Nguyễn Trung - Bàn về hoàn thiện kinh tế thị trường
(Bài viết về đại hội XII sắp tới của ĐCSVN)
I.
Đánh giá khái quát con đường 40 năm
Góp
phần tổng kết kinh tế mà đại hội XII nhất thiết phải làm, tôi xin
nêu lên một số nhận xét chính dưới đây, trước khi bàn đến chủ đề
hoàn thiện kinh tế thị trường ở nước ta.
Trong
bài 2 (Hiểm
họa đen)và
bài 3 (Chúng
ta lựa chọn gì cho tổ quốc?),
tôi cho rằng 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên là một thời kỳ phát
triển thất bại, hoặc dễ nghe hơn: cơ bản là thất bại (song “dễ nghe
hơn” như thế chẳng ích lợi gì thêm cho đất nước).
Nói là thất bại, bởi lẽ:
Không đạt được các mục tiêu chiến lược, thành tựu hay kết quả thu
được không xứng với thời gian, công sức, của cải đã bỏ ra và những
cơ hội có được. Bao trùm lên tất cả là đường lối xây dựng chủ nghĩa
xã hội thất bại, đến 1986 phải xoá bỏ nền kinh tế bao cấp để tiến
hành đổi mới, đề ra cái gọi là xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, song thực chất vẫn là để kiên trì chủ nghĩa
xã hội mà chính tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có lần thừa nhận
chưa rõ nó sẽ là cái gì. Đường lối sai, sửa lại rồi mà cũng không rõ
được, như thế làm sao có thể thành công được? Cho nên thất bại là
tất yếu. Dưới đây xin điểm lại cho rõ.
Trong 40 năm này, nước ta mất trên dưới mười năm vào hai cuộc chiến
tranh tiếp theo kháng chiến chống Mỹ (chiến tranh Campuchia, chiến
tranh Trung quốc xâm lược biên giới), lại thêm những thất bại trong
đường lối kinh tế bao cấp kéo dài cho đến khi tiến hành đổi mới
1986. Thời kỳ 10 năm này (1975 - 1986, về những mặt nào đó phải tính
đến 1989) đảng đã vấp phải những sai lầm rất nghiêm trọng cả về đối
nội (bao gồm cả kinh tế) và đối ngoại, với nhiều hậu quả lâu dài.
Nguyên nhân chủ yếu là chủ quan, duy ý chí, không hiểu thế giới và
không hiểu chính bản thân nước ta: Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội! Từ nay không có kẻ thù nào dám động
đến ta! – Đương nhiên, những nguyên nhân khách quan cũng rất
quan trọng, có những mặt bất khả kháng, song dù sao vẫn phải nói
những nguyên nhân chủ quan của lãnh đạo là những tác nhân trực tiếp
của những sai lầm thời hậu chiến.
Trong những nguyên nhân chủ quan, cái nguyên nhân không hiểu thế
giới, không hiểu chính bản thân nước ta cho đến hôm nay vẫn đang là
một cái u-bướu chết người trong não bộ tư duy của ĐCSVN.
Kinh tế nước ta thực sự phát triển kể từ khi tiến hành đổi mới 1986,
ngày nay đạt mức “nước đang phát triển có thu nhập trung bình
(thấp)”[1].
Nếu so sánh nước ta hôm nay với nước ta 1986, kinh tế nước ta đã đi
được một chặng đường dài: từ nước chậm phát triển lên nước đang phát
triển, giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng được
thế giới ghi nhận. Đã có lúc kinh tế nước ta giành được sự phát
triển ngoạn mục (nhất là thời kỳ 1986 – 1995…), trên thế giới người
ta đã bắt đầu nói tới “con hổ Việt Nam”, nhưng con hổ này chưa kịp
cất lên tiếng gầm nào thì đã biến mất tăm.
Song nếu so nước ta với các nước chung quanh, khoảng cách tụt hậu
của ta ngày càng rộng thêm. Ví dụ: năm 1986 GDP p.c. (GDP tính theo
đầu người) của Trung Quốc gấp đôi của nước ta, năm nay cao gấp trên
3 lần; khoảng cách lúc ấy (1986) GDP p.c.Trung Quốc cao hơn nước ta
ước chừng <+200 USD, nhưng khoảng cách này hiện nay là <+4000 USD;
so với các nước đi trước ta trong ASEAN cũng cho thấy mối tương quan
như vậy. Nghĩa là 3 thập kỷ vừa qua, càng chạy đua ta càng tụt hậu.
Điều đặc biệt đáng lo ngại là sau 3
thập kỷ phát triển (kể từ 1986), kinh tế nước ta đã tận dụng hết
(đến mức cạn kiệt) mọi yếu tố nội/ngoại có được cho phát triển
theo chiều rộng, song vẫn chưa tạo ra được nền tảng kinh tế
vững chắc để đi vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu.
Cho đến ngày hôm nay, nước ta mới chỉ tạo ra được một nền kinh
tế gia công. Nói nôm na, đấy là một nền kinh tế chỉ bán đi
được những thứ ta tự có: lao động rẻ, tài nguyên, đất
đai, môi trường, vị trí địa lý… Cho đến hôm nay chưa đi vào được
phát triển một nền kinh tế bán các sản phẩm ta
tự làm ra – với nghĩa có hàm lượng cao về trí tuệ và công
nghệ; bởi vì còn thiếu nghiêm trọng những điều kiện tiên quyết cho
thời kỳ phát triển mới này trên những phương diện: chất lượng nguồn
nhân lực, chất lượng giáo dục, thể chế chính trị quốc gia,
thể chế kinh tế thị trường thực thụ, lực
lượng doanh nghiệp, kết cấu hạ tầng vất chất kỹ thuật… Kinh
tế đã đi hết đoạn đường phát triển theo chiều rộng, nhưng hôm nay
đang lâm vào khủng hoảng cơ cấu trầm trọng, nên vừa bế tắc (cái bẫy
“nước có thu nhập trung bình – thấp”), và vừa chưa chuẩn bị
được những điều kiện phải có cho việc chuyển nền kinh tế vào thời kỳ
phát triển theo chiều sâu.
Còn 6 năm nữa, năm 2020, nước ta phải trở thành nước công nghiệp,
hoặc là “cơ bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (một khái
niệm rất “cao-su” và rất thiếu trách nhiệm với đất nước) – như đã
ghi trong nhiều nghị quyết của đảng, song mục tiêu này không thể
hoàn thành được, vì trình độ phát triển nền kinh tế còn ở mức quá
thấp nhìn theo bất kỳ tiêu chí nào (tỷ trọng các khu vực kinh tế -
economic sectors, tỷ trọng phân bổ các loại lao động, tỷ trọng kinh
tế nông thôn và kinh tế thành thị…, các chỉ số phát triển tính theo
đầu người về kết cấu hạ tầng vật chất & kỹ thuật, vân vân..; riêng
chỉ số bằng thạc sỹ, tiến sỹ tính theo đầu người và trong bộ máy
quyền lực, nước ta vượt xa Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều nước phát
triển khác). Đặc biệt nghiêm trọng là nước ta không có một thể chế
chính trị quốc gia phù hợp cho một nước công nghiệp hoá, chính điều
này trước sau vẫn chặn đứng khả năng nước ta sẽ trở thành một nước
công nghiệp. Điều cần lưu ý ở đây, sau 3 thập kỷ tiến hành công
nghiệp hoá (chỉ tính từ 1986), nước ta huy động được một nguồn lực
nội và ngoại nhiều gấp hơn 2 lần của Hàn quốc cho 3 thập kỷ công
nghiệp hoá của họ. Song sau 3 thập kỷ này, Hàn Quốc hoàn thành được
nhiệm vụ công nghiệp hoá; nhưng nước ta không hoàn thành được nhiệm
vụ này, lại rơi quá sớm vào quá trình giải công nghiệp hoá, và hôm
nay vẫn là một nền kinh tế gia công đang bế tắc vì khủng hoảng cơ
cấu trầm trọng.
Nói khái quát, nước ta đang có một nền kinh tế “đắt”, “rất đắt” nhìn
theo hiệu quả kinh tế trên mọi phương diện: chỉ số ICOR cao nhất
trong ku vực, tỷ suất lợi nhuận rất thấp, mức độ tiêu thụ năng lượng
và nguyên liệu trên một sản phẩm thuộc loại cao nhất ĐNÁ và năng
suất lao động thuộc loại thấp nhất... Ngoại trừ một số ít ngành đặc
thù trong lắp ráp và gia công, nhìn chung công nghệ trong công
nghiệp nước ta chủ yếu thuộc thế hệ 3 hoặc 4 (phần lớn là mới xây
lắp dưới dạng EPC từ Trung Quốc). Tham nhũng rất trầm trọng, song
lãng phí – nhất là lãng phí do những quyết định kinh tế sai lầm,
những dự án treo, những quy hoạch phá sản ở khắp cả nước… – còn trầm
trọng hơn nhiều.
Tựu trung là do đã theo đuổi một chiến lược phát triển sai lầm[2]
trong một thể chế chính trị bất cập. Nổi cộm là các vấn đề:
(1) Công nghiệp rất chắp vá và chưa định hình được nước ta sẽ là một
nước công nghiệp gì nếu thu hẹp dần công nghiệp gia công (đang rất
thiếu công nghiệp phụ trợ); có lẽ phải nói công nghiệp nước ta dựa
vào lợi ích của doanh nghiệp nhà nước (chứ không phải của quốc gia)
và dựa vào tranh thủ được FDI như thế nào thì phát triển thế nấy –
nghĩa là rất tự phát, duy ý chí và do bên ngoài chi phối là chính,
rất bị động, khó mà nói phát triển theo một chiến lược rõ nét hay
nhất quán nào của ta, lại thay đổi theo từng khoá đại hội đảng (tư
duy nhiệm kỳ). Cần coi đây là một xu thế phát triển nguy hiểm, hiện
tại đã bế tắc, hứa hẹn sẽ đổ vỡ trầm trọng trong tương lai không xa
nếu không uốn nắn kịp thời, và nếu không tìm ra được một chiến lược
công nghiệp hoá đúng đắn được thực hiện trong một thể chế chính trị
phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá.
(2) Nông nghiệp là vấn đề rất nhậy cảm ở nước ta trên nhiều phương
diện, nhưng đang bế tắc nghiêm trọng về mọi phương diện, chủ yếu do
sai lầm về chính sách đất đai, thất bại trong quá trình công nghiệp
hoá / đô thị hoá, thất bại trong phát triển hay trong nhiệm vụ công
nghiệp hoá nông nghiệp giữa lúc kinh tế cả nước đã hội nhập vào quá
trình toàn cầu hoá như ngày nay… Mặc dù có vị thế nhất định
trong một số sản phẩm trên thị trường nông phẩm thế giới, nông
nghiệp nước ta còn đứng rất xa yêu cầu là một nền nông nghiệp tiến
dần lên hiện đại của một quốc gia đang trong quá trình công nghiệp
hoá. Thậm chí còn phải nói, một nền nông nghiệp như hiện tại tự nó
cũng sẽ chặn đứng khả năng nước ta trở thành nước công nghiệp (trong
khi đó Hàn Quốc, Đài Loan trong vòng 2 thập kỷ đầu tiên của công
nghiệp hoá đã giải quyết được vấn đề phát triển nông nghiệp đồng
hành với quá trình công nghiệp hoá, hiện nay ta đang “học” tam
nông
của Trung Quốc, nhưng?..);
(3) Khu vực dịch vụ phát triển khả quan hơn (trong đó nổi bật là du
lịch, viễn thông, hàng không…), song cũng đã hết đà phát triển theo
chiều rộng; đất nước chưa có được nguồn nhân lực có chất lượng, thể
chế nhà nước thích hợp và kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật tương
ứng để đi vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Khu vực dịch vụ chủ
yếu mới chỉ phát triển trong một số ngành, trong khi đó hầu như chưa
đi vào được rất nhiều ngành nghề quan trọng khác của dịch vụ mà điều
kiện địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế/chính trị của nước ta cho
phép (ví dụ, có thể phân tích khu vực dịch vụ của nền kinh tế
Singapore để thấy rõ những ngành kinh tế nào của dịch vụ nước ta
chưa đụng chạm tới). [Nhân đây xin nói ngay: Cần loại bỏ mong muốn
bệnh hoạn của một số người nào đó muốn phát triền casinos ở nước ta,
bởi lẽ tình trạng tha hoá hiện tại trong xã hội nước ta đã vượt quá
xa mức có thể kiểm soát được.]
(4) Nền tài chính quốc gia và hệ thống ngân hàng của đất nước rất
mong manh, nợ nần nhiều – trong đó tỷ lệ nợ xấu rất cao, tính công
khai minh bạch và năng lực quản trị rất thấp. Sự can thiệp của chính
trị (bao gồm cả nhóm lợi ích) ở mức nguy hiểm, có nhiều đối phó cục
bộ (như lãi suất, thuế suất, giá vàng, trái phiếu, đáo nợ…) tuy có
lúc đem lại kết quả tạm thời, song chung cuộc đang tích tụ những
nguy cơ đổ vỡ nguy hiểm. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng là nền tài
chính quốc gia và hệ thống ngân hàng của đất nước tự nó đã góp phần
quan trọng vào những cuộc khủng hoảng kinh tế lớn của đất nước,
không hoàn thành được nhiệm vụ chính trị số một của nó là: Huy động
và phân bổ tối ưu mọi nguồn lực cho sự phát triển năng động và bền
vững của đất nước.
(5) Thất bại lớn nhất của 40 năm qua là đã không xây dựng nên được
một thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ mang lại độc
lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân như đã ghi trong tiêu chí quốc
gia[3]
và giải phóng tiềm năng phát triển của đất nước, nhiều quyền cơ bản
của công dân và quyền con người bị ngăn cấm hoặc xâm phạm nghiêm
trọng. Trong thất bại này cần đặc biệt nêu lên thảm bại nghiêm trọng
của nền giáo dục nước nhà đang để lại những hậu quả rất lâu dài cho
đất nước. Sau 40 năm phát triển, đất nước lâm vào một cuộc khủng
hoảng toàn diện (kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội), bị lệ
thuộc nguy hiểm vào Trung Quốc, độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia bi uy hiếp hơn bao giờ hết kể từ sau 30-04-1975.
Nghiêm trọng hơn nữa: Sau 4 thập kỷ độc lập thống nhất, phải chăng
đất nước chúng ta hiện đang lâm vào tình trạng mất phương hướng phát
triển giữa lúc tình hình khu vực và thế giới đang có nhiều thách
thức nặng nề, và thậm chí trở nên nguy hiểm hơn trước?
II. Những khuyết tật lớn trong kinh tế
thị trường nước ta
Trước hết về quan niệm, quan sát sự phát triển của các nước tiên
tiến trên thế giới, tôi xin rút ra những điều dưới đây về kinh tế
thị trường.
Tinh thần cốt lõi của kinh tế thị trường là hình thành một quá trình
phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt của những lực đẩy được tạo ra từ
mối quan hệ qua lại giữa cầu và cung trên thị trường.
Cầu và cung ở đây cần được hiểu là những đòi hỏi trong đời sống
hướng tới một sự phát triển mới, cần đặt vấn đề như vậy để luôn luôn
chủ động tránh những khuynh hướng phát triển hoang dã hoặc thiên
lệch nguy hiểm.
Đối với cả cầu và cung, thị trường luôn luôn có thể làm được chức
năng điều tiết ở mức độ nhất định, được đặt cho cái tên là “bàn tay
vô hình” (Adam Smith), bởi vì nó làm những việc khó thấy được liên
quan đến điều tiết nền kinh tế (yếu tố 1).
Song vì khả năng của “bàn tay vô hình” là hữu hạn, mà cuộc
sống là vô hạn, do đó kinh tế thị trường còn phải cần đến “bàn tay
bà đỡ” – thường là và trước hết là thuộc về chức năng của nhà nước.
Xã hội càng phát triển, ngày càng có thêm nhiều yếu tố khác tham gia
tích cực vào chức năng của “bàn tay bà đỡ” (yếu tố 2).
Điều thiết yếu là bàn tay vô hình và bàn tay bà đỡ đều phải làm đúng
việc của mình với hiệu quả cao nhất. Vì lẽ này cả hai đều phải được
một bộ não mẫn tiệp điều hành, có thể xem đây là điều kiện quyết
định nhất. Bộ não ấy chính là một thể chế chính trị đáp ứng được
đòi hỏi phát triển của quốc gia, phát huy được vai trò tích cực của
giới doanh nhân (bao gồm các doanh nghiệp), phát triển được một xã
hội dân sự năng động, luôn luôn cổ vũ và dẫn dắt được quốc gia giành
lấy những bước phát triển mới (yếu tố 3).
Nêu lên những điều vừa trình bầy trên, nhằm mục đích nhấn mạnh ngay
từ đầu: Nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh nhất thiết phải bao gồm
đầy đủ cả 3 yếu tố (1) bàn tay vô hình, (2) bàn tay bà đỡ, (3) thể
chế chính trị; tất cả phải hoạt động ở trạng thái tối ưu cho phép –
trong đó thể chế chính trị là điều kiện tiên quyết số một.
Đây cũng là 3 tiêu chí có thể dựa vào để đánh giá thực trạng kinh tế
thị trường nước ta hiện nay. Bàn về hoàn thiện kinh tế thị trường ở
nước ta cũng có nghĩa phải bàn về phát triển đồng bộ cả 3 yếu tố cấu
thành này của kinh tế thị trường.
Dưới đây xin nêu lên một số vấn đề nóng nhất.
II.1. Sự lũng đoạn của
quyền lực và nhóm lợi ich
Bài 4A “Bàn về cải cách thể chế chính trị” đã cố gắng
trình bầy sự lũng đoạn của quyền lực đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc nói chung, trong đó vấn đề nghiêm trọng số 1 là tình
trạng “đảng hoá” toàn bộ đời sống đất nước. Tại đây xin nêu
thêm một số khía cạnh liên quan đến kinh tế thị trường.
Thể chế chính trị ở nước ta với đặc trưng đảng giữ vai trò lãnh đạo
toàn diện và tuyệt đối như đang diễn ra, về bản chất mâu thuẫn như
nước với lửa đối với kinh tế thị trường. Chính đây là nguyên nhân
gốc khiến cho kinh tế thị trường ở nước ta biến dạng nghiêm trọng,
bị điều hành và lũng đoạn bởi (a) quyền lực đảng, (b) chủ nghĩa tư bản
thân quen và chủ nghĩa tư bản hoang dã, (c) sự chi phối của lobby từ
bên ngoài – đặc biệt là quyền lực mềm Trung Quốc.
Thực hiện kinh tế thị trường là đòi hỏi bất khả kháng đối với nước
ta kể từ bắt đầu đổi mới 1986, đến nay là 3 thập kỷ. Nước ta đã tham
gia đầy đủ các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực (WTO, WB, IMF,
ADB, các FTAs song phương và đa phương, vân vân…), nhờ đó kinh tế
thị trường ở nước ta đã đạt được những bước phát triển rất quan
trọng, GDP p.c. từ 200 USD nay đạt 1350 USD... Tuy nhiên, nguyên
nhân thể chế chính trị (nguyên nhân gốc) nêu trên đã một mặt làm cho
không ít những tiến bộ đạt được này đều ở trong tình trạng dang dở,
mặt khác chỉ làm biến tướng để tăng thêm độ nguy hiểm chứ không khắc
phục được sự lũng đoạn nêu trên ( của 3 nhóm a, b, c). Có lẽ chính
thực tế này giải thích hiện tượng: Tại sao kinh tế nước ta càng phát
triển, càng bị xé lẻ thành các “tiểu vương quốc” theo lợi ích (các
nền kinh tế GDP tỉnh, các nền kinh tế tập đoàn nhà nước, kinh tế
đảng, kinh tế quân đội, kinh tế công an…) càng phát sinh nhiều ách
tắc trong kinh tế và nhiều bất công trong xã hội, môi trường càng bị
huỷ hoại nghiêm trọng, hầu hết các chiến lược kinh tế đều thất bại,
tội ác kinh tế ngày càng nguy hiểm về quy mô và tinh vi về thủ đoạn
thực hiện, phát triển hầu như cướp mất cơ hội của tương lai (nghĩa
là để quá nhiều gánh nặng cho tương lai), và hiện nay kinh tế đất
nước đang ở trạng thái nguy hiểm chưa có lối ra.
Thật khó mà nói được là nước ta có một nền kinh tế hài hoà thống
nhất với đúng nghĩa, vì bên trong chứa đựng quá nhiều nét cát cứ,
“tiểu vương quốc” và sự chùng lặp… Có thể viết nhiều quyển sách mổ
xẻ thực trạng này của đất nước, song hiện nay việc này bị kiêng cấm,
nhưng trước sau sẽ phải làm để chữa bệnh. Nói khái quát: Đảng hoá,
nền kinh tế GDP tỉnh, tập đoàn kinh tế nhà nước và tư tưởng nhiệm kỳ
là những yếu tố trực tiếp làm nát bét nền kinh tế đất nước, tạo ra
môi trường màu mỡ cho sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc.
Chức năng khách quan của thị trường là phản ánh mối quan hệ cung -
cầu tạo điều kiện góp phần quan trọng cho sự phát triển hài hoà.
Nhưng vi phạm điều mang tính quy luật này của thị trường, sẽ
tạo ra đầu cơ, thị trường của đầu cơ, và chung cuộc sẽ chỉ có được
nền kinh tế của những hành vi đầu cơ, với sự phá hoại không thể hình
dung nổi.
Ví dụ, thời bao cấp trước 1986, vì phá quy luật kinh tế thị trường,
nên đã xảy ra hiện tượng một cái xe đạp Peugeot có thể đổi lấy một
căn nhà, một điều phi lý không thể phi lý hơn trên thế gian này.
Còn hiện tại: Xâm phạm quy luật của kinh tế thị trường đã dẫn đến hệ
quả cả một đất nước năng động rừng vàng biển bạc… nhưng hôm nay rơi
tỏm vào nền kinh tế của những người đi làm thuê và đất nước trở
thành đất nước cho thuê.
Dưới đây là một số nét minh hoạ.
-
Sáp nhập Hà Tây vào thủ đô Hà Nội là một ví dụ điển hình của kinh tế
đầu cơ, là một trong những nguyên nhân trực tiếp tạo ra bong bóng
kinh hoàng của thị trường bất động sản, mặc dù quyết định này bị cả
nước bác bỏ quyết liệt (trong đó có Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt…),
nhưng lợi ích của 3 nhóm “a, b ,c” đã thắng. Cả nước có nhiều cái
bong bóng như thế và đã dẫn tới giá nhà đất của Việt Nam cao nhất
thế giới, cản trở sự phát triển của đất nước. Song cũng chính loại
những quyết định theo “lợi ích 3 nhóm a, b, c” như thế đã trực tiếp
làm nổ các bong bóng của thị trường địa ốc, khiến kinh tế cả nước
rơi sâu thêm nữa vào khủng hoảng cơ cấu với những thiệt hại không
thể lường hết được.
-
Kinh tế bauxite Tây Nguyên, kinh tế KCN Vũng Áng, nạn cho thuê rừng…
là những ví dụ điển hình của kinh tế lobby, của kinh tế bán rẻ lợi
ích quốc gia, của kinh tế đất nước cho thuê, đẩy đất nước đi sâu vào
cơ cấu kinh tế lạc hậu và nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp cho
những nước khác, xâm phạm nghiêm trọng lợi ích và an ninh quốc gia.
-
Phớt lờ những tín hiệu của thị trường, kinh tế tập đoàn nhà nước TKV
(than và khoáng sản Việt Nam) lẽ ra phải biết mình hết lý do tồn tại
từ lâu rồi nhưng vẫn cố đấm ăn xôi; hậu quả là mỏ hết và đã phải
nhập khẩu than ngược trở lại rồi, hầu như toàn bộ vốn thiết bị của
tập đoàn và hàng vạn lao động của nó rơi vào thất nghiệp, tập đoàn
lấy duy trì kinh doanh/liên doanh trái nghề để tồn tại. Nhưng tập
đoàn chỉ có đặc quyền nà nước bao cấp (vốn, quyền kinh doanh, ảnh
hưởng chính trị…) và không có nghề, do đó tất yếu gây hậu quả nghiêm
trọng cho toàn xã hội: Chết mà không chôn được, nên kinh lắm! Cả
nước có không ít tập đoàn nhà nước, nông trường quốc doanh, xí
nghiệp quốc doanh… chết rồi mà không chôn được.
-
Quản lý nhà nước bất cập và chính sách đất đai hiện hành dẫn tới hệ
quả giá thành xây dựng 1km đường cao tốc ở Việt Nam đắt khoảng 5 –
10 lần so với Thái Lan, so với các nước phát triển khác.., thời gian
thi công cũng dài hơn nhiều lần như thế, chất lượng cũng thấp hơn
nhiều lần như thế…
-
Nền kinh tế có quá nhều hành vi đầu cơ lũng đoạn, nên ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng FDI thu hút được. Vì thế khối lượng FDI
thu hút được tuy không nhỏ, nhưng không đẩy nhanh được việc chuyển
đổi cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện đại. Thu hút FDI như
hiện nay có nguy cơ kéo dài sự tụt hậu của đất nước… Đúng là thị
trường Việt Nam vẫn đang rất hấp dẫn đối với FDI, vì là quốc gia có
nhiều tiềm năng lớn và giữ vị thế quan trọng trong khu vực trên cả
hai phương diện kinh tế và chính trị. Tuy nhiên thể chế chính trị và
thể chế kinh tế của đất nước hiện nay là rào cản lớn trong việc thu
hút FDI có chất lượng. Đã đến lúc phải chấm dứt xu thế tranh thủ FDI
với bất kỳ giá nào như đã diễn ra trong 3 thập kỷ vừa qua.
-
Vân vân…
II.2. Bàn tay bà đỡ còn
nhiều yếu kém
Nhìn chung nhà nước làm không tốt vai trò “bà đỡ”; cụ thể là vừa
không làm đúng chức năng của mình, vừa can thiệp quá sâu vào kinh
tế, khiến cho đòi hỏi cải thể chế kinh tế ngày càng nóng bỏng.
Những năm gần đây nhiều công trình nghiên cứu đã đi tới kết luận:
(a) Môi trường kinh doanh bị nạn quan liêu và tham nhũng lũng đoạn
nghiêm trọng, trong đó nổi bật là: quyền kinh doanh và quyền sở hữu
bị xâm phạm, luật thường bị lách hoặc thay thế bằng “làm luật” và
lobby, hiện tượng “bộ chủ quản” và nhiều hình thức “chủ quản” khác
đang hồi sinh khiến thị trường bị các hoạt động theo “lãnh địa” của
các nhóm lợi ích chi phối;
(b) Thiếu vai trò trung gian hữu hiệu của các tổ chức phục vụ các
doanh nghiệp trên các phương diện tài chính, luật pháp và kỹ
thuật.., do đó tăng thêm giá thành và nguy cơ rủi ro trong sản xuất
và kinh doanh – nhất là của các xí nghiệp nhỏ và vừa;
(c) Yếu kém của thể chế chính trị và thể chế kinh tế dẫn tới làm suy
giảm nghiêm trọng khả năng hoạt động và tính hiệu quả của các công
cụ hướng dẫn hay điều tiết thị trường, ví dụ như lãi suất, tỷ giá,
các khuyến khích, các sắc thuế, các chính sách điều tiết khác, vân
vân..;
(d) Cùng với những yếu kém của thị trường, hệ thống thống kê và thông
tin kinh tế không chuẩn xác (hoặc cố ý che giấu hay tô hồng), làm
cho những tín hiệu của thị trường giảm hoặc mất độ tin cậy, gây nguy
hiểm cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hệ điều hành, gia tăng các
yếu tố đầu cơ;
(e) Do những yếu kém nhiều mặt của kinh tế thị trường, ước lượng Việt
Nam chỉ tận dụng được khoảng 30% các hiệp định khung song phương, đa
phương và quốc tế đã ký kết, nên không cải thiện được bao nhiêu năng
lực cạnh tranh, chưa tham gia sâu được vào các chuỗi sản phẩm mặc dù
nền kinh tế nước ta có tỷ trọng xuất khẩu rất cao, thậm chí có nhiều
thua thiệt ngay cả trên thị trường nội địa vì không tân dụng được
những điều đã ký kết, vân vân… Mặt khác,
hội nhập sâu rộng mà không nâng cao được năng lực cạnh tranh đã
khiến nước ta rơi vào thế lệ thuộc ngày càng nặng nề vào bên ngoài
về vốn (ODA, FDI, các khoản vay khác), nguồn cung đầu vào – đặc biệt
từ Trung Quốc (tổng thầu các dự án, các sản phẩm trung gian), và một
số lĩnh vực khác (FDI chi phối 65% xuất khẩu và gần 50% công
nghiệp).
(f) Khu vực kinh tế quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà nước,
chiếm tới trên 60% vốn của toàn xã hội, hiệu quả kinh tế thấp, nợ
nần lớn, sau nhiều năm cải cách đi cải cách lại khu vực kinh tế quốc
doanh hiện nay chiếm vai trò chủ đạo trong nợ của quốc gia và là nơi
có nhiều ung nhọt nguy hiểm cho cả nền kinh tế; đặc biệt nghiêm
trọng là hiện tượng kinh doanh/liên doanh trái nghề và hiện tượng sở
hữu chéo của các tập đoàn nhà nước một mặt vô hiệu hoá đáng kể khả
năng quản lý của nhà nước và hệ thống luật pháp, mặt khác chèn ép
nguy hiểm các doanh nghiệp nhỏ và vừa;
(g) Chưa tạo ra được một thị trường phục vụ tốt nông nghiệp trên cả 2
phương diện đầu vào và đầu ra, khiến cho nông dân bị thiệt thòi
nghiêm trọng và chịu đựng nhiều bất công, đồng thời hạn chế khả năng
cải tiến hay hiện đại hoá nông nghiệp; sau gần hai thập kỷ tham gia
WTO và nhiều hiệp định khung khác nước ta vẫn lạc hậu và phải chịu
nhiều thua thiệt lớn trong xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp chủ
lực như gạo, cà-phê, cao su, thuỷ sản, tiêu…
(i) Còn thiếu nhiều chính sách và biện
pháp thiết thực tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh,
nâng cao chất lượng và vai trò của giới doanh nhân đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trên các phương diện:
nâng cao năng lực kinh doanh, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, cải tiến các mô hình doanh nghiêp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
đỡ đầu các sản phẩm mới, tham gia xây dựng các chính sách vỹ mô và
vi mô, thể chế, chiến lược phát triển… (còn thiếu những quyết sách
làm cho doanh nhân và các nhà công nghệ trở thành những người trực
tiếp thúc đẩy và mở mang kinh tế; xin lưu ý: doanh nhân mới là người
trực tiếp tạo ra công ăn việc làm và làm giầu cho đất nước);
(j) Trước sau không thể duy trì vai trò ngân hàng nhà nước với tính
cách như là một công cụ của quyền lực như hiện nay (nguyên nhân gốc
của lạm phát và của tình hình chi tiêu cũng như phân bổ nguồn lực
không thể kiểm soát được). Dứt khoát phải sớm tính đến vai trò độc
lập của ngân hàng nhà nước như một công cụ của nhà nước pháp quyền,
phải hoạt động theo hiến pháp, chỉ chịu sự giám sát duy nhất của
hiến pháp và quốc hội, qua đó trở thành công cụ tài chính quốc gia
duy nhất, không thuộc bất kỳ đảng phái hay quyền lực chính trị nào,
nhằm đạt hiệu quả tốt nhất đối với toàn bộ nền kinh tế - đây là một
trong những điều kiện tiên quyết không thể thiếu của nhà nước pháp
quyền cũng như nền kinh tế thị trường. Cùng với vai trò độc lập này
của ngân hàng nhà nước là vai trò độc lập của hệ thống thống kê nhất
thiết phải tôn trọng, cùng với cùng một lý do như ngân hàng nhà
nước;
(…)
Tựu trung có thể nhận xét, vai trò “bà đỡ” của nhà nước còn đứng khá
xa đòi hỏi mang lại cho đất nước có một nền kinh tế thị trường được
thúc đẩy bằng sự vận động của quy luật cung – cầu và sự dẫn dắt của
một thể chế chính trị khuyến khích sự phát triển đất nước bằng những
chính sách vỹ mô đúng đắn. Những điều trình bầy trong phần II này
cho thấy đòi hỏi bức xúc phải tiến hành cải cách thể chế chính trị
là trọng tâm số một, song rõ ràng phải luôn luôn gắn với cải cách
thể chế kinh tế để duy trì được tình hình: Cải cách thể chế chính
trị phải gắn liền với những phát triển đạt được trong kinh tế, lấy
thành quả này thúc đẩy cải cách thể chế chính trị. Kinh nghiệm
Myanmar khác hẳn với thực tiễn cải cách ở Liên Xô cuối những
năm 1980 ở chỗ từng bước tiến bộ trong cải cách chính trị ở Myanmar
đều được hậu thuẫn bằng những tiến bộ cụ thể trong cải cách kinh tế,
mặc dù nội tình Myamar khó khăn hơn Liên Xô hồi đó nhiều.
III. Một số gợi ý
Sự thật kinh tế đất nước đang ở trong một giai đoạn có nhiều khó
khăn nghiêm trọng của khủng hoảng cơ cấu kinh tế còn kéo dài, mặc dù
hai năm gần đây bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Có 4 vấn đề lớn nóng
bỏng trong những năm tới nhất thiết phải giải quyết xong một cách cơ
bản vào khoảng năm 2020:
-
Cơ cấu lại nền kinh tế
với mục tiêu giảm bớt lệ thuộc vào bên ngoài, nâng cao hiệu quả và
năng lực cạnh tranh của các khu vực kinh tế trong nước, và phát
triển sản phẩm mới, chuyển đổi sang thời kỳ phát triển theo chiều
sâu;
-
cơ cấu lại thị trường tài chính tiền tệ để nâng cao hiệu quả phân bổ
nguồn lực và kiểm soát được vấn đề nợ;
-
cơ cấu lại khu vực kinh tế quốc doanh, trước hết là các tập đoàn nhà
nước để trực tiếp góp phần vào đổi mới cơ cấu kinh tế;
-
từng bước xử lý vấn đề nợ xấu đang trở nên nguy hiểm.
Cả 4 vấn đề nêu trên đều mang tính cơ cấu nên khó, vừa đòi hỏi nhiều
nguồn lực, vừa đòi hỏi nhiều thời gian, không thể đồng loạt giải
quyết. Thiết kế các giải pháp từng bước cho từng vấn đề lớn này, và
thực thi hài hoà với việc giải quyết từng bước cả 4 vấn đề lớn này
như thế nào… là những bài toán khó. Càng không thể tạo ra tăng
trưởng cao trong những năm tới này; tăng trưởng như hiện nay không
có chất lượng mong muốn và không tạo ra phát triển mới sẽ chỉ có
nghĩa làm cho khủng hoảng sâu sắc hơn. Chưa nói đến sắp tới nếu
thiếu những biện pháp thắt lưng buộc bụng gắt gao và có hiệu
quả sẽ khó tránh đổ vỡ tiếp – trước hết vì nợ nần và vì những mất
cân đối lớn. Chưa nói đến những diễn biến đột xuất từ các vấn đề an
ninh quốc phòng (ví dụ: Biển Đông)[4],
các vấn đề từ thiên tai, dịch bệnh nếu xảy ra... Đây là sự thật
nghiêm khắc, cần nói rõ cho cả nước biết, và cả nước – trước hết là
ĐCSVN – phải thẳng thắn đối mặt.
Cái khó là cả 4 vấn đề nêu trên đều rất nóng, luôn luôn đẻ ra nhưng
hệ quả khó trong quá trình xử lý. Ví dụ cơ cấu lại nền kinh tế, chắc
chắn phải loại bỏ một số sản phẩm (cũng có nghĩa là phải đóng cửa
một số loại doanh nghiệp nào đó, giữa lúc từ vài năm gần đây đã có
tới trên 200.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đóng cửa); trong khi
đó vô cùng thiếu mọi loại nguồn lực cho phát triển các sản phẩm công
nghiệp phụ trợ mà nền công nghiệp hiện có đòi hỏi. Việc cải
cách các doanh nghiệp quốc doanh – trước hết là các tập đoàn kinh tế
nhà nước – cũng đặt ra những khó khăn như vậy: thất nghiệp tăng,
doanh số giảm, nhà nước mất thuế... Nông nghiệp đang đặt ra nhiều
bài toán rất khó và nhạy cảm, với khoảng trên 50% lao động cả nước
làm nông nghiệp, với bình quân ruộng đất canh tác 0,3 ha/1 lao động,
luật đất đai và thể chế chính trị hiện tại hoàn toàn bất cập cho
việc đi lên một nền nông nghiệp của một quốc gia công nghiệp... Cải
cách thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng cũng luôn luôn đặt
ra nhiều vấn đề rất nhạy cảm. Lấy tiền ở đâu tăng cường tiềm lực
quốc phòng đang vô cùng bức thiết lúc này? Đời sống những người làm
công ăn lương, của các bộ phận dân cư nghèo ở nông thôn và thành
thị, ở các vùng sâu vùng xa… đang vô cùng nhức nhối… Công ăn việc
làm của những người đến tuổi lao động? Hàng chục vạn lao động đang
đi làm thuê ở nước ngoài, hàng vạn phụ nữ phải đi lấy chồng nước
ngoài vì nghèo đói!.. Có thể nói, đất nước có gì có thể bán được hầu
như đã bán hết rồi, từ tài nguyên, đến môi trường, đất đai, lao động
rẻ, vị trí địa lý… Song nghèo hèn và bế tắc vẫn hoàn nghèo hèn và
bế tắc… Hình như từ lâu đã bắt đầu bán cả linh hồn nữa, vì
đang cam chịu số phận bị đè nén, èo uột, leo dây và lệ thuộc… 40 năm
độc lập rồi vẫn chưa
cai sữa được ODA và các thứ đi xin khác! Không biết
niềm tự hào dân tộc còn lại là bao!?.. … Chưa nói đến thực tế đất
nước đang có nhiều vấn đề nóng, rất nóng khác, trong hầu hết mọi
lĩnh vực của cuộc sống: giáo dục, y tế, giao thông vận tải, năng
lượng, môi trường, tệ nạn tham nhũng, chênh lệch giầu nghèo và bất
công lớn quá, sự tha hoá trong xã hội từ những nguyên nhân kinh tế…
Một sản phẩm mới ra đời trong quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế cũng
đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định mới định hình được…
Một ngành kinh tế mới càng khó hơn, trong khi nguồn nhân lực
và thể chế chính trị gần như bất cập, rồi lại còn phải chuyển toàn
bộ nền kinh tế đất nước đi vào một thời kỳ phát triển mới như thế
nào đây?!.. Còn làm tiếp như hiện nay thì đi vào ngõ cụt!.. Và sự
thật là bộ não lãnh đạo của đảng với cái “think tank” rất đồ sộ đang
có trong tay lúc này vẫn không sao mách bảo được cho đất nước nên
làm sản phẩm gì, làm như thế nào, rồi chuyển đổi cả nền kinh tế đất
nước sang thời kỳ phát triển mới ra sao, cái định hướng xã hội chủ
nghĩa không giúp được những việc cam go này… Vân vân… Thực tế của
bức tranh kinh tế đầy thách thức này là sản phẩm kết tụ lại của cả
một quá trình chế độ chính trị do ĐCSVN nắm quyền điều hành toàn
diện và tuyệt đối dẫn dắt đất nước theo con đường “độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội” từ 40 năm nay. Thực tế của bức tranh kinh
tế này không phải là một sản phẩm nhất thời hoặc của riêng một người
hay một nhóm người nào, cũng không phải là sản phẩm của một vài khoá
nhiệm kỳ đại hội nào, mà là sản phẩm của ĐCSVN nắm quyền cai trị đất
nước trong 40 năm đầu tiên độc lập thống nhất. Xin nhắc lại ở đây để
không bao giờ quên trong khi so sánh và đánh giá chính đất nước mình
40 năm qua: Chiến tranh Triều Tiên kết thúc 1953, Hàn Quốc bắt đầu
sự nghiệp công nghiệp hoá vào khoảng năm 1960, với GDP p. c. lúc ấy
là 81 USD; năm 1990 trở thành NIC (nước mới công nghiệp hoá).
Từ minh hoạ đôi điều nói trên để đi đến kết luận dứt khoát: Nguy cơ
bất cập của hệ thống chính trị nói chung và của thể chế kinh tế hiện
hành nói triêng trước những vấn đề kinh tế phải giải quyết trong
những năm của khoá đại hội XII tới rất lớn. Mọi thứ kinh tế bánh vẽ
để trấn an, hoặc sự kiên định duy ý chí định hướng xã hội chủ nghĩa
để bảo vệ hệ thống chính trị toàn trị như đang tồn tại sẽ chỉ đem
thêm thảm hoạ mới cho nhân dân và giúp Trung Quốc bá quyền xiết chặt
hơn nữa cái tròng lệ thuộc trên cổ đất nước ta mà thôi. Tất cả càng
nói lên tính quyết liệt của một thời kỳ cải cách đang đặt ra phía
trước cho đất nước, có lẽ quyết liệt hơn và phức tạp hơn rất nhiều
và cũng nhạy cảm hơn rất nhiều so với lúc phải tiến hành đổi mới
thời kỳ 1986, vì tình hình khu vực và quốc tế ngày nay hoàn toàn
khác, sự lệ thuộc của đất nước lại quá nguy hiểm…
Thấy và nghĩ gì nói vậy, còn phiến diện lắm, cho nên ngoài việc nêu
lên những nhận xét trên của cá nhân, tôi xin phép không bàn về các
giải pháp, xin để cho các chuyên gia kinh tế làm việc này tốt hơn.
Trong bài này, tôi xin gửi gắm nỗi mong mỏi của mình là đảng – trước
hết là Bộ Chính trị và Tổng bí thư – phải có ý chí tiến hành tổng
kết trung thực tình hình kinh tế đất nước; tổng kết được rồi thì
phải nói thực với toàn đảng và với cả nước, để chắt lọc mọi trí tuệ,
mọi nỗ lực, đưa kinh tế nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng cơ cấu
trầm trọng hiện nay. Thiết nghĩ đất nước cần có một chiến lược kinh
tế, sao cho đến năm 2020 khắc phục xong khủng hoảng cơ cấu
kinh tế hiện nay, phát triển được những điều kiện kết cấu hạ tầng
vật chất kỹ thuật cần thiết cho bước phát triển mới, xây dựng được
nguồn nhân lực và thể chế kinh tế với chất lượng mới; trong những
năm tới này đất nước cũng phải tích luỹ được lực mới, để từ năm 2020
có thể bắt tay vào xây dựng một nền kinh tế hiện đại hoá đúng với
nghĩa phát triển là động lực bền vững của tăng trưởng kinh tế. Đặt
vấn đề như vậy chất lượng, chứ không phải số lượng, của tăng
trưởng kinh tế mới là mục tiêu quyết định – phục vụ nhiệm vụ trung
tâm là phát huy yếu tố con người làm nên sức mạnh quốc gia.
Nếu thế cũng phải cất đi cái khẩu hiệu bánh vẽ “đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”,
càng không thể trút hết mọi tội lỗi lên cái lá diêu bông: Nguyên
nhân của mọi nguyên nhân của tình trạng kinh tế đất nước hiện nay là
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không theo
kịp công cuộc đổi mới… - mà lẽ ra phải quyết định vứt bỏ cái lá diêu
bông!
Chỉ có một lối ra khỏi tình hình nguy hiểm hiện nay để phát triển
là: Trí tuệ, dân chủ và ý chí cứu nước phải là những động lực
chính trị của sự nghiệp phát triển kinh tế trong những năm tới, bắt
đầu từ việc đại hội XII quyết định tổ chức lại ĐCSVN để phấn đấu trở
thành đảng của dân tộc, dấy lên sự tham gia của toàn dân tộc chuyển
đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới năng động và bền vững./.
Hà Nội, tháng 9 - 2014
Nguyễn Trung
[1] Các nước được xếp loại “nước đang phát
triển có thu nhập trung binh” có GDP p.c. trong khung 7000 –
12000 USD, nước ta hiện nay mới đạt khoảng 1350 USD. Để lọt
được vào khung này, nước ta cần khoảng 1 – 2 thập kỷ nữa.
[2] Thật ra rất khó nói nước ta có chiến
lược phát triển kinh tế với đúng nghĩa, nó mang quá nhiều
nét dang dở của tự phát; bởi vì chiến lược được hiểu theo
những gì đã được viết ra trong nghị quyết thường không bao
giờ được thực hiện nghiêm túc, hay thay đổi theo nhiệm kỳ
đại hội, bị xé lẻ theo tỉnh hay theo ngành; mỗi tỉnh lại là
một nền kinh tế riêng hoàn chỉnh, được quy hoạch, tính toán
riêng cho tỉnh… (cái gọi là “nền kinh tế GDP tỉnh”). Chiến
lược công nghiệp hoá là một chiến lược tổng thể, song cũng
được thay đổi tuỳ tiện qua các khoá đại hội. Chiến lược kinh
tế vùng hầu như chỉ nằm trên giấy, trong khi đó cuộc sống tự
nó tạo ra các liên kết giữa các ngành và các địa phương theo
nhu cầu của cuộc sống, không nằm trong nhị quyết nào cả. Hầu
như đến nay chưa có một quy hoạch phát triển kinh tế nào
đứng vững – nhất là quy hoạch phát triển sản phẩm nông
nghiệp, khoáng sản… Vân vân…
[3] Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
[4] Riêng đối phó với sự kiện giàn khoan
HD 981 kinh tế đất nước mất khoảng 1% GDP.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 22-9-14
(Viet - studies)
Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, như Bộ Luật dân sự lại còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của nghị định và thông tư.
Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, như Bộ Luật dân sự hay Luật đất đai chẳng hạn, tuy đã được ngành lập pháp ban hành nhưng còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của những văn kiện lập quy như nghị định và thông tư của ngành hành pháp. Đó là chưa kể đến một thực tế vẫn diễn ra thường xuyên là các cơ quan công quyền, đặc biệt Chính phủ và các Bộ, khi ban hành văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thi hành một đạo luật đã tự ý áp đặt cách giải thích luật của mình hoặc đặt ra các thủ tục mà luật không minh định nhằm hạn chế hoặc tước bỏ quyền lợi của người dân vốn đã được đạo luật ấy công nhận.
Trong một nhà nước pháp trị, cơ quan lập pháp và các thành viên của nó phải chủ động soạn thảo dự án luật, chứ không chỉ thụ động ngồi chờ các Bộ trình sẵn để tranh luận và biểu quyết. Chính những đại biểu dân cử sẽ chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên môn từ các chuyên gia trong lĩnh vực đối tượng của đạo luật. Thực thi quyền soạn thảo luật như vậy cũng sẽ giúp giảm thiểu tình trạng “nghị gật” trên diễn đàn quốc hội.
Thượng tôn luật pháp còn đòi hỏi mọi văn kiện lập pháp và lập quy đều phải tuân thủ hiến pháp. Công dân được quyền thách thức tính hợp hiến của luật và các văn bản dưới luật bằng việc khởi kiện trước tòa bảo hiến. Tòa bảo hiến - dù được tổ chức như một định chế riêng biệt hay là một bộ phận của tòa án tối cao - sẽ đảm đương công việc bảo vệ hiến pháp và có thể đưa ra phán quyết hủy bỏ các đạo luật, nghị định, thông tư hoặc quyết định vi hiến.
Tình trạng thông tư và nghị định của ngành hành pháp mâu thuẫn với các đạo luật của cơ quan lập pháp như hiện nay chắc chắc cũng không thể tồn tại nếu có tòa bảo hiến. Quốc hội khi đó sẽ nghiêm túc hơn khi soạn thảo luật, cơ quan công quyền sẽ cẩn thận hơn khi điều hành quốc gia. Không ai có thể tiếp tục tại vị để đùa với dân khi mà hôm nay ban hành quyết định này, ngày mai lại sửa đổi, thậm chí hủy bỏ chính quyết định đó!đạo luật và văn kiện lập pháp tương đương khác do quốc hội hay nghị viện ban hành một cách minh bạch.
Tất nhiên, khi hành xử quyền hành pháp, chính phủ và các cơ quan trực thuộc có thể soạn thảo những văn kiện lập quy để những viên chức trong bộ máy công quyền dễ dàng thực hiện công việc thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Người dân lẽ ra không cần biết đến những văn kiện lập quy này, đặc biệt những loại có đóng dấu “mật”, vì họ chỉ phải tuân thủ những gì do chính cơ quan mà họ trực tiếp bầu nên soạn thảo và ban hành.
Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, như Bộ Luật dân sự lại còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của nghị định và thông tư.
Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, như Bộ Luật dân sự hay Luật đất đai chẳng hạn, tuy đã được ngành lập pháp ban hành nhưng còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của những văn kiện lập quy như nghị định và thông tư của ngành hành pháp. Đó là chưa kể đến một thực tế vẫn diễn ra thường xuyên là các cơ quan công quyền, đặc biệt Chính phủ và các Bộ, khi ban hành văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thi hành một đạo luật đã tự ý áp đặt cách giải thích luật của mình hoặc đặt ra các thủ tục mà luật không minh định nhằm hạn chế hoặc tước bỏ quyền lợi của người dân vốn đã được đạo luật ấy công nhận.
Trong một nhà nước pháp trị, cơ quan lập pháp và các thành viên của nó phải chủ động soạn thảo dự án luật, chứ không chỉ thụ động ngồi chờ các Bộ trình sẵn để tranh luận và biểu quyết. Chính những đại biểu dân cử sẽ chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên môn từ các chuyên gia trong lĩnh vực đối tượng của đạo luật. Thực thi quyền soạn thảo luật như vậy cũng sẽ giúp giảm thiểu tình trạng “nghị gật” trên diễn đàn quốc hội.
Thượng tôn luật pháp còn đòi hỏi mọi văn kiện lập pháp và lập quy đều phải tuân thủ hiến pháp. Công dân được quyền thách thức tính hợp hiến của luật và các văn bản dưới luật bằng việc khởi kiện trước tòa bảo hiến. Tòa bảo hiến - dù được tổ chức như một định chế riêng biệt hay là một bộ phận của tòa án tối cao - sẽ đảm đương công việc bảo vệ hiến pháp và có thể đưa ra phán quyết hủy bỏ các đạo luật, nghị định, thông tư hoặc quyết định vi hiến.
Tình trạng thông tư và nghị định của ngành hành pháp mâu thuẫn với các đạo luật của cơ quan lập pháp như hiện nay chắc chắc cũng không thể tồn tại nếu có tòa bảo hiến. Quốc hội khi đó sẽ nghiêm túc hơn khi soạn thảo luật, cơ quan công quyền sẽ cẩn thận hơn khi điều hành quốc gia. Không ai có thể tiếp tục tại vị để đùa với dân khi mà hôm nay ban hành quyết định này, ngày mai lại sửa đổi, thậm chí hủy bỏ chính quyết định đó!
Không biết từ lúc nào, khát vọng về một đẳng cấp thế giới đã ám ảnh
người Việt từ sự khoe khoang sở hữu cho đến du lịch, bóng đá… Từng con
người hoặc từng đám đông đang cố nhoài người tách ra khỏi thực tế của
một quốc gia, chỉ để chứng minh rằng mình có một đẳng cấp thế giới.
Từ trái qua: Cô Trần Thị Thanh, ông Lê Quang Hạnh, ông Dương Văn Phước thôn Sơn Hải tường thuật lại vụ việc.
Sự việc xảy ra vào ngày 27/3/2014 vừa qua, khi người dân ở thôn Sơn Hải – xã Phước Dinh- huyện Ninh Phước- tỉnh Ninh Thuận kéo nhau ra UBND tỉnh để làm rõ việc chính quyền bắt người trái pháp luật.
Được biết trước đó ngày 26/3/2014 cơ quan công an tỉnh Ninh Thuận đã khởi tố vụ án chống người thi hành công vụ xảy ra tại khu vực tận thu quặng titan của Công ty TNHH MTV Quang Thuận (gọi tắt Công ty Quang Thuận). Điều đáng nói, những người bị bắt đều là những người phản đối việc hoạt động gây ô nhiễm của nhà máy khai thác Titan.
Tiếp xúc với người dân nơi đây, PV Dân Luận đã có dịp được nghe kể về những câu chuyện đằng sau nổi ẩn khuất, sự bất công của chính quyền đối với người dân, trong việc ngăn chặn nhà máy gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường nước sinh hoạt trong thôn.
Theo ông Dương Văn Phước cho biết: “kể từ khi UBND tỉnh Ninh Thuận cấp phép cho công ty TNHH Quang Thuận đi vào hoạt động khai thác Titan sát với khu vực dân ở, cuộc sống của người dân trong thôn bị đảo lộn hoàn toàn, dân ko có nước để sinh hoạt vì nguồn nước sạch bị ô nhiễm nặng , nhà cửa bị nứt nẻ vì cát lún, mồ mả tổ tiên thì bị chôn vùi dưới cát trắng, đau lòng lắm”.
Nguồn nước ngầm người dân Sơn Hải sử dụng bị vẩn đục và ô nhiểm nghiêm trọngVùng đất Sơn Hải – Ninh Thuận là một vùng khô hạn, từ trước tới nay nguồn nước sạch ở đây vốn dĩ đã rất thiếu thốn, người dân sinh sống quanh đây đã phải chắt chiu và giữ gìn để bảo vệ nguồn nước ít ỏi này.
Từ khi công ty TNHH Quang Thuận được cấp phép đi vào khai thác Titan ở khu vực này thì nguồn nước ngầm ngày càng giảm sút nghiêm trọng, không những thế còn bị ô nhiễm rất nặng. Việc tắm rửa, giặt đồ người dân cũng ko dám lấy nguồn nước này ra sử dụng. Hiện nay, dân phải mua nước bình ở ngoài về sinh hoạt.
Ngoài ra việc khai thác Titan còn gây ra những hậu quả rất nặng nề, làm biến dạng khu vực bãi cát ven biển, làm nhiễm mặn và cạn kiệt nguồn nước ngọt, ảnh hưởng đến rừng phòng hộ ven biển, gây hậu quả rất nghiêm trọng cho môi trường.
Từ khi nhà máy Titan đi vào hoạt động khiến cát lún, mồ mả tổ tiên của người dân bị chôn vùi dưới cát sâu. Để ngăn chặn mồ mả bị cát chôn vùi họ phải dùng bao tải ngăn cát lấpKhông qua ý kiến dân, vẫn tự ý cấp phép cho công ty đi vào hoạt động
Công trình khai thác Titan của công ty Quang Thuận được UBND tỉnh cấp phép đi vào hoạt động ngày 22/06/2012 với diện tích 87ha. Tuy nhiên, trước khi cấp phép cho công ty này, chính quyền UBND tỉnh đã ko họp lấy ý kiến của dân, tự ý cho công ty khai thác với lý do là theo “chủ trương của Chính phủ”.
Sau khi đi vào hoạt động, công ty Quang Thuận đã không thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm đảm bảo tới môi trường, làm cạn kiệt nguồn nước ngầm, mồ mã bị chôn vùi dưới cát, nhà dân bị nứt nẻ vì lún đất, gây sạt lỡ nghiêm trọng tại khu vực người dân đang sinh sống.
Nhà dân bị nứt, sạt lở do hậu quả của việc khai thác TitanQuá bức xúc với tình trạng trên, đã nhiều lần người dân trong thôn viết đơn kiến nghị lên UBND xã, huyện, tỉnh nhưng ko được chính quyền ở đây giải quyết mà vẫn dửng dưng trước ý kiến và nguyện vọng của dân, nên buộc lòng người dân trong thôn cùng nhau phải vào công ty để ngăn việc khai thác.
Dân không sai vẫn đấu tố cho dân có tội
Trước sự việc công ty khai thác Titan Quang Thuận làm ảnh hưởng đến môi trường và đảo lộn cuộc sống của người dân trong thôn Sơn Hải, ngày 26/03/2014 hơn 30 người dân trong thôn kéo nhau ra trụ sở UBND tỉnh để đòi giải quyết và bắt dừng ngay hoạt động của nhà máy khai thác Titan.
Kể về sự việc hôm đó, ông Dương Văn Phước người bị bắt cho biết thêm: “ trước đó dân chúng tôi cùng nhau ra UBND xã để đề nghị được giải trình không cho nhà máy đi vào hoạt động nữa, nhưng ông Chiêu Tổng bí thư xã và ông Trần Thành Lập là công an huyện trả lời: ở huyện, xã không có thẩm quyền đề nghị dân lên tỉnh đề nghị tỉnh giải quyết, nghe như vậy thì chúng tôi vẫn ăn mặc chỉnh tề lên đó với mục đích gặp UBND tỉnh theo lời của ông Trần Thành Lập, gặp một cách nghiêm chỉnh giữa lãnh đạo và người cựu chiến binh, như vậy lúc 12h trong khi ngồi đợi và uống chưa hết một nửa ly nước thì một lúc sau có vài chục công an ập tới bắt chúng tôi và liệng lên xe chở đi, tôi cũng ko biết rõ là sự việc như thế nào. Họ bắt đi 5 người”.
Tìm hiểu sâu hơn về việc này chúng tôi được biết, tất cả 5 người bị bắt là ông Dương Văn Phước, Đỗ Văn Đức, Lê Quang Hạnh, Nguyễn Văn Song, Lê Công Chỉ đều là những người được dân trong thôn cử đi để làm việc với UBND tỉnh.Nhưng chưa kịp làm việc thì bị bắt đi đâu ko rõ.
Ông Lê Quang Hạnh kể lại: “ lúc bị bắt và đẩy lên xe họ làm chân tôi bị chảy máu, tôi có nói với họ là mắt tôi kém ko thấy gì đâu mấy anh làm cận thận chứ tôi ko có tội gì, thì mấy anh mới bắt đầu nắm áo đẩy vô, khi bị bắt đi thì tôi ko biết ông Dương Văn Phước và ông Đỗ Văn Đức được bắt đi đâu. Riêng tôi, ông nguyễn Văn Song và ông Lê Công Chỉ thì được đưa về huyện Thuận Nam, lúc đó đã là hơn 12h”.
Ông Hạnh là một trong những người dân trong thôn đứng lên ngăn chặn việc nhà máy khai thác Titan Quang Thuận làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, và lấp hết mồ mã tổ tiên. ông Hạnh cho biết, ông cũng ko biết mình bị bắt vì nguyên nhân gì.
Trước đó khi ngày 18/03/2014 trong một lần cùng mọi người trong thôn ngăn chặn việc khai thách của công ty Quang Thuận, ông Hạnh bị công an dùng dùi cui đánh thẳng vào mặt khiến ông mất máu rất nhiều. Bên cạnh đó ông còn bị vu khống đánh trọng thương 2 công an khác phải nhập viện.
Được biết, ông Hạnh là một cựu chiến binh bị mờ 2 mắt không thể nào có đủ sức để đánh trọng thương công an. Không chỉ vu oan cho dân đánh công an, chưa dừng lại ở đó một số tờ báo lề phải còn cho rằng người dân đã ko giữ được bình tĩnh và đã dùng xăng đốt kho chứa thiết bị, đập phá tài sản của công ty (theo Thanh niên số ra ngày 27/03/2014).
Nên lắng nghe hơn là cáo buộc
Nhắc tới sự việc trên cô Trần Thị Thanh ko giấu được nỗi bức xúc kể lại: “ việc đốt cháy công ty là ko có thật đâu chú ah! Chỉ là có mấy thằng nhóc trẻ trẻ chừng 14-14 tuổi bức xúc quá nó đốt có 3 tấm nệm thôi, chứ ko có đốt cháy công ty hay phá hoại kho của công ty gì hết”.
Đồng thời việc UBND xã đã không giải quyết đúng theo công văn Tỉnh Ủy gửi xuống ngày 18/03/2014 nên buộc lòng người dân trong thôn Sơn Hải phải xuống tận công ty để cùng nhau tháo dỡ đường ống dẫn nước thải titan. Thêm vào đó việc dân đánh đuổi trọng thương công an như báo tuổi trẻ số ra ngày 27/3/2014 là không đúng sự thật, chính công an và an ninh là những người đã hành hung, xông vào đánh đập một số người dân, trong đó có ông Lê Văn Hạnh là người bị đánh nặng nhất, thấy vậy bà con mới xông vào giải vây. Sau đó công an và an ninh bỏ chạy và họ đổ lỗi cho người dân đuổi đánh.
Nội dung công văn số 35 UBND huyện gởi xuống ngày 18/3/2014 yêu cầu giải quyết khiếu nại của bà con nhưng không được thực hiệnCô Thanh cho biết thêm: “từ khi vụ việc trên xảy ra, trong thôn mọi lối ra vào đều bị phong tỏa. Cho nên, ngày 28/3/2014 người dân buộc lòng phải đi bộ gần 30km từ thôn lên UBND tỉnh để đòi thả người”.
Theo nguồn tin người dân cho hay, giám đốc CA tỉnh đã ra điều kiện với người dân rằng nếu muốn thả người thì phải để công ty Titan Quang Thuận tiếp tục hoạt động và người dân phải dừng lại mọi hoạt động gây mất trật tự công cộng.
Đồng thời việc UBND tỉnh cam kết sẽ đầu tư hệ thống nước sạch cho nhân dân nhưng tất cả chỉ trên mặt giấy tờ.
Nhìn lại việc 6 người dân trong thôn bị bắt, hiện tại đã 5 người đã được thả, riêng ông Dương Văn Phước bị truy tố và đem ra xét xử vào ngày 01/08/2014 vào tội “chống người thi hành công vụ, và đánh trọng thương công an”.
Ông bị kết án “OAN” 22 tháng tù treo, nhưng trước đó luật sư bào chữa của ông Phước đã đề nghị bên phía công an đưa ra nhân chứng và vật chứng về việc ông Phước đánh trọng thương 2 công an, thì lúc này họ không đưa ra được bằng chứng mà luật sư yêu cầu, đồng thời vẫn kết tội cho ông Phước trước sự chứng kiến của hàng trăm người dân có mặt trong phiên tòa.
Trước khi diễn ra phiên tòa xét xử ông Phước người dân trong thôn Sơn Hải đã bị lực lượng công an, an ninh phong tỏa mọi lối ra vào, nói là phiên tòa CÔNG KHAI nhưng lực lượng an ninh ở đây ko cho người dân đi xe máy hay bất kỳ một phương tiện nào, buộc lòng người dân phải lội bộ hơn 30km lên tòa án huyện Thuận Nam để ủng hộ tinh thần ông Phước và phản đối phiên tòa bắt công, mờ ám.
Kết
Ngày 26/09/2014 sắp tới đây, phiên tòa phúc thẩm của ông Phước sẽ diễn ra tại tòa án tỉnh Ninh Thuận, gia đình ông Phước và mọi người dân trong thôn cũng đã đồng loạt ký tên vào đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho ông Phước, và tiếp tục đồng hành dõi theo phiên tòa này. Ngoài ra, hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm cũng đã viết thư tuyên bố phản đối việc nhà cầm quyền bắt giam người vô tội.
Qua sự việc này có thể thấy rõ được những ẩn khuất, nỗi lòng của dân trong lúc rối ren nhất, và khi lắng nghe tiếng lòng từ dân ta mới cảm nhận được sự bức xúc, lòng căm phẫn tới những bất công mà họ phải gánh chịu, từ việc làm trái lương tâm của chính quyền, đến việc làm không đạo đức của những người viết báo quy chụp tội lỗi cho họ… Tất cả chỉ vì để bảo vệ một đơn vị thi công khai thác tại đây mà bỏ qua tiếng dân, trốn tránh trách nhiệm, vậy không đáng để được goi là chính quyền do dân và vì dân.
Được biết, trước đây đã có rất nhiều nhà báo đến tìm hiểu sự việc này như báo Tuổi Trẻ, báo Pháp Luật, báo tỉnh Ninh Thuận.v.v.. Tuy nhiên báo chí chính thống lại không đưa tin đúng sự thật mà còn dùng ngòi bút xuyên tạc chỉ trích đổ lỗi cho người dân khiến họ rất bức xúc. Khi trao đổi với chúng tôi, người dân thôn Sơn Hải rất buồn vì điều này họ hi vọng chúng tôi mang sự thật phơi bày trước công chúng để mọi người có thể hiểu được sự việc chính xác và minh bạch hơn.
Là một phóng viên, chúng tôi nhận thấy cần phải đưa thông tin đúng sự thật để giải oan cho những người dân chất phác thôn Sơn Hải. Đồng thời tố cáo chính quyền không những không bảo vệ nhân dân mà còn lợi dụng quyền lực ức hiếp người dân vô tội khiến họ phải chịu nhiều oan ức.
Một số hình ảnh cận cảnh nhà máy khai thác Titan MTV Quang Thuận:
Thành Công & Thuốc Lá thực hiện
Hôm nay có ông anh nói có ý bảo mình quen Đăng, ông ấy mới biết Đăng.
Nói thế cũng đúng, nhưng nói đi nói lại thì đi lại giang hồ ngần ấy năm,
quen biết thì bao nhiêu người mà tính nổi. Nên chuyện mình quen với ai
là một chuyện, chứ còn việc họ làm thì là họ làm, mình đâu liên quan
được.
Nhưng thôi, dù sao cũng quen Ngô Nhật Đăng, nhân vật đang thu hút dư luận cùng với Phạm Chí Dũng. Cũng nên cần có vài câu bày tỏ cái nhìn của mình cho thiên hạ tham khảo. Không biết nội tình cũng nhân tiện chém gió cho nó thành bài, chứ chả nhẽ viết cụt lủn.
Cái thứ hai là sĩ diện. Tiền nhiều lúc không có, trong túi có một vài trăm nhưng sẵn sàng trả tiền cà phê, ăn sáng cho mấy người. Lúc nào cũng ra vẻ quan trọng, hiểu biết nhiều, quan hệ rộng. Thực ra thì lông bông, mỗi thứ làm một tí, cả thèm chóng chán. Mà cũng chả biết hiểu nhiều hay không, nhưng có câu chuyện nào cứ kể đi kể lại.
Con người như Ngô Nhật Đăng thật ra là vô hại thậm chí là vô tích sự luôn. Không có mưu kế thâm sâu gì, làm việc theo cảm hứng, được ai khen là lâng lâng lên mây, cứ thế mà diễn.
Vì cái tính ba hoa, hóng hớt được đâu tí tin tức gì là làm bộ như có quan hệ, thông tin quan trọng. Như vụ Lê Anh Hùng ở trại tâm thần, Ngô Nhật Đăng lăng xăng hóng được tin, chạy đôn đáo ra vẻ là người đứng ra lo thu xếp cho Hùng ra trại. Rút cục để Lê Anh Hùng nghi là an ninh. Thật ra trong vụ này, an ninh cũng muốn thả Lê Anh Hùng lắm rồi, đang tìm cách này nọ tung thông tin để thả Lê Anh Hùng làm sao cho suôn sẻ. Ngô Nhật Đăng vớ được cái tin ấy, thế là lon ton cầm đèn chạy trước ô tô.
Cuối cùng là bị Lê Anh Hùng nghi là an ninh, mà thằng Hùng ở hoàn cảnh nó trong trại, thấy tự nhiên ông Đăng vào gặp chém ào ào mà không hề bị khó khăn gì, Hùng nó nghi cũng phải.
Trước hôm Lê Anh Hùng ra trại mấy hôm, mình cả chị Bùi Hằng đến nhà Hùng. Gặp ngay môt tốp an ninh, công an ở nhà Hùng. Họ đang thuyết phục mẹ Hùng làm đơn xin Hùng về. Họ đưa cả đơn mẫu để mẹ Hùng làm. Thấy mình cả chị Hằng đến họ đứng dây đi ra, dặn sẽ quay lại sau. Mẹ Hùng định viết đơn theo mẫu thì mình ngăn, mình nói nếu bác quyết định viết thì để cháu viết hộ cho, chứ viết theo họ thì dở lắm, có gì sơ sảy về thằng Hùng nó trách bác. Thế là mình viết đơn, xong mang đi đánh máy ở nhà anh Kim Môn, sau đó photo đơn cho các anh em khác nữa duyệt . Khi anh em ok nội dung thì mình bảo Lã Dũng mang xe ô tô đến chở mẹ Lê Anh Hùng đi nộp đơn.
Hôm mẹ Hùng báo nó được ra trại, mấy xe đi đón. Ngô Nhật Đăng đi đầu như người hùng đến tiếp thu chiến thắng. Hôm đó mình ở nhà, nhìn ảnh, đọc tin đã thấy mắc cười. Sau Lê Anh Hùng tố Ngô Nhật Đăng là an ninh, mới ra vào trại thăm nó dễ, đón nó về lại thao thao đủ thứ chuyện chính khách tầm quốc tế đã can thiệp thế nào cho Hùng ra.
Đáng ra Ngô Nhật Đăng cứ lẹt đẹt mãi thế trong phong trào đấu tranh, vì nhát gan, tài không, chí không. Nhưng lại xảy ra vụ điều trần tự do báo chí bên Hoa Kỳ. Lúc này nhiều người có kinh nghiệm và có bề dày đấu tranh lại bị vào vòng cấm xuất cảnh. Thế nên hết nạc vạc đến xương. Ngô Nhật Đăng có chân trong đoàn người lên đường đi Hoa Kỳ.
Nói gì thì nói,chuyện thiên hạ bảo đi thế được du lịch miễn phí này nọ là một khía cạnh. Chứ nói hết nhẽ thì cũng phải công nhận những người đi đó cũng can đảm.
Đời nó hay ở chỗ, đến lúc ấy bỗng dưng nhờ mẽ ngoài bệ vệ, lại thêm khoản nổ chuyên nghiệp, phong thái tự tin , đĩnh đạc rất đường bệ. Ngô Nhật Đăng đã làm khá tốt phần việc của mình. Thế là nhờ chuyến đi của mấy người ấy, được thế tiến lên. Khi về HNBDL ra đời.
Tất nhiên HNBĐL ra đời sau chuyên đi kia, ắt phải có vài nhân vật trong chuyến đi đột phá ấy có chân trong ban điều hành. Nước cờ này là hợp lý, vì những thượng nghị sĩ, quốc hội Hoa Kỳ ít ra cũng đã gặp mặt , nói chuyện với một số thành viên trong ban điều hành.
Đời đưa đẩy làm Ngô Nhật Đăng lên như diều, vụt cái chói sáng, giữ chân trị sự hay là cái gì gì đó, đại khái quan trọng trong HNBĐL cho đến khi xảy ra chuyện vừa qua. Đến lúc này thì buộc phải can đảm khi bao ánh mắt nhìn vào, Ngô Nhật Đăng lại một lần nữa đóng trọn vai người hùng. Nhưng Ngô Nhật Đăng thì tài gì mà quản lý được một tờ báo.?
Không có tài, lại thích thể hiện, cho nên việc Ngô Nhật Đăng múa may , quay cuồng một hồi rồi gặp phải sự cố vừa qua là tất nhiên.
Nhưng nhìn lại thì nguyên nhân của sự cố ở HNBĐL vừa qua không phải vì Ngô Nhật Đăng bất tài, thích thể hiện, thích đi theo kiểu của mình. Đó là một nhẽ thôi. Còn có những nhẽ khác thì phải hỏi Liên Sơn, tác giả mở màn cuộc chấn chỉnh đấu tranh dân chủ và hỏi Phạm Chí Dũng đã được Liên Sơn tư vấn quản lý HNBDL thế nào.?
Ngô Nhật Đăng chắc chắc không phải an ninh hay tay sai an ninh. Đó là những gì tôi quan sát anh ta từ trước đến nay. Anh ta có thể bất tài, có thể hay ba hoa. Nhưng anh ta không phải là an ninh. Lẽ ra để anh ta làm ở bộ phận giao tiếp, đối ngoại của HNBĐL để anh ta nhận vai trò nhậu nhẹt, làm huyên náo viên, phát biểu chém gió thì phát huy khả năng của anh ta hơn.
Còn về nhà báo Phạm Chí Dũng. Anh Dũng chưa am hiểu gì về những người đấu tranh, trước giờ anh giữ vai trò viết báo, phân tích, bình luận một cách độc lập. Nếu như sau này anh có hiểu về những thành phần đấu tranh, thì sự hiểu biết đó cũng không nhiều. Chưa kể sau mỗi cá nhân lại là một phe nhóm, một tổ chức nào đó nữa. Với hiểu biết về cá nhân những người đấu tranh không nhiều ( cái này nhiều bạn sẽ bảo tôi lên lớp chê bai, nhưng cứ hỏi thẳng anh Dũng xem có phải thế không ) mà anh Dũng giữ chức chủ tịch quản lý nhân sự thì cái chuyện vừa rồi đến, chả có gì ngạc nhiên.
Tất nhiên thì câu chuyện về Phạm Chí Dũng là an ninh, đóng khổ nhục kế để cài vào phá hoại như một số người nói , tôi không tin. Bạn nào đưa ra dẫn chứng về Phạm Xuân Ẩn hay X30 hay Vũ Ngọc Nhạ để minh hoạ cho trường hợp Phạm Chí Dũng chỉ là so sánh thôi.
Chuyện vừa qua, đúng không phải là chuyện mâu thuẫn cá nhân. Nó xuất phát từ một ông không biết gì về báo chí lại làm trị sự tờ báo. Còn một ông không biết gì về nhân sự thì lại làm quản lý nhân sự. Và cái HNBĐL nó cũng chưa ra hẳn là một cái hội của xã hội dân sự, cũng chưa ra hẳn là một tờ báo. Nó đang tìm đường để định hình mình. Trong lúc định hình thì có chuyện xung đột là tất nhiên.
Giờ anh Ngô Nhật Đăng quyết chí thể hiện mình, anh làm cái HNB trẻ thì phải. Hy vọng anh bớt chuyện đã qua, tập trung làm hiệu quả để thể hiện được mình. Đó là cách tốt nhất để thiên hạ thấy mình thế nào, chứ không cần đi đôi co nữa.
Còn anh Phạm Chí Dũng, có cố vấn Liên Sơn, một người chuyện nghiệp về làm báo cũng như có căn bản hiểu biết về đấu tranh bất bạo động, về xã hôi dân sự, về mùa xuân Ả Rập, các hội, nhóm đấu tranh...gì đó. Với những lợi thế đó, tương lai HNBĐL cũng sẽ là một tổ chức xã hội dân sự hàng đầu, góp phần trong công cuộc đấu đòi tự do, dân chủ cho đất nước. Anh Dũng cũng nên thôi chuyện thông cáo, thông báo số X, Y, Y về Ngô Nhật Đăng, tập trung xây dựng vào chuyên môn.
Anh em đấu tranh có thiện cảm với ông Đăng, ông Dũng mà thấy bài này gây khó chịu. Xin cứ việc block. Cái nút chặn vĩnh viễn chỉ cần hai cái nhấp chuột. Chúc anh em đoàn kết, sớm thắng lợi mang dân chủ về cho đất nước.
Tái bút . Hôm nay cô giáo lại không ra bài tập về nhà.
Người Buôn Gió
Lê Công Định - Thượng tôn luật pháp (Rule of Law)
Trong một nhà nước pháp trị, nơi mà nhà cầm quyền cai trị xã hội bằng
luật pháp, tinh thần thượng tôn luật pháp là lẽ đương nhiên. Thượng tôn
luật pháp được thể hiện ở chỗ cả bộ máy công quyền lẫn công dân cùng
“quy ước” với nhau chỉ tuân thủ và áp dụng các đạo luật và văn kiện lập
pháp tương đương khác do quốc hội hay nghị viện ban hành một cách minh
bạch.
Tất nhiên, khi hành xử quyền hành pháp, chính phủ và các cơ quan trực
thuộc có thể soạn thảo những văn kiện lập quy để những viên chức trong
bộ máy công quyền dễ dàng thực hiện công việc thuộc phạm vi thẩm quyền
của mình. Người dân lẽ ra không cần biết đến những văn kiện lập quy này,
đặc biệt những loại có đóng dấu “mật”, vì họ chỉ phải tuân thủ những gì
do chính cơ quan mà họ trực tiếp bầu nên soạn thảo và ban hành.
Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, như Bộ Luật dân sự lại còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của nghị định và thông tư.
Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, như Bộ Luật dân sự hay Luật đất đai chẳng hạn, tuy đã được ngành lập pháp ban hành nhưng còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của những văn kiện lập quy như nghị định và thông tư của ngành hành pháp. Đó là chưa kể đến một thực tế vẫn diễn ra thường xuyên là các cơ quan công quyền, đặc biệt Chính phủ và các Bộ, khi ban hành văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thi hành một đạo luật đã tự ý áp đặt cách giải thích luật của mình hoặc đặt ra các thủ tục mà luật không minh định nhằm hạn chế hoặc tước bỏ quyền lợi của người dân vốn đã được đạo luật ấy công nhận.
Trong một nhà nước pháp trị, cơ quan lập pháp và các thành viên của nó phải chủ động soạn thảo dự án luật, chứ không chỉ thụ động ngồi chờ các Bộ trình sẵn để tranh luận và biểu quyết. Chính những đại biểu dân cử sẽ chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên môn từ các chuyên gia trong lĩnh vực đối tượng của đạo luật. Thực thi quyền soạn thảo luật như vậy cũng sẽ giúp giảm thiểu tình trạng “nghị gật” trên diễn đàn quốc hội.
Thượng tôn luật pháp còn đòi hỏi mọi văn kiện lập pháp và lập quy đều phải tuân thủ hiến pháp. Công dân được quyền thách thức tính hợp hiến của luật và các văn bản dưới luật bằng việc khởi kiện trước tòa bảo hiến. Tòa bảo hiến - dù được tổ chức như một định chế riêng biệt hay là một bộ phận của tòa án tối cao - sẽ đảm đương công việc bảo vệ hiến pháp và có thể đưa ra phán quyết hủy bỏ các đạo luật, nghị định, thông tư hoặc quyết định vi hiến.
Tình trạng thông tư và nghị định của ngành hành pháp mâu thuẫn với các đạo luật của cơ quan lập pháp như hiện nay chắc chắc cũng không thể tồn tại nếu có tòa bảo hiến. Quốc hội khi đó sẽ nghiêm túc hơn khi soạn thảo luật, cơ quan công quyền sẽ cẩn thận hơn khi điều hành quốc gia. Không ai có thể tiếp tục tại vị để đùa với dân khi mà hôm nay ban hành quyết định này, ngày mai lại sửa đổi, thậm chí hủy bỏ chính quyết định đó!đạo luật và văn kiện lập pháp tương đương khác do quốc hội hay nghị viện ban hành một cách minh bạch.
Tất nhiên, khi hành xử quyền hành pháp, chính phủ và các cơ quan trực thuộc có thể soạn thảo những văn kiện lập quy để những viên chức trong bộ máy công quyền dễ dàng thực hiện công việc thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Người dân lẽ ra không cần biết đến những văn kiện lập quy này, đặc biệt những loại có đóng dấu “mật”, vì họ chỉ phải tuân thủ những gì do chính cơ quan mà họ trực tiếp bầu nên soạn thảo và ban hành.
Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, như Bộ Luật dân sự lại còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của nghị định và thông tư.
Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, như Bộ Luật dân sự hay Luật đất đai chẳng hạn, tuy đã được ngành lập pháp ban hành nhưng còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của những văn kiện lập quy như nghị định và thông tư của ngành hành pháp. Đó là chưa kể đến một thực tế vẫn diễn ra thường xuyên là các cơ quan công quyền, đặc biệt Chính phủ và các Bộ, khi ban hành văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thi hành một đạo luật đã tự ý áp đặt cách giải thích luật của mình hoặc đặt ra các thủ tục mà luật không minh định nhằm hạn chế hoặc tước bỏ quyền lợi của người dân vốn đã được đạo luật ấy công nhận.
Trong một nhà nước pháp trị, cơ quan lập pháp và các thành viên của nó phải chủ động soạn thảo dự án luật, chứ không chỉ thụ động ngồi chờ các Bộ trình sẵn để tranh luận và biểu quyết. Chính những đại biểu dân cử sẽ chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên môn từ các chuyên gia trong lĩnh vực đối tượng của đạo luật. Thực thi quyền soạn thảo luật như vậy cũng sẽ giúp giảm thiểu tình trạng “nghị gật” trên diễn đàn quốc hội.
Thượng tôn luật pháp còn đòi hỏi mọi văn kiện lập pháp và lập quy đều phải tuân thủ hiến pháp. Công dân được quyền thách thức tính hợp hiến của luật và các văn bản dưới luật bằng việc khởi kiện trước tòa bảo hiến. Tòa bảo hiến - dù được tổ chức như một định chế riêng biệt hay là một bộ phận của tòa án tối cao - sẽ đảm đương công việc bảo vệ hiến pháp và có thể đưa ra phán quyết hủy bỏ các đạo luật, nghị định, thông tư hoặc quyết định vi hiến.
Tình trạng thông tư và nghị định của ngành hành pháp mâu thuẫn với các đạo luật của cơ quan lập pháp như hiện nay chắc chắc cũng không thể tồn tại nếu có tòa bảo hiến. Quốc hội khi đó sẽ nghiêm túc hơn khi soạn thảo luật, cơ quan công quyền sẽ cẩn thận hơn khi điều hành quốc gia. Không ai có thể tiếp tục tại vị để đùa với dân khi mà hôm nay ban hành quyết định này, ngày mai lại sửa đổi, thậm chí hủy bỏ chính quyết định đó!
Lê Công Định
(FB Luật sư Lê Công Định)
-Định Thiên – “Sư Quốc doanh”
Định Thiên
Tác giả gửi tới Dân Luận
Xã
hội Việt Nam ngày nay đang tồn tại nhiều chuyện ngược. Một trong những
chuyện ngược đó là ngày càng có nhiều quan chức đảng viên Đảng Cộng Sản
Việt Nam đi chùa.
Nói “ngược” là vì: Chủ thuyết của Cộng Sản là “vật chất quyết định ý thức, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng”… còn Đạo Phật thì lấy “Tâm, Ý” làm chủ thể: “tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ tạo tác” (Kinh Pháp Cú). Vì thế, trong khi việc đi chùa của hàng vạn hàng triệu nhân dân phật tử là công đức thiện tâm, thì việc “các ông nhà nước” xuất hiện thường xuyên nơi cửa Phật hoặc nhiều thầy tu áo mão xiêm y kè kè bên cạnh những ông quan cộng sản to đùng lên TV, thậm chí ở nhiều nơi tượng, ảnh của Bác Hồ cũng được đưa lên ngồi chung với bàn thờ Phật, Tổ (1) thì cái chân lý “tự nhiên” “như nhiên” của Phật Thích Ca đã bị các thầy tu nhân danh là “con ruột” của ngài xâm hại nặng nề!
Tại sao nói là “bước chuyển mình đau đớn”? Có thể nói Đảng CSVN rất giỏi chiến thuật “lấy mỡ nó ráng nó”! Bằng việc cho ra đời tổ chức Giáo hội Phật giáo Nhà nước (tức GHPGVN), họ đã gây phân hóa các tu sĩ mà trước đó đứng chung hàng trong GHPGVNTN. Một số nhà sư cho rằng Phật Giáo cũng phải tùy thời mà hành hoạt nên tham gia vào. Có người vì cầu lợi danh mà vào nhưng số không nhiều cho đến sau này có vài vị cuốn vào nguồn máy mà bị tha hóa. Một số thề không bắt tay với chính quyền để duy trì GHPGVNTN thì bị đánh cho tàn rơi lá mồng tơi như các hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ. Có vị rút lui hậu trường tìm vui ngày tháng bằng lời kinh tiếng kệ như hòa thượng Thích Trí Quang, Thích Thanh Từ. Nhiều vị thì vì các lý do khác nhau mà tiếp tục con đường tu hành ở nước ngoài như các hòa thượng Thích Mãn Giác, Thích Tâm Châu, Thích Thiện Châu, Thích Nhất Hạnh. Cũng có những nhà sư tuổi Đảng nhiều hơn tuổi Đạo, đã dày kinh nghiệm hít thở bầu không khí XHCN thì đương nhiên được cơ cấu vào làm lực lượng tai mắt nòng cốt.
Đến hôm nay, các tu sĩ nổi tiếng có xuất thân từ GHPGVNTN chuyển qua tham gia giáo hội nhà nước như các hòa thượng Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ, Thích Thiện Siêu, Thích Minh Châu, Thích Trí Tịnh… theo quy luật vô thường mà yên giấc nghìn thu, thay vào đó phần nhiều là các nhà sư ăn theo nói leo thì có thể nói tổ chức GHPGVN đã trở thành một con cừu ngoan ơi là ngoan của ông chủ CS. Cũng theo người làm trong ngành An ninh, thì gần chục năm nay lý lịch kết nạp Đảng và hồ sơ vào ngành Công an không nhất thiết phải là “không tôn giáo” như trước nữa mà đã có sự mở rộng ra, chấp nhận cả hồ sơ lý lịch “Phật giáo” (cánh cửa vẫn đóng kín với các tôn giáo khác). Như vậy là đã có sự chuyển “từ lượng thành chất” trong quan hệ của GHPGVN và chính
quyền CSVN. Quá trình chuyển hóa này tuy có lúc đậm nhạt khác nhau nhưng nhìn chung là tỉ lệ thuận với “độ ngoan” của “con cừu” Phật Giáo.
Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam thăm, chúc mừng Bộ Công an nhân Kỷ niệm 69 năm Ngày truyền thống
Để duy trì quan hệ “môi răng”, mỗi năm có hàng chục cuộc thăm viếng kiểu “bánh ít đi bánh quy lại” của lãnh đạo hai bên. Không khí mỗi cuộc viếng thăm “thêm tạ muối cũng chưa hết nhạt” là vì “giang hồ cũng trọng nghĩa khí còn thầy tu mà câu nệ lợi danh nên CS chỉ DỤNG chứ không TRỌNG” như tâm sự của một người trong cuộc. Tuy nhiên, nhờ các đợt viếng thăm như vậy mà nhiều đường hướng chính trị của Đảng và Nhà Nước “quá cảng” ở cửa chùa để rồi sau đó đi vào đời sống xã hội là đông đảo quần chúng Phật tử bằng cách lồng ghép qua những buổi sinh hoạt “Phật Pháp”.Những năm gần đây, bất chấp nền kinh tế VN suy trầm, đời sống đa phần người dân trở nên khốn đốn thì vẫn có hàng trăm ngôi chùa “treo biển” GHPGVN mọc lên khắp miền đất nước, nhiều tu sĩ không ngại phô sự se sua giàu có. Song song với đó là nhiều scandal trong giới thầy tu gây chấn động dư luận xã hội cũng tăng lên. Kỷ lục chùa to phật lớn không ngừng được lập và được cấp bằng. Có những “siêu chùa” mà độ hoành tráng xếp hạng 5 sao! (3).
Tương ứng với “siêu chùa” thì có “siêu sư”. Cầm cạt-vi-zít vài nhà sư trên tay, nhiều người hoa mắt với hàng loạt chức danh của người đời như Tiến sĩ, Chủ tịch, Trưởng ban, Giám đốc… Nhà nước thì hào phóng ban phát Huân-Huy chương, giấy khen cho các nhà sư. Có vị HT khi còn sống từ chối nhận đến khi thác thì nhà nước đem Huân chương HCM tới đặc lên quan tài (như trường hợp HT Thích Đôn Hậu) nhưng cũng có nhà sư đã có đủ bộ “sưu tập”.
Việc ngoan ngoãn theo ông chủ CS biến nhiều nhà sư có chức có quyền ngày càng trở nên nhu nhược, phản động. Trong chuyến về Việt Nam cách đây vài năm của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, khi đến thăm VPTW GHPGVN, 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q. 3, TP. Hồ Chí Minh, một cơ ngơi mà GHPGVN đang kế thừa từ trường Thanh niên Phụng sự xã hội do hòa thượng Thích Thiện Minh lập năm 1964 đã phát biểu rằng điều mà lòng ông cảm thấy buồn là trong khuôn viên không thấy có một tấm hình nào của hòa thượng Thiện Minh, một vị hòa thượng chân tu hết lòng với Đạo Pháp. Phải chăng để cho đẹp lòng “ông chủ” mà các “nhà sư lãnh đạo” bỏ quên cả vị ân sư của mình!? Nên nhớ, hòa thượng Thiện Minh chết trong nhà tù CS năm 1979 mà đến nay xác không biết ở đâu.
Cũng nhắc lại sự kiện Pháp nạn xảy ra với Tăng đoàn Làng Mai tại tu viện Bát Nhã tỉnh Lâm Đồng năm 2008, khi Thiền Sư Nhất Hạnh nêu kiến nghị 10 điểm lên Nhà nước trong một buổi tiếp của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Nội dung của bản kiến nghị là kêu gọi giảm bớt sự can thiệp của nhà nước trong các sinh hoạt của Phật Giáo đồng thời kêu gọi giới thầy tu rút lui các hoạt động trong môi trường chính trị để dành thời gian chuyên tâm thực hành tâm linh… Đó là những kiến nghị hoàn toàn đúng đắn và đầy trách nhiệm, nhưng cũng vì thế mà tăng đoàn của ngài đã bị đánh cho tanh bành trong liên tục mấy tháng trời bởi một lực lượng mà sau đó thiền sư Nhất Hạnh trong tâm thư gởi Chủ Tịch Nước kêu gọi can thiệp đã viết: “côn đồ với công
an, tuy hai mà một”. (4)
Cùng thời gian đó, trong khi nhiều nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước mạnh mẽ lên tiếng bảo vệ 400 tu sĩ và hàng ngàn phật tử, (Đảng viên kỳ cựu, nhà nghiên cứu Văn hóa Nguyễn Đắc Xuân viết thư phản đối và có yêu sách đòi ly khai ra khỏi ĐCS (5) thì các nhà sư quyền cao chức trọng của GHPGVN hoàn toàn im lặng trước công luận. Không những thế, họ nhiệt tình lên tivi làm phông màn, tổ chức cầu an cầu siêu cho các anh hùng cách mạng ở hàng chục nghĩa trang liệt sĩ với nhiều lễ hội linh đình tốn kém mà hiệu quả như thế nào thì thực tế đời sống xã hội đã kiểm chứng! (http://giacngo.vn/vanhoa/2014/07/17/37F25A/).
Việc liên tiếp rầm rộ cầu an cầu siêu tại các Nghĩa trang Cách mạng mà chưa một lần cầu siêu cho các anh hùng chiến sĩ trận vong các mặt trận khác hoặc cho hàng vạn đồng bào tử nạn giữa muôn trùng biển khơi trên hành trình chạy trốn CS… thì dù có khách quan cũng không khỏi gợi ra một dấu hỏi: GHPGVN lấy việc “quảng cáo chính trị CS” hay lấy giáo lý “Tâm vô phân biệt” của Đức Phật làm lý tưởng hành đạo? Thậm chí, cùng là “Thích tử thiền môn”, cùng tu hạnh vô ngã từ bi, nhưng các nhà sư GHPGVN lên tivi, xuất hiện tại diễn đàn Quốc hội để “đấu tố” các đồng đạo của mình bên GHPGVNTN. Những nhát đâm rỉ máu cắt vào tim lịch sử Phật giáo VN!(6)
Một tổ chức giáo hội thiếu bản sắc, bị sai khiến và bị huy động cho các mục đích chính trị lại phảng phất hình bóng lợi ích nhóm khiến nhiều tu sĩ có đạo tâm đạo lực chọn cách đứng ngoài. Một thiểu số đã dính chân vào thì làm việc cầm chừng tư tưởng hai hàng. Chỉ có những tay “cò tôn giáo” là thỏa sức khua chiên khua trống.
Karl Marx, ông tổ của học thuyết CS còn chỉ ra: khi lượng và chất phát triển không đồng đều thì xảy ra mâu thuẫn xung đột. Vì vậy, đạo đức xã hội VN ngày càng tỉ lệ nghịch với mật độ gia tăng số lượng chùa chiền như nó đã và đang thể hiện nếu nhà nước CS không thôi biến báo Phật giáo để thỏa các mục đích chính trị, nếu các nhà sư có chức có quyền không thôi “chăm sóc bộ lông của mình” để tinh chuyên “Giới Định Huệ” như bản hoài của Đức Bản Sư Phật.
Sài Gòn, Mạnh Thu 2014
Định Thiên
_________________________
(1) http://www.tinparis.net/tinvietnam/0605_vn01.html
(2) http://anhduong.net/Tinvietnam/jan06/TaiLieuQuanTrong-DoTrungHieu.htm
(3) http://suckhoedoisong.vn/phong-su/ve-chua-bai-inh-chiem-nguong-nhieu-ky-luc-20120629083821465.htm
(4) http://195.188.87.10/vietnamese/vietnam/2009/10/091019_hrw_batnha.shtml
http://luongtamconggiao.wordpress.com/2012/03/18/chinh-quy%E1%BB%81n-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-hay-nha-c%E1%BA%A7m-quy%E1%BB%81n-con-d%E1%BB%93/
(5) http://sachhiem.net/NDX/NDX016.php
(6) http://www.ghpgvntn.net/chinh-quyen-va-chuc-sac-ton-giao-tp-da-nang-thong-qua-kenh-truyen-hinh-vtv-dau-to-dd-thich-thien-phuc/).
Nói “ngược” là vì: Chủ thuyết của Cộng Sản là “vật chất quyết định ý thức, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng”… còn Đạo Phật thì lấy “Tâm, Ý” làm chủ thể: “tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ tạo tác” (Kinh Pháp Cú). Vì thế, trong khi việc đi chùa của hàng vạn hàng triệu nhân dân phật tử là công đức thiện tâm, thì việc “các ông nhà nước” xuất hiện thường xuyên nơi cửa Phật hoặc nhiều thầy tu áo mão xiêm y kè kè bên cạnh những ông quan cộng sản to đùng lên TV, thậm chí ở nhiều nơi tượng, ảnh của Bác Hồ cũng được đưa lên ngồi chung với bàn thờ Phật, Tổ (1) thì cái chân lý “tự nhiên” “như nhiên” của Phật Thích Ca đã bị các thầy tu nhân danh là “con ruột” của ngài xâm hại nặng nề!
Tin liên quan:
Trở về quá khứ những năm đầu thập niên 80, là giai kỳ mà việc xét lý
lịch đã trở thành một rào cản đóng cánh cửa tương lai của hàng vạn thanh
niên, theo lời một người làm trong ngành An ninh: hồi đó muốn vào ngành
Công an hoặc muốn kết nạp Đảng thì điều kiện tiên quyết trong hồ sơ lý
lịch phải là “không tôn giáo”. Cần nhớ, những năm đầu thập niên 80 cũng
là thời kỳ mà Phật giáo Việt Nam phải bước một “bước chuyển mình đau
đớn”! Đó là, từ tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
(GHPGVNTN), nơi có nhiều nhà sư ưu tú, uy tín lẫm liệt trong lòng trí
thức và quần chúng Phật tử, chuyển sang một tổ chức gọi là “hợp nhất 9
Hệ Phái Phật Giáo” được triệu tập trong một đại hội năm 1981 tại Hà Nội,
có danh xưng còn duy trì đến ngày nay là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
(GHPGVN) lấy phương châm là “Đạo Pháp – Dân Tộc – Xã Hội Chủ Nghĩa” theo
một kịch bản mà có tài liệu cho là “do Công an Tuyên giáo soạn”. (2)Tại sao nói là “bước chuyển mình đau đớn”? Có thể nói Đảng CSVN rất giỏi chiến thuật “lấy mỡ nó ráng nó”! Bằng việc cho ra đời tổ chức Giáo hội Phật giáo Nhà nước (tức GHPGVN), họ đã gây phân hóa các tu sĩ mà trước đó đứng chung hàng trong GHPGVNTN. Một số nhà sư cho rằng Phật Giáo cũng phải tùy thời mà hành hoạt nên tham gia vào. Có người vì cầu lợi danh mà vào nhưng số không nhiều cho đến sau này có vài vị cuốn vào nguồn máy mà bị tha hóa. Một số thề không bắt tay với chính quyền để duy trì GHPGVNTN thì bị đánh cho tàn rơi lá mồng tơi như các hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ. Có vị rút lui hậu trường tìm vui ngày tháng bằng lời kinh tiếng kệ như hòa thượng Thích Trí Quang, Thích Thanh Từ. Nhiều vị thì vì các lý do khác nhau mà tiếp tục con đường tu hành ở nước ngoài như các hòa thượng Thích Mãn Giác, Thích Tâm Châu, Thích Thiện Châu, Thích Nhất Hạnh. Cũng có những nhà sư tuổi Đảng nhiều hơn tuổi Đạo, đã dày kinh nghiệm hít thở bầu không khí XHCN thì đương nhiên được cơ cấu vào làm lực lượng tai mắt nòng cốt.
Đến hôm nay, các tu sĩ nổi tiếng có xuất thân từ GHPGVNTN chuyển qua tham gia giáo hội nhà nước như các hòa thượng Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ, Thích Thiện Siêu, Thích Minh Châu, Thích Trí Tịnh… theo quy luật vô thường mà yên giấc nghìn thu, thay vào đó phần nhiều là các nhà sư ăn theo nói leo thì có thể nói tổ chức GHPGVN đã trở thành một con cừu ngoan ơi là ngoan của ông chủ CS. Cũng theo người làm trong ngành An ninh, thì gần chục năm nay lý lịch kết nạp Đảng và hồ sơ vào ngành Công an không nhất thiết phải là “không tôn giáo” như trước nữa mà đã có sự mở rộng ra, chấp nhận cả hồ sơ lý lịch “Phật giáo” (cánh cửa vẫn đóng kín với các tôn giáo khác). Như vậy là đã có sự chuyển “từ lượng thành chất” trong quan hệ của GHPGVN và chính
quyền CSVN. Quá trình chuyển hóa này tuy có lúc đậm nhạt khác nhau nhưng nhìn chung là tỉ lệ thuận với “độ ngoan” của “con cừu” Phật Giáo.
Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam thăm, chúc mừng Bộ Công an nhân Kỷ niệm 69 năm Ngày truyền thống
Để duy trì quan hệ “môi răng”, mỗi năm có hàng chục cuộc thăm viếng kiểu “bánh ít đi bánh quy lại” của lãnh đạo hai bên. Không khí mỗi cuộc viếng thăm “thêm tạ muối cũng chưa hết nhạt” là vì “giang hồ cũng trọng nghĩa khí còn thầy tu mà câu nệ lợi danh nên CS chỉ DỤNG chứ không TRỌNG” như tâm sự của một người trong cuộc. Tuy nhiên, nhờ các đợt viếng thăm như vậy mà nhiều đường hướng chính trị của Đảng và Nhà Nước “quá cảng” ở cửa chùa để rồi sau đó đi vào đời sống xã hội là đông đảo quần chúng Phật tử bằng cách lồng ghép qua những buổi sinh hoạt “Phật Pháp”.Những năm gần đây, bất chấp nền kinh tế VN suy trầm, đời sống đa phần người dân trở nên khốn đốn thì vẫn có hàng trăm ngôi chùa “treo biển” GHPGVN mọc lên khắp miền đất nước, nhiều tu sĩ không ngại phô sự se sua giàu có. Song song với đó là nhiều scandal trong giới thầy tu gây chấn động dư luận xã hội cũng tăng lên. Kỷ lục chùa to phật lớn không ngừng được lập và được cấp bằng. Có những “siêu chùa” mà độ hoành tráng xếp hạng 5 sao! (3).
Tương ứng với “siêu chùa” thì có “siêu sư”. Cầm cạt-vi-zít vài nhà sư trên tay, nhiều người hoa mắt với hàng loạt chức danh của người đời như Tiến sĩ, Chủ tịch, Trưởng ban, Giám đốc… Nhà nước thì hào phóng ban phát Huân-Huy chương, giấy khen cho các nhà sư. Có vị HT khi còn sống từ chối nhận đến khi thác thì nhà nước đem Huân chương HCM tới đặc lên quan tài (như trường hợp HT Thích Đôn Hậu) nhưng cũng có nhà sư đã có đủ bộ “sưu tập”.
Việc ngoan ngoãn theo ông chủ CS biến nhiều nhà sư có chức có quyền ngày càng trở nên nhu nhược, phản động. Trong chuyến về Việt Nam cách đây vài năm của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, khi đến thăm VPTW GHPGVN, 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q. 3, TP. Hồ Chí Minh, một cơ ngơi mà GHPGVN đang kế thừa từ trường Thanh niên Phụng sự xã hội do hòa thượng Thích Thiện Minh lập năm 1964 đã phát biểu rằng điều mà lòng ông cảm thấy buồn là trong khuôn viên không thấy có một tấm hình nào của hòa thượng Thiện Minh, một vị hòa thượng chân tu hết lòng với Đạo Pháp. Phải chăng để cho đẹp lòng “ông chủ” mà các “nhà sư lãnh đạo” bỏ quên cả vị ân sư của mình!? Nên nhớ, hòa thượng Thiện Minh chết trong nhà tù CS năm 1979 mà đến nay xác không biết ở đâu.
Cũng nhắc lại sự kiện Pháp nạn xảy ra với Tăng đoàn Làng Mai tại tu viện Bát Nhã tỉnh Lâm Đồng năm 2008, khi Thiền Sư Nhất Hạnh nêu kiến nghị 10 điểm lên Nhà nước trong một buổi tiếp của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Nội dung của bản kiến nghị là kêu gọi giảm bớt sự can thiệp của nhà nước trong các sinh hoạt của Phật Giáo đồng thời kêu gọi giới thầy tu rút lui các hoạt động trong môi trường chính trị để dành thời gian chuyên tâm thực hành tâm linh… Đó là những kiến nghị hoàn toàn đúng đắn và đầy trách nhiệm, nhưng cũng vì thế mà tăng đoàn của ngài đã bị đánh cho tanh bành trong liên tục mấy tháng trời bởi một lực lượng mà sau đó thiền sư Nhất Hạnh trong tâm thư gởi Chủ Tịch Nước kêu gọi can thiệp đã viết: “côn đồ với công
an, tuy hai mà một”. (4)
Cùng thời gian đó, trong khi nhiều nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước mạnh mẽ lên tiếng bảo vệ 400 tu sĩ và hàng ngàn phật tử, (Đảng viên kỳ cựu, nhà nghiên cứu Văn hóa Nguyễn Đắc Xuân viết thư phản đối và có yêu sách đòi ly khai ra khỏi ĐCS (5) thì các nhà sư quyền cao chức trọng của GHPGVN hoàn toàn im lặng trước công luận. Không những thế, họ nhiệt tình lên tivi làm phông màn, tổ chức cầu an cầu siêu cho các anh hùng cách mạng ở hàng chục nghĩa trang liệt sĩ với nhiều lễ hội linh đình tốn kém mà hiệu quả như thế nào thì thực tế đời sống xã hội đã kiểm chứng! (http://giacngo.vn/vanhoa/2014/07/17/37F25A/).
Việc liên tiếp rầm rộ cầu an cầu siêu tại các Nghĩa trang Cách mạng mà chưa một lần cầu siêu cho các anh hùng chiến sĩ trận vong các mặt trận khác hoặc cho hàng vạn đồng bào tử nạn giữa muôn trùng biển khơi trên hành trình chạy trốn CS… thì dù có khách quan cũng không khỏi gợi ra một dấu hỏi: GHPGVN lấy việc “quảng cáo chính trị CS” hay lấy giáo lý “Tâm vô phân biệt” của Đức Phật làm lý tưởng hành đạo? Thậm chí, cùng là “Thích tử thiền môn”, cùng tu hạnh vô ngã từ bi, nhưng các nhà sư GHPGVN lên tivi, xuất hiện tại diễn đàn Quốc hội để “đấu tố” các đồng đạo của mình bên GHPGVNTN. Những nhát đâm rỉ máu cắt vào tim lịch sử Phật giáo VN!(6)
Một tổ chức giáo hội thiếu bản sắc, bị sai khiến và bị huy động cho các mục đích chính trị lại phảng phất hình bóng lợi ích nhóm khiến nhiều tu sĩ có đạo tâm đạo lực chọn cách đứng ngoài. Một thiểu số đã dính chân vào thì làm việc cầm chừng tư tưởng hai hàng. Chỉ có những tay “cò tôn giáo” là thỏa sức khua chiên khua trống.
Karl Marx, ông tổ của học thuyết CS còn chỉ ra: khi lượng và chất phát triển không đồng đều thì xảy ra mâu thuẫn xung đột. Vì vậy, đạo đức xã hội VN ngày càng tỉ lệ nghịch với mật độ gia tăng số lượng chùa chiền như nó đã và đang thể hiện nếu nhà nước CS không thôi biến báo Phật giáo để thỏa các mục đích chính trị, nếu các nhà sư có chức có quyền không thôi “chăm sóc bộ lông của mình” để tinh chuyên “Giới Định Huệ” như bản hoài của Đức Bản Sư Phật.
Sài Gòn, Mạnh Thu 2014
Định Thiên
_________________________
(1) http://www.tinparis.net/tinvietnam/0605_vn01.html
(2) http://anhduong.net/Tinvietnam/jan06/TaiLieuQuanTrong-DoTrungHieu.htm
(3) http://suckhoedoisong.vn/phong-su/ve-chua-bai-inh-chiem-nguong-nhieu-ky-luc-20120629083821465.htm
(4) http://195.188.87.10/vietnamese/vietnam/2009/10/091019_hrw_batnha.shtml
http://luongtamconggiao.wordpress.com/2012/03/18/chinh-quy%E1%BB%81n-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-hay-nha-c%E1%BA%A7m-quy%E1%BB%81n-con-d%E1%BB%93/
(5) http://sachhiem.net/NDX/NDX016.php
(6) http://www.ghpgvntn.net/chinh-quyen-va-chuc-sac-ton-giao-tp-da-nang-thong-qua-kenh-truyen-hinh-vtv-dau-to-dd-thich-thien-phuc/).
Tuấn Khanh - Người Việt đẳng cấp thế giới
Nếu chỉ nhìn trên mặt báo, người Việt dường như luôn đang ở tầm thế
giới. Bất chấp mọi con số hay hình ảnh trần trụi xót xa nào mà chúng ta
đang có, người Việt hôm nay lộng lẫy không khác gì công dân của các
cường quốc được hâm mộ.
Trên các bản tin, hình ảnh người Việt chen chúc nhau xếp hàng cùng
các công dân Nhật, Singapore… để chờ mua chiếc Iphone 6 vừa ra mắt.
Gương mặt của những công dân Việt Nam mệt mỏi nhưng đầy sự thoả mãn của
sự hưởng thụ cảm giác bằng vai phải lứa cùng cường quốc năm châu.
Thật khó hiểu khi tiêu chuẩn để trở thành người được sáng danh trên
các trang báo, là các nhân vật mua được sớm nhất các thiết bị điện tử có
giá đắt đỏ vô lý. Người sở hữu chiếc Iphone có giá mua hơn cả một năm
lương của người nghèo lại được tung nghênh hơn một người lao động làm ra
của cải hay giúp đỡ cho người khác tương đương với số tiền ấy. Một ca
sĩ không có giọng hát hay bài hát nào ra hồn lại được ca tụng như một
hit pop-star chỉ vì có Iphone sớm nhất.
Vậy đó.
Thói đam mê ảo ảnh hơn người, như loại dục vọng không thể kềm nén nổi
tầm quốc gia, căn bệnh “đẳng cấp thế giới” đang lồ lộ trên báo chí,
truyền hình – mà ngay cả những bài viết ca ngợi những đẳng cấp đó, cũng
không giấu nổi sự sôi sục thèm khát của chính người viết.
Giấc mơ đẳng cấp thế giới không chỉ xuất hiện ở chiếc Iphone hay mua
được chiếc vé xem đá banh ở Nam Mỹ. Nó xuất hiện đôi khi trơ trẽn trong
các bản tin về những người trẻ “gốc Việt” thành đạt trên thế giới.
Phải chăng sự khốn khó kéo dài dễ dẫn đến ảo giác về một huyền thoại
chủng tộc Việt, khiến giới truyền thông hay chụp bắt các gương thành đạt
của người Việt trong chính trị hay y khoa, thể thao, điện ảnh… ở nước
ngoài như một điều tự hào dân tộc rất “chung và hiển nhiên” mà không cần
biết điều kiện nào đưa những người Việt đó đến đích.
Tôi vẫn còn nhớ chuyện đạo diễn Kim Nguyễn ở Canada với phim War
Witch được đề cử Oscar 2013. Báo chí Việt Nam trong căn bệnh thích có
chân trong đẳng cấp thế giới đã tìm mọi cách để nhắc Kim Nguyễn về cội
nguồn của anh. Kết cục là khi được hỏi anh có ý định nào làm phim với
người Việt, xứ Việt hay không, Kim Nguyễn đã nói nhanh rằng “không” và
giải thích rằng mình không thấy có mối liên hệ nào ràng buộc mình để
phải làm vậy cả. Gần hơn, là chuyện cầu thủ trẻ Phạm Huy Tiến ở Romania.
Sau khi tung hô rằng xứ sở của “người Việt mình” cũng có người “gốc
Việt” đẳng cấp thế giới, báo chí cũng nhận được gáo nước lạnh từ chàng
trai này là kiên quyết không quan tâm về nước thi đấu, dù được trãi thảm
đỏ.
Trong những trận bóng của U19 vừa rồi, một bạn trẻ nhắn cho tôi rằng
anh ta buồn chán vì thấy người Việt thật tệ trong việc ném chai nước,
chiếu đèn vào cầu thủ Nhật khi họ thắng đội Việt Nam. Tôi đã phải nói
rất nhiều để anh bạn đó phân biệt rõ: Yêu thể thao và khát vọng thượng
đẳng là 2 điều khác nhau. Việc thù ghét kẻ vượt trội hơn mình trong thể
thao hay văn hoá có thể bị coi là một cuộc đấu tranh giai cấp điên cuồng
đáng khinh.
Tệ hơn nữa là sự thù ghét kẻ hơn mình lại khoác chiếc áo chủ nghĩa ái
quốc cực đoan. Việc coi mình phải luôn hơn kẻ khác cũng là tiền đề dẫn
đến sự bùng phát của chủ nghĩa Facist, từ chủng tộc thượng tôn Aryan. Đó
là thảm hoạ. Tôi và anh bạn trẻ đó hẹn nhau ở những trận bóng tới, sẽ
nhìn ngó xem bao nhiêu là người yêu thể thao và bao nhiêu là người chỉ
là nhân danh.
Anh bạn trẻ nói với tôi rằng dẫu sao, người Việt cũng có một hành
động đẹp là chia nhau lượm rác sau trận đấu. Tôi lại phải giải thích
rằng hai trạng thái đó cũng khác nhau, và những nhóm người đó cũng khác
nhau. Việc bắt chước hành động thượng đẳng của người Nhật trên sân vận
động không hề chữa lành được việc làm nhơ nhuốc trước đó, khi thua trận
bóng. Thậm chí nếu trong nhóm người nhặt rác đó có người đã ném chai,
chiếu đèn… Vào đội Nhật, nó cũng trình bày một hiện trạng của người
Việt: phong trào thích bắt chước những hành động cao quý nhưng lộ rõ sự
giả tạo bề ngoài, che đậy những trái tim không thượng đẳng.
Có lần, một anh bạn người Pháp hỏi tôi rằng “nước của anh tuyên bố có
rất nhiều tiến sĩ nhưng sao lại rất ít bằng phát minh?” Thật khó mà
giải thích được một cách ngắn gọn rằng đó chỉ là những tuyên ngôn trình
diễn giấc mơ thượng đẳng của những người không màng trách nhiệm với đất
nước. Nó giống như việc Viện trưởng Viện Kinh tế chiến lược VN –châu Á,
ông Nguyễn Xuân Kiên mới đây tuyên bố rằng 20 năm nữa Việt Nam là một
trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới. Làm sao mà giải thích được
tượng đài mơ đẳng cấp thế giới treo đèn kết hoa ấy, được dựng nên bằng
cát đá của hàng ngàn công trình hạ tầng đang sụp đổ, của những món nợ
công khổng lồ mà nhiều đời con cháu Việt phải gánh trả hay một quốc gia
bị tham nhũng đục ruỗng từng ngày đến mức ông Nguyễn Minh Triết, nguyên
chủ tịch nước đã phải kêu lên “tham nhũng đang đe doạ chế độ”.
Đẳng cấp thế giới của người Việt chắc chắn không là chuyện sở hữu các
loại smartphone mới nhất, không phải là chen chân vào đoàn siêu xe với
các triệu phú Việt kiều đi vòng quanh nước Mỹ mượn ý nghĩa Hoàng Sa
-Trường Sa, không phải là đám đông thích giương cờ hò hét trong các trận
bóng hay nguyện quan tâm đến sự sống chết của loài tê giác ở Châu Phi…
Tôi tin là người Việt sẽ có một đẳng cấp thế giới khi thật sự biết đau
xót từ chuyện già trẻ giành nhau những chiếc áo đi mưa, bốc hốt trong
bữa tiệc buffet… cho đến biết tức giận và hành động trước nạn bạo hành
con trẻ, biết quan tâm và chia sẻ việc đòi công lý những điều oan khuất
vẫn hiện ra trên báo chí mỗi ngày.
Sự thượng đẳng nằm trong trái tim mình – nó đang bị giam cầm bởi sự
chập choẻng bề ngoài như một thảm nạn của dân tộc. Sự chập choẻng ấy
biến chúng ta thành một dân tộc thiếu sự trưởng thành. Đẳng cấp thượng
đẳng của một dân tộc – nếu có – sẽ thật sự đánh thức từng người, rằng
cuộc sống không chỉ cần riêng mình no đủ và nhởn nhơ vô tâm với cuộc
sống thật chung quanh mình.
————————————————–
Về lời nhận định của ông Nguyễn Minh Triết
Tuấn Khanh
(Blog Tuấn Khanh)
-Biểu tình ngưng hoạt động nhà máy Titan – Ninh Thuận: Lắng nghe tiếng dân hay mù mờ nghe chính quyền?
Danluan
Phóng viên Dân Luận thực hiện
Dân Luận: Như Dân Luận đã đưa tin, ngày 27/3/2014 vừa qua người dân Sơn Hải đã biểu tình trước UBND tỉnh phản đối công an bắt người vô cớ trái pháp luật. Vụ việc Dân Luận đã đưa tin nhận thấy có nhiều khúc mắc của phía bà con thôn Sơn Hải khác hoàn toàn so với những gì chúng tôi đọc được trên báo chí chính thống. Vì vậy phóng viên Dân Luận đã đến thôn Sơn Hải trực tiếp gặp bà con để tìm hiểu rõ vụ việc.
Từ trái qua: Cô Trần Thị Thanh, ông Lê Quang Hạnh, ông Dương Văn Phước thôn Sơn Hải tường thuật lại vụ việc.
Tin liên quan:
Sự việc xảy ra vào ngày 27/3/2014 vừa qua, khi người dân ở thôn Sơn Hải – xã Phước Dinh- huyện Ninh Phước- tỉnh Ninh Thuận kéo nhau ra UBND tỉnh để làm rõ việc chính quyền bắt người trái pháp luật.
Được biết trước đó ngày 26/3/2014 cơ quan công an tỉnh Ninh Thuận đã khởi tố vụ án chống người thi hành công vụ xảy ra tại khu vực tận thu quặng titan của Công ty TNHH MTV Quang Thuận (gọi tắt Công ty Quang Thuận). Điều đáng nói, những người bị bắt đều là những người phản đối việc hoạt động gây ô nhiễm của nhà máy khai thác Titan.
Tiếp xúc với người dân nơi đây, PV Dân Luận đã có dịp được nghe kể về những câu chuyện đằng sau nổi ẩn khuất, sự bất công của chính quyền đối với người dân, trong việc ngăn chặn nhà máy gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường nước sinh hoạt trong thôn.
Theo ông Dương Văn Phước cho biết: “kể từ khi UBND tỉnh Ninh Thuận cấp phép cho công ty TNHH Quang Thuận đi vào hoạt động khai thác Titan sát với khu vực dân ở, cuộc sống của người dân trong thôn bị đảo lộn hoàn toàn, dân ko có nước để sinh hoạt vì nguồn nước sạch bị ô nhiễm nặng , nhà cửa bị nứt nẻ vì cát lún, mồ mả tổ tiên thì bị chôn vùi dưới cát trắng, đau lòng lắm”.
Nguồn nước ngầm người dân Sơn Hải sử dụng bị vẩn đục và ô nhiểm nghiêm trọngVùng đất Sơn Hải – Ninh Thuận là một vùng khô hạn, từ trước tới nay nguồn nước sạch ở đây vốn dĩ đã rất thiếu thốn, người dân sinh sống quanh đây đã phải chắt chiu và giữ gìn để bảo vệ nguồn nước ít ỏi này.
Từ khi công ty TNHH Quang Thuận được cấp phép đi vào khai thác Titan ở khu vực này thì nguồn nước ngầm ngày càng giảm sút nghiêm trọng, không những thế còn bị ô nhiễm rất nặng. Việc tắm rửa, giặt đồ người dân cũng ko dám lấy nguồn nước này ra sử dụng. Hiện nay, dân phải mua nước bình ở ngoài về sinh hoạt.
Ngoài ra việc khai thác Titan còn gây ra những hậu quả rất nặng nề, làm biến dạng khu vực bãi cát ven biển, làm nhiễm mặn và cạn kiệt nguồn nước ngọt, ảnh hưởng đến rừng phòng hộ ven biển, gây hậu quả rất nghiêm trọng cho môi trường.
Từ khi nhà máy Titan đi vào hoạt động khiến cát lún, mồ mả tổ tiên của người dân bị chôn vùi dưới cát sâu. Để ngăn chặn mồ mả bị cát chôn vùi họ phải dùng bao tải ngăn cát lấpKhông qua ý kiến dân, vẫn tự ý cấp phép cho công ty đi vào hoạt động
Công trình khai thác Titan của công ty Quang Thuận được UBND tỉnh cấp phép đi vào hoạt động ngày 22/06/2012 với diện tích 87ha. Tuy nhiên, trước khi cấp phép cho công ty này, chính quyền UBND tỉnh đã ko họp lấy ý kiến của dân, tự ý cho công ty khai thác với lý do là theo “chủ trương của Chính phủ”.
Sau khi đi vào hoạt động, công ty Quang Thuận đã không thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm đảm bảo tới môi trường, làm cạn kiệt nguồn nước ngầm, mồ mã bị chôn vùi dưới cát, nhà dân bị nứt nẻ vì lún đất, gây sạt lỡ nghiêm trọng tại khu vực người dân đang sinh sống.
Nhà dân bị nứt, sạt lở do hậu quả của việc khai thác TitanQuá bức xúc với tình trạng trên, đã nhiều lần người dân trong thôn viết đơn kiến nghị lên UBND xã, huyện, tỉnh nhưng ko được chính quyền ở đây giải quyết mà vẫn dửng dưng trước ý kiến và nguyện vọng của dân, nên buộc lòng người dân trong thôn cùng nhau phải vào công ty để ngăn việc khai thác.
Dân không sai vẫn đấu tố cho dân có tội
Trước sự việc công ty khai thác Titan Quang Thuận làm ảnh hưởng đến môi trường và đảo lộn cuộc sống của người dân trong thôn Sơn Hải, ngày 26/03/2014 hơn 30 người dân trong thôn kéo nhau ra trụ sở UBND tỉnh để đòi giải quyết và bắt dừng ngay hoạt động của nhà máy khai thác Titan.
Kể về sự việc hôm đó, ông Dương Văn Phước người bị bắt cho biết thêm: “ trước đó dân chúng tôi cùng nhau ra UBND xã để đề nghị được giải trình không cho nhà máy đi vào hoạt động nữa, nhưng ông Chiêu Tổng bí thư xã và ông Trần Thành Lập là công an huyện trả lời: ở huyện, xã không có thẩm quyền đề nghị dân lên tỉnh đề nghị tỉnh giải quyết, nghe như vậy thì chúng tôi vẫn ăn mặc chỉnh tề lên đó với mục đích gặp UBND tỉnh theo lời của ông Trần Thành Lập, gặp một cách nghiêm chỉnh giữa lãnh đạo và người cựu chiến binh, như vậy lúc 12h trong khi ngồi đợi và uống chưa hết một nửa ly nước thì một lúc sau có vài chục công an ập tới bắt chúng tôi và liệng lên xe chở đi, tôi cũng ko biết rõ là sự việc như thế nào. Họ bắt đi 5 người”.
Tìm hiểu sâu hơn về việc này chúng tôi được biết, tất cả 5 người bị bắt là ông Dương Văn Phước, Đỗ Văn Đức, Lê Quang Hạnh, Nguyễn Văn Song, Lê Công Chỉ đều là những người được dân trong thôn cử đi để làm việc với UBND tỉnh.Nhưng chưa kịp làm việc thì bị bắt đi đâu ko rõ.
Ông Lê Quang Hạnh kể lại: “ lúc bị bắt và đẩy lên xe họ làm chân tôi bị chảy máu, tôi có nói với họ là mắt tôi kém ko thấy gì đâu mấy anh làm cận thận chứ tôi ko có tội gì, thì mấy anh mới bắt đầu nắm áo đẩy vô, khi bị bắt đi thì tôi ko biết ông Dương Văn Phước và ông Đỗ Văn Đức được bắt đi đâu. Riêng tôi, ông nguyễn Văn Song và ông Lê Công Chỉ thì được đưa về huyện Thuận Nam, lúc đó đã là hơn 12h”.
Ông Hạnh là một trong những người dân trong thôn đứng lên ngăn chặn việc nhà máy khai thác Titan Quang Thuận làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, và lấp hết mồ mã tổ tiên. ông Hạnh cho biết, ông cũng ko biết mình bị bắt vì nguyên nhân gì.
Trước đó khi ngày 18/03/2014 trong một lần cùng mọi người trong thôn ngăn chặn việc khai thách của công ty Quang Thuận, ông Hạnh bị công an dùng dùi cui đánh thẳng vào mặt khiến ông mất máu rất nhiều. Bên cạnh đó ông còn bị vu khống đánh trọng thương 2 công an khác phải nhập viện.
Được biết, ông Hạnh là một cựu chiến binh bị mờ 2 mắt không thể nào có đủ sức để đánh trọng thương công an. Không chỉ vu oan cho dân đánh công an, chưa dừng lại ở đó một số tờ báo lề phải còn cho rằng người dân đã ko giữ được bình tĩnh và đã dùng xăng đốt kho chứa thiết bị, đập phá tài sản của công ty (theo Thanh niên số ra ngày 27/03/2014).
Nên lắng nghe hơn là cáo buộc
Nhắc tới sự việc trên cô Trần Thị Thanh ko giấu được nỗi bức xúc kể lại: “ việc đốt cháy công ty là ko có thật đâu chú ah! Chỉ là có mấy thằng nhóc trẻ trẻ chừng 14-14 tuổi bức xúc quá nó đốt có 3 tấm nệm thôi, chứ ko có đốt cháy công ty hay phá hoại kho của công ty gì hết”.
Đồng thời việc UBND xã đã không giải quyết đúng theo công văn Tỉnh Ủy gửi xuống ngày 18/03/2014 nên buộc lòng người dân trong thôn Sơn Hải phải xuống tận công ty để cùng nhau tháo dỡ đường ống dẫn nước thải titan. Thêm vào đó việc dân đánh đuổi trọng thương công an như báo tuổi trẻ số ra ngày 27/3/2014 là không đúng sự thật, chính công an và an ninh là những người đã hành hung, xông vào đánh đập một số người dân, trong đó có ông Lê Văn Hạnh là người bị đánh nặng nhất, thấy vậy bà con mới xông vào giải vây. Sau đó công an và an ninh bỏ chạy và họ đổ lỗi cho người dân đuổi đánh.
Nội dung công văn số 35 UBND huyện gởi xuống ngày 18/3/2014 yêu cầu giải quyết khiếu nại của bà con nhưng không được thực hiệnCô Thanh cho biết thêm: “từ khi vụ việc trên xảy ra, trong thôn mọi lối ra vào đều bị phong tỏa. Cho nên, ngày 28/3/2014 người dân buộc lòng phải đi bộ gần 30km từ thôn lên UBND tỉnh để đòi thả người”.
Theo nguồn tin người dân cho hay, giám đốc CA tỉnh đã ra điều kiện với người dân rằng nếu muốn thả người thì phải để công ty Titan Quang Thuận tiếp tục hoạt động và người dân phải dừng lại mọi hoạt động gây mất trật tự công cộng.
Đồng thời việc UBND tỉnh cam kết sẽ đầu tư hệ thống nước sạch cho nhân dân nhưng tất cả chỉ trên mặt giấy tờ.
Nhìn lại việc 6 người dân trong thôn bị bắt, hiện tại đã 5 người đã được thả, riêng ông Dương Văn Phước bị truy tố và đem ra xét xử vào ngày 01/08/2014 vào tội “chống người thi hành công vụ, và đánh trọng thương công an”.
Ông bị kết án “OAN” 22 tháng tù treo, nhưng trước đó luật sư bào chữa của ông Phước đã đề nghị bên phía công an đưa ra nhân chứng và vật chứng về việc ông Phước đánh trọng thương 2 công an, thì lúc này họ không đưa ra được bằng chứng mà luật sư yêu cầu, đồng thời vẫn kết tội cho ông Phước trước sự chứng kiến của hàng trăm người dân có mặt trong phiên tòa.
Trước khi diễn ra phiên tòa xét xử ông Phước người dân trong thôn Sơn Hải đã bị lực lượng công an, an ninh phong tỏa mọi lối ra vào, nói là phiên tòa CÔNG KHAI nhưng lực lượng an ninh ở đây ko cho người dân đi xe máy hay bất kỳ một phương tiện nào, buộc lòng người dân phải lội bộ hơn 30km lên tòa án huyện Thuận Nam để ủng hộ tinh thần ông Phước và phản đối phiên tòa bắt công, mờ ám.
Kết
Ngày 26/09/2014 sắp tới đây, phiên tòa phúc thẩm của ông Phước sẽ diễn ra tại tòa án tỉnh Ninh Thuận, gia đình ông Phước và mọi người dân trong thôn cũng đã đồng loạt ký tên vào đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho ông Phước, và tiếp tục đồng hành dõi theo phiên tòa này. Ngoài ra, hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm cũng đã viết thư tuyên bố phản đối việc nhà cầm quyền bắt giam người vô tội.
Qua sự việc này có thể thấy rõ được những ẩn khuất, nỗi lòng của dân trong lúc rối ren nhất, và khi lắng nghe tiếng lòng từ dân ta mới cảm nhận được sự bức xúc, lòng căm phẫn tới những bất công mà họ phải gánh chịu, từ việc làm trái lương tâm của chính quyền, đến việc làm không đạo đức của những người viết báo quy chụp tội lỗi cho họ… Tất cả chỉ vì để bảo vệ một đơn vị thi công khai thác tại đây mà bỏ qua tiếng dân, trốn tránh trách nhiệm, vậy không đáng để được goi là chính quyền do dân và vì dân.
Được biết, trước đây đã có rất nhiều nhà báo đến tìm hiểu sự việc này như báo Tuổi Trẻ, báo Pháp Luật, báo tỉnh Ninh Thuận.v.v.. Tuy nhiên báo chí chính thống lại không đưa tin đúng sự thật mà còn dùng ngòi bút xuyên tạc chỉ trích đổ lỗi cho người dân khiến họ rất bức xúc. Khi trao đổi với chúng tôi, người dân thôn Sơn Hải rất buồn vì điều này họ hi vọng chúng tôi mang sự thật phơi bày trước công chúng để mọi người có thể hiểu được sự việc chính xác và minh bạch hơn.
Là một phóng viên, chúng tôi nhận thấy cần phải đưa thông tin đúng sự thật để giải oan cho những người dân chất phác thôn Sơn Hải. Đồng thời tố cáo chính quyền không những không bảo vệ nhân dân mà còn lợi dụng quyền lực ức hiếp người dân vô tội khiến họ phải chịu nhiều oan ức.
Một số bài báo lề phải cáo buộc oan người dân:
Một số hình ảnh cận cảnh nhà máy khai thác Titan MTV Quang Thuận:
Thành Công & Thuốc Lá thực hiện
Người Buôn Gió - Vài nét về Ngô Nhật Đăng.
Đáng ra mình tránh chuyện đang ầm ĩ giữa thành viên các HNBĐL. Thứ nhất
là mình không có trong đó, thứ hai là mình không chứng kiến, thứ ba
không được ai kể nghe nội tình việc thế nào.
Thứ tư là không muốn thêm ra bớt vào, không khéo thành đổ dầu vào lửa.
Nhưng thôi, dù sao cũng quen Ngô Nhật Đăng, nhân vật đang thu hút dư luận cùng với Phạm Chí Dũng. Cũng nên cần có vài câu bày tỏ cái nhìn của mình cho thiên hạ tham khảo. Không biết nội tình cũng nhân tiện chém gió cho nó thành bài, chứ chả nhẽ viết cụt lủn.
Nói về anh Đăng chỉ ngắn gọn thế này, thích ba hoa. Ai gặp sẽ biết ngay,
anh ta ba hoa đủ thứ trên trời, dưới biển. Có lúc còn kêu gặp thằng
này, thằng kia....toàn thằng làm to...nói chuyện này nọ.
Cái thứ hai là sĩ diện. Tiền nhiều lúc không có, trong túi có một vài trăm nhưng sẵn sàng trả tiền cà phê, ăn sáng cho mấy người. Lúc nào cũng ra vẻ quan trọng, hiểu biết nhiều, quan hệ rộng. Thực ra thì lông bông, mỗi thứ làm một tí, cả thèm chóng chán. Mà cũng chả biết hiểu nhiều hay không, nhưng có câu chuyện nào cứ kể đi kể lại.
Con người như Ngô Nhật Đăng thật ra là vô hại thậm chí là vô tích sự luôn. Không có mưu kế thâm sâu gì, làm việc theo cảm hứng, được ai khen là lâng lâng lên mây, cứ thế mà diễn.
Vì cái tính ba hoa, hóng hớt được đâu tí tin tức gì là làm bộ như có quan hệ, thông tin quan trọng. Như vụ Lê Anh Hùng ở trại tâm thần, Ngô Nhật Đăng lăng xăng hóng được tin, chạy đôn đáo ra vẻ là người đứng ra lo thu xếp cho Hùng ra trại. Rút cục để Lê Anh Hùng nghi là an ninh. Thật ra trong vụ này, an ninh cũng muốn thả Lê Anh Hùng lắm rồi, đang tìm cách này nọ tung thông tin để thả Lê Anh Hùng làm sao cho suôn sẻ. Ngô Nhật Đăng vớ được cái tin ấy, thế là lon ton cầm đèn chạy trước ô tô.
Cuối cùng là bị Lê Anh Hùng nghi là an ninh, mà thằng Hùng ở hoàn cảnh nó trong trại, thấy tự nhiên ông Đăng vào gặp chém ào ào mà không hề bị khó khăn gì, Hùng nó nghi cũng phải.
Trước hôm Lê Anh Hùng ra trại mấy hôm, mình cả chị Bùi Hằng đến nhà Hùng. Gặp ngay môt tốp an ninh, công an ở nhà Hùng. Họ đang thuyết phục mẹ Hùng làm đơn xin Hùng về. Họ đưa cả đơn mẫu để mẹ Hùng làm. Thấy mình cả chị Hằng đến họ đứng dây đi ra, dặn sẽ quay lại sau. Mẹ Hùng định viết đơn theo mẫu thì mình ngăn, mình nói nếu bác quyết định viết thì để cháu viết hộ cho, chứ viết theo họ thì dở lắm, có gì sơ sảy về thằng Hùng nó trách bác. Thế là mình viết đơn, xong mang đi đánh máy ở nhà anh Kim Môn, sau đó photo đơn cho các anh em khác nữa duyệt . Khi anh em ok nội dung thì mình bảo Lã Dũng mang xe ô tô đến chở mẹ Lê Anh Hùng đi nộp đơn.
Hôm mẹ Hùng báo nó được ra trại, mấy xe đi đón. Ngô Nhật Đăng đi đầu như người hùng đến tiếp thu chiến thắng. Hôm đó mình ở nhà, nhìn ảnh, đọc tin đã thấy mắc cười. Sau Lê Anh Hùng tố Ngô Nhật Đăng là an ninh, mới ra vào trại thăm nó dễ, đón nó về lại thao thao đủ thứ chuyện chính khách tầm quốc tế đã can thiệp thế nào cho Hùng ra.
Đáng ra Ngô Nhật Đăng cứ lẹt đẹt mãi thế trong phong trào đấu tranh, vì nhát gan, tài không, chí không. Nhưng lại xảy ra vụ điều trần tự do báo chí bên Hoa Kỳ. Lúc này nhiều người có kinh nghiệm và có bề dày đấu tranh lại bị vào vòng cấm xuất cảnh. Thế nên hết nạc vạc đến xương. Ngô Nhật Đăng có chân trong đoàn người lên đường đi Hoa Kỳ.
Nói gì thì nói,chuyện thiên hạ bảo đi thế được du lịch miễn phí này nọ là một khía cạnh. Chứ nói hết nhẽ thì cũng phải công nhận những người đi đó cũng can đảm.
Đời nó hay ở chỗ, đến lúc ấy bỗng dưng nhờ mẽ ngoài bệ vệ, lại thêm khoản nổ chuyên nghiệp, phong thái tự tin , đĩnh đạc rất đường bệ. Ngô Nhật Đăng đã làm khá tốt phần việc của mình. Thế là nhờ chuyến đi của mấy người ấy, được thế tiến lên. Khi về HNBDL ra đời.
Tất nhiên HNBĐL ra đời sau chuyên đi kia, ắt phải có vài nhân vật trong chuyến đi đột phá ấy có chân trong ban điều hành. Nước cờ này là hợp lý, vì những thượng nghị sĩ, quốc hội Hoa Kỳ ít ra cũng đã gặp mặt , nói chuyện với một số thành viên trong ban điều hành.
Đời đưa đẩy làm Ngô Nhật Đăng lên như diều, vụt cái chói sáng, giữ chân trị sự hay là cái gì gì đó, đại khái quan trọng trong HNBĐL cho đến khi xảy ra chuyện vừa qua. Đến lúc này thì buộc phải can đảm khi bao ánh mắt nhìn vào, Ngô Nhật Đăng lại một lần nữa đóng trọn vai người hùng. Nhưng Ngô Nhật Đăng thì tài gì mà quản lý được một tờ báo.?
Không có tài, lại thích thể hiện, cho nên việc Ngô Nhật Đăng múa may , quay cuồng một hồi rồi gặp phải sự cố vừa qua là tất nhiên.
Nhưng nhìn lại thì nguyên nhân của sự cố ở HNBĐL vừa qua không phải vì Ngô Nhật Đăng bất tài, thích thể hiện, thích đi theo kiểu của mình. Đó là một nhẽ thôi. Còn có những nhẽ khác thì phải hỏi Liên Sơn, tác giả mở màn cuộc chấn chỉnh đấu tranh dân chủ và hỏi Phạm Chí Dũng đã được Liên Sơn tư vấn quản lý HNBDL thế nào.?
Ngô Nhật Đăng chắc chắc không phải an ninh hay tay sai an ninh. Đó là những gì tôi quan sát anh ta từ trước đến nay. Anh ta có thể bất tài, có thể hay ba hoa. Nhưng anh ta không phải là an ninh. Lẽ ra để anh ta làm ở bộ phận giao tiếp, đối ngoại của HNBĐL để anh ta nhận vai trò nhậu nhẹt, làm huyên náo viên, phát biểu chém gió thì phát huy khả năng của anh ta hơn.
Còn về nhà báo Phạm Chí Dũng. Anh Dũng chưa am hiểu gì về những người đấu tranh, trước giờ anh giữ vai trò viết báo, phân tích, bình luận một cách độc lập. Nếu như sau này anh có hiểu về những thành phần đấu tranh, thì sự hiểu biết đó cũng không nhiều. Chưa kể sau mỗi cá nhân lại là một phe nhóm, một tổ chức nào đó nữa. Với hiểu biết về cá nhân những người đấu tranh không nhiều ( cái này nhiều bạn sẽ bảo tôi lên lớp chê bai, nhưng cứ hỏi thẳng anh Dũng xem có phải thế không ) mà anh Dũng giữ chức chủ tịch quản lý nhân sự thì cái chuyện vừa rồi đến, chả có gì ngạc nhiên.
Tất nhiên thì câu chuyện về Phạm Chí Dũng là an ninh, đóng khổ nhục kế để cài vào phá hoại như một số người nói , tôi không tin. Bạn nào đưa ra dẫn chứng về Phạm Xuân Ẩn hay X30 hay Vũ Ngọc Nhạ để minh hoạ cho trường hợp Phạm Chí Dũng chỉ là so sánh thôi.
Chuyện vừa qua, đúng không phải là chuyện mâu thuẫn cá nhân. Nó xuất phát từ một ông không biết gì về báo chí lại làm trị sự tờ báo. Còn một ông không biết gì về nhân sự thì lại làm quản lý nhân sự. Và cái HNBĐL nó cũng chưa ra hẳn là một cái hội của xã hội dân sự, cũng chưa ra hẳn là một tờ báo. Nó đang tìm đường để định hình mình. Trong lúc định hình thì có chuyện xung đột là tất nhiên.
Giờ anh Ngô Nhật Đăng quyết chí thể hiện mình, anh làm cái HNB trẻ thì phải. Hy vọng anh bớt chuyện đã qua, tập trung làm hiệu quả để thể hiện được mình. Đó là cách tốt nhất để thiên hạ thấy mình thế nào, chứ không cần đi đôi co nữa.
Còn anh Phạm Chí Dũng, có cố vấn Liên Sơn, một người chuyện nghiệp về làm báo cũng như có căn bản hiểu biết về đấu tranh bất bạo động, về xã hôi dân sự, về mùa xuân Ả Rập, các hội, nhóm đấu tranh...gì đó. Với những lợi thế đó, tương lai HNBĐL cũng sẽ là một tổ chức xã hội dân sự hàng đầu, góp phần trong công cuộc đấu đòi tự do, dân chủ cho đất nước. Anh Dũng cũng nên thôi chuyện thông cáo, thông báo số X, Y, Y về Ngô Nhật Đăng, tập trung xây dựng vào chuyên môn.
Anh em đấu tranh có thiện cảm với ông Đăng, ông Dũng mà thấy bài này gây khó chịu. Xin cứ việc block. Cái nút chặn vĩnh viễn chỉ cần hai cái nhấp chuột. Chúc anh em đoàn kết, sớm thắng lợi mang dân chủ về cho đất nước.
Tái bút . Hôm nay cô giáo lại không ra bài tập về nhà.
Người Buôn Gió
(Blog Người Buôn Gió)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét