Gò Cỏ May - Cám ơn “Anh Nông Dân” của bác Nguyễn Thiện Nhân!
Ông Nguyễn Thiện Nhân
- Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hơn nhà
cháu một tuổi nên xin phép được gọi tắt là Bác Nhân cho thân mật. Dù
chưa quen và chưa vinh dự được gặp Bác Nhân bao giờ. Song hôm Chủ
nhật được bác ghé thăm nhà (blog cá nhân). Hôm qua lại được người của
Bác (CTV Anh Nông Dân) viết bài phản biện, khiến nhà cháu sướng củ tỷ. Rồng ghé nhà tôm mà lỵ, hì hì…
Như bà con độc giả đã biết, trong entry Đôi lời về việc Cụ Hồ đi tát nước chống hạn với dân của nhà cháu chỉ là sự ngứa nghề (phó nháy) để góp ý kiến với nhà báo đã đăng tấm hình chưa ổn trên báo Tuổi trẻ. Vậy mà ngay lập tức bị một ông anh nhà văn phang cho mấy gậy không thương tiếc. Cho đó là “rất phản cảm“; là “vạch lá tìm sâu“; là “cách nhìn tù đầy với định kiến soi mói mà không khoa học“.
Nay Anh Nông Dân của Bác Thiện Nhân (không biết anh này có quen anh nhà văn không?) lại bồi thêm cho nhà cháu những cú trời giáng nữa. Cho là: “chuyên
đi bới móc thế hệ cha ông”; ”đầu óc kém tư duy và không hiểu nông
nghiệp”; “thiếu quan sát và láo toét”; ”tiếng nói xuyên tạc và đầy cắc
cớ, bới móc”; ”thầy bói mù” (Xem: Ở đây).
May mà nhà cháu không có tiền sử bệnh tim. Nếu không thì…
Cảm động trước nghĩa cử cả hai anh giai
và xin đáp lễ cho phải đạo và vui chút thôi. Chứ công to việc nhớn của
nhà quan mắc chi đến cái thá dân đen thấp cổ bé miệng như nhà cháu mà
phải lo xa.
Ở bức ảnh lờ mờ được đăng trên báo để
tuyên truyền về việc Cụ Hồ về Thường Tín, Hà Đông thăm và cùng tát nước
chống hạn với dân, thì không riêng nhà cháu mà rất nhiều người đều cho
là phản cảm. Tấm hình lại được tác giả bài báo cắt mất phần nước
và bôi đen bên dưới, khiến có người chế giễu, cho rằng Bác “đang tát nước bùn đen vào các chiến sĩ bộ đội” (Kami – Dân bây giờ ghê gớm lắm).
Người nhẹ nhàng hơn thì nêu thắc mắc: “Bác tát nước như vậy thì đổ nước đi đâu? Chả lẽ múc nước đổ ra đường? nếu vậy thì mấy “chú” đứng trên kia ướt hết à?” (Mõ Làng Chờ, on 10/02/2014 at 9:25 sáng).
Trong bức ảnh chưa bị cắt cúp và bôi đen mà blog Hiệu Minh đưa
lên để phản biện lại thì độc giả có thể yên tâm sẽ không ai bi cụ Hồ
hắt bùn vào cả. Vì tác giả còn khoanh vòng tròn đỏ đánh dấu cả “chỗ nước
hắt vào”.
Mặt khác, bài viết còn chỉ rõ:
“Người cầm dây gầu phía đối diện, còn để tréo dây, tư thế tay và đứng như thế, làm sao múc được nước”, mà vội suy luận “Tôi xem tấm ảnh trên và nhận xét rằng, Bác Hồ của chúng ta đang tát nước bùn đen vào các chiễn sĩ bộ đội tham gia giúp dân tát nước dọc sông Hòa Bình”… Bạn
đọc lưu ý, trong ảnh trên, phần mương khá rộng, đủ để biết là cái sòng
cụ đang lấy nước vào gầu là có nước chứ không phải bùn. Không hiểu do vô
tình hay cố ý, người ta đăng ảnh trên các báo lại cắt mất phần mương
đầy nước, gây cho người xem có cảm giác cụ đang tát bùn” (Tát Nước Gàu Dây – Hiệu Minh).
Như vậy câu hỏi được nêu ra ở đây là, tại sao tòa soạn (báo Tuổi trẻ)
lại chấp nhận giải pháp cắt bỏ phần nước và bôi đen một phần bức ảnh
như thế để độc giả (không tiếp cận được ảnh gốc) dễ bị hiểu lầm?
Xin thưa, thủ phạm chính là hai cái dây
gàu bị quấn chập vào nhau mà anh cán bộ đang tát nước gàu giai cùng
Bác đấy! (Xem ảnh dưới đây).
Cho nên nếu không bôi đen che chỗ dây gàu chập chéo nhau đi thì cái câu mô tả:
“Tôi tuy xa công
việc nhà nông mấy chục năm nay nhưng tát nước thì vẫn nhớ”. Một số đồng
chí muốn được cùng tát đôi với Bác, nhưng Người đã đề nghị một đồng chí
lãnh đạo của Hà Đông có mặt lúc ấy tát cùng. Thấy đồng chí này có vẻ
lóng ngóng, Bác hướng dẫn: “Phải kéo bằng dây trên, đổ bằng dây dưới”.
Trong tư thế vững chãi của người tát gàu giai có kinh nghiệm, Bác thả
gàu vục nước đổ nước một cách thuần thục không khác một nhà nông.”
Giữa nội dung bài viết và ảnh sẽ không thể cùng chung sứ mệnh lịch sử được.
Đồng bệnh tương lân, Anh Nông Dân của Bác Thiện Nhân cũng không ngại ngần khi bốc thơm lãnh tụ:
“Bác là người từ
vùng quê nghèo mà lớn lên. Bác đã đi nhiều nơi, sống nhiều năm trong
rừng với bà con dân tộc, trồng cây, đi cày, tát nước, cưỡi ngựa, tập võ
là chuyện thường, thì việc Bác đổ nước một cách thuần thục không khác một nhà nông là điều dễ hiểu!”
Một độc giả cao tuổi của Hiệu Minh (Đinh Gia Viễn - February 9, 2014 at 2:50 pm) phi lộ:
“Nhớ không chính
xác lắm, nhưng đại khái là vị cán bộ tát nước với Bác không biết tát,
mọi người đề nghị được thay cho vị cán bộ đó, nhưng Bác không đồng ý và
bảo để chú ấy phải học tát nước cho quen đi”.
Nếu tác giả bài báo mà đưa
thêm chi tiết thật này vào bài báo thì chả cần phải cắt cúp lại ảnh và
bôi đen chỗ dây gàu quấn, mọi độc giả khó có thể hiểu nhầm đáng tiếc
như đã xẩy ra.
“Cái lõi của đời sống là phải trung thực” - Nhà văn Nguyễn Văn Thọ đáng mến viết còm vào “Phây” của tôi như thế, sau khi xem bài Tát Nước Gàu Dây – post trên Hiệu Minh, nói: rất muốn chia sẻ bài viết này! Đó cũng chính là động lực để tôi viết bài phản biện.
Đáng tiếc là cộng tác viên Anh Nông Dân của Bác Thiện Nhân, lại bỏ rất nhiều công sức ra để dùng Photoshop nhằm chứng minh lại mệnh đề (“nói Cụ Hồ hắt bùn vào lính là sai“) mà blog Hiệu Minh đã
làm rất kỹ. Song lại cố tình lờ đi cái chi tiết hai dây gàu bị chập
chéo nhau của anh cán bộ lãnh đạo của Hà Đông. Như thế là trung thực hay nguỵ biện? Xin bà con độc giả quan tâm tới đề tài này phân xử dùm!
Xưa kia các cụ thường dạy con cái bằng cái câu “khôn không qua nhẽ, khoẻ không qua nhời”. Dân gian còn có câu: “Nói phải củ cải cũng nghe”. Trong 175 cái Commente hiện thị trên Hiệu Minh blog (hôm qua đã khóa còm), tôi rất tâm đắc với phần Commente điềm đạm của hai độc giả sau đây, xin trích:
“Tôi không rõ ông cụ định làm gì trong bức hình trên. Dạy dân tát nước hay dạy chiến sĩ tát nước?
Quan sát góc dưới bên trái và gần góc trên bên phải có 2 bà nông dân thứ thiệt kìa. Không rõ hai bà ấy có cười mỉa trong bụng không nữa.
Mà ông cụ diễn cảnh này làm gì chứ ?” (Quỳnh Anh - February 10, 2014 at 4:21 am)
Quan sát góc dưới bên trái và gần góc trên bên phải có 2 bà nông dân thứ thiệt kìa. Không rõ hai bà ấy có cười mỉa trong bụng không nữa.
Mà ông cụ diễn cảnh này làm gì chứ ?” (Quỳnh Anh - February 10, 2014 at 4:21 am)
“Nói gì thì nói,
cảnh Bác Hồ mình tát nước, đánh banh, đánh võ, đạp nước, làm… nhạc
trưởng, cho kẹo thiếu nhi… đều là DIỄN cả. (Làm chính trị mà không biết
“diễn” thì đừng làm chính trị,… nhưng đến “pha” “Tát nước” thì do kịch
bản, cùng đạo diễn kém nên ra như thế, mặc dù “diễn viên” vẫn… xuất
thần như ngày nào” (HỒ THƠM1 - February 10, 2014 at 1:27 am)
Điều cuối cùng, nhà cháu muốn nói là văn hóa phản biện trên trang blog cá nhân của GS.TS Nguyễn Thiện Nhân nói
riêng và của các lãnh đạo đảng và nhà nước ta nói chung là rất hàng tôm
hàng cá. Nếu đó chỉ là lời thục mạng của vài anh ít học “ăn theo nói
leo” hay dân viết lách có thói quen văng tục (cho đỡ nhạt miệng) thì có
thể châm chước. Nhưng trong các bài viết phê bình (phản biện) nghiêm
túc của các cộng tác viên (như CTV Anh Nông Dân là
ví dụ!) mà có những ngôn từ thô bỉ mang tính chửi bới miệt thị nhau thì
có nên không? Cho dù bên dưới đều có dòng ghi chú cẩn thận: *Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả.
Làm như thế liệu có đem lại sự sang trọng cũng như cảm tình của độc giả khắp nơi hay không?
Thật là:
Thành đổ đã có vua xây
Việc gì gái goá lo ngày lo đêm
Xin có nhời cám ơn Anh Nông Dân của Bác Thiện Nhân! Anh đã làm cho tôi sáng mắt sáng lòng!
Gò Cỏ May(Blog Gocomay)
CA Hà Nội tấn công Thái Hà, nhà thờ rung chuông báo động
Theo tin khẩn báo lúc 21h:15′, tối ngày 11/2/2014, công an
sắc phục và dân phòng đã đổ quân tấn công vào nhà thờ Thái Hà (Đống Đa,
Hà Nội). Nhà thờ hiện đang đánh trống, rung chuông báo động khẩn cấp.
Trang Facebook SV CG Việt Nam vừa
loan tin báo động cho biết: SOS – Công An đang tấn công nhà thờ Thái Hà
– Hà Nội. Nhà thờ đang đánh trống kéo chuông. Yêu cầu giáo dân và sinh
viên ở Hà Nội đến ngay nhà thờ để cứu giúp các nhà Dòng. Những người ở
xa xin hiệp ý cầu nguyện cho nhà Dòng và các cha.
Sau khi công an sắc phục và dân phòng đột nhập vào bên trong nhà thờ, bà con giáo dân liền kéo đến rất đông và lập tức đóng cổng.
Sau khi công an sắc phục và dân phòng đột nhập vào bên trong nhà thờ, bà con giáo dân liền kéo đến rất đông và lập tức đóng cổng.
Giáo dân kéo đến rất đông bao vây, chất vấn công an về hành vi quấy phá nơi linh thiêng.
Được biết vào khuya hôm 10/2/2014 trước,
nhân lúc mọi người không để ý, công an đã bất ngờ ập vào nhà thờ Thái
Hà để kiểm tra và quấy phá. Sau đó, công an tiếp tục huy động thêm lực
lượng đóng chốt ngay phía đối diện nhà thờ.
Vụ tấn công xảy ra ngay sau khi giáo xứ Thái Hà thông báo tổ chức thánh lễ thắp nến cầu nguyện cho luật sư Lê Quốc Quân vào lúc 20h00 chủ nhật ngày 16-2-2014. Buổi thắp nến sẽ diễn ra trước phiên tòa phúc thẩm vụ án LS Lê Quốc Quân vào ngày 18/2 tại trụ sở tòa án tối cao Hà Nội (262 Đội Cấn).
(DLB)
Vụ tấn công xảy ra ngay sau khi giáo xứ Thái Hà thông báo tổ chức thánh lễ thắp nến cầu nguyện cho luật sư Lê Quốc Quân vào lúc 20h00 chủ nhật ngày 16-2-2014. Buổi thắp nến sẽ diễn ra trước phiên tòa phúc thẩm vụ án LS Lê Quốc Quân vào ngày 18/2 tại trụ sở tòa án tối cao Hà Nội (262 Đội Cấn).
(DLB)
Bất ổn xã hội nguy hiểm hơn bất ổn kinh tế
(vậy bất ổn xã hội từ bất ổn gì ra zậy?! -xem bài dưới bài này làm 1 ví dụ)
Khi
niềm tin bị mất, lòng người không yên, nhân tâm ly tán thì vài thập kỷ
chưa chắc đã khôi phục được mà đó lại là những nền tảng để một xã hội có
thể phát triển.
Ông Vũ Thành Tự Anh, giám đốc nghiên cứu của chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (FETP) - một hình thức viện trợ thông qua liên kết đào tạo giữa Ðại Học Harvard và Ðại Học Kinh Tế ở Sài Gòn vừa cảnh báo như thế.
Ông Vũ Thành Tự Anh, giám đốc nghiên cứu của chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (FETP) - một hình thức viện trợ thông qua liên kết đào tạo giữa Ðại Học Harvard và Ðại Học Kinh Tế ở Sài Gòn vừa cảnh báo như thế.
Công an tìm kiếm hài cốt người cho vợ bí thư xã Kim Long, huyện Châu Ðức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, vay tiền và sau khi đòi nợ thì đột nhiên mất tích. Hàng loạt vấn nạn xã hội nghiêm trọng tại Việt Nam, trong đó có suy đồi đạo đức được xem là lỗi của thể chế. (Hình: Người Lao Ðộng) |
Trong một bài viết gần đây, ông Vũ Thành Tự Anh nhận định, năm vừa
qua là năm thứ 5 mà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rơi vào suy giảm.
Dẫu lạm phát không còn ám ảnh thường trực như giai đoạn 2007-2008 hay
2011, song nền kinh tế Việt Nam vừa tăng trưởng chậm, vừa tỏ ra thiếu
sức sống, thậm chí suy kiệt. Sự suy kiệt thể hiện qua việc mỗi tháng, có
trung bình khoảng 5,000 doanh nghiệp giải thể hay ngừng hoạt động. Cũng
trong năm ngoái, các chương trình tái cấu trúc được triển khai chậm
chạp và thiếu hiệu quả, làm cho hy vọng về sự hồi phục ngày càng trở nên
xa vời.
Theo ông Vũ Thành Tự Anh, ưu tiên hàng đầu của chính quyền Việt Nam trong năm 2014 vẫn sẽ là tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu và phục hồi sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do bị chi phối bởi vô số các ưu tiên trước mắt, đặc biệt là các vấn đề kinh tế, có thể chính quyền Việt Nam không đánh giá hết hệ lụy của nhiều vấn đề xã hội đã trở thành đặc biệt nhức nhối trong vài năm gần đây.
Các biểu hiện đó mỗi ngày một nhiều và càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Ông Vũ Thành Tự Anh cho rằng, chỉ cần nhìn vào những ngành, những lĩnh vực vốn vẫn được xem là có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ “lương tâm của xã hội” như: thầy giáo, thầy thuốc, tôn giáo, tâm linh, tòa án, công an, báo chí thì cũng có thể thấy rõ tình trạng đó.
Trong khi một số cá nhân vội vàng quy kết những vấn nạn xã hội tại Việt Nam cho kinh tế thị trường thì ông Vũ Thành Tự Anh nhấn mạnh, nếu suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy sự quy kết này là thiếu cơ sở.
Theo ông Vũ Thành Tự Anh, một nền kinh tế thị trường đích thực sẽ không ngang nhiên làm hại rồi quẳng xác khách hàng xuống sông để phi tang. Những sai trái trong các giao dịch phi thị trường (như tìm hài cốt liệt sĩ hay điều tra thủ phạm giết người) hay ít tính thị trường (như đào tạo ở đại học công lập hay xét nghiệm y tế ở bệnh viện công) hiển nhiên cũng không thể đổ tại kinh tế thị trường mà chỉ có thể bắt nguồn từ lòng tham và sự bất nhân.
Ông Vũ Thành Tự Anh khẳng định, mặc dù lòng tham có thể là một tính xấu phổ biến của con người nhưng sự bất nhân không hề có tính phổ quát. Sự bất nhân đến từ sự sa đọa của bản thân con người và/hoặc từ niềm tin là một người có thể phạm tội mà không bị phát hiện, và/hoặc nếu bị phát hiện thì cũng không bị trừng phạt một cách tương xứng ố tất cả đều không phải là hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường.
Giám đốc nghiên cứu của FETP cũng phản đối việc cho rằng sự nảy sinh các vấn nạn xã hội, đặc biệt liên quan đến tội phạm là do “nghèo đói sinh đạo tặc.” Ông Vũ Thành Tự Anh cho rằng, có một phần sự thật trong câu nói vẫn lưu truyền này nhưng ông nhấn mạnh, cần nhớ rằng theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê, trong giai đoạn 2008-2013, thu nhập trung bình tính trên đầu người của Việt Nam vẫn tăng gần 10%/năm theo giá cố định. Thành ra theo ông, nếu quả thực “nghèo đói sinh đạo tặc” thì vấn đề không phải là do mức sống chung của xã hội giảm xuống, mà do kết quả kinh tế đã bị phân bổ không công bằng giữa các nhóm dân cư trong xã hội.
Ông Vũ Thành Tự Anh dẫn ý kiến của Giáo Sư Douglass North, người được giải Nobel Kinh Tế 1993, cho rằng, các vấn nạn xã hội bắt nguồn từ hệ thống thể chế (bao gồm hệ thống các quy tắc thành văn như Hiến Pháp, luật và các văn bản dưới luật, các quy tắc bất thành văn như: phong tục, tập quán và các cơ chế cưỡng chế thi hành các quy tắc này). Nói cách khác, “thể chế nào con người ấy và con người nào thể chế ấy,” cũng vì vậy thể chế yếu kém là nguyên nhân của những vấn nạn xã hội và kinh tế hiện nay.
Ông Vũ Thành Tự Anh lấy làm tiếc là đến nay, Việt Nam gần như không quan tâm đến việc điều tra, nghiên cứu xã hội nghiêm túc để có thể chỉ ra ngọn nguồn của những vấn đề xã hội nổi cộm cùng những hệ lụy của chúng. Tình trạng này càng trở nên trầm trọng khi Việt Nam có xu hướng chú tâm nhiều hơn đến các vấn đề kinh tế, đặc biệt là các vấn đề có tính tình thế, kỹ thuật, thậm chí không thực chất.
Giám đốc nghiên cứu của FETP khuyến cáo, lịch sử cho thấy, khi kinh tế đi xuống, có thể chỉ cần vài năm để hồi phục, song một khi niềm tin bị mất, lòng người không yên, nhân tâm ly tán thì vài thập kỷ cũng chưa biết có đủ để khôi phục hay không, mà đó lại chính là những nền tảng để một xã hội có thể phát triển. Muốn giảm thiểu chi phí xã hội trong quá trình phát triển ở Việt Nam, các vấn đề xã hội phải được đặt vào đúng vị trí của chúng trong chương trình nghị sự, trong chương trình nghiên cứu của các trường và viện nghiên cứu và trong sự quan tâm của xã hội.
(Người Việt)Theo ông Vũ Thành Tự Anh, ưu tiên hàng đầu của chính quyền Việt Nam trong năm 2014 vẫn sẽ là tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu và phục hồi sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do bị chi phối bởi vô số các ưu tiên trước mắt, đặc biệt là các vấn đề kinh tế, có thể chính quyền Việt Nam không đánh giá hết hệ lụy của nhiều vấn đề xã hội đã trở thành đặc biệt nhức nhối trong vài năm gần đây.
Các biểu hiện đó mỗi ngày một nhiều và càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Ông Vũ Thành Tự Anh cho rằng, chỉ cần nhìn vào những ngành, những lĩnh vực vốn vẫn được xem là có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ “lương tâm của xã hội” như: thầy giáo, thầy thuốc, tôn giáo, tâm linh, tòa án, công an, báo chí thì cũng có thể thấy rõ tình trạng đó.
Trong khi một số cá nhân vội vàng quy kết những vấn nạn xã hội tại Việt Nam cho kinh tế thị trường thì ông Vũ Thành Tự Anh nhấn mạnh, nếu suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy sự quy kết này là thiếu cơ sở.
Theo ông Vũ Thành Tự Anh, một nền kinh tế thị trường đích thực sẽ không ngang nhiên làm hại rồi quẳng xác khách hàng xuống sông để phi tang. Những sai trái trong các giao dịch phi thị trường (như tìm hài cốt liệt sĩ hay điều tra thủ phạm giết người) hay ít tính thị trường (như đào tạo ở đại học công lập hay xét nghiệm y tế ở bệnh viện công) hiển nhiên cũng không thể đổ tại kinh tế thị trường mà chỉ có thể bắt nguồn từ lòng tham và sự bất nhân.
Ông Vũ Thành Tự Anh khẳng định, mặc dù lòng tham có thể là một tính xấu phổ biến của con người nhưng sự bất nhân không hề có tính phổ quát. Sự bất nhân đến từ sự sa đọa của bản thân con người và/hoặc từ niềm tin là một người có thể phạm tội mà không bị phát hiện, và/hoặc nếu bị phát hiện thì cũng không bị trừng phạt một cách tương xứng ố tất cả đều không phải là hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường.
Giám đốc nghiên cứu của FETP cũng phản đối việc cho rằng sự nảy sinh các vấn nạn xã hội, đặc biệt liên quan đến tội phạm là do “nghèo đói sinh đạo tặc.” Ông Vũ Thành Tự Anh cho rằng, có một phần sự thật trong câu nói vẫn lưu truyền này nhưng ông nhấn mạnh, cần nhớ rằng theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê, trong giai đoạn 2008-2013, thu nhập trung bình tính trên đầu người của Việt Nam vẫn tăng gần 10%/năm theo giá cố định. Thành ra theo ông, nếu quả thực “nghèo đói sinh đạo tặc” thì vấn đề không phải là do mức sống chung của xã hội giảm xuống, mà do kết quả kinh tế đã bị phân bổ không công bằng giữa các nhóm dân cư trong xã hội.
Ông Vũ Thành Tự Anh dẫn ý kiến của Giáo Sư Douglass North, người được giải Nobel Kinh Tế 1993, cho rằng, các vấn nạn xã hội bắt nguồn từ hệ thống thể chế (bao gồm hệ thống các quy tắc thành văn như Hiến Pháp, luật và các văn bản dưới luật, các quy tắc bất thành văn như: phong tục, tập quán và các cơ chế cưỡng chế thi hành các quy tắc này). Nói cách khác, “thể chế nào con người ấy và con người nào thể chế ấy,” cũng vì vậy thể chế yếu kém là nguyên nhân của những vấn nạn xã hội và kinh tế hiện nay.
Ông Vũ Thành Tự Anh lấy làm tiếc là đến nay, Việt Nam gần như không quan tâm đến việc điều tra, nghiên cứu xã hội nghiêm túc để có thể chỉ ra ngọn nguồn của những vấn đề xã hội nổi cộm cùng những hệ lụy của chúng. Tình trạng này càng trở nên trầm trọng khi Việt Nam có xu hướng chú tâm nhiều hơn đến các vấn đề kinh tế, đặc biệt là các vấn đề có tính tình thế, kỹ thuật, thậm chí không thực chất.
Giám đốc nghiên cứu của FETP khuyến cáo, lịch sử cho thấy, khi kinh tế đi xuống, có thể chỉ cần vài năm để hồi phục, song một khi niềm tin bị mất, lòng người không yên, nhân tâm ly tán thì vài thập kỷ cũng chưa biết có đủ để khôi phục hay không, mà đó lại chính là những nền tảng để một xã hội có thể phát triển. Muốn giảm thiểu chi phí xã hội trong quá trình phát triển ở Việt Nam, các vấn đề xã hội phải được đặt vào đúng vị trí của chúng trong chương trình nghị sự, trong chương trình nghiên cứu của các trường và viện nghiên cứu và trong sự quan tâm của xã hội.
Tranh chấp đất ở Văn Giang: 5 nông dân bị bắn trọng thương
Sáng hôm nay bà con nông dân xã Phụng Công Huyện Văn Giang tiếp tục
ra đồng để giữ đất bất kể ngày hôm qua một số xã hội đen đã ngang nhiên
dùng súng hoa cà hoa cải bắn vào họ khiến 5 người bị thương
trong đó một người vẩn còn nằm cấp cứu tại bệnh viện Việt Đức. Vào lúc 3
giờ chiều, một nông dân đang có mặt tại ruộng cho chúng tôi biết:
Bà con đang tập trung gần chỗ các gia đình có đất đang bị lấy thực hiện dự án thì chúng nó dùng súng hoa cà hoa cải nó bắn vào bà con ở xã Phụng Công. Có 5 người bị trúng đạn và một trường hợp đang cấp cứu tại bệnh viện Việt Đức tương đối nặng còn 4 người đã xuất viện về nhà. Chính quyền địa phương không ai ra nói chuyện gì cả coi như nó phớt lờ để bọn chúng dùng súng bắn vào bà con nông dân xã Phụng Công vào chiều hôm qua.
Sáng nay bà con tiếp tục ra giữ đất nhưng chúng nó lại mang súng ra dọa nạt dân. Việc dùng súng của Ecopark làm sao như thế được? Chúng tôi là nông dân đã tránh tiếng nổ vì nó ít nhiều sẽ vi phạm pháp luật như vụ của anh Vươn nên chúng tôi đã tránh rồi. Lúc trưa này chúng lấy một bao tải súng nữa vá phân phối với nhau để manh động với bà con đấy.
Bà Lê Hiền Đức, người được dân oan nhiều tỉnh thành khắp nước dựa vào để lên tiếng nỗi oan ức của họ cho chúng tôi biết việc bà gọi cho công an và được họ trả lời như sau:
Sáng nay bà con nói với tôi rằng chúng nó đang cho xe chở đến mấy chục khẩu súng nữa không biết súng hoa cải hay hoa cà gì. Bằng một cách nhanh nhất là tôi gọi diện cho Bộ Công an. Một lúc sau có cán bộ của Bộ Công an trả lời tôi rằng không phải công an đâu mà là xã hội đen do công ty Việt Hưng nó thuê đấy. Nó không mặc sắc phục thì cứ cho nó là xã hội đen đi, nhưng xã hội đen nó dùng súng nó bắn dân thì đấy là trách nhiệm của công an phải bảo vệ tình mạng người dân.
Cho tới gần 5 giờ chiều hơn ba trăm bà con vẫn còn ngồi tại khu đất của mình để trực chiến trong khi bọn người xã hội đen vẫn có mặt và lởn vởn chung quanh mọi người mà chính quyền vẫn không có một hành động nào bảo vệ cho người dân cả.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-02-11
Hồng Thuận - Dân tộc được gì qua vận động UPR 2014?
Cuộc vận động nhân quyền
nhân dịp sự kiện Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát về Nhân quyền (UPR) 2014
của Liên Hợp Quốc diễn ra vừa qua ở Geneva đã tạo sự quan tâm rất lớn về
tình trạng chà đạp nhân quyền quá tồi tệ mà dân tộc Việt Nam đang phải
gánh chịu.
Biết trước là không thể chối cãi hay khỏa lấp các chứng cớ quá hiển nhiên, Hà Nội chỉ còn cách đánh lạc hướng công luận.
Ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Chính phủ Cộng sản Việt Nam kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, trước kỳ kiểm điểm, đã đổ tội cho “những thế lực xấu” cố tình xuyên tạc nỗ lực thực thi nhân quyền "quá hay" của nhà nước.
Nói tiếp giùm ông Phạm Bình Minh, lại có người khai triển luận điểm đó để cố bảo rằng: vì có đảng phái chính trị tham gia vào cuộc vận động UPR nên Đảng CSVN đã thắng khi 'cuộc tranh đấu cho nhân quyền "không còn chính nghĩa" nữa.
'Kết quả khách quan'Biết trước là không thể chối cãi hay khỏa lấp các chứng cớ quá hiển nhiên, Hà Nội chỉ còn cách đánh lạc hướng công luận.
Ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Chính phủ Cộng sản Việt Nam kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, trước kỳ kiểm điểm, đã đổ tội cho “những thế lực xấu” cố tình xuyên tạc nỗ lực thực thi nhân quyền "quá hay" của nhà nước.
Nói tiếp giùm ông Phạm Bình Minh, lại có người khai triển luận điểm đó để cố bảo rằng: vì có đảng phái chính trị tham gia vào cuộc vận động UPR nên Đảng CSVN đã thắng khi 'cuộc tranh đấu cho nhân quyền "không còn chính nghĩa" nữa.
"Tính sổ tại điểm này theo kiểu thắng thua có lẽ là cách nhìn quá hạn hẹp và không đủ nghiêm túc. Hiển nhiên các nhân chứng từ trong nước và bà con ở hải ngoại tham gia vào các sinh hoạt vận động UPR không ngây thơ đến nỗi nghĩ rằng một kỳ chất vấn này mà đủ để thay đổi tình trạng nhân quyền tệ hại tại Việt Nam"Trước hết, hãy để cho các bằng chứng tự nói lên thực tế của UPR 2014. So với UPR 2009, có 60 phái đoàn các quốc gia tham dự và sau đó đưa ra 146 khuyến nghị đòi hỏi Hà Nội phải phúc đáp.
Đến UPR 2014, có đến 106 phái đoàn các quốc gia tham dự để chất vấn phái đoàn Việt Nam, và sau đó đưa ra 227 khuyến nghị.
Chỉ nội các con số đó đã cho thấy tình trạng nhân quyền tại Việt Nam không được cải thiện mà đang tồi tệ hơn 4 năm trước tới mức nào.
Các chất vấn và khuyến nghị cũng không chung chung nhưng đi rất sâu vào nhiều lãnh vực cụ thể như bãi bỏ án tử hình; tăng sự độc lập của truyền thông, bao gồm việc cho phép truyền thông tư nhân; cải thiện quyền tự do Internet; chấm dứt những hạn chế đối với quyền tự do phát biểu và tụ họp ôn hòa; xây dựng chính sách đối thoại giữa chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự độc lập; sửa đổi bộ luật Hình sự và luật Tố tụng, đặc biệt xóa bỏ những quy định không rõ ràng về an ninh quốc gia như các điều 79, 88, 258 dùng để kết tội cho những tiếng nói bất đồng với chính phủ hay chính sách nhà nước...
Nhà nước Việt Nam sẽ phải phúc đáp những khuyến nghị này, chậm nhất vào kỳ họp thứ 26 của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vào tháng 6 năm 2014.
Tính sổ tại điểm này theo kiểu thắng thua có lẽ
là cách nhìn quá hạn hẹp và không đủ nghiêm túc. Hiển nhiên các nhân
chứng từ trong nước và bà con ở hải ngoại tham gia vào các sinh hoạt vận
động UPR không ngây thơ đến nỗi nghĩ rằng một kỳ chất vấn này mà đủ để
thay đổi tình trạng nhân quyền tệ hại tại Việt Nam. Ai cũng biết chính
người Việt Nam phải tranh đấu trường kỳ và tạo áp lực từ mọi phía thì
mới mong giành lại được các quyền của mình.
UPR chỉ là MỘT cơ hội tốt để (1) góp phần nhắc cả thế giới về sự thật nhân quyền tại Việt Nam và nhắc họ nhớ phải nhìn xuyên qua những tuyên truyền dối trá của Hà Nội để tiếp tục gia tăng áp lực; (2) góp phần thuyết phục đại khối bà con chúng ta rằng các quyền con người là quyền đương nhiên của chúng ta, không ai có thể ngăn cấm, ban phát, hay cướp đoạt.
Lại cũng có luận điểm khá kỳ lạ, từ góc nhìn "thắng thua thua thắng" đó, rằng: người Việt hải ngoại đã đánh mất cơ hội tạo điều kiện cho phái đoàn nhà nước Việt Nam lắng nghe nguyện vọng của những người đang đấu tranh nhân quyền có mặt tại UPR. Ai có thể quên được thực tế suốt hơn nửa thế kỷ qua lãnh đạo Đảng CSVN có bao giờ muốn lắng nghe nguyện vọng của gần 90 triệu người Việt không, đặc biệt là những nguyện vọng về nhân quyền? Không những vậy họ đã và đang làm gì với những người dân can đảm dám lên tiếng về nhân quyền tại Việt Nam?
“Những thế lực xấu”UPR chỉ là MỘT cơ hội tốt để (1) góp phần nhắc cả thế giới về sự thật nhân quyền tại Việt Nam và nhắc họ nhớ phải nhìn xuyên qua những tuyên truyền dối trá của Hà Nội để tiếp tục gia tăng áp lực; (2) góp phần thuyết phục đại khối bà con chúng ta rằng các quyền con người là quyền đương nhiên của chúng ta, không ai có thể ngăn cấm, ban phát, hay cướp đoạt.
"Nếu nhìn UPR 2014 như là một bước trong tiến trình đấu tranh của cả dân tộc thì hầu như mọi mục tiêu của lực lượng dân chủ qua sự việc này đều đã đạt được rất tốt đẹp"Với quan niệm như vậy, thì không thể nhìn UPR như một biến cố mang tính kết thúc để rồi gọi đó là thành hay bại. Còn nếu nhìn UPR 2014 như là một bước trong tiến trình đấu tranh của cả dân tộc thì hầu như mọi mục tiêu của lực lượng dân chủ qua sự việc này đều đã đạt được rất tốt đẹp, từ sự liên kết giữa nhiều thành phần đấu tranh quốc tế cũng như Việt Nam, đến sự tiếp tay rất tích cực của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế với chúng ta, đến các lời khuyến cáo thẳng thắn của các phái bộ đối với nhà nước Việt Nam tại buổi chất vấn. Đặc biệt là sự bình thường hóa của một quá trình dân sự với sự tham gia của nhiều thành phần quan tâm, trong đó có các anh chị em đến từ Việt Nam.
Lại cũng có luận điểm khá kỳ lạ, từ góc nhìn "thắng thua thua thắng" đó, rằng: người Việt hải ngoại đã đánh mất cơ hội tạo điều kiện cho phái đoàn nhà nước Việt Nam lắng nghe nguyện vọng của những người đang đấu tranh nhân quyền có mặt tại UPR. Ai có thể quên được thực tế suốt hơn nửa thế kỷ qua lãnh đạo Đảng CSVN có bao giờ muốn lắng nghe nguyện vọng của gần 90 triệu người Việt không, đặc biệt là những nguyện vọng về nhân quyền? Không những vậy họ đã và đang làm gì với những người dân can đảm dám lên tiếng về nhân quyền tại Việt Nam?
"Không phải bây giờ mà từ nhiều năm qua, nhà cầm quyền Hà Nội luôn đổ tội những khó khăn, những thất bại kinh tế, chính trị, xã hội, nhân quyền, văn hóa... là do các thế lực xấu, thù địch, phản động gây ra."Không phải bây giờ mà từ nhiều năm qua, nhà cầm quyền Hà Nội luôn đổ tội những khó khăn, những thất bại kinh tế, chính trị, xã hội, nhân quyền, văn hóa... là do các thế lực xấu, thù địch, phản động gây ra.
Cách đổ tội này không chỉ nhằm né tránh trách nhiệm của giới lãnh đạo Hà Nội trước những lụn bại mà còn là cách để răn đe hàng ngũ nội bộ đảng và dân chúng.
Đây là cách thức tinh vi để khoanh vùng, cô lập sự liên lạc và phối hợp giữa các lực lượng, cá nhân yêu chuộng tự do, công lý với khối quần chúng đang bị tước quyền trong xã hội.
Thực tế dưới chế độ độc tài hiện nay, mọi tập hợp, sinh hoạt không được nhà nước cho phép đều bị dán nhãn là những "thế lực xấu" bất kể đó là cá nhân hay tập hợp; bất kể mục tiêu là sinh hoạt tôn giáo hay vận động cải đổi chính trị.
Trước kỳ kiểm điểm UPR, ông Phạm Bình Minh dùng nhãn “những thế lực xấu” cũng không ngoài các mục tiêu nêu trên, vừa tự phủi trách nhiệm về tình trạng nhân quyền quá tồi tệ tại Việt Nam vừa để răn đe sự hưởng ứng của các nhân chứng từ Việt Nam cho kỳ UPR này cũng như các tố giác vi phạm nhân quyền từ quần chúng Việt Nam nói chung.
Việc cho rằng tập thể các nhà vận động nhân
quyền tại UPR 2014 bao gồm các anh chị em trong nước, các đồng bào hải
ngoại, và các tổ chức nhân quyền quốc tế đã đánh mất chính nghĩa và bị
lợi dụng thành "công cụ chính trị" chỉ vì có sự tham gia của các đảng
phái chính trị là một lập luận vừa lạc hậu trong thế kỷ 21 vừa hàm chứa
nhiều ý đồ xấu.
Chúng ta lại phải trở lại với câu hỏi khá cơ bản về "chính trị" hay "làm chính trị". Tham gia giải quyết mọi vấn đề đang đối diện với đất nước đều là "làm chính trị". Vận động để đổi thay thể chế đang cướp đoạt nhân quyền của dân tộc chắc chắn là "làm chính trị".
Chắc chắn người yêu nước phải kết lại với nhau thành những tập hợp, tổ chức chính trị cùng mục tiêu. Và các tập hợp, tổ chức đó đương nhiên phải cố gắng khai dụng mọi diễn đàn quốc tế như một trong số những vũ khí để giành lại các quyền con người của dân tộc.
Đến thời đại Internet này thì chắc chỉ còn rất ít người còn bị nhà cầm quyền Hà Nội tạo chia rẽ với thủ thuật đánh đồng mọi loại "làm chính trị" như nhau và khích tướng với thủ thuật lo âu giùm người khác "đừng để bị lợi dụng". Cả 2 ngụy biện này chỉ thể hiện sự khinh rẻ trí khôn đối với người dân và các nhà hoạt động.
'Sự có mặt của tất cả'
Chúng ta lại phải trở lại với câu hỏi khá cơ bản về "chính trị" hay "làm chính trị". Tham gia giải quyết mọi vấn đề đang đối diện với đất nước đều là "làm chính trị". Vận động để đổi thay thể chế đang cướp đoạt nhân quyền của dân tộc chắc chắn là "làm chính trị".
"Đây là nỗ lực đầy gian khổ của dân tộc Việt Nam để sống lại với đầy đủ giá trị của những con người. Con đường tự giải phóng để canh tân đất nước này cần và đòi hỏi sự có mặt của tất cả những người yêu nước"Thúc đẩy hình thành một xã hội có nhiều khuynh hướng để vừa giữ cho đất nước phát triển quân bình, lành mạnh, vừa để cho người dân chọn phương án nào hữu hiệu nhất cho đất nước hiển nhiên phải là "làm chính trị", v.v... Có thể nói một cách rốt ráo: người yêu nước mà không "làm chính trị" thì làm gì?! Và nếu đã "làm chính trị vì đất nước" thì không thể làm một mình mà mơ có kết quả lớn.
Chắc chắn người yêu nước phải kết lại với nhau thành những tập hợp, tổ chức chính trị cùng mục tiêu. Và các tập hợp, tổ chức đó đương nhiên phải cố gắng khai dụng mọi diễn đàn quốc tế như một trong số những vũ khí để giành lại các quyền con người của dân tộc.
Đến thời đại Internet này thì chắc chỉ còn rất ít người còn bị nhà cầm quyền Hà Nội tạo chia rẽ với thủ thuật đánh đồng mọi loại "làm chính trị" như nhau và khích tướng với thủ thuật lo âu giùm người khác "đừng để bị lợi dụng". Cả 2 ngụy biện này chỉ thể hiện sự khinh rẻ trí khôn đối với người dân và các nhà hoạt động.
Xem ra con đường đến đích tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn còn khá dài trước mặt dân tộc chúng ta mà UPR 2014 chỉ mới là một thành quả đáng kể, đặc biệt với sự nối liền của người Việt trong và ngoài nước, cũng như người Việt với cộng đồng quốc tế tranh đấu cho nhân quyền.
Chúng ta có lẽ vẫn chưa có thể vui mừng tại điểm này vì tình trạng nhân quyền tại Việt Nam vẫn đang đi xuống. Lại càng không thể xem đây là chuyện "thắng thua thua thắng" như những trò chơi, những canh bạc, hay những cuộc chạy đua giành ghế giữa một vài đảng phái như trong xã hội phương Tây.
Đây là nỗ lực đầy gian khổ của dân tộc Việt Nam để sống lại với đầy đủ giá trị của những con người.
Con đường tự giải phóng để canh tân đất nước này cần và đòi hỏi sự có mặt của TẤT CẢ những người yêu nước.
Trinity Hồng Thuận
Gửi cho BBC từ California
Bài viết thể hiện quan điểm riêng và
lối hành văn của tác giả, một nhà hoạt động nhân quyền trẻ tuổi tại
California, Hoa Kỳ, thành viên của Đảng Việt Tân, đã tham dự vào cuộc
vận động nhân quyền UPR tại Geneva vừa qua.
Buôn sừng tê trái phép ở Hà Nội
Lượng
tê giác bị săn trộm để lấy sừng ở Nam Phi đang lên cao tới mức
kỷ lục. Nhiều chiếc sừng cuối cùng đang được đem bán bất hợp
pháp tại các nước như Việt Nam.
Hôm 30/12/2013, một kiểm lâm tuần tra tại Nam Phi đã thấy xác một con tê giác nặng chừng hai tấn, dài 3 mét.
Sừng của nó đã bị chặt khỏi đầu và con vật rõ ràng là đã chết từ từ một cách đau đớn.
Nhân viên kiểm lâm này đã dùng sóng vô tuyến liên lạc về trung tâm và nói một cách đơn giản, "Một chú nữa đi rồi".
Họ hiểu ngay ông nói gì.
Với cái chết đó, tổng số tê giác bị săn giết trộm để lấy sừng trong năm ngoái tăng lên 1.004, tăng 50% so với năm trước.
Cơ quan phụ trách vấn đề môi trường của Nam Phi nói trong năm 2012, có 668 chú tê giác bị giết. Một thập niên trước, trong năm 2003, chỉ có 22 con tê giác bị săn trộm.
Nếu tốc độ này tiếp diễn, tê giác châu Phi sẽ đối diện nguy cơ tuyệt chủng, theo Naomi Doak từ Traffic, một mạng lưới có uy tín chuyên giám sát đời sống hoang dã.
"Tính đến cuối 2014, chúng ta bắt đầu chứng kiến tình trạng tiêu cực với nạn tê giác bị giết chết, bị săn trộm ở tốc độ cao hơn mức sinh đẻ, và lượng tê giác bắt đầu bị giảm xuống một cách nhanh chóng", bà nói.
Phố Thuốc Bắc ở Hà Nội tràn ngập những người bán rong, chở đồ trên xe đạp luồn lách qua những chiếc xe hơi.
Mọi người ngồi tràn ngập trên vỉa hè để uống trà, hút thuốc và chơi bài. Cảm giác hoàn toàn khác biệt so với những bình nguyên rộng lớn của Nam Phi.
Nhưng với tê giác, thì đáng buồn là hai thế giới này lại kết nối, không thể tách rời.
Hôm 30/12/2013, một kiểm lâm tuần tra tại Nam Phi đã thấy xác một con tê giác nặng chừng hai tấn, dài 3 mét.
Sừng của nó đã bị chặt khỏi đầu và con vật rõ ràng là đã chết từ từ một cách đau đớn.
Nhân viên kiểm lâm này đã dùng sóng vô tuyến liên lạc về trung tâm và nói một cách đơn giản, "Một chú nữa đi rồi".
Họ hiểu ngay ông nói gì.
Với cái chết đó, tổng số tê giác bị săn giết trộm để lấy sừng trong năm ngoái tăng lên 1.004, tăng 50% so với năm trước.
Cơ quan phụ trách vấn đề môi trường của Nam Phi nói trong năm 2012, có 668 chú tê giác bị giết. Một thập niên trước, trong năm 2003, chỉ có 22 con tê giác bị săn trộm.
Nếu tốc độ này tiếp diễn, tê giác châu Phi sẽ đối diện nguy cơ tuyệt chủng, theo Naomi Doak từ Traffic, một mạng lưới có uy tín chuyên giám sát đời sống hoang dã.
"Tính đến cuối 2014, chúng ta bắt đầu chứng kiến tình trạng tiêu cực với nạn tê giác bị giết chết, bị săn trộm ở tốc độ cao hơn mức sinh đẻ, và lượng tê giác bắt đầu bị giảm xuống một cách nhanh chóng", bà nói.
Phố Thuốc Bắc ở Hà Nội tràn ngập những người bán rong, chở đồ trên xe đạp luồn lách qua những chiếc xe hơi.
Mọi người ngồi tràn ngập trên vỉa hè để uống trà, hút thuốc và chơi bài. Cảm giác hoàn toàn khác biệt so với những bình nguyên rộng lớn của Nam Phi.
Nhưng với tê giác, thì đáng buồn là hai thế giới này lại kết nối, không thể tách rời.
Được bảo rằng đây là nơi có thể mua được sừng tê tại Hà Nội, tôi quyết định tới xem chuyện đó dễ dàng ra sao.
Tại quốc gia cộng sản này, các phóng viên bị theo dõi sát sao. Cho nên nhân viên an ninh mà giới chức cử đi với tôi không bao giờ vắng mặt.
Tại Việt Nam, mua bán sừng tê là bất hợp pháp kể từ tám năm nay, và tất cả những người bán hàng đều lắc đầu khi nghe tôi hỏi mua. "Không còn bán ở phố này từ lâu rồi", một người nói.
Nhưng khi tôi quay trở lại, không có nhân viên an ninh đi kèm và với một máy quay bí mật, thì các nhà buôn vui vẻ tiếp đón.
Tôi nói ông chồng mình bị đau yếu. Một nhà buôn nói với tôi rằng nếu tôi nghiền sừng tê thành bột rồi trộn với rượu, chất đó sẽ chữa khỏi bệnh ung thư cho ông chồng.
"Nếu là ung thư giai đoạn giữa, cơ hội khỏi bệnh là 85-90%", ông nói.
Với giá 6.000 đô la Mỹ 100g, tại Việt Nam sừng tê đắt hơn vàng nếu tính giá vào thời điểm này, dẫu các nhà sinh vật học nói cấu thành sừng tê thì tương tự như móng tay người.
Tôi đến một tiệm khác, gặp người tự xưng là thầy lang và nói tôi muốn chữa chứng đau đầu như say rượu. "Cô đến đúng chỗ rồi đấy", ông Nguyễn nói, và đưa một miếng sừng tê lớn vào tay tôi. "Nó chữa sốt, giải độc khỏi cơ thể rất tốt, cho nên rất tốt để chữa chứng đau đầu như say rượu".
Tôi được cảnh báo là có rất nhiều sừng tê bán tại phố Thuốc Bắc là hàng giả. Tôi đem chuyện này ra hỏi ông Nguyễn.
"Tôi đã tự đến Nam Phi", ông nói rồi giơ ra cho tôi xem giấy phép săn bắn hai con tê giác hồi năm 2009.
Bà vợ ông đi cùng, và ông còn có bức ảnh chụp đứa con trai tám tuổi đứng cạnh con vật mà ông đã bắn chết.
Ông cho tôi xem các tài liệu giấy tờ, đều được đóng dấu bởi Công ước Quốc tế về Chống buôn bán các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng (Cites), theo đó cho phép xuất khẩu khỏi Nam Phi và nhập vào Việt Nam một "sừng tê chiến lợi phẩm". Ông nói với tôi tất cả những thứ đó khiến việc mua bán là hoàn toàn hợp pháp.
Nhưng không phải vậy.
Hầu hết tê giác hoang dã tại Nam Phi là loài tê giác đen, bị coi là có nguy cơ tuyệt chủng, và tê giác trắng thuộc nhóm bị đe dọa tuyệt chủng.
Tại quốc gia cộng sản này, các phóng viên bị theo dõi sát sao. Cho nên nhân viên an ninh mà giới chức cử đi với tôi không bao giờ vắng mặt.
Tại Việt Nam, mua bán sừng tê là bất hợp pháp kể từ tám năm nay, và tất cả những người bán hàng đều lắc đầu khi nghe tôi hỏi mua. "Không còn bán ở phố này từ lâu rồi", một người nói.
Nhưng khi tôi quay trở lại, không có nhân viên an ninh đi kèm và với một máy quay bí mật, thì các nhà buôn vui vẻ tiếp đón.
Tôi nói ông chồng mình bị đau yếu. Một nhà buôn nói với tôi rằng nếu tôi nghiền sừng tê thành bột rồi trộn với rượu, chất đó sẽ chữa khỏi bệnh ung thư cho ông chồng.
"Nếu là ung thư giai đoạn giữa, cơ hội khỏi bệnh là 85-90%", ông nói.
Với giá 6.000 đô la Mỹ 100g, tại Việt Nam sừng tê đắt hơn vàng nếu tính giá vào thời điểm này, dẫu các nhà sinh vật học nói cấu thành sừng tê thì tương tự như móng tay người.
Tôi đến một tiệm khác, gặp người tự xưng là thầy lang và nói tôi muốn chữa chứng đau đầu như say rượu. "Cô đến đúng chỗ rồi đấy", ông Nguyễn nói, và đưa một miếng sừng tê lớn vào tay tôi. "Nó chữa sốt, giải độc khỏi cơ thể rất tốt, cho nên rất tốt để chữa chứng đau đầu như say rượu".
Tôi được cảnh báo là có rất nhiều sừng tê bán tại phố Thuốc Bắc là hàng giả. Tôi đem chuyện này ra hỏi ông Nguyễn.
"Tôi đã tự đến Nam Phi", ông nói rồi giơ ra cho tôi xem giấy phép săn bắn hai con tê giác hồi năm 2009.
Bà vợ ông đi cùng, và ông còn có bức ảnh chụp đứa con trai tám tuổi đứng cạnh con vật mà ông đã bắn chết.
Ông cho tôi xem các tài liệu giấy tờ, đều được đóng dấu bởi Công ước Quốc tế về Chống buôn bán các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng (Cites), theo đó cho phép xuất khẩu khỏi Nam Phi và nhập vào Việt Nam một "sừng tê chiến lợi phẩm". Ông nói với tôi tất cả những thứ đó khiến việc mua bán là hoàn toàn hợp pháp.
Nhưng không phải vậy.
Hầu hết tê giác hoang dã tại Nam Phi là loài tê giác đen, bị coi là có nguy cơ tuyệt chủng, và tê giác trắng thuộc nhóm bị đe dọa tuyệt chủng.
Tuy
nhiên, việc săn bắn tê giác được cho phép thực hiện theo những
quy định nghiêm ngặt. Có chưa tới 100 thợ săn dày dạn kinh
nghiệm có thể xin giấy phép mỗi năm để bắn duy nhất một con,
và theo luật, họ phải giữ nguyên bộ sừng làm chiến lợi phẩm.
Người ta nói rằng việc săn bắn khiến các công viên tê giác thuộc sở hữu tư nhân hứng thú, do đó số tê giác bị săn tăng thêm. Giấy phép tốn hàng chục ngàn đô la, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Năm 2010, chú tê giác Java cuối cùng ở Việt Nam đã biến mất. Loài tê giác này trở nên hiếm hoi khiến các tay thợ săn người Việt bắt đầu nộp đơn xin giấy phép ở Nam Phi.
Tính đến 2010, số đơn xin săn tê giác Nam Phi của người Việt cao hơn bất kỳ nước nào khác.
Nhưng, cũng như ông Nguyễn ở phố Thuốc Bắc, họ đã lạm dụng hệ thống.
Bất chấp quy định, họ nhập khẩu sừng tê về Việt Nam và đem bán.
Khi Nam Phi cấm các thợ săn Việt Nam hồi 2012, các nhóm tội phạm có tổ chức đã ra tay và nay đi thuê các thợ săn trộm nhằm cung ứng cho thị trường sừng tê ở Việt Nam và các nước Á châu khác, trong đó có cả Trung Quốc.
Việt Nam đã ký kết Cites hồi 20 năm về trước. Ban thư ký của Cites đã thúc giục chính phủ Việt Nam từ mấy năm qua rằng nước này phải thắt chặt luật pháp và hình phạt đối với tội buôn bán sừng tê.
Họ hy vọng luật mới sẽ được đưa ra vào thời điểm thích hợp cho cuộc hội thảo về nạn buôn bán trái phép động vật hoang dã, sẽ diễn ra tại London trong tuần này.
Tôi hỏi ông Đỗ Quang Tùng, quan chức phụ trách việc tuân thủ Cites của Việt Nam, vì sao mất nhiều thời gian đến vậy ? "Để chuẩn bị văn bản pháp luật, ta không thể làm chỉ trong một năm, cần phải có thời gian", ông nói.
Vấn đề là các chuyên gia động vật hoang dã nói không còn thời gian nữa.
Mary Rice, giám đốc điều hành Cơ quan Điều tra Môi trường cảnh báo:
"Những gì chúng ta đang chứng kiến vào ngay lúc này là việc tàn sát rộng lớn một loài vật, bị săn trộm để cung ứng cho thị trường đang ngày càng lớn và không bền vững là Việt Nam, cùng với các nơi khác nữa".
"Cộng đồng quốc tế phải khẩn cấp tập trung giải quyết vấn đề, kết tội những kẻ tội phạm đứng đằng sau những mạng lưới có tổ chức trong việc buôn bán này".
Sue Lloyd Roberts, BBC Newsnight
Người ta nói rằng việc săn bắn khiến các công viên tê giác thuộc sở hữu tư nhân hứng thú, do đó số tê giác bị săn tăng thêm. Giấy phép tốn hàng chục ngàn đô la, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Năm 2010, chú tê giác Java cuối cùng ở Việt Nam đã biến mất. Loài tê giác này trở nên hiếm hoi khiến các tay thợ săn người Việt bắt đầu nộp đơn xin giấy phép ở Nam Phi.
Tính đến 2010, số đơn xin săn tê giác Nam Phi của người Việt cao hơn bất kỳ nước nào khác.
Nhưng, cũng như ông Nguyễn ở phố Thuốc Bắc, họ đã lạm dụng hệ thống.
Bất chấp quy định, họ nhập khẩu sừng tê về Việt Nam và đem bán.
Khi Nam Phi cấm các thợ săn Việt Nam hồi 2012, các nhóm tội phạm có tổ chức đã ra tay và nay đi thuê các thợ săn trộm nhằm cung ứng cho thị trường sừng tê ở Việt Nam và các nước Á châu khác, trong đó có cả Trung Quốc.
Việt Nam đã ký kết Cites hồi 20 năm về trước. Ban thư ký của Cites đã thúc giục chính phủ Việt Nam từ mấy năm qua rằng nước này phải thắt chặt luật pháp và hình phạt đối với tội buôn bán sừng tê.
Họ hy vọng luật mới sẽ được đưa ra vào thời điểm thích hợp cho cuộc hội thảo về nạn buôn bán trái phép động vật hoang dã, sẽ diễn ra tại London trong tuần này.
Tôi hỏi ông Đỗ Quang Tùng, quan chức phụ trách việc tuân thủ Cites của Việt Nam, vì sao mất nhiều thời gian đến vậy ? "Để chuẩn bị văn bản pháp luật, ta không thể làm chỉ trong một năm, cần phải có thời gian", ông nói.
Vấn đề là các chuyên gia động vật hoang dã nói không còn thời gian nữa.
Mary Rice, giám đốc điều hành Cơ quan Điều tra Môi trường cảnh báo:
"Những gì chúng ta đang chứng kiến vào ngay lúc này là việc tàn sát rộng lớn một loài vật, bị săn trộm để cung ứng cho thị trường đang ngày càng lớn và không bền vững là Việt Nam, cùng với các nơi khác nữa".
"Cộng đồng quốc tế phải khẩn cấp tập trung giải quyết vấn đề, kết tội những kẻ tội phạm đứng đằng sau những mạng lưới có tổ chức trong việc buôn bán này".
Sue Lloyd Roberts, BBC Newsnight
Bài văn khiến thầy ngạc nhiên, xóa 9,5 cho điểm 10
(Soha.vn) - Dân mạng không khỏi thích thú với bài văn lạ được điểm 10 của một nữ sinh lớp 11.
Bài kiểm tra môn văn của một nữ sinh lớp 11 được điểm 10 tuyệt đối
khiến nhiều người thấy bất ngờ và không khỏi ngưỡng mộ tài năng của cô
gái. Trong cả bài văn, có thể thấy chủ nhân của bài viết đã có những
lập luận rất tinh tế và bám sát theo yêu cầu đề ra. Kèm theo là sự sáng tạo và những suy luận khá logic.
Điều này khiến cho giáo viên không khỏi ngạc nhiên và đã cho điểm tuyệt đối. Ở phần lời phê, thầy giáo dành lời khen cho học trò của mình :” Bài viết có cảm xúc và suy tư,nhất là bám sát yêu cầu đề ra. Đáng khen”. Được biết đây là bài kiểm tra văn của một nữ sinh lớp 11 có tên là Nguyễn Danh Phương Thảo.
Điều này khiến cho giáo viên không khỏi ngạc nhiên và đã cho điểm tuyệt đối. Ở phần lời phê, thầy giáo dành lời khen cho học trò của mình :” Bài viết có cảm xúc và suy tư,nhất là bám sát yêu cầu đề ra. Đáng khen”. Được biết đây là bài kiểm tra văn của một nữ sinh lớp 11 có tên là Nguyễn Danh Phương Thảo.
Bài văn được điểm 10 gây sốt
Dưới đây chúng tôi xin trích đăng phần bài viết ở câu thứ 2 nằm trong bài kiểm tra văn đạt điểm tuyệt đối này
Đề bài: Phân tích để làm rõ ấn tượng về không gian trong hai khổ thơ đầu của “Tràng Giang” ( Huy Cận). Em có suy nghĩ gì về tình triết lý của hai khổ thơ này?
Có lẽ thiên nhiên đẹp và bao la đại ngàn luôn làm khuấy động nỗi lòng và tâm thức con người, nó khuấy sâu thẳm vào lòng người khiến nỗi sầu càng sầu hơn, vì vây việc dùng vẻ đẹp bao la của thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng đã được rất nhiều thi sỹ sử dụng trong thơ trung đại.
Nhưng Huy Cận đã tiếp thu phong vị đó vào tác phẩm “ Tràng Giang” của mình, phổ thêm những nét mới lạ của thơ hiện đại; qua đó, Huy Cận đã tạo nên cho người đọc những ấn tượng về không gian của tác phẩm, đặc biệt là trong hai khổ thơ đầu.
Ngay từ tên bài thơ “Tràng Giang” và lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng sông dài”, một không gian sông nước bao la đã hiện hữu. “Tràng” tức là dài, “Giang” là sông. Sông dài, trời rộng mở ra một không gian bao la, tươi đẹp, nhưng buồn, nhưng dấy lên trong tâm hồn tác giả một nỗi “bâng khuâng” lạ kỳ.
Khổ thơ đầu tiên, Huy Cận viết:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Không gian bao la, rộng lớn hiện hữu trước mắt, nhưng cũng bởi vậy mà con người càng cảm thấy lạc lõng, cô đơn. Giữa bạt ngàn của sông nước, con người nhỏ bé, lặng lẽ, cô đơn. Đứng trước không gian ấy, nỗi lòng Huy Cận cũng dâng trào. Từng đợt sóng xô trên “Tràng Giang” là “điệp điệp” nỗi buồn trong tâm hồn thi sỹ. Sóng của thiên nhiên vỗ nhẹ thì cơn sóng lòng dào dạt ùa về. Và từ đây, một không gian thứ hai xuất hiện đó là không gian của tình cảm, cảm xúc trong nỗi lòng tác giả. Nhìn về phía sông nước bao la, tác giả thấy một con thuyền cứ trôi theo mái nước song song.
Có lẽ con thuyền ấy trôi rất nhẹ, không có chút mệt mỏi, nhưng vô thức và cô đơn. Con thuyền cứ trôi mãi theo dòng nước song song, hai chữ “song song” như hai đường thằng dài tít tắp, cứ chạy mãi mà không bao giờ gặp, cũng giống như thân phận của con thuyền kia, vô dịnh và bơ vơ, lạc lõng. Nhìn con thuyền mà nỗi sầu của tác giả như dâng cao, không gian rộng lớn của thiên nhiên đã thôi thúc không gian lòng, khiến tác giả cảm thấy nỗi dầu của mình cũng vô định như con thuyền ấy, “sầu trăm ngả”.
Một hình ảnh buồn hiện lên trước mắt tác giả : "Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Không biết cành củi đáng thương ấy là một vật hữu hình có thực, hay nó là một hình ảnh chợt xuất hiện trong nỗi cô đơn của Huy Cận, bởi nó cũng nhỏ bé và lạc lõng như con người.
Giữa dòng đời bao la, giữa sự xô đẩy của từng dòng sóng, nó cứ trôi lạc lõng, lênh đênh. Nỗi sầu trong tác giả càng sầu hơn. Việc sử dụng những hình ảnh thiên nhiên bao la là một nét quen thuộc trong đường thi, nhưng Huy Cận đã nhờ nó mà thầm nói lên nỗi lòng của mình, nhờ không gian thiên nhiên làm nổi lên không gian tình cảm.
Ở khổ thơ thứ hai, vẫn bắt gặp những hình ảnh trải dài theo không gian, nhưng cái nỗi cô đơn trong tâm trạng tác giả càng trải dài hơn nữa:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Không gian hiện ra không chỉ được tác giả quan sát bằng thị giác, mà tác giả còn lắng tai nghe và càng sầu hơn – một nỗi sầu về nhân thế, về kiếp người, về cuộc sống thời đó. Đôi mắt tác giả buồn theo và nhìn xung quanh cảnh vật, đôi tai nhạy cảm lẳng nghe những âm thanh thưa thớt, vãn dần ở xa xa. Cồn nhỏ lơ thơ, nhỏ bé, cơn gió thì thổi nhẹ nhưng đìu hiu, như cũng buồn giống tác giả. Huy Cận tinh tế cảm nhận cơn gió ấy, sao mà buồn, sao mà lặng lẽ, cô liêu.
Tiếng làng xa ở nơi đâu thưa thớt vãn buổi chợ chiều, cứ nhỏ dần, nhỏ bé trong cái lớn mạnh của thiên nhiên. Huy Cận đưa mắt nhìn lên bầu trời kia, tâm trạng buồn của Huy Cận cũng phổ vào bầu trời bao la ấy một nỗi buồn sâu thẳm. Bởi vậy khi nắng xuống, trong con mắt Huy Cận, trời không cao mà lại “sâu chót vót”, cũng như không gian sâu thẳm của nỗi buồn.
Sự suy tư của Huy Cận như đi vào bầu trời ấy, khoét sâu đến tận vũ trụ xa thẳm ngoài kia, buồn đến lạ lùng. Nhìn lại khung cảnh thiên nhiên bao la ấy, vẫn trời rộng, sông dài, vẫn bến cô liêu và trong lòng tác giả vẫn ồn ào của một nỗi sầu, một nỗi bâng khuâng cô đơn và vắng vẻ.
Cảnh quan, không gian bao la của thiên nhiên mở rộng ra trước mắt Huy Cận nhưng mọi thứ đều mờ ảo, mang một cái nét rất trơ trọi, bâng khuâng. Tuy mờ ảo nhưng lại mang một triết lý sâu xa. Mọi vật hữu hình hiện ra trong mắt Huy Cận đều buồn, đều cô đơn, cũng như thời thế đất nước bấy giờ, cũng băn khoăn và lạc lõng, trôi nổi vô đình như con thuyền, nguy hiểm và nhỏ bé như cây củi khô lạc giữa dòng sông.
Con người như trôi lạc giữa dòng đời, dòng cuộc sống. Bởi vậy, tuy mọi thứ đều mờ ảo như được phủ một làn khói buồn nhưng đều tô đậm tính triết lý về cuộc sống và con người, cũng như một nỗi buồn của người con thương đất nước – Huy Cận.
Tác phẩm “ Tràng Giang” cho đến tận bây giờ vẫn là một đỉnh cao nghệ thuật mà khó ai có thể vươn tới, bởi sự khéo léo và tinh tế của tác giả trong việc kéo hợp giữa không gian thiên nhiên với không gian tâm tình, quan trọng hơn là vì “Tràng Giang” mang một triết lý sâu xa về cuộc đời, về đất nước. Tuy không thể hiện trực tiếp nhưng Huy Cận đã in bóng vào “Tràng Giang” một tình yêu tổ quốc, cũng sự lặng lẽ buồn trước cuộc sống thời bấy giờ.
Vì vậy, “Tràng Giang” luôn đứng vững và đứng cao trong nền văn học nước nhà, cũng như trong trái tim của người đọc mãi về sau. Một nỗi buồn đã qua đi từ lâu, nhưng dư vị ấy, cảm giác ấy, nỗi buồn ấy cứ đọng mãi với con người sau này mỗi khi đọc “Tràng Giang”, khiến người ta phải suy ngẫm về nhân tình và cuộc đời.”
(So ha)
Đề bài: Phân tích để làm rõ ấn tượng về không gian trong hai khổ thơ đầu của “Tràng Giang” ( Huy Cận). Em có suy nghĩ gì về tình triết lý của hai khổ thơ này?
Có lẽ thiên nhiên đẹp và bao la đại ngàn luôn làm khuấy động nỗi lòng và tâm thức con người, nó khuấy sâu thẳm vào lòng người khiến nỗi sầu càng sầu hơn, vì vây việc dùng vẻ đẹp bao la của thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng đã được rất nhiều thi sỹ sử dụng trong thơ trung đại.
Nhưng Huy Cận đã tiếp thu phong vị đó vào tác phẩm “ Tràng Giang” của mình, phổ thêm những nét mới lạ của thơ hiện đại; qua đó, Huy Cận đã tạo nên cho người đọc những ấn tượng về không gian của tác phẩm, đặc biệt là trong hai khổ thơ đầu.
Ngay từ tên bài thơ “Tràng Giang” và lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng sông dài”, một không gian sông nước bao la đã hiện hữu. “Tràng” tức là dài, “Giang” là sông. Sông dài, trời rộng mở ra một không gian bao la, tươi đẹp, nhưng buồn, nhưng dấy lên trong tâm hồn tác giả một nỗi “bâng khuâng” lạ kỳ.
Khổ thơ đầu tiên, Huy Cận viết:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Không gian bao la, rộng lớn hiện hữu trước mắt, nhưng cũng bởi vậy mà con người càng cảm thấy lạc lõng, cô đơn. Giữa bạt ngàn của sông nước, con người nhỏ bé, lặng lẽ, cô đơn. Đứng trước không gian ấy, nỗi lòng Huy Cận cũng dâng trào. Từng đợt sóng xô trên “Tràng Giang” là “điệp điệp” nỗi buồn trong tâm hồn thi sỹ. Sóng của thiên nhiên vỗ nhẹ thì cơn sóng lòng dào dạt ùa về. Và từ đây, một không gian thứ hai xuất hiện đó là không gian của tình cảm, cảm xúc trong nỗi lòng tác giả. Nhìn về phía sông nước bao la, tác giả thấy một con thuyền cứ trôi theo mái nước song song.
Có lẽ con thuyền ấy trôi rất nhẹ, không có chút mệt mỏi, nhưng vô thức và cô đơn. Con thuyền cứ trôi mãi theo dòng nước song song, hai chữ “song song” như hai đường thằng dài tít tắp, cứ chạy mãi mà không bao giờ gặp, cũng giống như thân phận của con thuyền kia, vô dịnh và bơ vơ, lạc lõng. Nhìn con thuyền mà nỗi sầu của tác giả như dâng cao, không gian rộng lớn của thiên nhiên đã thôi thúc không gian lòng, khiến tác giả cảm thấy nỗi dầu của mình cũng vô định như con thuyền ấy, “sầu trăm ngả”.
Một hình ảnh buồn hiện lên trước mắt tác giả : "Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Không biết cành củi đáng thương ấy là một vật hữu hình có thực, hay nó là một hình ảnh chợt xuất hiện trong nỗi cô đơn của Huy Cận, bởi nó cũng nhỏ bé và lạc lõng như con người.
Giữa dòng đời bao la, giữa sự xô đẩy của từng dòng sóng, nó cứ trôi lạc lõng, lênh đênh. Nỗi sầu trong tác giả càng sầu hơn. Việc sử dụng những hình ảnh thiên nhiên bao la là một nét quen thuộc trong đường thi, nhưng Huy Cận đã nhờ nó mà thầm nói lên nỗi lòng của mình, nhờ không gian thiên nhiên làm nổi lên không gian tình cảm.
Ở khổ thơ thứ hai, vẫn bắt gặp những hình ảnh trải dài theo không gian, nhưng cái nỗi cô đơn trong tâm trạng tác giả càng trải dài hơn nữa:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Không gian hiện ra không chỉ được tác giả quan sát bằng thị giác, mà tác giả còn lắng tai nghe và càng sầu hơn – một nỗi sầu về nhân thế, về kiếp người, về cuộc sống thời đó. Đôi mắt tác giả buồn theo và nhìn xung quanh cảnh vật, đôi tai nhạy cảm lẳng nghe những âm thanh thưa thớt, vãn dần ở xa xa. Cồn nhỏ lơ thơ, nhỏ bé, cơn gió thì thổi nhẹ nhưng đìu hiu, như cũng buồn giống tác giả. Huy Cận tinh tế cảm nhận cơn gió ấy, sao mà buồn, sao mà lặng lẽ, cô liêu.
Tiếng làng xa ở nơi đâu thưa thớt vãn buổi chợ chiều, cứ nhỏ dần, nhỏ bé trong cái lớn mạnh của thiên nhiên. Huy Cận đưa mắt nhìn lên bầu trời kia, tâm trạng buồn của Huy Cận cũng phổ vào bầu trời bao la ấy một nỗi buồn sâu thẳm. Bởi vậy khi nắng xuống, trong con mắt Huy Cận, trời không cao mà lại “sâu chót vót”, cũng như không gian sâu thẳm của nỗi buồn.
Sự suy tư của Huy Cận như đi vào bầu trời ấy, khoét sâu đến tận vũ trụ xa thẳm ngoài kia, buồn đến lạ lùng. Nhìn lại khung cảnh thiên nhiên bao la ấy, vẫn trời rộng, sông dài, vẫn bến cô liêu và trong lòng tác giả vẫn ồn ào của một nỗi sầu, một nỗi bâng khuâng cô đơn và vắng vẻ.
Cảnh quan, không gian bao la của thiên nhiên mở rộng ra trước mắt Huy Cận nhưng mọi thứ đều mờ ảo, mang một cái nét rất trơ trọi, bâng khuâng. Tuy mờ ảo nhưng lại mang một triết lý sâu xa. Mọi vật hữu hình hiện ra trong mắt Huy Cận đều buồn, đều cô đơn, cũng như thời thế đất nước bấy giờ, cũng băn khoăn và lạc lõng, trôi nổi vô đình như con thuyền, nguy hiểm và nhỏ bé như cây củi khô lạc giữa dòng sông.
Con người như trôi lạc giữa dòng đời, dòng cuộc sống. Bởi vậy, tuy mọi thứ đều mờ ảo như được phủ một làn khói buồn nhưng đều tô đậm tính triết lý về cuộc sống và con người, cũng như một nỗi buồn của người con thương đất nước – Huy Cận.
Tác phẩm “ Tràng Giang” cho đến tận bây giờ vẫn là một đỉnh cao nghệ thuật mà khó ai có thể vươn tới, bởi sự khéo léo và tinh tế của tác giả trong việc kéo hợp giữa không gian thiên nhiên với không gian tâm tình, quan trọng hơn là vì “Tràng Giang” mang một triết lý sâu xa về cuộc đời, về đất nước. Tuy không thể hiện trực tiếp nhưng Huy Cận đã in bóng vào “Tràng Giang” một tình yêu tổ quốc, cũng sự lặng lẽ buồn trước cuộc sống thời bấy giờ.
Vì vậy, “Tràng Giang” luôn đứng vững và đứng cao trong nền văn học nước nhà, cũng như trong trái tim của người đọc mãi về sau. Một nỗi buồn đã qua đi từ lâu, nhưng dư vị ấy, cảm giác ấy, nỗi buồn ấy cứ đọng mãi với con người sau này mỗi khi đọc “Tràng Giang”, khiến người ta phải suy ngẫm về nhân tình và cuộc đời.”
(So ha)
Hiểm họa Trung Quốc và bài học Congo
Giới thiệu: Nhượng bộ Sudetenland cho Hitler, như Tổng thống Philippine phát biểu với New York Times hôm 3 tháng 2 vừa qua, là một sai lầm nghiêm trọng của Anh, Pháp và Tiệp, và sai lầm này đã dẫn đến cái chết của 85 triệu người trong Thế Chiến II. Trong lúc Thủ tướng Anh Neville Chamberlain vui mừng, phấn khởi sau khi ký xong hiệp ước Munich, Hilter hoàn toàn không quan tâm đến mảnh giấy lộn đó bởi vì tham vọng của y không dừng lại ở Áo, Tiệp Khắc mà toàn bộ châu Âu và cả thế giới. Khi Hitler tấn công Ba Lan, hai nước Anh và Pháp tuyên chuyến với Đức ngay nhưng đã trễ. Giống như Hitler, tham vọng kinh tế và chính trị của các lãnh đạo Trung Cộng cũng không chỉ nhắm vào Đông Nam Á mà đã và đang vươn vòi đến tận các nước nghèo khó khác ở Phi Châu. Bài viết của tác giả Trần Trung Đạo dưới đây phân tích một cách chi tiết chủ trương Thực Dân Đỏ của Trung Cộng tại Congo. Đây là bài học lịch sử cho những ai còn quan tâm đến tiền đồ Việt Nam.
Nguồn: chinaafrica của website paolowoods.net
|
Em Adon Kalenga làm việc cho một hãng thu mua quặng. Công việc của em mỗi ngày là vác những bao quặng nặng gần 100 kí lô từ những hầm sâu, ẩm thấp đi rửa sạch và vác trở về cho chủ hãng thầu. Như em tả, cả thân thể em đều cảm thấy đau nhức và cả mười ngón tay trầy trụa sau một ngày dài rửa quặng. Em Adon Kalenga chỉ mới 13 tuổi. Trong lúc hầu hết thiếu niên cùng tuổi em trên thế giới đang đến trường thì em phải làm việc không ngưng nghỉ suốt bảy ngày mỗi tuần. Em không đủ tiền để đóng học phí, trung bình khoảng 6 Dollar một tháng. Em không có nhà ở. Đêm về, em ngủ nhiều nơi trên đường phố và cũng có khi tìm đến tạm trú trong các trại mồ côi.
Cha của Adon chết khi em mới 9 tuổi. Mẹ em sau đó cũng bỏ nhà ra đi. Bà con thân thích không ai nhận nuôi dưỡng em khi chính họ còn không đủ sức nuôi con của họ. Em trở thành đứa bé mồ côi. Sau khi lang thang bụi đời một thời gian, các bạn của em gợi ý nên đi đào quặng bán lại cho các công ty thu mua Trung Quốc. Thế là em cùng các bạn đi đào quặng để kiếm sống. Trong năm đầu tiên em có lần suýt chết khi trời mưa lớn làm đất sụp thành bùn đè lên những người đang làm dưới hầm sâu. Bốn người bạn của em, Fabrice, Jean, Patient and Patrick đều bị bùn chôn sống trong tai nạn đó. Em may mắn sống sót nhưng thương tích đầy mình. Adon nói “Cuộc sống của em rất khó khăn. Em không hiểu tại sao.”
Một người bạn của Adon tên là Carlito Muamba, cũng chỉ mới 15 tuổi nhưng mỗi ngày phải chui vào những hố sâu trong lòng đất để đào bằng tay và chiếc sẻng nhỏ. Phía trên hầm không có gì che, mỗi khi đào, đất và bụi rớt xuống phủ kín chiếc đầu không tóc của em. Áo quần em biến thành màu đỏ nhưng em vẫn tiếp tục đào. Mồ hôi trộn lẫn vào bụi đỏ. Không có thang để trèo. Mỗi khi muốn vào hay ra khỏi hầm, em phải bò bằng chân tay. Và đến cuối ngày em cũng được chủ thầu phát một số tiền tương đương với 3 Dollar. Khi được hỏi lý do em làm việc cực nhọc, Carlito trả lời “em cần tiền để mua thức ăn.” Rất đông các bạn cùng tuổi em đi đào quặng.
Mặc dù trên giấy tờ Congo có ký vào hiệp ước quốc tế nghiêm cấm lao động trẻ em vị thành niên, trong thực tế chẳng bao giờ được áp dụng. Ở châu Phi giá trị của mạng sống con người rất rẻ. Nhiều chuyện còn quan trọng hơn như việc hàng trăm người trong đó có bốn trẻ em bạn của Adon, bị đất sụp chôn sống cũng chẳng được ai quan tâm nói chi là chuyện trẻ em đi làm. Bà Wangari Maathai, người phụ nữ Phi châu đầu tiên được trao giảo Nobel Hòa bình năm 2004, quy trách nhiệm không chỉ lên chính phủ Congo mà cả các công ty đầu tư cũng đã vi phạm luật lạm dụng lao động trẻ em: “Tại những quốc gia, nơi nhân quyền không được tôn trọng và người dân không thể buộc chính phủ để chịu trách nhiệm thì chính phủ của các công ty đầu tư phải đề ra những điều kiện lao động.” Chính phủ mà bà muốn nói là Trung Quốc và các công ty thu mua quặng cũng là các công ty Trung Quốc tại Congo, nhưng phía chính phủ Trung Quốc bao giờ họ cũng trả lời “đó là vấn đề của Congo, không liên quan gì đến công ty hay chính phủ Trung Quốc.”
Adon và Carlito là hai trong số 67 ngàn người Congo đang sống bằng nghề đào quặng tại tỉnh Katanga, phía nam Congo, và câu chuyện cảm động về hai em Adon Carlito do một nhóm phóng viên của hãng Bloomberg thực hiện.
Cuối tháng Tám 2008 trên báo Daily Mail ở Anh, nhà báo Peter Hitchens trong phóng sự “Làm thế nào Trung Quốc đã dựng nên một đế quốc nô lệ mới tại Phi Châu” (How China has created a new slave empire in Africa), đã mô tả đời sống của những người dân Congo mà tác giả gọi là “nghèo khổ, vô vọng, giận dữ” khi phải chui vào những hố sâu 25 mét trong những mỏ quặng bỏ hoang để tìm những mảnh quặng đồng còn sót lại, rửa sạch từ những vũng nước dơ và chất thành những kiện nặng tới hàng trăm kí-lô trên những chiếc xe đạp già nua để đem bán cho các thương gia Trung Quốc đang cần nguyên liệu. Nhiều trong số họ đã chết khi những hầm đất sụp hay bị thương nhưng không có thuốc men. Phần lớn đều có con nhỏ. Nhưng nếu họ may mắn sống sót và sau một ngày thu nhặt quặng thành công, họ kiếm được 3 Dollar để nuôi sống bản thân và gia đình trong những thôn xóm tồi tàn đầy bịnh tật. Và cũng theo phóng sự của Peter Hitchens, đời sống một người dân Congo hôm nay không khác gì của ông bà họ ở thế kỷ 18, nếu có khác chăng họ phải làm việc nhiều lần khổ hơn trong một điều kiện cũng tệ hại hơn nhiều.
Dù sao, công việc đào quặng đó cũng chỉ là một phần của các công ty thu mua tư doanh Trung Quốc, thỏa hiệp kinh tế được ký kết giữa chính phủ Congo và Trung Quốc đầu năm 2008 lớn hơn nhiều. Hiệp ước kinh tế trị giá hàng chục tỉ Dollar, có ảnh hưởng gần như hầu hết các mặt trong đời sống xã hội tại Congo không phải chỉ trong vòng 10 năm tới mà trong một thời gian rất dài và cũng không chỉ ảnh hưởng về mặt kinh tế mà cả xã hội, văn hóa, truyền thống.
Để cảm thông với số phận Congo, có lẽ nên đi ngược dòng lịch sử tìm hiểu thêm về vùng đất giàu tài nguyên nhất nhưng là một đất nước chịu đựng nhiều thiệt thòi và bất hạnh nhất trên lục địa Phi châu.
Tội ác diệt chủng bị lãng quên
Cộng hòa Dân chủ Congo (Democratic Republic of the Congo, thời Mobutu được gọi là Zaire, thường dễ bị lầm lẫn với Cộng hòa Congo hay Congo-Brazzaville) là một quốc gia vùng trung Phi, có diện tích 2.3 triệu kilô mét vuông và dân số 64 triệu theo thống kê 2008, thủ đô là Kinshasa. Congo có nhiều nguồn tài nguyên phong phú như đồng, vàng, kim cương, cao su, cobalt nhưng lợi tức đầu người hàng năm chỉ có 140 Dollar. Congo tập hợp của khoảng 200 sắc dân. Về căn bản, Congo vẫn là một quốc gia nông nghiệp nhưng từ 1985 việc đô thị hóa ngày càng gia tăng. Về mặt chính trị, chính phủ Congo hiện nay chi phối bởi hiến pháp 2006. Để đạt được một xã hội tạm yên như hiện nay, nhân dân Congo cũng đã phải trả một giá bằng máu của nhiều triệu dân Congo.
Không giống chế độ thực dân tại các nước khác được mở đầu bằng võ trang xâm lược, chế độ thực dân Bỉ có mặt tại Congo được diễn ra dưới hình thức mua bán, trao đổi giữa Henry M. Stanley, đặc sứ của vua Bỉ Leopold đệ nhị và các lãnh đạo Congo địa phương sống dọc sông Congo. Cuối năm 1884, Stanley đã ký 450 hiệp ước thay mặt cho vua Leopold. Kết quả, Congo trở thành một nước có tên gọi mỉa mai “Nước Congo Tự do” dưới quyền sở hữu cá nhân của vua Leopold với thủ đô đặt tại Boma, một quận nằm bên bờ sông Congo.
Dưới sự bóc lột sức lao động tàn nhẫn để phục vụ cho túi tham không đáy của vua Bỉ Leopold đệ nhị, người dân Congo trải qua gần một thế kỷ trong địa ngục trần gian. Nhân loại nhắc nhiều về Holocaust, diệt chủng Armenian nhưng so với tội ác của Bỉ tại Congo, số người Do Thái bị Hitler giết hay Armenian bị Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt còn thấp hơn nhiều. Khoảng một nửa dân số Congo thời bấy giờ, 10 đến 15 triệu dân, đã bị quân đội và tay sai dưới quyền của vua Leopold tàn sát. Mặc dù chưa bao giờ đặt chân đến Congo, đất nước đã là phần tài sản của ông ta. Vua Leopold đệ nhị thành lập một hệ thống lao động khổ sai trong đó con người đơn giản chỉ là một dụng cụ sản xuất. Những năm giá cao su lên cao, Leopold chỉ thị cho phu đồn điền phải tăng giờ làm việc. Những ai không làm việc được bị hành hạ bằng nhiều cách như đánh roi, tra tấn và giết chết. Nhiều cuộc nổi dậy của dân chúng đã bị quân đội riêng của vua Leopold được gọi là Lực lượng Công cộng (Force Publicque) tàn sát không thương tiếc. Quân lính trong Lực lượng Công cộng có thông lệ mỗi khi giết một kẻ chống đối, họ chặt một cánh tay mang về trình lên cấp chỉ huy để làm chứng cho số lượng đạn dược đã dùng. Nhiều lính của Leopold thích đi săn khỉ, để giải thích cho số đạn đã bắn ra, chúng đã chặt tay thường dân để đem về trình thượng cấp. Viêc chặt tay không chỉ bị xảy ra cho người lớn mà cả trẻ em vô tội. Hình phạt chặt tay này còn tồn tại đến hôm nay tai Sierra Leone là vết tích của chế độ thực dân mà vua Bỉ Leopold đã để lại tại châu Phi. Mặc dù được các nước thực dân châu Âu cố tình che đậy và dìm vào quên lãng, tội ác diệt chủng của vua Leopold đã được ghi lại trong một số tác phẩm, tiểu thuyết, hồi ký và sử học, trong đó có sử liệu Tội ác tại Congo (The crime of the Congo) của Arthur Conan Doyle xuất bản tại London ngay trong năm Leopold chết, 1909, và Bóng ma của vua Leopold (King Leopold’ Ghost) của sử gia Adam Hochschild được xuất bản năm 1999.
Congo độc lập trong nhiễu nhương, phân hóa (1960 – 1965)
Trước áp lực dư luận quốc tế và cả quốc hội Bỉ, sau 1908, Congo bị sáp nhập vào Bỉ lần nữa. Quốc gia gọi là “Nước Congo Tự do” do Leopold lập ra dần dần bị giải tán nhưng điều kiện sống của người dân Congo không phải nhờ đó mà tốt đẹp hơn. Dân Congo vẫn một nước thuộc địa, không có một chút quyền hành gì trong bộ máy hành chính từ cấp trung ương đến địa phương. Đến 1955, ngọn lửa đòi độc lập được nhen nhúm từ các nhà ái quốc Phi châu lan rộng đến nhiều nước. Tại Congo nổi bật nhất là Patrice Emery Lumumba. Sau lời hứa trao trả độc lập dành cho các quốc gia thuộc địa Pháp của Tổng thống Pháp Charles de Gaulle nhân chuyến viếng thăm Trung Congo (nay thuộc Congo) đã kích thích việc đòi hỏi tự do của quốc gia trong lục địa Phi châu. Cuối cùng, Bỉ đã quyết định trao trả độc lập cho Congo vào ngày 30 tháng 6 1960. Patrice Emery Lumumba, 35 tuổi, trở thành Thủ tướng đầu tiên. Chính sách ngu dân và cô lập Congo với thế giới bên ngoài của vua Leopold và thực dân Bỉ để lại một hậu quả vô cùng trầm trọng về mọi mặt trong đời sống xã hội Congo sau khi được trao trả độc lập. Bản thân Thủ tướng Lumumba cũng chỉ học được bốn năm tiểu học và một năm huấn luyện làm nhân viên bưu chính. Dù ít học, Lumumba là một người rất thông minh, có lòng yêu nước sâu sắc, có tài ăn nói và giàu năng lực làm việc. Năm 1958, Lumumba và một nhóm thanh niên có học thành lập Phong trào Quốc gia Congo (Movement Natioal Cogolais, MNC) và là tổ chức chính trị có nhiều ảnh hưởng trong quần chúng nhất lại Congo lúc bấy giờ. Giành được độc lập là một chuyện nhưng điều hành đất nước lại là chuyện khác. Vào 1960, cả nước Congo chỉ có 30 thanh niên là tốt nghiệp đại học và 136 học sinh hoàn tất chương trình trung học. Congo không có ngay cả một bác sĩ, không có thầy hay cô giáo và sĩ quan quân đội. Cấp cao nhất trong quân đội mà một người Congo được thăng là thượng sĩ và người đó không ai khác hơn là Joseph Mobutu, nhà độc tài sắp xuất hiện trong lịch sử Congo.
Để thay thế quân đội Bỉ, Lumumba phong Mobutu lên chức tham mưu trưởng của quân đội Congo. Trước một đất nước có chủ quyền mà coi như vô chủ với hơn 50 phe nhóm chính trị được hình thành trong giai đoạn chuyển tiếp, Thủ tướng Lumumba vốn không có thiện cảm với các đế quốc thực dân, kể cả Mỹ, đã trở nên cực đoan trong cách giải quyết những xung đột nội bộ Congo. Ông kêu gọi Liên Hiệp Quốc giúp ổn định trật tự tại Congo. Sau khi quân độc Liên Hiệp Quốc đổ bộ xuống Congo, Lumumba còn đi xa hơn khi đòi trục xuất toàn bộ quân đội Bỉ chưa rút hết khỏi Congo, nếu không ông ta sẽ cầu cứu Liên-Xô. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh đang ở cao điểm, việc Lumumba cầu cứu Liên-Xô là một thách thức lớn đối với Mỹ. Sự có mặt của Liên-Xô ngay trong trái tim của Phi châu đối với Mỹ là một sự kiện không thể chấp nhận được. Tổng thống Eisenhower không muốn thấy một Cuba tại Phi châu nên đã quyết định loại trừ Lumumba bằng mọi cách, kể cả ám sát nếu cần. Mỹ mua chuộc được Joseph Mobutu, một phụ tá tin cẩn Lumumba và cũng là đương kim tổng tham mưu trưởng quân đội để thực hiện cuộc đảo chánh không đổ máu. Một trong những hành động đầu tiên của Mobutu là trục xuất các nhà ngoại giao Liên-Xô và các quốc gia thuộc khối cộng sản ra khỏi Congo. Lumumba bị bắt, bị tù và cuối cùng bị phe Katanga thù địch thân Bỉ giết chết lúc 10 sáng 17 tháng Giêng 1961.
Việc thiếu tin tưởng vào Tây phương và Mỹ đã dẫn Lumumba đến những quyết định sai lầm, không thực tế trong thời gian ngắn lãnh đạo Congo và bản thân Lumumba cũng chịu trách nhiệm một phần không nhỏ cho tình trạng xáo trộn của Congo, tuy nhiên, không thể phủ nhận tinh thần yêu nước, lập trường chống thực dân kiên quyết mà ông đã theo đuổi từ những ngày còn nhỏ. Sau khi Lumumba bị giết hàng trăm cuộc biểu tình chống Bỉ được phát động khắp thế giới. Patrice Emery Lumumba đã trở thành biểu tượng cho khát vọng độc lập của nhân dân Congo và nhiều chính đảng tại Congo hiện nay mang tên ông. Từ đó cho đến ngày 17 tháng 5 1997, Congo nằm trong tay của nhà độc tài tham nhũng Joseph Mobutu.
Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga (1965 – 1997)
Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga hay viết gọn là Mobutu Sese Seko, với tên trong khai sinh là Joseph Mobutu sinh ngày 14 tháng 10 1930 tại Lisala, một tỉnh Congo thuộc Bỉ. Cha mất sớm nhưng Mobutu đã xoay xở để theo học trong các trường đạo cho đến khi bị trục xuất vì lý do hạnh kiểm. Mobutu đăng lính. Với trình độ học vấn sẳn có và nói thạo tiếng Pháp, trong quân đội Mobutu được huấn luyện nghề thư ký kế toán tại tổng hành dinh của Lực lượng Công cộng. Mobutu được phong tới chức thượng sĩ, chức vụ cao nhất mà một người lính Congo được phong. Sau khi trở về đời sống dân sự Mobutu đi làm báo. Với tính thông minh, lanh lợi, Mobutu quen biết nhiều người, nhiều phe nhóm trong đó có cả nhà cách mạng chống thực dân Patric Emery Lumumba lẫn các nhân viên tình báo CIA. Mặc dù chưa bao giờ trực tiếp tham gia chống thực dân hay các phong trào cách mạng giành độc lập Mobutu đã vận dụng sự quen biết để tạo một vị trí chính trị lẫn quân sự vững chắc cho mình trong giai đoạn chuyển tiếp tranh tối tranh sáng tại Congo.
Sau khi chính thức nắm toàn quyền lãnh đạo Congo từ 1965, Mobutu lần lượt loại bỏ ra ngoài vòng pháp luật tất cả đảng phái, ngoài trừ Phong trào Nhân dân Cách mạng (Movement Populaire de la Revolution, MPR) do chính ông ta lập ra. Trong suốt 32 năm cai trị Congo, Mobutu dành dụm cho mình một tài sản được ước tính khoảng 5 tỉ Dollar trên sự nghèo đói cùng cực của đại đa số dân Congo. Con số 5 tỉ này tương đương với toàn bộ số nợ mà Congo phải vay mượn thế giới.
Những lời tung hô lãnh tụ đầy tính nịnh bợ, các khẩu hiệu tuyên truyền dối trá nhưng rất êm tai Mobutu nghe được trong những dịp viếng thăm các quốc gia cộng sản như Trung Quốc, Bắc Hàn, Rumania, hấp dẫn y đến nỗi khi về nước một trong việc làm đầu tiên của Mobutu không phải xây cầu, đắp đập mà là hình thành ngay một tư tưởng Mobutu. Mobutu ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10-1971 thay cả tên nước. Báo chí quốc doanh ca tụng Mobutu như một bậc tiên tri. Mobutu, người bị tố cáo đã giao nộp Lumumba cho phe Katanga giết để tránh tiếng sát nhân, phục hồi danh dự cho Lumumba. Y làm việc này không phải phát xuất từ sự kính phục lòng yêu nước của Lumumba, mà để giải tỏa dư luận, và đồng thời để tự phong mình là nhân vật số hai trong lịch sử Congo, sau Lumumba, có công giành độc lập.
Bạn thân nhất của Mobutu là nhà độc tài Nicholas Ceauşescu của Romania. Quan hệ của hai nhà độc tài không chỉ giới hạn ở cấp đảng, nhà nước mà cả cá tính thích sùng bái cá nhân cùng cực. Mobutu cũng thán phục chính cá tính độc lập của Nicholas Ceauşescu đối với Liên-Xô. Sự thân thiết của giữa Mobutu và Nicholas Ceauşescu phổ biến đến mức trong các câu chuyện trào phúng tại Congo, Mobutu Sese Seko được gọi thành Mobutu Sesesescu. Tháng 11-1996, Laurent-Desire Kabila với sự yểm trợ của Burundi, Uganda, Rwanda, đã phát động chiến tranh được gọi là chiến tranh Congo thứ nhất nhằm lật đổ Mobutu. Mobutu đang bị bịnh ung thư tiền liệt tuyến vào giai đoạn cuối, không chống trả nổi, phải lưu đày sang Morocco và chết một thời gian ngắn sau đó.
Laurent-Desire Kabila (1997 – 2001)
Một trong những kẻ thù thuộc loại kỳ cựu của Mobutu là Laurent-Desire Kabila, một lãnh tụ cộng sản hoạt động từ thời Lumumba. Trong thời gian Lumumba làm Thủ tướng, Laurent-Desire Kabila là một lãnh tụ thanh niên có trình độ đại học của một đảng nhỏ liên minh với Phong trào Quốc gia Congo của Lumumba trong quốc hội. Khi Lumumba bị giết, Kabila trốn vào rừng và thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Congo. Với sự yểm trợ võ khí của Trung Quốc, Kabila dù chỉ mới 24 tuổi, tuyên bố thành lập chính phủ ly khai theo chế độ cộng sản tại tỉnh Nam Kivu, phía tây hồ Tanganyika.
Năm 1965, Kabila liên kết với một trong những người cộng sản nhiều huyền thoại nhất của Mỹ châu là Che Guevara. Che nhận xét, trong số những người ông ta gặp, Kabila là ngưòi có nhiều điều kiện để lãnh đạo quần chúng. Kabila có tương lai vì tuổi còn rất trẻ và từng theo học triết học tại đại học ở Pháp. Tuy nhiên, cách sống xa hoa, chìm đắm trong rượu chè và chỉ biết quanh quẩn với gái của lãnh tụ cộng sản Kabila đã làm Che thất vọng và cuối cùng bỏ đi vào cuối năm 1965. Nhà nước cộng sản nhỏ nhoi nầy bị Mobutu càn quét và tan vỡ. Báo chí và cả Mobutu đều nghĩ rằng Kabila đã chết, nhưng không, ba mươi năm sau, Kabila lại xuất hiện và lần nầy lãnh đạo một liên minh quân sự của nhiều nước dưới danh nghĩa Liên minh Các Lực lượng Dân chủ Giải phóng Congo (Alliance des Forces Democratiques pour la Liberation du Congo-Zaire). Quân đội của liên minh đánh bại quân đội của Mobutu chỉ trong vòng vài tháng, và Kabila chiếm thủ đô Kinshasa ngày 20 tháng 5 năm 1997.
Sau khi đánh bại Mobutu, Kabila tự phong là chủ tịch nước đứng đầu một chính phủ cứu nguy dân tộc và đổi tên nước là Cộng hòa Dân chủ Congo như đang được gọi hiên nay. Cuộc đời 30 năm sống trong bí mật của Laurent-Desire Kabila cho đến nay cũng còn nhiều huyền bí vì khi còn sống Kabila thường đánh trống lảng khi được hỏi về quá khứ của mình. Tuy nhiên theo các phóng viên điều tra trong đó có ABC News, lãnh tụ cộng sản Kabila và phe phiến loạn của ông đã sống bằng việc giết voi để lấy ngà, đào mỏ, buôn vàng, kim cương qua ngã Burundi, một nước nhỏ trên biên giới phía đông của Congo và cả bắt cóc người để tống tiền, trong đó ít nhất một người là Mỹ. Nhân dân Congo tránh vỏ dưa gặp phải vỏ dừa vì tham vọng của nhà độc tài Maoist Laurent-Desire Kabila không kém gì của Mobutu. Các nhóm dân chủ thật sự đều rút ra khỏi liên minh hay bị loại bỏ. Laurent-Desire Kabila bị một cận vệ ám sát ngày 18 tháng Giêng 2001. Con trai Laurent-Desire Kabila là Joseph Kabima được trao quyền Tổng thống thay cha.
Joseph Kabila và quan hệ Trung Quốc (từ 2001)
Joseph Kabila lên kế vị cha nắm chức vụ Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo khi chỉ mới 29 tuổi. Tuổi thơ ấu của ông ta cũng có nhiều huyền bí. Joseph Kabila sinh khoảng tháng 4-1971 tại một nơi nào đó hoặc miền đông Congo hay tại Tanzania. Mẹ của ông ta là vợ thứ ba của Laurent-Desire Kabila. Tuy còn trẻ nhưng Joseph Kabila tỏ ra khôn khéo về ngoại giao hơn cha. Trong chuyến thăm viếng Mỹ theo lời mời của Tổng thống George Bush sau khi được quốc hội Congo giao quyền Tổng thống, Josehp Kabila mong muốn có một Congo hòa bình sau khi đã trải qua hai cuộc chiến, Congo thứ nhất từ 1996 đến 1997 và Congo thứ hai từ 1998 đến 2003, với trên 4 triệu người chết. Trong buổi tiếp xúc Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell, Joseph Kabila cũng hứa hẹn sẽ có những cải cách dân chủ và nhân quyền tại Congo. Tháng 12-2005, một cuộc trưng cầu dân ý Congo chấp thuận một hiến pháp mới. Josehp Kabila ghi danh ứng cử với tư cách độc lập. Đối thủ của Joseph Kabila là Jean-Pierre Bemba, cựu phó Tổng thống và cũng là bạn chiến đấu của cha ông ta. Vì vòng đầu cả hai đều không đạt tỉ lệ trên 50 phần trăm như luật bầu cử quy lịnh, cuộc bầu cử phải tiến vào vòng hai, và lần nầy Kabila đắc cử Tổng thống với 58.5 phần trăm tổng số phiếu bầu. Còn khá sớm để đánh giá Joseph Kabila liệu có trở thành một Mobutu hay Laurent-Desire Kabila hay không, nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy Joseph Kabila đã có nhiều thay đổi như việc sắp xếp lại cơ cấu hành chánh và cho về hưu các viên chức quá già trong hệ thống công quyền. Joseph Kabila có quan hệ mật thiết với Trung Quốc. Khi vào tuổi 25, Joseph Kabila đã từng là tư lịnh binh đoàn Kadogos nổi tiếng đánh chiếm thủ đô Kinshasa. Sau khi cha làm Tổng thống, Joseph Kabila được gởi sang Trung Quốc để theo học quân sự tại Đại học Quốc phòng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh. Xa hơn nữa, quan hệ mật thiết giữa Trung Quốc và gia đình Kabila bắt đầu từ khi Joseph Kabila chưa ra đời. Bản thân Kabila cha là một Maoist và công khai bày tỏ lòng kính phục đối Mao Trạch Đông. Trong chuyến viếng thăm Trung Quốc của Joseph Kabila vào 22 tháng 3-2002, chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân cũng nhắc lại tình hữu nghị cố cựu giữa cha con Kabila và Trung Quốc. Uống nước nhớ nguồn, Josheph Kabila cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc vì đã hết lòng ủng hộ cha con ông ta trong giai đoạn khó khăn dài trước đó.
Chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc tại Phi châu
Sau khi thiết lập chế độ cộng sản tại lục địa Trung Hoa, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu tìm cách tạo ảnh hưởng tại Phi châu thể hiện qua các chuyến viếng thăm châu Phi ba tuần của Thủ tướng Chu Ân Lai và ngoại trưởng Trần Di vào đầu năm 1964. Tuy còn rất nghèo nàn nhưng đối với các phong trào du kích tại nhiều nước Á, Phi, Trung Quốc được xem như là ngọn hải đăng cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trung Quốc sử dụng lý luận cách mạng để tạo ảnh hưởng và củng cố vị trí quốc tế qua việc khuyến khích các cuộc nổi dậy võ trang dưới hình thức cách mạng nhân dân tại các quốc gia đang đấu tranh vì độc lập hay vừa được trao trả độc lập nhưng chưa ổn định. Trong thập niên 50 và đầu thập niên 60, ngoài một số vũ khí phần lớn là chế tạo rập theo khuôn mẫu của Liên-Xô, Trung Quốc là một nước lạc hậu về kinh tế kỹ thuật. Vốn liếng và võ khí mạnh nhất của Trung Quốc là lý luận cách mạng chống thực dân đế quốc.
Tại đại hội Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 9-1962, Mao nhấn mạnh sự liên hệ giữa đấu tranh giai cấp trong nước phải được tiến hành đồng thời với việc yểm trợ các cuộc tranh đấu võ trang của các nước khác. Về mặt chính trị, Trung Quốc tích cực tham gia Hội nghị Bandung lịch sử, diễn ra từ 18 đến 24 tháng Tư 1955 tại thành phố Bandung, Nam Dương và sau đó một thời gian ngắn là sự ra đời của Phong trào các Quốc gia không Liên kết.
Về mặt quân sự, các phong trào Maoist được Trung Quốc võ trang hình thành khắp nơi, không những trong các quốc gia đang là thuộc địa, các quốc gia đã được trao trả độc lập mà cả những quốc gia chưa từng bị thuộc đia. Trung Quốc huấn luyện du kích quân thuộc phong trào FRELIMO tại Mozambique, PAIGC tại Guinea, ZANU in Rhodesia (Zimbabwe), ANC tai Nam Phi. Năm 1963, Trung Quốc gởi quân dụng và vũ khí đến các lực lượng du kích đang hoạt động tại miền đông Congo dưới sự lãnh đạo của Antoine Gizenga, nguyên là một bộ trưởng trong chính phủ Lumumba, chống lại Mobutu thân Mỹ. Điểm đặc biệt, khác với Liên-Xô và Mỹ, Trung Quốc nhắm vào các mục đích đầu tư dài hạn nên võ khí tặng cho các phong trào Maoist phần lớn đều dưới hình thức cho không.
Cuối thập niên 50, lý luận “giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc” không còn hiệu quả vì phần lớn các nước đã giành được hay được trao trả độc lập, Trung Quốc chuyển hướng đấu tranh sang việc phát động phong trào chống thực dân mới và đế quốc Mỹ. Trung Quốc cảnh cáo các nước Á, Phi, độc lập chính trị chỉ là bước đầu trong tiến trình giải phóng đất nước, quan trọng là phải có độc lập về kinh tế. Một số thỏa hiệp kinh tế, dù rất tượng trưng, đã được ký kết giữa Trung Quốc và các quốc gia như Ghana, Guinea, Mali, Tanzania. Trong nội bộ phong trào cộng sản thế giới Trung Quốc tấn công vào chủ nghĩa xét lại Khrushchev.
Để chứng tỏ Trung Quốc không chỉ là một mớ lý luận và những võ khi thô sơ, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không ngần ngại thực hiện vài đề án lớn với một số nước Phi châu như trường hợp đề án đường rầy xe lửa Tanzam nối liền Zambia và bờ phía đông của Tanzania năm 1970. Đề án Tanzam được xem như là một đề án lớn nhất của Trung Quốc thời bấy giờ với kinh phí 500 triệu Dollar để xây dựng một hệ thống đường xe lửa dài 1870 kí lô mét từ Dar es Salamm đến khu vực mỏ quặng chính của Zambia. Số nhân công được sử dụng gồm 50 ngàn tuyển mộ từ Tanzania và 25 ngàn được đưa sang từ Trung Quốc. Bất chấp nắng mưa, chết chóc, 75 ngàn người đã làm việc suốt 5 năm dài, bắt 300 cầu, đào thông 23 hầm và đặt 147 trạm xe lửa. Đề án được Trung Quốc ca ngợi như một thành công vĩ đại vào năm 1975 mặc dù Trung Quốc biết cả vốn lẫn lời có thể đều không thu lại được. Trung Quốc thực hiện đề án Tanzam không nhằm theo đuổi mục đích lợi nhuận kinh tế nhưng qua đó thiết lập một đầu cầu quan trọng cho việc đổ bộ ồ ạt vào Phi châu trong đầu thiên niên kỷ này và đồng chứng tỏ cho các lãnh đạo các nước Phi châu thấy không chỉ có Mỹ hay Liên-Xô mới khả năng thực hiện các đề án lớn.
Các chính sách đổi mới kinh tế của Đặng Tiểu Bình bắt đầu thập niên 80, về mục tiêu có nhiều thay đổi, nhưng một số điểm trong chính sách đối với châu Phi thời Mao vẫn được duy trì. Giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc sử dụng và khai thác lịch sử như một vũ khí chiến lược để phục vụ cho mục tiêu bành trướng. Trung Quốc vẫn lặp đi lặp lại khẩu hiệu hợp tác hữu nghị, tình đồng chí anh em thắm thiết giữa các quốc gia cùng cảnh ngộ được như Chu Ân Lai đã tuyên bố từ Hội nghị Bandung hơn nửa thế kỷ trước, có khác chăng các lãnh tụ phiến loạn ngày xưa nay đã là những tổng thống và Trung Quốc, lãnh tụ của thế giới thứ ba nghèo khổ, nay là một siêu cường.
Các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốctại Phi Châu
1. Thỏa mãn nhu cầu năng lượng và nguyên liệu
Phát triển kinh tế đòi hỏi trước hết là nguyên liệu. Sự thất thoát và lãng phí nguyên vật liệu trong sản xuất đã làm nhu cầu nguyên liệu của Trung Quốc vốn đã thiếu hụt lại càng thiếu hụt trầm trọng hơn. Để đuổi kịp các nước tư bản phát triển và vượt qua những khiếm khuyết trong sử dụng nguyên liệu, giới lãnh đạo kinh tế Trung Quốc không áp dụng các phương pháp kinh doanh truyền thống mà Mỹ và các nước Tây Âu đã và đang áp dụng. Các chuyên viên đặt hàng của các công ty Trung Quốc không ngồi trong các phòng có gắn máy lạnh, trước máy vi tính và mua nguyên vật liệt từ các thị trường nguyên liệu quốc tế mà đến tận nơi, mua tận gốc và mua với giá rẻ nhất. Tệ hại hơn cả các chế độ thực dân trước đây, Trung Quốc vơ vét đủ cách, đủ kiểu, chính thức qua các hợp đồng nhà nước và không chính thức qua trung gian các công ty thầu thu mua do người bản xứ điều hành. Các công ty Trung Quốc bất chấp các nguyên tắc, luật lệ lao động và họ không quan tâm các bao quặng kia do ai đào ra, dù từ bàn tay của một phụ nữ Congo đang cõng trên lưng một đứa bé sơ sinh hay một em Adon Kalenga chỉ mới 13 tuổi.
2. Giải quyết nạn thặng dư dân số tại Trung Hoa lục địa
Nội dung của chủ nghĩa bành trướng thế giới của Trung Quốc không chỉ giới hạn về kinh tế mà đồng thời để giải quyết được nạn thặng dư dân số tại nội địa Trung Quốc. Dân số Trung Quốc theo thống kê tháng 7-2008 là 1 tỉ 330 triệu người. Trong 20 năm qua, việc thực thi chính sách kiểm soát dân số mỗi gia đình một con khá hữu hiệu đã giúp mức gia tăng dân số chậm lại tại mức 0.65 phần trăm mỗi năm. Nếu cứ tiếp tục duy trì chính sách hạn chế sinh đẻ như hiện nay, nghĩa là cứ hai người lớn tuổi mới có một em bé, số lượng người già trong dân số Trung Quốc theo tỉ lệ sẽ tăng nhanh hơn số lượng trẻ em. Theo các nhà phân tích dân số, nếu mức phát triển dân số không thay đổi, trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ là một viện dưỡng lão khổng lồ.
Việc thỏa mản các nhu cầu an sinh, xã hội, y tế cho nhiều trăm triệu người già không còn khả năng lao động, là một viễn ảnh đầy lo sợ của giới lãnh đạo Trung Quốc. Theo báo Sunday Times xuất bản tại Anh số tháng Hai 2008, một chuyên viên về Trung Quốc ước lượng rằng chính phủ Trung Quốc cần phải đưa ra khỏi Trung Hoa lục địa 300 triệu người mới có thể giải quyết nạn thặng dư dân số. Đưa đi đâu? Bất cứ nơi nào, nhưng nơi di dân thích hợp nhất của thời đại ngày nay không đâu khác hơn là Phi châu đất rộng, người thưa, tài nguyên phong phú. Trung Quốc cũng tìm cách truyền bá tiếng phổ thông Trung Quốc sang các nước Phi châu. Mặc dù rất khó học, các lớp dạy tiếng Trung Quốc được mở khắp mọi nơi. Chính phủ Trung Quốc ước lượng sẽ có 100 triệu người nước ngoài, hẳn nhiên đa số sẽ từ châu Phi, nói tiếng Trung Quốc. Tại Kenya còn có một học viện mang tên Viện Khổng Tử chuyên dạy về văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc.
Theo phân tích của các tác giả tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (the Center for Strategic and International Studies) trong tổng kết China the Balance Sheet, Trung Quốc là một nước già, và vào giữa thế kỷ này Trung Quốc sẽ có 349 triệu cao niên. Hệ thống dưỡng lão tại Trung Quốc ngày nay vẫn còn theo kiểu con cái phụng dưỡng cha mẹ già nhưng 30 năm nữa một người trẻ phải phụng dưỡng bốn người già. Tình trạng mất cân đối giới tính trong dân số Trung Quốc cũng là một mầm mống khác cho những bất ổn xã hội tương lai. Mặc dù trên giấy tờ chính phủ Trung Quốc nghiêm cấm việc phá thai dựa theo giới tính nhưng tình trạng phá thai một cách bất nhân khi đã biết bào thai là còn gái vẫn xảy ra rất phổ biến tại Trung Quốc. Điều đó dẫn đến tình trạng trai thừa gái thiếu. Phương pháp để giải quyết tình trạng đó là mua vợ từ các nước Á châu khác.
3. Xuất cảng hàng hóa tiêu dùng
Không giống các quốc gia Tây phương, viện trợ và đầu tư được tính toán một cách cân đối dựa trên nhu cầu ngắn hạn và dài hạn của một quốc gia, trong đó có đầu tư về giáo dục, huấn luyện nghề nghiệp, khoa học kỹ thuật, các đầu tư của Trung Quốc nhắm nhiều nhất vào các mục đích tiêu dùng và dịch vụ như phi trường, sân vận động. Tập sang nghiên cứu China Monitor của Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc tại Congo cho rằng việc Trung Quốc xây dựng các công trình chẳng khác mang cá đến cho người dùng mà không chỉ cho họ cách để tự đánh cá.
Như một nước nông nghiệp với nhiều triệu dân là những người tỵ nạn chiến tranh vừa mới hồi cư, sản phẩm công nghiệp Congo không phải là đối thủ cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc. Đường phố Lubumbashi, thủ phủ tỉnh Katanga, là một phố Tàu lớn với các cơ sở thương mại Trung Quốc, từ các ngân hàng, các công ty lớn cho đến các nhà hàng, tiệm ăn, tiệm tạp hóa và cả tiệm thuốc bắc. Về hàng hóa, không chỉ đồng hồ, TV, radio, điện thoại mà ngay cả loại vải truyền thống nhiều màu mà phụ nữ Phi châu ưa chuộng, vốn là đặc sản Congo, cũng được may từ Trung Quốc đem sang. Ngoài việc đánh gục hàng nội địa, các công ty Trung Quốc còn cạnh tranh với cả hàng nhập cảng. Công ty điện thoại di động Congo Chinese Telecomps (CTT) bán các điện thoại phẩm chất không thua kém các công ty lớn thế giới nhưng giá rất thấp so với các sản phẩm nhập từ Mỹ hay châu Âu.
Mua chuộc và bao che cấp lãnh đạo để khai thác lâu dài
Các lãnh đạo Phi châu không phải là không biết thâm ý của Trung Quốc nhưng họ vẫn muốn hợp tác kinh tế với Trung Quốc hơn là các nước Tây phương. Như đã trình bày, hợp tác với Trung Quốc, các lãnh đạo Phi châu không phải bận tâm về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền vì chính sách của Trung Quốc không can thiệp vào nội bộ của các nước khác. Trong khi các vấn đề nhân quyền đã đẩy các công ty phương Tây ra khỏi châu Phi thì Trung Quốc trở thành nước độc quyền đầu tư và khai thác kinh tế. Ngoài ra, hợp tác với Trung Quốc không phải thông qua các thủ tục, các điệu kiện phức tạp như khi vay tiền của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế). Thảo luận hay ký kết các hợp đồng thương mại với các công ty Trung Quốc cũng chẳng khác gì ký kết với chính phủ Trung Quốc và do đó không cần phải thông qua sự chấp thuận của chính phủ hay quốc hội, nếu có cũng chỉ là vấn đề thủ tục. Trung Quốc ưu đãi, bao che và nếu cần sẽ sẵn sàng tiếp tay cho giới lãnh đạo để đàn áp các thành phần đối lập, các tầng lớp nhân dân. Giống như chế độ thực dân đế quốc trước đây, Trung Quốc nuôi dưỡng, bao che, cung cấp cho giới lãnh đạo Phi châu tiền bạc, súng đạn, an ninh cá nhân và bảo vệ chế độ bằng sử dụng quyền phủ quyết trong các cơ quan quốc tế như Liên Hiệp Quốc.
Quan hệ Trung Quốc và Congo
Riêng với Congo, năm 1964, Mao Trạch Đông đã tuyên bố “Nếu chúng ta có được Congo, chúng ta sẽ có được cả Phi châu”. Về mặt lịch sử, người Trung Quốc có mặt ở Congo từ lâu lắm. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích người Trung Quốc có mặt tại Phi châu từ thế kỷ thứ sáu. Trong thế kỷ 18, thời kỳ vua Leopold cai trị Congo, nhiều ngàn người Hoa đã bị đưa tới để làm đường rầy xe lửa. Đa số đã bị chết vì đói khát hay kiệt sức lao động, một số ít sống sót đã chạy về các thành phố. Tức khắc sau khi Bỉ trao trả độc lập cho Congo, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã gởi điện văn chúc mừng Thủ tướng Lumumba và công nhận Congo độc lập. Tuy nhiên hai quốc gia sau đó đã có xung đột ngoại giao khi Tổng thống Kasavubu thiết lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan. Để trả đũa, Trung Quốc gởi võ khí cho quân đội của Gizenga đang chống lại chính quyền Congo trung ương của Kasavubu và Mobutu.
Sau khi loại bỏ Tổng thống Kasavubu, siết chặt quyền lãnh đạo tại Congo, Mobutu bắt đầu có có tham vọng lãnh đạo cả lục địa Phi châu. Để làm được điều đó nhà độc tài xứ Congo cần phải hòa hoãn với Trung Quốc, quốc gia có ảnh hưởng nhất trong Phong trào các Quốc gia không Liên kết. Congo và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 1972. Cũng trong năm này, Mobutu công nhận đàn em thân tín của Trung Quốc là Bắc Hàn. Mobutu thăm Trung Quốc 5 lần trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1994. Đáp lại, từ 1973, các lãnh đạo đảng và nhà nước Trung Quốc viếng thăm Congo, đầu tiên với Ngoại trưởng Hoàng Hoa thăm Congo 1978, đến phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm đến Congo 1979. Trung Quốc nắm lấy cơ hội các quốc gia dân chủ Tây phương và Mỹ dưới thời Tổng thống Jimmy Carter bắt đầu tẩy chay chế độ độc tài Mobutu để gây ảnh hưởng với Mobutu. Năm 1983, Trung Quốc tuyên bố hủy bỏ số nợ 100 triệu Dollar Congo đã vay của Trung Quốc, ngoài ra còn gởi khoảng 1 ngàn chuyên viên Trung Quốc sang làm việc trong các đề án nông và lâm nghiệp tại Congo.
Khi nhà độc tài Mobutu bị Laurent-Desire Kabila lật đổ, quan hệ hai quốc gia chẳng những không gián đoạn mà còn được củng cố vững chắc thêm. Quan hệ giữa Tổng thống Laurent-Desire Kabila và Bắc Kinh không chỉ là quan hệ giữa hai nước mà còn là quan hệ đồng chí anh em vì Laurent-Desire Kabila vốn là một nhà Maoist và đã từng được Mao yểm trợ võ khí khi còn ở trong rừng. Chỉ một thời gian ngắn sau khi lật đổ Mobutu, Tổng thống Congo Laurent-Desire Kabila lên đường viếng thăm Bắc Kinh. Khi Laurent-Desire Kabila bị ám sát, con trai của ông ta lên làm Tổng thống cũng đã thăm Trung Quốc để xin viện trợ, và đổi lại Trung Quốc được hưởng nhiều đặc quyền khai thác quặng mỏ, nhất là đồng và cobalt. Trung Quốc bắt đầu xây dựng hệ thống đường sá, khách sạn, phi trường, nhà máy điện, cơ sở giáo dục cho Congo, cũng như khai thác gỗ và dần dần lan đến các đề án nông nghiệp, ngay cả cà-phê, đường, cây trái.
Cuối tháng 9-2007, Trung Quốc ký với Congo một hợp đồng được xem là lớn nhất từ trước đến nay với một quốc gia Phi châu. Tổng giá trị của hợp đồng lên đến 9.25 tỉ Dollar. Ngân hàng Xuất nhập Cảng Trung Quốc Exim (Export-Import Bank of China) đã đồng ý cho Congo vay để tân trang hệ thống đường sá tại Congo. Đổi lại, Trung Quốc được quyền khai thác 10.6 triệu tấn đồng và 626,619 tấn cobalt. Theo nội dung của hiệp ước khai thác quặng, được đàm phán tại Bắc Kinh giữa luật sư Pual Fortin thay mặt cho công ty quốc doanh Gecamines của Congo và chính phủ Trung Quốc, số tiền sẽ được chi thành 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 3 năm phù hợp với tiến trình xây dựng và khai thác quặng mỏ. Sau thời gian 10 năm, vai trò độc quyền của Trung Quốc sẽ chấm dứt và hai quốc gia sẽ hợp tác với 2 phần 3 thuộc về Trung Quốc và 1 phần 3 thuộc về Congo, để tiếp tục khai thác quặng mỏ. Hiệp ước đã được Quốc hội Congo chấp thuận tháng 5 năm 2008.
Một số nhà phân tích cho rằng đây là một hiệp ước hai bên cùng có lợi vì Congo sẽ có một số cơ sở xây dựng mà họ chưa từng có như Tổng thống Joseph Kabila tuyên bố: “Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Congo có thể thấy những quặng đồng, kẽm của Congo đem về những kết quả tốt”. Tuy nhiên theo luật sư Georges Kapiamba, một trong số ít người đọc được nội dung của thỏa hiệp, cho rằng thỏa hiệp ký kết vào năm 2008 cũng chẳng khác gì “thỏa hiệp” mà Congo phải ký dưới thời vua Leopold đệ nhị của Bỉ. Cộng hòa Dân chủ Congo, trên thực tế sẽ bị thực dân hóa lần nữa. Có khác chăng, vua Leopold chưa bao giờ đặt chân đến Congo nhưng người Hoa sẽ tràn ngập Congo. Congo sẽ được Trung Quốc xây dựng 176 bịnh viện, hai trường đại học, một cảng, 500 chung cư. Đó là những công trình xây dựng lớn, tuy nhiên so sánh giữa gì sẽ nhận về và những gì sẽ mất đi, Congo sẽ bị thiệt hại nhiều hơn. Đừng nói gì đến chủ quyền đất nước và tài nguyên thiên nhiên, chỉ riêng về thu nhập tiền lời, với giá quặng mỏ vẫn còn cao, các nhà phân tích ước lượng, sau thời hạn 10 năm Trung Quốc sẽ thu lại từ 42 tỉ Dollar đến 90 tỉ Dollar.
Trung Quốc trong vai trò thực dân của họ, hơn ai hết mong được thấy một Cộng hòa Dân chủ Congo ổn định để khai thác tài nguyên của quốc gia này, nhưng liệu ước muốn đó có là một hiện thực hay không là điều khó ai biết trước. Lịch sử đã chứng minh Mỹ, Pháp, Anh không bao giờ nhường Phi châu cho Trung Quốc một cách dễ dàng. Khi thỏa hiệp được trình lên Quốc hội Congo tháng 5-2008, 105 nghị sĩ thuộc các đảng đối lập Congo đã bước ra khỏi phòng để phản đối. Tháng 10-2008, lực lượng Tutsi dưới quyền của tướng Laurent Nkunda đánh bại các lực lượng chính phủ Cộng hòa Dân chủ Congo và có ý định tiến về phía khu hầm mỏ Congo. Tướng Nkunda tuyên bố một trong những điều kiện đàm phán giữa ông ta và chính phủ của Tổng thống Joseph Kabila là Congo phải hủy bỏ hiệp ước 9 tỉ Dollar với Trung Quốc. Mặc dù tướng Nkunda vừa bị bắt cách đây 3 tháng nhưng các thành phần chống chính phủ vẫn còn rất mạnh. Thỏa hiệp kinh tế 9 tỉ Dollar vì thế đã trở thành con tin cho cuộc tranh chấp giữa nhiều phe phái. Máu có thể sẽ đổ lần nữa trên đất Congo và giống như hàng trăm năm qua, giọt máu đầu tiên hay cuối cùng cũng chỉ là máu của nhân dân Congo vô tội.
Và Việt Nam?
Bên cạnh nhiều điểm khác nhau về mức độ phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, địa lý chính trị, hai dân tộc Congo và Việt Nam có chung nhiều điểm bất hạnh giống nhau. Cobalt Congo và Bauxite Việt Nam đều là bước đầu của chủ nghĩa bành trướng của thực dân đỏ Trung Quốc, và viễn ảnh đen tối bị lệ thuộc lâu dài vào Trung Quốc là điều có thực.
Giống như Congo, dân tộc Việt Nam cũng trải qua một cuộc chiến tranh dài, với số người chết gần bằng nhau, và cả hai dân tộc đều nằm dưới sự cai trị của một giới lãnh đạo tự nguyện đặt mình dưới sự bảo hộ của Trung Quốc. Bởi vì, chỉ có cộng sản Trung Quốc mới làm ngơ trước các hành động bỏ tù, tra tấn, chặt tay, bịt miệng người dân, chỉ có cộng sản Trung Quốc mới im lặng khi giới cầm quyền sống xa hoa, phung phí trên máu xương, mồ hôi nước mắt của nhân dân, và chỉ núp dưới bóng của cộng sản Trung Quốc giới lãnh đạo có mới thể kéo dài quyền cai trị đất nước. Giống như Congo, Việt Nam cũng có tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào, lẽ ra hôm nay đã thành một con rồng, con phụng ở Á châu, nhưng không, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo về kinh tế và có một cơ chế chính trị còn lạc hậu hơn cả Congo.
Dân tộc Việt Nam, sau bao nhiêu năm nguyền rủa, van xin, đánh thức lương tâm của giới lãnh đạo cộng sản bằng bao nhiêu bức tâm thư, bao nhiêu lời thỉnh nguyện. Tất cả chỉ là những giọt nước rơi vào biển cả, không tạo được âm vang, không gây nên chút sóng. Đảng Cộng sản đã chọn lựa cho họ một con đường riêng để tồn tại thì dân tộc Việt Nam cũng phải biết đứng lên để thay đổi vận mệnh của chính mình. Lịch sử nhân loại chứng minh, những kẻ độc tài thường không bước xuống theo nguyện vọng nhân dân, họ chỉ chết già trong quyền lực hay bị lật đổ.
Trần Trung Đạo
Theo Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự
Tham khảo
- Richard Dowden, Africa, Altered States, Ordinary Miracles, Public Affairs, New York 2008
- Adam Hochschild, King Leopold’s Ghost: A Story of Greed, Terror, and Heroism in Colonial Africa, Mariner Books 1999.
- Arthur Conan Doyle, The Crime of the Congo, London Hutchinson & Co, 1909
- Martin Meredith, The Fate of Africa, Public Affairs 2005
- Princeton Lyman, Director of Africa Policy Studies, Council on Foreign Relation, China’s Rising Role in Africa, July 2005
- Center for Strategic and International Studies and the Peter G. Peterson Institute for International Economics, China: The Balance Sheet, Public Affairs 2007
- David Pugh, Chinese Foreign Policy during the Maoist Era and its Lessons for Today
- Peter Hitchens, How China has created a new slave empire in Africa, Mail 28th September 2008
- Wenran Jiang, Chinese Inroads in DR Congo: A Chinese “Marshall Plan” or Business?, The Jamestown Foundation, Jan 12 – 2009.
- Amb David H. Shinn, China’s Relations with Zimbabwe, Sudan, and the Democratic Republic of the Congo
- Hannah Edinger & Johanna Jansson, Center for Chinese Studies, China and the Democratic Republic of Congo:Partners in Development? October 2008
- Simon Clark, Michael Smith and Franz Wild, China Lets Child Workers Die Digging in Congo Mines for Copper, Bloomberg, July 22 – 2008.
- Richard Behar, Mineral Wealth of the Congo, June 1 2008
- F William Engdahl, China’s US$9bn hostage in the Congo war, Asia Times, Dec 2 – 2008
Jon Swain, Africa, China’s new frontier Time, February, 10-2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét