Người Trung Hoa luôn tự hào và mạnh miệng tuyên bố rằng chính họ là
người sáng tạo ra Hà Đồ, Kinh Dịch… Bất chấp không ít ý kiến, công trình
nghiên cứu của nhiều học giả đặt nghi vấn về nguồn gốc thật của nó.
Một trong những nhà nghiên cứu luôn bày tỏ sự nghi ngờ đó chính là tác
giả Viên Như. Ông đã từng có hàng loạt khám phá, phân tích và chứng minh
lý thú xoay quanh các “nghi án ngàn năm” về chuyện các triều đình Trung
Hoa song song với việc xâm lược Việt Nam bằng quân sự còn chú ý thực
hiện hàng loạt kế hoạch tiêu diệt văn hóa Việt với nhiều thủ đoạn không
thể tưởng.
Một trong các thủ đoạn thâm độc đó là xuyên tạc và bóp
méo nhiều tác phẩm quan trọng của các danh nhân người Việt có tư tưởng
và công trạng lớn lao trong việc dựng nước và giữ nước trước họa xâm
lăng từ phương Bắc, được nhân tôn kính. Đồng thời bịa ra nhiều câu
chuyện hư hư thật thật xung quanh cuộc đời của các danh nhân người Việt
để bôi đen nhân cách của họ.
Tác giả Viên Như vừa cho công bố một
loạt bài nghiên cứu chứng minh Hà Đồ, Kinh Dịch hoàn toàn là thành quả
trí tuệ của người Việt cổ, tổ tiên của người Việt Nam ngày nay. “Nói có
sách, mách có chứng”, theo tác giả Viên Như toàn bộ các chứng cứ đều
được ghi rõ trên mặt trống đồng cổ của người Việt.
Đây có lẽ là
một nghi án văn hóa lớn nhất và dài nhất của nhân loại. Tác giả Viên Như
tin tưởng rằng với những phát hiện mới và hệ thống chứng cứ của ông về
những gì đã ghi lại trên mặt các trống đồng cổ của người Việt, cho phép
ông khẳng định: Hà Đồ và Kinh Dịch 100% là của người Việt Nam.
Tuy nhiên, tác giả Viên Như cũng thừa nhận rằng: "Với kiến thức giới
hạn, tôi xin lí giải một phần của trống đồng. Tôi tin rằng chắc chắn còn
nhiều tầng nghĩa nữa sau chiếc trống đồng im lặng ấy, mong những ai có
học thức và chuyên môn hãy cùng chung sức đáp lời tiên tổ, đánh thức
những âm thanh của bức thông điệp mà tổ tiên nước Việt đã gửi lại trong
vô tự tâm thư – TRỐNG ĐỒNG, để giải oan cho ông cha ta, dân tộc ta từ
mấy ngàn năm qua mang tiếng cái gì cũng học của người phương Bắc".
Xin tri ân tổ tiên nước Việt đã dày công tạo nên trống đồng, với một
ngôn ngữ kỳ diệu, đồng thời là một văn bản viết tay với những bằng chứng
không thể biện bác, như là một sự tiên trị, chuẩn bị cơ sở cho hàng
ngàn năm sau để cháu con làm sáng tỏ.
Xin chúc mừng tác giả.
ĐÃ TÌM THẤY HÀ ĐỒ - KINH DỊCH TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN
Viên Như
Trước hết xin bàn qua chuyện RỒNG. Theo truyền thuyết con Rồng cháu
Tiên thì Lạc Long Quân nói với Âu Cơ “ Ta là giống Rồng, nàng là giống
Tiên… không ở với nhau được” Vậy giống Rồng là giống gì? Từ đâu mà có
giống này? Tất nhiên là không phải con Rồng trong thần thoại rồi. Căn cứ
vào câu chuyện thì ta biết rằng Lạc Long Quân là người Đồng bằng còn Âu
cơ là người miền Núi. Chữ Rồng được hình thành theo cách sau : Lạc Long
Quân là dân lúa nước, những mảnh đất nhỏ trồng lúa gọi là RUỘNG, miền
trung gọi là rọn, còn tất cả những mảnh đất trồng lúa gộp lại thì gọi là
ĐỒNG. Hằng năm những cơn mưa đến, nước từ trên trời trút xuống, trên
nguồn đổ về dâng lên bao phủ cả bốn bề. Thậm chí người ta chẳng thấy mưa
đâu, vì mưa nơi khác, nhưng bổng dưng họ chứng kiến những con nước cứ
từ từ dâng lên, bò lên những cánh đồng, vượt qua những bờ đê, leo lên cả
mái nhà, nó di chuyến khắp nơi, mà đã di chuyển được, bò đi được thì
nhất định thuộc loài gì đó, con gì đó, nhưng không biết con gì, chỉ thấy
nó trườn qua Ruộng qua Đồng nên người xưa mỗi lần thấy nước lên thì
thông tin cho nhau là có con Ruộng Đồng tới, lâu ngày thành con Rồng
theo quy luật giản lượt tự nhiên của ngôn ngữ khi đã nói nhiều, nói
nhanh – lướt thành RUỘNG + ĐỒNG = RỒNG. Chính vì vậy trong tâm thức
người Việt, con rồng hết sức to lớn, luôn luôn gắn liền với nước, nên
khi nước trên trời trút xuống thì họ nghĩ là có con rồng ở trên ấy, ngày
ấy không có gì mạnh mẽ hơn sức mạnh của nước hay của rồng . Ngày nay
khi nước lên ta vẫn gọi là nước ròng. Từ một con nước không có hình hài
cụ thể nhưng do nhu cầu hiện thực, đã là con vật thì phải có hình tướng,
nên về sau con rồng đã được mang một thân hình cụ thể với những chi
tiết khác nhau, tùy theo mức tưởng tượng của mỗi dân tộc qua các thời
đại, chỉ cái bản chất duy nhất của nó là không thay đổi mà thôi. Đó là
sức mạnh.
Cũng như chữ RỒNG, trước khi tạo ra trống đồng, chắc chưa
có từ TRỐNG, từ này chỉ xuất hiện sau khi trống đồng đã được sử dụng
theo dòng chảy sau đây:
Như ta biết người Lạc Việt xưa là cộng đồng
cư dân lúa nước, các vuông đất trồng lúa được gọi là ĐỒNG, từ này được
thành lập bởi đọc lướt từ ĐẤT + TRỒNG = ĐỒNG 同. Vì vậy khi làm ra khí
cụ mà ta gọi là trống đồng người ta đặt tên là CÁI ĐỒNG, khi đánh CÁI
ĐỒNG nó phát ra một âm thanh mạnh mẽ như con Rồng gọi là “ RỐNG” từ xa
khi nghe thấy người ta bảo nhau rằng : ĐỒNG RỐNG, lướt thành ĐRỐNG rồi
thành TRỐNG từ đó người ta gọi khí cụ ấy là TRỐNG ĐỒNG. Tất nhiên người
Việt xưa đã có triết lý nòng nọc – âm dương rồi nên đã có CÁI ĐỒNG =
dương, thì phải có cái âm nên họ làm tiếp cái khác để biểu trưng cho
tượng này, cái đó gọi là CỒNG 共, Từ CỒNG, do đọc lướt từ CÁI + ĐỒNG =
CỒNG. Về sau gọi một tập thể người gồm nam nữ là CỒNG ĐỒNG rồi thành
CỘNG ĐỒNG 共 同 theo nguyên tắc âm dương như biểu í của con chữ.
Trống đồng là thành quả cao nhất của của cư dân Lạc Việt lúc bấy giờ,
những gì được thể hiện trên trống đồng đã thể hiện điều đó, rỏ ràng tư
tưởng, kỉ thuật và nghệ thuật đúc đồng lúc bấy giờ đã đạt đến trình độ
uyên áo và tinh xảo. Tất nhiên để có được một thành quả như vậy đòi hỏi
phải qua một quá trình lâu dài, không những chỉ là vấn đề kỉ thuật mà
còn đòi hỏi người Việt phải làm việc tích cực cả cộng đồng để thống nhất
tư tưởng, từ đó mới chọn ra được những ngôn ngữ nào thông qua hình ảnh,
hoa văn để viết thành một cuốn sử bằng tranh trên trống đồng. Chắc chắn
rằng tất cả những gì được đưa vào trống đồng đều có tiếng nói riêng của
nó, chính vì vậy từ trước tới giờ đã có rất nhiều người nghiên cứu nhằm
giải thích cái thông điệp mà tổ tiên người Việt gởi gắm trong đó. Giải
thích thì nhiều nhưng dường như chưa có một lí giải nào có tính hệ thống
đầy đủ hay nói khác hơn người ta chưa xâu chuổi được các thông tin
thông qua hình ảnh trên trống đồng thành một câu chuyện hợp lí, thuyết
phục, từ đó cung cấp cho hậu thế một cái nhìn tương đối về cuộc sống của
ông cha ta lúc bấy giờ. Đây là một vấn đề lớn và chắc chắn các nhà
nghiên cứu tâm huyết với cội nguồn dân tộc đã bỏ ra rất nhiều thời gian
và công sức nhưng kết quả vẫn chưa làm thỏa mãn được nhu cầu của dân
tộc. Điều ấy là chuyện bình thường, vì những gì ghi lại trên trống đồng
cách chúng ta cả mấy ngàn năm, chừng ấy thời gian thì mọi thông tin đã
sai lạc, biến thái, nhưng chúng ta chỉ có thế, chỉ biết lần theo dấu vết
của các thông tin từ các truyền thuyết và lịch sử mà tìm về cội nguồn,
mà lịch sử thì biến động không ngừng nên đôi khi những gì ghi lại nó lại
là bảng chỉ đường sai lạc dẩn ta về những kết quả không như mong đợi.
Với hiểu biết nhỏ bé của mình tôi cũng xin đưa ra đây vài giải thích về
trống đồng. Tất nhiên là phải chọn loại xưa nhất theo xếp loại của các
nhà nghiên cứu trống đồng, cụ thể ở đây là trống đồng Đông Sơn.
alt
http://www.vietnamvanhien.net Mặt trống đồng Đông Sơn : Ngoài các hoa văn hình học, mặt trống có bốn vòng chính như sau :
1- Vòng tròn hình ngôi sao hay mặt trời 14 tia, có cái 12, 10, 8,
chuyện này ai cũng biết rồi, sống mà thiếu mặt trời thì làm sao sống
được, cư dân lúa nước Lạc Việt cũng thế thôi. Vì có sự khác nhau đáng kể
như vậy nên nhiều nhà nghiên cứu đề nghị để chỉ thành phần bộ lạc tham
gia đúc trống. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu sâu thêm. Riêng đối với các
tam giác bên trong có biểu tượng mà theo tôi là cóc hướng về mặt trời,
vì nhiều trống khác cụ thể bằng con cóc lên bề mặt. Tựu trung thì người
Việt xưa thờ mặt trời. Vũ trụ quan và nhân sinh quan đều dựa trên khái
niệm nòng nọc, âm dương hay cóc.
2- Vòng có người, tả cảnh sinh
hoạt của cộng đồng khi xong mùa. Ta thấy cảnh giả gạo, nhảy múa, thổi
khèn, đâm trống, đánh cồng, có lẽ để cúng tế , vì có người đứng trước âu
cầu mùa đang dang tay nói gì đó. (hình người ngưỡng mặt lên trên có con
gà). Việc cúng tế nơi nào cũng giống nhau, nên hai âu cầu mùa đều giống
nhau, còn hình người ngồi trong nhà như đang ăn uống, tuy nhiên số
lượng người trong nhà và chim trên mái nhà khác nhau, điều này có thể
nói lên là có nhiều gia đình đang vui chơi buổi xong mùa và có nhà thì
một người hát, hò hay kể chuyện (một con chim), nhà khác thì mọi người
cùng hát, hò (hai con chim). Con chim trên mái nhà theo tôi là biểu
tượng cho âm nhạc vì vậy trên âu cầu mùa – chổ đánh cồng- của trống
Hoành Hạ, cũng có hai con chim.
altaltaltalt
Cầu nguyện Tổ tiên Tấu cồng Nhảy múa Hát đồng dao
3- Vòng có hình các con gà và hươu. Đây là thú văn chỉ cho thấy rằng người Việt đã bắt đầu có ngôn ngữ hình tượng.
Theo tôi câu “ Nôm na là cha mách qué” là để chỉ về hình ảnh này. Câu
này có thể giải thích như sau : 喃Nôm = chữ Việt,那Na = ấy (Hán) Nôm là Nớ
= ấy, Cha = người làm ra = tác giả, Mách = Con hươu, ngày nay vẫn gọi
hươu nai là con mang. Qué = con gà. Viết thành câu = Nôm nớ là cha mách
qué. = Nôm ấy là người làm ra hươu gà. Ta có thể viết ngược lại “Chữ
hươu gà ấy là chữ Nôm.
A- Chữ Qué - Ngày trước khi muốn làm việc
gì quan trọng, người ta thường làm gà để cúng tổ tiên sau đó đem cặp
giò đến ông thầy xem tổ tiên nhắn gửi thế nào, gọi là bói giò gà. Sở dĩ
có tục bói gà là vì ngày xưa người Việt thấy con gà khi bới đất tìm thức
ăn, để lại trên đất những vạch ngang dọc nên người ta đặt tên nó là
quái 卦 nhưng để tránh trùng với các quái người ta gọi trại ra thành qué
về sau thành quẻ. Người xưa nghĩ rằng con gà có khả năng biết về dịch lý
nên đã vẽ ra những quẻ, nhằm nói lên những điều gì đó, vì vậy sau khi
chết, cặp giò của nó là là nơi chứa các thông tin của các quẻ, qua các
đường gân máu hiện ra nơi giò tượng trưng cho các quẻ hay những lời nói
của tổ tiên. Thầy đoán căn cứ vào đó mà nói. Vì vậy ở vòng tròn nói về
sinh hoạt của con người ta thấy có người đang ngưỡng mặt lên trời nói gì
đó với qué (tổ tiên). Về sau người phương Bắc chiếm lấy đọc là kê 鷄.
Biểu ý của chữ này cho thấy kê là loài chim – Điểu 鳥 biết đặt vấn đề -
Hề 奚 = sao mà, sao thế.
B - Chữ Mách – Ngày xưa có lẽ trong các loài
hoang dã có sừng, hươu là động vật người ta thường thấy nhất, vì nó
hiền, không làm hại đến con người và dĩ nhiên là đối tượng bị con người
săn bắn nhiều nhất lúc bấy giờ. Trong quá trình săn bắn người ta quan
sát thấy con hươu hay cọ sừng vào gốc cây làm thành những vạch ngang, từ
đó họ tin rằng con hươu cũng có khả năng vẽ ra những quẻ như con gà. Vì
vậy sau khi ăn thịt họ tin rằng xương hươu có chứa thông tin các quẻ
nên lấy một cái que nóng chọc vào xương cho nức ra -卜 Nôm = Bói, Hán =
Bốc- , những đường nức đó xem như là lời nói của các quái, thầy bói tùy
theo đường nức đó mà đoán, (biểu í của chữ quái 卦 đã cho thấy điều này).
Trong hướng suy nghĩ này, về sau, khi đã phát triển chữ viết khá hoàn
hảo, người Việt viết các lời đoán lên xương hươu. Cũng chính hình ảnh
con hươu cọ sừng vào gốc cây này mà người Việt vẽ thành một chữ tượng
hình 角 đọc là GỐC, như trong “gốc cây” có nghĩa là phần dưới của cây.
Như vậy chữ 角 tuy là tượng sừng, nhưng nó là đại diện cho xương hươu,
chính vì vậy người Việt đã phát triển tiếp í tưởng này vẽ thành một chữ
khác đó là chữ 觚CỌ, như trong “cọ xác 觚殼”(cọ lên cái cỏ ngoài) Hán đọc
là CÔ, nghĩa hiện nay trong chữ Hán là cái thẻ tre để viết chữ, nhưng
chiết tự ra ta thấy là dùng móng nhọn để cọ chữ lên xương hươu, cái mà
ngày nay ta gọi là giáp cốt. Điều này đã được minh chứng qua giáp cốt
văn mà các nhà khảo cổ, năm 1964, đã tìm thấy thành Ân Khư đời Thương
(khoảng 1700 – 1064 TCN). Về sau người phương Bắc chiếm lấy rồi đọc là
GIÁC với nghĩa là SỪNG, tuy nhiên âm GIỐC và GÓC đến nay vẫn còn, nhưng
để chỉ góc cạnh. Tất nhiên họ thừa biết nghĩa của chữ ấy là gốc cây,
nhưng họ chỉ lấy phần tượng hình con chữ là sừng, bỏ đi phần nguyên nhân
ra đời của chữ tượng hình đó – từ nguyên- nhằm xóa bỏ nguồn gốc con chữ
của người Việt, nhưng vẫn còn đó chữ cọ = 觚 . Vậy là người phương Bắc
dấu đầu mà lại lòi đuôi. Như thế ta thấy rằng chữ gốc 角, qué 鷄 là chữ
Nôm như câu “Nôm na là cha mách qué” đã cho biết. Điều nay chứng minh
rằng chữ vuông là chữ Nôm và nó có từ khi bình minh của con chữ tượng
hình chứ không phải từ thế kỉ thứ 10 như ta biết; như vậy chắc chắn rằng
chữ vuông mà người phương Bắc đã và đang dùng căn bản là chữ Nôm.
altalt
4 – Vòng có những con chim. Đây là điểu văn. Con chim lớn là con chim
thuộc họ hạc như cò, vạc, diệc. Trên trống đồng có thể là con chim diệc,
về cơ bản người Việt xưa cũng thấy khi cò, diệc ăn trên đồng, để lại
những dấu chân trên những thảm bùn, do di chuyển qua lại nên các dấu
chân chồng lên nhau, tạo ra nhiều quẻ khác nhau, người ta nghĩ rằng cũng
như gà, hươu, diệc cũng biết quẻ, không những dưới đất mà loài cò
diệc, khi làm tổ trên cây thường tha những cái đoạn cây nhỏ, ta gọi là
que, xếp ngang dọc để làm tổ nên người xưa cũng nghĩ loài này, nói
chung, đều biết quẻ nên lấy tên con diệc để làm biểu tượng cho loại ngôn
ngữ siêu hình của họ, vì con diệc ngoài bản thân nó, nó còn có đủ yếu
tố của cả hai con hươu, gà– trên trời, trung gian, dưới đất. Có thể từ
đó mà có BA GẠCH ☰. Về sau người phương Bắc lấy làm của họ đọc trại đi
từ DIỆC thành DỊCH trong KINH DỊCH. Từ hình ảnh của con chim diệc người
ta vẽ ra có chữ tượng hình 易 Diệc hay Dịch = thay đổi. Vì vậy cứ hình
ảnh trên trống đồng, ta thấy những con chim diệc dang cánh bay, tất cả
đều không thay đổi, nhưng bên dưới mỗi con thì có những con chim nhỏ cứ
thay đổi dần theo hướng di chuyển của con chim lớn. Tất nhiên đó là
nguồn gốc ban đầu chứ không phải là tất cả như Kinh dịch hiện nay, vì
Kinh dịch hiện nay là thành quả của biết bao bộ óc minh triết qua mấy
ngàn năm, nhưng nếu không có nguồn thì làm gì có sông.
alt alt
Tất cả những hình ảnh trên trống đồng đều ngược vòng kim đồng hồ, có
nghĩa là quay về. Ở đây là quay về hướng thần mặt trời, nghĩa bóng là
quay về với cội nguồn. Trong nghĩa đó, chữ nghĩa cũng để nói những
chuyện trong quá khứ nên chữ vuông ngày xưa viết từ phải sang trái, trên
xuống dưới là vậy.
Thân trống đồng : Chủ yếu hình thuyền, qua
hình ảnh cho thấy người Việt cổ đã có kỉ thuật đóng thuyền khá cao. Hầu
hết các thuyền trên trống đồng đều diễn tả sự chiến đấu gồm có các loại
như sau :
alt
1 – Loại nhỏ . Có lẽ để đi câu hay tập kích.
alt
2- Loại vừa. Chắc để tiếp vận lương thực.
3 - Loại lớn.
alt alt
A - Đang chiến đấu. Bắt tù binh.
alt
B – Rút lui có tù binh
alt
Đặc biệt trên thạp Đào Thịnh có hình thủy chiến trực diện, quân Lạc
Việt trên thuyền lớn đang hò reo chiến thắng. Chim ca reo mừng. Phe địch
rút lui.
Các hình thú quanh thân các loại trống đồng, cá sấu, chồn,
nai v.v. theo tôi chỉ để khắc họa các con vật quen thuộc với cư dân lúa
nước thời ấy mà thôi.
Trống đồng Đông Sơn là báu vật quốc gia
đúng như từ mà xưa kia ông cha ta đã nói – Bửu bối- Tư tưởng của những
người làm ra nó rỏ ràng đã vươn tới tầm cao huyền diệu. Toàn bộ trống
đồng được xây dựng với một bố cục hết sức chặc chẽ. Không những tổ tiên
ta hết sức tài tình trong cách chọn lựa ngôn ngữ hình ảnh để chuyển tải í
tưởng của mình, chim biểu tượng cho âm nhạc, gà biểu tượng cho ngôn ngữ
tâm linh – hươu cho ngôn ngữ viết, diệc cho ngôn ngữ triết học siêu
hình, mà còn tính toán xếp đặt làm sao có thể gợi í cho người đời sau có
thể nhận biết được, ví dụ : Bằng cách lập lại nhiều lần, như chim trên
nhà sàn, âu cầu mùa, đặc biệt là trong tình huống có tính xung đột như
hình những con chim trên thuyền của người lạc Việt. Hai chiến thuyền sát
nhau, vậy mà người xưa chỉ khắc họa cả bầy chim trên thuyền chiến
thắng, với hình ảnh này dù trong im lặng nhưng ta có thể nghe thấy tiếng
reo hò. Thêm vào đó nhận thức của họ về ngôn ngữ phương hướng trong
không gian phải nói là vô cùng kinh ngạc - Cách mà người xưa sắp đặt
hình ảnh ngược chiều kim đồng hồ để chỉ sự hướng tâm cho thấy là họ đã
có sức cảm thụ ngôn ngữ hình ảnh 2 D một cách chính xác. Nhưng quan
trọng trên hết đó là cùng một hình ảnh, nhưng qua cách sắp đặc trí tuệ,
nó vừa kể cho ta câu chuyện cuộc sống hơn 4000 năm trước, lại vừa kể cho
ta một câu chuyện khác về lý âm dương tối quan trọng của nước Việt và
chắc là của cả loài người.
Cũng với hình ảnh ấy trước hết với cái
nhìn tổng thể thì ta thấy người xưa đã xây dựng một trật tự của vũ trụ
hết sức khái quát, với một vòng tròn đồng tâm lớn tượng trưng cho vô
cực, vì vô cực nên nó bao trùm hết tất cả vạn hửu. Trong vòng tròn lớn
này có vòng trong nhỏ ở trung tâm, cái này người ta có thể thấy được,
cảm nhận được như mặt trời, đó là thái cực, từ thái cực này mà sinh ra
âm dương, nhị nghi - các hình tượng cóc phân hai trong tam giác hướng về
thái cực - Rồi từ trong vòng quay mênh mông của vũ trụ, trùng trùng
điệp điệp – các hoa văn hình học khác nhau, từng vòng đồng dạng nối tiếp
nhau vận hành quanh thái cực và nhị nghi từ đó sinh ra tứ tượng – Bốn
ngôi nhà, biểu tượng cho Thiếu dương – thái dương – thiếu âm - thái âm -
cái úp xuống, cái ngược lên, theo hình chày cối, trên ngôi nhà, chim
cũng có chẳn lẽ, chỉ rỏ hai tượng âm dương, từ đây mà sinh ra bát quái-
(hình con qué) - Hai nhóm đâm trống, mỗi nhóm bốn người. Như vậy là đủ
cả vô cực– thái cực- nhị nghi- tứ tượng – bát quái. Tiếp tới nhiên giới
cũng thế, từng đàn hươu qué theo nhau quấn quít, âm dương, dương âm,
cứ thế mà quay mãi, nhưng có đổi thay bao nhiêu chăng nữa cũng không
ngoài vòng vô cực, cái lớn lao huyền ảo đó được người xưa khắc họa bởi
một vòng tròn bao trùm mọi thứ, với những hoa văn hình học khác nhau,
nhưng đồng dạng nối nhau bao trùm thế giới.
Đó là cách nhìn trống
đồng theo trật tự từ trong ra ngoài, giờ đây chúng ta xét trống đồng
theo mặt phẳng với cái nhìn toàn bộ mặt trống đồng là thái cực, trong đó
chia hai, nữa âm, nữa dương đối lập nhau, chúng ta mới thấy hết cái trí
tuệ của tổ tiên nước Việt. Kẻ một vạch thẳng chia hai vòng tròn tại
điểm đầu của đoàn người nhảy múa, ta thấy rỏ một nửa là dương, bảy người
– số lẻ, nửa kia là âm, sáu người – số chẳn. Đây chính là hướng Nam,
Bắc, Càn, Khôn. Căn cứ vào hướng bắc số 6, hướng nam số 7 ta tính theo
hướng ngược chiều kim đồng hồ theo sự chỉ dẩn của trống đồng, ta có 8 ở
phương đông, 9 ở phương tây , rồi Bắc 1, nam 2, đông 3, tây 4 từ đây ta
biết đây là con số của Hà đồ. Mà như ngày nay ta biết trật tự đếm theo
Hà đồ là ngược chiều kim đồng hồ. Trong dãy số này ta thấy không có số
5, từ đó ta biết biến số của nó là 5, vì nó ở giữa của số đếm từ 1-9
(cửu cung), Hai số âm dương -nhị nghi – tuy bắt đầu phân hóa nhưng vẫn
còn đang quyến luyến trong tứ tượng 2 +4 = 6 (sáu con gà), nhưng rồi
cũng phải tiếp tục con đường phân hóa làm ra tám quẻ, (tám con gà nữa).
Đến đây xem như vương quốc vũ trụ của ông vua thái cực, cùng với quần
thần 6+8 = 14 đã đầy đủ, như đã thể hiện tại trung tâm trống đồng (14
tia sáng). Như đã nói trước số 5 thuộc trung ương, dĩ nhiên đã là trung
ương (cung) thì 4 phương chổ nào nó cũng can dự được : 6-1=5, 7-2=5,
8-3=5, 9-4= 5 từ đó ta có 20 con hươu chạy vòng ngoài. Tuy nhiên chạy
lui, chạy tới tính ngược, tính xuôi thì cũng nằm trong 9 cung, một âm,
một dương làm thành 18 thao túng cả càn khôn, vũ trụ, ấy là 18 con chim
diệc. Mấy ngàn năm qua người ta gọi là Tiên thiên bát quái. Khi người
Việt di cư lên đến sông Hoàng hà chắc có lẽ thấy nước chảy từ trên ấy
xuống phía nam nên mới đổi khảm vào phương bắc, tạo nên một cuộc cách
mạng tri thức rúng động mấy ngàn năm qua, gọi là hậu thiên bát quái. Đó
là chuyện con người, còn vũ trụ vẫn thế, cũng với số 20 âm dương quấn
quít ấy (tổng của chẳn và lẽ trong cửu cung), làm nên cái Lạc thư.
alt altalt
Đến đây có lẽ phiên tòa “Cóc kiện trê” đã kết thúc, phần thắng thuộc về
Cóc, một phiên tòa kéo dài chưa từng có trong lịch sử loài người, ít
nhất cũng trên 5000 ngàn năm, với biết bao luật sư và luận sư, cùng quá
nhiều nhân chứng, vật chứng giả vô cùng tinh vi, bên nguyên tưởng chừng
như vô vọng, nhưng cuối cùng luật sư Nhái đã hoàn toàn có lý, một kết
thúc có hậu cho công lí loài người. Có điều phiên tòa đã kết thúc, bản
án đã có, nhưng để giải quyết được hậu quả mà vụ án này gây ra là không
dễ. Biết được nỗi lo của Cóc. Luật sư nhái liền nói- “Thôi anh ạ, đây là
phiên tòa danh dự, mà mình đã thắng kiện là được rồi. Từ nay anh hãy
lấy bản án này làm đạo bùa chữa bệnh cho những người bị bệnh khom lưng,
cúi đầu truyền kiếp, như thế là có ích lắm rồi, chứ anh nên nhớ Trê là
loài có ngạnh, dây vào nó mệt lắm”. Cóc nghe nói. Ngước mắt nhìn trời,
im lặng.
Với kiến thức giới hạn, tôi xin lí giải một phần của trống
đồng. Tôi tin rằng chắc chắn còn nhiều tầng nghĩa nữa sau chiếc trống
đồng im lặng ấy, mong những ai có học thức và chuyên môn hãy cùng chung
sức đáp lời tiên tổ, đánh thức những âm thanh của bức thông điệp mà tổ
tiên nước Việt đã gửi lại trong vô tự tâm thư – TRỐNG ĐỒNG, để giải oan
cho ông cha ta, dân tộc ta từ mấy ngàn năm qua mang tiếng cái gì cũng
học của người phương Bắc.
Các hình ảnh minh họa lấy từ trang
http://chimviet.free.fr
Nguồn Chữ Nôm Mới