Các bài trong Blog được collect từ nhiều nguồn & các bài viết trong blog này không thể hiện quan điểm của chủ BLog!
Tổng số lượt xem trang
Thứ Năm, 9 tháng 10, 2014
Tìm hiểu Israel và dân tộc Do Thái
-Chống tham nhũng: Tập Cận Bình chùn bước trước hổ?
Đức Tâm – RFI
Ngày 15/11/2012, ông Tập Cận Bình (trái) ra mắt báo
chí trên cương vị lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc, ít tháng sau ông
phát động chiến dịch chống tham nhũng rộng lớn trong đảng.REUTERS/Carlos
Barria/Files
Hôm qua, 08/10/2014, chính quyền Bắc Kinh đã tổ chức lễ bế mạc chiến
dịch kéo dài 16 tháng nhằm tân trang lại hình ảnh của đảng Cộng sản
Trung Quốc và chính phủ, vốn bị hoen ố nghiêm trọng do nạn tham nhũng.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tỏ ra hài lòng về kết quả này,
thế nhưng, theo giới phân tích, dường như lãnh đạo Trung Quốc đã chùn
bước trước các con hổ lớn, hàm ý nói đến phát biểu của ông Tập Cận Bình
khi khởi xướng chiến dịch chống tham nhũng, khẳng định phải đập cả ruồi
lẫn hổ.
Tuy Chủ tịch Trung Quốc tuyên bố, việc « kết thúc chiến dịch không có nghĩa là chấm dứt phương pháp làm việc tốt » và « các kết quả đạt được mới chỉ là bước khởi đầu », nhưng, ngoại trừ một hai « con hổ lớn » đã bị sa cơ, từ nay, công cuộc chống tham nhũng của ông Tập Cận Bình sẽ không nhắm tới các con hổ khác.
Mang tên « chiến dịch vì đường lối quần chúng », một thành
ngữ được sử dụng từ thời Mao Trạch Đông để nhấn mạnh đến mối liên hệ
giữa đảng Cộng sản cầm quyền và người dân, chiến dịch này, theo Tân Hoa
Xã, đã cho phép giảm tới 8,6 tỷ đô la trong các chi phí công, xóa bỏ hơn
160 000 lao động giả, trả lương nuôi dưỡng các « quan chức ma »,
chấm dứt việc sử dụng 115 000 xe hơi công vào mục đích cá nhân. Đảng
Cộng sản Trung Quốc có 86 triệu đảng viên. Trong chiến dịch này, hơn 74
000 đảng viên đã bị kỷ luật vì vi phạm các quy định về sinh hoạt, sống
xa hoa.
Vẫn theo các nguồn tin Trung Quốc, chiến dịch này còn giảm được 586
000 cuộc họp chính thức, khoảng 25%, so với trước đây. Thành tích của
chiến dịch đã phơi bày trước ánh sáng một thực tế hiển nhiên : Theo xã
luận của tờ China Daily, các biện pháp này càng mang lại kết quả, thì
càng chứng tỏ Đảng và chính phủ rất tham nhũng.
Tính cho tới nay, chiến dịch chống tham nhũng đã « sờ gáy »
ít nhất 51 quan chức cấp tỉnh hoặc cấp bộ, trong đó có Chu Vĩnh Khang
(Zhou Yongkang), nguyên Thường vụ Bộ Chính trị và Từ Tài Hậu (Xu
Caihou), nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Quân ủy Trung
ương.
Thế nhưng, ngoài hai nhân vật này ra, không một ai trong số các quan chức loại « con ông cháu cha » bị dính lưới. Giới quan sát nhấn mạnh, sẽ không có thêm « các con hổ lớn » khác bị bắn hạ.
Theo một chuyên gia thuộc Đại học Khoa học Chính trị và Luật, Thượng
Hải, được South China Morning Post trích dẫn, « ông Tập Cận Bình sẽ
không nhắm vào bất kỳ một quan chức loại « con ông cháu cha » nào nữa
bởi vì họ đáng tin cậy hơn những quan chức khác », vốn xuất thân từ tầng
lớp dưới. Bản thân ông Tập Cận Bình cũng là loại « con ông cháu cha ». Bố của ông là Tập Trọng Huân (Xi Zhongxun), cán bộ lão thành của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Sáng kiến tổng kết phong trào vì đường lối quần chúng của Tập Cận
Bình diễn ra vào lúc đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị họp Hội nghị toàn
thể ban chấp hành Trung ương, từ 20 đến 23/10 tới đây, với chủ đề chính
là « pháp quyền ». Giới quan sát luôn luôn thận trọng khi nhận
định về chiến dịch chống tham nhũng của lãnh đạo Trung Quốc. Đương
nhiên, ông Tập đã đập được khá nhiều ruồi và một hai con hổ, giúp ông
củng cố quyền lực và có được sự ủng hộ của người dân.
Thế nhưng, ông không thể đi xa hơn, vì sẽ đụng chạm, đe dọa nền móng
của chế độ độc đảng lãnh đạo, như đồng nhiệm của ông Tập Cận Bình tại
Việt Nam là Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng đã
nhắc nhở, trong cuộc gặp cử tri của một số quận tại Hà Nội, ngày 06/10
vừa qua, « làm sao đánh con chuột nhưng đừng để vỡ bình ».
-Tham vọng và âm mưu chiến lược của TQ ở biển Đông
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-10-09
Trung Quốc đã hoàn thành việc xây dựng đường băng cho máy bay trên
đảo Yongxing (đảo Phú Lâm) thuộc quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông. Nguồn: Sina.com
http://www.rfa.org/vietnamese/manuallyupload/audio-player/player.swf Tân hoa xã vào ngày 7 tháng 10 vừa qua loan Trung Quốc vừa hoàn
thành đường băng dài 2000 mét trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa. Trong khi
đó lâu nay cũng có cảnh báo về mối nguy của việc Trung Quốc cho cải
tạo, xây dựng một số khu vực đảo đá mà họ chiếm được trước đây tại
Trường Sa thành căn cứ quân sự cả không và hải quân. Vậy đó là những mối nguy gì và phản ứng của một số nước chịu ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam ra sao? Chuẩn bị cho vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông?
Tờ PhilStar của Philippines số ra hồi ngày 30 tháng 9 trích dẫn phát
biểu của một quan chức cap cấp nước này nêu rõ hoạt động của Trung Quốc
cho cải tạo và xây dựng phát triển một số bãi đá đang tranh chấp tại khu
vực Biển Tây Philippines, ( mà Việt Nam gọi là Biển Đông) rõ ràng là
một phần của kế hoạch nhằm thiết lập một vùng nhận dạng phòng không ADIZ
tại khu vực này.
Vị quan chức này dẫn nguồn từ những nghiên cứu quân sự và công tác
giám sát lãnh thổ liên tục cảnh báo là Trung Quốc đang tiến rất gần đền
việc thiết lập sự kiểm soát hoàn toàn khu vực hiện đang có tranh chấp
với các nước khác gồm Philippines, Malaysia, Việt Nam, Brunei và Đài
Loan.
Theo vị quan chức phát biểu với PhilStar thì Trung Quốc đang chỉ chờ
hoàn tất các dự án phát triển căn cứ không quân và hải quân tại các bãi
đá ngầm Châu Viên, Tư Nghĩa, Gạc Ma, Ga ven ở Trường Sa trước khi tuyên
bố vùng nhận dạng phòng không tại khu vực này tương tự như vùng nhận
dàng phòng không họ tuyên bố hồi tháng 11 năm ngoái tại Biển Hoa Đông.
Hoạt động của Trung Quốc cho cải tạo và
xây dựng phát triển một số bãi đá đang tranh chấp tại khu vực Biển Tây
Philippines, ( mà Việt Nam gọi là Biển Đông) rõ ràng là một phần của kế
hoạch nhằm thiết lập một vùng nhận dạng phòng không ADIZ tại khu vực này
Tờ PhilStar của Philippines
Thạc sĩ luật Hoàng Việt, một chuyên viên nghiên cứu Biển Đông của
Việt Nam cũng nói về tham vọng của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông và
việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không tại đó như sau: Tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông rất lớn và họ không ngại,
không từ một thủ đoạn nào cả. Ngay cả vụ giàn khoan hồi tháng 5 đặt ngay
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, họ vẫn tuyên
bố với thế giới là Việt Nam quấy nhiễu, đe dọa họ. Điều đó cho thấy
Trung Quốc họ ‘đổi trắng, thay đen’ như thế nào! Nếu không ngăn chặn
được hành động của Trung Quốc tại Biển Đông thì hệ lụy là Trung Quốc lý
giải Công ước Liên hiệp quốc về luật biển theo hướng có lợi cho họ.
Trước đây Trung Quốc đã tuyên bố vùng nhận diện phòng không trên vùng
Senkaku tranh chấp với Nhật Bản, mặc dù vấp phải sự phản đối từ phía
Nhật và Hoa Kỳ là đồng minh thân cận của Nhật bản; nhưng Trung Quốc
không từ bỏ và nói bóng gió sẽ tuyên bố một vùng nhận diện phòng không
tương tự trên vùng Biển Đông. Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu thì trên
vùng Biển Đông rộng lớn hiện nay, Trung Quốc chưa thể thực hiện được,
nhưng nếu việc Trung Quốc cho xây dựng và xây dựng thành công các đá
trên Trường Sa thì có lẽ việc Trung Quốc tuyên bố vùng nhận diện phòng
không trên Biển Đông là một tương lai không xa. Tạo thế đứng chiến lược tại Biển Đông
Một chuyên gia quân sự tại Việt Nam là thiếu tướng Lê Mã Lương, anh
hùng lực lượng vũ trang, nguyên giám đốc Bảo tàng Quân sự Việt Nam, nói
về mối nguy mà những căn cứ quân sự của Trung Quốc tại Trường Sa sau khi
hoàn thành sẽ gây ra cho Việt Nam và các quốc gia trong khu vực: Việc Trung Quốc tiến thêm những hành động nguy hiểm như thế không
chỉ gây bất ổn cho Việt Nam mà cả khu vực Đông Nam Á. Bởi vì tham vọng
của Trung Quốc chúng ta đều biết và tham vọng ấy ngày càng bộc lộ rất rõ
rệt. Chính vì thế cho nên việc xây dựng các căn cứ quân sự, đặc biệt
những tuyến đường băng ở đảo Gạc ma, đảo Chữ Thập… để kết nối với đảo
Phú Lâm mà Trung Quốc đã chiếm trong những năm 50 của thế kỷ trước sẽ
tạo nên một quần thể cho các lực lượng máy bay Trung Quốc hoạt động. Bởi
vì nếu như Trung Quốc không xây dựng những sân bay này thì sẽ mất một
thời gian khá dài mới có thể kiểm soát được vùng Biển Đông thông qua lực
lượng không quân. Mà lực lượng không quân trên biển là cực kỳ quan
trọng.
Từ đảo Hải Nam mà xuống Trường Sa phải
bay hàng nghìn kilomet; như thế buộc phải tiếp dầu trên không cho các
máy bay chiến đấu…Vì thế cho nên tham vọng, âm mưu của Trung Quốc là xây
dựng các bãi san hô, bãi đá thành các đảo nhân tạo…khi xây dựng xong
rồi, kết nối thành một hệ thống đường băng và sân bay
thiếu tướng Lê Mã Lương
Trong khi đó từ đảo Hải Nam mà xuống Trường Sa phải bay
hàng nghìn kilomet; như thế buộc phải tiếp dầu trên không cho các máy
bay chiến đấu; nếu không các máy bay chiến đấu không thể bay về lại đảo
Hải Nam. Vì thế cho nên tham vọng, âm mưu của Trung Quốc là xây dựng các
bãi san hô, bãi đá thành các đảo nhân tạo. Việc này không phải mới lạ
gì nhưng với Trung Quốc thì cực kỳ nguy hiểm vì khi xây dựng xong rồi,
kết nối thành một hệ thống đường băng và sân bay như thế thì sẽ khống
chế toàn bộ tuyến chiến lược biển của Việt Nam ở Biển Đông, ảnh hưởng
đến phòng thủ của Việt Nam không chỉ ở Biển Đông mà cả ngay trên đất
liền. Nếu Trung Quốc tuyên bố khu vực cấm bay thì không chỉ Việt
Nam mà cả khu vực các nước Đông Nam á và eo biển Malacca cũng nằm trong
tầm ngắm của Trung Quốc. Phản ứng của Philippines và Việt Nam Philippines là quốc gia công khai lên tiếng nhiều nhất về những
hoạt động cải tạo và xây dựng tại Trường Sa. Theo các qui định của Liên
hiệp quốc cũng như những thỏa thuận giữa các nước trong khu vực như
Tuyên bố Ứng xử của các Bên tại Biển Đông năm 2002 thì việc Trung Quốc
trước đây sử dụng vũ lực để chiếm các đảo và đá tại Biển Đông đang tranh
chấp và nay tiến hành hoạt động phát triển các dự án căn cứ quân sự như
thế là hoàn toàn vi phạm.
Philippines đã kiện Trung Quốc ra trước
tòa án quốc tế về những đường đứt khúc mà Bắc Kinh vạch ra trên Biển
Đông mặc dù phía bị kiện không chịu tham gia
Tại khóa họp 69 Đại hội đồng Liên hiệp quốc ở New York vào cuối
tháng 9 vừa qua, Philippines tiếp tục chỉ trích Trung Quốc về những hành
động mà Manila cho là nguy hiểm, gây mất ổn định tại khu vực Biển Đông Sang đầu tháng 10, Philippines cho biết tổng thống nước này có
quyết định ngưng mọi kế hoạch xây dựng, trong đó có việc sửa chữa một
đường băng trên đảo Thị Tứ thuộc Trường Sa mà nước này đang chiếm giữ dù
có tranh chấp với các nước khác. Mục đích được nói nhằm duy trì đạo đức
trong tranh chấp lãnh thổ. Philippines đã kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về những
đường đứt khúc mà Bắc Kinh vạch ra trên Biển Đông mặc dù phía bị kiện
không chịu tham gia.
Sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD
981 vào khu đặc quyền kinh tế là thềm lục địa của Việt Nam, lúc được báo
chí quốc tế hỏi, ông Nguyễn Tấn Dũng nói rằng Hà Nội đã chuẩn bị sẵn
sàng bằng chứng và đang cân nhắc thời điểm khởi kiện
Thủ tướng Việt Nam khi có mặt tại Philippines hồi cuối tháng 5, sau
khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào khu đặc quyền kinh tế cà
thềm lục địa của Việt Nam, lúc được báo chí quốc tế hỏi, ông Nguyễn Tấn
Dũng nói rằng Hà Nội đã chuẩn bị sẵn sàng bằng chứng và đang cân nhắc
thời điểm khởi kiện. Tuy nhiên từ đó đến nay đã hơn 4 tháng vẫn chưa
thấy có động tĩnh gì về việc kiện tụng như thế.
Một chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông khác, tiến sĩ Lê Thu Hường tại
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore phát biểu về điều này như sau: Điều đó cần nghiên cứu sâu về mặt pháp luật trước. Tôi không biết
việc chuẩn bị hiện nay ở Việt Nam như thế nào, tôi có biết đội ngũ
nghiên cứu cũng rất tích cực và mạnh mẽ trong việc này; nhưng tôi không
rõ họ đầy đủ đến đâu và đang còn chờ đợi cái gì.
Tại diễn đàn Liên hiệp quốc, phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao
Việt Nam, Phạm Bình Minh cũng lên tiếng sau khi ngoại trưởng Vương Nghị
của Trung Quốc lên tiếng nói cần phải áp dụng luật lệ quốc tế để giải
quyết tranh chấp. Trong chuyến làm việc tại Hoa Kỳ vừa qua, ông Phạm
Bình Minh được cho là có những phát biểu mạnh mẽ đối với Trung Quốc.
-Tìm hiểu Israel và dân tộc Do Thái
Nghiencuuquocte
Tác giả: Hoàng Anh Tuấn
Trong các sắc dân trên thế giới, có lẽ hiếm có dân tộc nào chịu số
phận bị đọa đày, miệt thị và khổ ải như dân tộc Do Thái với hai lần
thiên di, lần thứ nhất bắt đầu vào năm 722 và lần thứ hai bắt đầu vào
năm 135 Trước công nguyên (BCE). Trải qua 21 thế kỷ lưu vong, tứ tán
khắp nơi và đến năm 1948 người Do Thái mới thực hiện được ước mơ “Phục
quốc” (Zionism), vốn được một nhà báo Do Thái gốc Áo-Hung khởi xướng tại
châu Âu từ năm 1896. Trong cùng cảnh ngộ tương tự, nhiều sắc tộc, dân
tộc khác trong cùng khu vực Lưỡng Hà đã bị tiêu vong hoặc đồng hóa từ
lâu. Nhưng ngược lại, mặc dù chịu những đau khổ, mất mát (như nạn diệt
chủng Holocaust của Đức Quốc xã rồi nạn lưu đày, trại tập trung) nhưng
người Do Thái không chỉ duy trì được tôn giáo, văn hóa, nòi giống, bản
sắc của mình, mà có những ảnh hưởng vượt trội trong cả khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội, đóng góp vào sự tiến bộ chung của nhân loại.
Với tổng số khoảng 14,5 triệu người sống rải rác tại 73 nước trên khắp
thế giới (trong đó riêng tại Israel là 6 triệu, ở Mỹ 5,6 triệu), người
Do Thái chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 0,2% tổng dân số thế giới. Tuy nhiên,
trong số những người nhận được giải thưởng Nobel trong các lĩnh vực vật
lý, hóa học, kinh tế và y tế từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nhà khoa học
gốc Do Thái đến từ các quốc gia khác nhau đoạt được khoảng 30% tổng số
giải thưởng trên.
Về địa hình, địa thế, Israel nằm ở vị trí hết sức khắc nghiệt, khác với hầu hết các quốc gia khác trên thế giới:
Israel nằm ở ngã ba của 3 châu lục (châu Á, châu Phi, châu Âu), là
mục tiêu “chinh phạt” trong suốt gần 3000 năm qua của hàng chục đế chế
châu Âu, Trung Đông, từ đế quốc La Mã, Assyria, Ottoman và gần đây nhất
là Anh do có thành phố Jerusalem mà 3 tôn giáo lớn trên thế giới (Thiên
Chúa giáo, Do Thái Giáo và Hồi giáo) đều coi là nơi đạo của mình sinh ra
và “phát tích”;
Thiên nhiên của Israel hết sức khắc nghiệt. Là quốc gia chỉ có diện
tích trên 20,000 km2 (bằng hai phần ba diện tích đảo Hải Nam), mà Israel
có tới 60% là sa mạc, lượng mưa trong năm vào khoảng 50mm, tức bằng
1/30 của Việt Nam;
Dân số Israel chỉ có 8 triệu người (trong đó có 6 triệu người Do
Thái), nhưng lại bị tứ bề bao vây bởi 300 triệu dân Hồi giáo Ả-rập thù
địch.
Sau hàng ngàn năm lưu lạc, khi được Liên Hợp Quốc trao quyền lập quốc
năm 1948, những người Do Thái từ khắp nơi quay trở về cố quốc, giành
giật từng tấc đất “chó ăn đá, gà ăn sỏi” với người Ả-rập. Cũng từ đây họ
có cơ hội sử dụng tư chất Do Thái của mình để bảo vệ Đất Thánh (Holy
Land), bắt đầu tiến trình được “chúa giao phó” nhằm cải tạo mảnh đất khô
cằn này thành Miền Đất hứa (Promised Land) như trong Kinh Thánh Do Thái
và bắt mảnh đất này “nhả kim cương”, chứ không phải nhả vàng!
Trên vùng đất khô cằn và thiếu nước này, người Do Thái đã cải tạo và
biến Israel trở thành “ốc đảo”, là “vườn rau” của châu Âu trong mùa đông
với một nền nông nghiệp có năng suất và hiệu quả cao nhất thế giới. Với
một số dân làm nông nghiệp ít ỏi (chỉ 2,5% trên tổng số gần 8 triệu
dân), Israel không chỉ tự túc “an ninh lương thực”, cung cấp đủ lương,
thực phẩm chất lượng cao cho mình, mà mỗi năm nông nghiệp đem về 3,5 tỷ
USD từ xuất khẩu. Một ha đất nông nghiệp của Israel có thể trồng được
tới 300 tấn cà chua bi, còn “Cô gái Do Thái” (bò Israel) cho ra sản
lượng sữa tới 12 tấn/năm, so với 9 tấn của “Cô gái Hà Lan”.
Một số nguyên nhân chính:
Khoa học nông nghiệp phát triển: Các nhà khoa học Do Thái nghiên
cứu, lai tạo các cây trồng thích hợp với thổ nhưỡng khắc nghiệt (chịu
nhiệt độ cao, khô cằn cần ít nước), nhưng lại cho năng suất cao;
Sử dụng có hiệu quả và triệt để “vàng trắng” là nước. Israel là nước
đi đầu trên thế giới về công nghệ tái sử dụng nước (khoảng 70% lượng
nước đã qua sử dụng); công nghệ biến nước biển thành nước lợ hoặc nước
ngọt; công nghệ tưới nhỏ giọt (họ không dùng tưới phun vì lãng phí
nước). Chẳng hạn, nước biển được dẫn vào các trang trại nuôi cá nước lợ
(sau khi đã khử độ mặn); còn nước nuôi cá lại được tái sử dụng để tưới
cây. Hệ thống tưới nước nhỏ giọt với các đường ống dẫn nước tới từng cây
trồng trong với hệ thống máy tính đo độ ẩm, mức độ hấp thụ của cây để
tự động điều chỉnh lượng nước tưới nhỏ giọt cho phù hợp.
Sức mạnh quốc phòng và ảnh hưởng của Israel
Nói đến bảo vệ đất nước Israel trong môi trường khắc nghiệt như vậy
thì không thể không kể đến sức mạnh quốc phòng và ngành công nghiệp quốc
phòng của nước này. Israel hiện được xếp trong số 10 quốc gia có sức
mạnh quốc phòng lớn nhất thế giới, nhưng lại có ngân sách quốc phòng ở
mức thấp nhất trong các nước này (15 tỷ USD/năm).
Để dễ hình dung, mặc dù dân số chỉ bằng khoảng 1/8 dân số nước Anh và
ngân sách quốc phòng hàng năm chỉ bằng 1/3 của Anh, nhưng Israel có sức
mạnh không quân đứng thứ tư thế giới, tương đương như của Anh. Như vậy
nếu tính hiệu quả/số tiền chi cho quốc phòng (nói theo cách của Mỹ là
“More Bang For the Buck”), thì Israel có thể là số 1 thế giới.
Tạm gác một bên con số thương vong của Israel và Hamas, trong cuộc
chiến vừa qua, cả thế giới đều kinh ngạc khi chứng kiến tính hiệu quả
của hệ thống đánh chặn tên lửa Mái Vòm (Iron Dome) khi chặn được tới 90%
tên lửa của Hamas bắn sang Israel và gần 7000 tên lửa của Hamas bị phá
hủy (cả do bị không quân Israel không kích nữa) có tầm bắn bao phủ 50%
lãnh thổ và 80% dân số của Israel. Mặc dù ở ngay sát cạnh Gaza, nhưng
tên lửa của Hamas bắn sang chỉ gây thương vong cho 6 dân thường (trong
đó có 1 người Thái) và toàn bộ các hoạt động kinh tế khác của đất nước
Israel, cũng như sinh hoạt của người dân nước này hầu hết không bị ảnh
hưởng và vẫn diễn ra bình thường.
Mặc dù là đồng minh số 1 của Mỹ ở Trung Đông và thế giới, Israel vẫn
cho rằng phải tự lực tự cường về quân sự, với chính sách quốc phòng
riêng và dựa vào sức mình là chính. Để có sự “độc lập” tối đa, Israel
không ký bất kỳ hiệp ước liên minh nào với Mỹ. Ngay cả hệ thống phòng
chống tên lửa Patriot của Mỹ khi đưa sang Israel trong cuộc chiến Vùng
Vịnh II để chặn tên lửa Scud của Iraq, Israel cũng thấy bất cập vì
Patriot gần như bất lực và quá tốn kém khi đối phó với các tên lửa “tự
chế” của Hamas.
Một số điểm nổi bật:
Ba tổ hợp quân sự của Israel là Elbit System, Israeli Aerospace
Industries và Rafael nằm trong số 100 công ty sản xuất vũ khí lớn nhất
thế giới. Israel xuất khẩu tới 90% vũ khí sản xuất và hàng năm thu về 3
tỷ USD từ xuất khẩu vũ khí;
Các vũ khí của Israel thường được tích hợp rất nhiều tính năng về
tầm bắn, mức độ công phá, khả năng sát thương… so với các vũ khí tương
tự như của Mỹ, Nga và quan trọng là giá cả lại cạnh tranh hơn rất nhiều.
Lấy súng tiểu liên GALIL của Israel so với AK47 làm ví dụ. Đạn sử dụng
cho GALIL có đường kính 5,56mm, so với 7,2 mm của AK47, mức độ giật thấp
hơn (dễ sử dụng cho lính nữ, mà lính nữ Israel khá đông), điều đó cho
phép người lính khi ra trận mang được cơ số đạn nhiều hơn. Theo “triết
lý” của người Israel, tuy mức sát thương của GALIL không cao như AK47,
nhưng lại có hậu quả lớn. Một là, khi ít người bị chết trận trong chiến
tranh thì sự lên án và sức ép quốc tế giảm; Hai là, khi có người lính bị
chết thì thông thường đối phương sẽ bỏ lại, nhưng nếu có người lính bị
thương thì cần 2, 3 đồng đội dìu và do đó sẽ làm giảm sức chiến đấu của
đối phương hoặc tạo ra mục tiêu mới để tiêu diệt; Ba là, làm cho đối
phương chịu các hệ quả xã hội lâu dài khi chăm sóc thương binh (vì nếu
lính tử thương thì chỉ lo môt lần), và do đó các tiếng nói phản chiến,
hoặc gánh nặng xã hội từ bên đối phương sẽ khiến họ phải cân nhắc nhiều
hơn các quyết định chiến tranh sau này.
Tuy dân số ít, nhưng Israel duy trì được quân số thường trực khá lớn
nhờ có luật nghĩa vụ quân sự bắt buộc đối với cả nam (36 tháng) và nữ
(24 tháng) – trừ những người Israel gốc Arab hoặc một số ít người được
miễn vì lý do tôn giáo, và những người đã khi phục vụ nghĩa vụ quân sự
xong đều được đưa vào danh sách lính dự bị. Trong quân đội Israel, lính
nữ có vai trò thực sự chứ không phải “lính cảnh” khi họ góp tới 1/3 quân
số, chiếm tới 51% tổng số sĩ quan. Đây có thế không hẳn là điểm yếu. Do
hầu hết những người trưởng thành ở Israel được tôi luyện trong môi
trường quân đội, huấn luyện bài bản về bản lĩnh, tính kỷ cương, và sự
quyết đoán, nên tác phong này lan tỏa trong toàn bộ xã hội ở khía cạnh
tích cực nhất.
Việc người Do Thái có các nhóm vận động và tác động vào nền chính Mỹ
rất mạnh là điều hiển nhiên, và mọi người đều biết. Các nghị sĩ gốc Do
Thái thống thường chiếm khoảng 10% trong tổng số 534 nghị sĩ Mỹ và nhiều
chính trị gia tầm cỡ gốc Do Thái như cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger,
ứng cử viên tổng thống Joe Lieberman… có ảnh hưởng lớn đến các quyết
sách của Mỹ đối với Israel và an ninh của Israel.
Tuy nhiên, có điều ít người biết về quy tắc “không thành văn” là để
vào được vòng cuối, các ứng cử viên Tổng thống Mỹ ngoài việc phải tuyên
thệ trung thành với Mỹ, họ phải thuộc nằm lòng câu sẽ bảo vệ an ninh của
Israel và thúc đẩy quan hệ đồng minh Mỹ-Israel sau khi đắc cử. Nói đúng
nghĩa thì đó là sự vận động “ngược” để được các nhóm vận động Do Thái
hậu thuẫn. Nếu không, chắc chắn họ sẽ bị đánh bật từ “vòng gửi xe”.
Không chỉ có vậy, báo chí, và các nhóm vận động có ảnh hưởng của
người Do Thái còn “soi” rất kỹ tiểu sử và các phát ngôn của các lãnh đạo
cấp cao trong tương lai nữa xem họ có thực sự nghĩ và làm đúng như điều
họ nói không. Gần đây nhất, cựu Thượng nghị sĩ Chuck Hagel suýt bị
Thượng viện Mỹ (mà hầu hết là “đồng nghiệp” khi Hagel làm Thượng nghị
sĩ) cho “té đài”. Số phiếu Thượng viện bỏ cho Hagel với cương vị Bộ
trưởng Quốc phòng là 56/100 trong khi theo quy định phải là 60/100 và
cuối cùng các nghị sĩ phải “sửa” quy định bỏ phiếu thì Hagel mới
“thoát”. Chả là khi còn là Thượng nghị sĩ của Nebrasca, có lần “nóng
mắt” vì sự lộng hành của các Nhóm vận động Do Thái mà Hagel buông ra
câu: “Tôi không phải là Thượng nghị sĩ Israel, mà là Thượng nghị sĩ Mỹ”
(nguyên văn: I am not an Israeli Senator, I am a United States Senator)! “Chủ nghĩa xã hội” kiểu Israel
Tư tưởng “xã hội chủ nghĩa” như tự do, bình đẳng, bác ái in rất đậm
nét trong tư duy, nền tảng chính trị và xã hội của Israel. Khi tiếp xúc
với các giới khác nhau của Israel như như học giả, nhà ngoại giao, kinh
tế gia và quan chức chính quyền, họ không những không phủ nhận, mà còn
rất tự hào về điều này. Về hình thức có thể thấy như sau: Một là, các Kibbudz (Công xã của người Do Thái), tương tự
như một số “anh em” ở các nước khác như Nông trang tập thể (Liên Xô cũ);
Công xã nhân dân (Trung Quốc) hay hợp tác xã của ta. Trong khi hầu hết
những người anh em khác đều đã “thăng thiên” thì Kibbudz vẫ sống khỏe,
và đang chuyển mình rất mạnh từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang
mô hình quản lý hiện đại, có các trung tâm nghiên cứu, sản xuất các mặt
hàng công nghệ cao, thiết bị quốc phòng… Hiện tại ở Israel có khoảng 270
Kibbudz, thu hút 100.000 người sinh sống, đóng góp khoảng 12% sản phẩm
công nghệ cao và 40% sản lượng nông nghiệp xuất khẩu của Israel.
Các Kibbudznik là những cư dân sống trong các Kibbudz trên cơ sở tự
nguyện, không có bất kỳ sở hữu riêng mà làm chung, hưởng chung, sinh
hoạt chung và được Kibbudz cung cấp nhà cửa, chăm sóc y tế, trông giữ
con cái. Nếu muốn, bất kỳ người Israel nào cũng có thể “làm đơn” xin vào
Kibbudz nếu chấp nhận các nguyên tắc, luật lệ chung (do từng Kibbudz
đặt ra), ngoài ra họ có thể dời bỏ các Kibbudz bất kỳ lúc nào nếu cảm
thấy không còn phù hợp. Hai là, Công đảng Israel (đảng của người lao động, có nhiều
thiên hướng xã hội chủ nghĩa) được sáng lập bởi những người Do Thái trở
về từ Liên Xô khi Nhà nước Do thái ra đời năm 1948. Do đó, họ mang nặng ý
thức hệ và chịu ảnh hưởng bởi ý thức hệ chủ nghĩa xã hội từ Liên Xô. Từ
năm 1948-1977, Công đảng đóng vai trò chi phối hệ thống chính trị
Israel, và vai trò “độc quyền” này chỉ bị Đảng Likud “hạ bệ” vào năm
1977. Ba là, trong giai đoạn 1948-1977, vai trò của nhà nước và
các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chi phối nền kinh tế Israel. Sở
dĩ nhà nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn là do ngoài ý
thức hệ, Israel còn được nhận khoản tiền bồi thường rất lớn từ nước Đức
do gây ra nạn diệt chủng Holocaust nên dễ bề thao túng chính sách. Tuy
nhiên, từ giữa những năm 1970, cùng với sự thay đổi chính trị, kinh tế
cũng có những thay đổi theo hướng thị trường với sự ra đời của các doanh
nghiệp tư nhân và tiến trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Các
đồng nghiệp Israel cho biết, khi sinh thời, Thủ tướng và người sáng lập
Nhà nước Do Thái David Ben Gurion rất ngưỡng mộ Hồ Chủ Tịch và phong
trao đầu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Còn các Tưỡng lĩnh Israel
thì coi Võ Nguyên Giáp là nguồn cảm hứng.
Về nguồn gốc tư tưởng “xã hội chủ nghĩa” của người Do Thái, nhiều
đồng nghiệp Israel cho rằng có thể lần ngược đến thời kỳ Kinh Thánh ra
đời, và trong kinh thánh tiếng Hebrew của người Do Thái đã ghi rõ cả
việc đối xử bình đẳng, không chỉ giữa người với nhau, mà còn với cả nô
lệ và súc vật nữa. Ngoài ra, suy nghĩ đó còn được hình thành một cách
bản năng, ẩn sâu trong suy nghĩ của họ xuất phát từ việc trong hơn 2000
năm chịu thân phận lưu vong, hèn mọn. Do điều kiện sống khắc nghiệt, lại
bị miệt thị, khinh rẻ, trong khi phải “chiến đấu” để bảo vệ bản sắc và
tôn giáo Do Thái của mình, nên người Do Thái không có cách nào khác hơn
là phải sống nương tựa vào nhau, an ủi nhau, cũng chịu “thử thách của
chúa” cho đến “ngày trở về Jerusalem”. Vấn đề bảo vệ nguồn nước
Hiện nay ở phương Tây, và kể cả Việt Nam nữa, đang có phong trào
thách đố nhau tự dội nước đá vào đầu (Ice Bucket Challenge) để góp tiền
chữa trị bệnh ALS và để thử thách lòng “can đảm” của nhau (mặc dù ở ta
mới thấy có một số người dội nước nhưng chưa thấy đóng tiền, có thể vì
chẳng biết đóng ở đâu, đóng cho ai và tiền đó có đến tay bệnh nhân ALS
hay không…!). Đặt câu chuyện này trong xã hội Israel thì thấy có phần
“nhảm nhí”, cả người khởi xướng và người thực hiện có thể phải “ngồi bóc
lịch”, bởi lẽ:
Do nước là “vàng trắng”, nên Israel là một trong rất ít nước có luật
ghi rất chặt chẽ về việc sử dụng nước, phạt rất nặng các hành vi gây ô
nhiễm nguồn nước và sử dụng nước lãng phí;
Cả nước Israel có một hồ nước ngọt duy nhất là Hồ Galile, còn sông
Jordan gần như đã cạn kiệt và có thể “nhảy” qua được ở đáy sông vào bất
kỳ mùa nào trong năm. Khi làm việc với Đại sứ Dore Gold, Giám đốc Trung
tâm nghiên cứu các vấn đề công cộng Jerusalem (nguyên Đại sứ Israel tại
Liên Hợp Quốc và cố vấn an ninh và đối ngoại của Thủ tướng Netanyahu),
bạn cho biết tất cả các báo lớn trong nước sẽ chạy tít hàng đầu nếu có
tin mực nước Hồ Galile thấp hơn khoảng 1cm so với năm trước, và cả nước
sẽ hân hoan, sung sướng nếu nghe tin nước Hồ Galile cao hơn chỉ 0,5cm!
Có điều khá ngạc nhiên là ngay cả khi thực hiện chiến dịch
Protective Edge chống Hamas vừa qua, Israel không cắt nước và cắt điện
cung cấp cho Dải Gaza (phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung của Israel),
mặc dù điều này có thể khiến việc chống Hamas dễ dàng hơn vì sợ sẽ gây
thảm họa nhân đạo.
Việc thực hiện “Ice Bucket Challenge” không chỉ gây lãng phí nước, mà còn cả lãng phí điện (để làm lạnh nước nữa);
Lập luận của người Do Thái là: Một, nếu thực sự quan tâm thì cứ đóng tiền, chứ sao phải dội nước. Hai, còn có rất nhiều hình thức khác vừa “vui nhộn”, vừa tạo sự quan tâm hơn của cộng đồng, mà không cần phải dội nước. Ba,
tại sao lại tập trung dồn tiền cho nghiên cứu ALS lớn đến như vậy vì
trên thế giới cứ 6000 người, mới có một người mắc ALS. Tạo sao lai không
dành tiền và nguồn lực để tạo sự quan tâm của cộng đồng cứu chữa những
căn bệnh khác còn nguy hiểm hơn nhiều, như Ebola chẳng hạn. Và còn rất
nhiều các lập luận khác nữa. Điều đó, cho thấy trong văn hóa tranh luận
và chính trị của người Do Thái, họ luôn nhìn vấn đề từ rất nhiều các góc
độ khác nhau để tìm vấn đề và đưa ra giải pháp. Quốc gia khởi nghiệp
“Quốc gia khởi nghiệp: Câu chuyện về sự thần kỳ kinh tế của Israel”
(nguyên văn: Start-up Nation: The Story of Israel’s Economic Miracle) là
cuốn sách của tác giả Dan Senor và Saul Singer in năm 2009 và được khá
nhiều người Việt biến đến với bản dịch tiếng Việt in sau đó. Khi đặt
chân đến đất nước này, cảm nhận về “quốc gia khởi nghiệp” ngày một rõ
nét hơn. Trong trao đổi, các quan chức của bạn nhắc không dưới 15 lần
với sự tự hào và kiêu hãnh. “Start-up nation” không chỉ gợi cho mọi
người thấy về một đất nước Israel non trẻ, khao khát vươn lên; là nơi
các công ty khởi nghiệp (chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ cao) chen
vai thích cánh; mà còn là cách biểu đạt mới để định vị Israel trên bản
đồ công nghệ của thế giới. Start-up Nation không chỉ là câu nói xuông,
mà là khẩu hiệu hành động của chính phủ; sự hỗ trợ của cộng đồng và
thiết chế; và sự hưởng ứng của trí thức/giới doanh nhân trẻ tạo sự đột
phá cho Israel.
Israel chọn hướng đi với thương hiệu “Start-up Nation” là có những lý do riêng của mình:
Là nước nhỏ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và không có tài
nguyên, nên muốn vươn lên thì Israel không có cách nào khác hơn là phải
dựa vào nguồn chất xám, đầu tư cho nghiên cứu khoa học và tập trung vào
các ngành mũi nhọn có khả năng sinh lời “vô hạn”. Chính sách này được
Israel thực thi từ khi lập nước, nhưng chỉ mới thực sự đẩy mạnh từ cuối
những năm 1970 đến nay. Technion, tức Viện công nghệ Israel (Israel
Institute of Technology) có thể sánh ngang với MIT của Mỹ, còn các
trường Hebrew University, Tel Aviv University, Ben Gurion University
cũng được xếp vào hàng 50 trường Đại học tốt nhất thế giới. Tỷ lệ số
người có bằng đại học/tổng số nhân lực tại Israel là 24,5%, cao vào hàng
thứ ba thế giới (sau Mỹ và Hà Lan). Hầu hết các “đại gia” phần mềm,
công nghệ lớn của thế giới như Apple, Google, Microsoft đều có chi nhánh
nghiên cứu, phát triển sản phẩm tại Israel để tận dụng nguồn chất xám
có chất lượng tại nước này
Người Israel luôn có hàng núi các “ý tưởng”: Trong thời đại ngày nay
sức mạnh để cho bất kỳ cá nhân, thiết thế, đất nước đi lên phải bắt đầu
từ việc “đẻ” ra càng nhiều ý tưởng mang tính táo bạo, đột phá càng tốt.
Cái này cũng giống như câu các cụ nhà ta đúc kết từ lâu: “một người
biết lo bằng kho người biết làm”, nhưng chưa được hậu duệ học và làm đến
nơi đến chốn. Quả thực, trong thời đại ngày nay, cái quan trọng tạo ra
sự khác biệt, tạo ra sự bứt phá là phải là ý tưởng, hiện thực hóa ý
tưởng và kinh doanh ý tưởng. Nếu có ý tưởng tốt thì hoàn toàn có thể
thuyết phục và thu hút vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm. Thiếu lao động
thì có thể ra thị trường trong hoặc ngoài nước thuê mướn. Nhưng không có
ý tưởng táo bạo thì chỉ nội đi làm, gia công thuê đến bị vắt kiệt sức
cũng không đủ ăn.
Phù hợp với đặc tính đất nước Israel là nhân lực có hạn, nhưng lại
rất thông minh và trong kỷ nguyên kỹ thuật số (Digital Era) thì cái
chính là có lực lượng “tinh” và “chuyên” , chứ không phải là “lượng”.
Các công ty “Start-up” về công nghệ khác với các công ty sản xuất và
dịch vụ là thường sử dụng rất ít lao động (khoảng từ 8-25, và tối đa là
40-50 người), chủ yếu là các kỹ sư mới ra trường. Tuy gọi là mới ra
trường, nhưng kỹ sự của Israel thường “già dặn” hơn kỹ sự trẻ mới ra
trường của các nước khác cả về tuổi đời lẫn sự từng trải do hầu hết sinh
viên Israel đều trải qua đời quân ngũ trước khi vào đại học. Sự kết hợp
hoàn hảo giữa sự chín muồi về tuổi tác, bản lĩnh “gan lì” của người
lính, tính sáng tạo của một nhà khoa học, sự khao khát tìm lợi nhuận hầu
như đều tồn tại trong mỗi CEO của các công ty Start-up và do vậy giúp
họ vững tin trước các sóng gió trên thương trường.
Các kỹ sư công nghệ sau khi tốt nghiệp ra trường đều được khuyến
khích cả tài chính lẫn chính sách để mở các công ty Start-up, và được
khích lệ bởi các tấm gương thành công như phần mềm dẫn đường WAZE bán
lại cho Google được 1,3 tỷ USD. Nếu như thất bại, các kỹ sư trẻ này đi
làm cho các công ty đa quốc gia ngay tại Israel hay làm việc tại nước
ngoài. Sau một thời gian tích lũy cả thêm kinh nghiệm và xây dựng các
công ty mới, và lần này khả năng thành công của họ lớn hơn rất nhiều. Ở
Israel, Văn phòng khoa học gia trưởng OCS (Office of the Chief
Scientist) thay mặt chính phủ xem xét va quyết định hồ sơ vay vốn ưu đãi
của các công ty khởi nghiệp vì nhiều ngân hàng sợ rủi ro không dám đầu
tư và số tiền này có thể lên tới 500.000 USD. Đầu tư cho chính phủ dành
cho các công ty khởi nghiệp ở Israel tính theo đầu người hiện vào khoảng
270 USD (mức cao nhất thế giới), so với 170 USD của Mỹ. Trong hầu hết
các trường hợp OSC chọn cách đầu tư, và hy vọng nếu công ty khởi nghiệp
thành công thì họ sẽ thu vốn và lời từ bán cổ phần, còn nếu công ty thất
bại thì họ coi đó là một khoản đầu tư rủi ro. Bên cạnh đó, hiện rất
nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm tiến hành đầu tư vào các công ty khởi nghiệp
Israel theo hình thức trên. Nếu tính theo số tiền đầu tư/đầu người, số
tiền Israel thu hút được từ các quỹ mạo hiểm này lớn gấp 30 lần so với
châu Âu.
Di sản lịch sử
Đến Jerusalem, thăm khu phố cổ (chỉ vẻn vẹn 1km2), được nghe và xem
về các bằng chứng lịch sử khu vực này trong suốt trên 3000 năm mới cảm
nhận được tính phức tạp của các vấn trong nội bộ một tôn giáo, giữa ba
tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa và Đạo Hồi) với nhau, và các biến động
lịch sử, các cuộc chiến tôn giáo, rồi các cuộc thay ngôi, đổi chủ. Chẳng
hạn:
Bất cứ một con đường, một nhà thờ, một ngôi nhà, một khu dân cư… đều
đậm nét lịch sử hình thành và tồn tại riêng. Các bằng chứng khảo cổ học
trong khu Thành cổ không chỉ trùng khớp với những gì ghi trong kinh
thánh của cả 3 tôn giáo, mà còn ẩn chứa trong đó các giai tầng văn hóa,
lịch sử tầng tầng, lớp lớp;
Ba tôn giáo lớn (Do Thái, Thiên chúa và Đạo Hồi) tuy kình chống nhau
quyết liệt, nhưng vẫn tìm cách chung sống hòa bình. Như căn phòng có
bữa tiệc cuộc cùng (trước khi Đức chúa bị hành hình) không chỉ có các
kiến trúc của đạo Thiên chúa, mà còn các dấu ấn Hồi giáo như nơi làm lễ
hướng về Mecca của người Hồi giáo. Ví dụ, như ngay phía dưới căn phòng
này là Mộ của Vua David – Vị Vua có công thống nhất đất nước Do Thái.
Với cả 3 tôn giáo đều có sự hiện diện trong căn phòng và tòa nhà này,
vậy nếu phân chia sở hữu thì sẽ chia như thế nào? Một ví dụ khác là Nhà
thờ Hồi giáo mái vàng (Dome of the Rock) được xem là một trong 3 nơi
thiêng liêng của người Hồi giáo, nhưng lại đươc xây trên tảng đá linh
thiên của người Do Thái ngay sau khi Ngôi đền của họ bị “đốt”.
Việc thảo luận về quy chế của Jerusalem không thể chỉ diễn ra giữa
Palestine và Israel, mà còn phải tính đến thái độ của cả 1 tỷ người theo
đạo Thiên chúa sống rải rác khăp nơi trên thế giới vì họ cũng coi đây
là “đất tổ” của mình. Đáng chú ý là ngay Nhà thờ Mộ chúa trong thành cổ
Jerusalem có tên là “Church of the Holy Sepulchre”, gồm 6 nhánh của
Thiên chúa giáo như Nhà thờ Ethiopia, Nhà thờ Ai cập, Nhà thờ chính
thống Armenia hay Nhà thờ chính thống Nga… Như vậy, để hiểu được văn hóa
chính trị Trung Đông thì điều cốt yếu là phải hiểu được các vấn đề tôn
giáo ở khu vực.
Trở lại vấn đề Israel, hầu hết những người nghiên cứu chính trị
Israel, nắm được tư duy Do Thái, và tính phức tạp trong cấu trúc kinh
tế, chính trị, xã hội và tôn giáo Israel đều có nhận định chung là: tuy
chỉ có hơn 8 hơn triệu dân, nhưng hệ thống chính trị của Israel được xem
là hệ thống chính trị phức tạp nhất thế giới. Điều này là do:
Người Do Thái rất thông minh, rất nhiều ý kiến;
Cấu trúc hệ thống chính trị Israel buộc các chính trị gia phải tiếp
xúc, lắng nghe và đưa tiếng nói của người dân (hoặc các đại diện của
người dân) khi ra các quyết sách;
Bất kỳ người Israel nào cũng cho rằng mình có khả năng nắm cương vị
cao nhất của đất nước. Họ thậm chí còn chất vấn gay gắt ông Thủ tướng về
các quyết định của mình, cho rằng “ông Thủ tướng cũng đi tỵ nạn ở châu
Âu như chúng tôi, vậy tại sao ông ấy lại gạt bỏ chúng tôi trong các
quyết định của mình”.
Trước đây khi đọc câu nói của bà Golda Meir (vị nữ Thủ tướng dân cử
thứ ba của thế giới) khi gặp Tổng thống Nixon rằng, “ông là Tổng thống
của 150 triệu dân, còn tôi là Thủ tướng của 6 triệu Thủ tướng” thì chưa
thực sự biết hàm ý câu này. Giờ mới thấy rõ ý câu này là làm chính trị ở
Israel khó hơn ở Mỹ và Mỹ không nên hiểu, không ép Israel một cách quá
mức. TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và
Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép
đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới
Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ
quan nơi tác giả công tác.
Giải mã sự thành công của Israel và người Do Thái
Tác giả: Hoàng Anh Tuấn
Thành công của người Do Thái nhiều người đã biết, đã nghe từ lâu và
có thể kể cả ngày, cả tháng cũng không hết. Là người đã tìm hiểu câu
chuyện này cả chục năm nay, càng đi sâu tìm hiểu về những thành công của
Israel và người Do Thái, tôi càng thấy phức tạp nhưng cũng hết sức thú
vị. Chuyến đi Israel lần này, ngoài các công việc thường lệ, rất nhiều
cuộc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với nhiều người, nhiều giới, nhiều nơi
khác nhau giúp tôi kiểm chứng, củng cố thêm các nhận định trước đây của
mình; biết thêm nhiều vấn đề mới; đồng thời cũng xóa bỏ một số các định
kiến một chiều, phiến diện.
Có rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong suốt quá trình tìm hiểu để có câu trả lời thấu đáo, đại loại như:
1. Tại sao chỉ chiếm một phần nhỏ của dân số thế giới, nhưng người Do
Thái lại có sự thông tuệ vượt thời gian, hơn hẳn các dân tộc khác trên
thế giới? Nếu tính theo chỉ số IQ, chỉ số trung bình của người Do Thái
là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới. Tuy mức chênh lệch IQ
chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người có IQ 110 cao
hơn nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!
2. Phải chăng người Do Thái có “gien” thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời này qua đời khác?
Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên cứu để tìm
câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại “bác bỏ” điều nay,
cho rằng sở dĩ người Do Thái thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt
buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích nghi với
hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?
3. Nếu như có “gien” Do Thái như vậy thì “gien” này được “lưu giữ” và
phát triển ra sao từ thời “Cụ Tổ” của người Do Thái đến nay và trong
hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu thực?
Người Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ của mình là ông Abraham (và
cũng là của người Hồi giáo – Người Hồi giáo gọi là Ibrahim) ra đời cách
đây khoảng 4000 năm, và Nhà Tiên tri Moses, ra đời cách đây khoảng 3600
năm. Ông Mosses đã dẫn dắt các nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập
và đến khu vực Bắc Israel hiện nay, thống nhất 12 bộ lạc khác để lập ra
nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế
giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái. Để
dễ hình dung, nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel,
chẳng hạn Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc,
nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán,
nước Trung Quốc và Đạo Khổng.
4. Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel, Palestine,
Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq vốn
trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc Do Thái với các
bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau
như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng
ven biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa
trời. Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586
trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh
Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là
đất thiêng của mình.
Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa,
hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy
rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc
truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?
5. Tại sao người Do Thái lại có truyền thống hiếu học và tỷ lệ biết
chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời? Tại sao người Do Thái lại
đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên, luật,
khoa học chính trị, công nghiệp giải trí…?
Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết biết đọc
biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái cũng có tỷ lệ biết
đọc, biết viết cao hơn người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng
cả châu Âu chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số.
Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người Do Thái gần như độc quyền
trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng nguyên tử, thậm chí thời kỳ đó
người ta còn gọi ngành khoa học này là “ngành khoa học Do Thái”.
Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện học hành
của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam, cũng vậy và có thể kể ra
không ít các tấm gương thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn
sàng bán nhà, bán cửa để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên
đạt đến đỉnh cao trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và
rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại là một câu
chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người Do Thái làm được chuyện đó?
6. Trên thế giới đã từng có dân tộc nào bị trục xuất, sống lưu vong
trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc, tiếng nói, chữ viết và tập
tục của mình như người Do Thái không?
7. Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo sĩ và những người Do Thái chính
thống là những người có địa vị và tiếng nói quan trọng trong xã hội.
Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy trì tập tục, bản sắc và “nòi
giống” Do Thái?
8. Tại sao mô hình Kibbudz của người Do Thái lại thành công và có sức
sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại không thành công hoặc
không thể thành công ở các quốc gia khác. Cốt lõi tạo nên thành công của
các Kibbudz là gì?
9. Khi người Do Thái được thực hiện giấc mơ “Phục quốc” năm 1948,
hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc gia khác nhau trên khắp thế
giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát cánh cùng nhau bắt tay xây dựng
và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu Âu
trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4 dân số)
trở về “cố quốc”. Mỹ, Australia, Canada cũng là quốc gia của những
người nhập cư, nhưng chưa từng chứng kiến lượng lớn người nhập cư đổ về
(tính theo tỷ lệ dân số) trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ
nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết những người Do Thái không bị gặp
các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập vào xã hội mới. Chuyện này
thực hư thế nào và được thực hiện ra sao?
Còn rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn đề đặt ra là mô hình Israel
và bài học thành công của người Do Thái (tạm bỏ qua một bên các khiếm
khuyết và một số “thói hư, tật xấu” của người Do Thái) có thể học được
không và áp dụng ở quy mô nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế,
đất nước…)? Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc
Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện
tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở
khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel
trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ
đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa
học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công nghiệp
hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của
Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là
không chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết
hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i) Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii)
Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ
vốn đầu tư, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất
nông nghiệp.
Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân
thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn
đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất
hoang mạc, nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất nông
nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.
Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất hoang
mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn
giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất
dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần
tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv) Sau
quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được
giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.
Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên
thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.
Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống đường
dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn
trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại
theo các đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới từng
cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về
thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ
sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp
sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần
cho cây theo định kỳ.
Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng cây gì,
giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua,
ớt.. ) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được lai ghép cho
phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu
bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.
Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai quả và có
thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng
cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất
lượng chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới
“trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều
lợi thế về giá và thị trường.
Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và kinh doanh
nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để làm
giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ
đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để
sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất
ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong
các trang trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.
Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ
làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều
“lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái
các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và
sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”,
âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường
khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.
Vậy ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường câu trả lời cho các bạn trẻ. Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew
Có ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy khá hay và cũng phần nào liên quan đến chủ đề sắp bàn dưới đây.
CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong, nhưng rủi một cái là không thể bay
về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không Israel El Al không làm
việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần
Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến hết
Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ 7, thấy
đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống (Jewish
Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa
hè, hai tay cầm quyển Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ
với động tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang, trong
khi đầu gật tới gật lui. Điều này không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên
thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.
CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng
trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng “Khi tôi mới đến nơi, ông Đại sứ
có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng 1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi
đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông không chỉ có
1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan ngửa mặt cười
ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có nhiều
nhà ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều
tay, am hiểu sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một
giáo sư đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong
hết sức chuyên nghiệp, động tác mạnh mẽ, dứt khoát.
CÂU CHUYỆN 3: Khi vào phòng làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ
Quốc Phòng của họ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy phòng khách bày biện khá
đơn giản, không rõ chỗ ngồi của chủ và khách. Bèn hỏi cô lễ tân là ngồi
thế nào, cô để “Sếp” cô ngồi đâu. Câu trả lời là: Các ông ngồi thế nào
thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK. Sau này mới thấy rõ
hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân thủ một số nghi lễ ngoại giao bắt
buộc, việc ngồi tự do (free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái
và bình đẳng giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính
là cách người Israel ngồi khi thảo luận nội bộ!
Quay trở lại Phần 1, tôi thấy rằng các câu trả lời về nguyên nhân
thành công của người Do Thái, sự cố kết của dân tộc này đều khởi nguồn
từ 3 yếu tố chính (i) cuốn Kinh Do Thái (Jewish Bible), (ii) cách thức
duy trì Đạo, bản sắc và lối sống Do Thái; và (iii) tiếng Hebrew. Các vấn
đề khác như “gien” và tố chất thông minh của người Do Thái; tính hiếu
học, ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ chức cuộc sống, đời
sống xã hội một cách văn minh, lành mạnh của họ đều bắt nguồn từ 3 yếu
tố trên. Và cũng thật trớ trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị
xua đuổi, miệt thị, truy sát trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng nghiệm
thấy rất ít dân tộc, quốc gia có thể học được theo họ, trừ phi anh cũng
trở thành… người Do thái như họ!
Ta hãy đi từng vấn đề một: Thứ nhất, Israel là đất nước duy nhất trên thế giới được
định hình bởi 4 yếu tố mang đậm chất Do Thái là: (i) Dân tộc Do Thái,
(ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái, và (iv) Đất nước Do Thái.
Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có
tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm),
sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là
đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic)
ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị
chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời,
nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ
người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là
chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng
điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân
chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung
gian?
Một điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5 tập, ghi lại
các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do Thái được Đức chúa trời
chọn (the Chosen People) để truyền đạt thông điệp của Chúa cho các dân
tộc khác, dẫn dắt và khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin
vào điều này, tin vào “sứ mạng” được Chúa giao phó. Đây có lẽ là động
lực lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách đạt đến đỉnh cao của khoa
học, phấn đấu đủ tầm trí tuệ “dẫn dắt” nhân loại như họ nghĩ đã được
“Chúa lựa chọn”. Do đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ thấy mục
đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ không chỉ là kiếm tiền, và
kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ thực ra là hệ quả của các lao động
sáng tạo chứ không phải mục đích mà họ theo đuổi. Thứ hai, trong bất kỳ tôn giáo nào, tính “Giáo điều” đều tồn
tại, duy chỉ khác nhau về mức độ. “Giáo điều” là những điều được ghi
trong kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc nhiên
đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại rất
gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh Torah thì có
đến 4 cuốn nói về luật và 1 cuốn về các vấn đề trong cuộc sống, sinh
hoạt hàng ngày. Torah ghi các vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu
hỏi, gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có một câu trả lời, mà có
nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm chí còn để
khoảng trống để mọi người cho trí tưởng tượng bay bổng với các hỏi và
câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath,
các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các
điều ghi trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng
lực trí tuệ, làm cho họ rất giỏi về luật. Thứ ba, các bạn Israel cho biết, cuốn Kinh Torah giống như
một cuốn sách khoa học hơn là một cuốn kinh với các “Giáo điều”. Chẳng
hạn, trong Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7 là ngày Chúa nghỉ ngơi, nên tất
cả mọi người Israel, kể cả các nô lệ và súc vật không được làm việc
trong những ngày này. Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ Do Thái
(Sabbath) được xem là ngày “nghỉ tuyệt đối”, theo đó Chúa khuyên các
thành viên trong gia đình dành thời gian này bên nhau, cùng trò chuyện,
đi chơi, vợ chồng “yêu” nhau, gia đình cùng nhau đi đến nhà thờ
(Synagogue). Trong ngày này, mọi người không được bật lửa (vì thời xa
xưa, bật lửa có nghĩa là phải vào bếp nấu nướng, tức vẫn “đi làm”) và ăn
đồ ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm chí thang máy trong các cao ốc
cũng để “chế độ Sabath”, tức người Do Thái không dùng tay bấm nút (biểu
hiện của “làm việc”), mà để thang tự chạy automatic và mở cửa trước từng
tầng một từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất của tòa nhà. Ngày Chủ nhật
là ngày làm việc đầu tiên của họ, và điều ngạc nhiên là theo cách gọi
trong Kinh thánh Do Thái các ngày làm việc trong tuần theo tuần tự là
các ngày “sáng tạo”, chứ không phải ngày “đi làm”.
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng gợi ra một số điều thú vị:
Ngày thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động cho các ngày khác
trong tuần và đây có thể là nguồn cảm hứng cho việc đấu tranh đòi quyền
của người lao động sau này;
Lễ Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình (khi cả
nhà cùng ngồi ăn quay quần bên nhau), và giữa các thành viên trong cộng
đồng (khi hàng xóm cùng kéo nhau đến nhà thờ);
Là cơ sở của việc đấu tranh giành quyền bình đẳng phụ nữ (không lao
động trong ngày Sabbath) sau này, cũng như quyền của động vật;
Vợ chồng “sản xuất” em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa trẻ sau này cũng sẽ thông tuệ hơn.
Người Do Thái coi trọng chuyện học hành
Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ nghĩa của con
cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm đã yêu cầu các ông bố,
bà mẹ phải dạy cho con cái biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều
này, cũng như một số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người Do Thái
thực hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một
phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ cách đây trên 2000 năm người
Do Thái cơ bản xóa được nạn mù chữ, với trên 90% người dân biết đọc,
biết viết.
Đối với cuộc sống của con người hiện đại thời nay, điều này là quá
sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh người Do Thái là những
người du mục, nông dân, thậm chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được
truyền thống này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc dân
khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì đây quả là
điều phi thường. Không chỉ thời nay người Do Thái mới được trọng dụng và
phát huy vai trò, mà vào thời cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII)
sau Công nguyên, người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng vai
trò nổi trội là các thương gia biết tính toán, “ăn nên, làm ra” với hệ
thống buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí
tới Thượng Hải.
Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì được chữ
viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn năm mà không bị mai
một? Câu trả lời chính là sự sùng đạo và cuốn kinh Do Thái viết bằng
tiếng Hebrew.
Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người Chính thống hay
người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn, vật đầu tiên và
cũng là vật quý giá nhất mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là
CUỐN KINH THÁNH, chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh
thánh Do Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch sử,
vừa là nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản sắc, vừa giúp họ có
tương lai: Một là, sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải đọc kinh liên
tục, đọc thuộc làu, đọc ở trong nhà, đọc ngoài đường, đọc ở nhà thờ…
giúp người Do Thái giữ được tiếng nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng
của mình và được truyền từ đời này qua đời khác. Hai là, khi lưu lạc sang các xứ khác nhau, ngữ âm của họ có
bị thay đổi do phát âm theo thổ ngữ địa phương, nhưng cơ bản họ vẫn hiểu
được nhau dù lang bạt hàng ngàn năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ
khác nhau. Điều đó giải thích tại sao người Do Thái từ “tứ xứ” đổ về,
nhưng đã nhanh chóng gắn kết với nhau ngay sau khi Israel được tái lập
năm 1948. Ba là, không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người Do Thái còn
thạo tiếng bản địa nơi họ sinh sống. Như vậy trên thực tế, người Do Thái
sử dụng thông thạo hai ngoại ngữ từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh,
những người hoặc nhóm cộng đồng sử dụng được trên 1 ngoại ngữ thường có
chỉ số IQ lớn hơn nhóm, hoặc người sử dụng ít ngôn ngữ hơn. Không chỉ
vậy, kinh thánh không chỉ là phương tiện duy trì ngôn ngữ, mà còn giúp
họ mở mang các kiến thức luật, kinh tế và khoa học thông thường ở trong
đó. Bốn là, niềm ao ước tột cùng trở về Jerusalem cũng được ghi
trong Kinh thánh. Thời cổ đại, dù muốn đi đâu, làm ăn gì, thì người Do
Thái cũng quy ước về quần tụ tại Jerusalem để hành lễ ít nhất là 4 lần 1
năm. Đến nay, truyền thống đó vẫn được duy trì và người Do Thái ở
Israel thường về Jerusalem mỗi năm một lần, còn người Do Thái ở khắp nơi
trên thế giới thì về ít nhất 1 lần trong đời. Kinh Thánh Do Thái ra đời
trong bối cảnh người dân Do Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem
trong một thời kỳ dài từ hàng trăm năm trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc
nhở người Do Thái rất kỹ về điều này. Truyền thống có từ cả ngàn năm nay
và đến nay vẫn được duy trì trong cộng đồng Do Thái, là khi gặp nhau,
hoặc khi viết thư, họ thường nói đến việc “sớm hẹn gặp nhau tại
Jerusalem”, “hẹn gặp tại Jerusalem vào năm tới”. Do đó, ước nguyện trở
về Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy bóng trong mỗi người Do Thái
và họ không bao giờ quên điều này khi tha hương. Đạo Do Thái và việc duy trì nòi giống
Việc thực hiện nghiêm ngặt các phong tục tập quán của Do Thái giáo
giúp người Do Thái sàng lọc gien “xấu”, lấy và nhân giống gien “tốt”.
Thực ra, không chỉ người Do Thái làm vậy, mà các dân tộc khác như ngoài
Hoa và Việt Nam cũng có những vần thơ để chọn người xứng đôi, vừa lứa
như “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”, “Nữ tuệ tam tài nguyên thị đối”
(Gái giỏi trai tài nom thật đối), v.v…. Chắc chắn đây không chỉ là
chuyện “tâm đầu, ý hợp” của trai gái, mà còn liên quan đến việc duy trì
nòi giống sau này.
Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức “khuyên răn” thì người Do
Thái đã “luật hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc có chủ đích thay
cho việc chọn lọc tự nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát triển”
gien của mình: Một là, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các Rabbis) là những
người được chọn từ những người thông minh nhất. Các Rabbis là người diễn
giải Kinh thánh có uy tín và trọng lượng nhất, duy trì các giá trị
“chính thống” và được xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng
các Rabbis vẫn có con như những người bình thường, và thậm chí có rất
nhiều con. Do có uy tín cao trong xã hội, nên họ dễ dàng chọn hôn thê và
hôn thê được họ ưu tiên chọn thường là con cái của các học giả
(scholars), rồi sau đó mới đến con các nhà buôn. Hai là, không chỉ các Rabbis chọn như vậy, kinh thánh Do
Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm cách
cho con cái của mình lấy con gái của các học giả. Kinh thánh khuyến
khích người Do Thái sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều
may mắn. Nhưng trên thực tế lại có các “phanh hãm” đối với người nghèo,
người ít học là sinh ra con cái nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh
tế và tài chính. Chính điều này làm cho người nghèo, người ở tầng lớp
thấp không “sinh tràn lan”, mà sinh có trách nhiệm và số người này chiếm
tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối với những người có “gien”
tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn năm chọn lọc
có điều kiện như vậy nên việc có được nhiều gien tốt trong người Do
Thái là điều dễ hiểu. Ba là, trong quan niệm Do Thái chính thống, và ngay tại các
khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại Israel, phụ nữ,
con gái không bao giờ được “bén mảng” đến Nhà thờ. Trái lại, đàn ông dù
bận công việc đến mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều hàng
ngày để làm lễ trước khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại được xem
là có “quyền năng” tuyệt đối trong việc duy trì nòi giống. Con của một
phụ nữ Do Thái đương nhiên được coi là người Do Thái, còn con của người
đàn ông Do Thái với một phụ nữ không phải Do Thái thì chỉ được coi là
người Israel (nếu như sống ở Isael), chứ không được coi là người Do
Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người Do Thái có một cô con gái lấy
chồng không phải người Do Thái bị coi là “nỗi nhục” của cả gia đình và
dòng họ, và người bố “từ con” bằng cách đào một nấm mộ giả coi như đứa
con mình dứt ruột đẻ ra đã chết.
Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng Đạo Do Thái
hiện là một trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ cương” khá tốt. Tuy
nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần
nghiên cứu sâu hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn
giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức lớn trong quá
trình phát triển, đó là:
Duy trì được sự thống nhất, giữa các dòng, nhánh, xu hướng khác nhau
trong cùng một tôn giáo, duy trì một đức tin chung trong thể thống
nhất. Ví dụ, sự phân liệt rõ nhất thể hiện ở Đạo Hồi hiện nay với các
dòng Shia, Suni, rồi nhánh Wahabis thuộc Suni, nhánh Alewite, Druze
thuộc dòng Shia…, mà dòng, nhánh nào cũng cho mình mới là “chính thống”,
còn những dòng, nhánh khác là “ngoại đạo”, cần bị loại bỏ để làm “trong
sạch” Đạo Hồi;
“Đồng hành” cùng xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các
nguyên tắc “cốt lõi” (tức tính chất “chính thống”, mặc dù việc diễn
giải và tự nhận các tính chất này còn nhiều điều phải bàn);
Tránh việc tạo ra một tầng lớp “tăng lữ” mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy hoại chính tôn giáo của mình.
Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các “vấn nạn” ở trên hơn, do:
Ngay khi ra đời, Do Thái giáo đã không có “vấn nạn”, đưa đến sự kình
chống nhau sâu sắc giữa các dòng tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi
Nhà tiên tri Mohamed qua đời, sự giằng xé giữa những người cho rằng cần
phải chọn người thừa kế hoặc có dòng màu trực hệ để “hướng đạo” hạy chọn
những người có khả năng nhất trong việc kế thừa và phát triển di sản
của Mohamed đã đưa đến việc phân chia Hồi giáo thành 2 nhánh lớn là Shia
và Suni. Do Thái giáo cũng có những dòng hết sức cực đoan, thậm chí
không công nhận Nhà nước Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và không đi đến
chỗ đối đầu nhau bằng bạo lực. Những người có tác dụng giữ sự hòa hợp và
thống nhất Đạo Do Thái là các giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.
Trong hệ thống luật dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha
tương tự như luật Sharia của Hồi giáo mà một số nước như Arab Saudi,
Brunei… áp dụng. Halakha bao gồm 613 điều răn (commandments) với hệ
thống tòa án riêng, và các “bản án” tôn giáo đối với người có đạo thậm
chí còn đáng sợ và nghiêm khắc hơn các bản án dân sự. Luật Halakha tồn
tại trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, can thiệp sâu và điều
chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của đời sống xã hội. Nếu không tuân
theo Halakha, các Rabbis có quyền rút “Phép thông công” (excommunicate) –
tương đương với một bản án tử hình – và điều này cũng đồng nghĩa với
việc khi qua đời, linh hồn người chịu hình phạt đó không được bay lên
Thiên đàng.
Người theo Đạo chính thống Orthodox tin và tự chọn cho mình lối sống
theo các giá trị truyền thống và nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ
không tìm cách áp đặt lối sống của mình hay kỳ thị những người thế tục.
Bản thân các Giáo sĩ (Rabbis) và những người Orthodox không được hưởng
đặc quyền, đặc lợi, họ thỏa mãn với cuộc sống thanh bạch của mình. Trong
đạo Hồi chẳng hạn, những người Wahabbis cũng có cuộc sống thanh bạch,
khắc khổ, nhưng điều nguy hại là họ lại tìm cách áp đặt lối sống của
mình lên những dòng, nhánh khác.
Khác với các Đạo giáo khác là tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng
thành viên, càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, để trở thành một người Do
Thái rất khó, phải có căn cứ, bằng chứng xác nhận tới ít nhất 4 đời
trước đó và quy theo mẫu hệ. Họ cho rằng, đã là “thiên sứ nhà trời”,
“được chúa chọn” thì chỉ có ít người được hưởng vinh dự, chứ đâu có thể
kết nạp tràn lan, cứ vào đến synagogue (nhà thờ Do Thái) là trở thành Do
Thái ngay được.
Trong những điều kiện khắc nghiệt thời kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu
vực Trung Đông, để tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc
phải cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo trở lại thành
người Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản thân Hitler là người rất căm
thù dân Do Thái, một cộng đồng đoàn kết nhưng sống tách biệt với người
bản xứ. Trong con mắt Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ
luôn luôn là một người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết truy
sát 1 người nếu tìm được bằng chứng trước đó 4 đời họ là người Do Thái. Tản mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống và tố chất của người Do Thái
Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn theo kiểu Do
Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc sử dụng Kosher là điều gần
như bắt buộc, còn đối với người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen
phục vụ tai các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc
phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher hiện
ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên khắp thế giới và không chỉ
người Do thái chính thống mới dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm
Kosher khác nhau được bán trên phạm vi toàn thế giới.
Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định rất rõ,
chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có một số điểm chính:
Về các thức ăn Kosher:
Một số con vật ăn được: chỉ ăn những con vật có móng chẻ, ăn cỏ và
nhai thức ăn lại như bò, dê, cừu. Các con vật không ăn được là lợn,
ngựa, và lạc đà. Lợn tuy có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn ngựa,
lạc đà tuy ăn cỏ nhưng không có móng chẻ.
Ăn các loài có cánh như gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt như diều hâu, chim ưng, đại bàng.
Ăn các loài cá có vây và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn
các con cá không vảy như lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc
hến, các loài bò sát, côn trùng.
Các thức ăn trung tính như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật ong, rượu vang, chè, café.
Về cách ăn đồ Kosher:
Chỉ uống sữa và các vật phẩm chế biến từ sữa của các con vật Kosher
như bò, dê, cừu. Chỉ được dùng sữa và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng
sau khi dùng thịt, hoặc 30 phút trước khi ăn thịt chứ không được ăn,
uống đồng thời. Đồ chế biến sữa và thịt, kể cả chậu rửa bát nhất thiết
phải dùng riêng.
Lúa mì, gạo, và một số loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn,
uống nước trái cây hoặc đồ chế biến từ các loại loại quả như cam, quýt,
bưởi… dưới 3 tuổi.
Không ăn nội tạng động vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và không ăn thịt, cá đồng thời.
Khi ăn thịt phải lấy hết sạch máu và người chế biến phải học cách
giết con vật sao cho con vật chết nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại
ra được hết tiết. Thậm chỉ còn phải rửa sạch và ngâm miếng thịt trong
nước 30 phút trước khi chế biến để ra hết máu,
Các nhà hàng Kosher nhất thiết phải do đầu bếp Do thái chính thống
trực tiếp nấu nướng và bị phạt rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh
doanh, hành nghề nếu vi phạm.
Có lẽ trên thế giới không có dân tộc nào có kiểu ăn “kiêng, khem”
phức tạp và rườm rà như người Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ
đồ ăn Kosher thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy
mà lúc nào cũng đông khách ăn.
Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái, mà THỰC
CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG
không chỉ của người Do Thái, mà của con người nói chung. Nếu chỉ khuyên
nhủ thông thường sẽ ít người theo, nhưng khi khoa học được “phủ” một
lớp màu tôn giáo thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và
quyến rũ.
Tạm cắt nghĩa một số thứ:
Theo người Do Thái, con vật cũng như con người đều có linh hồn. Nếu
làm cho con vật chết đau đớn thì nó sẽ oán trách và cả người thịt lẫn
người ăn nó đều bị “quở phạt”. Do đó, giết nhanh để con vật mau chóng
được hóa kiếp lên thiên đàng.
Khi con vật cắt được tiết nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải
ăn đồ ôi. Thú tính và sự ngu muội của con vật nằm ở “dòng máu”, và ăn
thú vật hay gia cầm có tiết sẽ làm con người lâu dần nhiễm “thú tính” và
đầu óc trở nên trì độn, còn nòi giống đi đến chỗ thoái hóa.
Thịt ăn cùng với cá không còn tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu
lẫn nhau. Còn trái cây trong 3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có
hại cho cơ thể.
Uống sữa sau khi ăn thịt không tốt cho sức khỏe vì bản thân thịt
nhiều chất đạm, lâu tiêu lại có thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ
thể không thể hấp thụ nổi và dễ sinh bệnh.
Trong điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi –
Trung Đông, việc ăn uống tốt giúp người Do Thái chống chọi tốt hơn với
khí hậu khắc nghiệt, làm cho không chỉ thể trạng khỏe khoắn mà trí tuệ
của họ cũng hơn người. Các cụ nhà ta chả nói bệnh vào từ mồm đó sao?
Như vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew, người Do
Thái không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển bản sắc,
văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông qua ăn uống, cuộc
sống tinh thần lành mạnh, làm cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt, ngày
một trở nên ưu việt hơn. Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không
tìm cách phát triển tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo
Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ sao cho Do Thái giáo
càng “thuần khiết” càng tốt. Phải chăng những người được Chúa “chọn mặt
gửi vàng” đâu có thể phát triển tràn lan được!
Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên tri Moses
của người Do Thái đã lường trước điều này khi ông, ngay từ khi đó, đã
hình dung ra rằng nếu người Do Thái làm theo các lời răn dạy của ông thì
họ sẽ trở thành đối tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân
khác và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả ngàn năm
thiên di trước khi “trở về Jerusalem”. Điều ngạc ngạc nhiên là người Do
Thái không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa
trời đối với dân tộc Do Thái! TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và
Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép
đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới
Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ
quan nơi tác giả công tác.
-Hợp tác mới trong quan hệ Việt–Mỹ
Vũ Đức Khanh, Nguyễn Tiến Trung và Võ Tấn Huângửi cho BBCVietnamese.com
Ngoại trưởng hai bên vừa có cuộc gặp ở Washington DC
Quyết định dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam dường như đang được Hà Nội nhiệt tình đón nhận.
Đối với các nhà phê bình và cải cách, động thái này dường như vẫn
chưa được nhiều người ủng hộ rộng rãi vì nhiều lý do, đặc biệt là hồ sơ
nhân quyền tại Việt Nam vẫn chưa có dấu ấn nào rõ nét.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh vừa kết
thúc chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ và trao đổi với Ngoại trưởng Hoa Kỳ
John Kerry tại Washington, D.C.
Sau buổi họp ngày thứ Năm 2/10 vừa qua, Hoa Kỳ chính thức lên tiếng
nới lỏng lệnh cấm vận vũ khí sát thương với nước cựu thù Việt Nam.
Cụ thể, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đề cập đến việc bán các thiết bị quốc
phòng hàng hải để giúp Việt Nam củng cố khả năng bảo vệ bờ biển.
Đây có thể là một trong những chiến lược lâu dài nhằm đảm bảo các lợi
ích cốt lõi của Hoa Kỳ cũng như các nước đồng minh ở khu vực Đông Nam Á
và Biển Đông trước một Trung Quốc đang ngày càng có nhiều hành động
khiêu khích.
Việc bán hoặc chuyển giao các thiết bị như tàu tuần duyên thông qua
lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ có thể sẽ là bước đi đầu tiên giữa hai nước,
và điều này chắc chắn sẽ được Hà Nội chấp nhận một cách dễ dàng.
Trong thông báo về ý định nới lỏng lệnh cấm vận vũ khí sát thương, Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ đã tuyên bố một cách rõ ràng rằng bất kỳ vụ mua bán
vũ khí sát thương nào dành cho phía Việt Nam cũng sẽ được xem xét một
cách nghiêm ngặt.
Mặc dù việc dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận này vẫn chỉ là một bước đi
tương đối khá chậm nhưng phải công nhận rằng mối quan hệ Việt–Mỹ dường
như đang đi tới.
Việc Việt–Mỹ xích lại gần nhau là một tin tốt lành và là điều được
mong đợi. Tuy nhiên, cũng không thể bỏ qua ý kiến của một số nhà quan
sát nhân quyền rằng việc dỡ bỏ một phần nhỏ trong lệnh cấm này có thể
làm suy yếu vị thế của Hoa Kỳ trong việc đàm phán về vấn đề nhân quyền
với phía Việt Nam.
Trên thực tế, Việt Nam vẫn có thể quay sang Nga để mua các loại vũ
khí tiên tiến và tiếp tục làm ngơ trước các yêu cầu về cải cách mà Hoa
Kỳ đưa ra.
Cải cách trung thực
Căng thẳng gần đây ở Đông Nam Á có thể đã góp phần vào sự thay đổi
của Washington, đặc biệt là tranh chấp vụ giàn khoan dầu nước sâu ở Biển
Đông hồi tháng Năm vừa qua giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Washington có lẽ cảm nhận rằng đây là thời điểm thuận lợi để khai
thác sự rạn nứt giữa Việt Nam và Trung Quốc và tăng tốc chiến lược trục
châu Á bằng cách thỏa hiệp và thương thảo với phía Hà Nội.
Các chi tiết cụ thể liên quan đến việc dỡ bỏ lệnh cấm vận hiện vẫn
còn mơ hồ và cho đến thời điểm này thì Tổng thống Obama vẫn chưa ký
quyết định đó nên việc sửa đổi vẫn có thể xảy ra.
Cho đến nay, hồ sơ nhân quyền tại Việt Nam dường như vẫn dậm chân tại
chỗ. Thay đổi là điều cần thiết và có lợi cho tất cả các bên, đặc biệt
là người dân Việt Nam.
Việt Nam cũng nên rũ bỏ ý thức hệ cũ kỹ, điều không những đã cản trở
mối quan hệ Việt–Mỹ trong nhiều năm qua mà còn cản trở bước tiến xã hội
dân chủ, công bằng.
Việc thay đổi từng bước nhỏ, như trả tự do cho các tù nhân chính trị
là vấn đề lương tâm và cần thiết. Tuy nhiên, Việt Nam cần có chính sách
cải tổ sâu rộng và tổng thế để có một nhà nước được nhân dân trong lẫn
ngoài nước và quốc tế tin cậy.
Điều này không những giúp vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế mà
còn tạo dựng niềm tin đối với các nước trong khu vực, trong đó có cả Hoa
Kỳ.
Tương tự, Hoa Kỳ đã nhìn thấy một số lợi thế trong mối quan hệ đối tác kinh tế từ bên trong Việt Nam.
Từ Hiệp định Thương mại Song phương Việt–Mỹ vốn được ký kết vào năm
2000, đến việc hỗ trợ Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào
năm 2007 và hiện nay thì Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa thỏa thuận
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương thì Hoa Kỳ đã chứng minh nước
này là một đối tác kinh tế không nước nào sánh bằng.
Thay vì theo đuổi chính sách cấm vận, Hoa Kỳ đã xem xét đến hướng tiếp cận, hợp tác chính trị và tăng cường kinh tế.
Hà Nội hiện đang gắn bó quá chặt chẽ với Bắc Kinh trong lĩnh vực
chính trị lẫn kinh tế, nhưng Hoa Kỳ có thể giúp Việt Nam đẩy lùi sự phụ
thuộc không lành mạnh và thiếu trách nhiệm vào nước láng giềng phương
Bắc.
Hoa Kỳ cũng có thể xem xét mở rộng quan hệ đối tác toàn diện vốn đang
có với Việt Nam để thúc đẩy thêm lĩnh vực chính trị và kinh tế giữa hai
nước.
Tất nhiên thay đổi sẽ không thể thực hiện chỉ qua một đêm. Hơn nữa,
các lãnh đạo cộng sản Hà Nội sẽ không theo đuổi các chính sách hay hành
động nào gây nguy hiểm hoặc làm giảm quyền lực và ảnh hưởng của họ.
Để Việt Nam thay đổi triệt để thì việc này không chỉ đến từ phía Hoa
Kỳ mà đây còn là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam ngay tại trong
lẫn ngoài nước.
Thách thức lớn nhất đối với chính sách Mỹ là làm thế nào để cân bằng
giữa lợi ích của người dân Việt Nam sống dưới chế độ cộng sản mà vẫn
cùng lúc thúc đẩy lợi ích của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á–Thái Bình Dương.
Việc dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương có thể chỉ là một canh bạc của cả Washington lẫn Hà Nội.
Cuối cùng thì điều quan trọng hơn hết vẫn là việc Việt Nam tự làm cho
mình trở thành một nhà nước chính trực thực sự từ bên trong để trở
thành một quốc gia đáng tin cậy. Đây là con đường để tiến đến một mối
quan hệ không những toàn diện mà còn là quan hệ chiến lược và đồng minh
với các nước khác. Bài viết phản ánh văn phong và quan điểm của các đồng tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét