó có những bước đi hợp lí trong quan hệ với từng đối tượng.
Cho đến thời điểm này thì có thể nói không quá khó để nhận ra ý đồ, tham vọng của từng bên trong mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Với Việt Nam, trước hết là bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình theo đúng quy định của luật quốc tế về phạm vi 200 hải lí của khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; tiếp theo, bảo vệ phần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) mà mình đã chiếm hữu và quản lí liên tục trong lịch sử. Với Trung Quốc, hiện tại khó có thể dám phiêu lưu vào một xung đột quân sự trên biển Đông, song tham vọng lợi ích của nó đã quá rõ ràng: quyết tâm cướp đoạt Hoàng Sa và Trường Sa, biến 80% diện tích biển Đông thành cái ao nhà của mình, từ đó thực hiện tham vọng lớn hơn: dùng biển Đông làm bàn đạp tiến ra xưng hùng với thế giới.
Do vậy, trong mối quan hệ trực tiếp với Trung Quốc, bên cạnh gấp rút trở thành một thực lực đủ mạnh về kinh tế lẫn quốc phòng, Việt Nam cần phải cho Trung Quốc thấy giới hạn của sự hoà hiếu và tính nguyên tắc trong việc quyết tâm bảo vệ chủ quyền của mình. Bên cạnh một số chiến lược đã và đang được các nhà lãnh đạo Việt Nam thực hiện như chiến lược “nhím xù lông,” chiến lược “chống tiếp cận,” Việt Nam cần phải sử dụng đa dạng các phương cách khác nhau như ngoại giao nhân dân, ngoại giao đa phương, tranh thủ nước lớn và cộng đồng quốc tế. Đặc biệt Việt Nam có thể sử dụng truyền thông và tiếng nói của các học giả để nói cho Trung Quốc hiểu rằng Việt Nam sẵn sàng chiến đấu đến cùng một khi bị dồn đến chân tường, rằng gây sự với Việt Nam, Trung Quốc có thể lặp lại sai lầm trong lịch sử: 600 năm trước, bại trận ở Việt Nam đã khiến nhà Minh phải co về cố thủ nội địa và từ bỏ mộng vươn ra đại dương của mình. Lần này cũng vậy, sa lầy vào một xung đột quân sự lâu dài với Việt Nam có thể sẽ khiến Trung Quốc trở nên khốn đốn và tan tành mộng bá chủ toàn cầu.
Trong quan hệ giữa Việt Nam với lực lượng ngoài Trung Quốc, lực lượng số 6, tức “EUvà phần còn lại của thế giới nói chung,” là ở xa nhất và có tác động ít trực tiếp nhất. Song EU với tư cách là một thực thể kinh tế quan trọng và cái nôi của các giá trị toàn cầu như tự do, dân chủ, vai trò của nó cũng không hề nhỏ. Về mặt kinh tế, có thể thấy sự ràng buộc rất lớn giữa EU như là một khu vực đang phải đối diện với những khó khăn rất lớn về kinh tế, và Trung Quốc như là một thế lực kinh tế mới nổi, có dự trữ ngoại tệ rất lớn và một công xưởng sản xuất hàng hoá cho toàn thế giới. Sự phụ thuộc về mặt kinh tế, tài chính của EU và Trung Quốc là điều có thể trông thấy rõ, song không vì thế mà Trung Quốc có thể hoàn toàn khuất phục được EU trong việc ủng hộ các tham vọng quá đáng về lợi ích của mình. Bên cạnh đó, các nước EU cũng ngày càng tỏ ra e ngại Trung Quốc không chỉ như một thế lực hung hãn đang trỗi dậy, mà còn vì bản chất của nó là một sự kết hợp giữa nền toàn trị phi dân chủ với một chủ nghĩa tư bản hoang dã sẵn sàng vi phạm các cam kết về an toàn thực phẩm cũng như về luật lệ quốc tế và về nhân quyền nói chung chỉ để thực hiện các tham vọng lợi ích của mình. Do vậy, trong mối quan hệ với lực lượng này (EU và phần còn lại của thế giới nói chung), Việt Nam cần có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa về kinh tế và chính trị để biến mình thành một địa chỉ hấp dẫn cho quan hệ kinh tế với EU, xây dựng sự ràng buộc lợi ích lớn hơn giữa hai bên. Những cải cách về chính trị cũng là để đi gần hơn với EU và tranh thủ sự ủng hộ của EU trên bình diện “giá trị.”
Các cường quốc bậc trung trong vùng (Ấn Độ, Nhật, Hàn Quốc, Australia, và Nga) ở các mức độ khác nhau đều có xung đột về lợi ích với Trung Quốc và ngày càng cảnh giác trước một Trung Quốc hung hãn. Nhật, Hàn Quốc, Australia và ở một góc độ nào đó là Ấn Độ, đều là đồng minh của Mĩ. Tuy có thể không nói ra trực tiếp, song kiềm chế một nước Trung Quốc độc đảng và tham lam đều là mục tiêu chung của các quốc gia này dưới sự dẫn dắt của Mĩ. Trường hợp của Nga có phức tạp hơn. Nga từng là siêu cường một thời, song với tình hình hiện thời, uy thế ngày xưa đã mất cũng như mối ràng buộc quyền lợi của Nga với Việt Nam và vùng Đông Nam Á không còn trực tiếp thiết thân như xưa, cho nên trong bài toán Việt – Trung hiện nay, tạm thời có thể xếp Nga vào nhóm các cường quốc bậc trung trong vùng này. Nga có quan hệ lợi ích kinh tế mật thiết với Trung Quốc và có thể liên minh tạm thời với Trung Quốc để kiềm chế Mĩ. Song về lâu dài, Nga không thể trở thành đồng minh với Trung Quốc và vẫn luôn cảnh giác với Trung Quốc, không muốn Trung Quốc vươn lên lãnh đạo thế giới. Xét về bình diện“giá trị,” dù hiện thời chính quyền Putin có là một chế độ độc tài được bọc ngoài bởi một lớp nhung dân chủ, thì về lâu dài, xã hội – văn hoá Nga vẫn gần gũi Mĩ – Âu hơn là với Trung Quốc. Chiến lược của Việt Nam do vậy phải không ngừng củng cố quan hệ kinh tế và chính trị với các cường quốc này, lôi kéo các cường quốc này can dự sâu hơn vào vấn đề biển Đông, tăng cường sự ràng buộc về mặt lợi ích với các nước, đồng thời cần cải cách chính trị, phát huy tự do dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của các cường quốc này trên bình diện “giá trị.”
Thực ra hai lực lượng khó giải quyết nhất chính lại là ASEAN và một phần nào đó là Mĩ. Với Asean, trước hết phải có những phương thức ngoại giao khác nhau để các nước trong khối thấy được yêu cầu đoàn kết để tiếng nói chung bởi Trung Quốc sẽ là một thế lực có tiềm năng gây nguy hại không chỉ với những nước có can hệ trực tiếp về mặt lợi ích với Trung Quốc, mà còn đối với cả khu vực và thậm chí là cả khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Song, đối phó với việc Trung Quốc đang dùng quyền lực của cơ bắp lẫn đồng tiền để khiến Asean phải thúc thủ, Việt Nam không thể đủ tài chính và cơ bắp để chạy đua theo cách đó với Trung Quốc. Một chiến lược thu phục lâu dài đối với các nước Asean mà Việt Nam cần tạo ra phải là sự thu phục bằng quyền lực mềm, bằng “giá trị”. Muốn làm được điều đó, bản thân Việt Nam phải chứng tỏ mình sẵn sàng tạo nên và đi theo các “giá trị” ấy, thông qua đó tác động lên những nước đang hoặc có nguy cơ rơi vào vòng tay Trung Quốc, giúp các nước cảnh giác trước những mối lợi trước mắt do Trung Quốc đem lại, và nhận ra rằng các bình diện “giá trị” như tự do, dân chủ, pháp quyền là cái đích tất yếu cần phải đi đến để đảm bảo một sự phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, giúp mỗi quốc gia kia tự xây dựng nên “sức đề kháng” đối với một gã láng giềng khổng lồ, độc tài và tham lam.
Song những diễn biến căng thẳng của diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 19 vừa diễn ra tuần rồi với sự thất bại của cả khối không đưa ra được tuyên bố chung buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam phải thấy rằng với toàn bộ tính chất phức tạp về lịch sử, tôn giáo, chính trị, địa dư,… giữa 10 nước, phải mất một thời gian khá dài, có thể lên tới tầm ít nhất vài thập kỉ, thậm chí là nửa thế kỉ nữa thì ASEAN mới có thể tạo ra được một sự thống nhất như của châu Âu hiện thời. Dựa vào Asean là cần thiết nhưng không đủ, đặc biệt không kịp cho diễn tiến phát triển dồn dập của bàn cờ chính trị khu vực, và cho những tình huống cấp bách có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con bài chốt, chung quy lại, không ai khác, chính là Mĩ.
Với Mĩ, bên cạnh sự khó khăn mà nền kinh tế khổng lồ này đang gặp phải, sự phụ thuộc về mặt kinh tế vào Trung Quốc, Mĩ còn tỏ ra e dè ngại va chạm với Trung Quốc phần nhiều vì những lí do lịch sử: những va chạm và thất bại của Mĩ ở Đông Á (chiến tranh Triều Tiên) và Đông Nam Á (chiến tranh Việt Nam) trong thế kỉ 20 luôn luôn nằm trong thế kình địch với Trung Quốc. Đó vẫn là những vết thương lịch sử khiến Mĩ thận trọng và cân nhắc kĩ cho mỗi hành động trong hiện tại. Trong mối quan hệ Việt – Mĩ, hai bên đã có những bước tiến dài đáng kinh ngạc sau khi bình thường hoá vào năm 1995, song mối nghi kị lẫn nhau vẫn chưa phải là hoàn toàn chấm dứt. Mĩ với tư cách là lãnh đạo của thế giới tự do, ở một mức độ nào đó hẳn vẫn còn cái nhìn nghi ngại về Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam hẳn cũng vẫn còn nghi ngại Mĩ rất nhiều vì vẫn chưa quên nỗi đau về việc bị các cường quốc trong thế kỉ 20 thoả hiệp trên lưng mình, trong đó có Mĩ. Song, quá khứ là bài học cần phải nhớ để rút ra kinh nghiệm cho bài toán hiện tại và tương lai; trong khi đó, xét trên tổng thể, chỉ có Mĩ là lực lượng duy nhất có thể làm đối trọng với Trung Quốc hiện nay.
Như vậy, qua sự phân tích các bình diện “giá trị,” “lợi ích” và ý đồ của từng lực lượng trong sơ đồ trên, có thể đi đến một nhận định: bài toán then chốt nhất trong số các bài toán trên là phát triển mối quan hệ với Mĩ, lấy Mĩ làm đối trọng chính hỗ trợ cho sự đương đầu với Trung Quốc. Và trước hết, vấn đề then chốt trong bài toán then chốt cần giải này là phải cố gắng xoá tan sự nghi ngại đến từ cả hai phía, xây dựng và phát triển lòng tin lẫn nhau.
Làm thế nào để đạt được điều đó? Câu trả lời là: phải làm thế nào để cho hai bên tương hợp về “giá trị” và “lợi ích.” Tương hợp về “lợi ích” gần như đã không cần bàn cãi: bên cạnh yếu tố kinh tế thì xét về mặt địa – chính trị chiến lược, trong khi Việt Nam cần Mĩ làm đối trọng với Trung Quốc, Mĩ cũng rất cần Việt Nam như là một mắt xích quan trọng trong việc thực hiện kiềm chế tham vọng của Trung Quốc để cố gắng giữ ngôi vị bá chủ và tham vọng toàn cầu của mình.
Sự “quyền biến” của Mĩ trong mối quan hệ với hai nước đồng minh của mình là Nhật Bản với Phillipines trong cuộc đối đầu với Trung Quốc vừa qua đưa ra cho Việt Nam những bài học quan trọng: Mĩ sẵn sàng “cắt nghĩa” bản hiệp ước an ninh với Nhật theo hướng có lợi cho Nhật, tuyên bố có trách nhiệm bảo vệ quần đảo Senkaku (mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư Đài) cho Nhật bởi một thực tế thấy rõ là Nhật có thực lực. Trong khi đó, tình hình ngược lại với Phillippines trong vụ xung đột ở bãi đá ngầm Scarborough bởi thực lực của nước này quá yếu, đặc biệt là về mặt quân sự – quốc phòng.
Những cố gắng trong việc giữ thăng bằng giữa hai cường quốc Mĩ và Trung Quốc, kéo các cường quốc khác tham gia vào cuộc chơi để tăng thanh thế cho bản thân, đồng thời bên cạnh đó là những bước đi thận trọng, kín đáo ngày càng gần gũi hơn với Mĩ, là những nước đi khôn ngoan của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Song một vấn đề chiến lược quan trọng mà các nhà lãnh đạo Việt Nam phải thống nhất được với nhau, đó là giữ mối cân bằng này đến mức nào, đằng sau mối cân bằng này là mục tiêu chiến lược nào cần hướng đến. Liệu mối cân bằng này có duy trì mãi được không? Và quan trọng hơn, liệu mối cân bằng này có là giải pháp tối ưu hỗ trợ Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Quốc hay không? Nếu câu trả lời là “không” thì lãnh đạo Việt Nam phải trả lời tiếp câu hỏi: Vậy phải xây dựng mối quan hệ với Mĩ đến mức độ nào mới đủ sức làm thoái lui dã tâm của Trung Quốc và trong tình huống khẩn cấp xảy ra (một cuộc xung đột vũ trang chẳng hạn) thì lập tức có ngay lực lượng hỗ trợ đủ mạnh để đập tan ý chí của Trung Quốc? Trả lời câu hỏi này đồng nghĩa với việc các Việt Nam cần phải xác quyết một mục tiêu chiến lược rạch ròi, phải thống nhất được với nhau và quyết tâm đi tới mục tiêu đó. Mục tiêu đó là gì?
Dự đoán chính trị là một điều rất khó. Trong khoa học chính trị, người ta thường đưa ra các dự báo dựa trên các biến thiên (tham số) là các hành động của mỗi bên trong cuộc chơi chung, theo công thức: nếu các tham số a, b thì sẽ cho ra kết quả X; nếu các tham số là c, d thì sẽ cho ra kết quả Y. Trong bài toán đang đặt ra cho Việt Nam ở đây cũng vậy. Một kịch bản tốt đẹp và có phần lí tưởng là Trung Quốc sẽ gạt bỏ “lợi ích” của mình để tuân theo “giá trị” chung; lúc đó chiến lược giữ thăng bằng của Việt Nam hẳn tiếp tục phát huy tác dụng. Song dựa trên các dữ kiện lịch sử với các tham số như chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc và chủ nghĩa bành trướng đại Hán cũng như diễn biến dồn dập và căng thẳng gần đây, rõ ràng kịch bản trên khó lòng xảy ra. Trung Quốc có vẻ không sẵn sàng từ bỏ “lợi ích” của mình và đồng thời có vẻ không còn che giấu cho tham vọng soán ngôi bá chủ toàn cầu. Do vậy Việt Nam cũng phải sẵn sàng các bước đi cần thiết cho chiến lược của mình trong cuộc chơi này. Theo đó, Việt Nam cần tiếp tục cố gắng giữ thăng bằng trong chừng mực còn thấy nó cần thiết, trong khi đóphải luôn tỉnh táo quan sát và dự báo động thái của đối thủ.Đồng thời, bằng các cách thức không khoa trương gây ồn ào và khó chịu không cần thiết cho đối thủ, Việt Nam càng thân thiết với Mỹ càng tốt để làm sao có thể thiết lập một mối quan hệ Việt – Mỹ có tính đồng minh không chính thức hay có thể gọi là đồng minh dự bị, chẳng hạn như mối quan hệ giữa Mĩ và Singapore hiện nay. Mối quan hệ đồng minh dự bị có sự ràng buộc cần thiết nhất định nào đó về mặt hỗ trợ quân sự giữa hai bên, đồng thời nó có tính bước đệm cho một quan hệ đồng minh chính thức khi cần thiết.
Song vấn đề đặt ra là trong khi khéo léo giữ mối thăng bằng, phải làm sao để cho các bước đi này có tiến độ nhanh hơn. Để đạt được tiến độ cần thiết cũng như là một mục tiêu chiến lược cần hướng đến, Việt Nam còn nhiều việc cần phải làm. Xét từ mối quan hệ giữa “giá trị” và “lợi ích” mà tôi nêu trên, rõ ràng lời giải là phải làm cho “giá trị” và “lợi ích” giữa hai bên trở nên tương hợp. Mĩ kêu gọi Việt Nam tham gia vào TPP và Việt Nam đã có phản hồi tích cực, sẵn sàng tham gia, đó là những bước đi rất quan trọng và hữu ích. Mĩ cũng nên có một số hành động mang tính biểu tượng, chẳng hạn huỷ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam để thứ nhất, thể hiện sự hợp tác toàn diện về mặt quân sự; thứ hai, nó như là một sự khuyến khích động viên cho Việt Nam tiếp tục cải cách; và thứ ba, rõ ràng Mĩ cũng thu được mối lợi của việc xuất khẩu vũ khí mà lâu nay, bất chấp lệnh cấm trên của Mĩ, Việt Nam vẫn có nguồn cung ứng hữu hiệu từ Nga.
Song mong muốn là một chuyện, thực tế lại là chuyện khác và phức tạp hơn nhiều. Không phải cứ muốn kết ước đồng minh là lập tức có thể đặt bút kí kết ước đồng minh. Bên cạnh việc phải có những nước đi khéo léo và tiệm tiến, tránh gây sốc cho một Trung Quốc khổng lồ ngay sát bên, thì còn một trở ngại khác quan trọng hơn cần phải giải quyết: dù sao đi nữa cũng khó có thể tưởng tượng được việc Mĩ lại có một đồng minh là một quốc gia cộng sản và là kẻ thù cũ của nhau. Đó là những trở ngại khó vượt qua cho việc đi đến kết ước đồng minh. Nhưng nếu cả hai bên cùng có thiện chí trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau thì vẫn có thể đạt được mục đích. Phạm vi bài viết này không cho phép bàn quá rộng, song có thể dễ dàng đồng ý với nhau là nền kinh tế phát triển mạnh và vững chắc, bền vững chỉ khi được hỗ trợ bởi một thể chế dân chủ, và sự vững mạnh về kinh tế phải đi kèm với sự giàu có, sự tự do và các giá trị dân chủ cho mỗi người dân.[ii] Nếu bước đi này xảy ra, Mĩ có thể (và nên) phản hồi theo hướng tích cực là hình thành một quan hệ đồng minh dự bị với Việt Nam để khi chín muồi, mối quan hệ đồng minh dự bị này có thể dễ dàng phát triển ở mức cao hơn.
Một khi đã phân tích thấu đáo từng lực lượng trên bàn cờ chính trị thế giới, dự đoán các kịch bản khác nhau cho cuộc chơi này, từ đó xác quyết cho mình chiến lược cần theo đuổi và cái đích cần đi tới, thì việc đạt được kết quả hay không chỉ còn phụ thuộc vào ý chí và sự khôn ngoan của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Một điều tưởng đã nhàm, song chung quy lại, rõ ràng cái cần phải làm ngay và làm xuyên suốt, vẫn là tiếp tục dân chủ hoá đất nước, xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự với một thể chế tam quyền phân lập. Đó là điều cần thiết để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh đặng theo đuổi triết lí tự lực tự cường đã được đúc rút qua chiều dài lịch sử chống ngoại xâm.

[i] Xem thêm: Lê Nguyên: “’Giá trị Mỹ’ và ‘lợi ích Mỹ’ trong ván bài ‘cách mạng hoa Nhài’,” link: http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/2121-gia-tri-myq-va-qloi-ich-myq-trong-van-bai-qcach-mang-hoa-nhaiq.html
[ii] Xem thêm bài viết “’Giá trị Mỹ’ và ‘lợi ích Mỹ’ trong ván bài ‘cách mạng hoa Nhài’” ở link trên, đặc biệt là đoạn kết.
Theo: VHNA

Clinton ‘phá bĩnh’


Ngoại trưởng Mỹ Clinton bị Tân Hoa Xã chỉ trích nặng nề sau khi vừa kết thúc chuyến thăm châu Á
BBC
-
Hãng tin Tân Hoa Xã của Trung Quốc hôm thứ Bảy ngày 14/7 đã đăng bài xã luận chỉ trích chuyến Á du mới đây của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton là gây căng thẳng trên Biển Đông.
Dưới tiêu đề ‘Sự can dự của Mỹ không có lợi cho ổn định của khu vực châu Á-Thái Bình Dương’, Tân Hoa Xã cho rằng việc Clinton ‘nhúng mũi’ vào Biển Đông ‘một lần nữa làm dậy sóng Nam Hải’.
‘Bao vây ngoại giao’
“Gây sức ép chiến lược không có lợi cho sự phát triển của châu Á cũng như lợi ích lâu dài của Hoa Kỳ,” bài xã luận viết.

Theo Tân Hoa Xã thì chuyến công du của bà Clinton đến một loạt nước láng giềng của Trung Quốc như Afghanistan, Nhật Bản, Mông Cổ, Việt Nam, Lào và Campuchia là ‘chẳng gì khác hơn mà hiển nhiên là bao vây ngoại giao’ đối với Trung Quốc.
Tân Hoa Xã cáo buộc ngoại trưởng Mỹ đã ‘chõ mũi’ vào vấn đề Biển Đông với việc nhiều lần nhấn mạnh lợi ích của Mỹ trên vùng biển này và công khai hậu thuẫn các quốc gia Asean đơn lẻ ‘làm phức tạp thêm tranh chấp’.
“Trong nhiều thập nhiên qua, vấn đề Nam Hải đại thể vẫn yên ổn vì Trung Quốc và các quốc gia có tranh chấp khác đều tìm kiếm giải pháp dựa trên sự đàm phán hữu hảo song phương.”
Tân Hoa Xã
Cũng theo hãng tin này thì chính Hoa Kỳ là thủ phạm gây ra sóng gió trên Biển Đông trong thời gian qua.
“Trong nhiều thập nhiên qua, vấn đề Nam Hải đại thể vẫn yên ổn vì Trung Quốc và các quốc gia có tranh chấp khác đều tìm kiếm giải pháp dựa trên sự đàm phán hữu hảo song phương,” bài xã luận viết.
Tuy nhiên kể từ khi Ngoại trưởng Clinton loan báo rằng Washington có ‘lợi ích quốc gia’ ở Biển Đông và sẽ quay trở lại châu Á thì ‘căng thẳng đã ngầm sục sôi’.
Bài báo đưa ra các dẫn chứng cho việc căng thẳng bùng phát là Philippines ‘đòi chủ quyền ở Hoàng Nham Đảo’, ‘trò hề của Nhật Bản để mua lại Điếu Ngư Đảo’ và ‘Viêṭ Nam thực thi một đạo luật khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo Tây Sa và Nam Sa’.
“Nhiều sự việc đã chứng tỏ rằng trên vấn đề Nam Hải đã có những đổi thay to lớn kể từ khi Washington ‘xoay trục’ quân sự và kinh tế về phía châu Á – một chiến lược mà nhiều người cho rằng là nỗ lực của Mỹ nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực,” bài báo cáo buộc.
‘Hành động một chiều’
Clinton gặp Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng
Tân Hoa Xã cáo buộc Mỹ đang ve vãn các nước láng giềng của Trung Quốc để ‘bao vây’ họ
Theo phân tích của Tân Hoa Xã thì mặc dù ‘Hoa Kỳ một mặt tuyên bố không đứng về phía ai nhưng mặt khác họ lại có những hành động một chiều’.
Tân Hoa Xã viện dẫn việc Washington ‘không những tiến hành tập trận chung với Philippines mà còn bán hai chiến hạm lớp Hamilton cho nước này’ kể từ khi bùng phát cuộc đối đầu ở bãi cạn Scarborough hồi tháng Tư để chứng minh cho lập luận trên.
Một bằng chứng nữa, theo Tân Hoa Xã, là việc Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ mới đây loan báo thay đổi cán cân sự hiện diện của hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương và Đại Tây Dương theo tỷ lệ 5-5 như hiện nay thành 6-4 nghiêng về Thái Bình Dương cho đến năm 2020.
“Tục ngữ Trung Quốc có câu ‘Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng’. Mặc dù Trung Quốc đã cố gắng kiềm chế và nhấn mạnh giải quyết tranh chấp bằng con đường ngoại giao nhưng một số nước vẫn tiếp tục thách thức Trung Quốc mà điều này chắc chắn có liên quan với việc tái can dự của Washington vào khu vực,” bài xã luận cáo buộc.
“Washington nên hiểu rằng quay trở lại châu Á bằng cách diễu võ giương oai về quân sự, can thiệp về ngoại giao trong các tranh chấp song phương là sai lầm và thiển cận.”
Tân Hoa Xã
Cũng theo Tân Hoa Xã, thì Bắc Kinh ‘hoan nghênh’ việc chuyển hướng của chính quyền Tổng thống Barack Obama sang châu Á-Thái Bình Dương ‘miễn là điều này có lợi cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực’.
Tuy nhiên, những gì xảy ra hai năm qua đã cho thấy kết quả ‘rõ ràng là đi ngược lại ổn định khu vực’, Tân Hoa Xã nhận định.
“Washington nên hiểu rằng quay trở lại châu Á bằng cách diễu võ giương oai về quân sự, can thiệp về ngoại giao trong các tranh chấp song phương là sai lầm và thiển cận,” bài xã luận viết.
“Sai lầm vì nó tạo điều kiện cho đối đầu thay vì hợp tác mà điều này thì không có lợi cho sự phát triển của châu Á và cũng đi ngược lại lợi ích lâu dài của Mỹ.”
Bài xã luận kết luận rằng Mỹ nên làm việc nhiều hơn để thúc đẩy ‘hợp tác cùng có lợi’ còn hơn là ‘gây rối loạn cho hòa bình và phát triển’ của khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

 

Quân đội “Nhân dân” Trung Quốc có sức mạnh như thế nào?

Peter Mattis
-
Những luận điệu nóng giận phát ra từ các nhà bình luận quân sự của Trung Quốc trong mấy tháng qua khiến một số nhà quan sát tự hỏi, có phải chăng lực lượng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (QĐTQ) đang đóng vai trò ngày càng lớn trong chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia của Bắc Kinh? Bước ngoặt mà nhìn bề ngoài có vẻ quyết liệt hơn của Trung Quốc – dường như phù hợp với quan điểm của các học giả phái diều hâu – ngay cả có thông minh đi chăng nữa, thì cũng làm cho câu chuyện ảnh hưởng quân sự ở Trung Nam Hải trở thành một vấn đề quan trọng để có thể hiểu chính sách của Mỹ nhằm định hình Trung Quốc có thật sự hiệu quả không.
Liệu có thể giải thích ảnh hưởng có vẻ ngày càng tăng của QĐTQ ở Bắc Kinh mà không cần nhắc đến những lời lẽ thường xuyên sôi sục của phái bình luận diều hâu – những người mà quyền lực của họ trong trường hợp tốt đẹp nhất thì cũng vẫn khó hiểu – như hai nhà bình luận rất năng suất là Dương Nghị (Yang Yi) và La Nguyên (Luo Yuan)? Câu trả lời ngắn gọn là có, và số bằng chứng chứng minh điều này đang nhiều dần lên. Tuy nhiên, những hàm ý về ảnh hưởng của QĐTQ thì vẫn chưa rõ ràng.
Thứ nhất là, vào thời điểm khi mà các phe phái chính trị dường như ít gắn kết và ít đúng đắn hơn trước, thì các nhà quan sát nên lưu ý rằng PLA kiểm soát chỉ hơn 20% Ban Chấp hành Trung ương Đảng – cơ quan mà về hình thức là có quyền chọn ra Bộ Chính trị và Ban Thường vụ Bộ Chính trị. QĐTQ có thể không phải là lực lượng chi phối việc bổ nhiệm; tuy nhiên, họ có quyền phủ quyết những gương mặt được lựa chọn cho vị trí lãnh đạo cấp cao, tại Đại hội Đảng 18 mùa thu tới đây. Điều này có khả năng đặt quân đội vào vị trí có quyền ép các lực lượng khác phải nhượng bộ, hứa hẹn, và khuyến khích các tham vọng chính trị nhằm ủng hộ ưu thế của QĐTQ.
Tuy vậy, giới quan sát nên thận trọng, không nên đi quá sâu vào chuyện này – ít nhất là nếu không có những nghiên cứu xa hơn. Nghiên cứu lớn và gần đây nhất về các phe phái trong QĐTQ được xuất bản cách đây gần 20 năm, và chúng ta không biết đến sự gắn kết của Ban Chấp hành Trung ương của QĐTQ như một khối quyền lực. Hơn thế nữa, QĐTQ chỉ có hai ghế trong Bộ Chính trị, không có ghế nào trong Ban Thường vụ, do đó vai trò của quân đội trong chính trị có thể là gián tiếp và không nhất thiết là có ảnh hưởng hàng ngày.
Thứ hai là, như ông David Finkelstein thuộc Tập đoàn CNA đã nói từ đầu năm nay, QĐTQ cũng có thể lãnh đạo bằng các lựa chọn chính sách. Trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1995-1996, QĐTQ phải thừa nhận trước các lãnh đạo dân sự rằng họ hầu như không làm gì được Đài Loan, cũng không làm gì được lực lượng quân đội do Mỹ triển khai tới khu vực. Ngày nay chuyện đó không còn nữa. Cho dù là bàn về việc sơ tán công dân Trung Quốc khỏi Lybia, việc tuần tra chống cướp biển ở Vịnh Aden, hay về những năng lực mới để cưỡng chiếm (nhưng không tiếp quản) Đài Loan, QĐTQ đều đã chứng tỏ rằng họ có nhiều thứ để dâng cho Trung Quốc. Những người có thể đưa ra các lựa chọn và giải pháp thì gần như luôn luôn chiến thắng trên bàn ra quyết định, trước những người chỉ đem lại trở ngại.
Thứ ba là, QĐTQ đang ngày càng chuyên nghiệp hóa như một lực lượng chiến đấu, với một dải rất rộng khả năng tác chiến trên đất liền, biển, đường không, và tên miền không gian. Nhằm hiện đại hóa, quân đội Trung Hoa đang cố gắng phá vỡ các ứng dụng kiểu “ống khói” (stovepipe services) ở các miền (domain) này. Sự tập trung ngày càng lớn của Trung Quốc vào thao tác chính xác, bên cạnh một “hệ thống của các hệ thống có năng lực vận hành” để vượt qua những “ống khói” đó, sẽ giúp cho QĐTQ chiến đấu theo một cách khác về căn bản. QĐTQ đã liên tục làm giới quan sát ngạc nhiên vì tốc độ hiện đại hóa của họ; tuy nhiên, họ vẫn là một quân đội đang trong thời kỳ quá độ, đứng trước những thay đổi lớn về lý thuyết và công nghệ. Điều đó có nghĩa là hiểu được QĐTQ có thể làm gì là một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều, so với khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam vào năm 1979, hoặc là khi họ gửi “các tình nguyện viên nhân dân” sang Hàn Quốc vào năm 1950.
Thứ tư là, lãnh đạo dân sự ngày nay hầu như không có kinh nghiệm trực tiếp nào với các vấn đề quân sự, và phải phụ thuộc hoàn toàn vào QĐTQ để có thể có được chuyên môn quân sự, và ở một mức độ thấp hơn là chuyên môn chính trị-quân sự. Không như Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu Bình, Hồ Cẩm Đào và người nhiều khả năng sẽ kế nhiệm ông – Tập Cận Bình – không có kinh nghiệm trực tiếp với việc sử dụng sức mạnh quân sự để đạt mục đích chính trị, và có lẽ sẽ phải phụ thuộc vào lực lượng khác để có được kinh nghiệm ấy. Trong một hệ thống vốn dĩ cố ý giới hạn quyền dân sự tiếp cận với quân sự, điều ấy có nghĩa là Hồ và Tập phải phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm ít ỏi về quân sự của họ mỗi khi cần đưa ra đánh giá về những hành động thích hợp nào đó. Họ có biết phải hỏi những câu gì không? QĐTQ có đưa ra các quyết định sáng suốt, không chứa biệt ngữ gì, để họ hiểu không? QĐTQ và Ban Quân sự Trung ương phản ứng nhanh tới mức nào trước các đề nghị tăng cường cung cấp thông tin?
Cũng chưa rõ liệu Hồ và Tập có thể tìm được sự ủng hộ về tri thức khi họ cần hay không. Cho dù là việc tìm kiếm các bài báo quân sự trên tờ Hạ tầng Tri thức Quốc gia Trung Hoa, hay là nghiên cứu tủ sách Trung Quốc, các tác giả của QĐTQ cũng giữ địa vị thống trị trong nghiên cứu chiến lược. Ngược với Anh hay Mỹ, Trung Quốc dường như không có một giới phân tích quốc phòng dân sự phát triển mạnh.
Chẳng hạn, nếu quan chức Nhà Trắng muốn có một bản đánh giá khác ngoài bản của Lầu Năm Góc, họ có thể đi tới bất kỳ cơ quan nào trong số một loạt viện nghiên cứu, viện tư tưởng (think tank) – ví dụ Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách, Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược, và Trung tâm An ninh Hoa Kỳ mới – và nhận được những bản phân tích quân sự được làm rất chuyên nghiệp. Trong khi đó, nếu Trung Nam Hải muốn rung cây, cũng chẳng biết liệu lãnh đạo Trung Quốc có thể có được bản đánh giá độc lập nào từ QĐTQ không. Điều này tạo cho QĐTQ quyền lực cực lớn – thậm chí họ không cố ý như thế – để che đậy những gì họ đang thực sự làm và ảnh hưởng đầy đủ của các hành động của họ, mà không cần xem xét kỹ lưỡng.
Giới quan sát thường nhắc đến vụ thử tên lửa chống vệ tinh hồi năm 2007, coi đó như dấu hiệu cho rằng quá trình ra quyết định ở Trung Quốc rất thiếu sự phối hợp. Một số người có ý nói là lãnh đạo dân sự cấp cao đã không được thông tin – hoặc không được thông tin đầy đủ. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu QĐTQ chỉ trình cho Hồ Cẩm Đào một mẩu giấy đề nghị “Chúng ta có nên tiếp tục cuộc thử nghiệm đã lên kế hoạch đối với chương trình X không?”. Đám công chức quan liêu có thể che giấu được rất nhiều thứ, trừ phi có ai đấy có đủ thời gian và sức lực để tìm hiểu mọi chuyện. Và vào thời điểm đó thì Hồ là vị lãnh đạo dân sự duy nhất có quyền lực đối với QĐTQ.
Ảnh hưởng của QĐTQ có lẽ đang gia tăng, nhờ một số lý do. Bất kể những người tham gia có là ai, QĐTQ có vị trí rất vững vàng để có thể áp đặt lợi ích và quan điểm của họ lên bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn còn chưa rõ liệu có tồn tại một tiếng nói có tính chất tổ chức về chính trị đảng phái và chính sách quốc gia – không chỉ là lợi ích vật chất của QĐTQ và biện pháp chiến đấu – và liệu tiếng nói đó có nhất quán ở tất cả các chi nhánh khác nhau của quân đội không?
Ngay cả khi QĐTQ có tiếng nói lớn hơn trong chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia của Trung Quốc, những gì QĐTQ nói cũng không rõ ràng. Đương đầu với các khó khăn trong hiện đại hóa là việc nhiều khả năng sẽ khiến QĐTQ phải tập trung vào nội bộ, và có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy QĐTQ có một nỗ lực, một quyết tâm tự đánh giá. Ủy ban Quân sự Trung ương do Chủ tịch Hồ đứng đầu đã phê chuẩn bản đánh giá quan trọng nhất, gọi là “hai điểm bất tương hợp” – năng lực của QĐTQ không phù hợp để chiến thắng trong một cuộc chiến tranh tin học hóa và không phù hợp để đáp ứng các sứ mệnh lịch sử của QĐTQ. Điều này nghe không giống giọng diều hâu, cái giọng luôn đòi lãnh đạo phải hành động. Và những ngụy biện tinh vi của các lý thuyết QĐTQ cùng các đổi mới công nghệ của họ cho thấy các tướng lĩnh không phải là những kẻ hiếu chiến, đang mong muốn một cách tiếp cận thô bạo.
Mối lo lắng thực sự nên là, liệu các lãnh đạo dân sự của Trung Quốc có kinh nghiệm tri thức hay là năng lực để tiếp cận thông tin quân sự độc lập với QĐTQ, để kiểm soát sức mạnh và ảnh hưởng ngày càng gia tăng của QĐTQ. Đảng kiểm soát súng – 1,8 triệu trong tổng số xấp xỉ 3 triệu quân nhân QĐTQ và cảnh sát có vũ trang là đảng viên – nhưng vấn đề ở đây không phải là QĐTQ có bất lương không, có quan tâm tới Trung Nam Hải không. Vấn đề là các nhà hoạch định chính sách dân sự Trung Quốc, đặc biệt Hồ và Tập, thật sự hiểu năng lực và giới hạn của QĐTQ cũng như những lựa chọn QĐTQ đưa ra đến mức nào – và sự hiểu đó ảnh hưởng tới các quyết định liên quan tới chiến tranh và hòa bình ra sao.
Tác giả: Peter Mattis là chủ bút tờ China Brief của Quỹ Jamestown.
Người dịch: Đỗ Quyên
Nguồn: The Diplomat
Bản tiếng Việt © BS 2012

 Kinh tế Việt Nam nửa cuối năm: Điểm đáng đáng chú ý


RFA. Khu nhà đang xây dựng ở Hà Nội. Hình chụp hôm 23/6/2012.
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2012-07-15
Với nhiều lo lắng hơn là lạc quan trong nửa đầu năm, liệu kinh tế Việt Nam nửa cuối năm sẽ có những dấu hiệu tích cực hơn và những chính sách điều tiết của Chính phủ sẽ phát huy tác dụng.
Bước sang quý 3 với những kết quả ảm đạm, trong đó, tình trạng công ty phá sản, giải thể lên tới gần 30,000, hàng tồn kho ứ đọng chiếm quá một phần tư tổng lượng hàng hóa, dòng tín dụng cho các doanh nghiệp bị nghẽn mạch và tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng lên tới 9 – 10%, kinh tế Việt Nam được ví là “vừa nín thở vừa bước qua khó khăn.” Mục tiêu lớn là tốc độ tăng trưởng GDP trong nửa đầu năm đã không đạt được chỉ tiêu 6 – 6,5%, vì thế, nửa cuối năm, gánh nặng đạt được mục tiêu này chắc chắn rất nhiều thách thức.

Thế nhưng, trên bình diện khác, mục tiêu lớn nhất là khống chế lạm phát về một con số xem ra khả quan, khi chỉ số giá hàng tiêu dùng giảm mạnh, đồng thời, Chính phủ cũng đã bắt đầu áp dụng những bước cắt giảm lãi suất, khơi thông dòng vốn.

Lạc quan cho doanh nghiệp

sieu-thi-sach-250.jpg
Siêu thị ở Hà Nội. RFA photo.
Hẳn thắc mắc mà nhiều người đang tự đặt ra là liệu 6 tháng cuối năm, đám mây u ám bao trùm lên các doanh nghiệp có được cải thiện hay không? Đặt câu hỏi này với TS Nguyễn Minh Phong, Trưởng phòng phân tích của Viện Kinh tế – Xã hội Hà Nội, chúng tôi được ông cho biết:
“Bức tranh về doanh nghiệp thì trong vòng 1-2 tháng nữa, trong quý 3 vẫn có thể còn khó khăn do nối tiếp của quý 1 và quý 2, nhưng sang quý 4 thì sẽ khá hơn, sáng sủa hơn, do gắn liền với xu hướng hạ thấp nhanh lãi suất cho vay, cũng như việc mở rộng đầu tư công hay giải ngân các dự án trước đây đang bị đình trệ. Cùng với nữa là xu hướng các doanh nghiệp vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất. Nên triển vọng cuối năm, đặc biệt là quý 4 sẽ có nhiều dấu ấn và động thái chuyển sáng tốt hơn so với những quý đầu năm.”
Bức tranh về doanh nghiệp thì trong vòng 1-2 tháng nữa, trong quý 3 vẫn có thể còn khó khăn do nối tiếp của quý 1 và quý 2, nhưng sang quý 4 thì sẽ khá hơn, sáng sủa hơn, do gắn liền với xu hướng hạ thấp nhanh lãi suất cho vay, cũng như việc mở rộng đầu tư công hay giải ngân các dự án trước đây đang bị đình trệ.
TS Nguyễn Minh Phong
Tuy nhiên, theo phân tích của TS Nguyễn Minh Phong, để doanh nghiệp có được viễn cảnh lạc quan hơn, thì biện pháp tháo gỡ khó khăn phải đến từ cả hai phía, vừa từ Nhà nước và vừa từ chính bản thân các doanh nghiệp. Nhà nước phải giảm 3 gánh nặng chính cho doanh nghiệp đó là nghĩa vụ tài chính hay những khoản thuế đóng góp, gánh nặng lãi suất, để doanh nghiệp có vốn làm ăn và gánh nặng về thể chế chính sách. Theo giới phân tích, trong 4 tháng trở lại đây, Chính phủ liên tục giảm cả lãi suất huy động lẫn cho vay, và gần đây nhất là quyết định hạ lãi suất những khoản vay cũ xuống khoảng 15%, thì đây là một tín hiệu đáng mừng.
Trong khi đó, bản thân phía doanh nghiệp cũng phải “tự cứu mình” bằng cách “cắt lỗ,” rà soát lại các sản phẩm bị ứ đọng và phải thay đổi tư duy chụp giật, lấy việc an toàn và hiệu quả làm tiêu chí đầu tiên trong vấn đề xác định những hoạt động trong tương lai.

Giảm lãi suất, mở rộng tín dụng

Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ngân hàng nhà nước Việt Nam. RFA
Trong khi nguồn tín dụng, vốn vay vẫn đang là rào cản chính đối với các doanh nghiệp, thì ở chiều ngược lại, ngân hàng lại không dám cho vay tiền ra vì lo sợ nợ xấu tiếp tục tăng cao. Vòng luẩn quẩn doanh nghiệp thiếu tiền kinh doanh, ngân hàng thừa tiền nhưng mất lòng tin vẫn chưa được giải quyết. Theo TS Nguyễn Minh Phong để khắc phục điều này, Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng giảm lãi suất cho vay và mở rộng tín dụng ở những lĩnh vực trọng điểm, trong khi vẫn tiếp tục kiểm soát sát sao hoạt động này ở những lĩnh vực không ưu tiên như bất động sản hoặc chứng khoán:
“Tiền thì nhiều nhưng ngân hàng không dám cho vay vì sợ nợ xấu tiếp tục tăng lên, các doanh nghiệp không dám vay vì sợ trả lãi suất cao cũng như những hợp đồng sản xuất mới, và nợ xấu trên thực tế thay vì 3,3% hay 3,5% như thông báo trước đây, thì Thống đốc nói lên tới 10%. Nếu tiếp tục cho vay như cũ, theo cả định hướng cơ cấu cũng như mức độ lãi suất như cũ thì chắc chắn sẽ tiếp tục tích lũy các nợ xấu này.
Ngân hàng Nhà nước vừa rồi tiến hành điều chỉnh khá mềm dẻo và đúng hướng, giảm lãi suất cho vay, nới rộng cho vay ở những lĩnh vực khác, tiếp tục thắt chặt cho vay ở những lĩnh vực không cần thiết và tăng cường kiểm soát hơn những ngân hàng có nợ xấu cao.”

Chưa rơi vào giảm phát

hang-hoa-chat-dong-250.jpg
Hàng hóa chất cao trong một siêu thị ở Hà Nội hôm 11/6/2012. RFA photo
Ngoài phải giải quyết hai mảng chính là tín dụng nghẽn mạch và nợ xấu gia tăng, thì vấn đề lạm phát cũng vẫn là trọng tâm chính trong chính sách vĩ mô nửa cuối năm nay. Mặc dù, lần đầu tiên chỉ số giá tiêu dùng âm trong vòng 38 tháng, nhưng theo nhiều nhà phân tích thì nền kinh tế vẫn chưa rơi vào giảm phát. Lạm phát 6 tháng đầu năm so với cuối năm ngoái, tăng chỉ dưới 3%, tuy vậy, nếu so với cùng kỳ năm ngoái thì vẫn còn ở mức trên 12%, hiện tượng chỉ số giá tiêu dùng giảm trong đầu năm chủ yếu gắn liền với tổng cầu trong nước sụt giảm.
Vấn đề đang làm Chính phủ đau đầu chính là lượng tiền tín dụng và lượng tiền ngân hàng Nhà nước bơm ra nhiều, nhưng không vào đến doanh nghiệp, không vào đến người dân, vì thế nó không góp phần vào làm tăng khả năng thanh toán của người dân cũng như của doanh nghiệp, khiến tình trạng ứ đọng hàng hóa và người dân thì thắt chặt chi tiêu do bị sức ép về thất nghiệp hoặc giảm thu nhập. Những lý do này, khiến cho hàng hóa không tăng lên chứ không phải là bị giảm. Rõ ràng, nếu so với các nước khác CPI chỉ ở mức 2%, thì Việt Nam vẫn ở mức cao. Chưa kể còn một số mặt hàng như điện, nước, tiền giá thuê nhà và một số mặt hàng khác cơ bản vẫn có xu hướng gia tăng. Vì lẽ đó, nếu cho rằng Việt Nam rơi vào giảm phát có lẽ còn quá sớm.

Cần chú ý gì?

vietcombank-250.jpg
Ngân hàng Vietcombank ở Hà Nội. AFP Photo/ Hoang Dinh Nam.
Vậy những chính sách vĩ mô trong nửa cuối năm sẽ được Chính phủ tập trung hướng tới cũng như Việt Nam cần phải lưu ý gì khi thực hiện các biện pháp này, TS Nguyễn Minh Phong kết luận:
“Chúng tôi cho rằng có những điểm cần phải hết sức lưu ý. Một là, chống cực đoan về chính sách đặc biệt là từ thắt chặt sang nới lỏng một cách tùy tiện, những luồng vốn trong tháng tới phải được chuyển vào đúng đối tượng và trong đúng địa bàn, với các điều kiện cần thiết để đảm bảo tăng trưởng chứ không phải nuôi dưỡng hoạt động đầu cơ hay những ấp ủ nguy hiểm bùng nổ trong thời gian qua.
Đó là những điểm nhấn từ nay cho đến cuối năm, nếu làm tốt như vậy, thì nửa cuối năm sẽ tốt hơn nửa đầu năm.
TS Nguyễn Minh Phong
Thứ hai nữa, là phải đặc biệt chú ý khắc phục lợi ích nhóm hay tư duy nhiệm kỳ và cả duy ý chí từ giờ cho đến cuối năm.
Thứ ba nữa, cần phải giảm thật nhanh 3 gánh nặng cho doanh nghiệp, gánh nặng về mặt nghĩa vụ tài chính, gánh nặng lãi suất, gánh nặng về mặt thể chế, những gánh nặng trung gian, những chi phí bôi trơn gắn liền với nhũng nhiễu của quan chức, bộ máy, cũng như những thủ tục. Đó là những điểm nhấn từ nay cho đến cuối năm, nếu làm tốt như vậy, thì nửa cuối năm sẽ tốt hơn nửa đầu năm.”
Có thể nói kinh tế Việt Nam năm nay là một trong những năm rất khó khăn, vẫn còn rất lớn sức ép của đề án tái cấu trúc nền kinh tế cũng như vấn đề liên quan đến xử lý lợi ích nhóm và chống tham nhũng. Thêm vào đó, khu vực tư nhân phải đóng vai trò là động lực và trở thành ưu tiên hàng đầu trong thời gian tới. Kết luận trên của nhiều vị chuyên gia cao cấp chắc chắn là lời nhắc nhở về món nợ mà Chính phủ Việt Nam còn dang dở khi kết thúc năm nay.

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét