Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012

LƯỢM TIN TỨC

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
Nỗ lực bảo vệ ngư dân chính là bảo vệ chủ quyền Quốc gia (Nguyễn Phú Trọng). “Trước những hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam một cách có chủ đích của phía Trung Quốc ngày càng gia tăng, chúng ta cần có những biện pháp cụ thể, cương quyết và đồng bộ. Đấu tranh chính trị – ngoại giao, đấu tranh tại toà án quốc tế. Như thế, ngư dân mình mới yên tâm làm ăn trong chính vùng biển – trời của Tổ quốc.”  Ra Hoàng Sa cứu 11 ngư dân (VNN).  - Niềm vui đoàn tụ của 11 ngư dân được cảnh sát biển cứu (VNE). - Cùng ngư dân bám biển Hoàng Sa(KTNT).  - 234 chủ tàu cá được hỗ trợ máy thu trực canh (VOV).
Đổi mới trong tuyên truyền về biển đảo quốc gia (ĐĐK).   - Tiếp sức “ tự đề kháng” cho giới trẻ về nhận thức biển, đảo (Infonet) để khỏi “bị động trong đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch”? Không hẳn! Mà có thể do tiếp thu tinh thần bài: Thua đau TQ về giáo dục chủ quyền biển đảo.
ASEAN 20: “Một cộng đồng, một vận mệnh” (VOV). - ASEAN nỗ lực đẩy mạnh giải quyết tranh chấp biển với Trung Quốc: ASEAN to ‘intensify efforts’ on China sea disputes (AFP/Economic Times).
- Việt Nam tái khẳng định chính sách về nhân quyền: Vietnam Reaffirms Policy On Human Rights (Bernama).
Hà Nội: Cảnh sát vụt dùi cui vào người vi phạm? (VNN). - Trung tá CA vụt dùi cui vào mặt người không đội mũ bảo hiểm? (ĐV).  - Công an phường bị tố vụt dùi cui vào người vi phạm (VTC).  -Mặc áo cảnh sát cơ động lái xe máy bằng chân (VNE). “Đại tá Hưng cho hay, việc điều khiển xe máy như vậy là phản cảm và tối kỵ trong tác phong, điều lệ của CSC” chứ không phải là vi phạm luật giao thông, gây nguy hiểm cho người dân đi đường?
KINH TẾ
Sản xuất, xuất khẩu tiếp tục gặp khó (TBKTSG). VĂN HÓA-THỂ THAO
Viết tiếp bài “Phiên bản gốc của tượng đài Thánh Gióng đã không còn!”: “Tôi đã đề nghị chủ đầu tư đừng phá, nhưng chỉ hai tiếng sau phiên bản gốc đã trở nên tan vụn” (VH).
Văn hóa blog (TBKTSG).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Giáo dục Hà Nội: Cần trên 70 nghìn tỷ và 12 triệu m2 đất (ND). XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
QUỐC TẾ



Mỹ tăng cường sự hiện diện ở Đông Nam Á

Tác giả: Jacob Zenn
Người dịch: Đỗ Quyên
Ngày 4-4-2012
Washington – Ngân sách sắp cắt giảm, những quan niệm vẫn còn rơi rớt về chủ nghĩa đế quốc của Mỹ, và cách hành xử không hay của quân đội Mỹ ở châu Á, tất cả đã làm cho chữ “base” (căn cứ) trở thành một từ có bốn chữ cái (*) ở hầu hết các nước Đông Nam Á. Nhưng khi Washington đặt lại khu vực vào tầm ưu tiên chiến lược, thì có nhiều điều ước linh hoạt mới cho phép quân đội Mỹ lấy lại chỗ đứng ở đây, mà chẳng hề kích động tinh thần dân tộc chút nào.
Nhiều nước Đông Nam Á hoan nghênh sự hiện diện của quân đội Mỹ, nhất là trước những hành động khiêu khích và yêu sách hung hăng của Trung Quốc tại các vùng tranh chấp trên Biển Đông (nguyên văn: Biển Hoa Nam). Tuy nhiên, bất kỳ tín hiệu nào cho phép Mỹ thiết lập căn cứ vĩnh viễn ở đây, giống như ở Okinawa (Nhật Bản) hay Căn cứ không quân Clark trước kia ở Philippines, đều bị các nhà lập pháp gạt bỏ ngay lập tức.
Mỹ có kế hoạch củng cố quân đội ở Đông Nam Á, khi mà chiến tranh ở Iraq và Afghanistan đã lắng dần; và muốn làm đối trọng với Trung Quốc đang trỗi dậy. Kế hoạch này của họ đòi hỏi phải có sự ưu tiên về chính sách. Mỹ sẽ tăng cường sự hiện diện của mình bằng cách dồn lực vào tập trận chung, luân phiên triển khai lính đến khu vực, đóng quân, và giảm bớt các thỏa ước để tránh việc phải lập ra nhiều căn cứ tốn kém.
Các điều ước ký với Úc và Singapore là mẫu hình cho vị thế mới của Mỹ ở khu vực. Mỹ đã có kế hoạch ở bốn địa điểm khác nhau ở Úc, trong mối quan hệ quân sự song phương năng động nhất của Washington tại khu vực.
Ở Brisbane, một căn cứ mới cho hạm đội Úc sẽ đủ sức đón những chuyến đổ bộ của lính Mỹ từ chiến hạm và tàu ngầm. Ở Perth, căn cứ hải quân HMAS Stirling được mở rộng sẽ có khả năng tiếp nhận các tàu sân bay Mỹ, cũng như chiến hạm và tàu ngầm. Ở Darwin, dự kiến có tới 2.500 lính thủy quân lục chiến Mỹ sẽ tham gia làm nghĩa vụ luân phiên. Ở đảo Cocos (Keeling), nằm giữa tuyến đường nối Úc và Sri Lanka, theo dự kiến, một sân bay sẽ được nâng cấp để chứa máy bay trinh sát P-8 và máy bay không người lái Global Hawk.
Mỹ cũng dự định đặt bốn tàu mới tại Singapore, là các tàu chiến vùng duyên hải của hải quân Mỹ, và tăng số lượng những chuyến đổ bộ, tăng số máy bay trinh sát. Thêm vào đó, họ sẽ nâng cấp quan hệ quân sự với Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Brunei; việc này sẽ bổ trợ thêm cho các kế hoạch mà Mỹ đã có với Úc, Singapore và Phililippines.
Tuy trọng tâm của Mỹ trong khu vực từ lâu vẫn là Đông Bắc Á, nhưng hướng nhìn của Mỹ giờ đây đang phần nào chuyển dần sang Đông Nam Á. Trong một cuộc họp về các vấn đề quân sự châu Á-Thái Bình Dương, tổ chức tại Washington vào ngày 27 tháng11, Đô đốc Robert Willard, hạm đội Thái Bình Dương Mỹ, nói: “Tôi nhìn vào nơi các lực lượng đóng quân và nơi họ cần phải có mặt hàng ngày, thì chúng tôi có xu hướng thiên về Đông Bắc Á. Và khi chúng tôi nhìn vào Đông Nam Á, Nam Á, chúng tôi thấy một áp lực đè lên Hạm đội Thái Bình Dương, đó là áp lực phải triển khai và duy trì quân đội ở đó hàng ngày”.
Ông nói thêm: “Các sáng kiến như Úc hay Singapore đã đưa ra sẽ cho phép chúng tôi luân phiên triển khai quân từ những địa điểm gần hơn và liền kề Đông Nam Á hơn. Các sáng kiến này cho Hạm đội Thái Bình Dương cơ hội để có thể hiện diện ở đó một cách thuận lợi hơn, và không phải phụ thuộc quá nhiều vào việc phải đóng quân với chi phí rất lớn trong khu vực… trong khi việc lập căn cứ ở Đông Nam Á thì lại không được ưa thích”.
Tái tập trung vào Đông Nam Á là một phần nhỏ trong “thay đổi chiến lược” của Tổng thống Barack Obama đối với châu Á-Thái Bình Dương năm 2011. Sự thay đổi chính sách này bao gồm một loạt hoạt động: Ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á, thành lập một phái đoàn tham dự Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Jakarta, xác nhận một đại diện đặc biệt kiêm người điều phối chính sách ở Myanmar, và thắt chặt quan hệ song phương của Hoa Kỳ với các nước trong khu vực.
Cũng với tinh thần tham gia đó, Mỹ lần đầu tiên dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á với tư cách thành viên chính thức, vào tháng 11 năm ngoái ở Bali, Indonesia. Các sáng kiến đã góp phần phản bác lại quan điểm chính thức trước đó ở Đông Nam Á là Mỹ đã xao nhãng Đông Nam Á vì còn mải theo đuổi “cuộc chiến chống khủng bố” trên toàn cầu và tại Đông Bắc Á – khu vực mang tính chiến lược song lại hay thay đổi hơn.
Điểm nhấn Philippines
Nấc thang chính trong chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á là Phillippines, thuộc địa cũ của Mỹ, nơi Hoa Kỳ đặt hai căn cứ quân sự chiến lược là căn cứ không quân Clark và căn cứ hải quân Subic, bắt đầu từ sau Thế chiến II cho đến năm 1991, khi Quốc hội Philippines bỏ phiếu bác bỏ một thỏa thuận mới giữa hai nước về các căn cứ này. Năm 1999, Hiệp định về thăm viếng quân sự Philippines-Hoa Kỳ đi vào hiệu lực, điều chỉnh hành vi của quân đội Mỹ trên đất Philippines, đặc biệt trong thời gian thi hành nghĩa vụ quân sự.
Hiệp định này đóng vai trò như một hình thức thay thế cho hai căn cứ quân sự lúc trước, bởi lẽ theo đó, quân đội Mỹ có thể được triển khai ở Philippines để tiến hành hoạt động gọi là “huấn luyện”. Kể từ năm 1998, quân Mỹ đã tham gia tập trận định kỳ và thường xuyên ở Philippines, với quân số lên tới 5.000 người. Tháng 11-2002, Philippines đồng ý để Mỹ tích trữ và cài đặt trước trang thiết bị trong nước mình.
Trong “cuộc chiến chống khủng bố”, hiệp ước ký với Philippines cũng cho phép Mỹ triển khai máy bay không người lái đến giúp Lực lượng Vũ trang Philippines (AFP) xác định nơi ẩn náu của Abu Sayyaf, trên hòn đảo xa ở phía nam, Mindanao. Việc này được tiết lộ vào tháng 2-2012 khi một thiết bị cảm biến, do dân địa phương cài vào chỗ Abu Sayyaf và Jemaah Islameeyah (JI) trốn, đã chỉ cho máy bay của Mỹ biết vị trí của đám khủng bố.
Sau đó, Không quân Philippines tổ chức ném bom, giết chết lãnh đạo của JI là Zulkifli bin Hir và Muawayah, lãnh đạo Abu Sayyaf là Gumbahali Jumdail, cùng 12 chiến binh Abu Sayyaf khác. Thiết bị nổi bật nhất trong số máy bay không người lái của Mỹ ở Philippines có tên là là “Đặc nhiệm chung Philippines” (JSOTF-P), trụ sở ở Zamboanga nhưng hoạt động trên toàn lãnh thổ đảo Mindanao.
Sau chiến dịch được máy bay không người lái hỗ trợ này, một số nhà lập pháp Philippines đã phàn nàn về việc Mỹ sử dụng máy bay không người lái trên lãnh thổ Philippines. Sự không chắc chắn về khả năng Mỹ có đóng quân ở Philippines lâu dài hay không cho thấy những rắc rối mà Mỹ phải đương đầu trên toàn khu vực. Tại Philippines, thường xuyên có tố cáo về chuyện lính Mỹ lạm dụng tình dục, trong đó có một vụ hiếp dâm rất tai tiếng vào năm 2006, liên quan đến một hạ sĩ Mỹ và một phụ nữ Philippines, vụ này đã bị đưa ra tòa xét xử.
Mặc dù những hành động tội phạm cuối cùng luôn được chứng minh là ngoại lệ, được miễn dịch trước luật pháp, nhưng người dân địa phương vẫn lấy chúng ra làm ví dụ để cho thấy tại sao sự có mặt của quân đội Mỹ ở gần nơi họ ở không hề được hoan nghênh. Tại Palawan – hòn đảo còn hoang sơ của Philippines – người ta cũng sợ rằng quân Mỹ đóng ở đây để bảo vệ an ninh thì ít mà để bảo vệ lợi ích thương mại của Mỹ thì nhiều: Mỹ sẽ bắt đầu thăm dò khai thác dầu khí và các tài nguyên khác ở đây.
Hồi tháng 1 vừa qua, quan chức quốc phòng Philippines đã đi thăm Washington để tiến hành đàm phán chiến lược, và đạt được thỏa thuận tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như an ninh hàng hải, quốc phòng, thương mại, và cứu hộ khi có thảm họa. Trong khi đôi bên còn bàn thảo về việc quân Mỹ “luân phiên” và “thường xuyên” có mặt ở Philippines, thì vấn đề thiết lập một căn cứ vĩnh viễn, dưới bất kỳ hình thức nào, không được đặt ra trong chương trình nghị sự.
Các ưu tiên chiến lược mới, gồm cả việc cân bằng lực lượng trước sự nổi lên của Trung Quốc và an ninh trên những vùng biển quan trọng sống còn như Biển Đông, đã thúc đẩy Mỹ tập trung trở lại vào Đông Nam Á. Trong khi nhiều nước Đông Nam Á phàn nàn là bị Mỹ “xao nhãng” trong những năm 2000, giờ đây các cuộc thảo luận đang nhanh chóng chuyển theo hướng xem xét liệu sự trở lại của Mỹ, nhằm có một chỗ đứng nhẹ nhàng hơn mà linh hoạt hơn, cuối cùng sẽ đưa đến bình yên hay xung đột trong khu vực.
Jacob Zenn là cố vấn pháp lý trong lĩnh vực luật cho xã hội dân sự và là nhà phân tích về các vấn đề quốc tế, đặc biệt ở Đông Nam Á, Trung Á và Nigeria. Ông vốn là một học giả phản biện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở Indonesia năm 2011.
——–
(*) Nói đến những “từ có bốn chữ cái” là nói đến những từ dùng để chửi thề.


Phe quân sự ở Myanmar có thể từ bỏ quyền lực?

Trefor Moss
Người dịch: Nguyễn Tâm
03-04-2012
Khó có thể tưởng tượng một sự thay đổi chiến thuật nào kịch tính hơn. Chưa đầy 5 năm trước, quân đội Myanmar, còn được gọi là Tatmadaw, đã “đón chào” những lời kêu gọi thay đổi của dân chúng bằng dùi cui và súng đạn, khét tiếng với sự đè bẹp “cuộc Cách mạng Áo Cà Sa” một cách tàn bạo. Nhưng cuối tuần vừa qua, những người trong bộ quân phục ka-ki đã làm người ta chú ý bởi sự vắng mặt của họ trong suốt cuộc bầu cử, được xem là tương đối tự do, dường như đã giúp bà Aung San Suu Kyi và các ứng cử viên khác của Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) giành được ghế trong quốc hội.
Tuy nhiên, sẽ ngây thơ khi cho rằng định chế từng nắm quyền lực tuyệt đối trong suốt nửa thế kỷ qua, giờ đây lại ngoan ngoãn chấp nhận vai trò đứng bên lề so với phe dân chủ Myanmar. Giới quân sự Myanmar vẫn là diễn viên chính trong các vấn đề quốc gia, quá trình cải cách chỉ có thể thành công nếu giới quân sự Myanmar được tạo cảm giác rằng, họ cũng có khả năng trở thành một trong những kẻ chiến thắng trong quá trình chuyển đổi của đất nước. Điều này có hai ý nghĩa: giới quân sự Myanmar phải được đền bù cho sự mất mát quyền lực chính trị; và chính quyền dân sự phải biết kiềm chế, tránh vượt qua bất kỳ lằn ranh đỏ nào được vạch ra bởi giới lãnh đạo quân sự.
Nếu nền kinh tế Myanmar sẵn sàng cất cánh với nhịp độ như một số nhà kinh tế hiện đang dự đoán, thì việc “trả nợ” cho giới quân sự không có gì khó khăn. Ngân sách quốc gia Myanmar công bố trong tháng 3 bao gồm khoản tăng lương trên quy mô lớn dành cho quân đội: đó là động cơ tốt cho giới quân sự chóp bu gắn bó với chính quyền của tổng thống Thein Sein, đặc biệt nếu xét theo điều kiện và mức lương tồi tệ mà quân đội Myanmar hiện đang phải chịu đựng. Không kém phần quan trọng so với ngân sách quốc phòng chính thức chính là những hoạt động kinh doanh mạo hiểm “ngoài sổ sách” mà quân đội Myanmar tham gia. Các hoạt động kinh doanh này thậm chí sẽ trở nên sinh lợi nhiều hơn khi nền kinh tế quốc gia bắt đầu mở cửa. Và nếu những tiền lệ tại Indonesia là điều có thể noi theo, việc nhắm mắt làm ngơ trước những kế hoạch kiếm tiền đầy mờ ám này sẽ là điều dù không muốn, nhưng phải chấp nhận đối với chính phủ theo khuynh hướng cải cách trong ngắn hạn đến trung hạn.
Trong khi lôgic của một cuộc đảo chính quân sự thường rất dễ hiểu, thì lôgic nguyên nhân vì sao một chính quyền quân sự lại chọn đường lối từ bỏ quyền lực, là một điều phức tạp hơn rất nhiều. Các học giả phải mất hàng năm nữa để dựng nên một bức tranh hoàn chỉnh, lý giải tại sao công cuộc cải cách được cởi trói và giải phóng bất ngờ đến như vậy ở Myanmar, sau rất nhiều thập niên bị giới quân đội ngăn chặn.
Tuy nhiên, trong lúc giới quân sự Myanmar rõ ràng đã nhìn nhận nhu cầu cần phải từ bỏ độc quyền chính trị, nhưng người ta không hề nghi ngờ rằng phe quân sự vẫn muốn giữ lại một số ảnh hưởng chính trị. Như tướng Min Aung Hlaing, tổng tư lệnh quân đội, từng tuyên bố trong thời gian trước khi cuộc bầu cử bổ sung diễn ra, rằng “thực hiện nhiệm vụ đối với nền chính trị quốc gia” vẫn là một trong những ưu tiên của quân đội Myanmar. Do đó, nỗ lực tách quân đội Myanmar ra khỏi chính trị có vẻ là điều nhạy cảm hàng đầu cần tránh trong số những lằn ranh đỏ, ít nhất trong vài năm.
Vấn đề nào khác có thể khiêu khích giới quân sự, khiến họ phải tạm ngưng tiến trình dân chủ hóa của Myanmar? Quy mô nhỏ của cuộc bầu cử bổ sung gần đây – chỉ vỏn vẹn có 45 ghế quốc hội được đưa ra cho các đảng tranh cử, trong tổng số 664 ghế ở Thượng viện và Hạ viện – rõ ràng không đủ để gây ra một sự phản ứng của quân đội. Một tỷ lệ thấp đến mức khó chấp nhận.
Tuy vậy, cuộc tổng tuyển cử vào năm 2015 có thể là câu chuyện hoàn toàn khác. Một chiến thắng vang dội của NLD – kết cục rất có khả năng xảy ra, như đã thấy qua kết quả cuộc bầu cử bổ sung – có thể kích hoạt sự tái lập màn đảo chính như năm 1990, trừ phi giới quân sự được bảo đảm chắc chắn về sự định hình trong tương lai của Myanmar và chỗ đứng của quân đội trong tiến trình đó. Những gì giới quân đội Myanmar chắc chắn không thể chấp nhận là sự thua trận trong tay kẻ thù mà họ đã và đang chiến đấu ròng rã suốt 50 năm – cụ thể là các lực lượng, trong thế giới quan của họ, muốn làm tan rã đất nước Myanmar. Bằng tất cả năng lực cải cách của mình, đương kim tổng thống Thein Sein, trước đây từng là một vị tướng, có lẽ cũng chia sẻ cách nhìn này.
Do vậy, có thể không cần đặt câu hỏi về việc Aung San Suu Kyi và đảng NLD của bà được phép nắm quyền mà lại thiếu sự tác động, làm cho giới quân sự tin tưởng vào chương trình nghị sự của NLD. Điều này bao trùm lên các vấn đề: đàm phán với các nhóm sắc tộc thiểu số, vai trò chính trị trong tương lai của quân đội, bảo đảm các nhân vật của chế độ cũ và gia đình họ sẽ không bị truy tố, và có thể còn nhiều lời hứa khác không dễ chịu chút nào. Khi bà Aung San Suu Kyi chuẩn bị tranh cử vào quốc hội, dư luận có rất nhiều nghi ngờ rằng, liệu mức độ tin cậy nào đó có tồn tại giữa bà và phe quân đội hay không. Bà còn ba năm để xây dựng nhiều nhịp cầu, hay mạo hiểm lâm vào một cuộc chiến thảm khốc với một lực lượng quân sự đang có cảm giác bất an và mất đi sự kiểm soát sau kỳ bỏ phiếu hồi cuối tuần qua.
Nguồn: The Diplomat

THÔNG TẤN XÃ VIỆTNAM

TRANH CHẤP BIN ĐÔNG: LUẬT PHÁP QUỐC T THEO CÁCH NHÌN NHẬN CỦA TRUNG QUỐC

Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ hai, ngày 2/4/2012
(phần đầu)
TTXVN (Bắc kinh 28/3)
Tạp chí “Tri thức thế giới” số 4 có bài viết của tác giả Trương Hải Văn, Tiến sĩ luật học, Nghiên cứu viên, Phó ban nghiên cứu chiến lược phát triển biển, Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc tuyệt đối không được tự rơi vào chiếc bẫy, theo đó cứ mỗi khi bàn đến luật quốc tế là cho rằng Trung Quốc đuối lý nên phải né tránh. Theo tác giả bài viết thì từ lâu nay, Trung Quốc vẫn áp dụng chính sách kiềm chế, không làm cho vấn đề Nam Hải (Biển Đông) nóng lên, không muốn nói đến, thậm chí là né tránh nhưng thực tế Trung Quốc tuyệt đối không phải là vì không có căn cứ pháp luật. Nội dung như sau:
Ngày 27-1-2012 Ngoại trưởng Philippin Rosario đã đưa ra tuyên bố xác nhận tin từ một số báo chí trước đó về việc Philippin cho phép Mỹ mở rộng đóng quân tại nước này. Trong tuyên bố cua Rosario còn nói đến việc Philippin sẽ cùng với Mỹ tổ chức diễn tập quân sự hỗn hợp nhiều hơn. Ngoài ra, Bộ trưởng Quốc phòng Philippin Voltaire T.Gazmin cùng ngày cũng cho biết Chính phủ Philippin đang xem xét chấp nhận đề nghị của Mỹ để cho quân đội Mỹ bố trí tàu chiến và tàu trinh sát mới hơn. Ông Voltaire T.Gazmin nói “nếu thiếu sức mạnh răn đe này thì lãnh thổ của chúng tôi sẽ bị xâm lược. Hôm nay đã có người láng giềng tốt đó (nước Mỹ), chúng tôi sẽ không thể tiếp tục bị lừa gạt nữa”.
Trước biểu hiện trên của Philippin, các chuyên gia bình luận rằng điều này có thể sẽ có hiệu ứng kiểu mẫu nào đó trong số các nước hữu quan ở Nam Hải, khiến cho tình hình khu vực này phức tạp hơn.
Trước đó ngày 14/1 tại Bắc Kinh, Trung Quốc và các nước ASEAN đã tổ chức Hội nghị quan chức cấp cao lần thứ tư về việc thực hiện “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”, các bên đã nhất trí cho rằng cần nắm vững thời cơ có lợi nhân kỷ niệm 10 năm ký kết, thúc đẩy thực hiện toàn diện “Tuyên bố” nói trên. “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” đã tồn tại được 10 năm nhằm mục đích “tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, đẩy mạnh hợp tác, cùng bảo vệ hòa bình ổn định Nam Hải” nhưng vẫn cần phải được “thúc đẩy” và tiếp tục “đẩy mạnh” hơn nữa. Để đẩy mạnh hợp tác thực chất, tại hội nghị các nhà lãnh đạo Trung Quốc và ASEAN lần thứ 14 tháng 10 năm ngoái, một trong những đề xướng của Thủ tướng Ôn Gia Bảo về việc làm sâu sắc thêm hợp tác thực chất giữa Trung Quốc và ASEAN là mở rộng hợp tác thực chất trên biển, Trung Quốc sẽ thành lập Quỹ hợp tác trên biển Trung Quốc-ASEAN, đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường biển, liên hệ thông suốt với nhau, an ninh hàng hải và cứu hộ trên biển, tấn công tội phạm xuyên quốc gia. Trung Quốc đã đầu tư 3 tỉ nhân dân tệ cho quỹ này.
I- Tình hình Nam Hải hiện nay rốt cuộc là thế nào?
1/ Nhìn nhận vấn đề Nam Hải từ những gốc độ khác nhau
Tác giả bài viết cho rằng nếu nhìn từ góc độ chính trị quốc tế và quan hệ giữa các quốc gia thì tình hình Nam Hải vẫn ổn định. Nói như vậy cũng có nghĩa là quan hệ giữa các nước khu vực Nam Hải cùng nước ngoài khu vực như Mỹ… với Trung Quốc, vẫn đang duy trì quan hệ chính trị, ngoại giao bình thường, khả năng xảy ra xung đột quân sự ở Nam Hải không lớn. Nhưng nếu nhìn từ góc độ khác thì vấn đề sẽ rất nhiều.
Ví dụ, xét từ góc độ kiểm soát và sử dụng quyền phát ngôn thì hai năm trở lại đây, vấn đề Nam Hải bị nhào nặn trở thành một trong những vấn đề nóng ở khu vực. Trước năm 2010 chỉ cần Trung Quốc phản đối mạnh thì dù các nước xung quanh Nam Hải hay ngoài Nam Hải cũng đều không thể công khai bàn vấn đề tranh chấp Nam Hải tại các cơ chế hay hội nghị mang tính khu vực như Diễn đàn Khu vực ASEAN. Một số nước ASEAN như Việt Nam… cùng với Mỹ, Nhật Bản… (là các nước ngoài khu vực), có thể tìm ra những tình huống và cơ hội để ngang nhiên bày đặt vấn đề Nam Hải, thậm chí chỉ trích Trung Quốc, Trung Quốc về cơ bản đều bị động và đáp lại một cách giản đơn, chưa bao giờ chủ động gây chuyện. Tại Diễn đàn khu vực ASEAN năm 2010, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc cũng là không kìm nén được mới phản bác lại cái gọi là ngôn luận về “bảo vệ tự do hàng hải ở Nam Hải” của Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton. Nói tóm lại, quyền phát ngôn của Trung Quốc trong vấn đề Nam Hải hiện nay là bị động, đương nhiên đó chủ yếu bắt nguồn từ chính sách tự kiềm chế và chừng mực của chúng ta.
Xét từ góc độ khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên thì vài năm gần đây, theo con số thống kê chưa hoàn toàn đầy đủ, mỗi năm các nước ven Nam Hải đã khai thác một khối lượng đến trên 5 triệu tấn dầu khí ở vùng biển tranh chấp thuộc Nam Hải, trong khi Trung Quốc đến nay còn chưa có lấy một giếng dầu ở vùng biển tranh chấp này. vấn đề vẫn không chỉ có thế mà một thời kỳ rất lâu trước đó, các nước như Philippin và Việt Nam khi muốn lôi kéo công ty dầu khí của nước phương Tây vào khai thác, thăm dò thường còn kiêng dè đến phản ứng của Trung Quốc, nếu Trung Quốc phản ứng mạnh sẽ có phân thu hẹp khai thác hoặc dịu giọng, còn nay thì mạnh bạo rõ rệt, ngang ngược bày đặt. Ví dụ, hồi tháng 5 tháng 6 năm 2011 cái gọi là vấn đề Nam Hải nóng lên, chính là do Việt Nam bày trò “giặc kêu bắt giặc” mà thành chuyện. Hiện nay Philippin và Việt Nam liên tục lợi dụng việc Trung Quốc băn khoăn không muốn dư luận quốc tế làm ầm ĩ vấn đề Nam Hải, mỗi khi muốn hợp tác với công ty dâu khí phương Tây thăm dò, khai thác ở vùng biển tranh chấp thuộc Nam Hải, các nước này lại tạo dư luận trước, để khi Trung Quốc đưa tàu hải giám đến làm nhiệm vụ ngăn chặn, sẽ tuyên bố Trung Quốc đã gây rắc rỗi cho việc thăm dò khai thác trên biển của họ. Nói như vậy cũng có nghĩa là trước đây Việt Nam và Philippin chỉ vụng trộm khai thác, thăm dò nguồn dầu khí ở vùng biển tranh chấp thuộc Nam Hải, hiện nay không chỉ trắng trợn khai thác mà còn phản công trả đũa, đổ vấy trách nhiệm cho Trung Quốc gây căng thẳng cho tình hình Nam Hải. Đối với hành động nghiêm trọng tương tự như vậy của một số nước xung quanh, Trung Quốc hiện nay chủ yếu vẫn áp dụng phương thức kháng nghị ngoại giao, đồng thời cũng thực thi một số hành động chấp pháp bảo vệ chủ quyền. Tuy nhiên nếu nhìn từ hiệu quả thực tế thì những biện pháp này không đủ để ngăn chặn hoặc làm thay đổi tình hình mà các nước xung quanh cướp đoạt nguồn tài nguyên dầu khí ở vùng biển tranh chấp đang ngày càng mạnh lên.
Xét từ phương diện đánh bắt ngư nghiệp, hiện nay thuyên đánh bắt cá của ngư dân Trung Quốc thường xuyên bị bắt giữ ở Nam Hải và Đông Hải (Biển Hoa Đông). Khi bị nước xung quanh bắt giữ, ngư dân Trung Quốc sẽ bị phạt và tịch thu tàu, bị phạt tiền nặng và phải ngồi tù, đứng trước rủi ro khuynh gia bại sản.
Năm 2011 Nhật Bản và Hàn Quốc mở rộng bắt bớ, thậm chí sẵn sàng áp dụng phương thức bạo lực đối xử với ngư dân Trung Quốc, cuối cùng dẫn đến hậu quả là hai bên đều có người thương vong nghiêm trọng, Trong khi đó, Trung Quốc trước sau vẫn kiềm chế, chưa bao giờ xử phạt nghiêm khắc đối với những ngư dân và tàu cá của một số nước cạnh Nam Hải đánh bắt trái phép.
Xét từ góc độ so sánh lực lượng và xây dựng quan hệ chiến lược, từ năm 2010 đến nay, so sánh lực lượng ở khu vực Nam Hải đã có thay đổi to lớn, quan hệ chiến lược giữa các nước ngoài Nam Hải có bước phát triển mới. Nhìn trên tổng thể, về cơ bản đã hình thành mối quan hệ so sánh lực lượng trong đó một bên do Trung Quốc đứng đầu, bên kia là Mỹ và một số nước quanh Nam Hải như Việt Nam. Mối quan hệ đó được biểu hiện cụ thể qua hai phương diện sau:
Một là, quan hệ giữa thế lực ngoài khu vực và các nước thuộc vùng biển xung quanh Nam Hải ngày càng chặt chẽ hơn. Từ năm 2010 đến nay Mỹ không ngừng gia tăng sự hiện diện quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngoài việc không ngừng che giấu củng cố quan hệ đồng minh quân sự với Hàn Quốc, Nhật Bản và Philippin, đồng thời nhiều lần diễn tập quân sự chung, cuối năm 2011 Mỹ lại tuyên bố ký thỏa thuận với Ôxtrâylia thành lập căn cứ hải quân tại nước này và đưa lính tác chiến đến đóng ở đó. Một số nước cạnh Nam Hải cũng vậy, quan hệ quân sự Việt-Mỹ hiện nay là thời kỳ tốt nhất kế từ chiến tranh Việt Nam đến nay; Việt Nam cũng đã xây dựng và tăng cường quan hệ hợp tác quân sự với Ấn Độ và Nhật Bản, các nước này đều cam kết rõ cần phải giúp Việt Nam nâng cao khả năng quân sự trên biển. Philippin, Inđônêxia cũng lần lượt nâng cấp quan hệ với Nhật Ban, và đã nâng quan hệ lên đến tầm cao đối tác chiến lược, tuyên bố phải bảo vệ “lợi ích chung” ở Nam Hải. Điều đặc biệt phải chú ý quan tâm là các mối quan hệ đối tác chiến lược này không còn là lời nói ngoại giao, mà đã được đưa vào trong hiệp định ký kết chính thức.
Hai là, xét từ tình hình phát triền quan hệ giữa các nước tranh chấp Nam Hải, Việt Nam không ngừng điều chỉnh chiến lược Biển Đông, bao gồm phương châm và sách lược mà Việt Nam đối phó trong tranh chấp Nam Hải, bắt đầu gác lại tranh chấp với các nước khác ở Nam Hải như Philippin, tích cực lôi kéo Philippin và Maỉaixia nhằm mục đích cùng đối phó với Trung Quốc.
2/ Vì sao vấn đề Nam Hải gần đây nóng lên? Xu thế phát triển như thế nào?
Một vấn đề đáng phải suy xét sâu xa là từ thập niên 70 của thế kỷ trước đến nay tranh chấp Nam Hải đã diễn ra hàng chục năm nhưng về cơ bản các nước khác và Trung Quốc đều giữ lập trường giống nhau hoặc tương tự nhau, nghĩa là có tranh chấp nhưng không thổi phồng. Nhưng từ năm 2010 đến nay, vấn đề Nam Hải bị khuấy nóng lên, dường như hai năm qua Nam Hải đang không ngừng xuất hiện tranh chấp mới. Sự thực là, cái gọi là vấn đề Nam Hải hiện nay là bị người ta khuấy lên. Nhưng ai khuấy? Vì sao lại phải khuấy lên như vậy?
Tác giả bài viết này cho rằng việc khuấy cho vấn đề Nam Hải nóng lên là một thủ đoạn mà Mỹ và một số nước tranh chấp Nam Hải đã phối hợp với nhau để giúp Mỹ nhanh chóng can thiệp vào vấn đề Nam Hải, tranh giành ảnh hưởng ở khu vực Nam Hải, và cũng để giúp các nước như Việt Nam tranh đoạt và củng cố lợi ích thực tế ở Nam Hải. Hơn nữa, nhìn từ tình hình hiện nay thì cách làm của các nước nói trên tỏ ra đã rất thành công. Từ năm 2010 đến nay Mỹ và Việt Nam cũng như nước khác đã lợi dụng mặt bằng đối thoại trên nhiều cấp độ của ASEAN, triển khai thế tiến công dư luận đối với Trung Quốc, đã hình thành môi trường dư luận cùng “lên án” Trung Quốc. Xét từ môi trường dư luận hiện nay thì dường như vấn đề Nam Hải là vấn đề mà một bên là Trung Quốc, bên kia gồm có một số nước Đông Nam Á và một số nước khác như Mỹ, Nhật Bản, là cuộc xung đột giữa lợi ích của Trung Quốc và “lợi ích chung” của cả một số nước nói trên ở Nam Hải. Tình hình như trên tỏ ra không phù hợp với sự thực khách quan. Xu thế về so sánh lực lượng như vậy ở khu vực Nam Hải tử trước đến nay chưa hề có.
Vi thế, mục đích làm cho vấn đề Nam Hải nóng lên chính là để bóp méo hình ảnh của Trung Quốc, cô lập Trung Quốc để tạo môi trường dư luận, phục vụ cho Mỹ và Việt Nam cùng các nước tranh chấp Nam Hải khác xây dựng đại liên minh chiến lược chống Trung Quốc, bao vây Trung Quốc ở hướng Nam Hải. Hơn nữa, cho đến cuối năm 2011 liên minh này đã dần có hình hài, tiêu chí trực tiếp nhất là các loại quan hệ đối tác chiến lược đã được kết thành giữa các nước tranh chấp Nam Hải như Việt Nam và Philippin với thế lực ngoài khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ như đã nói trên, đặc biệt là quan hệ hợp tác quân sự không ngừng được tăng cường.
Tuy nhiên các nước này cũng có tính hai mặt rât rõ. Một mặt, về phương diện an ninh, các nước này đều hy vọng dựa vào Mỹ để kiềm chế Trung Quốc, nhưng mặt khác về phương diện kinh tế, ở mức độ khác nhau các nước này phải dựa vào Trung Quốc để có được lợi ích kinh tế thực sự. Có hai ví dụ rõ nhất gần đây, một là tháng 10 năm 2011 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thăm Trung Quốc, trong khi ký kết thỏa thuận nguyên tắc chỉ đạo giải quyết tranh chấp Nam Hải, Chủ tịch nước Việt Nam cũng đồng thời đi thăm Ấn Độ, ký kết thỏa thuận hợp tác giữa hai nước ở Nam Hải. Hai là vào tháng 7 năm 2011 Ngoại trưởng Philippin đi thăm Trung Quốc, sau khi tìm kiếm được lợi ích kinh tế từ Trung Quốc trở về lại lập tức tuyên bố đưa công ty dầu mỏ phương Tây vào khai thác ở khu vực tranh chấp thuộc Nam Hải. Việt Nam và Philippin là các nước cạnh Nam Hải hết sức khéo lợi dụng cơ hội nhà lãnh đạo hai nước đi thăm lẫn nhau, vừa ca ngợi tình cảm hữu nghị với Trung Quốc, lại vừa nhân cơ hội đêt thực hiện hành động thăm dò, điều tra khai thác trên biển, tranh đoạt lợi ích thực tế. Nói tóm lại, trong vấn đề đối phó tranh chấp Nam Hải, một số nước xung quanh có quy hoạch chiến lược và kế hoạch hành động, cũng có sách lược đấu tranh, rất giỏi lợi dụng thiện chí và chính sách kiềm chế của Trung Quốc để mưu tìm lợi ích tối đa ở ngoài khơi Nam Hải.
Đương nhiên không thể phủ nhận được rằng xét từ phương diện lợi ích chiến lược thì các nước cạnh Nam Hải và thế lực ngoài khu vực như Mỹ đều hy vọng dựa vào vấn đề tranh chấp Nam Hải, triệt để làm to chuyện với Trung Quốc.
Ngoài ra, tác giả bài viết cũng cho rằng tính đên cuối năm 2011, tình hình Nam Hải căng thẳng đã diễn biến đến bước ngoặt. Có hai lý do chủ yếu một là mục đích thổi phồng vấn đề Nam Hải của Mỹ và các nước như Việt Nam cơ bản đã đạt được, tức đã tạo ra được môi trường dư luận hết sức bất lợi cho Trung Quốc, cô lập Trung Quốc, xây dựng được đại liên minh chiến lược cùng chống Trung Quốc và bao vây Trung Quốc ở hướng Nam Hải. Hai là từ tháng 1 năm 2012, Campuchia trở thành nước chủ tịch luân phiên mới của ASEAN, ở mức độ nào đó thực tế này sẽ làm yếu đi mức độ lợi dụng các diễn đàn ASEAN để công kích Trung Quốc của Mỹ và Việt Nam.
Tuy nhiên, như mọi người đều biết, việc tranh chấp chủ quyền các đảo, bãi ngoài khơi và hoạch định ranh giới biển là vấn đề khó khăn mang tính toàn cầu. Ví dụ, nước Mỹ cần phải lần lượt đàm phán về khoảng 37 đường biên giới biển với ít nhất 13 nước láng giềng trên biển (là các nước Anh, Hà Lan, Canada, Cuba, Mêhicô, Panama, Vênêxuêla, Nhật Bản, Inđônêxia, Philíppin, Niu Dilân, quần đảo Tây Samoa và Tônga) ở 5 khu vực (châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Á và châu Đại Dương), ngoài phân định đường biên giới trên biển ở vịnh Maine với Canada, phần lớn các đường biên giới còn lại chưa được giải quyết. Nhật Bản cũng tồn tại vấn đề phân định biên giới biển với tất cả các nước láng giềng, và còn có tranh chấp chủ quyền về các đảo với Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Trung Quốc, tất cả đều chưa được giải quyết hoàn toàn.
Xét từ thực tiễn quốc tế thì công việc hoạch định biên giới biển hoặc giải quyết một tranh chấp nào đó về biển, thông thường đòi hỏi thời gian hàng chục năm, là “cuộc chiến lâu dài đặc biệt”. Hơn nữa, với những kiến thức thông thường và là một nguyên tắc quan trọng như mọi người đều biết thì việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia là trách nhiệm chung của các bên tranh chấp, đòi hỏi các bên cùng nỗ lực và có thiện chí, tuyệt đối không phải bất cứ nước đương sự nào đơn phương có thiện chí và kiềm chế mà có thể giải quyết dứt điểm được vấn đề. Vì thế, cũng như rất nhiều vùng biển quốc tế khác, trong thời gian tương đối dài tới đây vấn đề tranh chấp Nam Hải sẽ vẫn là một đề tài quan trọng để các nước hữu quan công kích Trung Quốc, tại vùng biển tranh chấp cục bộ ở Nam Hải khả năng mâu thuẫn bị kích hoạt gay gắt cũng vẫn tiếp tục.
II- Tính chất hp pháp trong chủ trương ca Trung Quốc về quyền li Nam Hải
Hiện nay xuất hiện một luận điệu cho rằng Trung Quốc không chiếm ưu thế pháp lý trong vấn đề Nam Hải. Thậm chí có người còn cho rằng “đường đứt đoạn Nam Hải” của Trung Quốc không có cơ sở luật pháp. Tuy nhiên, sự thực là như thế nào?
Những năm gần đây Mỹ, Nhật Bản cùng với các nước Nam Hải như Philippin, Việt Nam và Malaixia trong những khung cảnh khác nhau đã nhiều lần tuyên bố “phải căn cứ theo luật quốc tế, trong đó có ‘Công ước của Liên hợp quốc về luật biển’ để giải quyết vấn đề tranh chấp Nam Hải”. “Trung Quốc phải tuân thu quy tắc luật quốc tế”, “đường đứt đoạn theo chủ trương của Trung Quốc không phù hợp với ‘Công ước của Liên hợp quốc về luật biển’, thậm chí có một số người gọi là học giả còn đề xuất “phải lấy ‘Công ước của Liên hợp quốc về luật biển’ làm căn cứ để giải quyết vấn đề Nam Hải”. Những cách nói như trên thoạt nghe có vẻ khác nhau nhưng trên thực tế dụng ý và mục đích là như nhau, đó là chỉ trích chủ trương của Trung Quốc về vấn đề Nam Hải là không phù hợp với luật quốc tế, yêu cầu Trung Quốc từ bỏ chủ trương về quyền lợi ở Nam Hải. Nhưng có một sự hiểu biết thông thường cơ bản là luật quốc tế phải yêu cầu các nước tuân thủ chứ không thể chỉ yêu cầu Trung Quốc tuân thủ, Bởi dung lượng bài viết có hạn, tác giả bài viết không thể xuất phát từ góc độ chuyên ngành pháp luật quốc tế để trả lời những vấn đề nói trên, mà chi dẫn một số ví dụ từ hai phương diện để làm rõ vấn đề, xem Mỹ, Nhật Bản, cùng với Philippin đã “tôn trọng” và “tuân thủ” luật pháp quốc tế như thế nào.
1/ Mỹ và Nhật Bản là những vĩ dụ điển hình về không tôn trọng và không tuân thủ “Công ước Liên hợp quốc về luật biển”
Hiện nay cả thế giới đã có hơn 160 nước phê chuẩn “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”, trong đó ngoài bao gồm tuyệt đại đa số các nước ven biển, còn có rất nhiều nước trong nội địa. Tuy nhiên Mỹ là nước đến đâu cũng chỉ trích nước khác không tuân thủ “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” nhưng đến nay vẫn từ chối phê chuẩn Công ước này. Nguyên nhân căn bản là, nếu phê chuẩn thì hải quân Mỹ sẽ bị hạn chế hoặc bị ảnh hưởng ở mức độ rất lớn chứ không thể được tự do hoạt động trên các vùng biển toàn cầu. Vì thế, có một vấn đề khiến người ta rất nghi hoặc là với tư cách là nước không tôn trọng và không phê chuẩn “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”, chỉ chọn những điều khoản có lợi chứ không tuân thủ những điều khoản không có lợi cho mình trong công ước này để thi hành, vậy nước Mỹ có tư cách gì để chỉ trích Trung Quốc là nước đã ký kết tham gia công ước?
Xem xét tiếp Nhật Bản, nước này đã ngang nhiên vi phạm điều 121 trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” quy định rõ về mặt pháp luật các đảo và bãi đảo. Nhật Bản từ lâu đã đầu tư rất nhiều tiền và nhân lực để xây dựng, củng cổ nhân tạo đối với bãi san hô Okinotori mà trên thực tế chỉ là bãi đá (tức không thể có được thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế), diện tích chỉ bằng khoảng “chiếc giường đôi”, hòng biến bãi đá này thành “đảo” theo ý nghĩa pháp luật (tức có thể dựa theo luật pháp để chủ trương vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa). Năm- 2009 Nhật Bản đã nộp lên ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc hồ sơ hoạch định thềm lục địa ngoài 200 hải lý (hoạch định ranh giới kéo dài tối đa của thềm lục địa tự nhiên của nước mình), không những đã chính thức hoạch định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý cho bãi Okinotori, mà còn hoạch định thềm lục địa ngoài 200 hải lý, diện tích lần lượt là hơn 400 nghìn km và hơn 700 nghìn km2, còn lớn hơn nhiều so với cả lãnh thổ của bản thân nước Nhật vốn chỉ khoảng hơn 300 nghìn km2. Đối với việc làm vi phạm rõ rệt “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” nói trên của Nhật Bản, Mỹ không chỉ im hơi lặng tiếng, không một lời đả động đến mà còn bằng mọi cách ngăn cản và phản đổi việc Trung Quốc đề cập vấn đề này tại hội nghị các nước tham gia công ước.
Ngày 16/1/2012, Nhật Bản tuyên bố sẽ đặt tên cho các đảo không người ở trong đó có 4 hòn đảo thuộc quần đảo Điếu Ngư, Trung Quốc đã có bất đồng nghiêm trọng đối với Nhật Bản về vấn đề này, cho biết rỗ mọi việc làm đơn phương đối với đảo Điếu Ngư và các đảo phụ thuộc xung quanh đảo Điếu Ngư đều là hành động trái phép và không có hiệu lực pháp lý. Rất dễ để có thể nhận ra ý đồ của Nhật Bản rằng thông qua phương thức đặt tên trước để biểu thị nước này có chủ quyền đối với các bãi, đảo tranh chấp nói trên, tiếp theo sẽ phỏng theo cách làm đối với bãi Okinotori, coi các bãi đảo không người ở như vậy là những điểm cơ bản về lãnh hải, đạt mục đích quản lý vùng biển Hoa Đông và vùng đặc quyền kinh tế cũng như thềm lục địa ở phạm vi lớn hơn nữa mà họ chủ trương. Trong bối cảnh tự mình rõ ràng không tuân thủ như vậy, Nhật Bản cũng có tư cách gì để “chỉ đạo” nước khác phải tuân thủ luật quốc tế?
2/ Philippin đã vi phạm những luật quốc tế nào?
Hiện nay chủ trương lãnh thổ của Philippin ở các đảo, bãi thuộc Nam Hải gồm hai bộ phận lớn: Thứ nhất, đặt tên cho một số đảo thuộc quần đảo Nam Sa (Trường Sa) thành cái gọi là “quần đảo Kalayaan” để chủ trương thuộc về lãnh thổ của Philippin, Hai là, chủ trương đảo Hoàng Nham của Trung Quốc cũng thuộc về quyền sở hữu của Philippin. Trên thực tế, xét từ góc độ luật pháp quốc tế để nhận định chủ trương của Philippin về những phần lãnh thổ nói trên có hợp pháp hay không thì đó là vấn đề rất đơn giản, tức Philippin hoạch định những đảo, bãi này vào phạm vi lãnh thổ của họ vào lúc nào. về vấn đề này, tác giả bài viết và một số đồng nghiệp đã tiến hành phân tích, nghiên cứu tất cả những pháp luật và điều ước về việc hoạch định phạm vi lãnh thố của Philippin trong lịch sử của nước này. Ví dụ, trong lịch sử, Philippin đã lần lượt từng là thuộc địa của Tây Ban Nha và Mỹ, còn những hiệp ước hoạch định phạm vi lãnh thổ của Philippin khi đó có “Hiệp ước Pari” năm 1898, “Hiệp ước Oasinhtơn” năm 1900; sau khi Philippin độc lập, năm 1951 lại ký hiệp định song phương với Mỹ là “Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philíppin”. Những hiệp ước nói trên đã quy định Mỹ có nghĩa vụ bảo vệ cho lãnh thổ Philippin không bị xãm lược. Vì thế trên thực tế cũng đã phân định phạm vi lãnh thổ của Philipin một cách tương ứng. Tuy nhiên, trong tất cả những hiệp ước nói trên đều không hoạch định cái gọi là “quần đảo Kalayaan” và đảo Hoàng Nham vào trong phạm vi lãnh thổ của Philippin. Trên thực tế, đến năm 2009, Philippin mới cho ra đời dự luật số 2699 (gọi là “Dự luật về vấn đề liên quan đến điểm cơ bản về lãnh hải”), lần đầu tiên mới đưa “quần đảo Kalayaan” và đảo Hoàng Nham vào làm lãnh thổ của Philippin. Như vậy rõ ràng việc làm nói trên của Philippin là phi pháp. Cho dù không xuất phát từ góc độ chuyên ngành về luật quốc tế để phân tích, mà chỉ cần nói theo sự hiểu biết thông thường, nếu một nước thông qua quá trình lập pháp của nước mình là có thể lấy lãnh thổ của nước khác nhập vào cương vực của nước mình, lấy đó làm của mình thì bản đồ thế giới sẽ phải yêu cầu vẽ lại rất nhiều rồi. Hơn nữa, luật quốc tế còn có một quy tắc gọi là xác định ngày tháng then chốt, cũng là nói trước hết phải tìm ra được thời điểm xảy ra tranh chấp, phán quyết rõ sự thực lịch sử trước thời điểm đó là gì, đối tưọng tranh chấp ở vào trạng thái như thế nào, tức là trước khi xảy ra tranh chấp, lãnh thổ đó thuộc về nước nào. Sau khi xảy ra tranh chấp thực tế như thế nào, nước có quyền lợi từ trước đó có phải đã từ bỏ quyền lợi của mình hay không, nước đương sự tranh chấp khác đã áp dụng hành động gì, có hiệu lực pháp lý quốc tế hay không. Sự thực pháp luật không thể bóp méo là: Sau năm 2009, Philippin mới chính thức hoạch định cái gọi là “quần đảo Kalayaah” và đảo Hoàng Nham vào lãnh thổ của nước họ về mặt luật pháp. Dù không nói đến lịch sử lâu dài, chỉ cần nói đến tình hình từ khi thành, lập nước Trung Quốc mới, ngay từ năm 1958 Trung Quốc đã quy định cả bốn quần đảo ở Nam Hải với các đảo khác vào trong phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc rồi. Sau đó, trong “Luật lãnh hải và vùng giáp ranh Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” và trong những lần tuyên bố ngoại giao, Trung Quốc luôn nhấn mạnh chủ quyền của mình đối với các đảo Nam Hải, trong đó có quần đảo Nam Sa và đảo Hoàng Nham, hơn nữa đến nay vẫn chưa bao giờ tứ bỏ. Trên thực tế, năm 2009 Philippin thông qua dự luật nói trên là hành động “có tật giật mình” của kẻ gian, vì Philippin thấy mình căn bản không có cơ sở pháp luật để chủ trương “quần đảo Kalayaan” và đảo Hoàng Nham thuộc chủ quyền của mình nên mới phải cho ra đời dự luật mới này để lấp đi chỗ khuyết thiếu nghiêm trọng này. Nhưng nếu chiểu theo luật pháp quốc tế thì cách làm luật nói trên của Philippin rõ ràng không có được tính hợp pháp, dự luật nói trên cũng tuyệt đối không thể có hiệu lực. Còn nước bảo hộ của Philippin là nước Mỹ lại không có bất cứ ý kiến bình luận gì đối với việc làm như vậy của Philippin…

3/ “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” không thể được dùng để chứng minh thuộc chủ quyền lãnh thổ hoặc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ
 Nhận định vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ hoặc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ phải căn cứ theo các quy tắc và nguyên tắc trong luật quốc tế ở rất nhiều phương diện chứ tuyệt đối không phải quy định trong một công ước nào đó. Đây là một kiến thức thông thường hết sức rõ ràng trong lý luận và thực tiễn về luật pháp quốc tế. Căn cứ luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp lãnh thổ ít nhất bao gồm những quy tắc và nguyên tắc theo luật quốc tế như quy tắc có được lãnh thổ, quy tắc xác định thời gian, quy tắc xác định ngày tháng then chốt, quy tắc không truy ngược quá khứ, nguyên tắc cấm phản ngôn và quy tắc quyền lợi mang tính lịch sử.
Một điều hết sức cần thiết phải chỉ rõ là những quy tắc nói trên đều không phải là quy định trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”. Xét từ quy định trong bản thân “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” thì trong Lời nói đầu của Công ước đã chỉ rõ là “trong điều kiện tính đến chủ quyền của tất cả các nước, xây dựng một trật tự pháp luật về biển…”. Như vậy có nghĩa là trật tự biển được xây dựng theo yêu cầu của công ước nói trên là xuất phát từ một tiền đề, đó là không thay đổi chủ quyền quốc gia đã có.
Một trong những căn cứ của luật quốc tế trong việc phán đoán quy thuộc chủ quyền lãnh thổ là quy tắc có được lãnh thổ, quy tắc này không quy định trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”. Xét từ ý nghĩa lịch sử thì quy tắc có được lãnh thổ đã bao hàm rất nhiều quy tắc liên quan, bao gồm phát hiện, chiếm trước, chiếm lĩnh hữu hiệu và quản lý hữu hiệu v.v., đòi hỏi phải xuất phát từ nhiều góc độ và phương diện để phán đoán một quốc gia có chủ quyền đối với một phần lãnh thổ nào đó có hợp pháp hay không, mọi việc làm của quốc gia đó có hiệu lực theo luật quốc tế hay không. Từ các thời Tống, Nguyên, Thanh đến nay Trung Quốc đã trải qua nhiều thực tiễn qua các thời kỳ xã hội, qua nhiều triều đại, nhất là các đời chính phủ ở thời kỳ cận đại và hiện đại, đặc biệt bao gồm những thực tiễn về việc phát hiện, chiếm trước, quản lý hữu hiệu, đã có được chủ quyền lãnh thổ đối vói các đảo ở Nam Hải một cách hữu hiệu.
Còn một điều vẫn phải nói rõ ràng tiêu chuẩn và yêu cầu về luật quốc tế qua các thời kỳ lịch sử đối với một quốc gia có một lãnh thổ hợp pháp hay không là không giống nhau. Ví dụ, luật quốc tế thời cổ đại là ai có sức mạnh cưỡng chiếm, người ấy sẽ có được lãnh thổ, luật quốc tế thời cận đại cũng cho phép dùng vũ lực cưỡng đoạt chủ quyền lãnh thổ. Chẳng hạn như sau khi chiếm lĩnh nhiều đảo ở Nam Thái Bình Dương, nước Pháp đã có được chủ quyền ở những đảo đó. Nhưng luật quốc tế ở thời kỳ hiện đại là cấm dùng vũ lực để có được lãnh thổ, ví dụ rõ nhất là Nhật Bản trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ Hai đã chiếm các bãi, đảo ở Nam Sa và Đài Loan của Trung Quốc, những việc làm đó đều thuộc về hành vi trái phép. Vì thế, sau khi thất bại, Nhật Bản đã phải trả lại các vùng lãnh thổ chiếm đóng nói trên. Chính phủ Quốc dân ở Trung Quốc lúc đó đã đưa hạm đội với tàu đi tiên phong là tàu “Thái Bình” đến Nam Hải tiếp nhận những bãi, đảo đã bị Nhật Bản chiếm đóng. Đảo Thái Bình chính là được đặt tên theo con tàu đó. Trong nhiều đảo ở Nam Hải hiện nay, có rất nhiều bãi và đảo đều được đặt theo tên các tàu thuyền, thuyền trưởng hoặc nhân vật lịch sử đã đến các đảo ở Nam Hải để tuyên thị và bảo vệ chủ quyền. Ví dụ như bãi cát Đôn Khiêm chính là tên của Thuyền trưởng Lý Đôn Khiêm chỉ huy tàu chiến có tên hiệu là “Trung Nghiệp” mà Chính phủ Trung Quốc năm 1946 đã điều ra tiếp nhận quần đảo Nam Sa.
Việc nhận định chủ trương quyền lợi của các nước ở Nam Hải hoàn toàn không phải chỉ có “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”, mà còn phải dựa vào một quy tắc quan trọng khác trong luật quốc tế là quy tắc xác định thời gian, nghĩa là một hành vi nào đó trong lịch sử chỉ cần phù hợp với luật quốc tế ở thời kỳ lúc đó, thì hành vi đó sẽ là hành vi hợp pháp hữu hiệu. Cùng với quá trình phát triển của những quy tắc liên quan trong luật pháp quốc tế, những hành vi liên quan đến những quy tắc này cũng phải đổi mới và phát triển theo. Hàng trăm năm trước đây người Trung Quốc đã thông qua các phương thức phát hiện và chiếm hữu để có được quyền lợi sơ bộ đối với các đảo Nam Hải mà lúc đó chưa thuộc về bất cứ nước nào. Sau đó chính phủ qua các nhiệm kỳ đã thông qua các phương thức đặt tên cho các đảo và công bố bản đồ tương ứng, hoạch định các đảo đó vào khu vực hành chính địa phương, đưa tàu ra tuyên bố chủ quyền và tuần tra, tổ chức và quản lý các hoạt động của xã hội đến Nam Hải đánh bắt cá, đối phó với các hoạt động xâm phạm chủ quyền của nước ngoài, xây dựng luật hiện đại, từng bước có được chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Nam Sa. Thực tiễn qua các thời đại ở Trung Quốc không chỉ hoàn toàn phù hợp với quy tắc có được lãnh thố lúc đó, mà cũng phù hợp với quy tắc có được lãnh thổ theo luật quốc tế cận đại và hiện đại. Vì thế, theo quy tắc về xác định thời gian thì việc Trung Quốc có được chủ quyền lãnh thổ. đối với các đảo ở Nam Hải là hợp pháp, hữu hiệu. Trong tất cả các nước tranh chấp ở Nam Hải, chỉ có Trung Quốc là có căn cứ lịch sử dài đến mấy trăm năm. Mọi nhận định của quốc tế liên quan đền tranh chấp lãnh thổ đều cho thấy ý nghĩa phán định của những căn cứ lịch sử đổi với chủ quyền lãnh thổ quốc gia là có vai trò to lớn. Vì thế, không thể nói một cách đơn giản rằng đã có “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” mới thì căn cứ lịch sử sẽ không còn hiệu lực. Ví dụ như vụ phân xử của Tòa án quốc tế về đảo Pedra Branca theo cách gọi của Xinhgapo hoặc đảo Pulau Batu Puteh theo cách gọi của Malaixia: Như mọi người đều biết, Xinhgapo là được độc lập từ Malaixia nên Tòa án quốc tế khi xử vụ tranh chấp này đã đưa ra tất cả mọi căn cứ mà hai bên có được, bao gồm cả những chứng cứ lịch sử phong phú để phân tích, thẩm định, cuối cùng xác định đảo trên thuộc về Xinhgapo. Tòa án quốc tế từ xưa đến nay không thể không xem xét đến căn cứ lịch sử đế quyết định chủ quyền thuộc về ai trong một vùng lãnh thổ tranh chấp. Đến học giả phương Tây cũng đều thừa nhận, đối với vụ tranh chấp chủ quyền các đảo ở Nam Sa, những tư liệu Trung Quốc có được là phong phú nhất, chứng cứ chắc chắn nhất, các nước khác như Philippin, Malaixia và Brunây căn bản lại không có. Đó chính là thực tế để cho thấy vì sao Mỹ phụ họa, giúp các nước như Philippin nhấn mạnh một cách phiến diện và lặp đi lặp lại rằng giải quyết vấn đề Nam Hải cần phải lấy “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” làm căn cứ, ra sức làm mờ nhạt đi, thậm chí xóa bỏ những nhân tố căn bản có vị trí quan trọng trong giải quyết vấn đề tranh chấp Nam Hải.
Chủ trương chủ quyền của các nước ở Nam Hải còn đề cập đến một nguyên tắc luật pháp quan trọng, đó là nguyên tắc luật pháp không truy ngược quá khứ. Ý nghĩa chính của nguyên tắc này là không thể dùng luật pháp của thế hệ sau để phán xét hành vi trước đây hợp pháp hay không hợp pháp. Chì riêng ví dụ về đường đứt đoạn ở Nam Hải, trước năm 1949 Chính phủ Quốc dân của Trung Quốc đã chính thức đặt tên và công bố bản đồ kèm theo đường đứt đoạn cho các bãi đảo ở Nam Hải, còn thông qua nhiều thực tiễn trên các phương diện về khai thác sử dụng tài nguyên như đưa tàu chiến đến Nam Hải tuyên bố chủ quyền, tổ chức và quản lý nghề cá, nhấn mạnh và củng cố chủ trương về quyền lợi ở Nam Hải. Sau năm 1949, Chính phủ Trung Quốc cũng kế thừa chủ trương của Chính phủ Quốc dân, vấn tiếp tục đánh dấu đường đứt đoạn ở Nam Hải trên bản đồ chính thức của nhà nước, đồng thời cũng thông qua thực tiễn trong nhiều phương diện về lập pháp để nhấn mạnh và củng cố chủ trương về quyền lợi ở Nam Hải. Ai cũng biết là “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” từ năm 1994 mới bắt đầu có hiệu lực. Xem xét từ phương diện tài nguyên hiện hữu, nếu tính từ năm 1914 khi đường đứt đoạn ở Nam Hải bắt đầu xuất hiện thì đường đứt đoạn này đến nay đã được gần 100 năm, sớm hơn “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” 80 năm, hoặc nếu chỉ tính từ khi Chính phủ Trung Quốc chính thức công bố năm 1947 thì đến nay cũng đã được 65 năm, sớm hơn thời gian có hiệu lực của “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” 47 năm! Hơn nữa, đường đứt đoạn ở Nam Hải còn đề cập đến vấn đề về luật quốc tế khác phức tạp như quyền lợi mang tính lịch sử, vượt xa cả những nội dung được quy định trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”, Vì thế tính hợp pháp của đường đứt đoạn ở Nam Hải tuyệt đối không đơn giản sử dụng “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” để phán đoán và phủ nhận. Nói “Đường đứt đoạn ở Nam Hải của Trung Quốc không phù hợp với ‘Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”’ thì bản thân cách nói đó rõ ràng đã thiếu căn cứ theo luật pháp quốc tế, là hết sức sai lầm.
4/ “quyền lợi chủ quyền” tuyệt đối không đồng nghĩa với “chủ quyền”
Về bản thân “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”, có nhà lý luận cho rằng “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” bất lợi đối với Trung Quốc. Tác giả bài viết cho rằng có lợi hay không có lợi là tương đối chứ không tuyệt đối. Nhìn nhận từ điều kiện địa lý tự nhiên của vùng biển xung quanh Trung Quốc, nếu so sánh với những nước ven biển nhìn ra đại dương mênh mông trên thế giới thì Trung Quốc là nước bất lợi về mặt địa lý, vùng biển xung quanh Trung Quốc bị bao vây bởi lãnh thổ của rất nhiều nước lân bang, không thể được hưởng quyền lợi 200 hải lý như “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” dành cho các nước ven biển. Xét từ góc độ này thì việc thực hiện công ước nói trên là bất lợi đối với Trung Quốc, nhưng đồng thời, đối với những nước láng giềng ven biển có bờ biển liền với Trung Quốc và hướng sang Trung Quốc cũng cùng đối mặt với những bất lợi như vậy. Nhìn từ góc độ luật pháp thì đối với tất cả mọi nước ký kết, quyền lợi và nghĩa vụ được quy định trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” đều bình đẳng, các nước xung quanh có thể tuyên bố vùng biến quản lý 200 hải lý, Trung Quốc đại lục và các đảo của Trung Quốc cũng có thể tuyên bố có quyền lợi bình đẳng như vậy, nếu có vùng biển chồng lấn sẽ phát sinh vấn đề phân định ranh giới biển. Ngoài ra trong giải quyết vấn đề phân định ranh giới biển, các bên cũng ở cùng địa vị như nhau chứ không có vấn đề về việc chỉ bất lợi đối với Trung Quốc.
Đương nhiên, không thể phủ nhận được rằng về khách quan quả có một tình huống đã dẫn đến cách nói sai lầm như trên, nghĩa là Malaixia, Brunây vốn là những nước không có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, nhưng bởi “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” đã có quy chế về khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý đã khiến các nước này chủ trương vùng biển quản lý rộng 200 hải lý, từ do cũng hoạch định một số đảo trong quần đảo Nam Sa vào phạm vi 200 hải lý do họ quản lý. Vì thế có người cho rằng “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” bất lợi đối với Trung Quốc. Quan điểm như vậy kỳ thực là hết sức sai lầm, là cách giải thích và lạm dùng quy chế về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”.
Các phần 5 và 6 trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” đã quy định thành quy chế về khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, theo đó nước ven biển chỉ có được hai quyền lợi chủ quyền và ba quyền quản lý ở khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, chủ yếu bao gồm: Quyền lợi chủ quyền có mục đích thăm dò và khai thác, nuôi trồng bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thủy vực hải dương, lòng biển và đáy biển (bất kể là tài nguyên sinh vật hay không phải sinh vật); Quyền lợi chủ quyền đối với các hoạt động khai thác và thăm dò mang tính kinh tế về nước biển, hải lưu và sức gió; Quyền quản lý trong việc kiến tạo và sử dụng đảo nhân tạo, trong kiến tạo và sử dụng các công trình thiết bị và quản lý trong các phương diện nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển.
Một sự thực pháp luật không được phép nhầm lẫn là không chỉ là hai phần trong “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” nói trên mà bất cứ phần nào và điều khoản nào trong công ước cũng đều không quy định nước ven biển nào được dựa vào công ước để quy hoạch lãnh thổ của nước khác vào lãnh thổ của mình. Vì thế, tất cả các nước ký kết đều có thể dựa vào công ước để thực hiện hai quyền lợi chủ quyền và ba quyền quản lý ở khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, nhưng tuyệt đối không có quyền dựa vào đó để tranh đoạt chủ quyền của nước khác đã được hoạch định trong đó.
“Quyền lợi chủ quyền” tuyệt đối không đồng nghĩa với “chủ quyền”. Mỗi từ ngữ trong luật pháp đều có nội hàm và ý nghĩa pháp luật của bản thân từ đó, tuyệt đối không thể làm lẫn lộn hoặc thay thế một cách giản đơn. Đó đều là kiến thức pháp luật quốc tế thông thường. Vì thế Malaixia đã lấy cớ là quyền lợi được “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” cho phép, chủ trương quy hoạch một số đảo thuộc quần đảo Nam Sa trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của họ thành lãnh thổ của họ. Đòi hỏi về loại chủ quyền lãnh thổ như vậy là cực kỳ hoang đường, cũng là phi pháp. Thử xem xét, nếu cách xác định như vậy là ổn thì thế giới sẽ ra sao? Và cùng cách suy diễn theo lý lẽ như vậy thì Trung Quốc cũng chẳng có thể hoạch định những vùng lãnh thổ của nước khác trong phạm vi 200 hải lý thuộc lãnh thổ Trung Quốc (ít nhất bao gồm các bãi, đảo phía Nam quần đảo Ryukyu và các bãi đảo phía Bắc Philippin) vào cả trong phạm vi yêu cầu chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc (như đảo Đài Loan hoặc đảo Thái Bình) được hay sao?
Còn như vấn đề chồng lấn về phạm vi các khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đang tồn tại giữa Trung Quốc và các nước khác cùng tuyên bố chủ quyền ở Nam Hải thì đòi hỏi thông qua đàm phán phân định ranh giới vùng biển để giải quyết. Trên thực tế, đây cũng là vấn đề liên quan đến quan hệ giữa quyền lợi về khu đặc quyền kinh tế và quyền lợi về thềm lục địa với quyền lợi mang tính chất lịch sử. Đường đứt đoạn ở Nam Hải hoàn toàn không phải dựa vào “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” để vạch ra, mà trong quá trình lịch sử gần 100 năm từ khi bắt đầu xuất hiện cho đên hiện nay, đường đứt đoạn đó đã từng bước phát triển từ Bắc xuống Nam đến khoảng 4 độ vĩ Bắc. Chủ quyền mang tính lịch sử là một vấn đề phức tạp về luật quốc tế, “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” không phủ nhận quyền lợi mang tính lịch sử, cũng chưa bao giờ quy định quyền lợi mang tinh lịch sử phải được thay thế bằng khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Sự thực lịch sử là trong thời gian hàng chục năm sau khi chính thức cong bố đường đứt đoạn ở Nam Hải, các nước xung quanh và cộng đồng quốc tế không có phản đối gì.
Nói tóm lại, một vấn đề cốt lõi và then chốt cần phải làm lắng dịu trong vấn đề Nam Hải hiện đang sôi động là: Chủ trương có quyền lợi ở Nam Hái của tất cả các quốc gia liên quan tranh chấp Nam Hải có phải đều là hợp pháp? Sự thực không được xem thường là: Một số nước như Việt Nam và Philippin đang đối kháng với chủ trương hợp pháp của Trung Quốc bằng chủ trương trái phép; Trong khi đó Mỹ, nước tự xưng sẵn sàng làm người điều đình tranh chấp Nam Hải, và Nhạt Bản là hai nước bề ngoài ra vẻ công bằng nhưng thực chất đang cố tình làm thiên lệch, chỉ trích chủ trương của Trung Quốc về Nam Hải, còn đối với các nước tranh chấp khác ở Nam Hải như Việt Nam, Philippin và Malaixia thì họ hầu như bỏ qua tính chất phi pháp trong các hành động của các nước này về chủ trương quyền lợi ở Nam Hải. Tác giả bài viết này cho rằng trong khi phán xử về tính hợp pháp trong chủ trương quyền lợi ở Nam Hải của Trung Quốc, cũng đồng thời phải nhận định chủ trương quyền lợi của nước tranh chấp khác có hợp pháp hay không, nếu không mà chỉ phiến diện yêu cầu, thậm chí chỉ trích kiểu này kiểu khác đối với Trung Quốc thì đó không phải la công bằng, Trung Quốc cũng không thể chấp nhận.
Vì thế người Trung Quốc tuyệt đối không được rơi vào chiếc bẫy này tức Trung Quốc không nên chủ động bàn đến “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”, không bàn đến căn cứ luật pháp quốc tê, nghĩ rằng như vậy là Trung Quốc, đã đuối lý phải né tránh. Từ lâu nay.Trung Quốc một mặt áp dụng chính sách kiềm chế, không làm nóng vấn đề ở Nam Hải, không muốn nói nhiều, thậm chí là tránh không nói, nhưng mặt khác cho đến nay khi các nước xung quanh như Philippin chưa chính thức bắt đầu đàm phán ngoại giao giải quyết vấn đề tranh chấp, thì dù là các nước đó hay Trung Quốc cũng đều không có nghĩa vụ đơn phương trình bày toàn diện với cộng đồng quốc tế chủ trương và căn cứ của mình về quyền lợi ở Nam Hải. Kỳ thực, cho đến nay bản thân Philippin cũng chưa làm rõ được phạm vi quyền lợi ở Nam Hải mà họ chủ trương cuối cùng là ở đâu. Từ cuối năm ngoái đến nay Philippin đã nhiều lần công khai đề xuất phải cùng với các nước ASEAN “phân định vùng tranh chấp Nam Hải và vùng tranh chấp Philippin”.
Tác giả bài viết cho rằng trong giai đoạn hiện nay Trung Quốc cơ bản chưa cần thiết, cũng chưa có nghĩa vụ phải đơn phương trình bày hết tất cả lá bài cuối cùng của mình, chưa cần thiết công khai toàn diện, phơi bày ra tất cả mọi căn cứ pháp lý của mình, đó cần phải là những nội dung trên bàn đàm phán. Một số nước không ngừng nhào nặn hoặc chỉ trích vấn đề mang tính hợp pháp trong chủ trương về quyền lợi ở Nam Hải của Trung Quốc, kỳ thực là những biểu hiện giật mình vì chột dạ, dụng ý của họ là nhằm đẩy lệch góc nhìn, chuyển dịch tiêu điểm mâu thuẫn, nhưng làm như vậy vừa không thể làm thay đổi được tính chất phi pháp trong chủ trương Nam Hải của họ, cũng vừa không thể phủ nhận được tính hợp pháp trong chủ trương của Trung Quốc. Trong khi đó lập trường không nói và ít nói mà Trung Quốc áp dụng cũng tuyệt đối không có nghĩa là không có cơ sở pháp luật và căn cứ lịch sử. Tục ngữ Trung Quôc có câu ‘có lý không phải cứ to tiếng’’. Tuy nhiên, để làm cho những người quan tâm một cách khách quan và thực lòng vấn đề Nam Hải có thể hiểu được tình hình chân
thực và chuẩn xác, thay đổi và đề phòng tin đồn thất thiệt cứ thổi lên mãi ngoài người phát ngôn báo chí, Trung Quốc còn phải tích cực chủ động lợi dụng nhiều kênh, áp dụng nhiều phương thức tuyên truyền nhiều hơn nữa trước và sau khi một số vấn đề có thể được nhào nặn trở thành điểm nóng được làm cho vấn đề được nhìn nhận chân thực hơn. Hiệu quả tuyên truyền tích cực và hướng dẫn dư luận sẽ tốt hơn nhiều so với bị động đối phó trước những chỉ trích theo dụng ý riêng.
Nói tóm lại, “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” không phải là “linh đơn thần dược” để giải quyết mọi vấn đề tranh chấp biển, mà chỉ là một phần cấu thành của luật pháp quốc tế, không thể thay thế các quy tắc khác trong luật quốc tế, lại càng không thể giản đơn đánh đồng “luật quốc tế” với “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” theo cách đánh tráo khái niệm. Trong phần mở đầu của “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” cũng có quy định rõ ràng đối với vấn đề này, cụ thể là “các nước ký kết bản Công ước này xác nhận Công ước chưa có quy định cụ thể, cần phải tiếp tục lấy các quy tắc và nguyên tắc trong luật quốc tế nói chung để làm căn cứ chuẩn mực”. “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển” không phải là căn cứ duy nhất của luật quốc tế để nhận định hoặc giải quyết vấn đề yêu sách chủ quyền lãnh thổ Nam Sa, cũng như nhận định hoặc phủ nhận tính hợp pháp trong đường đứt đoạn ở Nam Hải của Trung Quốc. Những cách nói “cần lấy ‘Công ước của Liên hợp quốc về luật biển’ làm căn cứ giải quyết vấn đề Nam Hải”, “một số đảo-bãi thuộc quần đảo Nam Sa đều đã được hoạch định vào khu đặc quyền của các nước như Malaixia (hoặc: Đều ở trong phạm vi thềm lục địa của Malaixia), vì thế những đảo- bãi này đã được quy về quyền sở hữu nhà nước của Malaixia”, “Đường đứt đoạn của Trung Quốc ở Nam Hải không phù hợp với ‘Công ước của Liên hợp quốc về luật biển”… là hết sức phiến diện, thậm chí là sai lầm. Nếu không có dụng ý riêng thì ít nhất cũng là sự khiếm khuyết trong kiến thức thông thường về luật quốc tế./.

 Vụ học viên trốn khỏi TT cai nghiện: Có phân biệt đối xử?

-Vụ học viên trốn khỏi TT cai nghiện: Có phân biệt đối xử?-(Dân Việt) - Theo ông Vũ Xuân Thái - Giám đốc Trung tâm Giáo dục lao động và phục hồi sức khỏe Hải Phòng, đến chiều 3.4, đã có 15/96 học viên quay lại Trung tâm, trong đó có 13 học viên tự quay lại.
Hiện, Trung tâm tiếp tục về các địa phương và gia đình để vận động học viên bỏ trốn quay lại Trung tâm. Cơ quan Công an vẫn đang tiếp tục điều tra làm rõ các đối tượng gây rối để xử lý. Về giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng này, ông Thái cho biết, Trung tâm sẽ họp rút kinh nghiệm theo chỉ đạo của UBND TP.Hải Phòng. Tuy nhiên, ông Thái chưa tiết lộ cụ thể giải pháp cụ thể.
Chiều 3.4, trao đổi với báo chí, ông Lê Khắc Nam - Phó Chủ tịch UBND TP.Hải Phòng cho biết, do các học viên không phải là tội phạm nên trong trường hợp một số đối tượng không tự nguyện trở lại thì chỉ có thể áp dụng biện pháp áp giải về Trung tâm.
Ông Nam cũng xác nhận có việc học viên từ Trung tâm gửi thư cho UBND thành phố phản ánh có sự phân biệt đối xử, chế độ ăn kém ở Trung tâm này… UBND thành phố cũng đã có văn bản yêu cầu Sở LĐTBXH kiểm tra, báo cáo thành phố, khi có kết luận sẽ thông tin.

Lãi suất Việt Nam “khủng” nhất thế giới

-Lãi suất Việt Nam “khủng” nhất thế giới
Lãi suất cao bậc nhất thế giới và kéo dài nhiều năm; doanh nghiệp (DN) phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng. Đó là lý do, khi tiền tệ bị siết lại, DN phá sản hàng loạt.
Cao và kéo dài
Trong vài năm trở lại đây, lãi suất (LS) cho vay thương mại của hệ thống ngân hàng (NH) luôn ở mức cao. Đặc biệt, kể từ năm 2011 và quý 1/2012, LS cho vay thông thường lên tới hơn 20%/năm, cao hơn gấp từ 3 - 4 lần so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia…

Nhiều doanh nghiệp tỏ ra rụt rè và không dám vay vốn với mức lãi suất cao nhất nhì thế giới của Việt Nam hiện nay - Ảnh: Ngọc Thắng
Theo thống kế mới nhất của NHNN, LS cho vay đối với VNĐ trong tháng 3.2011 vẫn tiếp tục đứng ở mức cao. Cụ thể, cho vay sản xuất - kinh doanh dao động bình quân từ 16,5% đến 20%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất từ 20% đến 25%/năm. Đối với lĩnh vực được khuyến khích và ưu đãi là nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu, lãi vay cũng phố biến từ 14,5% đến 16%/năm. Như vậy có thể thấy, tại các NH thương mại cổ phần, mức LS hầu như không hề giảm.
 

Với mức lãi suất lên tới trên 20%/năm như hiện nay, Việt Nam đang được xếp vào các nước có lãi suất cho vay cao nhất thế giới


TS Lê Xuân Nghĩa

Trao đổi với PV Thanh Niên, TS Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia cho biết, với mức LS lên tới trên 20%/năm như hiện nay, Việt Nam đang được xếp vào các nước có LS cho vay cao nhất thế giới.
Chuyên gia tài chính NH, cố vấn cao cấp của HĐQT NH BIDV, TS Cấn Văn Lực cũng nhìn nhận hiếm có quốc gia nào LS cao và duy trì kéo dài như tại Việt Nam. “Hiện tại, LS cho vay tại Trung Quốc tầm 5%/năm, Indonesia cũng mức này, còn Singapore thấp hơn. Trung bình của khu vực từ 6 - 8%/năm. Đây là mức LS cơ bản do NH T.Ư các nước công bố. Nếu so sánh với trần LS huy động của NHNN Việt Nam là 13%/năm và đầu ra tức lãi cho vay 16%/năm, thì khoảng cách giữa Việt Nam và các nước cũng đã “một trời một vực”.
Khó giảm
Ngày 13.3, NHNN đã giảm LS cơ bản 1%/năm, ngay lập tức các NH thương mại cổ phần giảm LS huy động tiền đồng xuống 13%/năm. Thế nhưng LS cho vay đối với các DN chỉ giảm từ 2 - 4%/năm, vẫn còn ở mức từ 17 - 19%/năm.
TS Lê Thẩm Dương - Trưởng khoa Quản trị DN, Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM cho rằng: “Nếu như LS huy động các kỳ hạn đúng 13%/năm như quy định, LS huy động không kỳ hạn ở mức thấp dưới 5%/năm thì LS đầu vào của các NH khoảng 11%. Như vậy, LS cho vay ở mức 14 - 15%/năm là NH đủ "sở hụi". Thế nhưng LS cho vay hiện vẫn ở mức 17 - 19%/năm. Nên câu hỏi đặt ra là, liệu NH có thật sự huy động với LS 13%/năm hay không? Thực tế cho thấy, ngay sau khi NHNN giảm LS 1%, các NH ồ ạt tung ra các chương trình khuyến mãi. Khách hàng gửi tiền tham gia chương trình bốc thăm trúng thưởng ngay (tần suất trúng thưởng 100%), cào trúng thưởng và chương trình quay số trúng thưởng cuối chương trình với giải đặc biệt từ 1 tỉ đồng trở lên... Cộng thêm chi phí này, LS huy động thực đã cao hơn 13%. "NH huy động được 10 đồng phải trích dự trữ bắt buộc, để lại một phần tiền dự trù thanh khoản, NH phải mua bảo hiểm tiền gửi cho số tiền này... Số còn lại mới cho vay. Số tiền cho vay này phải gánh cho toàn bộ chi phí trên, kể cả một phần lợi nhuận. Chi phí huy động tăng cao thì tất nhiên chi phí đầu ra buộc phải tăng cao" - TS Dương phân tích.
PGS-TS Trần Hoàng Ngân - Phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM nhận xét: “Khi người ta mua giá thấp thì sẽ bán giá thấp, bản thân các NH cũng muốn triển khai cho vay nếu không thì chết. Tuy nhiên một số NH lách vượt trần LS là do vấn đề thanh khoản và thị trường chưa mang tính nghiêm minh. Đó là lý do LS khó giảm”.
Một nguyên nhân khác khiến LS cho vay vẫn chưa thể giảm được, theo TS Lê Thẩm Dương do tâm lý "phòng thủ" thanh khoản. Những NH huy động được tiền thay vì cho DN vay thì lại mang tiền này mua trái phiếu hoặc cho vay trên thị trường liên NH. Theo số liệu từ NHNN, doanh số giao dịch trên thị trường liên NH tháng 3 tăng cao hơn so với 2 tháng trước, lên hơn 660.000 tỉ đồng, trong đó giao dịch qua đêm và 1 tuần lên hơn 508.000 tỉ đồng. Ông Lê Thẩm Dương cho rằng cho vay trên thị trường liên NH có tài sản thế chấp và nhanh thu hồi vốn vì kỳ hạn ngắn. Điều này giúp các NH cho vay khi cần có thể đáp ứng được thanh khoản. Chính vì vậy mà vốn từ NH không chảy vào sản xuất. Hơn nữa các NH hiện nay là NH cổ phần nên chịu sức ép lợi nhuận từ các cổ đông, trong khi đó tỷ lệ nợ xấu trong NH ngày càng tăng nên đòi hỏi việc trích lập dự phòng ngày càng cao. Do đó, biên giữa chi phí huy động và cho vay cao để mang lại lợi nhuận cao giải quyết các vấn đề trên.
Anh Vũ - Thanh Xuân

-
“Nên thận trọng”--Giới phân tích quốc tế lên tiếng khuyến cáo Việt Nam về việc hạ lãi suất huy động..
Phan Bảo Lâm-11:42 (GMT+7) - Thứ Sáu, 9/3/2012
CPI giảm là do sức mua kém. CPI giảm mà sức mua không đổi thì mới gọi là lạm phát giảm. Cần đặt vấn đề cho rõ ràng.
Giảm giá vẫn không làm sức mua tăng-SGTT.VN 07.03.2012- Thời gian gần đây, giá cả có những diễn biến trái chiều ở các nhóm mặt hàng khác nhau. Nhưng dù tăng hay giảm, vấn đề lớn mà doanh nghiệp đang đối mặt là sức mua không tăng.  - Sức tiêu dùng giảm đáng báo động (DV). 
Công ty chứng khoán ồ ạt đóng cửa phòng giao dịch (Infonet).- Giảm lãi suất: Bật xi nhan trước khi rẽ (VnEconomy).  – Kỳ vọng giảm lãi suất và phép thử thanh khoản ngân hàng (VnEconomy).  – Đến lượt ngân hàng ngoại giảm lãi suất cho vay (VnEconomy).- Vàng miếng liên tục tăng giá (VnEconomy).


Fitch Ratings: Tái cơ cấu ngân hàng của Việt Nam “chưa rõ ràng” (VnEconomy). Kế hoạch tái cơ cấu ngân hàng mà Chính phủ đang theo đuổi là tích cực cho hệ thống tài chính của Việt Nam, hãng định mức tính nhiệm Fitch Ratings vừa đưa ra nhận định.

Tuy nhiên, hãng này cũng cho rằng, những đề xuất còn chưa thực sự rõ ràng, cũng như mức độ thiếu chắc chắn trong cam kết và khả năng theo đuổi đến cùng các đề xuất, sẽ đặt ra những rủi ro không nhỏ trong ngắn hạn và trung hạn.


Theo kế hoạch tái cơ cấu ngân hàng của Việt Nam, Chính phủ có kế hoạch mua lại nợ xấu từ các ngân hàng thương mại, áp dụng các biện pháp nhằm tăng vốn, đồng thời xem xét sáp nhập các ngân hàng yếu. 


Fitch nhận định, “năng lực vốn yếu, thanh khoản chặt và chất lượng tài sản đi xuống là vài trong số những điểm đáng lo ngại nhất về hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Bởi thế, những nỗ lực của Chính phủ nhằm giải quyết những vấn đề này được hưởng ứng tích cực”.


Hãng này cho rằng, hệ thống tài chính nói chung của Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, vì tái cơ cấu có thể sẽ làm giảm nguy cơ mất thanh khoản của những ngân hàng nhỏ. 


“Những ngân hàng nhỏ của Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào hoạt động cho vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng nên có thể gây ra sự đứt gãy có ảnh hưởng rộng đối với hệ thống trong trường hợp những ngân hàng nhỏ này mất thanh khoản. Thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi lạm phát cao và niềm tin vào đồng nội tệ”, thông cáo đề ngày 7/3 của Fitch được hãng tin Reuters đăng tải có đoạn viết.


Theo nhận định của Fitch, chất lượng tài sản của các ngân hàng Việt Nam có thể sẽ tiếp tục đi xuống trong thời gian tới. Tổ chức này cho rằng, nợ xấu trong các ngân hàng Việt Nam có thể cao hơn hơn gấp 4 lần nếu tính theo chuẩn kế toán quốc tế so với tính theo chuẩn của Việt Nam như hiện nay.


Sự thiếu vắng một kế hoạch tái cơ cấu chi tiết là điểm khiến các nhà phân tích của Fitch lo ngại. “Hiện chưa có chi tiết cụ thể nào về thời điểm Chính phủ có thể khởi động các vụ sáp nhập, quy mô của kế hoạch mua nợ xấu hay mức giá mà Chính phủ sẽ trả để mua số nợ xấu đó. Không có những chi tiết này thì không thể cân đong đo đếm được xem các biện pháp tái cơ cấu ngân hàng sẽ đem lại lợi ích ra sao cho hệ thống”, báo cáo viết.


Ngoài ra, Fitch cũng quan ngại về việc, cam kết của Chính phủ trong việc theo đuổi kế hoạch tái cơ cấu và khả năng của Chính phủ hấp thụ số nợ xấu tại các ngân hàng cũng là những điểm chưa rõ ràng.

Fitch cho biết, định hạng tín nhiệm dài hạn B+ mà tổ chức này dành cho Việt Nam phản ánh những rủi ro từ mức lạm phát cao so với tăng trưởng GDP cũng như nghĩa vụ nợ ở mức cao của các doanh nghiệp quốc doanh và ngân hàng của Việt Nam. Mặc dù vậy, Fitch đánh giá những biện pháp cải cách hệ thống tài chính là một bước đi tích cực của Chính phủ và cho rằng, những bước đi này sẽ có tác động tới cân đối tài chính của Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước được áp dụng cơ chế bắt buộc sáp nhập, mở “room” cho cả ngân hàng ngoại để xỷ lý các ngân hàng yếu kém..
Sẽ tiến hành cổ phần hóa ngân hàng lớn nhất VN (TTXVN).  - Ngân hàng yếu kém bắt buộc phải sáp nhập (PLTP).   - Chính thức mở cơ chế xử lý các ngân hàng yếu kém (VnEconomy). - Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (NLĐ/TTXVN). - Ngân hàng 4 lộ diện, dân không lo mất tiền (VnMedia).- Hưng phấn và rủi ro từ hấp lực của vàng (VEF). - Ngân hàng yếu kém, liệu người dân có mất tiền? (VnMedia).- Cải tổ thị trường chứng khoán: Cần giải pháp căn cơ (TBKTSG).
Tuần tới, chứng khoán tiếp tục thăng hoa (VnMedia).- Nhiều mặt hàng, dịch vụ thiết yếu có giá mới (DV/PNTĐ).  - Vỡ mộng một thị trường (TBKTSG).
- “Cơn điên” của dòng tiền  (ĐĐK). Cả nước sẽ chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán (GDVN). Áp lực lạm phát, mức sống suy giảm (NLĐ).- Kinh tế khó khăn, lại bàn chuyện thất nghiệp (NĐT).- DN “khai sinh” nhiều, “khai tử” cũng đông (TT).- Giật mình vì doanh nghiệp nước ngoài toàn lỗ (VnMedia).- Nhận diện “thủ phạm” gây đội giá nhà đất (PL&XH).
Chạy đua tìm than (TBKTSG).- Tạm dừng thành lập mới các khu kinh tế, khu công nghiệp (VnEconomy).- Hết cơ hội cho điện thoại Việt? (VnMedia).
Nhập siêu từ Hàn Quốc – nỗi lo mới (TBKTSG).- Nhà thầu ở Việt: Yếu về năng lực! (Tầm nhìn).- Nhộn nhịp mua bán dự án khủng (NLĐ).
- Phỏng vấn ông Nguyễn Quang A: Cà phê cuối tuần: Từ “sơn tàu” đến quản trị quốc gia (VnEconomy). - Sắm vợt ra biển “cào” tiền tỉ (Bee).
Giám sát về khai thác khoáng sản (TT).-Chạy đua tìm than-(TBKTSG) - Thời điểm nhập than số lượng lớn cho hoạt động của các nhà máy nhiệt điện, chỉ còn ba năm nữa (năm 2015). Chuyện quốc gia đang xuất khẩu năng lượng như Việt Nam lên các phương án chạy đua với thời gian để mua mỏ, mua cổ phần hay liên doanh với nước ngoài được xới lên từ vài năm trước ..
Đây là một trong những nội dung tại Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ chấn chỉnh công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế (KKT), khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN).

– “Nước ngoài muốn mua lại ngân hàng xấu của Việt Nam” (NĐT).(Nguoiduatin.vn) - Đó là nhận định của ông Keith Pogson, tổng giám đốc điều hành Dịch vụ tài chính - ngân hàng Ernst & Young khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Một ngư dân Trung Quốc bị bắn chết vì cố tình xâm phạm hải phận?

- -bình tĩnh không phải VN mà là ở Palau, VN chỉ dám đưa tin

Một ngư dân Trung Quốc bị bắn chết vì cố tình xâm phạm hải phận?

Một ngư dân Trung Quốc thiệt mạng sau khi cảnh sát Cộng hòa Palau nã súng vào tàu cá của người này. Phía Palua cho rằng, tàu cá xâm phạm hải phận của họ.
Cảnh sát biển Palau chỉ nã súng vào động cơ của tàu cá Trung Quốc khi nhận thấy nó có ý định chống đối, muốn lao thẳng vào xuồng tuần tra của họ, Phát ngôn viên của Tổng thống là ông Fermín Meriang tiết lộ với trang tin Pacific Daily News.



"Không ai nhắm trực tiếp vào chủ tàu cá. Có lẽ một trong những viên đạn nảy từ động cơ của con tàu ra và văng trúng đùi người ngư dân này",  ông Meriang cho hay. Người ngư dân xấu số, theo ông Meriang, sau đó bị chảy máu đến chết trước khi được đưa đến bệnh viện.
Một cuộc vây bắt tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ nước khác trên biển Thái Bình Dương. Ảnh minh họa: AFP.
Ngoài ra, ông Meriang cũng cho hay, theo cáo trạng của tòa án, 5 ngư dân Trung Quốc bị buộc tội đánh bắt cá bất hợp pháp trong vùng hải phận đảo quốc Palau; đồng thời, phạm vào một số tội danh khác. 

Sau đó, cảnh sát Palau còn phát hiện thêm một chiếc tàu cá Trung Quốc khác lớn hơn được cho là “tàu mẹ” của tàu cá nói trên. Tổng số ngư dân Trung Quốc bị bắt giữ vì tội đánh bắt thủy sản trái phép trong vụ này lên đến 25 người.

Phi cơ Cessna mang một phi công Mỹ và hai sĩ quan cảnh sát Palau được phái đi để truy đuổi theo “tàu mẹ” Trung Quốc trong vụ đụng độ trên mất tích.
Trước khi mất liên lạc, người phi công của chiếc phi cơ này chỉ kịp thông báo rằng họ đang cạn nhiên liệu và bị mất phương hướng vào hôm 1/4. Hiện phía Mỹ cũng giúp tìm kiếm ba người.


Theo Trung tá Richard Russell, một sĩ quan quân đội đóng tại căn cứ Guam, máy bay có thể bay lạc gần hòn đảo cực Nam của Cộng hòa Peleliu. Tuy nhiên, do thiết bị xác định phương hướng của máy bay hỏng nên phi công không thể báo cáo chính xác.
"Hiện giờ, chúng tôi đang hy vọng có thể tìm thấy một số mảnh vụn hoặc đầu mối về nơi chiếc máy bay có thể rơi xuống. Chúng tôi đang xới tung cả các khu vực có khả năng nhất", ông Russell cho hay.


Trong khi đó, trên trang Facebook  nhân của mình, Tổng thống Palau Johnson Toribiong thừa nhận vụ mất tích. Đồng thời, ông Toribiong cũng tiết lộ danh tính ba người bị mất tích, trong đó, phi công  người Mỹ tên là Frank Ohlinger còn hai sĩ quan người Palau tên là Earl Decherong và Willy Mays Towai.
"Tôi mong tất cả mọi người hãy cầu nguyện cho người phi công và hai sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi", ông viết.
Tham gia công cuộc tìm kiếm còn có du thuyền lớn thuộc sở hữu của người đồng sáng lập Tập đoàn Microsoft Paul Allen, người vừa đến thăm căn cứ Guam khoảng một tuần trước đây.
Đảo quốc Palau nằm giữa Thái Bình Dương, cách Philippines khoảng 800 km về phía Đông.

SGTT.VN - Đập Sông Tranh 2 bị rò rỉ (chính xác hơn là bị nứt) do đâu? Nếu là do các khe nhiệt thì nó đã phải xảy ra ít ngày sau khi tích nước, bởi áp lực nước từ hồ vào thành đập không nhỏ mà chiều dày đập lại không quá dăm chục mét. Một nguyên nhân khác chúng tôi muốn lưu ý trong vụ việc này: động đất. Nếu động đất xảy ra ở khu vực này mạnh như cuối tháng 11.2011 thì đập Sông Tranh 2 sẽ khó đứng vững.

Tại quận Hà Đông, TP Hà Nội: Nỗi oan ức vắt qua hai thế kỉ và hành trình tìm công lí của gia đình liệt sĩ

-Công trình Trạm y tế phường Quang Trung xây xong chỉ để… cho thuê.
Cuộc hành trình tìm công lí vắt qua hai thế kỉ được khá nhiều cơ quan giải quyết, thậm chí Chính phủ trực tiếp tổ chức đối thoại và chỉ đạo giải quyết, mà vẫn chưa đòi lại được 819 m2 đất hợp pháp tại 202 Quang Trung, quận Hà Đông, TP Hà Nội bị chiếm đoạt; gia đình phải lập hẳn website (trang tin điện tử) để chuyển tải thông tin vụ việc, nhưng rồi việc giải quyết vẫn chưa đến đâu.

Đó là những gì gia đình liệt sĩ Nguyễn Hưng Tiệp phải gánh chịu suốt 50 năm ròng. Trong khi diện tích đất nói trên đang có khiếu nại, được Quốc hội phê chuẩn giám sát, thì ngày 6-1-2009, UBND quận Hà Đông lại gấp rút cho xây dựng trường Mầm non và Trạm y tế của phường Quang Trung, mà không cần giấy phép, bất chấp chỉ đạo của UBND TP Hà Nội. Để rồi, công trình xây xong chỉ để cho thuê…
 Về nguồn gốc thửa đất, tài liệu có trong hồ sơ thể hiện, ngày 11-4-1942, ông Nguyễn Xuân Phụng, người làng La Khê, phủ Hoài Đức lập văn tự bán cho ông Nguyễn Hưng Anh 819 m2 đất tại thị xã Hà Đông (nay là số 202 Quang Trung, quận Hà Đông, TP Hà Nội. Văn tự ghi rõ rằng: "Nguyên tôi có số đất ở địa phận Thị xã tỉnh Hà Đông, số thửa đất 19, số tờ bản đồ 19, diện tích 819 m2… Nay tôi đem số đất trên bán đứt cho tên Nguyễn Hưng Anh…". Văn tự được chứng thực bởi Trưởng phố Đông Cầu, kí tên đóng dấu. Năm 1957, bộ phận địa chính thuộc Ty Tài chính tỉnh Hà Đông cấp trích lục sổ địa chính và điền bộ diện tích đất này cho gia đình ông Nguyễn Hưng Anh, do ông Nguyễn Hưng Anh đứng tên chủ sở hữu. Như vậy, thửa đất nói trên của gia đình ông Nguyễn Hưng Anh không hề bị điều chỉnh bởi Luật Cải cách ruộng đất.Trước năm 1954, vùng này bị quân Pháp lập vành đai trắng để bảo vệ thị xã Hà Đông. Sau tháng 10 năm 1954, gia đình hồi cư và tiếp tục phục hóa thửa đất này để trồng hoa màu sinh sống. Sự thật này được hàng chục người trong khu phố chứng thực, trong đó có bà Ngọ khi còn công tác tại VKSND thị xã Hà Đông cũng kí giấy xác nhận. Năm 1961, bà Tạ Thị Liên (vợ ông Nguyễn Hưng Anh) bị ngã xuống hố vôi, phải đi điều trị dài ngày. Các con lớn của bà đã lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, trong đó có liệt sĩ Nguyễn Hưng Tiệp và liệt sĩ Nguyễn Hưng Thái, các con ở nhà đều còn nhỏ không trông nom được. Lợi dụng hoàn cảnh này, HTX mộc Quyết Tiến ở liền kề lập tức lấn chiếm để làm bãi xếp gỗ. Khi ở bệnh viện về, bà Liên thấy vậy đòi lại đất, nhưng HTX cố tình không trả. Tuy nhiên, ông Đinh Văn Ly, Phó Chủ nhiệm HTX mộc Quyết Tiến thời kì ấy đã phải kí giấy xác nhận có mượn đất của gia đình bà Liên. Điều này chứng minh thửa đất 819 m2 của gia đình ông Anh - bà Liên không thuộc diện đất vắng chủ, không bị điều chỉnh bởi Thông tư 73-TTg ngày 7-7-1962 của Thủ tướng Chính phủ, mặc dù ông Nguyễn Hưng Anh đã đi vào Nam sinh sống.
Trong khi đó, HTX mộc Quyết Tiến được một số người có chức sắc bênh che, nên chây ỳ không chịu trả đất, buộc gia đình bà Liên phải quyết liệt đấu tranh, đòi đất ròng rã hơn chục năm trời. Mãi đến ngày 26-3-1974, HTX mộc Quyết Tiến kí giấy mời bà Liên đến nhận 420 đồng, gọi là tiền mua đất của bà Liên từ năm 1960 chưa thanh toán. Lẽ đương nhiên, bà Liên không bán đất nên kiên quyết không đến nhận tiền, mà khởi kiện ra tòa để đòi lại đất. Ngày 31-10-1975, TAND thị xã Hà Đông xét xử, ra bản án số 05 cho HTX mộc Quyết Tiến được quyền mua thửa đất này. Bà Liên chống án, ngày 10-8-1976 TAND tỉnh Hà Sơn Bình (cũ) xử phúc thẩm, cho rằng án sơ thẩm xử trái Thông tư 73-TTg nên hủy án sơ thẩm, giao cho UBND thị xã Hà Đông giải quyết theo thẩm quyền. Chính cách xử lí lắt léo đó đã đẩy gia đình vào hành trình theo đuổi vụ kiện đến nay là 50 năm.
Năm 1991, HTX mộc Quyết Tiến giải thể, gia đình ông Anh - bà Liên tạm thời lấy lại được đất, xây nhà ở và trồng cây, đào ao cá để sinh sống. Đột nhiên, ngày 8-11-1995, UBND tỉnh Hà Tây (cũ), do ông Đỗ Thanh Quang, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo hàng trăm người, cùng nhiều xe cơ giới đến đưa bà Tạ Thị Liên đi, đuổi mọi người ra đường để cưỡng chế, thu hồi toàn bộ 819 m2 đất hợp pháp của gia đình ông Anh - bà Liên, để giao cho Tổng Cty Sông Đà sử dụng.
Ngày 8-10-2000, Thủ tướng Chính phủ triệu tập Hội nghị để giải quyết vụ việc, với sự tham dự của đại diện các cơ quan chức năng ở Trung ương và tỉnh Hà Tây. Tại Hội nghị này, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Công Tạn đã kết luận: "… Chính quyền không trả mảnh đất 819 m2 cũng được, nhưng phải trả chỗ khác đúng mức ấy…". Phải sau 2 năm, UBND tỉnh Hà Tây mới cấp cho gia đình 250 m2 ở khu tái định cư, với hình thức thực hiện chính sách đối với gia đình liệt sĩ không có chỗ ở. Gia đình liên tục khiếu nại vì cho rằng vụ việc chưa được giải quyết thỏa đáng, được Quốc hội giao cho Ban Dân nguyện xem xét. Thế nhưng, ngày 23-8-2010 Ban Dân nguyện có Báo cáo số 218, đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thống nhất không trả lại 819 m2 đất cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Hưng Tiệp.
Điều đáng nói là, bản Báo cáo số 218 do ông Trần Thế Vượng và ông Bùi Nguyên Súy (Trưởng, Phó Ban Dân nguyện) lập ra có nhiều điểm cắt xén, thậm chí xuyên tạc sự thật, khiến UBTVQH hiểu sai bản chất sự việc. Đơn cử như Báo cáo số 218 cho rằng thửa đất 819 m2 của ông Nguyễn Hưng Anh là đất ruộng ở làng La Khê, thị xã Hà Đông, trong khi thực tế thời kì ấy làng La Khê thuộc phủ Hoài Đức, không thuộc thị xã Hà Đông. Đây là chi tiết rất dễ gây hiểu lầm rằng, thửa đất 819 m2 nằm trong khối tài sản bị Nhà nước trưng mua của cụ Nguyễn Hưng Chức (bố đẻ ông Nguyễn Hưng Anh), do cụ Chức bị quy thành phần địa chủ. Tại Báo cáo ngày 17-2-2000 của Văn phòng Chính phủ đã ghi nhận: "Trong cải cách ruộng đất, ông Nguyễn Hưng Chức bố đẻ của ông Nguyễn Hưng Anh là địa chủ nên Nhà nước đã trưng mua tài sản của ông Chức ở quê tổng giá trị 3.599 kg thóc, trong đó có 2 mẫu 6 sào ruộng ở La Phù. Thửa đất số 19 của ông Nguyễn Hưng Anh không nằm trong số này…". Báo cáo của Ban Dân nguyện còn cho rằng, gia đình bà Liên không khai báo, không sử dụng đất và không nộp thuế cho Nhà nước. Tình tiết này lại dễ gây hiểu lầm rằng, thửa đất 819 m2 thuộc diện vắng chủ, trong khi sự thật không phải như vậy.
Một tình tiết rất quan trọng mà bản Báo cáo không đề cập đến, đó là việc HTX mộc Quyết Tiến mời bà Liên đến nhận 420 đồng là khoản tiền mua đất năm 1960 chưa thanh toán xong, nhưng bà Liên không chấp nhận bán. Với những sự kiện cụ thể này, bất cứ ai cũng có thể hiểu rằng HTX mộc Quyết Tiến chưa bao giờ được cấp có thẩm quyền giao cho sử dụng 819 m2 đất nói trên. Tại Thông báo số 13 của tỉnh Hà Sơn Bình và Báo cáo của Văn phòng Chính phủ đã ghi nhận: "Từ 1961, do bà Liên bị tai nạn đi viện lâu ngày, HTX mộc Quyết Tiến ở liền kề với đất của bà Liên đã để nhờ gỗ, sau đó không trả và đã xin mua đất này nhưng bà Liên không bán. Vì vậy mảnh đất của bà Liên không liên quan gì đến việc thực hiện chính sách Hợp tác hóa"…
Tiếc rằng Ban Dân nguyện của Quốc hội đã không đưa những tình tiết này vào bản Báo cáo, dẫn đến việc UBTVQH ra kết luận giải quyết không đúng với gia đình ông Nguyễn Hưng Anh. Trong khi vụ việc chưa được giải quyết dứt điểm, Quốc hội đã phê chuẩn giám sát, thì ngày 6-1-2009 UBND quận Hà Đông gấp rút cho xây dựng công trình Trường Mầm non và Trạm y tế phường Quang Trung. Điều đáng nói là, việc xây dựng hai công trình trên không có giấy phép xây dựng. Trong Văn bản số 1661/UBND - TNMT ngày 7-12-2009 do Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Phí Thái Bình kí, gửi UBND quận Hà Đông có đoạn: "UBND TP có ý kiến chỉ đạo như sau: 1. Yêu cầu quận Hà Đông tạm dừng việc thi công công trình Trường Mầm non và Trạm y tế của UBND phường Quang Trung cho đến khi công trình được cấp giấy phép theo quy định hiện hành…". Thế nhưng ý kiến chỉ đạo này của UBND TP Hà Nội cũng bị UBND quận Hà Đông bỏ qua. Kết quả, công trình hiện đã xây xong, nhưng chỉ để cho thuê, trong khi việc khiếu kiện của gia đình có 2 liệt sĩ kéo dài 50 năm chưa được giải quyết dứt điểm. Và, nỗi oan ức vắt qua hai thế kỉ của gia đình liệt sĩ vẫn còn tiếp diễn, không biết đến bao giờ mới chấm dứt?!
Hoàng Kim


-Tại quận Hà Đông, TP Hà Nội: Nỗi oan ức vắt qua hai thế kỉ và hành trình tìm công lí của gia đình liệt sĩ
Quận Hà Đông (TP Hà Nội): Có nên xây dựng trên mảnh đất gia đình liệt sĩ đang khiếu nại ?

Phó trưởng CA phường bị tố đánh vỡ đầu dân vì không đội mũ bảo hiểm

Mafiovi: .Hãy tin ta đi: chỉ nhìn cái cổ áo đó, đã thấy ta đúng: Âu-Lạc đã không tiến hóa suốt ngàn năm và không thể tiến hóa.
- Phó trưởng CA phường bị tố đánh vỡ đầu dân vì không đội mũ bảo hiểm
(GDVN) - Sự việc xảy ra vào khoảng 9h 10 sáng nay, ngày 4/3 tại ngõ 521 đường Lĩnh Nam (phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội).

Theo những người dân chứng kiến sự việc và bị hại là anh Dương Văn Bắc (SN 1965, trú tại tổ 20 phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội) thì vào thời điểm trên, khi anh Bắc đang điều khiển xe máy mang BKS 29N9-3920 về nhà, tới đoạn ngõ 527 thì một người mặc sắc phục cảnh sát ra chặn đầu xe. Người mặc sắc phục này đã dùng gậy gỗ vụt vào trán khiến anh Bắc bị choáng, dẫn tới đâm vào góc tường nhà đầu ngõ 527.
Anh Bắc đang làm việc với cán bộ CA ngay tại hiện trường xảy ra sự việc.
Hậu quả khiến anh Bắc bị chảy máu rất nhiều ở trán, chiếc xe bị vỡ gương chiếu hậu. Ngay sau đó, anh Bắc bị choáng và ngã ra đường. Người dân chạy lại đỡ anh dậy và đề nghị người mặc sắc phục cảnh sát đưa anh Bắc đi cấp cứu.  
Anh Bắc với vết thương trên trán do bị ông Lâm đánh. (Ảnh NP)
Theo ông Nguyễn Văn Đắc – một người chứng kiến sự việc cho hay, sau khi bị ngã, máu chảy nhiều, anh Bắc đã đứng dậy và nói với viên cảnh sát: “sao anh lại đánh tôi, anh dừng xe thì tôi phải đi từ từ rồi dừng lại, sao anh lại vụt vào đầu tôi? Rồi sau đó anh Bắc dùng tay dính đầy máu của mình đẩy anh công an ra”- Ông Đắc kể lại. 
Chiếc xe máy của anh Bắc vẫn dựng nguyên tại hiện trường. (Ảnh NP)
"Không những không đưa anh Bắc đi cấp cứu, người này còn nói rất thiếu trách nhiệm: nó không chết đâu mà đi cấp cứu, “nó đâm vào nó chịu” – anh Nguyễn Văn Tuấn(ở ngõ 527, đường Lĩnh Nam) nói. Nhiều nhân chứng tái khẳng định chi tiết này.
Sự việc xảy ra khiến rất đông người dân bức xúc kéo tới đây phản đối, yêu cầu xử lý nghiêm cán bộ công an liên quan.
Theo thông tin chúng tôi có được, viên cảnh sát mặc cảnh phục mang quân hàm trung tá mang tên Trần Bảo Lâm, đang là Phó công an phường Trần Phú (quận Hoàng Mai).
Cảnh sát bị dân đánh phải đi viện kiểm tra! (?)
Để có thông tin khách quan, PV Báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã tìm đến trụ sở CA phường Trần Phú xác minh sự việc. Tại đây, ông Nguyễn Công Thơm – Trung tá, Trưởng CA phường Trần Phú xác nhận ông Lâm là Phó công an phường Trần Phú.
Tại đây, trao đổi với phóng viên, ông Lâm cho rằng mình không vụt vào đầu anh Bắc mà do anh ta tự đâm vào tưởng sau đó đập đầu vào cửa sổ nhà dân.
Ông Lâm tại hiện trường.

Việc anh Bắc bị dừng xe là do anh Bắc điều khiển xe máy nhưng không đội mũ bảo hiểm. Cũng theo ông Lâm, sau khi anh Bắc bị ngã, anh đã đứng dậy cùng những người dân lao vào đánh ông vào cổ, gáy…(?) Vì vậy ông bị thương ở vùng cổ và bị chảy máu. Tuy nhiên, khi chúng tôi quan sát và chụp lại hình ảnh thì không hề thấy cổ ông Lâm có vết thương hở nào có thể dẫn đến cháy máu. Mà theo ông Đắc, vết máu dính trên cơ thể ông Lâm là do khi anh Bắc đẩy ông ra đã khiến máu dính trên cổ ông…
Ông Lâm vừa nói vừa tỏ ra mệt mỏi. Sau khi trả lời phóng viên được chừng 3-5 phút, ông đứng dậy đi “kiểm tra sức khỏe”. 
Ông Lâm tại trụ sở CA phường Trần Phú. (Ảnh NP)
Đến hơn 12h trưa cùng ngày, tức là cách thời điểm xảy ra sự việc đã được 3 tiếng đồng hồ, vị trung tá CA này đi BV Thanh Nhàn kiểm tra.

Gần 13h cùng ngày, việc lấy lời khai, lập biên bản đối với anh Bắc đã được CA phường Lĩnh Nam tiến hành xong tại hiện trường và đưa anh đi khám thương. Hiện cơ quan chức năng đang tiến hành làm rõ sự việc.
Báo điện tử Giáo dục Việt Nam sẽ tiếp tục thông tin về sự việc này.
  • - Đại gia bất động sản bị tố đánh con gái trật xương cổ (Dân Việt). 
  • Nghi án công an xã đánh cặp vợ chồng trọng thương
  • Dùng bình xịt hơi cay tấn công công an
  • Bị giữ xe gian, nhóm côn đồ lên kế hoạch trả thù công an
  • Gây án xong, chờ công an “giải cứu”!
  • Cho thôi việc trưởng công an xã say rượu bắn người
  • Bắt Phó chủ tịch và hai Phó công an xã lén bán tang vật
  • Nam thanh niên chết tại trụ sở Công an là tên ăn trộm vàng?
  • "Nôn nóng bắt cướp", công an bắt oan, đánh người thương tích

    Fitch Ratings: Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng Việt Nam có thể cao gấp 4 lần con số chính thức

    -Fitch Ratings: Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng Việt Nam có thể cao gấp 4 lần con số chính thức
    (DVT.vn) - Theo Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có thể cao gấp 4 lần con số 3,8% được công bố trước đó.
    Theo báo cáo của hãng xếp hạng tín dụng Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu thực sự của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có thể cao hơn tới 4 lần so với con số chính thức 3,3% được công bố trước đó. Tổ chức này cũng cảnh báo chất lượng tài sản của các ngân hàng có thể xấu hơn và khả năng hấp thụ các khoản nợ xấu của Chính phủ là không rõ ràng.
    Các chuyên gia nước ngoài nhận định, hiện tại nợ xấu của các ngân hàng là nguy cơ lớn nhất đối với hệ thống tín dụng nhưng sẽ được cải thiện nếu các ngân hàng chấp thuận tiếp nhận nguồn vốn từ nước ngoài.
    Chính phủ đã hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng trong nước để đảm bảo sự bền vững khi giới hạn tốc độ tăng trưởng dưới 20% trong năm 2011, giảm từ mức 23% của năm trước đó và tiếp tục hạ nhiệt xuống 15% trong năm 2012.
    Việc hạn chế tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là với một số lĩnh vực không khuyến khích đầu tư đã bước đầu có nhiều kết quả tích cực như giúp kiềm chế tốc độ tăng lạm phát, khôi phục niềm tin của doanh nghiệp và ổn định giá trị đồng nội tệ trong những tháng vừa qua.
    Tới thời điểm hiện tại, Việt Nam còn 6 ngân hàng có tình hình tín dụng yếu kém, chiếm khoảng 6% thị phần toàn hệ thống ngân hàng và đang được Ngân hàng Nhà nước ráo riết chỉ đạo phương án tái cấu trúc hoặc sáp nhập để đảm bảo khả năng tài chính.

    Tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng theo số liệu công bố chính thức năm 2011

    Đỗ Hà
    Theo Bloomberg


    Mô hình kinh tế Việt Nam rất không bền vững (VOV).-Tìm nguyên nhân bất ổn kinh tế vĩ mô-(TBKTSG Online) - Hàng loạt các yếu kém nội tại gây bất ổn kinh tế vĩ mô kéo dài tiếp tục được các nhà kinh tế thảo luận tại tọa đàm: Hướng tới một khuôn khổ chính sách kinh tế cho Việt Nam trong trung và dài hạn tổ chức sáng 21-3.Việt Nam thuê tư vấn cải thiện xếp hạng tín nhiệm (VnEconomy).- Cần “mổ xẻ” DNNN để an lòng dân (Bee).- Thà đau một lần để có tương lai bền vững (TBKTSG)
    .- Đại gia Việt vung tiền mua khách sạn, resort ngoại (VEF)- Không nên vội vàng giảm lãi suất (TBKTSG).- Vay vốn ngân hàng: Cơ hội ở… kỳ hạn (VnEconomy).- Vàng tăng trở lại sau hai ngày giảm mạnh (TP).  - Nhà đầu tư ‘chết’ trên sàn vàng chui (VNE).--Có nên cho phép mở casino? (TBKTSG Online) - Casino (sòng bạc), rộng hơn là các hình thức cá cược như xổ số, cá độ bóng đá, cá cược đua ngựa, đua chó, vui chơi có thưởng... là loại hình kinh doanh giải trí khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Gần đây, vấn Thu hồi rạp Bắc Đô (Hà Nội): Ém nhẹm thông tin, đối tác ăn trái đắng
    (Dân trí) – Do đối tác ém nhẹm thông tin rạp Bắc Đô (số 39 Hàng Giấy, quận Hoàn Kiếm) sẽ bị Thành phố thu hồi nên một doanh nghiệp đã “sập bẫy” bỏ ra nhiều tỷ đồng hợp tác đầu tư kinh doanh nay trở thành tay trắng.
    Sửa thuế thu nhập: ‘Lo luật không theo kịp giá’ (VNE).- Ngân hàng quốc doanh được yêu cầu giảm lãi suất (VnEconomy).  - Yêu cầu 5 ngân hàng lớn tiết giảm 5-10% chi phí (TTXVN).  - - Tổ hợp bô xít nhôm chậm tiến độ hồ chứa bùn đỏ (Bee).----Không có xe chở tiền, 40 chi nhánh ngân hàng không thể hoạt động (SGTT).- Bùng nổ mua, bán dự án địa ốc thời khủng hoảng (VnEconomy).
    Tiêu dùng ôtô: Trong thảm, ngoài nản (VnEconomy).- ‘Không nơi nào ôtô mất nhiều phí như Việt Nam!’ (VNN).  - Phí lưu hành phương tiện: Đổi tên, không đổi mức thu (TQ). - ‘Bị thu phí, dân sẽ buộc phải chọn phương tiện’ (VNN).   - “Loạn” phí giao thông, vì sao? (kỳ 3) (TT).  - Sau thu phí, sẽ cấm hẳn xe máy? (VTC).- Thu phí phương tiện cá nhân: Sẽ lấy ý kiến người dân (TP).  - “Áp thu phí ngay lập tức là ép chúng tôi chết” (DT).  - Phí phương tiện “bóp” chết doanh nghiệp vận tải? (VTC). - Nên thu quỹ bảo trì đường bộ khi nào? (TBKTSG).  - Bộ Giao thông giải trình về phí hạn chế xe cá nhân (VNE).  - Doanh nghiệp vận tải “kêu” không đủ tiền nộp… “thuế đường”  (VnMedia). Một mình ngân hàng không thể chống rửa tiền (VNN).- GS.TSKH Nguyễn Mại: Không nên tận thu (TT).  - Khoan sức dân hay bảo vệ nguồn thu? (TT).- Quốc hội Hy Lạp đồng ý thỏa thuận cứu nguy    –   (VOA).- Giá xăng dầu tăng khiến Tổng thống Mỹ phải du hành miền Tây    –   (VOA).- Mức nhà bán tại Mỹ gia tăng   –   (VOA).- Bồ Đào Nha rúng động vì biểu tình chống “thắt lưng buộc bụng” (DVT/AFFP).
    Việt Nam nợ nước ngoài 50 tỷ USD, không có nợ xấu (VOV).
    -Nợ công Việt Nam: Không có nợ xấu -(Tamnhin.net) - Trước một số ý kiến cho rằng, tỷ lệ nợ quốc gia của Việt Nam so với GDP hiện nay đang ở mức cao, Bộ Tài chính khẳng định chỉ số nợ của Việt Nam hiện ở mức trung bình và nằm trong phạm vi an toàn. Trong cơ cấu nợ của Việt Nam, chủ yếu là nợ vay dài hạn và lãi suất ưu đãi.
    Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, tính đến ngày 31/12/2011, nợ nước ngoài của quốc gia ước tính ở mức khoảng 1.042 nghìn tỷ đồng, bằng 41,5% GDP năm 2011. Đây là mức nằm trong phạm vi giới hạn an toàn. Bởi, theo Nghị quyết của Quốc hội, kiểm soát dư nợ công đến năm 2015 dưới 65% GDP, nợ Chính phủ, nợ quốc gia dưới 50% GDP.

    Kết luận này cũng phù hợp với đánh giá của các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Các tổ chức này nhận định, Việt Nam là nước có mức nợ nằm trong tầm kiểm soát và không nằm trong nhóm các nước có gánh nặng về nợ (HIPCs).


    Nếu xét về khía cạnh bền vững nợ cho thấy, nợ vay dài hạn, lãi suất ưu đãi là chủ yếu trong cơ cấu nợ của Việt Nam. Trong tổng số nợ của nước ta, số vốn vay ODA chiếm 75% và phần lớn số vốn này có lãi suất thấp.

    Một thí dụ điển hình là khoản vay của WB có thời hạn 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, mức lãi suất là 0,75%/năm. Khoản vay của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn, lãi suất 1%/năm. Các khoản vay của Nhật Bản có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn và mức lãi suất khoảng từ 1-2%/năm.

    Hiện nay, các khoản nợ đến hạn cả trong nước và nước ngoài đều được thanh toán đầy đủ, không có nợ xấu. Hơn nữa, cơ cấu huy động vốn vay trong và ngoài nước đã có sự thay đổi theo hướng tỷ trọng nợ nước ngoài giảm và tỷ trọng nợ trong nước tăng lên. Đây cũng là xu hướng chuyển đổi cơ cấu vay nợ nước ngoài sang vay nợ trong nước của các nước đang phát triển, nhằm giảm dần sự phụ thuộc vào nợ nước ngoài của quốc gia.

    So với các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm BB, chỉ số nợ của Việt Nam ở mức trung bình.

    Triển khai đồng bộ các giải pháp kiểm soát nợ công

    Nhằm thực hiện các mục tiêu về giới hạn an toàn đối với các chỉ tiêu về nợ công được Quốc hội thông qua như đã nói ở trên, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đang thực hiện các biện pháp nhằm kiểm soát nợ công. Cụ thể là tổ chức thực hiện thanh toán trả nợ, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để phát sinh nợ quá hạn, làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế.

    Việc huy động các nguồn vốn vay của Chính phủ sẽ được thực hiện trên cơ sở tiến độ giải ngân, tránh đọng vốn, tăng chi phí trả lãi, đồng thời không gây nên tình trạng gia tăng áp lực cho thị trường.

    Tiếp tục quản lý, giám sát chặt chẽ việc huy động, phân bổ sử dụng vốn vay để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo hiệu quả cao. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ, bảo lãnh Chính phủ theo hướng không mở rộng diện, gắn với hiệu quả sử dụng vốn, trả được nợ vay và giảm bao cấp từ ngân sách nhà nước.

    Rà soát lại, theo dõi, giám sát chặt chẽ việc xây dựng và điều chỉnh các chương trình tín dụng, tín dụng chính sách để giảm mức độ phụ thuộc quá lớn đối với nguồn vốn huy động từ phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Chú trọng công tác quản lý rủi ro đối với danh mục nợ, bao gồm rủi ro về đồng tiền vay, lãi suất, tỷ giá, khả năng thanh toán, tín dụng và hoạt động để hạn chế tới mức thấp nhất chi phí vay và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Nâng cao uy tín quốc gia và xây dựng đề án nâng cao hệ số xếp hạng tín nhiệm quốc gia để góp phần giảm chi phí vay của chính phủ và doanh nghiệp.

    Tăng cường giám sát, kiểm tra, kiểm toán, quyết toán việc tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng vốn vay đặc biệt là các doanh nghiệp để đảm bảo hiệu quả đầu tư, trả được nợ.

    PV (tổng hợp)- -Theo:Nợ công Việt Nam: Không có nợ xấu


    -Tuần sau xét xử vụ Vinashin- Đại gia Việt vung tiền mua khách sạn, resort ngoại(VEF.VN) - Hàng loạt dự án khách sạn sang, các khu du lịch. Resort nổi tiếng của các nhà đầu tư nước ngoài phát triển tại Việt Nam đang được các nhà đầu tư trong nước mua lại.

    -Hai người bị khởi tố trong vụ cưỡng chế đầm tôm ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
    Gió đã xoay chiều, ... ông Vươn vi phạm pháp luật có hệ thống, bí thư , chủ tịch xã Vinh Quang trở lại làm việc...

    Thông cáo báo chí của UBND thành phố Hải Phòng: “Ông Vươn vi phạm pháp luật có hệ thống” (VnMedia).   - TP Hải Phòng thông báo kết quả thực hiện kết luận của Thủ tướng về vụ Tiên Lãng(SGGP).   - Tiên Lãng kết luận ông Vươn vi phạm gì trong sử dụng đất? (Infonet). - Vụ Đoàn Văn Vươn: Bí thư, chủ tịch xã Vinh Quang trở lại làm việc (GDVN).

    Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam

    Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary ClintonHình: AP- Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam  

    Ngoại trưởng Clinton và các giới chức cao cấp khác đã khẳng định tiến bộ về nhân quyền là điều cần thiết để xây dựng quan hệ mật thiết giữa 2 nước
    Kể từ khi bình thường hóa bang giao năm 1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã mở rộng đáng kể tầm cỡ của mối quan hệ trong nhiều lãnh vực gồm thương mại, an ninh, môi trường, y tế và hợp tác cấp vùng. Tuy nhiên tiến bộ trong vấn đề nhân quyền tiếp tục trì chậm ở quốc gia đông nam Á này.


    Những luật lệ lời lẽ mơ hồ được thông qua gọi là để bảo vệ an ninh quốc gia vẫn được dùng để hăm dọa, và trong nhiều trường hợp, để tống giam những nhà hoạt động chính trị và tôn giáo bằng phương cách ôn hòa.

    Ngoại trưởng Hillary Clinton và các giới chức cao cấp khác của Hoa Kỳ đã khẳng định rõ là tiến bộ về nhân quyền là điều cần thiết để xây dựng những quan hệ mật thiết hơn giữa hai quốc gia.


    Trong một trong những vụ vi phạm nhân quyền mới nhất, Mục sư của một hội thánh Tin lành bị đặt ra ngoài vòng pháp luật đã bị kết án 11 năm tù vì bị cho là gieo rắc chia rẽ giữa chính phủ cộng sản Việt Nam và nhân dân.


    Mục sư Nguyễn Công Chính 43 tuổi, đã bị khép tội phá hoại chính sách đoàn kết của chính phủ tại phiên xử ông trong tỉnh Gia Lai ở cao nguyên Trung phần.


    Chính phủ Việt Nam vẫn siết chặt kiểm soát ở nhiều lãnh vực của xã hội dân sự và không chấp nhận những nỗ lực thiết lập một môi trường chính trị dung chấp hơn.


    Tòa khép mục sư Chính vào tội danh chủ mưu và phát tán các tài liệu bị coi là lăng mạ nhà cầm quyền. Các công tố viên cũng nói ông cộng tác với “các nhóm phản động” và xúi giục dân thiểu số phạm những hành vi sai trái.


    Hoa Kỳ hết sức lo ngại về vụ bắt giữ, kết tội và khép án tù Mục sư Chính. Vụ án này phản ánh tình trạng nhân quyền suy thoái trầm trọng hơn tại Việt Nam.


    Hoa Kỳ đòi Việt Nam công bố mọi sự thật trong vụ án này vì lợi ích của tính minh bạch và trách nhiệm của tư pháp.


    Nếu bang giao giữa hai quốc gia được xây dựng trên tiến bộ đáng kể mà đôi bên đã đạt được trong các quan hệ song phương, cải thiện và có mức độ tôn trọng nhân quyền lớn hơn ở Việt nam là điều cần thiết.


    Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hối thúc Việt Nam cho phép các công dân của họ hành xử những quyền làm người được quốc tế công nhận.

    Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam   –   (VOA).  -- ‘Thủ lĩnh’ Công án Bia Sơn đối diện án tử hình   –   (BBC).- Vietnam Reaffirms Policy On Human Rights (Bernama).
    -
    – Gia đình blogger Huỳnh Thục Vy bị cưỡng chế   –   (RFA). “Ông Trần Minh Thái, trưởng đoàn thanh tra nói với tôi là: ‘tôi đồng ý với anh là chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có tham gia công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị. Nhưng chúng tôi không trực tiếp áp dụng công ước quốc tế đó vào sinh hoạt của người dân’.” – Phản ứng tập thể của người dân   –   (RFA).
    - -  Phòng, chống “diễn biến hòa bình”-Lợi dụng trợ giúp nhân đạo để kích động … cái gì ta? (QĐND).

    Đầu tư vàng thua lỗ, khách 'vây' ngân hàngCho rằng thua lỗ hàng chục tỷ đồng khi chơi 'vàng ngoài sàn' do lỗi của ngân hàng Eximbank, nhưng bị tòa án TP HCM xử thua kiện, hôm 3/4, hơn chục người đã căng băng rôn trước trụ sở nhà băng này phản đối.
    >Bùng nổ đầu tư vàng 'chui'
    -  “600.000 xe cá nhân sẽ tự hào được đóng góp phí” (TTXVN).   - Phí chồng phí và cứu cánh xe buýt? (TVN).  - Cú “bẻ lái” ngoạn mục của Bộ trưởng Thăng? (PL&XH). -  - Thu phí chỉ hiệu quả khi người dân vẫn “sống” được và phát triển… (DT).  - Không thu phí xe máy của người nghèo (DV). “Hạ tầng không tốt, giao thông rối rắm là đương nhiên” (VnMedia).  - Bộ Giao thông đề nghị Hà Nội, TP HCM nghiên cứu tàu một ray (VNE).  - GS Nguyễn Minh Thuyết: “Không thấy nghị quyết nào nói chuyện thu phí” (Infonet).  - Năng lực & chính sách (TP).  - Giãn thuế để khoan sức dân (ĐĐK).

    Chính thức ban hành Nghị định về quản lý kinh doanh vàng: Cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán

    -“Giữ hộ” vàng và trả lợi tức là một hình thức lách quy định của Ngân hàng Nhà nước -Chính thức ban hành Nghị định về quản lý kinh doanh vàng: Cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán
    Sau khoảng vài chục lần dự thảo, cuối cùng nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng cũng đã được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 3/4/2012.


    Như nội dung dự thảo công bố trước đó, quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật, được ghi rõ trong Nghị định số 24/2012/NĐ-CP vừa ban hành.



    Nghị định này cũng giao cho Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng theo quy định.


    Điểm thu hút sự chú ý dư luận thời gian qua cũng như ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh vàng là các quy định về vàng miếng. Nghị định trên chính thức quy định Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.


    Hoạt động mua, bán vàng miếng của các tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện tại các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng.


    Doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng khi đáp ứng đủ 5 điều kiện: là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật; có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên; có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mua, bán vàng từ 2 năm trở lên; có số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng từ 500 triệu đồng/năm trở lên trong 2 năm liên tiếp gần nhất (có xác nhận của cơ quan thuế); có mạng lưới chi nhánh, địa điểm bán hàng tại Việt Nam từ 3 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.


    Với các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng khi đáp ứng đủ 3 điều kiện: có vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng trở lên; có đăng ký hoạt động kinh doanh vàng; có mạng lưới chi nhánh tại Việt Nam từ 5 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.


    Với các doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ khi đáp ứng đủ 2 điều kiện: là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; có địa điểm, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.


    Theo Nghị định, căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ và cung - cầu vàng trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước sẽ tổ chức thực hiện việc xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu cho doanh nghiệp theo quy định và cấp giấy phép xuất khẩu vàng nguyên liệu cho doanh nghiệp có giấy phép khai thác vàng theo quy định.


    Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ cho doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.


    Doanh nghiệp kinh doanh vàng có hợp đồng gia công vàng trang sức, mỹ nghệ với nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép tạm nhập vàng nguyên liệu để tái xuất sản phẩm.


    Việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng bột, dung dịch, vẩy hàn, muối vàng và các loại vàng trang sức dưới dạng bán thành phẩm được thực hiện theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.


    Cũng theo quy định tại nghị định này, Ngân hàng Nhà nước được bổ sung vàng miếng vào dự trữ ngoại hối nhà nước. Cơ quan này thực hiện can thiệp, bình ổn thị trường vàng qua biện pháp xuất - nhập khẩu vàng nguyên liệu; tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng qua các hạn mức phù hợp từng thời kỳ; thực hiện mua bán vàng miếng trên thị trường trong nước và tổ chức huy động vàng theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.


    Nghị định cũng quy định cụ thể các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh vàng với các điểm đáng chú ý.


    Đó là hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ không có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Ngân hàng Nhà nước cấp; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng, xuất - nhập khẩu vàng nguyên liệu không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.


    Các cá nhân mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh vượt mức quy định không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp cũng là hành vi vi phạm. Đặc biệt, sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán theo Nghị định là vi phạm pháp luật…


    Nghị định trên có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/5/2012. Dự kiến Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ có thông tin, hướng dẫn và triển khai cụ thể nội dung nghị định này.
     

    Hun Sen nổi giận trước tin Asean chia rẽ

    Hun Sen nổi giận trước tin Asean chia rẽ
    Hun Sen bác bỏ Campuchia chịu áp lực của Trung Quốc về Biển Đông
    Thủ tướng Campuchia Hun Sen tại Thượng đỉnh AseanThủ tướng Campuchia Hun Sen đã thể hiện thái độ giận dữ trong cuộc họp báo bế mạc hội nghị thượng đỉnh Asean tại thủ đô Phnom Penh của nước này.
    Ông bác bỏ thông tin cho rằng Asean đã bị chia rẽ về cách tiến hành các cuộc đàm phán về Quy tắc hành xử chung của các nước tại Biển Đông (COC). Ông cũng phủ nhận Campuchia, với tư cách chủ nhà, đã cố tìm cách đưa vấn đề Biển Đông ra khỏi nghị trình chính thức.
    “Có lẽ một số người nghĩ rằng trong suốt Hội nghị thượng đỉnh Asean này đã có sự khác biệt về quan điểm giữa Asean và Trung Quốc. Đó là suy nghĩ sai lầm,” ông nói và cho biết tất cả các bên đều cam kết giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình.
    “Điều làm tôi ghét nhất là họ nói Campuchia bị Trung Quốc gây sức ép. Campuchia là chủ tịch Asean và Campuchia có quyền đưa ra nghị trình,” ông nói thông qua phiên dịch viên.

    ‘Bất đồng sâu sắc’

    Trước đó, trong thông cáo chung của hội nghị, lãnh đạo các quốc gia Đông Nam Á đã cam kết đẩy mạnh các nỗ lực giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc.
    Thông cáo này được đưa ra khi Hội nghị thượng đỉnh Asean bế mạc hôm thứ Tư ngày 4/4.
    Lãnh đạo 10 nước Asean ‘tái khẳng định tầm quan trọng’của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông DOC và cam kết thúc đẩy hòa bình và hiểu biết lẫn nhau tại vùng biển tranh chấp.
    Tổng thống Aquino và Ngoại trưởng del Rosario của Philippines
    Philippines đã thúc đẩy mạnh mẽ vấn đề Biển Đông tại Thượng đỉnh Asean ở Phnom Penh
    “Chúng tôi nhấn mạnh việc cần thiết phải tăng cường các nỗ lực đảm bảo thực thi một cách đầy đủ và có hiệu quả DOC dựa trên những quy tắc hướng dẫn thực hiện,” thông cáo chung viết.
    Tuy nhiên, theo các nhà phân tích thì những ngôn từ như thế cũng từng được sử dụng trong thông cáo bế mạc Thượng đỉnh Asean hồi năm ngoái và các năm trước đó. Điều này thể hiện sự bế tắc trong vấn đề tranh chấp với Trung Quốc.
    “Đây là một thông cáo yếu nhưng có thể hiểu được khi chúng ta biết rằng Asean không thể tìm được tiếng nói chung về Biển Đông,” Pavin Chachavalpongpun, một nhà ngoại giao Thái Lan đã nghỉ hưu và hiện đang là chuyên gia tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, nói với hãng tin AFP.
    Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã có chuyến thăm Campuchia ngay trước thềm Thượng đỉnh Asean – một động thái mà nhiều nhà quan sát cho rằng là gây áp lực đối với Phnom Penh để nước này sử dụng vai trò chủ tịch Asean của mình để làm chậm lại các cuộc đàm phán về Biển Đông.
    Ngoại trưởng Philippines Ablert del Rosario cho biết đã có ‘bất đồng sâu sắc’ tại phiên họp hôm thứ Ba ngày 3/4 về việc liệu có nên mời Trung Quốc tham gia vào soạn thảo COC hay không.
    Campuchia rất muốn đưa Trung Quốc vào quá trình soạn thảo bộ quy tắc này nhưng các nước Philippines, Thái Lan và Việt Nam muốn Asean cùng thống nhất về một bộ quy tắc ứng xử trước khi đưa ra cho Trung Quốc để đàm phán.
    “Chúng tôi phải đưa ra kết luận trong nội bộ Asean trước rồi sau đó chúng tôi mới có thể đàm phán với Trung Quốc,” Ngoại trưởng Thái Lan Surapong Tovichakchaikul nói với các phóng viên hôm 4/4.
    Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cũng đã đề cập đến vấn đề Biển Đông tại Thượng đỉnh Asean hôm thứ Tư ngày 4/4, theo tường thuật của Thông tấn xã Việt Nam.
    Thủ tướng Dũng đề nghị Asean tiếp tục duy trì ‘tiếng nói chung’ và sớm thống nhất về nội dung cơ bản của COC để từ đó đối thoại với Trung Quốc.
    Ông cũng yêu cầu các bên giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luâṭ pháp quốc tế mà đặc biệt là Công ước quốc tế về Luật Biển 1982.

    --Việt Nam, Singapore khẳng định lập trường về vấn đề Biển Đông  Thủ tướng Việt Nam và Singapore nhất trí rằng bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến Biển Đông đều cần phải được giải quyết một cách ôn hòa.

    Thủ tướng Việt Nam và Singapore vừa xác lập sự cần thiết trong việc hai nước củng cố lập trường chung về Biển Đông hầu thúc đẩy hòa bình, ổn định, và an ninh về hàng hải trong khu vực.


    Hãng thông tấn Bernama của Malaysia ngày 4/4 trích thuật tin tức từ Việt Nam cho hay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và người tương nhiệm phía Singapore, ông Lý Hiển Long, đã đưa ra khẳng định này trong cuộc gặp tại Phnom Penh, Kampuchea, bên lề thượng đỉnh ASEAN lần thứ 20.


    Đôi bên nhất trí rằng bất kỳ tranh chấp nào giữa các bên liên quan đến Biển Đông đều cần phải được giải quyết một cách ôn hòa dựa trên luật quốc tế bao gồm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và bản Tuyên bố Ứng xử của các bên về vấn đề Biển Đông, trong tiến trình tiến tới việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông.


    Dịp này, lãnh đạo Việt Nam và Singapore cũng cho biết sẽ ký kết một số thỏa thuận thúc đẩy hợp tác kinh tế song phương.


    Thương mại và các hoạt động đầu tư giữa hai nước tăng mạnh trong năm 2011, với mức trao đổi mậu dịch tăng 22% so với năm trước đó, đạt 15 tỷ đô la.


    Singapore là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai vào thị trường Việt Nam.

    (Nguồn: Bernama, Asia One, The Business Times)

    -
    Cambodia bất ngờ đưa chủ đề Biển Ðông vào nghị trình thượng đỉnh

     

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét