Chính trị – Xã hội
Trung Quốc phản đối Mỹ bán vũ khí cho Việt Nam -(RFI) — Việt Nam nhờ Ấn giúp thoát Trung -(RFI)Tướng Mỹ: TQ Đã Nói Sẽ Chiếm Biển Đông, Chỉ Cần Tiền Và Áp Lực Ngoại Giao, Nếu Cần Mới Đánh Phủ Đầu, Năm 2013 TQ Đã Đe Dọa Cả Mỹ -(VB)
Văn học phản kháng và cái giá phải trả -(RFA) – Trong những ngày gần đây nền văn học phản kháng trong nước có vẻ trầm lắng trong khi các hoạt động xã hội dân sự mang tính phản kháng lại nở rộ hơn trước. Mặc Lâm có cuộc nói chuyện với nhà văn Nguyễn Viện, một tác giả có nhiều tác phẩm văn học phản kháng để tìm hiểu thêm về sự việc này.
‘Đèn Cù quyển hai sẽ nói gì?’ -(BBC /nghe) -Nhà
văn Ngô Nhân Dụng :”Trong cuốn thứ hai, tác giả có nhiều kinh nghiệm
mới sau năm 1975 và có lẽ đó là những điều mà ông kể ra thì nhiều người
đọc sẽ thấy mới mẻ hơn so với cuốn một.”
Tố cáo Lê Thanh Hải tham nhũng -(Dân oan VN) – … Ông Lê Thanh Hải và nhóm trục lợi đã cố tình thu hồi trái Pháp luật khoảng trên 300 ha đất của người dân để trục lợi riêng và làm cơ sở để lên chức, nắm quyền . Đây là biểu hiện của sự tham nhũng tập thể (bao gồm Ông HẢI và nhóm trục lợi)…… Không ban hành Quyết định thu hồi đất và không tống đạt QĐ thu hồi đất tới từng hộ gia đình, cá nhân rõ ràng ông Lê Thanh Hải là một bí thư thành ủy một tp lớn lớn nhất, nhì của nước VN nhưng coi Luật ĐĐ và các Nghị định có liên quan chỉ là những xắp giấy lộn của mấy người bán ve chai.
- Phải chăng Tp.HCM là phần lãnh thổ riêng, không thuộc nước CHXHCNVN nên Ông Hải mới vô pháp luật đến thế là tuột cùng… Vậy mà các phương tiện báo giới vẫn ca ngợi là lãnh đạo Tp.HCM là năng động , sáng tạo ….để lấp liếm cho hành động trái pháp luật, phi tính dảng và vô nhân đạo – Người dân nhận thức rằng đây chính là biểu hiện của tư tưởng cát cứ bản vị, địa phương chủ nghĩa của LÊ THANH HẢI cùng nhóm trục lợi.
PGĐ sở Tư pháp Thừa Thiên-Huế: Chừ có cắt chức cũng chả vấn đề gì cả! -(MTG) – Trả lời về việc khi mình đang là Phó giám đốc sở nhưng không chịu dời nhà, giao mặt bằng làm đường, không sợ tai tiếng, ông Tư, nói: “Chao ôi anh sợ chi chuyện nớ em. Chừ có cắt chức anh thì chả có vấn đề gì cả. Nhưng mất của anh 200 triệu đồng thì cuộc đời làm phó giám đốc của anh có bòn được 2 chục triệu đâu…
Quảng Ninh chỉ đạo sử dụng độc quyền dịch vụ của Techcombank -(MTG)
Việt Nam bị vướng vào tai tiếng dầu bẩn tại Đài Loan -(RFI)
Chính Cộng Sản Làm Dân Miên Bài Việt -(VB) – Trong bầu cử Quốc Hội Miên, phe đối lập Miên tuyên truyền, khích động dân chúng Miên chống VNCS, nói VNCS là chỗ dựa của Thủ Tướng Hun Sen, số người Việt bất hợp pháp ở Miên đã ủng hộ đảng cầm quyền của Thủ tướng Hun Sen. Còn Hun Sen là sĩ quan bộ đội của CSVN, do VNCS đưa lên làm thủ tướng 28 năm rồi. Còn TC mua chuộc, viện trợ hào phóng cho nhà cầm quyền và nhân dân Miên, biến Miên thành tay sai cuồng nhiệt cho TC. Đến đổi có lần Miên chống đối hội nghị thượng đĩnh ASEAN lần đầu tiên không ra được thông cáo chung vì Việt Nam và Phi luật tân vận động đưa vấn đề Biển Đông vào nghị trình và thông cáo chung……Phóng sự của truyền hình Al Jazeera cũng có dẫn dụ phát biểu của một số người dân và đối lập Miên. «Họ [VNCS] gửi người của họ sang Cam Bốt và cài Hun Sen lên làm lãnh đạo… để có được lãnh thổ Cam Bốt».«Một số chủ tiệm cà phê là gián điệp được cử qua để có được thông tin từ Cam Bốt. Tất nhiên họ có thể khẳng định rằng Cam Bốt là một nơi tốt cho kinh doanh và sinh hoạt, nhưng tôi đã nhìn thấy chứng minh thư của họ và họ là công an Việt Nam»
Năm 2017, Sẽ Có 20% Dân VN Sẽ Mắc Bệnh Tim, Huyết Áp -(VB)
Ông Lê Thăng Long: Tường trình buổi làm việc với PCT phường và đưa ra yêu sách Dân chủ cho VN -(DCCT)
Vụng chèo khéo chống hay là coi thường người dân? -(DCCT) — Bà Katherine Lawson gặp gỡ Hội đồng Liên tôn Việt Nam -(DCCT)
Tin vui cho Philippines: FA-50 phóng thành công tên lửa diệt hạm -(ĐV) -Nguồn tin từ lực lượng không quân Hàn Quốc cho hay, ngày 8-10 trong một cuộc tập trận bắn đạn thật trên không phận biển Đông Hải, máy bay chiến đấu FA-50 do hàn Quốc tự nghiên cứu chế tạo đã lần đầu tiên phóng thành công loại tên lửa đất đối không AGM-65G (Maverick).
Đồng thời, quốc gia này cũng đã có những hợp đồng xuất khẩu loại máy bay chiến đấu này, và khách hàng lớn nhất là Philippines. Manila đã ký hợp đồng với Seoul mua 12 máy bay loại này. (Quan chức quân sự Philippines nghe giới thiệu về FA-50).
Báo Trung Quốc: Bắc Kinh cảnh giác Việt Nam có thể mua F-16 của Mỹ-(GDVN)
Báo TQ: Việt Nam có thể mua máy bay, radar, pháo tự hành, tàu hộ vệ Mỹ -(GDVN)
“Việt Nam muốn Ấn Độ giúp giảm sự phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc”-(GDVN)
Phá tàu cũ: Đừng hỏi tại sao ung thư ngày càng nhiều! -(ĐV)
Bùn đỏ ở Tây Nguyên: Không lo vỡ đập nhưng lo tràn hồ! -(MTG) — Người Sài Gòn ăn cơm tiệm, gặm bánh mì chống chọi với triều cường -(MTG)
Chủ tịch nước: Nền kinh tế đang ở giai đoạn khó khăn nhất -(Infonet)
Tụt hậu hoặc phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân -(GDVN) -Trần Sơn Lâm – Về quan hệ quốc tế, Mỹ và Trung Quốc bấy giờ tưởng rằng với sự cấu kết của mình Việt Nam sẽ sụp đổ nhưng ngược lại chúng ta vẫn đứng vững trước sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Trước sự vững vàng của ta, Mỹ bắt đầu thay đổi thái độ trong việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và từ năm 1995 lập quan hệ chính thức với ta.
Còn Trung Quốc đi trước một bước với việc ký hiệp định Thành Đô để chấm dứt chiến tranh biên giới và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, về Hiệp định này còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng lúc ấy chúng ta cần hòa bình để tái thiết đất nước…
Nguồn động lực đó phải đến từ Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân”. Thủ tướng nhấn mạnh: “Dân
chủ là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã chỉ rõ Nước ta
là một nước dân chủ, mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân. Đảng ta đã
khẳng định Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Dân chủ cũng là xu thế khách quan trong tiến trình phát
triển của xã hội loài người”.
“Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. -*** Trên nền nhân dân hay trên ĐẦU nhân dân.
Na Sơn lên tiếng về việc Thư viện Hà Nội dùng ảnh không xin phép -(Infonet)
Công an “bênh ra mặt” Chủ tịch phường bị tố thuê xã hội đen đánh dân-(GDVN) — Nghèo mà xài quá sang! -(NLĐ)
Thu hồi hơn 10 tỉ đồng chi sai cho giáo viên -(PLTP)
Những người phụ nữ làm nghiêng ngả Phủ Đầu Rồng – Kỳ 5: -Người phụ nữ đẹp nhất Phủ Đầu Rồng -(LĐ) – Vợ chồng Nguyễn Cao Kỳ. === >>>
“Nhiều nghị quyết rất hay, nhưng không thực tế” -(LĐ) -Sáng nay (11.10), tại TP.Hạ Long, UBND tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Tạp chí Cộng sản tổ chức hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế – nhìn từ thực tiễn Quảng Ninh”.
Nhiều công ty ở TPHCM vi phạm pháp luật, ép công nhân nghỉ việc -(LĐ) – Tùy tiện sử dụng quyền lực để chèn ép người lao động (NLĐ), nhiều công ty không những vi phạm pháp luật mà còn khiến quan hệ lao động trong doanh nghiệp bất ổn, nguy cơ tranh chấp lao động luôn thường trực, gây thiệt hại cho chính công ty. >>> Cần trang bị cho công nhân tờ báo thiết thân đến quyền, lợi ích của họ
*** Công nhân xứ XHCN mà bị bọn tư bản giãy chết vào tận nơi XHCN tha hồ bóc lột, ngó bộ còn tệ hơn bọn tư bản giãy chết.Không biết các tổ chức “XHDS” và công đoàn, LĐ lao động đâu rồi nhỉ.
Tiền khai thác khoáng sản không đủ sửa đường bị phá-(LĐ)
Quảng Trị: Đời sống vật chất, tinh thần các dân tộc thiểu số ngày càng đi lên-(LĐ) – Sướng hén, vậy là sắp tới thiên đường rồi.
<<< === Dựng lều trọ học
-(TT) -Năm học mới, phụ huynh ở xã biên giới Tam Thanh, huyện vùng cao
Quan Sơn (cách TP Thanh Hóa gần 180km) lại chặt luồng, nứa, lá cọ dựng
lều cạnh trường cho con trọ học.
Thủ tướng lên đường công du châu Âu và dự Hội nghị ASEM-(LĐ)Khởi công dự án đoạn tránh thành phố Phủ Lý hơn 2.000 tỷ đồng -(DĐDN)
Ô nhiễm tại Đồ Sơn – Hải Phòng: Người dân “một cổ hai tròng”-(DĐDN) >>> Công bố quy hoạch xây dựng vùng Nam Hà Tĩnh – Bắc Quảng Bình
*************************************************************
Nguyễn Phú Trọng tạo phản? -(DLB) — Đi tu thời… @ -(Kim Dung)
Nhầm lẫn hay đánh tráo? -(Phương Bích) — NGÀY GIẢI PHÓNG HAY NGÀY TIẾP QUẢN ? -(Thi Dao Tien FB)Bát bún mọc ở Bremen. -(Nguoibuongio) – Bát bún, người phục vụ, người ăn …như thế, đáng lẽ nó phải tồn tại ở Hà Nội hàng ngày, hàng giờ trong mỗi gia đình, mỗi quán ăn. Chỉ nên tiếp quản chứ không nên giải phóng những thứ như thế.
Ban Tuyên giáo Trung ương chữa cháy nhưng lại đổ dầu thêm vào lửa vào bí mật Hội nghị Thành Đô -(DLB) – Nếu đúng như thế và với nội dung “tích cực” như BTGTU đã “tuyên truyền” thì không có lý do gì đảng CSVN không công bố toàn bộ nội dung những “Văn kiện kết thúc Cuộc gặp Cấp cao tại Thành Đô”, “biên bản làm việc”, và “các tài liệu khác” cho nhân dân Việt Nam được biết.
Chỉ có việc công bố mọi văn kiện có chữ ký giữa những người cầm đầu
hai nước mới có thể minh xác được điều mà BTGTU viết trong tài liệu gửi
đến các cấp trong đảng: >>> Ban Tuyên giáo TW tung tài liệu Hội nghị Thành Đô, cuống cuồng đối phó chiến dịch Chúng Tôi Muốn Biết
Kinh tế
Hơn 16.000 ôtô được tiêu thụ tại VN chỉ trong tháng 9 -(MTG)Nga Lo Ngại Giá Dầu Giảm Thêm -(VB)
Lâm Đồng: Bò không ăn, nông dân lại đổ bỏ hàng ngàn tấn cà chua -(Infonet)
Thương lái ồ ạt thu mua sầu riêng non -(Infonet)
Cấm lưu hành 4 loại sữa bột-(GDVN)
Chứng khoán Mỹ ghi nhận tuần giao dịch tồi tệ nhất trong hơn 2 năm –(DĐDN)
Thế giới
Hong Kong: Hàng chục ngàn người tiếp tục biểu tình đòi dân chủ -(RFA)===>>>
Phong trào dân chủ Hồng Kông lấy lại khí thế sau khi đối thoại bị hủy -(RFI)
Trung tâm tài chính Hồng Kông lo ngại khủng hoảng kéo dài -(RFI)
Từ Biến Cố Hongkong Nhìn Vào Nhà Nước Nga – Tàu -(VB)
Hồng Kông: Hàng Ngàn Người Trở Lại Biểu Tình; TQ: Tố Mỹ Gián Tiếp Khuyến Khích Biểu Tình Tại Hồng Kông -(VB)
Bà con rảnh, xem mấy video về việc mổ tù nhan ở Trung cộng lấy nội tạng : [TQKKD] Thảm Sát Bí Mật tại Trung Quốc – Phần 1 -(Youtube)
Lật Tẩy Thủ Đoạn Phá Rối Biểu Tình Ở Hồng Kông (Video) -(ĐKN) — Sai Lầm Của Chính Phủ Hồng Kông Mở Ra Cơ Hội Cho Tập Cận Bình -(ĐKN)
10.000 người tiếp tục tràn ra đường biểu tình ở Hong Kong -(VnEx) -Người Hong Kong hôm qua hát, vẫy điện thoại di động khi chặn con đường chính ngoài trụ sở chính quyền, trong cuộc biểu tình đòi dân chủ. Chỉ trong vài giờ, số người biểu tình đã tăng lên hơn 10.000 người. -Hình dưới
Báo chí Trung Quốc lên án Mỹ đứng sau các cuộc biểu tình ở Hồng Kông -(VOA)
Lương Chấn Anh: Cảnh báo dùng vũ lực “giải phóng” Hồng Kông -(GDVN)
Trung Quốc: Người Mỹ đã gặp lãnh đạo biểu tình Hồng Kông từ vài tháng trước để thảo luận “cách mạng màu” -(LĐ)
Bài học Trung Quốc: Cháy nhà hai đầu -(ĐV) — Trung Quốc-Nga nắm tay nhau khai thác dầu thềm lục địa -(ĐV) — Nga bán cho TQ trực thăng vận tải số 1 thế giới -(ĐV)
Kỳ 67: “Lấy máu tươi” trong cách mạng văn hóa -(MTG) — Trung Quốc sẽ không cải cách chính trị theo “kiểu phương Tây” -(Infonet)
Trung Quốc có thể điều lực lượng đội lốt từ Biển Đông tới Senkaku -(GDVN) >>> Báo Iran: Trung Quốc khát vọng được bình đẳng quân sự với MỹBắc Kinh phản đối Seoul về vụ ngư dân Trung Quốc bị bắn chết -(RFI) — “Bắc Kinh bàng hoàng vì ngư dân bị Hàn Quốc bắn chết“ -(MTG)
Trung Quốc hài lòng về chiến dịch tô vẽ lại hình ảnh Đảng Cộng sản -(RFI)
Giới ‘Bình Nhưỡng học’ tại Seoul : Kim Jong Un bị đảo chánh -(RFI) — Bắc Triều Tiên ngưng thảo luận cấp cao với Hàn Quốc -(RFI) — Bắc Hàn loại bỏ tất cả các cuộc đàm phám với Hàn Quốc -(RFA) — Bắc Triều Tiên nói dự kiến đối thoại với miền nam đã đổ vỡ sau các vụ nổ súng -(VOA)
Kim Jong-un vắng mặt, quan chức cấp cao Triều Tiên phải “làm thêm giờ” -(GDVN)
Syria: LHQ lo ngại cho số phận của thường dân -(RFI) — Kobani: Người Kurd chống IS trong tình trạng thiếu lương thực và vũ khí -(RFA)
Cảnh sát London theo dõi hàng ngàn kẻ tình nghi khủng bố -(RFA)
Cameroon: Phiến quân Boko Haram trả tự do cho 27 con tin -(RFA)
Tổng thống Obama hối thúc Quốc hội tăng lương tối thiểu -(VOA)
Ngoại trưởng Mỹ: Chính phủ đoàn kết Afghanistan có thể là điểm xoay chuyển hệ trọng -(VOA) — Đánh bom tự sát ở Afghanistan, 1 cảnh sát viên thiệt mạng -(VOA)
Tổng thống Ukraina bổ nhiệm một tướng lãnh làm Thống đốc Donetsk -(RFI) — Russia News: Quan chức Ukraine vô tình lộ thủ phạm bắn rơi MH17 -(MTG)
Tổng thống Putin nỗ lực xây dựng giá trị tươi đẹp của Liên Xô cũ -(MTG) — Tổng thống Nga rút 17 vạn quân khỏi biên giới giáp Ukraine -(Infonet)
Số nạn nhân chết vì dịch Ebola vượt ngưỡng 4000 người -(RFI) — Mỹ bắt đầu kiểm tra Ebola tại phi trường Kennedy ở New York -(VOA)
Chính Khách Mỹ: Đòi Đóng Biên Giới Các Nước Tây Phi, Để Ngăn Chận Dịch Ebola; Mỹ: Tài Trợ 750 Triệu MK Lấy Từ Trong Ngân Sách Quốc Phòng Để Chống Ebola -(VB)
Nhật Bản chuẩn bị ứng phó với bão Vongfong -(VOA)
Giẫm đạp tại 1 cuộc mít tinh chính trị ở Pakistan, ít nhất 7 người thiệt mạng -(VOA) — Pakistan: 7 người chết vì bị giẫm đạp khi biểu tình -(RFA)
Văn hóa – Giáo dục – Khoa học
Bêu tên học sinh trước cờ vì chưa nộp tiền -(MTG) – Chuyện này tôi đã gặp hơn 15 năm trước ở một trường Trung học cấp 2& 3, và họp phụ huynh (dù không phải con tôi) tôi đã phản đối- Thế mà hôm nay lại vẫn còn tồn tại lối “sỉ nhục đấu tố” các cháu nhỏ như thế này!!!- Không bao giờ từ bỏ được thì mong gì chuyện lo cho dân cho nước lớn hơn.Tác giả Vũ Chất viết từ điển gây sốc là ai: Các chuyên gia đều bó tay -(Infonet)
Nữ sinh sát hại cán bộ: “Quan hệ” xong không đưa quà? -(ĐV)
Bé gái 14 tuổi bị đánh vô cùng dã man trong đêm -(NLĐO) ===>>>
Nữ sinh lớp 12 đâm chết cán bộ huyện vì không cho “quà” sau ân ái -(NLĐO)- Sau nhiều lần hứa tặng quà, cho tiền khi ân ái nhưng không thực hiện, Phùng Thị Thanh (18 tuổi, học sinh lớp 12) đã dùng dao đâm chết anh Lê Hải Đ., cán bộ Phòng Tài chính Kế hoạch huyện Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Phúc) ngay sau khi 2 người “quan hệ” xong”.
Thanh niên treo cổ chết trong phòng trọ -(NLĐ)
Phát hiện thi thể cháu bé bán vé số dưới ao -(PLTP)
Táo tợn dí súng, cướp hơn 1,2 tỉ đồng trên phố -(LĐ)
Dân kêu trời vì chợ ma túy – (TT)
Ban Tuyên giáo TW tung tài liệu Hội nghị Thành Đô, cuống cuồng đối phó chiến dịch Chúng Tôi Muốn Biết
Có hình chụp văn bản.-Trích :
“thương lượng giải quyết các bất đồng, tranh chấp, đặc biệt các tranh chấp về lãnh thổ trên đất liền và trên biển.” và “bổ sung các hiệp định đã ký kết giữa 2 nước“
“Văn kiện kết thúc Cuộc gặp Cấp cao tại Thành Đô”, “biên bản làm việc”, và “các tài liệu khác”
*** Chuyện dễ ẹt, như trên đã trích, tức là cái gì cũng có căn cứ, thì đảng “ta” và nhà nước cứ công bố những văn kiện này ra cho toàn dân biết, Hiệp định biên giới 1999 – Lãnh hải 2000 - và “Văn kiện kết thúc Cuộc gặp Cấp cao tại Thành Đô”, “biên bản làm việc”, và “các tài liệu khác”... chớ cứ cãi lẫy bằng mồm và văn bản giải thích… thì dân đen đâu có biết “ai đúng ai sai” và cái bọn phản động, bọn tùm lum… cứ vặn vẹo hoài thì hơi sức đâu mà cãi.
Gần 15 năm rồi chứ mới đâu, dân có ai thấy mấy thứ đó đâu- Giải pháp để “chống diễn biến” là công bố công khai, nếu đúng như những giải thích của đảng và nhà nước thì bọn phản động phải tẽn tò- Làm đi.
Danlambao
– Sau hơn một tháng im lặng, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vừa chính
thức có động thái phản ứng trước chiến dịch Chúng Tôi Muốn Biết được
phát động từ đầu tháng 9/2014 vừa qua. Một tập tài liệu về Hội nghị
Thành Đô do ban Tuyên giáo Trung ương đã được biên soạn và phân phát đến
các đảng viên, cán bộ trong các cơ sở đảng.
Ảnh hưởng đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên?
‘Chúng Tôi Muốn Biết’ là một chiến dịch đòi hỏi quyền được tiếp cận
thông tin minh bạch của người dân. Mục tiêu ban đầu là buộc đảng CSVN
phải công khai các thông tin về Mật ước Thành Đô ký kết với Trung Cộng
năm 1990.
Có thể thấy, sức lan tỏa rộng khắp và áp lực mạnh mẽ của phong trào
đã khiến ban Tuyên giáo Trung ương cuống cuồng tìm cách ứng phó
Bắt đầu từ tháng 10/2014, các cơ quan thuộc đảng cộng sản được lệnh
đồng loạt phân phát đến mọi đảng viên một tập tài liệu có tên ‘Cuộc gặp
cấp cao tại Thành Đô năm 1990’ do ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn.
Theo một số bức công văn, tài liệu tiết lộ cho Danlambao, việc gửi
tài liệu tuyên truyền được giải thích nhằm phản bác lại các thông tin rò
rỉ về Hội nghị Thành Đô được lan truyền trên mạng interner.
“Vừa qua, trên mạng phát tán tài liệu liên quan đến cuộc gặp cấp
cao tại Thành đô năm 1990 với những lời lẽ kích động, bịa đặt, xuyên
tạc sự thật, ảnh hưởng đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân”, công văn này viết.
Các cấp ủy cơ sở đảng cộng sản cũng được yêu cầu phải ‘triển khai,
tổ chức quán triệt, phổ biến đến cán bộ, đảng viên và người lao động ở
đơn vị’ tập tài liệu về Hội nghị Thành Đô do ban Tuyên giáo Trung ương
biên soạn.
‘Một lòng kiên quyết’ bảo vệ đảng, ‘kiên trì hữu nghị’ với TQ
Các thông tin trong tập tài liệu của ban Tuyên giáo Trung ương
không có gì mới, chủ yếu lặp lại các luận điệu cũ nhằm tuyên truyền cho
chế độ cộng sản.
Trong phần 3, nói về kết quả Hội nghị Thành Đô, tài liệu ban tuyên giáo viết rằng:
“Trong hội đàm, trao đổi không hề có vấn đề phía Trung Quốc gây
sức ép với ta về nhân sự, không hề có cái gội là sự thỏa thuận rằng:
“Việt Nam sẽ thành khu tự trị thuộc Trung Quốc, giống như Nội Mông, Tân
Cương và Quảng Tây vào năm 2010…”, như thông tin trên một số trang mạng,
blog đã đưa. Đây là một luận điệu bịa đặt với ý đồ kích động, gây bức
xúc trong cán bộ, đảng viên và trong các tầng lớp nhân dân”.
Về vấn đề Trung Cộng đưa giàn khoan HD 981 cùng tàu chiến xâm phạm
vùng biển Việt Nam, ban Tuyên giáo giải thích rằng: Sau chuyến đi Bắc
Kinh của ông Lê Hồng Anh, đặc phái viên tổng bí thư, hai đảng cộng sản
đã ‘đạt kết quả quan trọng’ và ‘khôi phục quan hệ giữa hai nước’.
Cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản khẳng định mối quan hệ ‘láng
giềng hữu nghị’ với Trung Cộng là ‘chủ trương đối ngoại quan trọng’
trong thời điểm hiện tại.
Sau cùng, ban Tuyên giáo TW lặp lại khẩu hiệu ‘một lòng kiên quyết’
‘giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ;
bảo vệ an ninh quốc gia’ và ‘kiên trì quan hệ hợp tác hữu nghị với nhân
dân Trung Quốc’.
Dưới đây là văn bản các tập tài liệu được tiết lộ cho Danlambao:
Ghi chú: Bức công văn trên đã được xóa đi một số chi tiết vì lý do an toàn.
Về hội nghị Thành Đô
Từ khi xẩy ra Hội nghị Thành Đô vào ngày 3 và 4/tháng 9/năm 1990 tới
nay, cộng sản Việt Nam không ngừng dâng đất, nhượng biển và qụy lụy
Trung cộng. Từ đó có người cho rằng đây là một hội nghị bán nước.
Có phải thế không?
Chúng ta cùng nhau xem xét vấn đề.
I ) Tình hình thế giới cộng sản trước Hội nghị Thành đô
- Tình hình tại Liên Xô
Tình hình Liên xô trước Hội nghi Thành đô 1990 là một tình hình: kinh tế thì đổ nát, chính trị thì không những dân, mà chính giới lãnh đạo, từ dưới lên trên, phần lớn hết tin tưởng vào chính quyền, vào đảng Cộng sản. Bắt đầu bằng Brejnev, Tổng bí thư, trước khi chết, đã phải than lên: « Xã hội chủ nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp săng của công, 1/3 bằng cấp là bằng cấp giả, công chức đến sở làm việc là đến cho có mặt, sau đó thì đi coi hát hay làm việc riêng. » Thêm vào đó, khi Brejnev chết, hai ông già lên thay, vừa bệnh hoạn, vừa chết sớm, Andropov, cầm quyền từ 1983 tới 1984, Tchernenko, lên thay, nhưng chỉ mấy tháng sau thì bệnh nặng, không thể cầm quyền, thực quyền ở trong tay Gorbatchev, cho tới khi Tchernenko chết, Gorbatchev lên ngôi chính thức vào năm 1985.
Gorbatchev nhận một gia tài cộng sản đổ nát, muốn cải tổ, tuy nhiên lúc đầu ông còn thận trọng, chỉ dùng những biện pháp nhỏ, như đưa ra những đạo luật xử phạt mạnh tham nhũng hối lộ, cấm dân nghiện rượu, cấm công chức bỏ giờ làm việc, và đồng thời cho xe đi hốt những người dân chán nản, thất vọng, uống rượu nằm đầy đường, bắt những công chức trong giờ làm việc mà lại có mặt ở những tiệm rượu hay những nhà hát. Nhưng những biện pháp này không đi đến đâu, tham nhũng hối lộ vẫn lan tràn, dân vẫn mất tin tưởng, vẫn uống rượu, không có rượu thì pha chế với alcool để uống, kinh tế vẫn đình trệ. Thêm vào đó, những quốc gia bị Nga hoàng và Lénine sát nhập vào Nga, bắt đầu nổi lên đòi tự trị. Đấy là chưa nói đến những vùng bị đe dọa bởi nạn đói. Đến nỗi Gorbachev, sợ phải than lên:« Tiếng kêu của song chảo, nồi niêu còn ghê sợ hơn tiếng súng đại bác và xe tăng. »
Người xưa có nói: « Họa vô đơn chí. Phúc bất trùng lai « (Tai họa không đến một lần. Phúc không trở lại lần thứ hai). Tình trạng quốc gia xã hội thì đã như vậy, đùng một cái, ngày 25/4/1986, nhà máy nguyên tử Tcherbobyl bị nổ. Đây là nhà máy được Liên xô xây vào năm 1977, khánh thành năm 1983, tại phía bắc thủ đô Kiev của nước Ukraine ngày hôm nay. Nhà máy nguyên tử này nổ ra mới cho dân và thế giới thấy tình trạng tồi tệ của nước Liên xô về hạ tầng cơ sở. Để chữa cháy, ngăn cản phóng xạ thoát ra ngoài, người lính không có một bộ đồ mặc chống phóng xạ, họ phải dùng những chiếc áo mưa. Lúc đầu, cơ quan cấp dưới còn dấu diếm, nhưng sau không thể, phải báo cáo lên cấp trên, tới Gorbachev.
Từ lúc này Gorbachev mới thấy không thể dùng những biện pháp cải tổ nhỏ, mà phải cải tổ sâu rộng, nên đã đưa ra:
- Chính sách Trong sáng ( Glasnost ), cấm cơ quan cấp dưới che dấu sự thật, phải làm những bản tường trình trong sáng, nói lên sự thật.
- Chính sách tái cấu trúc ( Pérestroika), để được như vậy, thì phải tái cấu trúc guồng máy quốc gia, cách chức những công chức tham nhũng hối lộ, bất tài, dựa vào con ông cháu cha mà được lên chức, từ từ thực hiện bầu cử tự do, cho phép đối lập hoạt động, báo chí được quyền nói lên sự thật.
Có người tố cáo Gorbatchev là người của CIA, Cơ quan tình báo Hoa kỳ, gài vào để làm sụp chế độ cộng sản. Thực ra không phải vậy. Không có một bằng cớ, một tài liệu nào chứng tỏ ông là người của CIA. Ông chỉ muốn cứu và cải tổ một chế độ không thể cải tổ được mà chỉ có thay thế; và con đường ông đi là con đường tất yếu của lịch sử, nếu muốn nghĩ đến dân, đến nước, nếu muốn theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.
Thực vậy, căn nhà xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên một nền móng sai lầm là lý thuyết Mác Lê. Marx chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu, đấu tranh giai cấp. Bãi bỏ quyền tư hữu có nghĩa là bãi bỏ một nguyên động lực chính thúc đẩy con người làm việc, đưa xã hội cộng sản lâm vào cảnh « Cha chung không ai khóc. Nhà chung không người chăm sóc. Ruộng chung không ai cày. » Người dân đến hợp tác xã là để có mặt, làm việc cho lấy có, mang tâm trạng « Ta làm việc nhiều cũng chỉ lãnh lương như người làm ít hay không làm. » Đã từ lâu, những máy cày, xe cộ của hợp tác xã, bị bỏ mục nát ở ngoài đồng. Số khoai lang đào được, 1/3 để hư thối ở ngoài đồng, 1/3 hư thối vì chuyên chở và bảo trì không cẩn thận ở trong kho.
Ông Jegor Gaida, người đã từng làm Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng bộ kinh tế thời Tổng thống Boris Eltsine, thì cho rằng sở dĩ có sự sụp đổ của Liên sô là vì khí đốt và dầu hỏa, trong một quyển sách ông viết sau khi không còn tại chức. Theo ông, vào những năm 70, giá khí đốt và dầu hỏa tăng, Liên sô là quốc gia xuất cảng 2 thứ này, nên nguồn thâu nhập tăng. Chính vì vậy mà suốt thời Brejnev làm Tổng bí thư từ năm 1964 tới năm 1983, Liên sô không những chạy đua vũ khí với Hoa kỳ, làm ông chủ thầu, đặt vũ khí ở những nước đàn em, như Ba lan thì sản xuất tàu thủy, Đông Đức thì sản xuất xe tăng, Tiệp khắc thì sản xuất súng AK47 v.v… Nhưng đến những năm 80, thì giá khí đốt và dầu bắt đầu giảm, khiến phần thu nhập của Liên sô cũng giảm, lôi theo các nước đàn em.
Phần nhận xét này của ông Gaida không phải là không đúng, nhưng nó chỉ là một phần và có tính cách ngắn hạn. Một đế quốc, một triều đại sụp đổ tất nhiên là đến từ nhiều nguyên nhân: nguyên nhân gần, nguyên nhân xa, nguyên nhân trung hạn, nguyên nhân thật xa.
Nguyên nhân sụp đổ thật xa của của Liên sô bắt đầu từ nền tảng triết học của Marx, như trên đã nói là chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu.
Nguyên nhân trung hạn đó là tư tưởng của Lénine lập nên nhà nước độc đảng, độc tài, áp dụng lý thuyết không tưởng của Marx, trong những đợt đánh tư bản mại sản, giết chết hết giai tầng trung lưu.
Chính Boris Eltsine, đã từng là người cộng sản, Uỷ viên Bộ Chính trị, phải than lên khi ông làm Tổng thống xứ Nga: « Nước Nga đã không còn giai tầng trung lưu, giai tầng năng động và là xương sống của xã hội. Đâu còn những con người tháo vát, chỉ cần tay cầm một con dao lớn, đi vào rừng, rồi tạo nên tất cả, nhà để ở, ruộng để cấy lúa, đất để trồng trọt, không những nuôi sống thân mình, gia đình mình, mà còn những gia đình khác. »
Ngoài ra còn nhiều những nguyên nhân khác, như Chiến tranh lạnh, Hoa kỳ nhằm đánh cộng sản, dụ Liên sô vào một cuộc chạy đua vũ trang, lâm vào cảnh kẻ nghèo thi đua tiêu tiền với kẻ giàu.
Từ đó mang lại những nguyên nhân gần, tham nhũng, hối lộ, dân mất hết tin tưởng vào Đảng Cộng sản và chính quyền, trước cuộc sống khó khăn, càng ngày càng bế tắc, dân sinh ra nghiện rượu.
Thế giới trước năm 1990 còn bị đè nặng dưới áp lực của Chiến tranh lạnh, gồm 2 khối : Khối cộng sản lãnh đạo bởi Liên sô, mặc dầu có sự tranh quyền của Trung cộng, Khối tư bản dưới sự lãnh đạo của Hoa kỳ. Vì vậy tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Liên sô có ảnh hưởng trực tiếp không những đối với những nước cộng sản, mà còn đến cả thế giới.
Trong khuôn khổ bài này tôi chỉ xin nói về ảnh hưởng của Liên số đối với Việt Nam, Trung cộng và tất nhiên ảnh hưởng đến Hội Nghị Thành đô 1990.
I I ) Tình hình Việt nam sau khi Lê Duẫn chết vào tháng 7/1986, trước Hội nghị Thành đô
Có thể nói Lê Duẫn là người cuồng tín theo Liên sô, đúng hơn là theo Brejnev, tự biến Việt Nam thành một con chốt trong bàn cờ tranh hùng tư bản – cộng sản, theo kế hoặch của Brejnev.
Brejnev lên chức Tổng bí thư năm 1964, sau khi hạ bệ Khrouschev, ông này bị chỉ trích là đã mềm yếu trước tư bản vì cho rằng « Tư bản mạnh « chủ trương chính sách hòa hoãn với tư bản, quay về sửa sai chế độ cộng sản. Chính vì vậy mà khi lên ngôi Tổng bí thư năm 1953, chỉ ba năm sau, 1956, Khrouschev tố cáo chính sách tôn thờ cá nhân của Staline, bắt tay với Hoa kỳ, chính sách « Chung sống hòa bình «, « Nguyên tử phục vụ hòa bình«.
Brejnev hoàn toàn chủ trương ngược lại, cho rằng khối cộng sản không yếu như người ta tưởng, khối tư bản không mạnh như người ta nghĩ, mà ngược lại. Vì vậy ông chủ trương quên đi những khó khăn nội bộ, đẩy mạnh cuộc chiến chống tư bản, sau khi chiến thắng tư bản trên toàn thế giới, lúc đó trở về sửa sai cũng không muộn. Brejnev đã đưa ra một chiến lược gồm 2 kế sách: Thượng sách đẩy mạnh công cuộc chống tư bản ở mọi nơi trên thế giới, đưa đến chỗ tư bản phải sụp đổ tất yếu như lời dạy của Marx. Trung sách, nếu không thì chia đôi thế giới lấy trục Sài Gon, Phnom Penh, Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới tuyến, bên này phía đông thuộc về công sản, bên kia phía tây thuộc về tư bản.
Chính sách của Brejnev có vẻ hấp dẫn, được đa số trong Trung ương đảng nghe theo, nên có việc hạ bệ Khrouschev vào năm 1964.
Brejnev dùng ba con chốt chính để thực hiện chiến lược của mình : Bên châu Mỹ, Phi châu thì dùng Cuba với Phidel Castro; bên Âu châu thì dùng Đông Đức; bên Á châu thì dùng Việt Nam. Lê Duẩn là con chốt trung thành bậc nhất của Brejnev
Brejnev sửa sọan thượng sách trong vòng 4 năm và bắt đầu tấn công tư bản, như ở Việt Nam chúng ta thấy có Tết Mậu thân 1968, ở Âu châu và ngay ở Mỹ châu có « Phong trào Hòa bình «, những cuộc biểu tình phản chiến, sinh viên xuống đường, đứng đằng sau là những đảng cộng sản, những trí thức thân tả, bên Phi châu thì có những cuộc đảo chính thân cộng sản như ở Ethiopie v.v…
Quả thực lúc đầu có những kết quả ngoạn mục, thế giới tư bản, ngay cả tại Mỹ, có những cuộc biểu tình cả triệu người, thế giới tư bản quả thật bị rung rinh. Tuy nhiên đấy chỉ là kết quả có vẻ ngoạn mục lúc ban đầu, nhưng thế giới tư bản không sụp, mà ngược lại, ngân sách chi phí ra bên ngoài của Liên sô càng ngày càng tăng. Nói như một viên tướng Liên sô lúc bấy giờ:« Những thành quả gặt hái của Liên sô không làm tư bản lay chuyển, mà chỉ là những gánh nặng, những chương mục thêm để Liên xô gửi tiền giúp đỡ. »
Thêm vào đó tư bản, đứng đầu là Hoa kỳ, lại tìm cách khai thác tối đa sự bất đồng giữa Trung cộng và Liên sô. Nên có việc Nixon gặp Mao ở Bắc kinh, ra tuyên bố chung ở Thượng hải năm 1972.
Có người nói, thượng sách của Brejnev được thực hiện trong vòng 8 năm, từ năm 1964 tới 1972, thì chấm dứt, Brejnev phải quay ra thực hiện trung sách, chia đôi thế giới, giữ những gì mình đã gặt hái được.
Chính vì vậy mà có việc Liên xô gửi quân sang xâm chiếm A phú hãn, ký hiệp ước quân sự với Việt Nam và cộng sản Việt Nam gửi quân qua xâm chiếm Căm bốt năm 1978, để làm giới tuyến cộng sản tư bản Sài Gòn – Phnom Penh – Bangkok – Kaboul – Moscou như vừa nói ở trên.
Người khác lại cho rằng thượng sách được kết thúc vào năm 1975, thực ra là vào ngày 1/8/1975, ngày ký Hiệp ước Helsinski, chỉ sau khi quân đội cộng sản xua quân vào cưỡng chiếm miền Nam Việt nam khoảng 3 tháng.
Trong khi cộng sản Việt nam mù quáng vui mừng « chiến thắng » và còn có người u mê đến nỗi cho rằng trong tương lai sẽ « gửi quân sang giải phóng Hoa kỳ « , không biết gì đến tình hình thế giới và ngay cả tình hình khối cộng sản, thì Brejnev, một chỗ dựa « vững chắc « của Lê Duẫn, đã phải lùi bước, đi từ thế công sang thế thủ ở Hội nghị Helsinki, Phần Lan, họp vào cuối tháng 7, gồm các nước Âu châu cộng thêm Hoa kỳ và Gia nã đại. Ở Hội nghị này, Brejnev yêu cầu các nước Âu châu cộng với Hoa kỳ và Gia nã đại công nhận : 1) Biên giới sẵn có của Âu châu, nhất là giữa Liên xô, Ba lan và Đức, lấy sông Oder làm ranh giới, vì vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, Staline đã chiếm một phần lãnh thổ của Ba lan, và bù lại thì lại lấy một phần lãnh thổ của Đức sát nhập vào Ba lan ; 2) Yêu cầu thế giới chấp nhận học thuyết Brejnev, theo đó, những nước dưới sự ảnh hưởng của Liên sô chỉ có độc lập giới hạn và Liên sô có quyền gửi quân đến những nước này nếu cần.
Ngược lại thế giới tự do yêu cầu Liên xô phải mở cửa kinh tế để buôn bán với các nước tự do, không thể phá sóng những đài tự do chuyển vào thế giới cộng sản, phải thả một số tù nhân lương tâm.
Khi tham dự và ký những điều khoản của Hiệp ước Helsinski, có một người tướng của Cơ quan Quân báo Liên sô cho rằng « Liên sô ký Hiệp ước này là đã để cho tư bản chọc thủng phòng tuyến của mình «. Điều nhận xét của viên tướng này cho tới ngày Liên xô sụp đổ, quả không sai.
Trở về tình hình cộng sản Việt nam, vẫn u mê với « Chiến thắng «, vẫn nghĩ rằng « Tư bản đang giãy chết «, « Cộng sản sẽ toàn thắng trên toàn thế giới «, họ vẫn ở kế thượng sách của chiến lược Brejnev, trong khi ông này đã phải lùi về kế trung sách. Chính vì vậy mà cộng sản Việt nam xua quân sang xâm chiếm Căm bốt năm 1978 và còn hăm he tiến đánh Thái lan. Tuy nhiên cả Liên xô và cộng sản Việt nam, một bên thì bị sa lầy ở Căm bốt, bên kia thì bị sa lầy ở A phú hãn.
Đấy là chưa nói đến sự kiện Hoa kỳ và Trung cộng xích lại gần nhau hơn. Đặng tiểu Bình đã trở lại chính quyền năm 1976 và 2 năm sau 1978 nắm thực quyền, đã vội vã sang thăm Hoa kỳ năm 1979, đóng vai một người Hoa Kỳ, đội mũ cao bồi, đi xem đua ngựa. Cùng năm 1979, thì xua quân vượt biên giới « Dạy cho Việt nam một bài học ».
Từ ngày Hội nghị Helsinski tới ngày Brejnev chết, tình hình thế giới cộng sản càng ngày càng xấu đi, tại quốc nội cũng như quốc ngoại.
Quốc nội thì nói chung các nước cộng sản, kinh tế càng ngày càng tồi tệ, dân bất mãn, bỏ nước ra đi như ở Việt Nam, tại Liên sô thì dân sinh ra nghiện rượu; quốc ngoại thì xẩy ra tranh chấp Việt – Căm bốt, Việt – Hoa, Nga – Hoa. Tranh chấp Nga – Hoa trở nên cao độ. Hoa kỳ lợi dụng tình thế này để chia rẽ thế giới cộng sản.
Brezhnev chết là một mất mát lớn với cộng sản Việt nam, đặc biệt là với Lê Duẩn, người tuân thủ bất cứ một mệnh lệnh gì và sẵn sàng làm con chốt thí thân cho chiến lược của ông này. Brejnev chết đi, tình hình Liên xô cũng không có gì sáng sủa, hai ông già lên thay, Andropov và Tchernenko, trong vòng 2 năm, cho tới khi Gorbachev kế vị, rồi thế giới cộng sản Liên xô và Đông Âu sụp đổ. Trong thời gian này thì Lê Duẩn của Việt Nam vẫn cầm quyền cho tới tháng 7/1986.
Khi Lê Duẩn chết, người lên kế vị với chức vụ quyền Tổng bí thư là Trường Chinh, vì lúc đó theo thứ tự trong đảng thì đứng đầu là Lê Duẩn, thứ nhì là Trường Chinh, thứ ba là Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ đứng mãi thứ 6. Trường Chinh sang Liên xô 2 lần vào tháng 7, tháng 8, mong được sự chấp nhận của Gorbachev, vì lúc này Gorbachev đã lên ngôi. Nhưng ông này không chịu, khuyên những người già nên về hưu, nhường chỗ cho những người trẻ. Lợi dùng tình thế này, Lê đức Thọ kéo theo Trường Chinh và Phạm văn Đồng, ba người đều từ chức, về hưu. Nhưng trên thực tế là khi Lê Duẩn chết, con người quyền lực nhất lúc bấy giờ là Lê đức Thọ, vì con người này mặc dầu đứng thứ sáu, thứ bảy, nhưng nắm giữ chức vụ tổ chức nhân sự trong đảng, có nhiều vây cánh, ác ôn côn đồ, gian manh, xảo quyệt, đầu óc bè phái, gia tộc rất mạnh.
Mặc dù rút vào trong bóng tối, nhưng Lê đức Thọ đưa hết tay em của mình vào những chức vụ quan trọng trong đảng và chính quyền:
Nguyễn văn Linh, người từng là tay em của Thọ trong thời gian ở Trung ương Cục miền Nam, nay lên làm Tổng bí thư. Đây là một con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị rõ ràng, gió chiều nào theo chiều ấy, hoàn toàn bị khống chế bởi họ Lê, mặc dầu đảng cộng sản đã đánh bóng con người này, cho rằng đây là con người « Nói và Làm « , vì ông có viết báo, lấy bút hiệu là N.V.L., ở báo Nhân dân; hay đây là một con người sáng suốt, bằng cả trăm cả ngàn ngọn nến không kém gì Lê Duẫn. Chúng ta thấy lúc đầu thì Linh chủ trương « Đổi mới «, nhưng sau đó lại đàn áp những nhà đối lập không khác chi thời trước. Điều đáng buồn cho Việt Nam là trong thời gian Hội nghị Thành Đô, thì chính con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị này làm Tổng bí thư.
Về đảng thì đã là vậy, về chính quyền thì cũng là toàn tay em của Thọ, từ Đỗ Mười làm Thủ tướng, nhưng trước đó, vào thời chiến tranh chống Pháp, là Ủy viên ám sát của đảng ở vùng tả ngạn sông Hồng, gồm một phần Hà Đông, Nam định, Thái bình và Ninh bình, cũng là tay em của Thọ. Thêm vào đó em ruột của Lê đức Thọ là Mai chí Thọ ( cộng sản thay tên đổi họ) làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, công an. Lê đức Anh, người dưới quyền của Thọ ở miền nam, được Thọ cất nhắc lên chức Đại tướng, Tư lệnh đoàn quân sang xâm chiến Căm Bốt, được làm Bộ trưởng Bộ quốc Phòng; ngay cả Nguyễn cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ ngoại giao, là người trong Phái đoàn thương thuyết về Hiệp định Paris 1973, mà Lê đức Thọ là cố vấn, nhưng là người nắm thực quyền.
Lê đức Anh là một anh cai phu đồn điền, mà người dân kêu là « Anh chột «, là một người ác ôn không kém Thọ, vì đánh phu đồn điền, nên bị nghỉ việc, sau đó theo cộng sản. Vì là đặc trách tổ chức nhân sự của đảng, nên Thọ nắm được hồ sơ này, nhưng giữ kín, để làm một con bài sau này để dễ bề khống chế. Việc này, những người am tường tình hình đảng cộng sản Việt nam đều biết.
Cũng về đảng, chính những người cộng sản cao cấp và gần Lê Đức Thọ, ai cũng rõ ông này có ba biệt hiệu: « Anh Sáu búa «, « Anh Sáu Tú bà « và « Anh Sáu hèn. « Anh sáu búa vì Lê Đức Thọ chủ trương dùng búa để đập đầu, giết người thay vì dùng súng đạn. Anh Sáu tú bà vì trong thời gian nắm Trung ương Cục miền Nam sau Lê Duẩn, thì nhiệm vụ chính của Thọ là kiếm gái miền Nam gửi ra miền Bắc để cống hiến cho Bác (tức Hồ chí Minh) và cho Đảng ( tức các ông lớn trong Bộ Chính trị và Trung ương đảng). Anh Sáu hèn vì khi « Chiến thắng miền nam « thì hãnh tiến, vác mặt lên trời, đã ra lệnh trục xuất Đại sứ Pháp, ông Mérillon lúc bấy giờ, ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiến đồng hồ. Sau đó, khi cần, thì sang qụy lụy Pháp, xin Pháp giúp đỡ, viện trợ, đi chữa bệnh, nằm ở nhà thương quân sự của Pháp Val de Grace lúc cuối đời.
Người xưa có câu: « Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã « ( Trâu thì đi với trâu, ngựa thì đi tìm ngựa), ngay cả Tây phương cũng có câu: « Dis – moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es « ( Hãy nói cho tôi người anh lui tới, tôi sẽ nói anh là người thế nào.)
Con người Lê đức Thọ là con người vừa hèn, vừa ác ôn côn đồ, thủ đoạn « Mày theo tao thì mày có tất, nếu không thì tao sẽ giết mày «, vì vậy những tay em của hắn, từ Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Mai chí Thọ, và hôm nay còn một người cháu của ông ta là Lê Hồng Anh, vừa mới sang Tàu qụy lụy Tập cận Bình, những con người này mang tất cả những tật xấu của Lê đức Thọ, cũng hèn nhát, ác ôn côn đồ, qụy lụy ngoại bang, tinh thần gia tộc, bè phái, không coi thể diện quốc gia, quyền lợi dân tộc ra gì.
Người ta có thể nói từ ngày Lê Duẫn chết tới nay, Việt Nam bị khống chế bởi gia tộc họ Lê, con cháu và tay em. Những vụ ám sát, thủ tiêu như vụ của tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, mà vợ con phải than lên: « Chồng và bố tôi bị người ta đầu độc chết v.v… « , tất cả xa gần đều liên quan đến gia tộc này và những tay chân, bộ hạ của nó.
Thực ra thi Lê đức Thọ họ Phan, tên thực là Phan đình Khải, người Nam định, có trình độ tiểu học, thời đó gọi là bằng Cao đẳng tiểu học, được Pháp lập ra, vào lúc đầu khi đã ổn định chế độ thuộc địa. Những người có cấp bằng này hoặc đi về làng dạy học, như Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam, mà người ta thường gọi là « Ông giáo Phú «, hay Nguyễn thị Minh Khai, cũng được gọi là « Cô giáo Khai «, và ngay cả Hồ chí Minh cũng đã từng làm ông giáo làng ở Phan Thiết; những người khác thì đi làm hỏa xa, tức sóat vé trên tàu xe lửa, trường hợp của Lê Đức Thọ.
Lê Đức Thọ còn 2 người em, làm tướng, trước và ngay cả sau năm 1975, nhất là từ khi Lê Đức Thọ nắm thực quyền sau khi Lê Duẫn chết. Đó là Mai chí Thọ, tên thật là Phan đình Đống, làm đến chức vụ Bộ trưởng Bộ công an. Một người khác tên Đinh đức Thiện, tên thật là Phan đình Dinh, đặc trách về việc tiếp vận hậu cần, tương đương với Bộ trưởng Bộ Tiếp tế Lương thực. Có nguồn tin cho rằng Lê hồng Anh, đương kim Bộ Trưởng bộ Công An, đặc trách về Ban bí thư đảng ngày hôm nay, là con của Đinh đức Thiện. Nguồn tin này không phải không có lý. Một nguồn tin khác cho rằng ngay cả Nguyễn tấn Dũng, đương kim Thủ tướng hiện nay là con rơi của Mai chí Thọ, trong thời gian hoạt động ở miền Nam, sau đó đã ra ngoài Bắc, để lại cho Võ văn Kiệt làm con nuôi. Chính vì vậy, trong thời gian Võ văn Kiệt làm Thủ tướng, Mai chí Thọ làm Bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn Tấn Dũng đã lên như diều.
Tất cả những người con cháu, tay em của Thọ đều là những người giống Thọ, đầu óc gia tộc, bè phái rất lớn, sẵn sàng làm bất cứ giá nào để bảo vệ quyền lợi gia tộc và bè phái, dầu hèn hạ, qụy lụy ngoại bang hay ác ôn côn đồ.
Ngày hôm nay, cộng sản vẫn còn nắm quyền, gia đình họ Lê vẫn khống chế, sự thật vẫn bị che dấu, nhưng rồi trong tương lai sự thật sẽ được phơi bày. Như trường hợp Staline ra lệnh giết 20 000 sĩ quan Ba Lan là do Gorbachev tiết lộ bí mật; gia đình Nga hoàng Nicolas 2 bị giết hại bởi Lénine là do Boris Eltsine không những cho mọi người biết mà còn tổ chức an táng trọng thể.
Thực ra trước khi Lê Duẫn chết, cộng sản Việt Nam cũng biết rõ Liên sô không còn là chỗ tựa vững chắc nữa, không còn là thanh trì cách mạng, « là ngày mai tươi sáng của Việt nam «, nhất là khi Tchernenko chết, tất cả những Tổng bí thư của những đảng cộng sản đều phải sang để dự tang, Gorbachev nói thẳng với mọi người có mặt rằng: « Liên xô không thể giúp đỡ được nữa. Hiện nay muốn có hàng hóa của Liên sô thì phải mua và trả bằng ngoại tệ hay trao đổi hàng hóa. »
Chính vì vậy mà cộng sản Việt Nam đã chạy đôn chạy đáo, không còn sĩ diện quốc gia, dân tộc, đi van lạy các cường quốc.
Lúc đầu là với Mỹ. Ngoại trưởng Việt Nam nhiều lần sang Hoa kỳ, ban đầu thì còn lên giá, làm cao, tuyên bố: « Hoa kỳ muốn tái lập bang giao với Việt nam thì phải bồi thường chiến tranh. », sau đó xuống nước, không nói gì đến bồi thường chiến tranh, và tuyên bố: « Nếu Hoa kỳ muốn tái lập bang giao với Việt Nam, thì Việt Nam sẵn sàng dành mọi ưu tiên cho Hoa kỳ, ngay cả việc Hoa kỳ muốn đặt tòa Đại sứ hay Tổng lãnh sự, ở đâu, Việt Nam cũng đều đồng ý. »
Tuy nhiên giữa cán cân Trung cộng và Việt Nam, Hoa kỳ chọn Trung cộng chứ không chọn Việt Nam. Chúng ta phải nhớ là vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, tình hình giữa Việt Nam và Trung cộng rất căng thẳng. Hoa kỳ muốn đi với Trung cộng để chĩa mũi dùi vào Liên sô, đánh sập Liên Xô. Và cộng sản Việt nam lại là tay em trung thành của nước này.
Muốn đi theo Hoa kỳ không xong, cộng sản Việt nam quay sang tìm sự giúp đỡ của Pháp vào những năm 1988-1989, lúc này là lúc Tổng thống Pháp F. Mittérand vừa mới tái đắc cử. Tuy nhiên khả năng tài chính của Pháp hạn hẹp, thêm vào đó Pháp đòi hỏi phải dân chủ hóa chế độ, vì lúc này là lúc những phong trào dân chủ và những cuộc cách mạng dân chủ đã xẩy ra ở Đông Âu, nên việc không thành.
Việc Lê đức Thọ sang chữa bệnh ở Pháp năm 1988, vừa mang ý nghĩa chữa bệnh, vừa mang ý nghĩa chính trị.
Cộng sản Việt nam không còn con đường nào là hèn hạ, muối mặt, sang qụy lụy Trung cộng, mặc dầu trước đó đã lên tiếng chửi rủa Trung cộng không còn tiếng xấu nào mà không dùng, nào là « Chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh «, « Kẻ thù liền đất, liền trời « v.v…
Ai cũng biết người đứng sau nền chính trị Việt Nam và tất nhiên sau Hội nghị Thành đô là Lê đức Thọ, Phái đoàn Việt Nam gồm có Nguyễn văn Linh, đương kim Tổng bí thư, Đỗ Mười, đương kim Thủ tướng, Phạm văn Đồng, cựu Thủ tướng, cố vấn Phái đoàn. Phía bên Trung cộng, người đứng ngầm đằng sau là Đặng tiểu Bình, Phái đoàn gồm có Giang trặch Dân, đương kim Tổng bí thư, Lý Bằng, đương kim Thủ tướng.
Phía Việt Nam thì Lê đức Thọ bệnh nặng, chúng ta nên nhớ là Hội nghị Thành đô họp 2 ngày 3 và 4 tháng 9/1990, tất nhiên có những trao đổi trước đó cả tháng nếu không cả năm, thì chỉ hơn một tháng sau Lê đức Thọ chết vào ngày 13/10/1990.
Phía Việt nam nghĩ rằng có Phạm văn Đồng để cân xứng với Đặng tiểu Bình, nhưng đã lầm. Họ Phạm chỉ là một con người thừa hành, không có nhìn xa trông rộng, bằng chứng là đã ký công hàm bán nước năm 1958, thêm vào đó, đây là một con người cũng vô cùng hèn hạ, nhưng lại đạo đức giả và giỏi đóng kịch, giống như Hồ chí Minh, nên đã được người cộng sản khen ngợi rằng Phạm văn Đồng là học trò trung thành của Bác. Con người đạo đức giả này, sau khi họp Thành Đô về còn tỏ ra hối hận.
Về phía Trung cộng, chúng ta thấy Đặng tiểu Bình, một người lên voi xuống chó, ở chính trường quốc nội cũng như hải ngoại, là một con chó sói già trước một đàn cừu non Việt Nam. Con người này chỉ dùng lý thuyết cộng sản như một phương tiện để phục vụ cứu cánh của mình là chủ nghĩa bành trướng đại Hán, « Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là nó bắt được chuột. » Trong khi đó thì cộng sản Việt nam vẫn « Đánh Mỹ để xây dựng xã hội chủ nghĩa «. Chính vì vậy mà ông Nixon đã nói: « Trung cộng chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. »
Đó là sơ qua diễn tiến tình hình chính trị, trước khi đi đến hội nghị Thành đô 1990, về phía Việt Nam. Nhưng về phía Trung cộng thì như thế nào ?
I I I ) Tình hình Trung cộng trước Hội nghị Thành đô
Tình hình Trung cộng gần kề nhất ngày Hội nghị Thành đô là biến cố Thiên An môn 1989. Đây là một biến cố lớn trong lịch sử cận đại của Trung cộng và của đảng Cộng sản Tàu.
Những cuộc biểu tình ở nhiều thành phố và nhất là ở Bắc kinh, tại quảng trường Thiên an môn, từ ngày 15/4 tới ngày 4/6/1989, đã huy động cả triệu người đủ mọi tầng lớp, từ nông dân, công nhân đến sinh viên học sinh, công chức và có cả quân đội, đòi tự do hóa chế độ, chống tham nhũng, cửa quyền, con ông cháu cha của đảng Cộng sản. Phe cải cách lúc đó tiêu biểu là Tổng bí thư Triệu tử Dương, phe bảo thủ tiêu biểu là Thủ tướng lý Bằng. Lập trường của Đặng tiểu Bình vào lúc đầu có vẻ ngả về phe cải cách, sau đó lừng khừng đứng giữa, cuối cùng đã ngả về phe bảo thủ, khi cuộc biểu tình đã không tự kiểm soát nổi, có những phần tử đã lợi dụng căng những biểu ngữ chống họ Đặng. Đấy là chưa nói hình ảnh sinh viên học sinh đã làm quá đà trong thời kỳ Cách mạng Hồng vệ Binh (1964 -1974), đưa bố mẹ, thầy cô ra đấu tố, đưa đến cảnh một người con trai của Đặng tiểu Bình, khi vệ binh đỏ đến phòng cư xá sinh viên, đã sợ quá, nhảy từ lầu cao xuống đất, gãy xương sống, suốt đời phải đi xe lăn; một biến cố nữa, đó là vợ chồng ông Chu ân Lai, đương kim Thủ tướng và vợ ông ta, bà Đặng vĩnh Siêu, một cán bộ lâu năm và rất ảnh hưởng trong Đảng cộng sản lúc bấy giờ, có một người con gái nuôi, dạy nhảy múa ở nhà hát Bắc kinh, bị đưa đi trại học tập, do chính sắc lệnh của Chu ân Lai, sau đó những người Vệ binh thân Mao, đã lấy một cái đinh dài đóng vào đầu cô ta, làm cho cô ta chết. Hình ảnh và hành động này ám ảnh không những bà Đặng vĩnh Siêu, Đặng tiểu Bình, mà phần lớn giới lãnh đạo Trung cộng lúc bấy giờ.
Vì vậy nên khi quyết định « Dẹp hay không dẹp biểu tình «, thì phe bảo thủ đã thắng. Đưa đến hậu quả làm cả ngàn người chết và cả chục ngàn người bị thương. Quyết định đàn áp biểu tình có nhiều người chống đối, trong đó có Tổng bí Thư Triệu tử Dương, Bộ trưởng quốc phòng, Tư lệnh quân đội Bắc kinh. Vì vậy nên phe bảo thủ phải gọi những đoàn quân ở phía tây bắc, từ những vùng Tây tạng, Tân cương v.v… về để dẹp biểu tình.
Biến cố Thiên an Môn suýt nữa làm cho nước Tàu nổ tung, ít ra làm 2. Trước đó thì cách mạng Hồng vệ binh đã đưa nước tàu vào cảnh nội chiến, có cơ bị chia ra làm nhiều mảnh.
Từ xưa tới nay, giới báo chí, trí thức và ngay cả giới lãnh đạo tây phương có cái nhìn sai lạc về Tàu.
Đầu thế kỷ thứ 19, thì Napoléon ví nước Tàu như một con hổ đang ngủ, nếu nó thức dậy sẽ làm rung chuyển thế giới. Vào những năm 70, một nhà chính trị, kiêm văn sĩ Pháp, ông Alain Peyrefitte, có viết quyển sách « Quand la Chine s’éveillera… « (1973), ( Khi nước Tàu sẽ tỉnh dậy… ). Không nói đâu xa, ngay ngày hôm nay, thế giới Tây phương vẫn còn có những cái nhìn sai lầm về Tàu.
Trong khi đó, chính những người Tàu, ngay cả một số giới lãnh đạo, thì ngược lại. Ông Chu dung Cơ, cựu Thủ tướng Tàu, có nói: « Nước Tàu là một anh khổng lồ, chân bằng đất xét. » Cũng một cựu Thủ tướng khác, ông Ôn gia Bảo, vào cuối năm 2012, giai đoạn chuyển quyền giữa Hồ cẩm Đào và Tập cận Bình, thì tuyên bố: « Nước tàu đang đi vào nguy hiểm của thời kỳ Cách mạng Hồng vệ binh. » Sự đấm đá trong đảng, tranh quyền đoạt lợi hiện nay vẫn tiếp diễn.(1)
Tháng 7/2014, một cuộc nghiên cứu, được công bố bởi Hurun Report, về việc tìm hiểu hành vi và thái độ của những người giàu nhất Trung cộng, mà trong đó phần lớn là những gia đình thuộc con ông cháu cha của những người lãnh đạo cao nhất, cho ta thấy: hơn 60% những người được khảo sát thì đã ra nước ngoài hay đã nộp hồ sơ để ra nước ngoài; 85% thì nói họ đã gửi con, người thân thích đến những trường đại học ở ngoại quốc.( Ian Bremmer, « China superpower or superbust, The National Interest Magazine, tháng 11 và 12/ 2013).
Một chính quyền, một quốc gia có thể ví như một cái cây, những người của chính quyền là những người ở dưới gốc cây, hưởng bóng mát của nó, nay tìm cách gửi tiền hay gửi con ra nước ngoài chẳng khác nào đào đất ở gốc cây đổ đi chỗ khác, thì cái cây sớm muộn cũng sẽ bị trốc gốc.
Trong chính trị, sự lầm lẫn về địch thủ, đối phương, ngay cả với bạn, rất nguy hiểm, dẫn đến những hậu quả to lớn khó lường. Tuy nhiên đối với giới lãnh đạo Tây phương, nó có quan trọng, nhưng không có tính cách sống còn, nguy hiểm chết người, hại cả một dân tộc như đối với giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Có thể nói giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, bắt đầu từ Hồ chí Minh cho tới ngày nay, có một cái nhìn sai lầm về thế giới cộng sản, nhất là về Trung cộng.
Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên do:
Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn ngay từ cuộc đời cá nhân của Hồ chí Minh. Sau khi rời Việt nam, đi làm bồi cho một chiếc tàu Pháp, sống lang bạt kỳ hồ, khổ sở ở New York, Luân đôn, rồi Paris, thiếu thốn khó khăn, được Đệ Tam quốc tế lượm về nuôi nấng, huấn luyện, được sung sướng. Tất nhiên họ Hồ về cá nhân thì coi tổ chức Đệ tam, nhưng thực tế là Liên sô, như « Cha mẹ «. Chúng ta thấy, trong thời gian họ Hồ bị tổ chức này thất sủng, vào những năm cuối thập niên 20, đầu 30, vì lúc đó có sự tranh quyền gay gắt giữa Staline và Trotski, mà trước đó họ Hồ làm việc cho Borodine, người thân Trotski, họ Hồ đã bị thất sủng, đã viết thư không biết bao nhiêu lần cho Đệ Tam, xin từng miếng cơm đến tiền trả tiền hotel. Chúng ta có thể thấy những bức thư này dễ dàng trong Tuyển tập Hồ chí Minh, do chính đảng Cộng sản Việt nam xuất bản.
Rồi tình hình thế giới thay đổi, Phát xít Moussolini xuất hiện ở Ý năm 1923, ở Đức năm 1933 với Hitler, Đệ tam quốc tế họp kỳ cuối cùng năm 1936, trước khi bị Staline giải tán, đã quyết định thay đổi chiến lược, từ « Đấu tranh giai cấp « sang « Hợp tác giai cấp để chống Phát xít « , họ Hồ được dùng lại, và đã cùng phái đoàn cộng sản Tàu, trở về Tàu vào khoảng năm 1938 nhằm sửa sọan cướp chính quyền.
Sau khi cướp được chính quyền thì nay chạy sang Tàu lạy lục xin viện trợ, mai chạy sang Liên sô để xin giúp đỡ.
Ngày hôm nay Cộng sản Việt Nam tâng bốc họ Hồ, đưa ra « Tư tưởng Hồ chí Minh «, nhưng chính ông đã tuyên bố: « Tôi không có tư tưởng gì cả. Tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. Những con người này không bao giờ sai lầm. »
Một con người không có tư tưởng, mà vì hoàn cảnh cứ phải đi xin cầu viện, lúc trẻ thì cho bản thân, lúc lớn thì cho tổ chức, con người này bản chất đã trở thành qụy lụy ngoại bang. Bản chất này đã ăn sâu vào xương tủy của con cháu Hồ tức những lãnh đạo cộng sản Việt nam sau này. Lê Duẫn, người kế vị trực tiếp Hồ, thì thản nhiên tuyên bố:
«Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên xô và Trung cộng.» không ngần ngại hy sinh từ thế hệ này đến thế hệ khác để phục vụ lý tưởng cộng sản, nhưng thực tế là phục vụ Nga, Tàu.
Con cháu của Hồ chí Minh và Lê Duẩn ngày hôm nay, sau Hội nghị Thành đô năm 1990, đã sẵn sàng chấp ngận khẩu hiệu « Bốn Tốt và Mười sáu Chữ vàng «, đưa ra bởi Giang trạch Dân, nhưng thực tế là dâng đất, nhượng biển, thần phục ngoại bang như cha anh cộng sản Hồ Lê trước đây.
Nguyên nhân gần, đó là thế giới cộng sản Đông Âu, trong đó có Liên xô, « thành trì cách mạng, chỗ tựa vững chắc » của cộng sản Việt Nam từ từ sụp đổ từng mảng một, mà người chứng kiến tận mắt đó là Nguyễn văn Linh, lúc đó là đương kim Tổng bí thư, Trưởng Phái đoàn của Việt nam tại Hội nghị Thành đô.
Từ tháng 9/1989, cả ngàn người Đức, bỏ Đông Đức sang xin tỵ nạn ở Tây Đức.Tháng 10/1989, Honnecker từ chức Chủ tịch đảng Cộng sản Đông Đức. Tháng 11/1989, bức tường Bá Linh, ngăn cách hai nước Đông và Tây Đức, hai thế giới cộng sản và tư bản, sụp đổ. Tiếp theo đó là Tổng bí thư Todor Zhivkov của đảng cộng sản Bulgarie, rồi Tổng bí thư Milos Jakes của đảng cộng sản Tiệp khắc cũng từ chức.
Tháng 12/1989, cuộc cách mạng dân chủ ở Roumanie bùng nổ, vợ chồng nhà độc tài cộng sản Ceausescu, bị hạ bệ, rồi bị tử hình.
Những tình hình đó đã ảnh hưởng và ám ảnh sâu đậm đến giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Đấy là chưa nói đến sự kiện là giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đến Hội nghị Thành đô còn mang đầy « mặc cảm tội lỗi » với đàn anh Trung cộng, vì sau khi Trung cộng « dạy cho cộng sản Việt nam một bài học », như lời tuyên bố của Đặng tiểu Bình, sau khi viếng thăm Hoa kỳ vào năm 1979, chiến tranh Việt Trung vẫn tiếp diễn ở biên giới và ở ngoài khơi. Năm 1988, Trung cộng đánh Trường sa của Việt Nam, chiếm đảo Gạc ma, mà hiện nay Trung cộng đang thành lập một căn cứ quân sự với những phi đạo cho máy bay, và những cứ điểm để khai thác dầu hỏa, mà cộng sản Việt Nam cứ im thin thít.
Chiến tranh tại biên giới Việt Hoa kéo dài đến tận 1987, 3 năm trước Hội nghị Thành đô. Theo một số quan sát viên, ngoài những sự đụng độ nhỏ, có 6 trận đánh lớn, vào tháng 7/1980; tháng 5/81; 4/83; 6/85; 12/86; 1/87.
Từ bản chất lệ thuộc ngoại bang, đến mặc cảm « tội lỗi « , cộng thêm với những cái nhìn « ếch ngồi đáy giếng « chỉ biết có Liên sô, nay thế giới Liên sô từ từ sụp đổ, Phái đoàn cộng sản Việt Nam dự hội nghị Thành đô với một tư thế kém cỏi, như những « con cừu non « , trước một phái đoàn, mà đứng đằng sau là Đặng tiểu Bình, một con cáo già, gian manh, xảo quyệt ở mức độ quốc tế, với một tham vọng và ý chí mãnh liệt bành trướng chủ nghĩa « Đại Hán ». Tất nhiên những con cừu non đó bị con cáo già ăn thịt là lẽ thường tình.
IV ) Diễn tiến của Hội nghị Thành đô ( Hình thức và nội dung)
Thực ra, về nội dung của văn bản Hiệp ước Hội nghị Thành đô, cho tới ngày hôm nay, một cách chính thức, chưa có ai rõ. Người ta chỉ phỏng đoán qua những việc làm của Cộng sản Tàu và Việt nam, từ ngày có Hội nghị này cho tới nay.
Chính thức và để có giá trị trên mặt công pháp quốc tế, thì bất cứ hiệp ước quốc tế nào, nhất là liên quan đến biên giới trên đất liền hay trên biển, giữa hai hay nhiều quốc gia, thì phải có sự trong sáng: có nghĩa là phải được công bố, phải có sự phê chuẩn của quốc hội hay sự chấp nhận của dân qua trưng cầu dân ý và bản hiệp ước đó phải gửi tới cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên hiệp quốc. Về Hiệp ước Thành đô cả Trung cộng và Cộng sản Việt Nam không hành xử theo kiểu này, mà hành xử lén la, lén lút, có tính cách mờ ám chứ không minh bạch, theo cách hành xử của những nước tự do, dân chủ.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy là Công Hàm của Phạm văn Đồng năm 1958. Về phía cộng sản Việt Nam thì giấu giếm dân, về phía Trung cộng thì lập lờ đánh lận con đen qua việc yêu cầu Việt nam tôn trọng quyền lãnh hải 12 hải lý, rồi công bố bản đồ của Trung cộng, trong đó có Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam.
Thực ra thì không riêng gì Trung cộng và Cộng sản Việt Nam hành động lén lút, dấu dân, mà có thể nói tất cả những chế độ cộng sản, từ chế độ đầu tiên do Lénine thành lập năm 1917.
Lénine, để có được chính quyền, không ngần ngại tuyên bố là sẵn sàng nhượng đất cho Đức, sau đó có cử Trotski đi ký Hiệp ước nhượng đất ở Brest – Listovk, năm 1918, với Đức. Hiệp ước này ít người được biết, trong khi đó dân thì mù tịt. Ngay cả việc Lénine giết toàn gia đình Hoàng gia Nga Nicolas 2, ngày hôm nay người ta cũng không tìm ra một sắc lệnh nào của Lénine, ngoài việc Lénine cử một tay em thân cận, ngày xưa là một chủ ngục và được Lénine thường nói với mọi người rằng đây« là người giỏi nhất trong những người chúng ta «, có nghĩa là dám giết người, dám thủ tiêu, xuống chỗ ở của gia đình hoàng gia, rồi một đêm nọ, cùng với mười mấy người có súng, kêu gia đình xuống một cái hầm, đọc một bản án và giết cả gia đình.
Hành động hận thù, lén lút giết người không gớm tay, đó là hành động của giới lãnh đạo cộng sản.
Lê đức Thọ của Việt Nam, thì tuyên bố: « Mài hận thù để làm bén nhọn đấu tranh. » Em của hắn, Mai chí Thọ, vào năm 1981, lúc này là thế giới cộng sản đã bắt đầu xuống dốc, thì trân tráo, vô liêm sỉ, tuyên bố trước một số trí thức miềm Nam phải « đi học tập cải tạo:
« Hồ chí Minh có thể là một kẻ độc ác; Nixon có thể là một người vĩ đại, người Mỹ có thể đã có chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại, bởi vì chúng tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ chí Minh là một người vĩ đại và Nixon là một kẻ giết người, người Mỹ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt đó là kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. Chỉ có chủ nghĩa Marx – Lénine là làm được điều đó. Không ai trong các anh (chỉ những người trí thức miền nam bị đi học tập cải tạo) thấy sự kháng cự đối với chế độ của những người cộng sản, vì vậy đừng suy nghĩ về chuyện đó. Quên chuyện đó đi. » ( Mai chí Thọ – theo lời của Đoàn văn Toại, trong A Lament for Việt Nam – New York Times Magazine – 29/03/1981).
Chế độ Marx-Lénine mà Mai chí Thọ nói tới không gì hơn là cai trị dân bằng cái loa, cái còng và cái súng. Cái loa là bưng bít thông tin, che dấu sự thật, rồi dùng cái loa để nói dối dân. Cái còng và cái súng là dọa dân, nếu ai không theo tao thì bỏ tù, hay thủ tiêu.
Tuy nhiên cách cai trị đó đã quá lỗi thời. Thế giới cộng sản Đông Âu sụp đổ, một phần cũng vì lý do đó. Ngày hôm nay những chế độ cộng sản còn lại, với nền văn minh trí thức điện toán, thông tin dễ dàng với những internet, điện thoại cầm tay, đang trên đà sụp đỗ cũng là vì vậy.
Trở về Hội nghị Thành đô, vì không có bản Hiệp ước ký kết giữa 2 bên được công bố chính thức, nên người ta chỉ phỏng đoán dựa vào quyển Nhật ký của Trần quang Cơ, Thứ trưởng Bộ ngoại giao, lời tuyên bố của Nguyễn cơ Thạch, lúc đầu; sau đó là tài liệu của Weakileaks, Hoàn cầu thời báo cùng một số báo chí khác.
Về Nhật ký của Trần quang Cơ, phần rõ ràng là phần nói về vụ giải quyết tình hình Cam bốt: Cộng sản Việt Nam rút quân khỏi nước này, thành lập Hội đồng Hòa giải dân tộc dưới sự lãnh đạo của ông cựu hoàng Sihanouk. Chính ở điểm này, Trung cộng có nhượng bộ. Đó là Trung cộng đòi phải sự có mặt của phe Polpot, nhưng kết cục thì không có. Trần quang Cơ có nói đến những buổi thương thuyết trước Hội nghị, có nói đến phía Việt Nam đề nghị phía Trung cộng đứng ra lãnh đạo khối cộng sản còn lại, nhưng không nói rõ đề nghị này là thế nào. Có phải để Trung cộng lãnh đạo rồi Việt Nam nhận làm một tỉnh của Trung cộng không? Điều này không thấy trong nhật ký. Người ta chỉ thấy trong một vài tờ báo nói rằng đó là tiết lộ trong 3 100 bức điện thư lưu trữ ở Bộ Ngoại giao Hoa kỳ. Vấn đề kiểm chứng thật khó khăn, ngay với cả một số người thông thạo tin tức.
Trong khi đó thì Nguyễn Cơ Thạch, cấp trên, là Bộ trưởng Ngoại giao, không viết nhật ký, không được dự Hội nghị Thành đô, vì Trung cộng không muốn, lại tuyên bố: « Hội nghị Thành đô bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc nguy hiểm và lâu dài. »
Có người cho rằng để biết nội dung của bản Hiệp ước Thành đô thì chúng ta chỉ cần xét đến hình thức và hậu quả của nó.
Thực vậy, nếu nói về hình thức thì đây là một hội nghị quốc tế vô cùng nhục nhã đối với Cộng sản Việt nam. Theo thông lệ, một hội nghị ở mức độ cao như vậy thì phải họp ở thủ đô, nay lại họp ở một thủ phủ một tỉnh bậc trung là Tứ xuyên. Họp 2 ngày mồng 3 và mồng 4 tháng 9, Phái đoàn Việt Nam phải có mặt trước ngày mồng 2 tại Thành đô, đúng vào ngày Quốc khánh cộng sản Việt nam. Ép cộng sản Việt nam làm điều này, Trung cộng muốn nói là Trung cộng không coi Việt nam là một nước độc lập. Thêm vào đó, phái đoàn Việt Nam phải đi đường bộ để sang họp. Đặng tiểu Bình dụ để phía Việt Nam chấp nhận họp, đã hứa xuống gặp phái đoàn, nhưng sau đó không xuống gặp và còn tuyên bố khinh bỉ Cộng sản Việt nam: « Tôi không thèm gặp những phường ăn cháo, đái bát. »
Ngày xưa Mặc đăng Dung, Lê chiêu Thống qụy lụy Tàu để giữ ngôi báu, nhưng cũng không đến nỗi hèn mạt như vậy.
Những hành động của cộng sản Việt Nam sau Hội nghị Thành đô:
Mặc dầu người ta không biết chính thức nội dung của Hiệp ước Thành Đô, vì cả 2 bên Trung cộng và Cộng sản Việt nam không công bố chính thức nội dung của hiệp ước này. Nhưng những hành động của Cộng sản Việt nam từ ngày có Hội nghị tới nay quả là hành động bán nước. Bởi lẽ đó có người cho rằng nội dung của Hiệp ước là bán nước cũng không phải là không có lý.
Thật vậy, từ ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tới nay, những hành động của Cộng sản Việt Nam chứng tỏ càng ngày càng đưa Việt Nam vào vòng kiềm tỏa, lệ thuộc Trung cộng về kinh tế, chính trị quốc nội và hải ngoại. Người ta còn nhớ, sau Hội nghị không lâu, Giang trạch Dân đến viếng thăm Việt Nam, không đến Hà nội, thủ đô, mà tới Đà nẵng tắm biển, rồi gọi giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam tới « chầủ «, kiểu như ngày xưa chầu Thiên hoàng.
Năm 1997, Cộng sản Việt Nam muốn gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế, nhưng Trung cộng không muốn, nên phải từ chối.
Hai Hiệp định năm 1999, về vấn đề biên giới và năm 2 000 về lãnh hải, mà cộng sản đã ký với Trung cộng, dâng cho Trung cộng cả ngàn cây số vuông về lãnh thổ trong đó có thác Bản dốc và Ải Nam quan, cùng cả 20 000 cây số vuông về lãnh hải.
Tiếp theo đó là những hiệp ước nhượng cho Trung cộng khai thác bô xít ở vùng cao nguyên Trung phần, xương sống chiến lược của Việt Nam, rồi nhượng những vùng rừng ở biên giới cùng cho phép Trung cộng lập những khu tự trị ở Việt Nam.
Gần đây Trung cộng đặt giàn khoan dầu HD 981 ở trong thềm lục địa Việt Nam, cả thế giới trông đợi phản ứng mạnh mẽ của giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam, nhưng ngoài một vài lời tuyên bố cứng rắn, sau đó đâu lại hoàn đấy, đó là Cộng sản Hà Nội vẫn tiếp tục quỵ lụy Trung cộng, làm cho cả thế giới thất vọng.
Đó là về chính trị, còn về kinh tế thì ngay dù người dân bình thường cũng nhìn thấy rõ là nền kinh tế Việt Nam hiện nay hoàn toàn lệ thuộc Trung cộng. Việt Nam chỉ là một cửa tiệm để Trung cộng thuồn những hàng ô nhiễm, mang độc hại, những hàng giả, bị tẩy chay, sang mang nhãn hiệu Việt Nam để bán trên thế giới.
Nhìn lại quá khứ, suy xét hiện tại, để chẩn đoán tương lai:
Trong những chế độ cộng sản, những giới lãnh đạo cộng sản, không có một chế độ nào, giới lãnh đạo nào mà lại ngây thơ, ngu muội, nhưng lại nghĩ mình là « Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ « như cộng sản Việt nam. Ngày xưa thì Hồ chí Minh tuyên bố: « Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. »
Lê Duẫn thì nói: « Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên xô và Trung cộng.» Ngày nay, sự ngây thơ và ngu muội đó được biểu hiện qua Hội nghị Thành đô.
Thực ra sự ngây thơ và ngu muội không phải chỉ ở giới lãnh đạo mà ngay ở một số trí thức cộng sản. Đã từ lâu cộng sản Liên sô và Trung cộng đã dùng chủ nghĩa cộng sản như một phương tiện cho mộng xâm chiếm, bành trướng của mình, trong khi đó, giới trí thức cộng sản Việt nam vẫn nghĩ:« Bên ni biên giới là mình Bên kia biên giới cũng tình quê hương …»
Ngày hôm nay, có người cho rằng một số trẻ Việt Nam mất định hướng, vọng ngoại, đến nỗi “ Lên sân khấu để hôn cái ghế ngồi của một tài tử Nam Hàn.” Nhưng họ quên ngày xưa có một số trí thức cộng sản làm những bài thơ ca tụng Lénine, Staline: “ Hôn cho anh nền tảng đá công trường, nơi vĩ đại Lénine thường dạo bước “, hay: “Ôi ông Staline, ông mất, đất trời biết không. Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một, thương ông, thương mười.”
Ngày xưa “ hôn chân Lénine, Staline”, ngày hôm nay một số giới trè “ hôn ghế ngồi “ một tài tử ngoại quốc, ngẫm đi ngẫm lại, mặc dầu là 2 hành động khác nhau, nhưng mang cùng một bản chất.
Hiện nay, nhiều người bàn tán về đề tài “ Thoát Trung “, nhưng họ quên rằng điều kiện đầu tiên, ắt có và đủ, để “Thoát Trung”, đó là “ Thoát cộng”.
Ngày nào còn chế độ cộng sản, miệng thì hô hào yêu nước, nhưng trên thực tế thì bán nước. Ngày đó không thể thoát Trung, mà trên thực tế là càng ngày càng bị lún xâu vào vòng kiềm tỏa của Trung cộng.
Ngày nào còn đảng cộng sản độc quyền “ yêu nước “, độc quyền cai trị dân, không cho dân cất tiếng nói, miệng thì hô hào xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội, nhưng trên thực tế là cướp nhà cửa, ruộng vườn, tài sản của dân, để trao vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ, làm cho xã hội trở nên vô cùng bất công, ngày đó những hành động như Hội nghị Thành đô còn tái diễn, không những không thể thoát Trung, mà dân Việt còn không thể ngóc đầu lên được, để phát triển, để theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.
Paris ngày 09/10/2014
Chu chi Nam và Vũ văn Lâm
© Đàn Chim Việt
Có phải thế không?
Chúng ta cùng nhau xem xét vấn đề.
I ) Tình hình thế giới cộng sản trước Hội nghị Thành đô
- Tình hình tại Liên Xô
Tình hình Liên xô trước Hội nghi Thành đô 1990 là một tình hình: kinh tế thì đổ nát, chính trị thì không những dân, mà chính giới lãnh đạo, từ dưới lên trên, phần lớn hết tin tưởng vào chính quyền, vào đảng Cộng sản. Bắt đầu bằng Brejnev, Tổng bí thư, trước khi chết, đã phải than lên: « Xã hội chủ nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp săng của công, 1/3 bằng cấp là bằng cấp giả, công chức đến sở làm việc là đến cho có mặt, sau đó thì đi coi hát hay làm việc riêng. » Thêm vào đó, khi Brejnev chết, hai ông già lên thay, vừa bệnh hoạn, vừa chết sớm, Andropov, cầm quyền từ 1983 tới 1984, Tchernenko, lên thay, nhưng chỉ mấy tháng sau thì bệnh nặng, không thể cầm quyền, thực quyền ở trong tay Gorbatchev, cho tới khi Tchernenko chết, Gorbatchev lên ngôi chính thức vào năm 1985.
Gorbatchev nhận một gia tài cộng sản đổ nát, muốn cải tổ, tuy nhiên lúc đầu ông còn thận trọng, chỉ dùng những biện pháp nhỏ, như đưa ra những đạo luật xử phạt mạnh tham nhũng hối lộ, cấm dân nghiện rượu, cấm công chức bỏ giờ làm việc, và đồng thời cho xe đi hốt những người dân chán nản, thất vọng, uống rượu nằm đầy đường, bắt những công chức trong giờ làm việc mà lại có mặt ở những tiệm rượu hay những nhà hát. Nhưng những biện pháp này không đi đến đâu, tham nhũng hối lộ vẫn lan tràn, dân vẫn mất tin tưởng, vẫn uống rượu, không có rượu thì pha chế với alcool để uống, kinh tế vẫn đình trệ. Thêm vào đó, những quốc gia bị Nga hoàng và Lénine sát nhập vào Nga, bắt đầu nổi lên đòi tự trị. Đấy là chưa nói đến những vùng bị đe dọa bởi nạn đói. Đến nỗi Gorbachev, sợ phải than lên:« Tiếng kêu của song chảo, nồi niêu còn ghê sợ hơn tiếng súng đại bác và xe tăng. »
Người xưa có nói: « Họa vô đơn chí. Phúc bất trùng lai « (Tai họa không đến một lần. Phúc không trở lại lần thứ hai). Tình trạng quốc gia xã hội thì đã như vậy, đùng một cái, ngày 25/4/1986, nhà máy nguyên tử Tcherbobyl bị nổ. Đây là nhà máy được Liên xô xây vào năm 1977, khánh thành năm 1983, tại phía bắc thủ đô Kiev của nước Ukraine ngày hôm nay. Nhà máy nguyên tử này nổ ra mới cho dân và thế giới thấy tình trạng tồi tệ của nước Liên xô về hạ tầng cơ sở. Để chữa cháy, ngăn cản phóng xạ thoát ra ngoài, người lính không có một bộ đồ mặc chống phóng xạ, họ phải dùng những chiếc áo mưa. Lúc đầu, cơ quan cấp dưới còn dấu diếm, nhưng sau không thể, phải báo cáo lên cấp trên, tới Gorbachev.
Từ lúc này Gorbachev mới thấy không thể dùng những biện pháp cải tổ nhỏ, mà phải cải tổ sâu rộng, nên đã đưa ra:
- Chính sách Trong sáng ( Glasnost ), cấm cơ quan cấp dưới che dấu sự thật, phải làm những bản tường trình trong sáng, nói lên sự thật.
- Chính sách tái cấu trúc ( Pérestroika), để được như vậy, thì phải tái cấu trúc guồng máy quốc gia, cách chức những công chức tham nhũng hối lộ, bất tài, dựa vào con ông cháu cha mà được lên chức, từ từ thực hiện bầu cử tự do, cho phép đối lập hoạt động, báo chí được quyền nói lên sự thật.
Có người tố cáo Gorbatchev là người của CIA, Cơ quan tình báo Hoa kỳ, gài vào để làm sụp chế độ cộng sản. Thực ra không phải vậy. Không có một bằng cớ, một tài liệu nào chứng tỏ ông là người của CIA. Ông chỉ muốn cứu và cải tổ một chế độ không thể cải tổ được mà chỉ có thay thế; và con đường ông đi là con đường tất yếu của lịch sử, nếu muốn nghĩ đến dân, đến nước, nếu muốn theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.
Thực vậy, căn nhà xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên một nền móng sai lầm là lý thuyết Mác Lê. Marx chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu, đấu tranh giai cấp. Bãi bỏ quyền tư hữu có nghĩa là bãi bỏ một nguyên động lực chính thúc đẩy con người làm việc, đưa xã hội cộng sản lâm vào cảnh « Cha chung không ai khóc. Nhà chung không người chăm sóc. Ruộng chung không ai cày. » Người dân đến hợp tác xã là để có mặt, làm việc cho lấy có, mang tâm trạng « Ta làm việc nhiều cũng chỉ lãnh lương như người làm ít hay không làm. » Đã từ lâu, những máy cày, xe cộ của hợp tác xã, bị bỏ mục nát ở ngoài đồng. Số khoai lang đào được, 1/3 để hư thối ở ngoài đồng, 1/3 hư thối vì chuyên chở và bảo trì không cẩn thận ở trong kho.
Ông Jegor Gaida, người đã từng làm Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng bộ kinh tế thời Tổng thống Boris Eltsine, thì cho rằng sở dĩ có sự sụp đổ của Liên sô là vì khí đốt và dầu hỏa, trong một quyển sách ông viết sau khi không còn tại chức. Theo ông, vào những năm 70, giá khí đốt và dầu hỏa tăng, Liên sô là quốc gia xuất cảng 2 thứ này, nên nguồn thâu nhập tăng. Chính vì vậy mà suốt thời Brejnev làm Tổng bí thư từ năm 1964 tới năm 1983, Liên sô không những chạy đua vũ khí với Hoa kỳ, làm ông chủ thầu, đặt vũ khí ở những nước đàn em, như Ba lan thì sản xuất tàu thủy, Đông Đức thì sản xuất xe tăng, Tiệp khắc thì sản xuất súng AK47 v.v… Nhưng đến những năm 80, thì giá khí đốt và dầu bắt đầu giảm, khiến phần thu nhập của Liên sô cũng giảm, lôi theo các nước đàn em.
Phần nhận xét này của ông Gaida không phải là không đúng, nhưng nó chỉ là một phần và có tính cách ngắn hạn. Một đế quốc, một triều đại sụp đổ tất nhiên là đến từ nhiều nguyên nhân: nguyên nhân gần, nguyên nhân xa, nguyên nhân trung hạn, nguyên nhân thật xa.
Nguyên nhân sụp đổ thật xa của của Liên sô bắt đầu từ nền tảng triết học của Marx, như trên đã nói là chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu.
Nguyên nhân trung hạn đó là tư tưởng của Lénine lập nên nhà nước độc đảng, độc tài, áp dụng lý thuyết không tưởng của Marx, trong những đợt đánh tư bản mại sản, giết chết hết giai tầng trung lưu.
Chính Boris Eltsine, đã từng là người cộng sản, Uỷ viên Bộ Chính trị, phải than lên khi ông làm Tổng thống xứ Nga: « Nước Nga đã không còn giai tầng trung lưu, giai tầng năng động và là xương sống của xã hội. Đâu còn những con người tháo vát, chỉ cần tay cầm một con dao lớn, đi vào rừng, rồi tạo nên tất cả, nhà để ở, ruộng để cấy lúa, đất để trồng trọt, không những nuôi sống thân mình, gia đình mình, mà còn những gia đình khác. »
Ngoài ra còn nhiều những nguyên nhân khác, như Chiến tranh lạnh, Hoa kỳ nhằm đánh cộng sản, dụ Liên sô vào một cuộc chạy đua vũ trang, lâm vào cảnh kẻ nghèo thi đua tiêu tiền với kẻ giàu.
Từ đó mang lại những nguyên nhân gần, tham nhũng, hối lộ, dân mất hết tin tưởng vào Đảng Cộng sản và chính quyền, trước cuộc sống khó khăn, càng ngày càng bế tắc, dân sinh ra nghiện rượu.
Thế giới trước năm 1990 còn bị đè nặng dưới áp lực của Chiến tranh lạnh, gồm 2 khối : Khối cộng sản lãnh đạo bởi Liên sô, mặc dầu có sự tranh quyền của Trung cộng, Khối tư bản dưới sự lãnh đạo của Hoa kỳ. Vì vậy tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Liên sô có ảnh hưởng trực tiếp không những đối với những nước cộng sản, mà còn đến cả thế giới.
Trong khuôn khổ bài này tôi chỉ xin nói về ảnh hưởng của Liên số đối với Việt Nam, Trung cộng và tất nhiên ảnh hưởng đến Hội Nghị Thành đô 1990.
I I ) Tình hình Việt nam sau khi Lê Duẫn chết vào tháng 7/1986, trước Hội nghị Thành đô
Có thể nói Lê Duẫn là người cuồng tín theo Liên sô, đúng hơn là theo Brejnev, tự biến Việt Nam thành một con chốt trong bàn cờ tranh hùng tư bản – cộng sản, theo kế hoặch của Brejnev.
Brejnev lên chức Tổng bí thư năm 1964, sau khi hạ bệ Khrouschev, ông này bị chỉ trích là đã mềm yếu trước tư bản vì cho rằng « Tư bản mạnh « chủ trương chính sách hòa hoãn với tư bản, quay về sửa sai chế độ cộng sản. Chính vì vậy mà khi lên ngôi Tổng bí thư năm 1953, chỉ ba năm sau, 1956, Khrouschev tố cáo chính sách tôn thờ cá nhân của Staline, bắt tay với Hoa kỳ, chính sách « Chung sống hòa bình «, « Nguyên tử phục vụ hòa bình«.
Brejnev hoàn toàn chủ trương ngược lại, cho rằng khối cộng sản không yếu như người ta tưởng, khối tư bản không mạnh như người ta nghĩ, mà ngược lại. Vì vậy ông chủ trương quên đi những khó khăn nội bộ, đẩy mạnh cuộc chiến chống tư bản, sau khi chiến thắng tư bản trên toàn thế giới, lúc đó trở về sửa sai cũng không muộn. Brejnev đã đưa ra một chiến lược gồm 2 kế sách: Thượng sách đẩy mạnh công cuộc chống tư bản ở mọi nơi trên thế giới, đưa đến chỗ tư bản phải sụp đổ tất yếu như lời dạy của Marx. Trung sách, nếu không thì chia đôi thế giới lấy trục Sài Gon, Phnom Penh, Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới tuyến, bên này phía đông thuộc về công sản, bên kia phía tây thuộc về tư bản.
Chính sách của Brejnev có vẻ hấp dẫn, được đa số trong Trung ương đảng nghe theo, nên có việc hạ bệ Khrouschev vào năm 1964.
Brejnev dùng ba con chốt chính để thực hiện chiến lược của mình : Bên châu Mỹ, Phi châu thì dùng Cuba với Phidel Castro; bên Âu châu thì dùng Đông Đức; bên Á châu thì dùng Việt Nam. Lê Duẩn là con chốt trung thành bậc nhất của Brejnev
Brejnev sửa sọan thượng sách trong vòng 4 năm và bắt đầu tấn công tư bản, như ở Việt Nam chúng ta thấy có Tết Mậu thân 1968, ở Âu châu và ngay ở Mỹ châu có « Phong trào Hòa bình «, những cuộc biểu tình phản chiến, sinh viên xuống đường, đứng đằng sau là những đảng cộng sản, những trí thức thân tả, bên Phi châu thì có những cuộc đảo chính thân cộng sản như ở Ethiopie v.v…
Quả thực lúc đầu có những kết quả ngoạn mục, thế giới tư bản, ngay cả tại Mỹ, có những cuộc biểu tình cả triệu người, thế giới tư bản quả thật bị rung rinh. Tuy nhiên đấy chỉ là kết quả có vẻ ngoạn mục lúc ban đầu, nhưng thế giới tư bản không sụp, mà ngược lại, ngân sách chi phí ra bên ngoài của Liên sô càng ngày càng tăng. Nói như một viên tướng Liên sô lúc bấy giờ:« Những thành quả gặt hái của Liên sô không làm tư bản lay chuyển, mà chỉ là những gánh nặng, những chương mục thêm để Liên xô gửi tiền giúp đỡ. »
Thêm vào đó tư bản, đứng đầu là Hoa kỳ, lại tìm cách khai thác tối đa sự bất đồng giữa Trung cộng và Liên sô. Nên có việc Nixon gặp Mao ở Bắc kinh, ra tuyên bố chung ở Thượng hải năm 1972.
Có người nói, thượng sách của Brejnev được thực hiện trong vòng 8 năm, từ năm 1964 tới 1972, thì chấm dứt, Brejnev phải quay ra thực hiện trung sách, chia đôi thế giới, giữ những gì mình đã gặt hái được.
Chính vì vậy mà có việc Liên xô gửi quân sang xâm chiếm A phú hãn, ký hiệp ước quân sự với Việt Nam và cộng sản Việt Nam gửi quân qua xâm chiếm Căm bốt năm 1978, để làm giới tuyến cộng sản tư bản Sài Gòn – Phnom Penh – Bangkok – Kaboul – Moscou như vừa nói ở trên.
Người khác lại cho rằng thượng sách được kết thúc vào năm 1975, thực ra là vào ngày 1/8/1975, ngày ký Hiệp ước Helsinski, chỉ sau khi quân đội cộng sản xua quân vào cưỡng chiếm miền Nam Việt nam khoảng 3 tháng.
Trong khi cộng sản Việt nam mù quáng vui mừng « chiến thắng » và còn có người u mê đến nỗi cho rằng trong tương lai sẽ « gửi quân sang giải phóng Hoa kỳ « , không biết gì đến tình hình thế giới và ngay cả tình hình khối cộng sản, thì Brejnev, một chỗ dựa « vững chắc « của Lê Duẫn, đã phải lùi bước, đi từ thế công sang thế thủ ở Hội nghị Helsinki, Phần Lan, họp vào cuối tháng 7, gồm các nước Âu châu cộng thêm Hoa kỳ và Gia nã đại. Ở Hội nghị này, Brejnev yêu cầu các nước Âu châu cộng với Hoa kỳ và Gia nã đại công nhận : 1) Biên giới sẵn có của Âu châu, nhất là giữa Liên xô, Ba lan và Đức, lấy sông Oder làm ranh giới, vì vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, Staline đã chiếm một phần lãnh thổ của Ba lan, và bù lại thì lại lấy một phần lãnh thổ của Đức sát nhập vào Ba lan ; 2) Yêu cầu thế giới chấp nhận học thuyết Brejnev, theo đó, những nước dưới sự ảnh hưởng của Liên sô chỉ có độc lập giới hạn và Liên sô có quyền gửi quân đến những nước này nếu cần.
Ngược lại thế giới tự do yêu cầu Liên xô phải mở cửa kinh tế để buôn bán với các nước tự do, không thể phá sóng những đài tự do chuyển vào thế giới cộng sản, phải thả một số tù nhân lương tâm.
Khi tham dự và ký những điều khoản của Hiệp ước Helsinski, có một người tướng của Cơ quan Quân báo Liên sô cho rằng « Liên sô ký Hiệp ước này là đã để cho tư bản chọc thủng phòng tuyến của mình «. Điều nhận xét của viên tướng này cho tới ngày Liên xô sụp đổ, quả không sai.
Trở về tình hình cộng sản Việt nam, vẫn u mê với « Chiến thắng «, vẫn nghĩ rằng « Tư bản đang giãy chết «, « Cộng sản sẽ toàn thắng trên toàn thế giới «, họ vẫn ở kế thượng sách của chiến lược Brejnev, trong khi ông này đã phải lùi về kế trung sách. Chính vì vậy mà cộng sản Việt nam xua quân sang xâm chiếm Căm bốt năm 1978 và còn hăm he tiến đánh Thái lan. Tuy nhiên cả Liên xô và cộng sản Việt nam, một bên thì bị sa lầy ở Căm bốt, bên kia thì bị sa lầy ở A phú hãn.
Đấy là chưa nói đến sự kiện Hoa kỳ và Trung cộng xích lại gần nhau hơn. Đặng tiểu Bình đã trở lại chính quyền năm 1976 và 2 năm sau 1978 nắm thực quyền, đã vội vã sang thăm Hoa kỳ năm 1979, đóng vai một người Hoa Kỳ, đội mũ cao bồi, đi xem đua ngựa. Cùng năm 1979, thì xua quân vượt biên giới « Dạy cho Việt nam một bài học ».
Từ ngày Hội nghị Helsinski tới ngày Brejnev chết, tình hình thế giới cộng sản càng ngày càng xấu đi, tại quốc nội cũng như quốc ngoại.
Quốc nội thì nói chung các nước cộng sản, kinh tế càng ngày càng tồi tệ, dân bất mãn, bỏ nước ra đi như ở Việt Nam, tại Liên sô thì dân sinh ra nghiện rượu; quốc ngoại thì xẩy ra tranh chấp Việt – Căm bốt, Việt – Hoa, Nga – Hoa. Tranh chấp Nga – Hoa trở nên cao độ. Hoa kỳ lợi dụng tình thế này để chia rẽ thế giới cộng sản.
Brezhnev chết là một mất mát lớn với cộng sản Việt nam, đặc biệt là với Lê Duẩn, người tuân thủ bất cứ một mệnh lệnh gì và sẵn sàng làm con chốt thí thân cho chiến lược của ông này. Brejnev chết đi, tình hình Liên xô cũng không có gì sáng sủa, hai ông già lên thay, Andropov và Tchernenko, trong vòng 2 năm, cho tới khi Gorbachev kế vị, rồi thế giới cộng sản Liên xô và Đông Âu sụp đổ. Trong thời gian này thì Lê Duẩn của Việt Nam vẫn cầm quyền cho tới tháng 7/1986.
Khi Lê Duẩn chết, người lên kế vị với chức vụ quyền Tổng bí thư là Trường Chinh, vì lúc đó theo thứ tự trong đảng thì đứng đầu là Lê Duẩn, thứ nhì là Trường Chinh, thứ ba là Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ đứng mãi thứ 6. Trường Chinh sang Liên xô 2 lần vào tháng 7, tháng 8, mong được sự chấp nhận của Gorbachev, vì lúc này Gorbachev đã lên ngôi. Nhưng ông này không chịu, khuyên những người già nên về hưu, nhường chỗ cho những người trẻ. Lợi dùng tình thế này, Lê đức Thọ kéo theo Trường Chinh và Phạm văn Đồng, ba người đều từ chức, về hưu. Nhưng trên thực tế là khi Lê Duẩn chết, con người quyền lực nhất lúc bấy giờ là Lê đức Thọ, vì con người này mặc dầu đứng thứ sáu, thứ bảy, nhưng nắm giữ chức vụ tổ chức nhân sự trong đảng, có nhiều vây cánh, ác ôn côn đồ, gian manh, xảo quyệt, đầu óc bè phái, gia tộc rất mạnh.
Mặc dù rút vào trong bóng tối, nhưng Lê đức Thọ đưa hết tay em của mình vào những chức vụ quan trọng trong đảng và chính quyền:
Nguyễn văn Linh, người từng là tay em của Thọ trong thời gian ở Trung ương Cục miền Nam, nay lên làm Tổng bí thư. Đây là một con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị rõ ràng, gió chiều nào theo chiều ấy, hoàn toàn bị khống chế bởi họ Lê, mặc dầu đảng cộng sản đã đánh bóng con người này, cho rằng đây là con người « Nói và Làm « , vì ông có viết báo, lấy bút hiệu là N.V.L., ở báo Nhân dân; hay đây là một con người sáng suốt, bằng cả trăm cả ngàn ngọn nến không kém gì Lê Duẫn. Chúng ta thấy lúc đầu thì Linh chủ trương « Đổi mới «, nhưng sau đó lại đàn áp những nhà đối lập không khác chi thời trước. Điều đáng buồn cho Việt Nam là trong thời gian Hội nghị Thành Đô, thì chính con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị này làm Tổng bí thư.
Về đảng thì đã là vậy, về chính quyền thì cũng là toàn tay em của Thọ, từ Đỗ Mười làm Thủ tướng, nhưng trước đó, vào thời chiến tranh chống Pháp, là Ủy viên ám sát của đảng ở vùng tả ngạn sông Hồng, gồm một phần Hà Đông, Nam định, Thái bình và Ninh bình, cũng là tay em của Thọ. Thêm vào đó em ruột của Lê đức Thọ là Mai chí Thọ ( cộng sản thay tên đổi họ) làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, công an. Lê đức Anh, người dưới quyền của Thọ ở miền nam, được Thọ cất nhắc lên chức Đại tướng, Tư lệnh đoàn quân sang xâm chiến Căm Bốt, được làm Bộ trưởng Bộ quốc Phòng; ngay cả Nguyễn cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ ngoại giao, là người trong Phái đoàn thương thuyết về Hiệp định Paris 1973, mà Lê đức Thọ là cố vấn, nhưng là người nắm thực quyền.
Lê đức Anh là một anh cai phu đồn điền, mà người dân kêu là « Anh chột «, là một người ác ôn không kém Thọ, vì đánh phu đồn điền, nên bị nghỉ việc, sau đó theo cộng sản. Vì là đặc trách tổ chức nhân sự của đảng, nên Thọ nắm được hồ sơ này, nhưng giữ kín, để làm một con bài sau này để dễ bề khống chế. Việc này, những người am tường tình hình đảng cộng sản Việt nam đều biết.
Cũng về đảng, chính những người cộng sản cao cấp và gần Lê Đức Thọ, ai cũng rõ ông này có ba biệt hiệu: « Anh Sáu búa «, « Anh Sáu Tú bà « và « Anh Sáu hèn. « Anh sáu búa vì Lê Đức Thọ chủ trương dùng búa để đập đầu, giết người thay vì dùng súng đạn. Anh Sáu tú bà vì trong thời gian nắm Trung ương Cục miền Nam sau Lê Duẩn, thì nhiệm vụ chính của Thọ là kiếm gái miền Nam gửi ra miền Bắc để cống hiến cho Bác (tức Hồ chí Minh) và cho Đảng ( tức các ông lớn trong Bộ Chính trị và Trung ương đảng). Anh Sáu hèn vì khi « Chiến thắng miền nam « thì hãnh tiến, vác mặt lên trời, đã ra lệnh trục xuất Đại sứ Pháp, ông Mérillon lúc bấy giờ, ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiến đồng hồ. Sau đó, khi cần, thì sang qụy lụy Pháp, xin Pháp giúp đỡ, viện trợ, đi chữa bệnh, nằm ở nhà thương quân sự của Pháp Val de Grace lúc cuối đời.
Người xưa có câu: « Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã « ( Trâu thì đi với trâu, ngựa thì đi tìm ngựa), ngay cả Tây phương cũng có câu: « Dis – moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es « ( Hãy nói cho tôi người anh lui tới, tôi sẽ nói anh là người thế nào.)
Con người Lê đức Thọ là con người vừa hèn, vừa ác ôn côn đồ, thủ đoạn « Mày theo tao thì mày có tất, nếu không thì tao sẽ giết mày «, vì vậy những tay em của hắn, từ Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Mai chí Thọ, và hôm nay còn một người cháu của ông ta là Lê Hồng Anh, vừa mới sang Tàu qụy lụy Tập cận Bình, những con người này mang tất cả những tật xấu của Lê đức Thọ, cũng hèn nhát, ác ôn côn đồ, qụy lụy ngoại bang, tinh thần gia tộc, bè phái, không coi thể diện quốc gia, quyền lợi dân tộc ra gì.
Người ta có thể nói từ ngày Lê Duẫn chết tới nay, Việt Nam bị khống chế bởi gia tộc họ Lê, con cháu và tay em. Những vụ ám sát, thủ tiêu như vụ của tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, mà vợ con phải than lên: « Chồng và bố tôi bị người ta đầu độc chết v.v… « , tất cả xa gần đều liên quan đến gia tộc này và những tay chân, bộ hạ của nó.
Thực ra thi Lê đức Thọ họ Phan, tên thực là Phan đình Khải, người Nam định, có trình độ tiểu học, thời đó gọi là bằng Cao đẳng tiểu học, được Pháp lập ra, vào lúc đầu khi đã ổn định chế độ thuộc địa. Những người có cấp bằng này hoặc đi về làng dạy học, như Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam, mà người ta thường gọi là « Ông giáo Phú «, hay Nguyễn thị Minh Khai, cũng được gọi là « Cô giáo Khai «, và ngay cả Hồ chí Minh cũng đã từng làm ông giáo làng ở Phan Thiết; những người khác thì đi làm hỏa xa, tức sóat vé trên tàu xe lửa, trường hợp của Lê Đức Thọ.
Lê Đức Thọ còn 2 người em, làm tướng, trước và ngay cả sau năm 1975, nhất là từ khi Lê Đức Thọ nắm thực quyền sau khi Lê Duẫn chết. Đó là Mai chí Thọ, tên thật là Phan đình Đống, làm đến chức vụ Bộ trưởng Bộ công an. Một người khác tên Đinh đức Thiện, tên thật là Phan đình Dinh, đặc trách về việc tiếp vận hậu cần, tương đương với Bộ trưởng Bộ Tiếp tế Lương thực. Có nguồn tin cho rằng Lê hồng Anh, đương kim Bộ Trưởng bộ Công An, đặc trách về Ban bí thư đảng ngày hôm nay, là con của Đinh đức Thiện. Nguồn tin này không phải không có lý. Một nguồn tin khác cho rằng ngay cả Nguyễn tấn Dũng, đương kim Thủ tướng hiện nay là con rơi của Mai chí Thọ, trong thời gian hoạt động ở miền Nam, sau đó đã ra ngoài Bắc, để lại cho Võ văn Kiệt làm con nuôi. Chính vì vậy, trong thời gian Võ văn Kiệt làm Thủ tướng, Mai chí Thọ làm Bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn Tấn Dũng đã lên như diều.
Tất cả những người con cháu, tay em của Thọ đều là những người giống Thọ, đầu óc gia tộc, bè phái rất lớn, sẵn sàng làm bất cứ giá nào để bảo vệ quyền lợi gia tộc và bè phái, dầu hèn hạ, qụy lụy ngoại bang hay ác ôn côn đồ.
Ngày hôm nay, cộng sản vẫn còn nắm quyền, gia đình họ Lê vẫn khống chế, sự thật vẫn bị che dấu, nhưng rồi trong tương lai sự thật sẽ được phơi bày. Như trường hợp Staline ra lệnh giết 20 000 sĩ quan Ba Lan là do Gorbachev tiết lộ bí mật; gia đình Nga hoàng Nicolas 2 bị giết hại bởi Lénine là do Boris Eltsine không những cho mọi người biết mà còn tổ chức an táng trọng thể.
Thực ra trước khi Lê Duẫn chết, cộng sản Việt Nam cũng biết rõ Liên sô không còn là chỗ tựa vững chắc nữa, không còn là thanh trì cách mạng, « là ngày mai tươi sáng của Việt nam «, nhất là khi Tchernenko chết, tất cả những Tổng bí thư của những đảng cộng sản đều phải sang để dự tang, Gorbachev nói thẳng với mọi người có mặt rằng: « Liên xô không thể giúp đỡ được nữa. Hiện nay muốn có hàng hóa của Liên sô thì phải mua và trả bằng ngoại tệ hay trao đổi hàng hóa. »
Chính vì vậy mà cộng sản Việt Nam đã chạy đôn chạy đáo, không còn sĩ diện quốc gia, dân tộc, đi van lạy các cường quốc.
Lúc đầu là với Mỹ. Ngoại trưởng Việt Nam nhiều lần sang Hoa kỳ, ban đầu thì còn lên giá, làm cao, tuyên bố: « Hoa kỳ muốn tái lập bang giao với Việt nam thì phải bồi thường chiến tranh. », sau đó xuống nước, không nói gì đến bồi thường chiến tranh, và tuyên bố: « Nếu Hoa kỳ muốn tái lập bang giao với Việt Nam, thì Việt Nam sẵn sàng dành mọi ưu tiên cho Hoa kỳ, ngay cả việc Hoa kỳ muốn đặt tòa Đại sứ hay Tổng lãnh sự, ở đâu, Việt Nam cũng đều đồng ý. »
Tuy nhiên giữa cán cân Trung cộng và Việt Nam, Hoa kỳ chọn Trung cộng chứ không chọn Việt Nam. Chúng ta phải nhớ là vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, tình hình giữa Việt Nam và Trung cộng rất căng thẳng. Hoa kỳ muốn đi với Trung cộng để chĩa mũi dùi vào Liên sô, đánh sập Liên Xô. Và cộng sản Việt nam lại là tay em trung thành của nước này.
Muốn đi theo Hoa kỳ không xong, cộng sản Việt nam quay sang tìm sự giúp đỡ của Pháp vào những năm 1988-1989, lúc này là lúc Tổng thống Pháp F. Mittérand vừa mới tái đắc cử. Tuy nhiên khả năng tài chính của Pháp hạn hẹp, thêm vào đó Pháp đòi hỏi phải dân chủ hóa chế độ, vì lúc này là lúc những phong trào dân chủ và những cuộc cách mạng dân chủ đã xẩy ra ở Đông Âu, nên việc không thành.
Việc Lê đức Thọ sang chữa bệnh ở Pháp năm 1988, vừa mang ý nghĩa chữa bệnh, vừa mang ý nghĩa chính trị.
Cộng sản Việt nam không còn con đường nào là hèn hạ, muối mặt, sang qụy lụy Trung cộng, mặc dầu trước đó đã lên tiếng chửi rủa Trung cộng không còn tiếng xấu nào mà không dùng, nào là « Chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh «, « Kẻ thù liền đất, liền trời « v.v…
Ai cũng biết người đứng sau nền chính trị Việt Nam và tất nhiên sau Hội nghị Thành đô là Lê đức Thọ, Phái đoàn Việt Nam gồm có Nguyễn văn Linh, đương kim Tổng bí thư, Đỗ Mười, đương kim Thủ tướng, Phạm văn Đồng, cựu Thủ tướng, cố vấn Phái đoàn. Phía bên Trung cộng, người đứng ngầm đằng sau là Đặng tiểu Bình, Phái đoàn gồm có Giang trặch Dân, đương kim Tổng bí thư, Lý Bằng, đương kim Thủ tướng.
Phía Việt Nam thì Lê đức Thọ bệnh nặng, chúng ta nên nhớ là Hội nghị Thành đô họp 2 ngày 3 và 4 tháng 9/1990, tất nhiên có những trao đổi trước đó cả tháng nếu không cả năm, thì chỉ hơn một tháng sau Lê đức Thọ chết vào ngày 13/10/1990.
Phía Việt nam nghĩ rằng có Phạm văn Đồng để cân xứng với Đặng tiểu Bình, nhưng đã lầm. Họ Phạm chỉ là một con người thừa hành, không có nhìn xa trông rộng, bằng chứng là đã ký công hàm bán nước năm 1958, thêm vào đó, đây là một con người cũng vô cùng hèn hạ, nhưng lại đạo đức giả và giỏi đóng kịch, giống như Hồ chí Minh, nên đã được người cộng sản khen ngợi rằng Phạm văn Đồng là học trò trung thành của Bác. Con người đạo đức giả này, sau khi họp Thành Đô về còn tỏ ra hối hận.
Về phía Trung cộng, chúng ta thấy Đặng tiểu Bình, một người lên voi xuống chó, ở chính trường quốc nội cũng như hải ngoại, là một con chó sói già trước một đàn cừu non Việt Nam. Con người này chỉ dùng lý thuyết cộng sản như một phương tiện để phục vụ cứu cánh của mình là chủ nghĩa bành trướng đại Hán, « Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là nó bắt được chuột. » Trong khi đó thì cộng sản Việt nam vẫn « Đánh Mỹ để xây dựng xã hội chủ nghĩa «. Chính vì vậy mà ông Nixon đã nói: « Trung cộng chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. »
Đó là sơ qua diễn tiến tình hình chính trị, trước khi đi đến hội nghị Thành đô 1990, về phía Việt Nam. Nhưng về phía Trung cộng thì như thế nào ?
I I I ) Tình hình Trung cộng trước Hội nghị Thành đô
Tình hình Trung cộng gần kề nhất ngày Hội nghị Thành đô là biến cố Thiên An môn 1989. Đây là một biến cố lớn trong lịch sử cận đại của Trung cộng và của đảng Cộng sản Tàu.
Những cuộc biểu tình ở nhiều thành phố và nhất là ở Bắc kinh, tại quảng trường Thiên an môn, từ ngày 15/4 tới ngày 4/6/1989, đã huy động cả triệu người đủ mọi tầng lớp, từ nông dân, công nhân đến sinh viên học sinh, công chức và có cả quân đội, đòi tự do hóa chế độ, chống tham nhũng, cửa quyền, con ông cháu cha của đảng Cộng sản. Phe cải cách lúc đó tiêu biểu là Tổng bí thư Triệu tử Dương, phe bảo thủ tiêu biểu là Thủ tướng lý Bằng. Lập trường của Đặng tiểu Bình vào lúc đầu có vẻ ngả về phe cải cách, sau đó lừng khừng đứng giữa, cuối cùng đã ngả về phe bảo thủ, khi cuộc biểu tình đã không tự kiểm soát nổi, có những phần tử đã lợi dụng căng những biểu ngữ chống họ Đặng. Đấy là chưa nói hình ảnh sinh viên học sinh đã làm quá đà trong thời kỳ Cách mạng Hồng vệ Binh (1964 -1974), đưa bố mẹ, thầy cô ra đấu tố, đưa đến cảnh một người con trai của Đặng tiểu Bình, khi vệ binh đỏ đến phòng cư xá sinh viên, đã sợ quá, nhảy từ lầu cao xuống đất, gãy xương sống, suốt đời phải đi xe lăn; một biến cố nữa, đó là vợ chồng ông Chu ân Lai, đương kim Thủ tướng và vợ ông ta, bà Đặng vĩnh Siêu, một cán bộ lâu năm và rất ảnh hưởng trong Đảng cộng sản lúc bấy giờ, có một người con gái nuôi, dạy nhảy múa ở nhà hát Bắc kinh, bị đưa đi trại học tập, do chính sắc lệnh của Chu ân Lai, sau đó những người Vệ binh thân Mao, đã lấy một cái đinh dài đóng vào đầu cô ta, làm cho cô ta chết. Hình ảnh và hành động này ám ảnh không những bà Đặng vĩnh Siêu, Đặng tiểu Bình, mà phần lớn giới lãnh đạo Trung cộng lúc bấy giờ.
Vì vậy nên khi quyết định « Dẹp hay không dẹp biểu tình «, thì phe bảo thủ đã thắng. Đưa đến hậu quả làm cả ngàn người chết và cả chục ngàn người bị thương. Quyết định đàn áp biểu tình có nhiều người chống đối, trong đó có Tổng bí Thư Triệu tử Dương, Bộ trưởng quốc phòng, Tư lệnh quân đội Bắc kinh. Vì vậy nên phe bảo thủ phải gọi những đoàn quân ở phía tây bắc, từ những vùng Tây tạng, Tân cương v.v… về để dẹp biểu tình.
Biến cố Thiên an Môn suýt nữa làm cho nước Tàu nổ tung, ít ra làm 2. Trước đó thì cách mạng Hồng vệ binh đã đưa nước tàu vào cảnh nội chiến, có cơ bị chia ra làm nhiều mảnh.
Từ xưa tới nay, giới báo chí, trí thức và ngay cả giới lãnh đạo tây phương có cái nhìn sai lạc về Tàu.
Đầu thế kỷ thứ 19, thì Napoléon ví nước Tàu như một con hổ đang ngủ, nếu nó thức dậy sẽ làm rung chuyển thế giới. Vào những năm 70, một nhà chính trị, kiêm văn sĩ Pháp, ông Alain Peyrefitte, có viết quyển sách « Quand la Chine s’éveillera… « (1973), ( Khi nước Tàu sẽ tỉnh dậy… ). Không nói đâu xa, ngay ngày hôm nay, thế giới Tây phương vẫn còn có những cái nhìn sai lầm về Tàu.
Trong khi đó, chính những người Tàu, ngay cả một số giới lãnh đạo, thì ngược lại. Ông Chu dung Cơ, cựu Thủ tướng Tàu, có nói: « Nước Tàu là một anh khổng lồ, chân bằng đất xét. » Cũng một cựu Thủ tướng khác, ông Ôn gia Bảo, vào cuối năm 2012, giai đoạn chuyển quyền giữa Hồ cẩm Đào và Tập cận Bình, thì tuyên bố: « Nước tàu đang đi vào nguy hiểm của thời kỳ Cách mạng Hồng vệ binh. » Sự đấm đá trong đảng, tranh quyền đoạt lợi hiện nay vẫn tiếp diễn.(1)
Tháng 7/2014, một cuộc nghiên cứu, được công bố bởi Hurun Report, về việc tìm hiểu hành vi và thái độ của những người giàu nhất Trung cộng, mà trong đó phần lớn là những gia đình thuộc con ông cháu cha của những người lãnh đạo cao nhất, cho ta thấy: hơn 60% những người được khảo sát thì đã ra nước ngoài hay đã nộp hồ sơ để ra nước ngoài; 85% thì nói họ đã gửi con, người thân thích đến những trường đại học ở ngoại quốc.( Ian Bremmer, « China superpower or superbust, The National Interest Magazine, tháng 11 và 12/ 2013).
Một chính quyền, một quốc gia có thể ví như một cái cây, những người của chính quyền là những người ở dưới gốc cây, hưởng bóng mát của nó, nay tìm cách gửi tiền hay gửi con ra nước ngoài chẳng khác nào đào đất ở gốc cây đổ đi chỗ khác, thì cái cây sớm muộn cũng sẽ bị trốc gốc.
Trong chính trị, sự lầm lẫn về địch thủ, đối phương, ngay cả với bạn, rất nguy hiểm, dẫn đến những hậu quả to lớn khó lường. Tuy nhiên đối với giới lãnh đạo Tây phương, nó có quan trọng, nhưng không có tính cách sống còn, nguy hiểm chết người, hại cả một dân tộc như đối với giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Có thể nói giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, bắt đầu từ Hồ chí Minh cho tới ngày nay, có một cái nhìn sai lầm về thế giới cộng sản, nhất là về Trung cộng.
Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên do:
Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn ngay từ cuộc đời cá nhân của Hồ chí Minh. Sau khi rời Việt nam, đi làm bồi cho một chiếc tàu Pháp, sống lang bạt kỳ hồ, khổ sở ở New York, Luân đôn, rồi Paris, thiếu thốn khó khăn, được Đệ Tam quốc tế lượm về nuôi nấng, huấn luyện, được sung sướng. Tất nhiên họ Hồ về cá nhân thì coi tổ chức Đệ tam, nhưng thực tế là Liên sô, như « Cha mẹ «. Chúng ta thấy, trong thời gian họ Hồ bị tổ chức này thất sủng, vào những năm cuối thập niên 20, đầu 30, vì lúc đó có sự tranh quyền gay gắt giữa Staline và Trotski, mà trước đó họ Hồ làm việc cho Borodine, người thân Trotski, họ Hồ đã bị thất sủng, đã viết thư không biết bao nhiêu lần cho Đệ Tam, xin từng miếng cơm đến tiền trả tiền hotel. Chúng ta có thể thấy những bức thư này dễ dàng trong Tuyển tập Hồ chí Minh, do chính đảng Cộng sản Việt nam xuất bản.
Rồi tình hình thế giới thay đổi, Phát xít Moussolini xuất hiện ở Ý năm 1923, ở Đức năm 1933 với Hitler, Đệ tam quốc tế họp kỳ cuối cùng năm 1936, trước khi bị Staline giải tán, đã quyết định thay đổi chiến lược, từ « Đấu tranh giai cấp « sang « Hợp tác giai cấp để chống Phát xít « , họ Hồ được dùng lại, và đã cùng phái đoàn cộng sản Tàu, trở về Tàu vào khoảng năm 1938 nhằm sửa sọan cướp chính quyền.
Sau khi cướp được chính quyền thì nay chạy sang Tàu lạy lục xin viện trợ, mai chạy sang Liên sô để xin giúp đỡ.
Ngày hôm nay Cộng sản Việt Nam tâng bốc họ Hồ, đưa ra « Tư tưởng Hồ chí Minh «, nhưng chính ông đã tuyên bố: « Tôi không có tư tưởng gì cả. Tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. Những con người này không bao giờ sai lầm. »
Một con người không có tư tưởng, mà vì hoàn cảnh cứ phải đi xin cầu viện, lúc trẻ thì cho bản thân, lúc lớn thì cho tổ chức, con người này bản chất đã trở thành qụy lụy ngoại bang. Bản chất này đã ăn sâu vào xương tủy của con cháu Hồ tức những lãnh đạo cộng sản Việt nam sau này. Lê Duẫn, người kế vị trực tiếp Hồ, thì thản nhiên tuyên bố:
«Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên xô và Trung cộng.» không ngần ngại hy sinh từ thế hệ này đến thế hệ khác để phục vụ lý tưởng cộng sản, nhưng thực tế là phục vụ Nga, Tàu.
Con cháu của Hồ chí Minh và Lê Duẩn ngày hôm nay, sau Hội nghị Thành đô năm 1990, đã sẵn sàng chấp ngận khẩu hiệu « Bốn Tốt và Mười sáu Chữ vàng «, đưa ra bởi Giang trạch Dân, nhưng thực tế là dâng đất, nhượng biển, thần phục ngoại bang như cha anh cộng sản Hồ Lê trước đây.
Nguyên nhân gần, đó là thế giới cộng sản Đông Âu, trong đó có Liên xô, « thành trì cách mạng, chỗ tựa vững chắc » của cộng sản Việt Nam từ từ sụp đổ từng mảng một, mà người chứng kiến tận mắt đó là Nguyễn văn Linh, lúc đó là đương kim Tổng bí thư, Trưởng Phái đoàn của Việt nam tại Hội nghị Thành đô.
Từ tháng 9/1989, cả ngàn người Đức, bỏ Đông Đức sang xin tỵ nạn ở Tây Đức.Tháng 10/1989, Honnecker từ chức Chủ tịch đảng Cộng sản Đông Đức. Tháng 11/1989, bức tường Bá Linh, ngăn cách hai nước Đông và Tây Đức, hai thế giới cộng sản và tư bản, sụp đổ. Tiếp theo đó là Tổng bí thư Todor Zhivkov của đảng cộng sản Bulgarie, rồi Tổng bí thư Milos Jakes của đảng cộng sản Tiệp khắc cũng từ chức.
Tháng 12/1989, cuộc cách mạng dân chủ ở Roumanie bùng nổ, vợ chồng nhà độc tài cộng sản Ceausescu, bị hạ bệ, rồi bị tử hình.
Những tình hình đó đã ảnh hưởng và ám ảnh sâu đậm đến giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Đấy là chưa nói đến sự kiện là giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đến Hội nghị Thành đô còn mang đầy « mặc cảm tội lỗi » với đàn anh Trung cộng, vì sau khi Trung cộng « dạy cho cộng sản Việt nam một bài học », như lời tuyên bố của Đặng tiểu Bình, sau khi viếng thăm Hoa kỳ vào năm 1979, chiến tranh Việt Trung vẫn tiếp diễn ở biên giới và ở ngoài khơi. Năm 1988, Trung cộng đánh Trường sa của Việt Nam, chiếm đảo Gạc ma, mà hiện nay Trung cộng đang thành lập một căn cứ quân sự với những phi đạo cho máy bay, và những cứ điểm để khai thác dầu hỏa, mà cộng sản Việt Nam cứ im thin thít.
Chiến tranh tại biên giới Việt Hoa kéo dài đến tận 1987, 3 năm trước Hội nghị Thành đô. Theo một số quan sát viên, ngoài những sự đụng độ nhỏ, có 6 trận đánh lớn, vào tháng 7/1980; tháng 5/81; 4/83; 6/85; 12/86; 1/87.
Từ bản chất lệ thuộc ngoại bang, đến mặc cảm « tội lỗi « , cộng thêm với những cái nhìn « ếch ngồi đáy giếng « chỉ biết có Liên sô, nay thế giới Liên sô từ từ sụp đổ, Phái đoàn cộng sản Việt Nam dự hội nghị Thành đô với một tư thế kém cỏi, như những « con cừu non « , trước một phái đoàn, mà đứng đằng sau là Đặng tiểu Bình, một con cáo già, gian manh, xảo quyệt ở mức độ quốc tế, với một tham vọng và ý chí mãnh liệt bành trướng chủ nghĩa « Đại Hán ». Tất nhiên những con cừu non đó bị con cáo già ăn thịt là lẽ thường tình.
IV ) Diễn tiến của Hội nghị Thành đô ( Hình thức và nội dung)
Thực ra, về nội dung của văn bản Hiệp ước Hội nghị Thành đô, cho tới ngày hôm nay, một cách chính thức, chưa có ai rõ. Người ta chỉ phỏng đoán qua những việc làm của Cộng sản Tàu và Việt nam, từ ngày có Hội nghị này cho tới nay.
Chính thức và để có giá trị trên mặt công pháp quốc tế, thì bất cứ hiệp ước quốc tế nào, nhất là liên quan đến biên giới trên đất liền hay trên biển, giữa hai hay nhiều quốc gia, thì phải có sự trong sáng: có nghĩa là phải được công bố, phải có sự phê chuẩn của quốc hội hay sự chấp nhận của dân qua trưng cầu dân ý và bản hiệp ước đó phải gửi tới cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên hiệp quốc. Về Hiệp ước Thành đô cả Trung cộng và Cộng sản Việt Nam không hành xử theo kiểu này, mà hành xử lén la, lén lút, có tính cách mờ ám chứ không minh bạch, theo cách hành xử của những nước tự do, dân chủ.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy là Công Hàm của Phạm văn Đồng năm 1958. Về phía cộng sản Việt Nam thì giấu giếm dân, về phía Trung cộng thì lập lờ đánh lận con đen qua việc yêu cầu Việt nam tôn trọng quyền lãnh hải 12 hải lý, rồi công bố bản đồ của Trung cộng, trong đó có Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam.
Thực ra thì không riêng gì Trung cộng và Cộng sản Việt Nam hành động lén lút, dấu dân, mà có thể nói tất cả những chế độ cộng sản, từ chế độ đầu tiên do Lénine thành lập năm 1917.
Lénine, để có được chính quyền, không ngần ngại tuyên bố là sẵn sàng nhượng đất cho Đức, sau đó có cử Trotski đi ký Hiệp ước nhượng đất ở Brest – Listovk, năm 1918, với Đức. Hiệp ước này ít người được biết, trong khi đó dân thì mù tịt. Ngay cả việc Lénine giết toàn gia đình Hoàng gia Nga Nicolas 2, ngày hôm nay người ta cũng không tìm ra một sắc lệnh nào của Lénine, ngoài việc Lénine cử một tay em thân cận, ngày xưa là một chủ ngục và được Lénine thường nói với mọi người rằng đây« là người giỏi nhất trong những người chúng ta «, có nghĩa là dám giết người, dám thủ tiêu, xuống chỗ ở của gia đình hoàng gia, rồi một đêm nọ, cùng với mười mấy người có súng, kêu gia đình xuống một cái hầm, đọc một bản án và giết cả gia đình.
Hành động hận thù, lén lút giết người không gớm tay, đó là hành động của giới lãnh đạo cộng sản.
Lê đức Thọ của Việt Nam, thì tuyên bố: « Mài hận thù để làm bén nhọn đấu tranh. » Em của hắn, Mai chí Thọ, vào năm 1981, lúc này là thế giới cộng sản đã bắt đầu xuống dốc, thì trân tráo, vô liêm sỉ, tuyên bố trước một số trí thức miềm Nam phải « đi học tập cải tạo:
« Hồ chí Minh có thể là một kẻ độc ác; Nixon có thể là một người vĩ đại, người Mỹ có thể đã có chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại, bởi vì chúng tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ chí Minh là một người vĩ đại và Nixon là một kẻ giết người, người Mỹ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt đó là kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. Chỉ có chủ nghĩa Marx – Lénine là làm được điều đó. Không ai trong các anh (chỉ những người trí thức miền nam bị đi học tập cải tạo) thấy sự kháng cự đối với chế độ của những người cộng sản, vì vậy đừng suy nghĩ về chuyện đó. Quên chuyện đó đi. » ( Mai chí Thọ – theo lời của Đoàn văn Toại, trong A Lament for Việt Nam – New York Times Magazine – 29/03/1981).
Chế độ Marx-Lénine mà Mai chí Thọ nói tới không gì hơn là cai trị dân bằng cái loa, cái còng và cái súng. Cái loa là bưng bít thông tin, che dấu sự thật, rồi dùng cái loa để nói dối dân. Cái còng và cái súng là dọa dân, nếu ai không theo tao thì bỏ tù, hay thủ tiêu.
Tuy nhiên cách cai trị đó đã quá lỗi thời. Thế giới cộng sản Đông Âu sụp đổ, một phần cũng vì lý do đó. Ngày hôm nay những chế độ cộng sản còn lại, với nền văn minh trí thức điện toán, thông tin dễ dàng với những internet, điện thoại cầm tay, đang trên đà sụp đỗ cũng là vì vậy.
Trở về Hội nghị Thành đô, vì không có bản Hiệp ước ký kết giữa 2 bên được công bố chính thức, nên người ta chỉ phỏng đoán dựa vào quyển Nhật ký của Trần quang Cơ, Thứ trưởng Bộ ngoại giao, lời tuyên bố của Nguyễn cơ Thạch, lúc đầu; sau đó là tài liệu của Weakileaks, Hoàn cầu thời báo cùng một số báo chí khác.
Về Nhật ký của Trần quang Cơ, phần rõ ràng là phần nói về vụ giải quyết tình hình Cam bốt: Cộng sản Việt Nam rút quân khỏi nước này, thành lập Hội đồng Hòa giải dân tộc dưới sự lãnh đạo của ông cựu hoàng Sihanouk. Chính ở điểm này, Trung cộng có nhượng bộ. Đó là Trung cộng đòi phải sự có mặt của phe Polpot, nhưng kết cục thì không có. Trần quang Cơ có nói đến những buổi thương thuyết trước Hội nghị, có nói đến phía Việt Nam đề nghị phía Trung cộng đứng ra lãnh đạo khối cộng sản còn lại, nhưng không nói rõ đề nghị này là thế nào. Có phải để Trung cộng lãnh đạo rồi Việt Nam nhận làm một tỉnh của Trung cộng không? Điều này không thấy trong nhật ký. Người ta chỉ thấy trong một vài tờ báo nói rằng đó là tiết lộ trong 3 100 bức điện thư lưu trữ ở Bộ Ngoại giao Hoa kỳ. Vấn đề kiểm chứng thật khó khăn, ngay với cả một số người thông thạo tin tức.
Trong khi đó thì Nguyễn Cơ Thạch, cấp trên, là Bộ trưởng Ngoại giao, không viết nhật ký, không được dự Hội nghị Thành đô, vì Trung cộng không muốn, lại tuyên bố: « Hội nghị Thành đô bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc nguy hiểm và lâu dài. »
Có người cho rằng để biết nội dung của bản Hiệp ước Thành đô thì chúng ta chỉ cần xét đến hình thức và hậu quả của nó.
Thực vậy, nếu nói về hình thức thì đây là một hội nghị quốc tế vô cùng nhục nhã đối với Cộng sản Việt nam. Theo thông lệ, một hội nghị ở mức độ cao như vậy thì phải họp ở thủ đô, nay lại họp ở một thủ phủ một tỉnh bậc trung là Tứ xuyên. Họp 2 ngày mồng 3 và mồng 4 tháng 9, Phái đoàn Việt Nam phải có mặt trước ngày mồng 2 tại Thành đô, đúng vào ngày Quốc khánh cộng sản Việt nam. Ép cộng sản Việt nam làm điều này, Trung cộng muốn nói là Trung cộng không coi Việt nam là một nước độc lập. Thêm vào đó, phái đoàn Việt Nam phải đi đường bộ để sang họp. Đặng tiểu Bình dụ để phía Việt Nam chấp nhận họp, đã hứa xuống gặp phái đoàn, nhưng sau đó không xuống gặp và còn tuyên bố khinh bỉ Cộng sản Việt nam: « Tôi không thèm gặp những phường ăn cháo, đái bát. »
Ngày xưa Mặc đăng Dung, Lê chiêu Thống qụy lụy Tàu để giữ ngôi báu, nhưng cũng không đến nỗi hèn mạt như vậy.
Những hành động của cộng sản Việt Nam sau Hội nghị Thành đô:
Mặc dầu người ta không biết chính thức nội dung của Hiệp ước Thành Đô, vì cả 2 bên Trung cộng và Cộng sản Việt nam không công bố chính thức nội dung của hiệp ước này. Nhưng những hành động của Cộng sản Việt nam từ ngày có Hội nghị tới nay quả là hành động bán nước. Bởi lẽ đó có người cho rằng nội dung của Hiệp ước là bán nước cũng không phải là không có lý.
Thật vậy, từ ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tới nay, những hành động của Cộng sản Việt Nam chứng tỏ càng ngày càng đưa Việt Nam vào vòng kiềm tỏa, lệ thuộc Trung cộng về kinh tế, chính trị quốc nội và hải ngoại. Người ta còn nhớ, sau Hội nghị không lâu, Giang trạch Dân đến viếng thăm Việt Nam, không đến Hà nội, thủ đô, mà tới Đà nẵng tắm biển, rồi gọi giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam tới « chầủ «, kiểu như ngày xưa chầu Thiên hoàng.
Năm 1997, Cộng sản Việt Nam muốn gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế, nhưng Trung cộng không muốn, nên phải từ chối.
Hai Hiệp định năm 1999, về vấn đề biên giới và năm 2 000 về lãnh hải, mà cộng sản đã ký với Trung cộng, dâng cho Trung cộng cả ngàn cây số vuông về lãnh thổ trong đó có thác Bản dốc và Ải Nam quan, cùng cả 20 000 cây số vuông về lãnh hải.
Tiếp theo đó là những hiệp ước nhượng cho Trung cộng khai thác bô xít ở vùng cao nguyên Trung phần, xương sống chiến lược của Việt Nam, rồi nhượng những vùng rừng ở biên giới cùng cho phép Trung cộng lập những khu tự trị ở Việt Nam.
Gần đây Trung cộng đặt giàn khoan dầu HD 981 ở trong thềm lục địa Việt Nam, cả thế giới trông đợi phản ứng mạnh mẽ của giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam, nhưng ngoài một vài lời tuyên bố cứng rắn, sau đó đâu lại hoàn đấy, đó là Cộng sản Hà Nội vẫn tiếp tục quỵ lụy Trung cộng, làm cho cả thế giới thất vọng.
Đó là về chính trị, còn về kinh tế thì ngay dù người dân bình thường cũng nhìn thấy rõ là nền kinh tế Việt Nam hiện nay hoàn toàn lệ thuộc Trung cộng. Việt Nam chỉ là một cửa tiệm để Trung cộng thuồn những hàng ô nhiễm, mang độc hại, những hàng giả, bị tẩy chay, sang mang nhãn hiệu Việt Nam để bán trên thế giới.
Nhìn lại quá khứ, suy xét hiện tại, để chẩn đoán tương lai:
Trong những chế độ cộng sản, những giới lãnh đạo cộng sản, không có một chế độ nào, giới lãnh đạo nào mà lại ngây thơ, ngu muội, nhưng lại nghĩ mình là « Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ « như cộng sản Việt nam. Ngày xưa thì Hồ chí Minh tuyên bố: « Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. »
Lê Duẫn thì nói: « Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên xô và Trung cộng.» Ngày nay, sự ngây thơ và ngu muội đó được biểu hiện qua Hội nghị Thành đô.
Thực ra sự ngây thơ và ngu muội không phải chỉ ở giới lãnh đạo mà ngay ở một số trí thức cộng sản. Đã từ lâu cộng sản Liên sô và Trung cộng đã dùng chủ nghĩa cộng sản như một phương tiện cho mộng xâm chiếm, bành trướng của mình, trong khi đó, giới trí thức cộng sản Việt nam vẫn nghĩ:« Bên ni biên giới là mình Bên kia biên giới cũng tình quê hương …»
Ngày hôm nay, có người cho rằng một số trẻ Việt Nam mất định hướng, vọng ngoại, đến nỗi “ Lên sân khấu để hôn cái ghế ngồi của một tài tử Nam Hàn.” Nhưng họ quên ngày xưa có một số trí thức cộng sản làm những bài thơ ca tụng Lénine, Staline: “ Hôn cho anh nền tảng đá công trường, nơi vĩ đại Lénine thường dạo bước “, hay: “Ôi ông Staline, ông mất, đất trời biết không. Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một, thương ông, thương mười.”
Ngày xưa “ hôn chân Lénine, Staline”, ngày hôm nay một số giới trè “ hôn ghế ngồi “ một tài tử ngoại quốc, ngẫm đi ngẫm lại, mặc dầu là 2 hành động khác nhau, nhưng mang cùng một bản chất.
Hiện nay, nhiều người bàn tán về đề tài “ Thoát Trung “, nhưng họ quên rằng điều kiện đầu tiên, ắt có và đủ, để “Thoát Trung”, đó là “ Thoát cộng”.
Ngày nào còn chế độ cộng sản, miệng thì hô hào yêu nước, nhưng trên thực tế thì bán nước. Ngày đó không thể thoát Trung, mà trên thực tế là càng ngày càng bị lún xâu vào vòng kiềm tỏa của Trung cộng.
Ngày nào còn đảng cộng sản độc quyền “ yêu nước “, độc quyền cai trị dân, không cho dân cất tiếng nói, miệng thì hô hào xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội, nhưng trên thực tế là cướp nhà cửa, ruộng vườn, tài sản của dân, để trao vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ, làm cho xã hội trở nên vô cùng bất công, ngày đó những hành động như Hội nghị Thành đô còn tái diễn, không những không thể thoát Trung, mà dân Việt còn không thể ngóc đầu lên được, để phát triển, để theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.
Paris ngày 09/10/2014
Chu chi Nam và Vũ văn Lâm
© Đàn Chim Việt
Bội thực với "thói xấu" người Việt
Đất nước phát triển là một đất nước có một thương hiệu tốt, điều này đòi hỏi sự cố gắng của tất cả mọi thành phần trong xã hội.
Việc liệt kê ra những thói hư tật xấu của người Việt là một bài toán đố, một câu hỏi không dễ trả lời.
Xây đã khó, giữ còn khó hơn
Những câu chuyện trên truyền thông về lối sống tử tế, về chuyện hành xử hay - dở của người Việt là những tín hiệu báo động.
Trước đó, dư luận đã bội thực với những bản tin về chuyện người Việt ăn
cắp đồ ở nước ngoài, ở Thái Lan, Nhật Bản… Buồn là vì thế, xây dựng
thương hiệu Việt không dễ, giữ cho được thương hiệu Việt lại càng khó,
nhưng với những bản tin “dày đặc” kiểu này, có vẻ như người Việt đã vô
tình “phá” nhiều hơn là tìm cách “xây” cái điều thiêng liêng, quý giá
ấy.
Mới đây, theo báo chí trong nước, có một sự việc xảy ra còn đáng xấu hổ
hơn. Một công nhân có hành vi cho thuốc diệt chuột, phân người, dao mổ
cá, ốc vít… vào hàng xuất khẩu sang Nhật và đã bị công an bắt giữ sau
hai tháng lẩn trốn.
Tại cơ quan điều tra, người công nhân có hành vi tiêu cực, phá hoại kia
khai nhận do phải làm việc từ 13 đến 14 tiếng mỗi ngày, lại không được
nghỉ hai ngày chủ nhật trong tháng nên nảy sinh ý định “thù vặt, bẩn
tính” như trên để khiến cho công ty mất uy tín, dẫn đến ít việc và anh
ta sẽ được nghỉ việc theo cam kết.
Sự thật thế nào sẽ được các cơ quan chức năng làm sáng tỏ, nhưng lời
khai trên vẫn chỉ là ngụy biện. Người công nhân kia đã không ý thức được
hành động vi phạm pháp luật nghiêm trọng của mình đến mức nào, phá
hoại thương hiệu của công ty nuôi sống mình, phá hoại công ăn việc làm
của những công nhân đồng nghiệp. Và nếu không may dẫn đến sự cố gây
chết người, thì một bản án “nghiêm khắc, đích đáng” phía trước dành cho
anh ta là điều không thể tránh khỏi…
Đáng buồn, đáng trăn trở hơn là hình ảnh người lao động lại thêm một “vết ố” khó mà “giặt” cho phai.
Trách nhiệm các cơ sở sản xuất
Báo Nhật Bản đưa tin, thực phẩm nhiễm bẩn của công ty thực phẩm nói
trên đã được phân phối ra ít nhất 12 trong số 47 tỉnh tại Nhật Bản, bao
gồm cả Tokyo, Aichi, Kyoto và Osaka. Còn theo công ty, việc làm của
người công nhân trên đã làm đình trệ toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh
doanh, gây thiệt hại lớn về kinh tế và uy tín của doanh nghiệp.
Như vậy, thật khó có lý do nào ngụy biện cho sự việc nói trên được nữa.
Đồng ý rằng trong thực tế ở Việt Nam, các công nhân lao động ở các khu
công nghiệp, khu chế xuất vẫn còn nhiều khó khăn bất cập, nhiều nơi có
tiền lương ít ỏi, ăn uống kham khổ, vệ sinh đi lại khó khăn và giờ làm
tăng ca nặng nhọc khắc nghiệt. Nhưng không thể vì thế mà có quyền có
hành vi “trả thù” hạ cấp, trái pháp luật như vậy.
Công bằng, nói đi cũng phải nói lại, từ sự việc này, các tổ chức công
đoàn ở cơ sở, ở khu công nghiệp, khu chế xuất… cũng cần phải thấy được
trách nhiệm của mình trước những bức xúc của công nhân, và có khi nào
tự hỏi rằng tổ chức của mình đã tạo được niềm tin, cho dựa vững chắc
cho người lao động hay chưa?
Bộ Lao động vừa cho biết, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam là 1,84%, một
con số đẹp… như mơ. Nhưng nếu ai đó “lạc quan” tin vào con số đẹp như
mơ ấy cũng nên dè chừng, với “ý thức lao động” kém như kiểu anh công
nhân Trần Xuân Trình, thì nguy cơ thất nghiệp dài dài là điều không thể
tránh khỏi. Có được việc làm đã khó, nhưng giữ được việc làm cho mình
và cho mọi người lại còn khó hơn gấp nhiều lần.
Người công nhân vi phạm nói trên đã bị khởi tố vì tội “hủy hoại, làm hư
hỏng tài sản”, đây là một tội danh hình sự và kết quả cuối cùng phụ
thuộc vào sự phán xét của phiên tòa. Nhưng còn cái tội phá thương hiệu
của một công ty, ảnh hưởng xấu thương hiệu của một quốc gia thì xử lý
thế nào đây, bao giờ mới khắc phục nổi điều này? Phá thì luôn dễ hơn
xây.
Một con sâu cũng đủ làm rầu nồi canh… là vậy!
Minh Phước
(Tuần Việt Nam)
Việt Nam đang trả lãi bao nhiêu tỷ USD/năm cho nợ công?
http://baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/viet-nam-dang-tra-lai-bao-nhieu-ty-usdnam-cho-no-cong-3033885/
14/04/2014
* Tác giả gửi bài trực tiếp cho VNTB
Tối qua, ngày 10/10/2014, vào lúc 12 giờ đêm, 1 nhóm An ninh mặc thường phục giả dạng côn đồ tấn công vào nhà trọ của Huỳnh Ngọc Hiếu tại địa chỉ 305/16 đường Trường Chinh, Sài Gòn. Theo FB Huỳnh Ngọc Hiếu
Từ những năm 1980 trở về trước khi VN vẫn đóng kín với thế giới văn minh thì người BĐCK với đảng CSVN như các nhân vật vụ “nhân văn giai phẩm”, các linh mục “không hợp tác”, những người không “thần phục” đảng CS… thường bị bắt đưa đi đày ải biệt tăm không xét xử ở những trại giam xa xôi, khắc nghiệt nhất như Cán Tỷ (Hà Giang), Thọ Xuân (Thanh Hóa). Nhiều người không trở về…
Không theo một thứ luật pháp nào
Khoảng từ những năm 1990 trở lại đây khi VN đã một phần hòa nhập với cộng đồng quốc tế thì công an, tòa án đã công khai việc bắt bớ, hoặc xử người nọ, người kia nhưng chỉ là hình thức. Thực chất nhà cầm quyền tùy nghi hình phạt cho từng người BĐCK không theo một thứ luật pháp nào mà dân gian gọi là “tội 258, án bỏ túi”…
Ông Cù Huy Hà Vũ viết bài phê phán nhà cầm quyền, đấu tranh cho dân chủ, kiện lãnh đạo về dự án bauxite Tây nguyên, “cản phá” dự án làm khách sạn trên đồi Vọng Cảnh (Huế)… Một đêm ông bị bắt giam chỉ vì trong phòng ông nghỉ ở TPHCM có hai chiếc bao cao su “đã qua sử dụng” vốn đầy rẫy ở các nhà nghỉ. Trong khi đó ông Nguyễn Trường Tô chủ tịch tỉnh Hà Giang bị tố cáo với nhiều bằng chứng thuyết phục “ăn nằm” với nữ sinh vị thành niên nhưng không bị bắt giam hoặc kết tội. Chưa thấy người bình thường nào bị xử lý hình sự khi ở trong phòng có bao cau su như ông Cù Huy Hà Vũ. Ông Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), lập Câu lạc bộ nhà báo tự do, viết bài trái ý nhà cầm quyền đưa lên mạng; ông Lê Quốc Quân hay đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược VN, đấu tranh cho dân chủ, dân quyền… bị ghép vào tội “trốn thuế” mấy trăm triệu đồng (nếu có thật cũng chỉ khoảng 2.000 USD), đều bị bắt giam, xử tù rất nặng. Trong khi quan chức, các doanh nhân bình thường thì trốn thuế hàng tỷ, chục tỷ… nhưng không bị xử lý hình sự. DN nước ngoài Metro trốn thuế cả 12 năm liền, hàng loạt DN khác thực hiện chiến lược “chuyển giá” trốn thuế những khoản khổng lồ vẫn vô sự.
Ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng Hải Phòng có đầm tôm hợp pháp mà không dâng cho nhà cầm quyền, đã bị xã, huyện, thành phố Hải Phòng câu kết cướp đoạt bằng vũ lực. Sau nhiều lần kêu cứu, kiện cáo hợp pháp không xong ông phải dùng biện pháp “gây sự kiện” bằng cách dùng vũ khí tự tạo chống lại làm mấy chiến sĩ trong “đội cướp” bị thương nhẹ. Thế là ông bị ghép vào tội “giết người” và bị bỏ tù. Trong khi đó, tháng 2 năm nay, anh Nguyễn Văn Nghiêm cùng bà con Văn Giang ra đồng giữ ruộng từ ngàn đời ông cha để lại bị côn đồ vô cớ bắn thấu phổi nhưng kẻ chủ định giết nhưng nhà cầm quyền địa phương chỉ kết luận kẻ bắn thẳng vào anh Nghiêm tội “cố ý gây thương tích” và tìm mọi cách trì hoãn để “thối” án….
Gần đây ông Nguyễn Hữu Vinh, chủ trang blog Ba Sàm ủng hộ, đấu tranh cho tự do ngôn luận gia đình tố cáo ông bị công an bắt giam khẩn cấp, thu giữ tài sản không theo pháp luật. Vừa qua nhà báo, nhà văn Phạm Chí Thành Thành (Phạm Thành) công khai đòi hỏi dân chủ, phản đối Trung Quốc xâm lược VN…, hai lần bị công an Hà Nội “triệu tập” không đúng pháp luật.
Nhiều người BĐCK bị cấm xuất cảnh, khi ở nước ngoài về bị sách nhiễu, bắt bớ…
Những trò bẩn thỉu
Khi trấn áp người BĐCK, bất tuân mặc dù nhà cầm quyền cũng đem ra tòa xử “công khai”, nhưng chủ trương chỉ là “diễn” trước dư luận nên cấm người đến dự. Tại vụ xử Cù Huy Hà Vũ, Đoàn Văn Vươn, Lê Quốc Quân, Nguyễn Phương Uyên, Bùi Hằng…, hàng nghìn người đến dự bị xua đuổi, bắt bớ, đánh đập. Trước vụ xử bà Bùi Hằng tội “hai người đi hàng ba” tháng 9/2014 tại Đồng Tháp, theo tố cáo, nhà cầm quyền còn tổ chức ngăn cản sự đi lại của nhiều người ngay từ Sài Gòn, Hà Nội…
Trong các phiên xử người BĐCK, người bất tuân, nhà cầm quyền cũng cho luật sư tham gia “bào chữa cho bị cáo” nhưng lý lẽ của họ dù đúng đắn cũng chẳng tác dụng gì, nhiều phiên tòa luật sư bỏ về.
Tuy nhiên, những đối xử bất công, vô pháp luật đó còn “văn minh” hơn thứ “luật rừng” diễn ra trong những năm gần đây. Hiện người BĐCK, bất tuân nhà cầm quyền liên tục bị những kẻ “côn đồ” vô cớ ném chất bẩn vào người, vào nhà, tạo va chạm giao thông để đánh đập, chặn đánh dã man, rình mò, ngăn cấm họ đi lại… ngày càng nhiều. Trường hợp cô Bùi Hằng, Thúy Nga, Phạm Thanh Nghiên, Huỳnh Thục Vy… đấu tranh cho dân chủ, có hành vi chống TQ xâm lược VN… thường xuyên bị ném chất bẩn vào nhà, “côn đồ” hành hung vô cớ, liên tục bị canh trừng, sách nhiễu nơi ở, nơi trọ… Cô Thúy Nga bị “côn đồ” đón đường ban đêm đánh gẫy chân khi đang bế hai con nhỏ. Nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng hay viết, đăng bài trái ý nhà cầm quyền tố cáo bị an ninh tra xét bài vở, liên tục đeo bám, quấy nhiễu cản trở việc đi lại gây cho cuộc sống của ông rất căng thẳng, mệt mỏi.
Hầu hết tù nhân lương tâm khi ra tù tố cáo bị đối xử mọi rợ, nghiệt ngã, khi về bị suy nhược sức khỏe, bệnh tật, chết sớm…
Người BĐCK, bất tuân, người thân, con cháu họ bị sách nhiễu, đe dọa, khủng bố tinh thần, sa thải, gây khó dễ trong việc làm ăn, học hành… Vừa qua nhà cầm quyền có quy định người mãn hạn tù không được làm cho tổ chức, DN nước ngoài là nhằm vào các tù nhân chính trị khi ra tù để tiếp tục vùi dập họ trong cuộc sống. Nhiều nông dân Văn Giang có con cháu, vợ, chồng đang làm việc trong cơ quan nhà nước không giao đất cho DN xây khu đô thị kinh doanh bị liệt vào diện “không hoàn thành nhiệm vụ vận động gia đình” bị sa thải, điều đi nơi xa. Hơn 200 ha đất mà DN Ecopark đã có được phần lớn là từ những người dân Văn Giang phải giao cho họ một cách miễn cưỡng, đắng cay, tủi nhục…, vì nếu không giao người thân họ sẽ bị sa thải, gây khó khăn, không thể xin cái dấu chứng nhận việc gì… Họ bị đối xử không theo luật pháp nào.
Có thể nói, từ bao năm nay những người BĐCK, không tuân ý muốn nhà cầm quyền đã bị đối xử bất bình đẳng, đưa ra ngoài vòng pháp luật.
Lê Ngọc Dương Cầm (thực hiện)
Trong bài phỏng vấn này, ông Nguyễn Công Khế đã nói rất mạnh dạn những điều, gọi là cấm kỵ, mà chúng ta cũng phần nào biết đến.
Chẳng hạn như trong vụ tố cáo tham nhũng Năm Cam ông tiết lộ:
“Tuy nhiên, anh Hùng có đề nghị tôi nên gặp và trao đổi với anh Nguyễn Minh Triết, lúc đó đang là Ủy viên Bộ Chính Trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM vì anh Triết được Bộ Chính trị giao cho chỉ đạo vụ án này. Khi gặp anh Triết, anh đọc rất kỹ một bài báo với chỉ một trang A4 của phóng viên Hoàng Hải Vân, mà anh phải đọc kỹ gần 2 tiếng đồng hồ.
Với sự thận trọng vốn có, anh chân thành nói với tôi: “Với tư cách là Ủy viên Bộ Chính trị, tôi hoan nghênh việc các anh đăng bài báo này vì rất có lợi cho quá trình kiểm điểm những đồng chí lãnh đạo cấp cao. Nhưng với tư cách là bạn, tôi khuyên anh chưa nên đăng vì sẽ rất nguy hiểm cho anh“.
Đến như một ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước sau đó, người đã từng xông pha lửa đạn, mà còn khuyên lùi như vậy thì không lạ gì một Nguyễn Phú Trọng, chưa từng nếm mùi lửa đạn, chủ trương không đánh chuột để tránh vỡ bình.
Cũng nên nhắc lại trong vụ tham nhũng Năm Cam, ông Trương Tấn Sang, đương kim Chủ tịch nước, lúc đó là cấp trên của ông Triết, đã bị kỷ luật đảng.
Hoặc giả như khi Ông Nguyễn Công Khế nói: “Đến tính GDP mà theo như Thủ tướng nói cũng là con số giả thì làm sao chúng ta có thể đứng vững được trong tình hình như thế này. Những vụ thất thoát hàng tỉ đôla của những tập đoàn kinh tế lớn không được đúc kết trách nhiệm thuộc về ai, để công bố cho nhân dân được biết. Đầu tư nước ngoài đa số các doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện không đúng chất lượng lại trúng thầu liên tiếp. Như vậy buộc chúng ta phải coi lại các chính sách về kinh tế, tài chính, tiền tệ. Những vấn đề nguy cấp này, chúng ta thấy báo chí ít dám đụng tới. Trước hết là do họ “ngại”, họ “sợ” chứ không phải những nhà báo thiếu hiểu biết về những lĩnh vực đó.” chứng tỏ ông vẫn còn giữ được nhiệt huyết ban đầu để nói sự thật.
Ông Khế đã tâm sự “ Tuổi trẻ của tôi được rèn luyện trong nhà tù. Chức vụ là để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, chứ không phải anh giữ chức để vinh thân phì gia. Nếu sợ, tôi đã không làm. Tôi đã bị trả giá nhiều lần. Tôi thấy bình thường lắm, chẳng có gì phải ân hận những việc mình đã làm”.
Chúng tôi cũng hiểu rằng nói công khai những điều cấm kỵ là nói với dân, bọn tham nhũng đã ù lì rồi, những lời nói chân tình hơn 30 năm nay cũng như nước đổ đầu vịt.
Ở vị trí và với sự hiểu biết của ông, nếu ông chịu đi thêm bước nữa để cùng sánh vai với các đồng chí của ông, cũng không sợ tù đày, đang hành động để đưa đảng của ông, và của họ, trở về với dân tộc.
Được như thế có lẽ ông sẽ trả được cái nợ tinh thần của những người yêu nước nhưng đã góp phần vào cái đảng ác độc đang làm hại dân tộc hiện nay.
Dân Quyền
Ông Nguyễn Công Khế, người đồng sáng lập báo Thanh Niên và giữ cương vị Tổng biên tập trong suốt 23 năm, đã có nhiều cống hiến cho ngành báo chí, từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, huy chương vì sự nghiệp báo chí, hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Truyền thông Thanh Niên đã có cuộc trao đổi thẳng thắn về tình hình báo chí và nghề báo. Nhà báo kỳ cựu này đã không ngại nói đến những “điều cấm kỵ” kể cả những khó khăn mà ông đã gặp phải lúc ông làm tổng biên tập…
Ông Nguyễn Công Khế tiếp Tổng lãnh sự Pháp Faubrice Maurice trước khi ông kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam – Ảnh: Nghĩa Phạm
“Tôi đã bị trả giá nhiều lần”
* Ông nhận định xu hướng của báo chí hiện nay ra sao?
- Trong thời điểm hiện nay, báo mạng là một xu hướng đang lên và báo giấy dần gặp nhiều khó khăn. Ngay cả hai tờ nhật báo có số phát hành lớn nhất nước là Thanh Niên và Tuổi Trẻ cũng đang có số lượng phát hành giảm đáng kể.
Báo điện tử đang gánh một sứ mệnh quá nặng nề nhưng chưa thể hiện được hết vai trò của mình; chưa thay thế được vai trò của báo giấy cả về chất lượng nội dung lẫn thu hút quảng cáo.
Đa phần các báo điện tử đang nghiêng về tin bài làm sao để có nhiều người đọc nhưng không kịp đi vào chất lượng nội dung. Các báo chạy theo số lượng người truy cập bằng những tin cô người mẫu này mua áo và túi xách hàng hiệu, cô diễn viên nâng cấp vòng một, người này thay đổi chồng, người kia lấy đại gia để có biệt thự và xe hơi sang.
Gần như tôi thấy một xu hướng báo chí đã đánh mất tính mục đích và chức năng hữu ích của mình.
* Nhưng rõ ràng, báo chí đang được giao nhiều trọng trách, trong đó trọng trách chống và phanh phui tham nhũng nhưng dường như các báo ngại đụng chạm đến?
- Đó là một trong những nguy cơ cho đất nước, thể chế. Một khối u ác tính được bao bọc không dám mổ xẻ chữa trị đến nơi đến chốn sẽ có lúc vỡ ra. Bệnh ung thư không phát hiện sớm, đến lúc chuyển sang giai đoạn di căn trầm trọng thì làm sao cứu chữa? Những người chân chính đang lo lắng cho tình trạng này.
* Nguyên nhân của việc báo chí không dám động chạm vào những lĩnh vực nhạy cảm, đặc biệt là chống tham nhũng, là do cơ chế hay do các tổng biên tập sợ bị khiển trách, mất chức?
- Do cơ chế cũng có, do sợ sệt cũng có và cả do lãnh đạo mở quá rộng vùng gọi là nhạy cảm và vùng cấm, làm những người làm báo lo ngại.
Và theo tôi, Đảng, Chính phủ và Quốc hội đều đã có khá nhiều nghị quyết, chỉ thị về việc chống tham nhũng. Nếu để nạn tham nhũng hoành hành như hiện nay, nhân dân sẽ mất lòng tin, không tạo nên một nội lực mạnh để có thể đủ sức vượt qua những khó khăn mọi mặt. Phải đánh thắng cho được giặc nội xâm đó là nạn tham nhũng đang làm băng hoại xã hội thì chúng ta mới tập hợp được sức mạnh để chống giặc ngoại xâm đang đe dọa từng ngày trên biên giới, đất liền và trên vùng biển của Việt Nam.
Khi báo chí có trong tay những bằng chứng bất kỳ cán bộ cấp nào tham nhũng thì chúng ta phải khuyến khích để các cơ quan báo chí và các nhà báo có quyền công khai những vụ việc đó. Chúng ta dám công khai những vụ tham nhũng lớn và các loại tội phạm khác dính đến những người có chức quyền, thì điều đó mới nói lên sức mạnh của chính quyền.
Chỉ có một nhà nước mạnh, công khai và minh bạch trong thông tin, chỉ có một nền báo chí mạnh mới dám đưa những ung nhọt ra khỏi cơ thể của mình. Một chính quyền yếu và không minh bạch thì không thể làm chuyện đó.
Tôi tin là không có chuyện báo chí đưa tham nhũng của vị lãnh đạo này, lãnh đạo khác ra ánh sáng là sẽ gây xáo trộn, mất ổn định, mà tôi tin ngược lại rằng việc đó sẽ làm cho nhân dân đủ lòng tin và ổn định được chính trị cũng như xã hội.
* Ông là người đồng sáng lập ra báo Thanh Niên, tờ nhật báo lớn nhất nhì cả nước. Suốt hơn hai mươi năm lãnh đạo tờ báo, có bao giờ ông phải đắn đo khi cho xuất bản một bài báo “đụng” đến một nhân vật tầm cỡ?
- Có chứ, sao lại không? Tôi đã từng “đụng” đến thứ trưởng Bộ Công an, những nhân vật tương đương thứ trưởng, ủy viên Trung ương Đảng…
Ngay cả chuyên án Năm Cam, trong tài liệu tôi cầm trên tay, đã từng liên quan đến một đồng chí thứ trưởng Bộ Công an, sau đó lòi ra thêm 3 đồng chí thứ trưởng khác nữa. Chúng tôi đã từng công khai việc này lên mặt báo.
Khi có tài liệu về những người này, tôi đã điện thoại hỏi anh Vũ Quốc Hùng (nguyên Phó chủ nhiệm Thường trực Ban kiểm tra Trung ương Đảng – PV): “Tôi có đăng bài về những vị lãnh đạo đó được không?”. Anh Hùng trả lời chậm rãi và từ tốn: “Có tài liệu chính xác thì các anh cứ việc đăng, không có ai được cấm báo chí đăng xác thực về những việc dính đến cán bộ lãnh đạo cấp cao”.
Nếu sợ, tôi đã không làm. Tôi đã bị trả giá nhiều lần. Tôi thấy bình thường lắm, chẳng có gì phải ân hận những việc mình đã làm
Nhà báo Nguyễn Công Khế
Tuy nhiên, anh Hùng có đề nghị tôi nên gặp và trao đổi với anh Nguyễn Minh Triết, lúc đó đang là Ủy viên Bộ Chính Trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM vì anh Triết được Bộ Chính trị giao cho chỉ đạo vụ án này. Khi gặp anh Triết, anh đọc rất kỹ một bài báo với chỉ một trang A4 của phóng viên Hoàng Hải Vân, mà anh phải đọc kỹ gần 2 tiếng đồng hồ.
Với sự thận trọng vốn có, anh chân thành nói với tôi: “Với tư cách là Ủy viên Bộ Chính trị, tôi hoan nghênh việc các anh đăng bài báo này vì rất có lợi cho quá trình kiểm điểm những đồng chí lãnh đạo cấp cao. Nhưng với tư cách là bạn, tôi khuyên anh chưa nên đăng vì sẽ rất nguy hiểm cho anh. Cho tới lúc này không phải cán bộ cấp cao nào cũng hiểu đúng sự việc này”.
Tôi về bàn bạc với lãnh đạo một số tờ báo khác, họ cũng thấy ngần ngại. Cuối cùng tôi quyết định đăng. Điều đó cho thấy: Việc đăng hay không đăng một bài báo, là một quyết định rất khó khăn đối với bất cứ một tổng biên tập nào.
* Sau khi đăng bài báo đó, ông có chịu áp lực gì không?
- Sau khi bài báo đăng, tôi đã tắt máy điện thoại mấy ngày liền. Sau đó tôi gặp lại anh Nguyễn Minh Triết, anh ấy nói với tôi: “Đã có rất nhiều cuộc điện thoại liên tục cho tôi trong những ngày vừa qua hỏi về việc đăng bài báo đó”. Tôi hỏi: “Có phải anh Nguyễn Khoa Điềm gọi cho anh không?”. Anh Triết cười: “Chẳng những anh Nguyễn Khoa Điềm mà còn nhiều cấp cao hơn anh Điềm (trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương lúc bấy giờ – PV) nữa”.
Ông Nguyễn Công Khế là người khai sinh ra chương trình ca nhạc thời trang nổi tiếng Duyên dáng Việt Nam – Ảnh: Trương Tú
Khi quyết định khởi đăng bài báo, ông không sợ mất chức tổng biên tập?
– Tuổi trẻ của tôi được rèn luyện trong nhà tù. Chức vụ là để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, chứ không phải anh giữ chức để vinh thân phì gia.
Nếu sợ, tôi đã không làm. Tôi đã bị trả giá nhiều lần. Tôi thấy bình thường lắm, chẳng có gì phải ân hận những việc mình đã làm.
* Giai đoạn đăng loạt bài vụ án Năm Cam rất nguy hiểm, ông có được bảo vệ nghiêm ngặt trước những phần tử xấu?
- Có. Tôi rất cảm động việc ông Phạm Văn Đồng, lúc đó đang làm cố vấn Ban chấp hành Trung ương, đã điện cho lãnh đạo TP.HCM là ông Nguyễn Võ Danh lúc đó làm Phó bí thư Thành ủy, bằng mọi cách phải bảo vệ tôi và gia đình trong thời điểm đó. Công an TP.HCM trong suốt 6 tháng trời đã cử người bảo vệ tôi cùng những thành viên trong gia đình, để tránh sự trả thù của các đối tượng tội phạm.
Tôi có một niềm tin là bọn xấu sẽ không làm gì được mình. Nếu tôi làm việc không chính trực thì tôi sợ, đằng này tôi làm việc chính trực, không việc gì phải sợ. Ở đời, rủi ro, chết sống cũng là việc bình thường.
* Lúc nãy, ông có nói đã bị trả giá nhiều lần?
- Tôi đã nói không bao giờ hối hận những việc mình đã làm. Tôi chỉ ân hận là mình làm còn quá ít cho sự nghiệp báo chí, minh bạch thông tin đối với xã hội và người đọc.
Vụ án Năm Cam là một thắng lợi to lớn của cả chính quyền lẫn người dân khi loại khỏi xã hội được một tập đoàn tội ác có tổ chức, ổn định trật tự xã hội. Thế nhưng, đến giờ này, vẫn còn có “chuyện này, chuyện kia” đeo đẳng những người tham gia phá án.
* Ý ông nói đến việc bị trù dập sau khi rời khỏi chức vụ đối với những người phá án?
- Có đấy. Việc ấy còn di căn đến bây giờ. Riêng tôi, dù tôi không có bị khó khăn gì lớn do vụ việc này đem lại nhưng tôi suy nghĩ, không bao giờ ngần ngại việc mình phải trả giá cho chuyện này, chuyện khác. Ngay cả khi không làm tổng biên tập và giao lại cho anh chị em đi sau, tôi hoàn toàn thỏa mãn.
Ở đời, con người không làm việc này thì làm việc khác, làm hết trách nhiệm và trách nhiệm cao nhất đã là niềm an ủi lớn rồi. Tôi vẫn có khát vọng làm trong ngành truyền thông cho đến khi sức khỏe không cho phép làm nữa, mới thôi.
Tôi nhớ lại ngày mới ra tù, sau 30.4.1975, tôi công tác Đoàn chưa được nửa năm, sau đó làm báo. Từ năm 1986, báo Thanh Niên ra mắt, chúng tôi tự cân đối thu chi từ đó, không hưởng lương nhà nước, lại còn làm ra có lãi để đóng thuế cho Nhà nước rất nhiều tỉ đồng.
Cả tuổi trẻ của tôi đã bị tù đày, chiến đấu cho sự nghiệp hòa bình và thống nhất của đất nước. Đến giờ này, suy nghĩ của tôi vẫn không thay đổi. Tôi chỉ buồn và tiếc là xã hội ta vẫn chưa đạt được một mức sống khá giả về kinh tế đáng lẽ phải được, người dân chưa được hưởng các quyền dân chủ một cách thực sự, trong đó sự minh bạch về thông tin phải trở thành chính sách nhất quán từ trên xuống dưới.
Nhà báo Nguyễn Công Khế (phải) và nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong một sự kiện – Ảnh: TL
Qua những lời vị cựu tổng biên tập này chia sẻ, sau khi không còn giữ chức vụ cao nhất của tờ Thanh Niên, ông vẫn làm việc không ngừng nghỉ, đặc biệt có thu nhập cao từ nghề nuôi yến. Theo nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông Khế chính là người đã hướng dẫn cho ông nghề nuôi chim yến, để hằng tháng hiện nay ông có một thu nhập còn cao hơn cả lương hồi còn làm chủ tịch nước.
“Dân thường làm gì có quyền mà tham nhũng?”
* Ông có ý kiến như thế nào về “vùng cấm” của báo chí hiện nay?
- Như tôi đã nói ở trên, việc không minh bạch thông tin sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy không tốt. Tôi muốn nói đến vấn đề gần nhất là vấn đề biển Đông và giàn khoan Hải Dương-981 của Trung Quốc vừa qua. Có thể ở bên trong Bộ Chính trị, Ban chấp hành TW đã bàn rất nhiều về việc đối phó với sự xâm phạm vùng biển đặc quyền kinh tế Việt Nam của Trung Quốc. Nhưng bên ngoài những thông tin về lãnh đạo Việt Nam có động thái như thế nào bên trong nội bộ hoàn toàn không được thông tin ra bên ngoài.
Người ta chưa thấy một phát ngôn nào chính thức về phía lãnh đạo Việt Nam trong thời điểm ban đầu. Mãi cho đến ngày 23.5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới trả lời báo chí ở Manila. Sau đó vào ngày 20.6, bài phỏng vấn “nặng ký” của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mới chính thức được Thông tấn xã Việt Nam phát đi, tỏ rõ lập trường của lãnh đạo cao nhất của đất nước.
Một thời gian dài ở thời điểm đầu, chỉ có thấy phát ngôn viên Bộ Ngoại giao nói một số câu quen thuộc: “Trung Quốc phải rút khỏi vùng biển có chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam…”. Thời gian cấp thiết lúc đầu, không có một tiếng nói chính thức nào của lãnh đạo cấp cao hoặc phát ngôn viên chính thức nào thay mặt lãnh đạo nói để nhân dân hiểu rằng, ban lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã họp và có một thái độ rõ rệt trước những hành động xâm lấn của Trung Quốc.
Sự minh bạch thông tin này khác với những phát ngôn có tính chất đối ngoại và đôi khi còn quan trọng hơn những phát ngôn có tính chất đối ngoại, bởi vì sự minh bạch thông tin trong trường hợp này sẽ cho hơn 3 triệu Đảng viên của Đảng cầm quyền và quan trọng hơn là hơn 80 triệu người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước hiểu rõ lập trường thái độ của lãnh đạo Việt Nam, trước tình hình dầu sôi lửa bỏng mà người dân rất trông chờ.
Trong khi báo chí chính thống của Việt Nam nói thận trọng về những thông tin này, thì những thông tin không phải của Nhà nước và của nước ngoài lại luôn cho rằng Nhà nước Việt Nam không có động thái kịp thời trước sự kiện này.
Như vậy, nếu chúng ta cứ không minh bạch thông tin như hiện nay thì sẽ dẫn đến những tình hình rất bất lợi, làm cho người dân không có đầy đủ thông tin vào việc bảo vệ chủ quyền đất nước trước hiểm họa ngoại xâm.
Tôi muốn nhắc lại, Việt Nam phải cần sự minh bạch thông tin trên mọi lĩnh vực mà muốn minh bạch thông tin thì trước hết phải khuyến khích báo chí phát huy dân chủ trên lĩnh vực của mình.
Ngày xưa chúng tôi làm báo giấy, chưa có internet, còn gọi là “báo ngày”. Thời buổi công nghệ thông tin bùng nổ, tin tức được cập nhật từng phút, báo điện tử được gọi là “báo phút”. Chỉ cần một câu nói, 5 phút sau đã tràn ngập tin bài trên mạng lan ra toàn thế giới.
Những Quyết sách lớn của lãnh đạo Nhà nước, Quốc hội, Đảng cầm quyền về kinh tế, chính trị, xã hội đều phải được minh bạch trước đông đảo quần chúng, là điều chỉ có lợi cho đất nước mà trước hết là có lợi cho các nhà hoạch định chính sách.
Nguyên tắc, cái gì anh không nói thì sẽ có người khác nói thay trong thời đại thông tin hiện đại như hiện nay. Tôi thấy chính sách thông tin như hiện nay, ta chỉ từ thua đến thua.
* Ông có thể giải thích rõ từ “thua” mà ông vừa nói?
- Phải nói ngay, xã hội bây giờ người dân mất lòng tin rất nhiều là do chính sách thông tin. Người ta ít tin vào những gì anh nói chính thức mà người ta đọc và tin những điều, những nguồn thông tin từ bên ngoài.
Tôi ví dụ, anh Nguyễn Bá Thanh đang chữa bệnh ở Mỹ lại rộ lên tin đồn là anh Nguyễn Bá Thanh đã mất.
Trong nước các báo chỉ nói “hé hé”, không rõ ràng, lãnh đạo ta không có ý kiến gì, chỉ có khi một đài nước ngoài dẫn một nguồn tin cũng không chính thức từ một nguồn trong nước, thì lúc đó dư luận mới hết đồn thổi.
Tại sao nguồn tin đó lại không xuất phát từ một tờ báo chính thức của Việt Nam do Ban Bảo vệ sức khỏe của Trung ương công bố chẳng hạn. Điều đó có gì cấm kỵ đâu. Nhiều ý kiến của các nhà trí thức góp ý về chính trị, kinh tế, xã hội và cả an ninh quốc phòng, tôi thấy có nhiều bài rất xây dựng và nhiệt huyết lại không được đăng ở những báo chính thống mà chỉ thấy đăng ở những trang mạng gọi là “lề trái”. Coi chừng, riết rồi người ta thấy những bài hữu ích và những tin tức hữu ích có trên các “lề trái” nhiều hơn.
Thế thì không thua là cái gì?
Chống tham nhũng cũng vậy, có những vụ tham nhũng to đùng dân bàn tán suốt năm này qua tháng nọ, nghi vấn người này qua người nọ không được giải đáp chính thức. Thế thì lòng tin của dân với chính sách thông tin như thế, họ biết đặt vào đâu?
* Ý ông nói là…
- Việc chống tham nhũng, thì nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có rồi, nghị quyết của Quốc hội cũng có rồi, các chỉ thị của Chính phủ cũng có rồi, nhưng mà từ nói đến làm là một khoảng cách rất xa. Người chủ trương ra chính sách chống tham nhũng và những người thực hiện chính sách có khi lại chùn tay. Chống tham nhũng là chống ai? Dân thường làm gì có quyền để tham nhũng?
Nước ta hiện nay cái rất dở, đó là người ta hay sợ mất ghế. Một người cán bộ đúng nghĩa, thì phải dũng cảm, phải đi đầu, phải vì đất nước, vì dân tộc… chứ không phải cái gì cũng sợ, cái gì cũng né, giữ cho bằng được cái ghế. Tư tưởng sợ mất ghế đã lan vào giới báo chí.
* Theo ông, ngoài tham nhũng, báo chí nên mở rộng ở lĩnh vực nào?
- Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đình trệ, nợ công, nợ xấu của các ngân hàng, của đất nước đã lên đến mức báo động, hàng trăm tỉ đôla. Tôi chưa có con số tổng kết, nhưng cứ nhìn chung quanh mình thì biết, hễ làm ăn có dính đến bất động sản, dính đến nợ ngân hàng đều rơi vào tình trạng chịu không nổi. Hàng trăm ngàn doanh nghiệp đã đóng cửa trong mấy năm qua.
Đến tính GDP mà theo như Thủ tướng nói cũng là con số giả thì làm sao chúng ta có thể đứng vững được trong tình hình như thế này. Những vụ thất thoát hàng tỉ đôla của những tập đoàn kinh tế lớn không được đúc kết trách nhiệm thuộc về ai, để công bố cho nhân dân được biết. Đầu tư nước ngoài đa số các doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện không đúng chất lượng lại trúng thầu liên tiếp.
Như vậy buộc chúng ta phải coi lại các chính sách về kinh tế, tài chính, tiền tệ. Những vấn đề nguy cấp này, chúng ta thấy báo chí ít dám đụng tới. Trước hết là do họ “ngại”, họ “sợ” chứ không phải những nhà báo thiếu hiểu biết về những lĩnh vực đó.
* Thời làm báo của ông, thông tin đăng tải có khó khăn?
- Thế hệ của tôi, anh Lê Văn Nuôi, anh Lê Hoàng, chị Kim Hạnh, anh Võ Như Lanh, chị Thế Thanh, anh Tô Hòa.., khi cho đăng bất cứ một thông tin nhạy cảm, chúng tôi cũng từng có nhiều cân nhắc. Nhưng cuối cùng chúng tôi đã quyết định đăng những thông tin dù có thể bất lợi cho cá nhân tổng biên tập nhưng có lợi cho dân, cho nước. Khi lãnh đạo có hỏi, có chất vấn, thì chúng tôi đều tìm cách trình bày, giải thích vì sao chúng tôi cho đăng những tin bài như vậy.
Nhưng nhiều khi lãnh đạo cũng cần tiếng nói của báo chí. Nếu thường chỉ có “một chiều”, bảo cấp dưới phải làm thế này, thế nọ, thì lãnh đạo sẽ không có những thông tin trung thực để biết những khiếm khuyết của mình cũng như những chính sách do mình đưa ra để mà hoàn thiện, sửa chữa. Đâu phải cứ trái chiều là sai, là làm cho tình hình không ổn định? Đôi khi những tiếng nói trái chiều còn cần hơn cho lãnh đạo là những tiếng nói thuận chiều mà không thật lòng vì sự nghiệp chung.
* Lúc nãy, ông có nói đến vấn đề biển Đông. Thời ông làm báo, vấn đề nhạy cảm này đâu được công khai rộng rãi trên báo chí, phải vậy không, thưa ông?
- Lúc đó, xét về mặt đấu tranh ngoại giao, mình có thể thông cảm. Báo chí được nói ở mức độ nào để nhà nước còn có đối sách ngoại giao công khai. Nhưng đến lúc người ta xâm phạm vùng biển đặc quyền kinh tế của chúng ta, xâm lược đất nước mình thì lãnh đạo phải khơi dậy lòng yêu nước, đứng lên cứu nước của người dân. Phải để cho báo chí minh bạch các thông tin thì chúng ta mới hòng đạt được sự đồng thuận và đoàn kết dân tộc.
Trung Quốc đã có những hành xử không tốt với chúng ta từ lâu lắm rồi, trong chiến tranh với người Mỹ đến chiến tranh biên giới Tây Nam đã có. Có lúc họ che giấu dưới mỹ từ này, mỹ từ khác. Nhưng khi họ đã mang quân, mang tàu vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, bắt bớ, đập phá tàu của ngư dân ta, thì tại sao chúng ta phải nhẫn nhục? Vai trò của thông tin báo chí những lúc như thế phải là một chiến sĩ ra trận, chứ không thể khác.
* Theo ông, thời gian tới Trung Quốc sẽ thế nào với Việt Nam trong tranh chấp biển Đông?
- Suy nghĩ của cá nhân tôi, Trung Quốc không bao giờ thay đổi thái độ với Việt Nam, chỉ có thay đổi về chiến thuật do thái độ của nhân dân Việt Nam và áp lực quốc tế. Việt Nam ở gần một láng giềng lớn như Trung Quốc, là điều không mong muốn. Nhưng một đất nước đâu phải một căn nhà sống gần hàng xóm không tốt, có bất hòa thì mình có thể dời đi nơi khác. Một quốc gia gần một quốc gia luôn gây hấn, sống không tốt, ta không thể dời đất nước đi đâu được. Đành phải sống chung với lũ.
Do vậy, chúng ta phải có một chính sách đối nội, đối ngoại và kể cả một chính sách thông tin thật đúng đắn thì mới mong giữ được căn nhà Tổ quốc được bình yên.
* Sau khi không còn giữ chức Tổng biên tập báo Thanh Niên, ông làm gì?
- Tôi vẫn không ngơi nghỉ. Hiện nay tôi đang là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần tập đoàn truyền thông Thanh Niên, bao gồm lĩnh vực truyền thông, sự kiện. Tôi vẫn đứng ra tổ chức giải bóng đá U.21 báo Thanh Niên, chương trình Duyên dáng Việt Nam, gây quỹ Nhân tài Đất Việt…
* Nghe nhiều người nói ông có thu nhập lớn từ nghề nuôi yến?
- Thu nhập từ nuôi chim yến, tôi nghĩ đó là lộc trời. Tôi nuôi trên 10 năm nay, thu nhập rất cao cho mỗi tháng cho gia đình. Tôi nghĩ nghề nuôi yến là một nghề nên phát triển ở Việt Nam kết hợp với du lịch. Mỗi ký yến hiện nay vào khoảng 50 triệu đồng, một nghề có thu nhập rất cao. Chất lượng yến của Việt Nam tốt hơn nhiều so với Malaysia, Indonesia và các nước khác. Yến là một sản vật đặc biệt quý hiếm và giúp rất nhiều cho sức khỏe con người.
Hiện nay, riêng Trung Quốc, một quốc gia có hàng tỉ dân và rất nhiều người dùng yến ở đây. Qua Mỹ tôi cũng thấy nhiều người Mỹ và người dân gốc châu Á dùng yến… Nếu Việt Nam phát triển nghề nuôi yến, ngành du lịch cũng sẽ rất phát triển.
* Ông cũng là người hướng dẫn cho nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nuôi chim yến phải không?
- Hồi anh Triết xuống thăm tôi, tôi có giới thiệu cho anh xem vườn cam tôi trồng. Anh Triết đùa nói: “Trồng cam thì cũng bình thường rồi, nuôi yến mới là cái tôi thích thú”. Sau đó, tôi có chỉ những người kỹ thuật xuống giúp anh làm nhà yến. Nghe nói mỗi tháng anh thu được 1 ký yến tức là thu nhập được 50 triệu một tháng hơn cả lương anh ấy hồi làm Chủ tịch nước.
Không chỉ anh Nguyễn Minh Triết mà tôi còn giúp và huớng dẫn hàng chục anh em bè bạn xây dựng nhà yến trên khắp cả các vùng ở phía Nam. Nhiều người đã có kết quả và có tổ yến để dùng và để bán có thu nhập cao.
* Xin cám ơn ông!
Lê Ngọc Dương Cầm
(thực hiện)
(*) Bài phỏng vấn này đã đăng trên báo điện tử Một Thế Giới. Được sự đồng ý của báo điện tử này và nhà báo Nguyễn Công Khế, Thanh Niên Online đăng nguyên văn bài viết. Tít bài do Thanh Niên Online đặt.
Phạm Thị Hoài dịch
Ông Đái Diệu Đình (Benny Tai Yiu-ting, 1964), Phó Giáo sư Luật tại Đại học Hồng Kông, cùng một đồng nghiệp cũng thuộc Đại học Hồng Kông, Phó Giáo sư Xã hội học Trần Kiện Dân (Chan Kin-man) và mục sư Tin lành Chu Diệu Minh (Chu Yiu-ming) là ba người tổ chức Phong trào Chiếm Trung 2014 tại Hồng Kông. Sau khi chính quyền Đặc khu này hủy bỏ cuộc đối thoại với những người biểu tình, từ tối hôm qua, thứ Sáu 10/10/2014, hàng ngàn sinh viên lại kéo về khu trung tâm thương mại thành phố. Sau đây là phỏng vấn của Đái Điệu Đình dành cho tờ Spiegel.
__________
Có phải là quá vội, nếu coi Phong trào Vũ tán (Cách mạng Ô) là đã bị xếp sổ không?
Vâng, chắc chắn. Chúng tôi đang ở một tiến trình vận động vượt xa những dự định ban đầu. Thật tình chính tôi cũng không biết rõ sắp tới sẽ thế nào và ngày mai chúng tôi sẽ ở đâu.
Tuần trước chính quyền Hồng Kông đã đề nghị đối thoại với những người biểu tình. Sao bây giờ họ lại hủy?
Có thể vì trong giới lãnh đạo ở Hồng Kông có chia rẽ, hoặc có thể do chỉ thị từ Bắc Kinh. Dù thế nào thì trong các nguyên nhân cũng thấy có sự thiếu nhất quán: phe ủng hộ đối thoại có thể mâu thuẫn với phe cứng rắn, có thể chính Bắc Kinh cũng chưa biết chính xác nên tiếp tục thế nào. Nhận định như vậy là có cơ sở, vì chính quyền Hồng Kông mới chỉ tạm thời hủy đối thoại.
Chính quyền – ở Hồng Kông hoặc Bắc Kinh – phải làm gì để các cuộc biểu tình phản kháng chấm dứt một cách hòa bình?
Họ phải đưa ra được một dấu hiệu mở ra một triển vọng thực tế để đợt bầu Đặc khu trưởng lần tới sẽ là một cuộc bầu cử dân chủ. Chúng tôi biết rằng điều đó không xảy ra qua một đêm. Nhưng nếu chính quyền đưa ra được một lịch trình thì số đông những người biểu tình sẽ ra về. Tuy nhiên không phải tất cả sẽ ra về. Câu chuyện này không dễ mà kết thúc.
Là người trong Ban tổ chức, ông có khả năng ảnh hưởng đến kết cục của nó như thế nào?
Ảnh hưởng của chúng tôi khá hạn chế. Nếu chúng tôi kêu gọi dỡ bỏ một số rào chắn ở chỗ này hay chỗ khác vì lí do thực tế, những người biểu tình sẽ đối xử với chúng tôi như những phần tử xâm nhập, những kẻ chinh phạt từ bên ngoài. Những sinh viên thay nhau trực phiên ở đây và ngủ ngay ngoài đường cũng bảo vệ góc đường mà họ vừa chiếm như bảo vệ quan điểm chính trị của họ. Có lẽ chúng tôi là một ca nghiên cứu thú vị cho một nhà xã hội học, cho ai nghiên cứu về cơ chế của những cộng đồng tự tổ chức.
Năm nay, 2014, là kỉ niệm tròn 25 năm cuộc biểu tình phản kháng tại Thiên An Môn, sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ và Khối Đông Âu thay chế độ. Bây giờ, khi hàng ngàn người xuống đường ở Hồng Kông, ông có nghĩ đến năm 1989 không?
Phong trào của chúng tôi ở đây khá đặc biệt. Khác với phần lớn các nhà cách mạng, chúng tôi không định lật đổ chính quyền, không giành quyền lực cho bản thân. Nguyện vọng của chúng tôi là thực thi các luật chơi dân chủ và đối thủ của chúng tôi, tức phe thân Bắc Kinh, cũng được bầu một cách công bằng – mà trước khi phong trào này nổ ra thì phe đó rõ ràng chiếm phần thắng. Bây giờ, phe thân Bắc Kinh có thể không còn thắng hiển nhiên nữa, nhưng chắc vẫn đủ để thắng cử. Bốn, năm năm nữa, khi tất cả các sinh viên bây giờ đang biểu tình đủ tuổi cử tri thì có lẽ tình hình sẽ khác.
Những người từng tham dự vào cuộc phản kháng ở Thiên An Môn nay nhìn lại và hối tiếc, không chỉ về sự can thiệp tàn bạo của chính phủ khi đó mà còn về một số quyết định của chính mình.
Chúng tôi ý thức rất rõ những bài học từ Thiên An Môn. Trong phong trào của chúng tôi cũng có những nhóm tương đối cực đoan và những nhóm ít cực đoan hơn, một phần cũng vì chúng tôi thuộc những thế hệ khác nhau. Nhưng cũng chính vì thế mà chính quyền cần đưa ra được một giải pháp khiến tôi, thuộc thế hệ 50 tuổi, có thể thuyết phục được một em 25 tuổi, và em 25 tuổi lại thuyết phục được một em 17 tuổi.
Chàng thanh niên 17 tuổi Hoàng Chi Phong (Joshua Wong), bạn đồng hành của ông, đã kêu gọi Thủ tướng Đức Angela Merkel công khai ủng hộ những người biểu tình ở Hồng Kông [1].
Hoàng Chi Phong hoàn toàn có quyền làm thế. Cá nhân tôi thì sẽ không kêu gọi một chính phủ nước ngoài ủng hộ chúng tôi, vì chúng tôi coi Chiếm Trung là một phong trào thuần túy địa phương. Nhưng Đức là một quốc gia tự chủ và chắc chắn có một ảnh hưởng nào đó. Nếu chính phủ Đức quyết định lên tiếng ủng hộ chúng tôi thì chúng tôi rất hoan nghênh.
Nguồn: Spiegel Online, 10/10/2014
Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra
14/04/2014
(Tài chính) – Nợ công VN đã lên đến khoảng 90 tỉ USD, nếu tính cả nợ của doanh nghiệp nhà nước thì khoảng 180 tỉ USD.
TS Phạm Thế Anh – trưởng bộ môn kinh tế vĩ mô Đại học
Kinh tế quốc dân Hà Nội cho biết trên báo Tuổi trẻ. Cũng theo TS Phạm
Thế Anh, hiện nay nợ công đã lên đến khoảng 90 tỉ USD. Quốc hội cũng đã
đặt ra “ngưỡng an toàn” hay “giới hạn đỏ” về nợ công (65% GDP), tuy
nhiên với việc thâm hụt ngân sách và đầu tư như hiện nay, chúng ta sớm
muộn gì cũng sẽ tiến tới “giới hạn đỏ”. Đó là chưa kể nếu gộp cả nợ của
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thì chúng ta đã vượt “giới hạn đỏ”.
TS Phạm Thế Anh tính toán, với 45 tỉ USD Việt Nam vay
trong nước với lãi suất trung bình 10%/năm thì mỗi năm Việt Nam phải bỏ
ra khoảng 4-5 tỉ USD trả lãi. Khoảng 45 tỉ USD vay nước ngoài, lãi suất
trung bình 2,5%/năm thì mỗi năm cần trên 1 tỉ USD nữa trả lãi. Như vậy,
chưa tính trả gốc, riêng tiền trả lãi trung bình đã cần khoảng 6 tỉ
USD/năm.
Trong khi đó, mức nợ công VN công bố chưa bao gồm nợ
DNNN và nợ đọng xây dựng cơ bản khi con số nợ đọng xây dựng cơ bản còn
hơn 45.000 tỉ đồng, nợ DNNN năm 2013 là hơn 1,6 triệu tỉ đồng, tương
đương 80 tỉ USD.
TS Phạm Thế Anh (Ảnh TTO) |
Nợ công VN nếu tính cả nợ DNNN với nợ đọng xây dựng cơ
bản thì đã trên 100% GDP năm 2012, tương đương khoảng 180 tỉ USD. Số nợ
này gấp khoảng bốn lần thu ngân sách của VN mỗi năm.
Trên đồng hồ nợ công, nợ công của Việt Nam vượt con số 80 tỷ USD |
Trong ki đó, lúc 14h ngày 14/4, đồng hồ nợ công thế
giới The global debt clock của tạp chí The Economist đã điểm nợ công của
Việt Nam vượt con số 80 tỷ USD, với tổng dư nợ cả năm tăng 11,1%, chiếm
47,9% GDP. Tính trên dân số 90,576 triệu người, mỗi người Việt hiện
đang gánh trên vai trung bình 891,64 USD, tương đương gần 20 triệu
đồng/người.
Chỉ tính từ tháng 1/2013 đến tháng 3/2014, thống kê từ
GDC cho thấy, nợ công Việt Nam đã tăng thêm tới 9,887 tỷ USD, tương
đương trung bình gần 700 triệu USD/tháng, tăng thêm gần 100 USD/người.
Trả lời báo chí trước đó, chuyên gia kinh tế TS. Vũ
Đình Ánh cho biết, câu chuyện về nợ công hiện tại đang là một vấn đề rất
lớn, không rõ trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Bộ tài chính
với tư cách cơ quan quản lý nợ công hay của Ngân hàng nhà nước là cơ
quan gần như chuyên đi ký để vay nợ công, đó là vấn đề sử dụng nợ công.
Hà Anh
Khi 'nhà nghèo' vung tay trăm tỷ, nghìn tỷ
Đến nay, chuyện những công trình chục, trăm thậm chí hàng ngàn tỷ
đồng xây xong "đắp chiếu" hoặc sử dụng nhỏ giọt đã không còn xa lạ.
Từ công viên hoang phế đến ký túc xá... một người ở
Chẳng hạn, Công viên Hòa Bình Hàn - Việt ở Đông Hòa, Phú Yên do một
tạp chí Hàn Quốc kêu gọi tiền đóng góp xây dựng hết 100.000 USD từ 2003.
Xây xong 1 tháng, công viên này đã bị phá hoại. Và 10 năm sau, Nơi vui
chơi giải trí lớn nhất tỉnh Phú Yên này vẫn bị bỏ hoang, xuống cấp trầm
trọng, nhiều hạng mục như tượng đài, hàng rào, lối đi, các tác phẩm nghệ
thuật nằm phơi mưa gió. Lý do được đưa ra là thiếu ngân sách cho việc
bảo vệ, duy tu, tôn tạo công viên.
Trong khi đó, tại Đà Lạt Lâm Đồng, một ký túc xá sinh viên trị giá
227,8 tỷ đồng, có 2.000 chỗ ở mà chỉ có... 1 sinh viên đăng ký ở. Lý do ế
ẩm vì khi xây dựng vào năm 2009 chủ đầu tư đã dự báo nhầm là lượng học
sinh, sinh viên ở Đà Lạt sẽ tăng lên thêm 20.000 người nữa vào 2015.
Ngoài ra, ký túc xá xây dựng khá xa so với nơi đào tạo, chưa kể đường xá
chung quanh vẫn lầy lội, xuống cấp... nên dù giá thuê rất rẻ, sinh viên
vẫn không vào ở mà trụ lại trong thành phố với giá thuê lên đến
600.000- 1 triệu đồng/phòng trọ/tháng.
Tại Hà Tĩnh, nhà máy bia Việt Trung có tổng chi phí lên đến 264 tỷ
đồng, nằm tại khu đất vàng cũng đã bị bỏ hoang từ 2006 đến nay, nhiều
chỗ thành điểm chăn thả bò của người dân. Lý do dự án đang xây dở dang
này hoang phế vì chủ đầu tư khó khăn về kinh tế, trong khi người dân địa
phương lại phản đối dự án vì sợ ô nhiễm môi trường...
Còn ngay ở TPHCM, trường tiểu học Phú Định, quận 6, xây dựng từ 2004
với kinh phí gần 20 tỷ, sau 4 năm sử dụng đã bị lún sụt, hư hỏng, thiệt
hại lên đến 6,5 tỷ đồng. Tốc độ hư hỏng gia tăng nhanh nên để an toàn
cho học sinh, các em được chuyển sang nơi khác. Hiện nay trường vẫn
hoang phế trong khi TPHCM đang vẫn thiếu nhiều phòng học cho trẻ em.
Còn hoành tráng phải kể đến dự án bệnh viện 700 giường trị giá 40
triệu USD ở Nam Định, được kỳ vọng sẽ trở thành bệnh viện hiện đại bậc
nhất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng. Lẽ ra phải hoàn tất từ 2011, nhưng nay
sau 7 năm kể từ ngày khởi công, bệnh viện vẫn là công trình dở dang, sắt
thép hoen gỉ, cỏ mọc lút đầu vì không đủ vốn để hoàn thiện. Trong khi
Nam Định và nhiều vùng lân cận vẫn đang chịu sức ép của quá tải về y tế.
Rồi còn ngổn ngang những trường hợp lãng phí "nổi tiếng" như bảo tàng, công viên nghìn tỷ ở HN thì thiết nghĩ không cần kể thêm.
Công viên Hòa Bình Hàn - Việt đang bị tàn phá. Ảnh: Chí Phan/ VnExpress |
Trăm lý do, ngàn lý trấu... và việc buông lỏng giám sát đầu tư công
Những công trình bị bỏ hoang, hư phế này nếu điểm mặt đặt tên thì có
mặt ở rất nhiều địa phương trong cả nước và ở đủ chủng loại. Nào bệnh
viện, trường học, nhà máy, sân vận động, chợ, trung tâm thương mại, công
trình nước sạch nông thôn, biệt thự, nhà song lập... . Ngoài một số dự
án của tư nhân và doanh nghiệp FDI phải tự chịu trách nhiệm trên đồng
vốn của mình, phần lớn những công trình hoang phí này đang là các dự án
đầu tư công.
Lý do của sự lãng phí này đối với từng công trình, từng khâu chắc
chắn cần sự thẩm định, điều tra của các cơ quan chức năng: kinh tế khó
khăn hay sự vô trách nhiệm, đầu tư không theo quy trình, làm theo dự
đoán trên trời, tính toán sai lầm, bất chấp hậu quả, v.v... Nhưng dù
trăm lý do, ngàn lý trấu, thì "bệnh" chung hẳn cũng không nằm ngoài
những gì đã được các chuyên gia, người có thẩm quyền chỉ ra, là quản lý
yếu kém, tham nhũng, lãng phí, chuyện "vẽ" dự án để trục lợi.
Ví như hồi tháng 3 đầu năm nay, Bộ trưởng Bộ KHĐT Bùi Quang Vinh đã
thừa nhận có tình trạng lãng phí ngay từ chủ trương đầu tư. Nhiều nơi có
quyền, quyết là làm ngay, không thẩm định dự án ấy hiệu quả thế nào,
tại sao phải làm... Có khi muốn làm con đường rất to, cảng rất lớn, ban
đầu chỉ là ý định cá nhân, nhưng sau đó đánh giá đơn giản, rồi phê duyệt
chủ trương đầu tư, làm nảy sinh tình trạng có cảng mà không có hàng,
gây lãng phí. "Lãng phí trong chủ trương đầu tư mới lớn, có khi hàng
trăm tỉ...", ông Vinh khẳng định.
Và tiền cho các khoản đầu tư vô tội vạ ấy tất nhiên lấy từ những
khoản nộp thuế của dân, giữa bối cảnh nợ công tăng cao và ngân sách hạn
hẹp... Trong khi đó, giám sát đầu tư công để đảm bảo trách nhiệm và hiệu
quả với mỗi công trình tiền tấn vẫn đang là một vấn đề nhức nhối bởi sự
mù mờ.
Số liệu trong Hội thảo Định hướng chiến lược về giám sát và đánh giá
đầu tư công của Bộ KHĐT tổ chức ngày 1/10/2014 mới đây cho thấy, trong
năm 2013, chỉ có 66,75% các dự án đầu tư công (trong tổng số 35.359 dự
án) có nộp báo cáo. Như vậy, có tới hơn 33% các dự án chưa có báo cáo.
Đó là chưa kể trong số những dự án đã có báo cáo thì số liệu, đánh giá
đúng sai thế nào còn phải xem lại.
Công luận chỉ biết đến những vụ việc này qua báo chí, nhưng phần
nhiều vẫn theo kiểu "ném đá ao bèo". Nghĩa là sự việc được khơi lên rồi
đâu lại hoàn đấy.
Bởi một trong những điểm mấu chốt chính là vai trò trách nhiệm cá
nhân đến nay vẫn là khoảng trống mênh mông. Một bài viết trên báo Thanh
tra cuối tháng 9 vừa qua chỉ ra: "Không một cơ quan chức năng nào kiểm
tra và thống kê xem có bao nhiêu công trình lãng phí và chưa có một hình
thức kỷ luật nào cho những người gây ra sự lãng phí đó. Vì thế, lãng
phí cứ tự do phát triển để lòng dân ngao ngán".
Để giải quyết vấn nạn này, Chính phủ đã ban hành Luật thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí (có hiệu lực từ ngày 1/7/2014) và Luật Đầu tư công
(có hiệu lực từ 01/01/2015). Nhưng để các Luật này hữu hiệu, hẳn là
trách nhiệm cá nhân phải được vạch ra và thực thi minh bạch, rõ ràng.
Chẳng hạn, như nhiều ý kiến chỉ ra từ Luật thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, đó là xác định trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị
được coi là vấn đề cốt lõi trong việc ngăn chặn lãng phí cũng như trách
nhiệm khi xảy ra lãng phí.
Còn đối với Luật đầu tư công, việc thể chế hóa quy trình quyết định
chủ trương đầu tư được coi là nội dung đổi mới quan trọng nhất nhằm ngăn
ngừa sự tùy tiện, chủ quan, duy ý chí và một chiều trong việc quyết
định chủ trương đầu tư, nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định chủ
trương đầu tư.
Chỉ khi ấy, tình trạng công trình "đắp chiếu", thả bò may ra mới "thuyên giảm".
Nguyễn Anh Thi
----
Tham khảo:
Ngôi trường 20 tỷ đồng hoang phế giữa Sài Gòn, vnexpress, 3/9/2014.
Ký túc xá trăm tỷ trước nguy cơ bị bỏ hoang, QĐND, 20/09/2014.
Phú Yên: Công viên Hòa Bình Hàn - Việt đang bị tàn phá, Người Lao động, 17/02/2003.
Lãng phí và còn hơn cả thế, Thanhtra, 26/09/2014.
Nhiều "sáng tạo" trong lãng phí đầu tư công, Tuổi trẻ, 13/03/2014.
(Tuần Việt Nam)
-Nhà cầm quyền làm gì với người bất đồng chính kiến?
VNTB Nguyễn Đình Ấm* Tác giả gửi bài trực tiếp cho VNTB
Từ những năm 1980 trở về trước khi VN vẫn đóng kín với thế giới văn minh thì người BĐCK với đảng CSVN như các nhân vật vụ “nhân văn giai phẩm”, các linh mục “không hợp tác”, những người không “thần phục” đảng CS… thường bị bắt đưa đi đày ải biệt tăm không xét xử ở những trại giam xa xôi, khắc nghiệt nhất như Cán Tỷ (Hà Giang), Thọ Xuân (Thanh Hóa). Nhiều người không trở về…
Không theo một thứ luật pháp nào
Khoảng từ những năm 1990 trở lại đây khi VN đã một phần hòa nhập với cộng đồng quốc tế thì công an, tòa án đã công khai việc bắt bớ, hoặc xử người nọ, người kia nhưng chỉ là hình thức. Thực chất nhà cầm quyền tùy nghi hình phạt cho từng người BĐCK không theo một thứ luật pháp nào mà dân gian gọi là “tội 258, án bỏ túi”…
Ông Cù Huy Hà Vũ viết bài phê phán nhà cầm quyền, đấu tranh cho dân chủ, kiện lãnh đạo về dự án bauxite Tây nguyên, “cản phá” dự án làm khách sạn trên đồi Vọng Cảnh (Huế)… Một đêm ông bị bắt giam chỉ vì trong phòng ông nghỉ ở TPHCM có hai chiếc bao cao su “đã qua sử dụng” vốn đầy rẫy ở các nhà nghỉ. Trong khi đó ông Nguyễn Trường Tô chủ tịch tỉnh Hà Giang bị tố cáo với nhiều bằng chứng thuyết phục “ăn nằm” với nữ sinh vị thành niên nhưng không bị bắt giam hoặc kết tội. Chưa thấy người bình thường nào bị xử lý hình sự khi ở trong phòng có bao cau su như ông Cù Huy Hà Vũ. Ông Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), lập Câu lạc bộ nhà báo tự do, viết bài trái ý nhà cầm quyền đưa lên mạng; ông Lê Quốc Quân hay đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược VN, đấu tranh cho dân chủ, dân quyền… bị ghép vào tội “trốn thuế” mấy trăm triệu đồng (nếu có thật cũng chỉ khoảng 2.000 USD), đều bị bắt giam, xử tù rất nặng. Trong khi quan chức, các doanh nhân bình thường thì trốn thuế hàng tỷ, chục tỷ… nhưng không bị xử lý hình sự. DN nước ngoài Metro trốn thuế cả 12 năm liền, hàng loạt DN khác thực hiện chiến lược “chuyển giá” trốn thuế những khoản khổng lồ vẫn vô sự.
Ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng Hải Phòng có đầm tôm hợp pháp mà không dâng cho nhà cầm quyền, đã bị xã, huyện, thành phố Hải Phòng câu kết cướp đoạt bằng vũ lực. Sau nhiều lần kêu cứu, kiện cáo hợp pháp không xong ông phải dùng biện pháp “gây sự kiện” bằng cách dùng vũ khí tự tạo chống lại làm mấy chiến sĩ trong “đội cướp” bị thương nhẹ. Thế là ông bị ghép vào tội “giết người” và bị bỏ tù. Trong khi đó, tháng 2 năm nay, anh Nguyễn Văn Nghiêm cùng bà con Văn Giang ra đồng giữ ruộng từ ngàn đời ông cha để lại bị côn đồ vô cớ bắn thấu phổi nhưng kẻ chủ định giết nhưng nhà cầm quyền địa phương chỉ kết luận kẻ bắn thẳng vào anh Nghiêm tội “cố ý gây thương tích” và tìm mọi cách trì hoãn để “thối” án….
Gần đây ông Nguyễn Hữu Vinh, chủ trang blog Ba Sàm ủng hộ, đấu tranh cho tự do ngôn luận gia đình tố cáo ông bị công an bắt giam khẩn cấp, thu giữ tài sản không theo pháp luật. Vừa qua nhà báo, nhà văn Phạm Chí Thành Thành (Phạm Thành) công khai đòi hỏi dân chủ, phản đối Trung Quốc xâm lược VN…, hai lần bị công an Hà Nội “triệu tập” không đúng pháp luật.
Nhiều người BĐCK bị cấm xuất cảnh, khi ở nước ngoài về bị sách nhiễu, bắt bớ…
Những trò bẩn thỉu
Khi trấn áp người BĐCK, bất tuân mặc dù nhà cầm quyền cũng đem ra tòa xử “công khai”, nhưng chủ trương chỉ là “diễn” trước dư luận nên cấm người đến dự. Tại vụ xử Cù Huy Hà Vũ, Đoàn Văn Vươn, Lê Quốc Quân, Nguyễn Phương Uyên, Bùi Hằng…, hàng nghìn người đến dự bị xua đuổi, bắt bớ, đánh đập. Trước vụ xử bà Bùi Hằng tội “hai người đi hàng ba” tháng 9/2014 tại Đồng Tháp, theo tố cáo, nhà cầm quyền còn tổ chức ngăn cản sự đi lại của nhiều người ngay từ Sài Gòn, Hà Nội…
Trong các phiên xử người BĐCK, người bất tuân, nhà cầm quyền cũng cho luật sư tham gia “bào chữa cho bị cáo” nhưng lý lẽ của họ dù đúng đắn cũng chẳng tác dụng gì, nhiều phiên tòa luật sư bỏ về.
Tuy nhiên, những đối xử bất công, vô pháp luật đó còn “văn minh” hơn thứ “luật rừng” diễn ra trong những năm gần đây. Hiện người BĐCK, bất tuân nhà cầm quyền liên tục bị những kẻ “côn đồ” vô cớ ném chất bẩn vào người, vào nhà, tạo va chạm giao thông để đánh đập, chặn đánh dã man, rình mò, ngăn cấm họ đi lại… ngày càng nhiều. Trường hợp cô Bùi Hằng, Thúy Nga, Phạm Thanh Nghiên, Huỳnh Thục Vy… đấu tranh cho dân chủ, có hành vi chống TQ xâm lược VN… thường xuyên bị ném chất bẩn vào nhà, “côn đồ” hành hung vô cớ, liên tục bị canh trừng, sách nhiễu nơi ở, nơi trọ… Cô Thúy Nga bị “côn đồ” đón đường ban đêm đánh gẫy chân khi đang bế hai con nhỏ. Nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng hay viết, đăng bài trái ý nhà cầm quyền tố cáo bị an ninh tra xét bài vở, liên tục đeo bám, quấy nhiễu cản trở việc đi lại gây cho cuộc sống của ông rất căng thẳng, mệt mỏi.
Hầu hết tù nhân lương tâm khi ra tù tố cáo bị đối xử mọi rợ, nghiệt ngã, khi về bị suy nhược sức khỏe, bệnh tật, chết sớm…
Người BĐCK, bất tuân, người thân, con cháu họ bị sách nhiễu, đe dọa, khủng bố tinh thần, sa thải, gây khó dễ trong việc làm ăn, học hành… Vừa qua nhà cầm quyền có quy định người mãn hạn tù không được làm cho tổ chức, DN nước ngoài là nhằm vào các tù nhân chính trị khi ra tù để tiếp tục vùi dập họ trong cuộc sống. Nhiều nông dân Văn Giang có con cháu, vợ, chồng đang làm việc trong cơ quan nhà nước không giao đất cho DN xây khu đô thị kinh doanh bị liệt vào diện “không hoàn thành nhiệm vụ vận động gia đình” bị sa thải, điều đi nơi xa. Hơn 200 ha đất mà DN Ecopark đã có được phần lớn là từ những người dân Văn Giang phải giao cho họ một cách miễn cưỡng, đắng cay, tủi nhục…, vì nếu không giao người thân họ sẽ bị sa thải, gây khó khăn, không thể xin cái dấu chứng nhận việc gì… Họ bị đối xử không theo luật pháp nào.
Có thể nói, từ bao năm nay những người BĐCK, không tuân ý muốn nhà cầm quyền đã bị đối xử bất bình đẳng, đưa ra ngoài vòng pháp luật.
-Nhà báo Nguyễn Công Khế nói về những ‘điều cấm kỵ’ (*)
danquyen Nguồn: Theo Thanh NiênLê Ngọc Dương Cầm (thực hiện)
Trong bài phỏng vấn này, ông Nguyễn Công Khế đã nói rất mạnh dạn những điều, gọi là cấm kỵ, mà chúng ta cũng phần nào biết đến.
Chẳng hạn như trong vụ tố cáo tham nhũng Năm Cam ông tiết lộ:
“Tuy nhiên, anh Hùng có đề nghị tôi nên gặp và trao đổi với anh Nguyễn Minh Triết, lúc đó đang là Ủy viên Bộ Chính Trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM vì anh Triết được Bộ Chính trị giao cho chỉ đạo vụ án này. Khi gặp anh Triết, anh đọc rất kỹ một bài báo với chỉ một trang A4 của phóng viên Hoàng Hải Vân, mà anh phải đọc kỹ gần 2 tiếng đồng hồ.
Với sự thận trọng vốn có, anh chân thành nói với tôi: “Với tư cách là Ủy viên Bộ Chính trị, tôi hoan nghênh việc các anh đăng bài báo này vì rất có lợi cho quá trình kiểm điểm những đồng chí lãnh đạo cấp cao. Nhưng với tư cách là bạn, tôi khuyên anh chưa nên đăng vì sẽ rất nguy hiểm cho anh“.
Đến như một ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước sau đó, người đã từng xông pha lửa đạn, mà còn khuyên lùi như vậy thì không lạ gì một Nguyễn Phú Trọng, chưa từng nếm mùi lửa đạn, chủ trương không đánh chuột để tránh vỡ bình.
Cũng nên nhắc lại trong vụ tham nhũng Năm Cam, ông Trương Tấn Sang, đương kim Chủ tịch nước, lúc đó là cấp trên của ông Triết, đã bị kỷ luật đảng.
Hoặc giả như khi Ông Nguyễn Công Khế nói: “Đến tính GDP mà theo như Thủ tướng nói cũng là con số giả thì làm sao chúng ta có thể đứng vững được trong tình hình như thế này. Những vụ thất thoát hàng tỉ đôla của những tập đoàn kinh tế lớn không được đúc kết trách nhiệm thuộc về ai, để công bố cho nhân dân được biết. Đầu tư nước ngoài đa số các doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện không đúng chất lượng lại trúng thầu liên tiếp. Như vậy buộc chúng ta phải coi lại các chính sách về kinh tế, tài chính, tiền tệ. Những vấn đề nguy cấp này, chúng ta thấy báo chí ít dám đụng tới. Trước hết là do họ “ngại”, họ “sợ” chứ không phải những nhà báo thiếu hiểu biết về những lĩnh vực đó.” chứng tỏ ông vẫn còn giữ được nhiệt huyết ban đầu để nói sự thật.
Ông Khế đã tâm sự “ Tuổi trẻ của tôi được rèn luyện trong nhà tù. Chức vụ là để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, chứ không phải anh giữ chức để vinh thân phì gia. Nếu sợ, tôi đã không làm. Tôi đã bị trả giá nhiều lần. Tôi thấy bình thường lắm, chẳng có gì phải ân hận những việc mình đã làm”.
Chúng tôi cũng hiểu rằng nói công khai những điều cấm kỵ là nói với dân, bọn tham nhũng đã ù lì rồi, những lời nói chân tình hơn 30 năm nay cũng như nước đổ đầu vịt.
Ở vị trí và với sự hiểu biết của ông, nếu ông chịu đi thêm bước nữa để cùng sánh vai với các đồng chí của ông, cũng không sợ tù đày, đang hành động để đưa đảng của ông, và của họ, trở về với dân tộc.
Được như thế có lẽ ông sẽ trả được cái nợ tinh thần của những người yêu nước nhưng đã góp phần vào cái đảng ác độc đang làm hại dân tộc hiện nay.
Dân Quyền
Ông Nguyễn Công Khế, người đồng sáng lập báo Thanh Niên và giữ cương vị Tổng biên tập trong suốt 23 năm, đã có nhiều cống hiến cho ngành báo chí, từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, huy chương vì sự nghiệp báo chí, hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Truyền thông Thanh Niên đã có cuộc trao đổi thẳng thắn về tình hình báo chí và nghề báo. Nhà báo kỳ cựu này đã không ngại nói đến những “điều cấm kỵ” kể cả những khó khăn mà ông đã gặp phải lúc ông làm tổng biên tập…
Ông Nguyễn Công Khế tiếp Tổng lãnh sự Pháp Faubrice Maurice trước khi ông kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam – Ảnh: Nghĩa Phạm
“Tôi đã bị trả giá nhiều lần”
* Ông nhận định xu hướng của báo chí hiện nay ra sao?
- Trong thời điểm hiện nay, báo mạng là một xu hướng đang lên và báo giấy dần gặp nhiều khó khăn. Ngay cả hai tờ nhật báo có số phát hành lớn nhất nước là Thanh Niên và Tuổi Trẻ cũng đang có số lượng phát hành giảm đáng kể.
Báo điện tử đang gánh một sứ mệnh quá nặng nề nhưng chưa thể hiện được hết vai trò của mình; chưa thay thế được vai trò của báo giấy cả về chất lượng nội dung lẫn thu hút quảng cáo.
Đa phần các báo điện tử đang nghiêng về tin bài làm sao để có nhiều người đọc nhưng không kịp đi vào chất lượng nội dung. Các báo chạy theo số lượng người truy cập bằng những tin cô người mẫu này mua áo và túi xách hàng hiệu, cô diễn viên nâng cấp vòng một, người này thay đổi chồng, người kia lấy đại gia để có biệt thự và xe hơi sang.
Gần như tôi thấy một xu hướng báo chí đã đánh mất tính mục đích và chức năng hữu ích của mình.
* Nhưng rõ ràng, báo chí đang được giao nhiều trọng trách, trong đó trọng trách chống và phanh phui tham nhũng nhưng dường như các báo ngại đụng chạm đến?
- Đó là một trong những nguy cơ cho đất nước, thể chế. Một khối u ác tính được bao bọc không dám mổ xẻ chữa trị đến nơi đến chốn sẽ có lúc vỡ ra. Bệnh ung thư không phát hiện sớm, đến lúc chuyển sang giai đoạn di căn trầm trọng thì làm sao cứu chữa? Những người chân chính đang lo lắng cho tình trạng này.
* Nguyên nhân của việc báo chí không dám động chạm vào những lĩnh vực nhạy cảm, đặc biệt là chống tham nhũng, là do cơ chế hay do các tổng biên tập sợ bị khiển trách, mất chức?
- Do cơ chế cũng có, do sợ sệt cũng có và cả do lãnh đạo mở quá rộng vùng gọi là nhạy cảm và vùng cấm, làm những người làm báo lo ngại.
Và theo tôi, Đảng, Chính phủ và Quốc hội đều đã có khá nhiều nghị quyết, chỉ thị về việc chống tham nhũng. Nếu để nạn tham nhũng hoành hành như hiện nay, nhân dân sẽ mất lòng tin, không tạo nên một nội lực mạnh để có thể đủ sức vượt qua những khó khăn mọi mặt. Phải đánh thắng cho được giặc nội xâm đó là nạn tham nhũng đang làm băng hoại xã hội thì chúng ta mới tập hợp được sức mạnh để chống giặc ngoại xâm đang đe dọa từng ngày trên biên giới, đất liền và trên vùng biển của Việt Nam.
Khi báo chí có trong tay những bằng chứng bất kỳ cán bộ cấp nào tham nhũng thì chúng ta phải khuyến khích để các cơ quan báo chí và các nhà báo có quyền công khai những vụ việc đó. Chúng ta dám công khai những vụ tham nhũng lớn và các loại tội phạm khác dính đến những người có chức quyền, thì điều đó mới nói lên sức mạnh của chính quyền.
Chỉ có một nhà nước mạnh, công khai và minh bạch trong thông tin, chỉ có một nền báo chí mạnh mới dám đưa những ung nhọt ra khỏi cơ thể của mình. Một chính quyền yếu và không minh bạch thì không thể làm chuyện đó.
Tôi tin là không có chuyện báo chí đưa tham nhũng của vị lãnh đạo này, lãnh đạo khác ra ánh sáng là sẽ gây xáo trộn, mất ổn định, mà tôi tin ngược lại rằng việc đó sẽ làm cho nhân dân đủ lòng tin và ổn định được chính trị cũng như xã hội.
* Ông là người đồng sáng lập ra báo Thanh Niên, tờ nhật báo lớn nhất nhì cả nước. Suốt hơn hai mươi năm lãnh đạo tờ báo, có bao giờ ông phải đắn đo khi cho xuất bản một bài báo “đụng” đến một nhân vật tầm cỡ?
- Có chứ, sao lại không? Tôi đã từng “đụng” đến thứ trưởng Bộ Công an, những nhân vật tương đương thứ trưởng, ủy viên Trung ương Đảng…
Ngay cả chuyên án Năm Cam, trong tài liệu tôi cầm trên tay, đã từng liên quan đến một đồng chí thứ trưởng Bộ Công an, sau đó lòi ra thêm 3 đồng chí thứ trưởng khác nữa. Chúng tôi đã từng công khai việc này lên mặt báo.
Khi có tài liệu về những người này, tôi đã điện thoại hỏi anh Vũ Quốc Hùng (nguyên Phó chủ nhiệm Thường trực Ban kiểm tra Trung ương Đảng – PV): “Tôi có đăng bài về những vị lãnh đạo đó được không?”. Anh Hùng trả lời chậm rãi và từ tốn: “Có tài liệu chính xác thì các anh cứ việc đăng, không có ai được cấm báo chí đăng xác thực về những việc dính đến cán bộ lãnh đạo cấp cao”.
Nếu sợ, tôi đã không làm. Tôi đã bị trả giá nhiều lần. Tôi thấy bình thường lắm, chẳng có gì phải ân hận những việc mình đã làm
Nhà báo Nguyễn Công Khế
Tuy nhiên, anh Hùng có đề nghị tôi nên gặp và trao đổi với anh Nguyễn Minh Triết, lúc đó đang là Ủy viên Bộ Chính Trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM vì anh Triết được Bộ Chính trị giao cho chỉ đạo vụ án này. Khi gặp anh Triết, anh đọc rất kỹ một bài báo với chỉ một trang A4 của phóng viên Hoàng Hải Vân, mà anh phải đọc kỹ gần 2 tiếng đồng hồ.
Với sự thận trọng vốn có, anh chân thành nói với tôi: “Với tư cách là Ủy viên Bộ Chính trị, tôi hoan nghênh việc các anh đăng bài báo này vì rất có lợi cho quá trình kiểm điểm những đồng chí lãnh đạo cấp cao. Nhưng với tư cách là bạn, tôi khuyên anh chưa nên đăng vì sẽ rất nguy hiểm cho anh. Cho tới lúc này không phải cán bộ cấp cao nào cũng hiểu đúng sự việc này”.
Tôi về bàn bạc với lãnh đạo một số tờ báo khác, họ cũng thấy ngần ngại. Cuối cùng tôi quyết định đăng. Điều đó cho thấy: Việc đăng hay không đăng một bài báo, là một quyết định rất khó khăn đối với bất cứ một tổng biên tập nào.
* Sau khi đăng bài báo đó, ông có chịu áp lực gì không?
- Sau khi bài báo đăng, tôi đã tắt máy điện thoại mấy ngày liền. Sau đó tôi gặp lại anh Nguyễn Minh Triết, anh ấy nói với tôi: “Đã có rất nhiều cuộc điện thoại liên tục cho tôi trong những ngày vừa qua hỏi về việc đăng bài báo đó”. Tôi hỏi: “Có phải anh Nguyễn Khoa Điềm gọi cho anh không?”. Anh Triết cười: “Chẳng những anh Nguyễn Khoa Điềm mà còn nhiều cấp cao hơn anh Điềm (trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương lúc bấy giờ – PV) nữa”.
Ông Nguyễn Công Khế là người khai sinh ra chương trình ca nhạc thời trang nổi tiếng Duyên dáng Việt Nam – Ảnh: Trương Tú
Khi quyết định khởi đăng bài báo, ông không sợ mất chức tổng biên tập?
– Tuổi trẻ của tôi được rèn luyện trong nhà tù. Chức vụ là để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, chứ không phải anh giữ chức để vinh thân phì gia.
Nếu sợ, tôi đã không làm. Tôi đã bị trả giá nhiều lần. Tôi thấy bình thường lắm, chẳng có gì phải ân hận những việc mình đã làm.
* Giai đoạn đăng loạt bài vụ án Năm Cam rất nguy hiểm, ông có được bảo vệ nghiêm ngặt trước những phần tử xấu?
- Có. Tôi rất cảm động việc ông Phạm Văn Đồng, lúc đó đang làm cố vấn Ban chấp hành Trung ương, đã điện cho lãnh đạo TP.HCM là ông Nguyễn Võ Danh lúc đó làm Phó bí thư Thành ủy, bằng mọi cách phải bảo vệ tôi và gia đình trong thời điểm đó. Công an TP.HCM trong suốt 6 tháng trời đã cử người bảo vệ tôi cùng những thành viên trong gia đình, để tránh sự trả thù của các đối tượng tội phạm.
Tôi có một niềm tin là bọn xấu sẽ không làm gì được mình. Nếu tôi làm việc không chính trực thì tôi sợ, đằng này tôi làm việc chính trực, không việc gì phải sợ. Ở đời, rủi ro, chết sống cũng là việc bình thường.
* Lúc nãy, ông có nói đã bị trả giá nhiều lần?
- Tôi đã nói không bao giờ hối hận những việc mình đã làm. Tôi chỉ ân hận là mình làm còn quá ít cho sự nghiệp báo chí, minh bạch thông tin đối với xã hội và người đọc.
Vụ án Năm Cam là một thắng lợi to lớn của cả chính quyền lẫn người dân khi loại khỏi xã hội được một tập đoàn tội ác có tổ chức, ổn định trật tự xã hội. Thế nhưng, đến giờ này, vẫn còn có “chuyện này, chuyện kia” đeo đẳng những người tham gia phá án.
* Ý ông nói đến việc bị trù dập sau khi rời khỏi chức vụ đối với những người phá án?
- Có đấy. Việc ấy còn di căn đến bây giờ. Riêng tôi, dù tôi không có bị khó khăn gì lớn do vụ việc này đem lại nhưng tôi suy nghĩ, không bao giờ ngần ngại việc mình phải trả giá cho chuyện này, chuyện khác. Ngay cả khi không làm tổng biên tập và giao lại cho anh chị em đi sau, tôi hoàn toàn thỏa mãn.
Ở đời, con người không làm việc này thì làm việc khác, làm hết trách nhiệm và trách nhiệm cao nhất đã là niềm an ủi lớn rồi. Tôi vẫn có khát vọng làm trong ngành truyền thông cho đến khi sức khỏe không cho phép làm nữa, mới thôi.
Tôi nhớ lại ngày mới ra tù, sau 30.4.1975, tôi công tác Đoàn chưa được nửa năm, sau đó làm báo. Từ năm 1986, báo Thanh Niên ra mắt, chúng tôi tự cân đối thu chi từ đó, không hưởng lương nhà nước, lại còn làm ra có lãi để đóng thuế cho Nhà nước rất nhiều tỉ đồng.
Cả tuổi trẻ của tôi đã bị tù đày, chiến đấu cho sự nghiệp hòa bình và thống nhất của đất nước. Đến giờ này, suy nghĩ của tôi vẫn không thay đổi. Tôi chỉ buồn và tiếc là xã hội ta vẫn chưa đạt được một mức sống khá giả về kinh tế đáng lẽ phải được, người dân chưa được hưởng các quyền dân chủ một cách thực sự, trong đó sự minh bạch về thông tin phải trở thành chính sách nhất quán từ trên xuống dưới.
Nhà báo Nguyễn Công Khế (phải) và nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong một sự kiện – Ảnh: TL
Qua những lời vị cựu tổng biên tập này chia sẻ, sau khi không còn giữ chức vụ cao nhất của tờ Thanh Niên, ông vẫn làm việc không ngừng nghỉ, đặc biệt có thu nhập cao từ nghề nuôi yến. Theo nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông Khế chính là người đã hướng dẫn cho ông nghề nuôi chim yến, để hằng tháng hiện nay ông có một thu nhập còn cao hơn cả lương hồi còn làm chủ tịch nước.
“Dân thường làm gì có quyền mà tham nhũng?”
* Ông có ý kiến như thế nào về “vùng cấm” của báo chí hiện nay?
- Như tôi đã nói ở trên, việc không minh bạch thông tin sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy không tốt. Tôi muốn nói đến vấn đề gần nhất là vấn đề biển Đông và giàn khoan Hải Dương-981 của Trung Quốc vừa qua. Có thể ở bên trong Bộ Chính trị, Ban chấp hành TW đã bàn rất nhiều về việc đối phó với sự xâm phạm vùng biển đặc quyền kinh tế Việt Nam của Trung Quốc. Nhưng bên ngoài những thông tin về lãnh đạo Việt Nam có động thái như thế nào bên trong nội bộ hoàn toàn không được thông tin ra bên ngoài.
Người ta chưa thấy một phát ngôn nào chính thức về phía lãnh đạo Việt Nam trong thời điểm ban đầu. Mãi cho đến ngày 23.5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới trả lời báo chí ở Manila. Sau đó vào ngày 20.6, bài phỏng vấn “nặng ký” của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mới chính thức được Thông tấn xã Việt Nam phát đi, tỏ rõ lập trường của lãnh đạo cao nhất của đất nước.
Một thời gian dài ở thời điểm đầu, chỉ có thấy phát ngôn viên Bộ Ngoại giao nói một số câu quen thuộc: “Trung Quốc phải rút khỏi vùng biển có chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam…”. Thời gian cấp thiết lúc đầu, không có một tiếng nói chính thức nào của lãnh đạo cấp cao hoặc phát ngôn viên chính thức nào thay mặt lãnh đạo nói để nhân dân hiểu rằng, ban lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã họp và có một thái độ rõ rệt trước những hành động xâm lấn của Trung Quốc.
Sự minh bạch thông tin này khác với những phát ngôn có tính chất đối ngoại và đôi khi còn quan trọng hơn những phát ngôn có tính chất đối ngoại, bởi vì sự minh bạch thông tin trong trường hợp này sẽ cho hơn 3 triệu Đảng viên của Đảng cầm quyền và quan trọng hơn là hơn 80 triệu người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước hiểu rõ lập trường thái độ của lãnh đạo Việt Nam, trước tình hình dầu sôi lửa bỏng mà người dân rất trông chờ.
Trong khi báo chí chính thống của Việt Nam nói thận trọng về những thông tin này, thì những thông tin không phải của Nhà nước và của nước ngoài lại luôn cho rằng Nhà nước Việt Nam không có động thái kịp thời trước sự kiện này.
Như vậy, nếu chúng ta cứ không minh bạch thông tin như hiện nay thì sẽ dẫn đến những tình hình rất bất lợi, làm cho người dân không có đầy đủ thông tin vào việc bảo vệ chủ quyền đất nước trước hiểm họa ngoại xâm.
Tôi muốn nhắc lại, Việt Nam phải cần sự minh bạch thông tin trên mọi lĩnh vực mà muốn minh bạch thông tin thì trước hết phải khuyến khích báo chí phát huy dân chủ trên lĩnh vực của mình.
Ngày xưa chúng tôi làm báo giấy, chưa có internet, còn gọi là “báo ngày”. Thời buổi công nghệ thông tin bùng nổ, tin tức được cập nhật từng phút, báo điện tử được gọi là “báo phút”. Chỉ cần một câu nói, 5 phút sau đã tràn ngập tin bài trên mạng lan ra toàn thế giới.
Những Quyết sách lớn của lãnh đạo Nhà nước, Quốc hội, Đảng cầm quyền về kinh tế, chính trị, xã hội đều phải được minh bạch trước đông đảo quần chúng, là điều chỉ có lợi cho đất nước mà trước hết là có lợi cho các nhà hoạch định chính sách.
Nguyên tắc, cái gì anh không nói thì sẽ có người khác nói thay trong thời đại thông tin hiện đại như hiện nay. Tôi thấy chính sách thông tin như hiện nay, ta chỉ từ thua đến thua.
* Ông có thể giải thích rõ từ “thua” mà ông vừa nói?
- Phải nói ngay, xã hội bây giờ người dân mất lòng tin rất nhiều là do chính sách thông tin. Người ta ít tin vào những gì anh nói chính thức mà người ta đọc và tin những điều, những nguồn thông tin từ bên ngoài.
Tôi ví dụ, anh Nguyễn Bá Thanh đang chữa bệnh ở Mỹ lại rộ lên tin đồn là anh Nguyễn Bá Thanh đã mất.
Trong nước các báo chỉ nói “hé hé”, không rõ ràng, lãnh đạo ta không có ý kiến gì, chỉ có khi một đài nước ngoài dẫn một nguồn tin cũng không chính thức từ một nguồn trong nước, thì lúc đó dư luận mới hết đồn thổi.
Tại sao nguồn tin đó lại không xuất phát từ một tờ báo chính thức của Việt Nam do Ban Bảo vệ sức khỏe của Trung ương công bố chẳng hạn. Điều đó có gì cấm kỵ đâu. Nhiều ý kiến của các nhà trí thức góp ý về chính trị, kinh tế, xã hội và cả an ninh quốc phòng, tôi thấy có nhiều bài rất xây dựng và nhiệt huyết lại không được đăng ở những báo chính thống mà chỉ thấy đăng ở những trang mạng gọi là “lề trái”. Coi chừng, riết rồi người ta thấy những bài hữu ích và những tin tức hữu ích có trên các “lề trái” nhiều hơn.
Thế thì không thua là cái gì?
Chống tham nhũng cũng vậy, có những vụ tham nhũng to đùng dân bàn tán suốt năm này qua tháng nọ, nghi vấn người này qua người nọ không được giải đáp chính thức. Thế thì lòng tin của dân với chính sách thông tin như thế, họ biết đặt vào đâu?
* Ý ông nói là…
- Việc chống tham nhũng, thì nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có rồi, nghị quyết của Quốc hội cũng có rồi, các chỉ thị của Chính phủ cũng có rồi, nhưng mà từ nói đến làm là một khoảng cách rất xa. Người chủ trương ra chính sách chống tham nhũng và những người thực hiện chính sách có khi lại chùn tay. Chống tham nhũng là chống ai? Dân thường làm gì có quyền để tham nhũng?
Nước ta hiện nay cái rất dở, đó là người ta hay sợ mất ghế. Một người cán bộ đúng nghĩa, thì phải dũng cảm, phải đi đầu, phải vì đất nước, vì dân tộc… chứ không phải cái gì cũng sợ, cái gì cũng né, giữ cho bằng được cái ghế. Tư tưởng sợ mất ghế đã lan vào giới báo chí.
* Theo ông, ngoài tham nhũng, báo chí nên mở rộng ở lĩnh vực nào?
- Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đình trệ, nợ công, nợ xấu của các ngân hàng, của đất nước đã lên đến mức báo động, hàng trăm tỉ đôla. Tôi chưa có con số tổng kết, nhưng cứ nhìn chung quanh mình thì biết, hễ làm ăn có dính đến bất động sản, dính đến nợ ngân hàng đều rơi vào tình trạng chịu không nổi. Hàng trăm ngàn doanh nghiệp đã đóng cửa trong mấy năm qua.
Đến tính GDP mà theo như Thủ tướng nói cũng là con số giả thì làm sao chúng ta có thể đứng vững được trong tình hình như thế này. Những vụ thất thoát hàng tỉ đôla của những tập đoàn kinh tế lớn không được đúc kết trách nhiệm thuộc về ai, để công bố cho nhân dân được biết. Đầu tư nước ngoài đa số các doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện không đúng chất lượng lại trúng thầu liên tiếp.
Như vậy buộc chúng ta phải coi lại các chính sách về kinh tế, tài chính, tiền tệ. Những vấn đề nguy cấp này, chúng ta thấy báo chí ít dám đụng tới. Trước hết là do họ “ngại”, họ “sợ” chứ không phải những nhà báo thiếu hiểu biết về những lĩnh vực đó.
* Thời làm báo của ông, thông tin đăng tải có khó khăn?
- Thế hệ của tôi, anh Lê Văn Nuôi, anh Lê Hoàng, chị Kim Hạnh, anh Võ Như Lanh, chị Thế Thanh, anh Tô Hòa.., khi cho đăng bất cứ một thông tin nhạy cảm, chúng tôi cũng từng có nhiều cân nhắc. Nhưng cuối cùng chúng tôi đã quyết định đăng những thông tin dù có thể bất lợi cho cá nhân tổng biên tập nhưng có lợi cho dân, cho nước. Khi lãnh đạo có hỏi, có chất vấn, thì chúng tôi đều tìm cách trình bày, giải thích vì sao chúng tôi cho đăng những tin bài như vậy.
Nhưng nhiều khi lãnh đạo cũng cần tiếng nói của báo chí. Nếu thường chỉ có “một chiều”, bảo cấp dưới phải làm thế này, thế nọ, thì lãnh đạo sẽ không có những thông tin trung thực để biết những khiếm khuyết của mình cũng như những chính sách do mình đưa ra để mà hoàn thiện, sửa chữa. Đâu phải cứ trái chiều là sai, là làm cho tình hình không ổn định? Đôi khi những tiếng nói trái chiều còn cần hơn cho lãnh đạo là những tiếng nói thuận chiều mà không thật lòng vì sự nghiệp chung.
* Lúc nãy, ông có nói đến vấn đề biển Đông. Thời ông làm báo, vấn đề nhạy cảm này đâu được công khai rộng rãi trên báo chí, phải vậy không, thưa ông?
- Lúc đó, xét về mặt đấu tranh ngoại giao, mình có thể thông cảm. Báo chí được nói ở mức độ nào để nhà nước còn có đối sách ngoại giao công khai. Nhưng đến lúc người ta xâm phạm vùng biển đặc quyền kinh tế của chúng ta, xâm lược đất nước mình thì lãnh đạo phải khơi dậy lòng yêu nước, đứng lên cứu nước của người dân. Phải để cho báo chí minh bạch các thông tin thì chúng ta mới hòng đạt được sự đồng thuận và đoàn kết dân tộc.
Trung Quốc đã có những hành xử không tốt với chúng ta từ lâu lắm rồi, trong chiến tranh với người Mỹ đến chiến tranh biên giới Tây Nam đã có. Có lúc họ che giấu dưới mỹ từ này, mỹ từ khác. Nhưng khi họ đã mang quân, mang tàu vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, bắt bớ, đập phá tàu của ngư dân ta, thì tại sao chúng ta phải nhẫn nhục? Vai trò của thông tin báo chí những lúc như thế phải là một chiến sĩ ra trận, chứ không thể khác.
* Theo ông, thời gian tới Trung Quốc sẽ thế nào với Việt Nam trong tranh chấp biển Đông?
- Suy nghĩ của cá nhân tôi, Trung Quốc không bao giờ thay đổi thái độ với Việt Nam, chỉ có thay đổi về chiến thuật do thái độ của nhân dân Việt Nam và áp lực quốc tế. Việt Nam ở gần một láng giềng lớn như Trung Quốc, là điều không mong muốn. Nhưng một đất nước đâu phải một căn nhà sống gần hàng xóm không tốt, có bất hòa thì mình có thể dời đi nơi khác. Một quốc gia gần một quốc gia luôn gây hấn, sống không tốt, ta không thể dời đất nước đi đâu được. Đành phải sống chung với lũ.
Do vậy, chúng ta phải có một chính sách đối nội, đối ngoại và kể cả một chính sách thông tin thật đúng đắn thì mới mong giữ được căn nhà Tổ quốc được bình yên.
* Sau khi không còn giữ chức Tổng biên tập báo Thanh Niên, ông làm gì?
- Tôi vẫn không ngơi nghỉ. Hiện nay tôi đang là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần tập đoàn truyền thông Thanh Niên, bao gồm lĩnh vực truyền thông, sự kiện. Tôi vẫn đứng ra tổ chức giải bóng đá U.21 báo Thanh Niên, chương trình Duyên dáng Việt Nam, gây quỹ Nhân tài Đất Việt…
* Nghe nhiều người nói ông có thu nhập lớn từ nghề nuôi yến?
- Thu nhập từ nuôi chim yến, tôi nghĩ đó là lộc trời. Tôi nuôi trên 10 năm nay, thu nhập rất cao cho mỗi tháng cho gia đình. Tôi nghĩ nghề nuôi yến là một nghề nên phát triển ở Việt Nam kết hợp với du lịch. Mỗi ký yến hiện nay vào khoảng 50 triệu đồng, một nghề có thu nhập rất cao. Chất lượng yến của Việt Nam tốt hơn nhiều so với Malaysia, Indonesia và các nước khác. Yến là một sản vật đặc biệt quý hiếm và giúp rất nhiều cho sức khỏe con người.
Hiện nay, riêng Trung Quốc, một quốc gia có hàng tỉ dân và rất nhiều người dùng yến ở đây. Qua Mỹ tôi cũng thấy nhiều người Mỹ và người dân gốc châu Á dùng yến… Nếu Việt Nam phát triển nghề nuôi yến, ngành du lịch cũng sẽ rất phát triển.
* Ông cũng là người hướng dẫn cho nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nuôi chim yến phải không?
- Hồi anh Triết xuống thăm tôi, tôi có giới thiệu cho anh xem vườn cam tôi trồng. Anh Triết đùa nói: “Trồng cam thì cũng bình thường rồi, nuôi yến mới là cái tôi thích thú”. Sau đó, tôi có chỉ những người kỹ thuật xuống giúp anh làm nhà yến. Nghe nói mỗi tháng anh thu được 1 ký yến tức là thu nhập được 50 triệu một tháng hơn cả lương anh ấy hồi làm Chủ tịch nước.
Không chỉ anh Nguyễn Minh Triết mà tôi còn giúp và huớng dẫn hàng chục anh em bè bạn xây dựng nhà yến trên khắp cả các vùng ở phía Nam. Nhiều người đã có kết quả và có tổ yến để dùng và để bán có thu nhập cao.
* Xin cám ơn ông!
Lê Ngọc Dương Cầm
(thực hiện)
(*) Bài phỏng vấn này đã đăng trên báo điện tử Một Thế Giới. Được sự đồng ý của báo điện tử này và nhà báo Nguyễn Công Khế, Thanh Niên Online đăng nguyên văn bài viết. Tít bài do Thanh Niên Online đặt.
-Chúng tôi không định lật đổ chính quyền
Procontra
Đái Diệu DìnhPhạm Thị Hoài dịch
Ông Đái Diệu Đình (Benny Tai Yiu-ting, 1964), Phó Giáo sư Luật tại Đại học Hồng Kông, cùng một đồng nghiệp cũng thuộc Đại học Hồng Kông, Phó Giáo sư Xã hội học Trần Kiện Dân (Chan Kin-man) và mục sư Tin lành Chu Diệu Minh (Chu Yiu-ming) là ba người tổ chức Phong trào Chiếm Trung 2014 tại Hồng Kông. Sau khi chính quyền Đặc khu này hủy bỏ cuộc đối thoại với những người biểu tình, từ tối hôm qua, thứ Sáu 10/10/2014, hàng ngàn sinh viên lại kéo về khu trung tâm thương mại thành phố. Sau đây là phỏng vấn của Đái Điệu Đình dành cho tờ Spiegel.
__________
Vâng, chắc chắn. Chúng tôi đang ở một tiến trình vận động vượt xa những dự định ban đầu. Thật tình chính tôi cũng không biết rõ sắp tới sẽ thế nào và ngày mai chúng tôi sẽ ở đâu.
Tuần trước chính quyền Hồng Kông đã đề nghị đối thoại với những người biểu tình. Sao bây giờ họ lại hủy?
Có thể vì trong giới lãnh đạo ở Hồng Kông có chia rẽ, hoặc có thể do chỉ thị từ Bắc Kinh. Dù thế nào thì trong các nguyên nhân cũng thấy có sự thiếu nhất quán: phe ủng hộ đối thoại có thể mâu thuẫn với phe cứng rắn, có thể chính Bắc Kinh cũng chưa biết chính xác nên tiếp tục thế nào. Nhận định như vậy là có cơ sở, vì chính quyền Hồng Kông mới chỉ tạm thời hủy đối thoại.
Chính quyền – ở Hồng Kông hoặc Bắc Kinh – phải làm gì để các cuộc biểu tình phản kháng chấm dứt một cách hòa bình?
Họ phải đưa ra được một dấu hiệu mở ra một triển vọng thực tế để đợt bầu Đặc khu trưởng lần tới sẽ là một cuộc bầu cử dân chủ. Chúng tôi biết rằng điều đó không xảy ra qua một đêm. Nhưng nếu chính quyền đưa ra được một lịch trình thì số đông những người biểu tình sẽ ra về. Tuy nhiên không phải tất cả sẽ ra về. Câu chuyện này không dễ mà kết thúc.
Là người trong Ban tổ chức, ông có khả năng ảnh hưởng đến kết cục của nó như thế nào?
Ảnh hưởng của chúng tôi khá hạn chế. Nếu chúng tôi kêu gọi dỡ bỏ một số rào chắn ở chỗ này hay chỗ khác vì lí do thực tế, những người biểu tình sẽ đối xử với chúng tôi như những phần tử xâm nhập, những kẻ chinh phạt từ bên ngoài. Những sinh viên thay nhau trực phiên ở đây và ngủ ngay ngoài đường cũng bảo vệ góc đường mà họ vừa chiếm như bảo vệ quan điểm chính trị của họ. Có lẽ chúng tôi là một ca nghiên cứu thú vị cho một nhà xã hội học, cho ai nghiên cứu về cơ chế của những cộng đồng tự tổ chức.
Năm nay, 2014, là kỉ niệm tròn 25 năm cuộc biểu tình phản kháng tại Thiên An Môn, sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ và Khối Đông Âu thay chế độ. Bây giờ, khi hàng ngàn người xuống đường ở Hồng Kông, ông có nghĩ đến năm 1989 không?
Phong trào của chúng tôi ở đây khá đặc biệt. Khác với phần lớn các nhà cách mạng, chúng tôi không định lật đổ chính quyền, không giành quyền lực cho bản thân. Nguyện vọng của chúng tôi là thực thi các luật chơi dân chủ và đối thủ của chúng tôi, tức phe thân Bắc Kinh, cũng được bầu một cách công bằng – mà trước khi phong trào này nổ ra thì phe đó rõ ràng chiếm phần thắng. Bây giờ, phe thân Bắc Kinh có thể không còn thắng hiển nhiên nữa, nhưng chắc vẫn đủ để thắng cử. Bốn, năm năm nữa, khi tất cả các sinh viên bây giờ đang biểu tình đủ tuổi cử tri thì có lẽ tình hình sẽ khác.
Những người từng tham dự vào cuộc phản kháng ở Thiên An Môn nay nhìn lại và hối tiếc, không chỉ về sự can thiệp tàn bạo của chính phủ khi đó mà còn về một số quyết định của chính mình.
Chúng tôi ý thức rất rõ những bài học từ Thiên An Môn. Trong phong trào của chúng tôi cũng có những nhóm tương đối cực đoan và những nhóm ít cực đoan hơn, một phần cũng vì chúng tôi thuộc những thế hệ khác nhau. Nhưng cũng chính vì thế mà chính quyền cần đưa ra được một giải pháp khiến tôi, thuộc thế hệ 50 tuổi, có thể thuyết phục được một em 25 tuổi, và em 25 tuổi lại thuyết phục được một em 17 tuổi.
Chàng thanh niên 17 tuổi Hoàng Chi Phong (Joshua Wong), bạn đồng hành của ông, đã kêu gọi Thủ tướng Đức Angela Merkel công khai ủng hộ những người biểu tình ở Hồng Kông [1].
Hoàng Chi Phong hoàn toàn có quyền làm thế. Cá nhân tôi thì sẽ không kêu gọi một chính phủ nước ngoài ủng hộ chúng tôi, vì chúng tôi coi Chiếm Trung là một phong trào thuần túy địa phương. Nhưng Đức là một quốc gia tự chủ và chắc chắn có một ảnh hưởng nào đó. Nếu chính phủ Đức quyết định lên tiếng ủng hộ chúng tôi thì chúng tôi rất hoan nghênh.
Nguồn: Spiegel Online, 10/10/2014
Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra
[1] Hôm
qua, 10/10/2014, khi sinh viên học sinh Hồng Kông lại xuống đường tiếp
tục biểu tình thì nhận lời mời của Thủ tướng Đức Angela Merkel, Thủ
tướng Trung Quốc Lí Khắc Cường dẫn đầu một phái đoàn chính phủ gồm 150
thành viên đã đến Berlin. Qua Bild, tờ báo đại chúng có số lượng ấn hành lớn nhất ở Đức, Hoàng Chi Phong đã kêu gọi bà Angela Merkel ủng hộ phong trào dân chủ tại Hồng Kông. Trong cuộc họp báo tại Berlin nhân cuộc gặp này, ông Lí Khắc Cường tuyên bố rằng
Hồng Kông là vấn đề nội bộ của Trung Quốc và nước ngoài không nên can
thiệp. Kim ngạch thương mại song phương Trung Quốc – Đức hiện đạt mức
140 tỉ Euro. Hai bên đã thông qua một kế hoạch hành động lâu dài, thống
nhất phương châm siết chặt quan hệ „đối tác công nghệ“, kí nhiều hợp
đồng thương mại, trong đó riêng hợp đồng Trung Quốc đặt mua 70 chiếc máy
bay Airbus A320 đã lên tới 5,5 tỉ Euro. Sau cuộc gặp mặt, bà Merkel đã
dẫn ông Lí đi siêu thị và mua tặng ông bưu thiếp, muối và ủng Ông già
Noel.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét