Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2014

Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975 - Bốn mươi năm – Hoàng Sa, nhớ và nghĩ - chuyện của một hạm phó

Địch Cường - Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975

DẪN NHẬP



Trung Quốc và Những Cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950-1975 là một đóng góp nổi bật cho lịch sử quốc tế về Chiến tranh Lạnh nói chung và cho lịch sử quốc tế về cuộc Chiến tranh Việt Nam nói riêng. Các nhà sử học từ lâu đã phỏng đoán về mối quan hệ giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong một phần tư thế kỷ chiến tranh tại Đông Dương, kéo dài từ 1950 đến 1975. Cho đến khi cuốn sách này xuất bản thì chúng ta mới biết được thực sự.

Với lối viết rõ ràng và thông suốt đáng ngưỡng mộ, Địch Cường đã dùng hàng loạt những nguồn thông tin đầy ấn tượng từ văn khố Trung Quốc vừa được công bố, các hồi ký, nhật ký, và tuyển tập tài liệu để kể lại việc Trung Quốc đã giúp đỡ Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống lại nguời Pháp và sau đó là người Mỹ. Sau đây là một số khám phá nổi bật từ nghiên cứu của ông:

Rằng Mao Trạch Đông nhìn nhận phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam trên khía cạnh ý thức hệ lẫn địa chính trị. Cuộc đấu tranh này nhận được hỗ trợ mạnh mẽ vì nó là một phần của chiến lược lớn hơn của ông ta trong việc thiết lập một trật tự thế giới chống đế quốc, nhưng cùng lúc ông cũng không sẵn sàng tách mục đích này ra khỏi quyền lợi của Trung Quốc trong việc cân bằng sự đối chọi giữa Liên Sô và Hoa Kỳ. Đây là một nghiên cứu nổi bật về sự giao thoa giữa quyết tâm cách mạng và chính sách thực dụng trong suy tính của Mao.

Rằng viện trợ quân sự của Trung Quốc thì rất quan trọng đối với Việt Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước khi có những thoả thuận từ hiệp định Geneva 1954. Mức độ của nguồn viện trợ này thật là đáng ngạc nhiên vì lúc ấy Trung Quốc cũng đang tham dự vào Chiến tranh Triều Tiên.

Rằng người Nga và người Trung Quốc đã, như chúng ta vốn nghi ngờ từ lâu, ép buộc Việt Minh phải chấp nhận việc chia cắt đất nước vào năm 1954, nhưng rồi sau đó Trung Quốc lại hối tiếc, thái độ độ này đã góp phần vào sự chia rẽ Trung-Sô cũng như việc Bắc Kinh ủng hộ Bắc Việt leo thang chiến tranh với người Mỹ và Nam Việt Nam trong những năm đầu 1960.

Rằng Trung Quốc đã gửi khoảng 320 nghìn quân hậu thuẫn đến Bắc Việt trong giai đoạn 1965-68, và hơn một nghìn người trong họ đã bị thiệt mạng ở đó, và Mao đã sẵn sàng đánh nhau trực tiếp với người Mỹ vào năm 1968 nếu họ đổ bộ lên Bắc Việt.

Rằng Bắc Việt đã không tham vấn Trung Quốc khi họ bắt đầu đàm phán với người Mỹ vào năm 1968, và ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Bắc Việt đã giảm thiểu từ đấy, trong khi ảnh hưởng của Liên Sô tăng dần.

Rằng Trung Quốc đã gặp khó khăn rất lớn trong việc giải thích với Bắc Việt về chuyến thăm Bắc Kinh của Nixon vào năm 1972, rằng họ đã tìm cách bù đắp bằng cách tăng cường tiếp tế quân sự cho Hà Nội trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán ngưng bắn, và rằng - bất chấp mối giao hảo với người Mỹ - Mao vẫn mạnh mẽ hậu thuẫn việc Pol Pot và Khmer Đỏ nắm chính quyền tại Cambodia vào năm 1975.

Rằng giờ đây ta biết được cuộc Chiến Trung-Việt năm 1979 bắt nguồn từ mối rạn nứt của liên minh Trung-Việt từ cuối thập niên 1960 và đầu 1970.

Đây chỉ là vài điểm sáng tỏ có được từ tài liệu nghiên cứu mang tính mở đường này. Lần đầu tiên nó đã làm nổi bật vai trò quan trọng của Trung Quốc trong Chiến tranh Việt Nam. Trên cả mọi thứ, “Lịch sử Mới của cuộc Chiến tranh Lạnh” dựa vào việc xem xét lại những gì chúng ta từng cho rằng mình đã hiểu bằng cách truy cập các tài liệu lưu trữ của “phía bên kia”. Cuốn sách này là khuôn mẫu của những nghiên cứu thuộc dạng này. Chắc chắn nó sẽ định hình kiến thức của chúng ta đối với cuộc Chiến tranh Lạnh tại Đông nam Á trong nhiều thập niên tới.

John Lewis Gaddis
Tháng Năm 1999

GIỚI THIỆU

Quá trình thăng trầm của liên minh Trung-Việt là một trong những diễn tiến quan trọng nhất đối với lịch sử Chiến tranh Lạnh tại Châu Á nói chung và với quan hệ ngoại giao Trung Quốc nói riêng [1]. Trong một phần tư thế kỷ sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc (CHNDTQ) ra đời vào năm 1949, Bắc Kinh đã giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đấu tranh chống lại hai kẻ thù hùng mạnh là Pháp và Mỹ. Trong những năm 1950, các công thức của Trung Quốc được dùng làm khuôn mẫu cho Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) trong cuộc kháng chiến chống Pháp và trong nỗ lực tái xây dựng miền bắc. Trong những năm 1960, Bắc Kinh đã cung cấp rất nhiều viện trợ để giúp Hồ Chí Minh chống lại Hoa Kỳ. Hậu thuẫn của Trung Quốc rất quan trọng trong việc ĐLĐVN đánh thắng người Pháp vào năm 1954 cũng như trong khả năng chống trả áp lực của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Đông dương Lần 2. Vào thời điểm đoàn kết nhất giữa VNDCCH và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã xem quan hệ giữa hai bên “vừa là đồng chí vừa là anh em.” Tuy nhiên, trong đầu thập niên 1970, khi cuộc chiến tranh Việt Nam bắt đầu giảm cường độ và Trung Quốc đang sắp xếp lại các ưu tiên chiến lược của mình bằng cách cởi mở với Hoa Kỳ nhằm cân bằng mối đe doạ từ Liên Sô, mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội bắt đầu rạn nứt, với hệ quả là cuộc giao tranh trực tiếp vào năm 1979.

Nói chung, tầm quan trọng của Trung Quốc trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam đã bị bỏ qua hoặc bị đánh giá thấp trong các tài liệu của Việt Nam lẫn phương Tây.[2] Các tác giả Việt Nam thường cố ý bác bỏ vai trò của Trung Quốc để nhằm tạo ra một “lịch sử mang tính dân tộc,”[3] trong khi việc khó truy câp các tài liệu lưu trữ tại Trung Quốc đã khiến giới học giả phương Tây giảm thiểu vai trò của Bắc Kinh trong mâu thuẫn Đông Dương.[4] Không có một nghiên cứu đầy đủ nào về quan hệ giữa Trung Quốc với VNDCCH trong giai đoạn 1950-1975. Cuốn sách này cố gắng bù đắp sự thiếu hụt ấy bằng cách trích dẫn những tài liệu mới có từ Trung Quốc để trình bày một cách đầy đủ quá trình chuyển hoá trong mối quan hệ Trung Quốc-VNDCCH giữa hai cuộc chiến tranh Đông Dương, trong đó chú trọng vào những khía cạnh chiến lược, chính trị và quân sự của mối quan hệ trên.

Nghiên cứu này phân tích nguồn gốc chính sách Đông Dương của Bắc Kinh bằng cách đặt nó vào bối cảnh lịch sử, địa phương và quốc tế, nơi nó được thảo ra. Nghiên cứu này cũng điều tra các nguyên nhân dẫn đến sự thăng trầm trong quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Đặc biệt là nó trả lời một số câu hỏi quan trọng trong việc Trung Quốc dính líu đến Đông Dương. Một số vấn đề này liên quan đến bản chất những mục tiêu của Bắc Kinh đối với Việt Nam và quá trình thực hiện các chính sách của họ. Tại sao Mao lại quyết định công nhận nước VNDCCH và cung cấp cố vấn quân sự và viện trợ cho Việt Minh ngay sau khi giành được quyền lực ở Trung Quốc? Các cố vấn Trung Quốc đóng vai trò gì trong việc Hồ Chí Minh đánh thắng người Pháp? Tại sao Bắc Kinh lại tham gia vào Hội nghị Geneva năm 1954 và cổ vũ cho việc chia cắt Việt Nam? Trung Quốc đã đóng vai trò gì trong nỗ lực khôi phục miền bắc của VNDCCH sau 1954? Trung Quốc đã phản ứng ra sao với quyết định của Hà Nội trong việc vực dậy cuộc chiến tranh cách mạng tại miền nam vào năm 1959? Mao đã phản ứng ra sao khi Washington leo thang chiến tranh tại Việt Nam vào giữa thập niên 1960? Và mong muốn của Mao trong việc tái tổ chức đất nước và xã hội Trung Quốc đã ảnh hưởng đến các quyết định về Việt Nam của ông ra sao?


Bản đồ Đông Dương. Nguồn: Jacques Dalloz, Chiến tranh Đông Dương 1945-54 (Dublin: Gill & Macmillan, 1987)

Những câu hỏi sâu hơn nổi lên từ những tương tác giữa Trung Quốc với các đồng minh Sô Viết và Việt Nam. Liệu đã có sự phân chia nhiệm vụ giữa Mao và Stalin trong những năm đầu Trung Quốc can dự vào Việt Nam? Mâu thuẫn Trung-Sô đã ảnh hưởng đến chính sách của Bắc Kinh và quan hệ của nó với Hà Nội như thế nào? Trung Quốc và VNDCCH đã có những dị biệt gì trong việc phát động chiến tranh và theo đuổi hoà bình? Việc Trung Quốc chuyển hướng chiến lược đầu thập niên 1970 đã ảnh hưởng đến quan hệ với VNDCCH ra sao? Và những dị biệt văn hoá, truyền thống nghi kỵ trong lịch sử và tranh chấp khu vực đã ảnh hưởng thế nào đến mối hợp tác Trung-Việt?

Cả hai nước Lào và Cambodia tồn tại trong dưới cái bóng của các cuộc chiến tại Việt Nam, và tranh chấp tại Việt Nam thường lan sang hai quốc gia này. Nghiên cứu này cũng đề cập đến phản ứng của Bắc Kinh đối với những tiến triển tại Lào và Cambodia, đặc biệt là khi chúng có liên quan đến những sự kiện tại Việt Nam. Nó đặt phản ứng của Bắc Kinh vào bối cảnh của chính sách ngoại giao tổng thể cũng như những quan tâm đặc biệt riêng đối với Việt Nam.

Nhìn rộng hơn, chúng ta rút ra được điều gì từ chính sách ngoại giao của Mao qua việc phân tích cụ th thái độ và hành động của Trung Quốc đối với Việt Nam? Xa hơn, chúng ta rút ra được kết luận gì về việc xây dựng và quản lý đồng minh của phe Cộng sản trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh qua việc điều tra chi tiết quá trình thăng trầm của mối quan hệ Bắc Kinh-Hà Nội?

Các chương kế tiếp sẽ nhận diện những động cơ đầy phức tạp phía sau chính sách Đông Dương của Bắc Kinh. Việc cân nhắc những thực thế địa chính trị là một yếu tố trọng tâm trong tính toán của Mao. Trong suốt thập niên 1950 và hầu hết thập niên 1960, Mao đã xem Hoa Kỳ là mối đe doạ chủ yếu đối với nền an ninh và cách mạng Trung Quốc. Vì thế việc hậu thuẫn Hồ chí Minh và Pathet Lào giúp Mao thoả mãn mục đích làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ tại Đông nam Á và đẩy lùi nỗ lực kềm chế Trung Quốc của Washington. Vào cuối thập niên 1960 đầu 1970, khi Mao nhận thức mối đe doạ lớn hơn từ Liên Sô và đe doạ nhỏ hơn từ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông bắt đầu sửa đổi lại chính sách của mình và khuyến khích Bắc Việt thoả thuận một giải pháp hoà bình.

Tinh thần trách nhiệm quốc tế và nghĩa vụ phải giúp đỡ một đảng Cộng sản anh em cũng như việc đẩy mạnh cuộc cách mạng chống đế quốc tại châu Á là một yếu tố quan trọng, thường mang tính quyết định trong chính sách của Mao về Việt Nam. Những hành động của Bắc Kinh về Đông Dương thường được thúc đẩy bởi viễn kiến của Mao về vị trí của Trung Quốc trên thế giới. Khi cống hiến cả đời cho cách mạng, Mao nhắm vào việc thay đổi không chỉ nước Trung Quốc cũ mà cả trật tự thế giới cũ. Thể chế thực dân Pháp tại Đông Dương bao gồm thành phần của một trật tự thế giới bất công và sai trái mà Mao mong muốn dẹp bỏ. Trong suy nghĩ của Mao, nếu không có một thay đổi chống lại hệ thống quốc tế hiện thời, chiến thắng vừa có được của Cộng sản tại Trung Quốc sẽ không được bảo đảm, củng cố và chính danh. Trong khi trật tự quốc tế cũ đã khiến Trung Quốc phải chịu đau khổ và nhục nhã, thì việc thành lập một trật tự mới sẽ đóng góp cho sự tái sinh và thịnh vượng của Trung Quốc. Mao đặt nền an ninh và thịnh vượng trong nước ngang hàng với việc phát triển phong trào phản đế và các cuộc cách mạng vô sản trên thế giới. Một thế giới gồm các quốc gia Cộng sản cùng chí hướng sẽ là một bảo đảm tốt nhất cho chính quyền của Mao tại Trung Quốc. Mao xen lẫn các quan tâm về vấn đề an ninh với ý thức hệ trong suy nghĩ của mình. Mao và các đồng sự xem cuộc cách mạng của mình tương tự với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại các quốc gia đang phát triển và cho rằng khuôn mẫu Trung Quốc thì quan trọng đối với các phong trào ấy. Xa hơn, Mao can thiệp vào Đông Dương để tự tạo dựng hình ảnh Trung Quốc trên thế giới.

Tuy nhiên Mao không theo đuổi những mục tiêu cách mạng của mình tại Đông nam Á với cùng cường độ trong khoảng thời gian được đề cập trong cuốn sách này. Mặc dù đồng cảm với phong trào chống đế quốc thực dân trên thế giới, Mao cũng không muốn gây chiến với Hoa Kỳ. Vị lãnh tụ Trung Quốc này là một người thực tế, có đủ khả năng để chỉnh sửa chính sách khi gặp phải những khó khăn kinh tế trong nước hoặc những áp lực từ nước ngoài. Ông có khả năng vượt qua những thoái bộ chiến thuật trong nhiều lần nhưng luôn giữ vững lập trường của mình. Ví dụ như từ năm 1954 đến 1960, ông giảm bớt sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với phong trào phản kháng tại Đông Dương để Trung Quốc có thể tập trung phát triển kinh tế trong nước. Mao không ngần ngại đề xuất chiến thuật ôn hoà hoặc nhượng bộ nếu thấy thế lực phản động đang quá mạnh để phong trào cách mạng có thế tiếp tục đấu tranh. Đấy là lý do tại sao ông đã chấp nhận một chia rẽ hoà bình tại Việt nam tại Hội nghị Geneva năm 1954 và can ngăn nỗ lực thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh lúc ấy. E sợ việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam nếu chiến tranh tiếp diễn, Mao không muốn Trung Quốc dính líu đến một cuộc chiến tương tự như tại Triều Tiên, vốn sẽ làm Trung Quốc trệch hướng quá trình tái xây dựng rất cần thiết trong nước. Nỗi lo trước sự can thiệp của Mỹ cũng giải thích được quyết định của Mao trong việc đưa Lào trở lại tình trạng trung lập trong Hội nghị Geneva 1961-62. Mao ủng hộ hình thức trung lập của Lào lúc ấy không phải vì ông muốn tạo ra tình trạng trung lập vĩnh viễn ở nước này, như Liên Sô mong muốn, mà bởi vì ông muốn tạo thêm thời gian để Pathet Lào củng cố và phát triển lực lượng, tiến đến giành lấy quyền lực. Trong tính toán của Mao, nhượng bộ và ôn hoà không có nghĩa là từ bỏ; cách mạng cần phải qua từng giai đoạn. Mao hiểu rõ câu châm ngôn của Lenin “một bước lùi hai bước tiến” khi tiến hành cách mạng. Và từ kinh nghiệm của chính mình, ông kết luận rằng việc chuẩn bị cho chuyển biến cách mạng là một cuộc đua đường dài chứ không phải là cự ly ngắn.

Tính cách cá nhân là yếu tố quan trọng thứ ba trong quá trình hình thành thái độ của Bắc Kinh đối với cách mạng Việt Nam. Khi cân nhắc viện trợ cho Việt Minh, giới lãnh đạo ĐCSTQ không thể bỏ qua mối quan hệ cá nhân mật thiết và tình đoàn kết cách mạng mà họ và Hồ Chí Minh đã có được trong những năm cùng nhau chiến đấu trước đây. Có cùng những giá trị và niềm tin giống nhau, họ đã trải qua những khó khăn trở ngại tương tự nhau. Hồ đã làm bạn với những đảng viên ĐCSTQ kỳ cựu như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Hoành Nhược Phi, Bành Phái, và Lý Phú Xuân từ những năm 1920, khi ông hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp và sau đó đóng vai đại diện của Đệ Tam Quốc tế hỗ trợ phong trào công nhân và nông dân tại Quảng Đông. Trong thời kỳ nội chiến ở Trung Quốc vào những năm cuối 1940, chính quyền của Hồ đã cung cấp nơi trú ẩn cho quân đội ĐCSTQ từ miền nam Trung Quốc khi họ rút quân sang Việt Nam để tránh quân đội Quốc Dân Đảng tấn công. Qua quyết định giúp đỡ Việt Minh vào năm 1950, Mao nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trao đổi tình hữu nghị giữa hai bên.

Cuối cùng, chủ ý sử dụng cuộc đấu tranh quốc tế để phát triển lịch trình chính trị trong nước thường được đặt ở vị trí quan trọng trong các cân nhắc của Mao về Việt Nam. Việc này thể hiện rõ rệt vào năm 1962 khi Mao chỉ trích những đề xướng được xem là xét lại trong chính sách đối ngoại từ nội bộ đảng và nhấn mạnh lần nữa sự cần thiết phải chống lại chủ nghĩa đế quốc và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, bao gồm cuộc đấu tranh tại Việt Nam. Sự tái nhấn mạnh việc ủng hộ sự nghiệp phản đế trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đã tạo cho Mao một công cụ hữu hiệu để vận động hậu thuẫn từ trong nước cho quá trình “diễn tiến cách mạng” của ông, và để dẹp bỏ những chướng ngại bên trong giới lãnh đạo đảng, vốn đang bị chia rẽ bởi những thảm hoạ của chương trình Bước Đại Nhảy Vọt. Tương tự, giữa những năm 1965 và 1966 Mao đã dùng nguyên cớ cần thiết phải ủng hộ cuộc chiến tranh của Hà Nội chống lại Hoa Kỳ để phát động một chiến dịch chống đế quốc trong nước, để phục hồi tinh thần cách mạng cấp tiến và để vận động quần chúng đấu tranh chống lại những lãnh đạo “xét lại” trong đảng, những người đang muốn đi theo con đường của Liên Sô nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản tại Trung Quốc. Nói chung, chính sách Đông Dương của Bắc Kinh là kết quả của một tổng thể bao gồm thực tế địa chính trị, niềm tin ý thức hệ, tính cách cá nhân, và các hoàn cảnh chính trị.

Cuốn sách này nhấn mạnh vai trò của khía cạnh con người trong việc làm nên lịch sử. Trước hết là Mao đầy quyền lực với những ý tưởng và tầm nhìn kiến tạo cơ cấu chung cho chính sách về Việt Nam của Trung Quốc. Ông là người quyết định việc giúp đỡ Hồ Chí Minh, thương thảo với các cường quốc phương Tây, đối đầu với áp lực từ Mỹ, bác bỏ những đề nghị của Liên Sô, hoặc tăng cường quan hệ với Washington trong những thời điểm quan trọng. Kế đến là những đồng sự thân tín của Mao và những lãnh đạo thứ nhì trong đảng, bao gồm Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai, tổng bí thư đảng Đặng Tiểu Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Trần Nghị, Đại sứ La Quí Ba, các tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh, những nhân vật đã trung thành thực thi những quyết định ngoại giao và quân sự của Mao đối với Việt Nam. Những chương kế tiếp sẽ liệt kê và đánh giá cụ thể một Mao Trạch Đông đầy lôi cuốn như là một nhà cách mạng nhìn xa trông rộng, một Lưu Thiếu Kỳ cẩn trọng như một nhà tổ chức kỹ lưỡng việc tiếp tế cho Việt Minh, một Chu Ân Lai lão luyện trong vai trò của nhà ngoại giao thông minh tại các hội nghị quốc tế, một Đặng Tiểu Bình cứng rắn khi thương lượng với Bắc Việt, một Trần Nghị thẳng thắn là tiếng nói của Mao trong các vấn đề quốc tế, và Trần Canh cùng Vi Quốc Thanh dày dạn trận mạc trong vai trò cố vấn quân sự trên chiến trường Việt Nam. Họ đã đạt được chiến thắng nhưng cũng mắc phải sai lầm. Tiếng nói của họ làm nên chính sách của Trung Quốc và ứng xử của họ để lại dấu ấn sâu đậm trong mối quan hệ Trung-Việt.

Quan hệ Bắc Kinh-Hà Nội bao gồm cả đồng thuận lẫn mâu thuẫn, hợp tác và đối đầu. Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu bản chất và các động lực của mối quan hệ này và đặt nó vào trong bối cảnh lịch sử phức tạp của chính nó. Trong suốt lịch sử của mình, người Việt có một thái độ yêu/ghét đối với Trung Quốc. Một mặt, họ có truyền thống hướng về Trung Quốc để tìm kiếm khuôn mẫu và nguồn cảm hứng. Các vua chúa Việt Nam đã bắt chước và vận dụng những phương pháp và tổ chức của Trung Quốc để biến mình thành một lực lượng chính danh. Bày tỏ lòng kính nể đối với triều đình bề trên Trung Quốc là con đường duy nhất để tránh chiến tranh của người Việt, và chấp nhận những định chế văn hoá của Trung Quốc đã trở thành thói quen của giới cầm quyền Việt Nam. Mặt khác, người Việt luôn mong muốn gìn giữ độc lập cũng như truyền thống văn hoá của mình.

Trong những thập niên 1950 và 1960, Cộng sản Việt Nam phải đối diện với những kẻ thù hùng mạnh là người Pháp và người Mỹ khi tìm cách thống nhất đất nước. Hồ Chí Minh đã tích cực tìm kiếm tham vấn và vũ khí từ Trung Quốc. Nhưng thái độ nghi ngờ vẫn hề biết mất. Ví dụ Trung Quốc nghi ngờ Hà Nội muốn sát nhập Lào and Cambodia vào với mình thành một “Liên bang Đông Dương” trong khi Bắc Việt cũng dè chừng mối “quan hệ đặc biệt” với Lào khi Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Pathet Lào.

Quan hệ CHNDTQ-VNDCCH bao gồm việc hội nhập và chia sẻ quyền lợi. Hai quốc gia có cùng một triển vọng ý thức hệ và một quan tâm chung về sự can thiệp của người Mỹ vào Đông Dương, nhưng giới lãnh đạo Hà nội muốn tránh xa mối nguy hiểm của việc phải vướng vào mối quan hệ phụ thuộc với Trung Quốc. Một khi giới lãnh đạo Hà Nội và Bắc Kinh vẫn còn có các mục tiêu chung là chấm dứt sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực, những quyền lợi riêng rẻ trên sẽ nhượng bộ cho các điểm thoả thuận của hai bên. Nhưng vào năm 1968 mối quan hệ Trung-Việt đã chuyển nhanh sang chiều hướng xấu khi Washington vừa đưa ra một bước thăm dò trong việc nới lỏng cam kết với Nam Việt. Trong tình hình mới, quyền lợi chiến lược của Bắc kinh bắt đầu có sự khác biệt cơ bản so với Hà Nội. Trong khi lúc này Trung Quốc xem Hoa Kỳ như là một tiềm năng đối trọng để chống lại Liên Sô, những đồng chí Việt Nam vẫn tiếp tục xem Washington là đối thủ nguy hiểm nhất. Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam và đất nước được thống nhất, những tranh chấp song phương giữa Hà Nội và Bắc Kinh về Cambodia, về bất đồng lãnh thổ trên biển Đông và việc đối xử với người gốc Trung Quốc tại Việt Nam bắt đầu gia tăng, dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979.

Nghiên cứu này lần đầu tiên vận dụng những nguồn tài liệu do Trung Quốc công bố trong vài năm gần đây. Những tài liệu mới này được xếp vào bốn loại: nguồn hồ sơ lưu trữ, các tuyển tập tài liệu đã được xuất bản, hồi ký và nhật ký, và các tài liệu gián tiếp dựa trên các nguồn lưu trữ.

Nguồn Hồ sơ Lưu trữ

Trong khi các nhà nghiên cứu không được truy cập những tài liệu lưu trữ quan trọng như Văn khố Trung ương ĐCSTQ và Văn khố Bộ Ngoại giao tại Bắc Kinh, các văn khố địa phương của đảng tại các tỉnh thì ít nghiêm ngặt hơn và hợp tác hơn với các học giả. Trong thời gian 1995 và 1996, tôi đã có hai chuyến đi nghiên cứu đến Văn khố Chính quyền Nhân dân tỉnh Giang Tô. Kho tài liệu này bao gồm các chỉ thị do Uỷ ban Trung ương ĐCSTQ tại Bắc Kinh gửi cho các lãnh đạo tỉnh giải thích vai trò của Trung Quốc trong hàng loạt những vấn đề quốc tế bao gồm Đông Dương. Từ năm 1958 đến 1966, Văn phòng Đối ngoại ca Uỷ ban Nhà nước triệu tập các cuộc họp hàng năm về công tác đối ngoại tại Bắc Kinh, trong đó các cán bộ từ trung ương đảng và các cơ quan chính quyền như Ban Liên lạc Quốc tế ĐCSTQ, Bộ Ngoại giao và Uỷ ban người Hoa Nước ngoài báo cáo và giải thích cho các cán bộ chuyên về ngoại giao cấp tỉnh những diễn tiến mới của quan hệ ngoại giao Trung Quốc. Nhiều bài phát biểu và tài liệu nội bộ từ những hội nghị này được lưu giữ tại Văn khố tỉnh Giang Tây. Những tài liệu này trình bày quan điểm và phản ứng của lãnh đạo Trung Quốc đối với những diễn biến trên thế giới nói chung và Đông Dương nói riêng chính xác hơn so với các tường thuật từ báo chí Trung Quốc thời kỳ ấy.

Các Tuyển Tập Tài Liệu Đã Xuất Bản

Trong những năm gần đây Bắc Kinh đã xuất bản nhiều tuyển tập gồm các bản thảo, bài viết, trao đổi và phát biểu của các lãnhđạo như Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. Những bộ sách này bao gồm vô số những bức điện tín từ các lãnh đạo trên gửi đến các cố vấn Trung Quốc tại VNDCCH cũng như vô số những ghi chép từ các trao đổi giữa họ và đối tác Việt Nam. Những bộ sách quan trọng nhất cho cuộc nghiên cứu này gồm Kiến quốc Dĩ lai Mao Trạch Đông Văn cảo (Bản thảo của Mao Trạch Đông từ khi lập nước cho đến nay) gồm 18 bộ (Bắc Kinh XB 1987-98), Mao Trạch Đông Quân sự Văn tập (Tuyển tập các bài viết quân sự của Mao Trạch Đông) 6 bộ (Bắc Kinh XB 1993), Mao Trạch Đông Ngoại giao Văn tuyển (Tuyển tập các bài viết ngoại giao của Mao Trạch Đông) (Bắc Kinh XB 1994), Chu Ân Lai Niên Phả, 1949-1976 (Biên niên ký của Chu Ân Lai) 3 bộ (Bắc Kinh XB 1997), Chu Ân Lai Ngoại giao Văn tuyển (Tuyển tập các bài viết ngoại giao của Chu Ân Lai) (Bắc Kinh XB 1990), Chu Ân Lai Ngoại giao Hoạt động Đại Sự ký, 1949-1975 (Ký sự những hoạt động ngoại giao của Chu Ân Lai) (Bắc Kinh XB 1993), Lưu Thiếu Kỳ Niên Phả (Biên niên ký của Lưu Thiếu Kỳ), 2 bộ (Bắc Kinh XB 1996).

Hồi Ký Và Nhật Ký

Nhiều quan chức đảng, chỉ huy quân sự, nhà ngoại giao, thư ký và thông dịch viên về hưu đã xất bản những hồi ký và nhật ký cá nhân của mình trong thập niên vừa qua. Trong vài trường hợp, các tác giả nhờ vào những phụ tá trẻ giúp họ đối chứng tài liệu trong các văn khố. Những nhật ký và hồi ký này thường cho thấy những động cơ và tính toán ngầm đằng sau những trường hợp đơn thuần về chính sách. Không những chúng cung cấp những bằng chứng mới về những lời phát biểu của Mao vốn thường không tìm thấy ở nơi khác, mà còn là một cửa sổ quan trọng cho thấy những gì ông đã đọc. Từ đó ta có thể tự do tìm hiểu mối tương giao trong các hoạt động của Mao với những đồng sự cao cấp và thư ký của mình. Từ những câu chuyện này, ta có thể nhận hiểu được quá trình thảo chính sách cũng như quan điểm của Mao. Những nhật ký và hồ ký cá nhân có ích nhất cho cuộc nghiên cứu này bao gồm Bạc Nhất Ba, Trần Canh, Hu Zhengqing, Lý Việt Nhiên, La Quí Ba, Shi Zhe, Tong Xiaopeng, Vương Bỉnh Nam, Ngũ Tu Quyền, Hùng Hướng Huy, Zeng Sheng, và Zhang Dequn[5].

Những Bài Viết Gián Tiếp

Kể từ giữa thập niên 1980, một số lớn các tài liệu gián tiếp dựa trên các nguồn lưu trữ đã xuất hiện tại Trung Quốc. Chúng bao gồm lịch sử tổng quát về đảng, quân đội, và ngoại giao, các tiểu sử, chuyên khảo và bài viết. Tác giả của chúng đa số từ Bắc Kinh, hoặc là một tập thể các tác giả do đảng tập hợp hoặc các học giả làm việc riêng rẻ được phép truy cập các kho lưu trữ. Những tác phẩm này thường trích dẫn các tài liệu lưu trữ nổi bật. Nhưng vì những cấm đoán của đảng, họ chỉ đề cập đến các nguồn tài liệu này mà không nói rõ nơi lưu trữ chúng.

Khi tìm hiểu những nguồn tài liệu mới đã nói ở trên, tôi đã tránh không để lòng phấn chấn về việc khám phá ra chúng làm ảnh hưởng đến thái độ nghiêm khắc cũng như tính nhạy cảm của mình đối với nội dung vốn vô cùng quan trọng trong việc xem xét bất kỳ bộ phận nào của các thông tin lịch sử. Khi sử dụng các tuyển tập tài liệu đã xuất bản, tôi hoàn toàn biết rõ rằng chúng đã được giới biên tập viên của đảng lựa chọn, thường là với mục đích chính trị, và chúng có thể không phải là những tài liệu hoàn hảo. Tôi đã cố gắng làm việc một cách cẩn trọng với những bộ văn tuyển này, loại bỏ một lượng lớn những cường điệu và bí ẩn. Tôi cũng đã đối xử với các hồi ký với sự cẩn trọng tương tự, hoàn toàn nhận thức được rằng ký ức của con người thì rời rạc và có thể không đúng sự thật và hồi tưởng của các cá nhân thường là để tự đề cao mình. Mỗi khi có thể, tôi đã đối chiếu và xác nhận các câu chuyện, chỉ ra những dị biệt và mâu thuẫn. Khi làm việc với các tài liệu gián tiếp dựa trên văn bản lưu trữ, tôi nhận thức rõ rằng mình phải dựa vào sự xét đoán của các tác giả cũng như sự thiếu sót trong các nguồn tài liệu mà các tác giả ấy được phép truy cập.

Nguyên tác: China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (New Cold War History)
Tác giả: Địch Cường (Qiang Zhai)
Biên tập: John Lewis Gaddis
Nhà Xuất bản: University of North Carolina Press, Chapel Hill & London
Diên Vỹ chuyển ngữ
(Dân luận)

Bốn mươi năm – Hoàng Sa, nhớ và nghĩ - chuyện của một hạm phó


clip_image001
Chẳng phải bây giờ mà từ 1974 tôi đã đựơc nghe chuyện Biển Đông một thời sủi bọt  khi bạn tôi, Hạm phó của một tàu Hải quân VNCH, thuật lại trận tử chiến Hoàng Sa khi anh trở về từ vùng biển chết.

Ấy vậy mà đã bốn thập niên tính đến 19-1 năm nay. Bạn tôi hiện đang sống ở Úc, người hạm trưởng của anh đang ở San Jose (Mỹ). Cả hai vẫn kín tiếng, chưa một lần phát biểu hay tham gia bất cứ cuộc hội thảo nào liên quan đến trận đánh.

Không phải các anh bàng quan với thời cuộc, cũng chẳng phải  thiếu lòng tự hào khi tham dự một trận đánh để đời đã đi vào quân sử, mà hình như hai người đầu đàn của một khu trục hạm năm xưa vẫn mang niềm u uẩn của những con sói biển khi cảm thấy uất ức vì để mất Hoàng Sa cho bá quyền Trung quốc và cảm thương sâu sắc cho người đồng đội, Hạm trưởng Ngụy văn Thà (hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10) cùng 123 thủy thủ của lực lượng hải chiến VNCH đã ở lại với biển.

Cách đây mấy năm, anh có sang Mỹ chơi, trùng hợp với những ngày có hiện tượng ‘lưỡi bò’, trong tình bạn bè vừa là người ưa viết lách, tôi có gợi ý anh cho tôi một số chi tiết hoặc cảm nghĩ về cái ngày tháng giêng 19 khi bốn con tàu của Hải quân Việt nam rẽ sóng ra khơi từ bờ biển Đà nẵng theo lệnh của Tư lệnh tối cao Nguyễn Văn Thiệu bằng mọi giá tiến chiếm lại Hoàng Sa, khi bản thân anh vẫn còn là nhân chứng sống của một thiên bi hùng sử mà một thời ngưòi ta chưa đánh giá đúng mức hay lường trước được hậu quả chiến lược về chủ quyền biển đảo di hại đến nhiều thế hệ con cháu sau này.

Như biết được suy nghĩ của tôi, anh vẫn  khiêm tốn góp ý là những gì về Hoàng Sa ngày ấy thì sách, báo, chứng cứ lịch sử, cá nhân, tập thể cả trong lẫn ngoài nước đã nói nhiều, nói chung đều trung thực và khả tín. Rồi như sợ tôi mất lòng, anh từ chối khéo khi lấy một tập quán chỉ huy dù không thành văn của hải quân là khi hạm trưởng còn sống mà chưa ‘lên tiếng’ sẽ là một sự bất kính khi hạm phó hoặc những người theo tàu được phép phát ngôn.

Anh nghiêm túc thổ lộ điều anh trăn trở là cần làm nổi bật cho các thế hệ sau tinh thần bất khuất của Ngụy Văn Thà và những người con yêu của biển đã hi sinh trong trận hải chiến tuy thiếu cân bằng về tương quan lực lượng nhưng không hề khiếp nhược về mặt quyết chiến quyết tử khi đối mặt với kẻ thù cướp đảo mà âm mưu xâm lược và ý đồ thôn tính đã có một lịch sử lâu đời từ thuở Bạch Đằng giang.

Thật sự ngôn từ của anh vốn bộc trực như tính cách của người lính, không hẳn bóng bảy như  tôi viết lại, nhưng trong câu chuyện trao đổi anh vẫn tỏ ý buồn là cái chết của những người đồng đội của anh chưa được đánh giá và tri ân đúng mức. Tất nhiên huy chương nào cũng có mặt trái, chiến công nào đôi khi cũng có sự thổi phồng, nhưng một trận đánh nếu không thắng thì tất yếu nó vẫn bị đánh giá thấp và những tác nhân  xoay quanh cuộc chiến rất dễ bị lãng quên, nếu không muốn nói đôi khi còn bị  phẩm bình soi mói.

Cứ theo ý của anh, thì sự kiện Hoàng Sa năm 1974 không thể hiểu như vậy và cũng không thể xếp vào trường hợp này, mà ta phải kể đến bối cảnh của miền Nam thời ấy, một thời điểm cuộc chiến sắp tàn, một hiệp định đình chiến bó tay khi phải đối phó với người anh em nội thù miền bắc, lại hết thời hậu thuẫn của nguời bạn đồng minh bên kia đại dương,  lực bất tòng tâm vẫn phải đơn phương chống chỏi với kẻ thù xâm lược khi mà người trong nhà gà cùng một mẹ không đồng tình chia sẻ, trong cách hiểu nào đó lại án binh bất động tỏ tình quốc tế vô sản với người ‘vừa là đồng chí vừa là anh em’.

Qua câu chuyện tôi cũng thấy anh phàn nàn khi cỗ máy tuyên truyền, cùng những người lãnh đạo của chúng tôi, ngày ấy đã không mở một chiến dịch quảng bá sâu rộng ý nghĩa cuộc chiến tranh cướp đảo và ý đồ của bọn Trung Quốc, và sự hi sinh cao cả, kiên cường  của những người lính biển, mà phần nào đặt nặng những chiến công trên rừng trên đất, mải lo cho chiến dịch lấn đất dành dân sau hiệp định Paris, nên thiếu ngợi ca những người con yêu đã ở lại với biển, ghi công chiếu lệ với những người sống sót trở về  mà nay nhìn lại, dù một chế độ đã bị bức tử thì sự hi sinh của họ vẫn là ‘những người yêu nước, chết vì nước’ không thể nào là ‘ngụy’ như lời ngợi ca của nhà thơ Trần Mạnh Hảo, một người lính bên kia chiến tuyến đã công bằng đánh giá. Bài thơ mang tên, ‘Người anh hùng họ Ngụy’ (lần đầu tôi được đọc trên QC) về sau được phổ biến khá rộng rãi trên báo in, báo mạng khi sự kiện Biển Đông tháng giêng năm đó không còn là chuyện của một thời đất nước phân đôi.

Ngẫm lại, cái gì cũng có luật bù trừ, thời gian sẽ là nhân chứng đứng về phía chính nghĩa. Giờ đây từ Bắc chí Nam, từ trong nước ra hải ngoại, đều biết đến tên tuổi Ngụy Văn Thà, người anh hùng đã phát lệnh xung kích, bắn phát hỏa đạn đầu tiên, sau lần cảnh cáo tàu địch không chịu rút khỏi lãnh hải chủ nhà; hết đạn, bị thương nặng, không chịu tải thương, ở lại tàu cùng chết với đồng đội, chết theo tàu khi trúng hỏa tiễn của địch, vĩnh viễn ở lại với biển.

Nay nhìn lại Hoàng Sa từ một thời điểm 40 năm sau phát súng lệnh đầu tiên của con tàu Nhật Tảo, tác giả có ít dòng hoài niệm vinh danh những anh hùng của trận đánh Hoàng Sa, và tin rằng lịch sử sẽ đánh giá công bằng về họ như những người con yêu đã ‘ngã xuống vì Hoàng Sa thiêng liêng’ (cụm từ nhà báo Huy Đức đã dùng trên facebook khi kêu gọi tiếp tay hoàn chỉnh danh sách 74 tử sĩ mà cơ bản ông mới sưu tra được).

Nhân đây cũng có lời trân trọng việc làm khách quan mang tính nghiệp vụ cao khi được xem một tư liệu về cuộc hải chiến Hoàng Sa do Đài truyền hình tỉnh Đồng Nai công chiếu nhân dịp 39 năm sự kiện Hoàng Sa. Tư liệu này thực hiện bởi phía VNCH như một ‘nhân chứng vật thể’ mà trớ trêu thay giờ này người viết mới có dịp được xem và lượng giá.
 
Đỗ Xuân Tê
Nguồn: Blog Quê Choa

Bức ảnh phản cảm có thật được chụp tại Việt Nam?

Bức ảnh phản cảm. Ảnh: TPO
Bức ảnh phản cảm. Ảnh: TPO
Thông điệp ngắn là: Check and Balance – Hãy Kiểm chứng và Cân bằng.

Hiệu Minh blog ít khi bàn đến chuyện lộ hàng, phản cảm. Nhưng có bạn email nhờ bình về bức ảnh 1 cô gái khoảng hơn 20 tuổi, mặc váy ngắn, miệng cười rất tươi nhưng đứng tạo dáng phản cảm trên bức tượng một vị tiền nhân 1 tay cầm sách, 1 tay cầm ly trà.



Báo TPO, VNE, Dân Trí và nhiều blog, facebook… thi nhau đăng lại với comment lên án cô gái và hành động phản cảm trên.

Tôi chỉ lưu ý bạn đọc hãy nhìn kỹ bức ảnh, cái chùa có dáng vẻ Trung Quốc, Triều Tiên gì đó. Ngói ống ít khi dùng trong chùa Việt Nam, bức tượng dường như làm bằng đồng, khá công phu, tôi thấy chùa VN ít có tượng đồng để ngoài trời.

Thêm vào đó, phía bên phải ảnh có hòn đá cảnh, nhô ra một chữ nho (trung – 中 viết theo mẫu thảo? – nhờ bác nào biết tiếng Hán xem hộ ) hơi mầu xanh. Chữ mầu xanh thì người Hoa hay dùng, người Việt thiên về mầu đỏ hay vàng. Khung cảnh tịch mịch, giống với chùa Trung Quốc hay nước nào đó hơn là VN.

Thêm nữa, cô gái với áo đỏ, túi đỏ, tóc đuôi gà vắt vẻo, không giống với giới teen VN hiện nay lắm. Cái túi trông khá sang trọng, đôi ủng cũng thế, các bạn nữ thử đoán xem là hàng hiệu gì.

Tôi đi xa VN lâu nên có thể không biết hết kiểu ăn mặc các bạn trẻ VN hiện nay, và chùa VN cũng không biết nhiều.

Nhưng thông điệp của tôi là, bạn hãy cẩn thận với những bức ảnh hay thông tin trôi nổi kiểu này trên internet. Hãy kiểm chứng trước khi ném đá. Check and Balance, please.

Một ảnh hay một thông tin xác thực cần hội tụ đủ  5 chữ W (Five Ws), mà các nhà báo chuyên nghiệp cần nắm vững.
  • Who is it about? Ai, nói về ai
  • What happened? Cái gì đã xảy ra
  • When did it take place? Xảy ra khi nào
  • Where did it take place? Ở đâu
  • Why did it happen? Tại sao
Ngoài ra còn có chữ How (làm thế nào) cũng thuộc vào câu hỏi mà nhà báo cần trả lời khi viết tin. Giới blogger cần học kỹ những nguyên tắc vàng trên.

Các bạn tìm ra được cái chùa này ở VN và cô gái này là người Việt, hãy nên phản hồi. Tất nhiên, nếu là cô gái nước ngoài cũng xứng đáng nhận một rổ đá.

Chúc các bạn đón năm mới vui.
  Hiệu Minh
  (Blog Hiệu Minh) 
 

Đông Á: Rối ren nội bộ, lãnh đạo 'chinh chiến' ra ngoài

Nếu tư thế đối đầu được củng cố, sẽ xảy ra nguy cơ là trật tự của khu vực trong tương lai có thể bị phá hỏng.
Đối nội "phá" đối ngoại
Xu hướng hoạt động chính trị đối nội tác động xấu đến quan hệ hợp tác song phương, và sự thống nhất trong các mục tiêu trọng yếu của khu vực, đang trở thành mối đe dọa sự ổn định trung và dài hạn ở Đông Á.
Tại Mỹ, sự phân cực trong các hoạt động đối nội lộ rõ ảnh hưởng tiêu cực lên chính sách ngoại giao của nước này. Lề thói gây khó dễ cho các đạo luật mới và sự ùn ứ đang bủa vây chương trình Obamacare, cuộc tranh cãi về trần nợ công và những bàn cãi về ngân sách đã khiến Tổng thống Obama không thể tham dự các cuộc họp trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh APEC và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ở Indonesia và Brunei tháng 10/2013.
Và tác động rõ ràng không chỉ dừng lại đó. Sự tín nhiệm dành cho Mỹ trong vai trò lãnh đạo bị xói mòn nghiêm trọng. Sự ủng hộ của công chúng dành cho Tổng thống Obama cũng suy yếu bởi tình trạng bế tắc chính trị này.
Tại Trung Quốc, dù Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba hồi tháng 11/2013 hứa hẹn tiến hành nhiều cải cách, nhưng hiện nước này vẫn đang phải vật lộn với một loạt thách thức chính trị trong nước. Chẳng hạn: sự bất bình đẳng thu nhập tăng lên nhanh chóng, tham nhũng tràn lan, các vấn đề an toàn thực phẩm, ô nhiễm không khí và sự thiếu một cuộc cải cách cơ cấu để chuyển dịch theo hướng tăng trưởng bền vững...
Thất bại trong việc giải quyết những thách thức chính trị kể trên có nguy cơ đe dọa uy tín của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Viễn cảnh này tiềm ẩn nguy cơ: Bắc Kinh có thể bị cuốn vào vòng xoáy mạo hiểm trong chính sách đối ngoại, để đánh lạc hướng chú ý khỏi những yếu kém của bộ máy quản lý, tập trung sự phẫn nộ của công chúng vào một kẻ thù bên ngoài, nhằm đạt được sự đoàn kết trong nước.
Ở Nhật, tình hình kinh tế dường như bắt đầu khởi sắc với thành công ban đầu của học thuyết kinh tế Abe. Tuy nhiên, mặc dù hai mũi tên đầu tiên (chính sách tiền tệ mạnh tay và chi tiêu tài khóa linh hoạt) đã trúng đích, nhưng đà bắn mũi tên thứ ba của chiến lược tăng trưởng lại chưa cho thấy rõ kết quả. Đây chính là nguy cơ tiềm ẩn, bởi mũi tên này có nhiệm vụ phải tạo ra tác động lớn nhất để học thuyết kinh tế Abe có thể thành công trong dài hạn.
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Đông, xung đột, căng thẳng khu vực
Tàu chiến Trung Quốc bắn tên lửa trong một cuộc tập trận. Ảnh: AP
Mặc dù cho đến nay Thủ tướng Abe vẫn giữ lập trường tương đối thực tế, song một thất bại kinh tế vào lúc này có thể buộc ông phải thúc đẩy các chính sách dân tộc và bảo thủ, có nguy cơ làm xấu hơn nữa mối quan hệ song phương vốn đã căng thẳng với Trung Quốc và Hàn Quốc.
Ở Hàn Quốc, tòa án bảo hiến của nước này đã phán quyết nêu rõ, việc từ chối quyền đòi bồi thường của các nạn nhân Hàn Quốc vì những tổn thất trong thời kỳ Nhật chiếm đóng là hành vi vi phạm nhân quyền và hiến pháp. Mặc dù tòa án này chỉ có thẩm quyền trong nước, nhưng phán quyết trên mâu thuẫn với đường lối của chính sách đối ngoại Hàn Quốc và thỏa ước bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước năm 1965.
Với hiệp định về quyền đòi bồi thường và hợp tác kinh tế này, Nhật Bản và Hàn Quốc đã giải quyết mọi khiếu nại pháp lý giữa hai nước, và Nhật Bản cấp cho Hàn Quốc một khoản viện trợ kinh tế là 500 triệu USD. Chính vì vậy, hành động xoa dịu trong nước kia đã tấn công vào đúng cột trụ cho mối quan hệ song phương Nhật - Hàn và vô cớ đẩy căng thẳng lên cao.
Nguy cơ phá vỡ trật tự khu vực
Chủ nghĩa dân tộc đang nổi lên ở khu vực Đông Bắc Á, và sự lây lan của nó sang các hoạt động hoạch định chính sách đối ngoại trong khu vực đang gia tăng thêm thách thức cân bằng chính sách đối nội và đối ngoại.
Câu chuyện dân tộc chủ nghĩa của Trung Quốc, chú trọng đến vai trò của Đảng Cộng sản nước này trong việc khắc phục những đau thương liên quan đến quân đội Nhật trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2. Tâm lý mang quốc nhục và bài Nhật của Trung Quốc vẫn âm ỉ nơi tuyến đầu ý thức dân tộc của người Trung Quốc. Và bây giờ, với sự nổi lên như là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - đồng thời là nước có chi tiêu quốc phòng đứng hàng thứ hai, Trung Quốc bắt đầu giành lại sự tự tin dân tộc.
Trong các cuộc thảo luận nội bộ, Trung Quốc bắt đầu đặt ra những câu hỏi về tính thích đáng của đường lối đối ngoại "kiềm chế" do ông Đặng Tiểu Bình chủ trương. Một số nhà dân tộc chủ nghĩa bảo thủ dường như cũng nghiêng theo hướng vứt bỏ nguyên tắc này một khi Trung Quốc chắc chân ở vị trí đại cường quốc.
Tình thế này buộc Nhật Bản phải có những nỗ lực lớn hơn để phòng vệ trước những thay đổi đơn phương vào hiện trạng, và đưa Trung Quốc vào mối quan hệ hiện có giữa Mỹ và Nhật như một bên hữu quan có trách nhiệm trong khu vực.
Sự lạc quan với tốc độ khôi phục tuyệt vời từ đống tro tàn chiến tranh, và tái thiết đất nước ở vị thế siêu cường kinh tế của Nhật đang dần sụp đổ. Trong những thập kỷ kể từ khi bong bóng tài sản nổ tung hồi đầu thập niên 1990, tăng trưởng kinh tế của Nhật chạy theo đường nằm ngang. Chính phủ Nhật không có nổi một hành động dứt khoát nào giúp nền kinh tế hồi sinh.
Không dừng lại đó, nỗi thất vọng của người dân Nhật bị dội thêm bởi các thách thức nhân khẩu học. Người ta ngày càng hoài nghi với lập trường hòa bình của Nhật Bản sau chiến tranh, và sự nổi lên của Trung Quốc cũng như mối đe dọa từ phía Hàn Quốc dễ dàng trở thành mục tiêu được chọn để trút bỏ nỗi thất vọng. Cuộc trưng cầu dân ý gần đây cho thấy 90% người dân Nhật có cảm xúc tiêu cực với Trung Quốc và ngược lại.
Trong khi đó, với lịch sử là một đất nước nằm trên các trục giao giữa Trung Quốc, Nga và Nhật Bản, Hàn Quốc mang trong mình một ý thức vô cùng mạnh mẽ về bản sắc dân tộc. Đất nước này liên tục đạt được những tăng trưởng kinh tế ấn tượng, trở thành thành viên của khối OECD, và có một quá trình dân chủ hóa đáng kinh ngạc.
Tuy nhiên, ý thức bản sắc đó thiếu đi sự ổn định. Bằng chứng là Hàn Quốc tiếp tục tập trung vào các vấn đề lịch sử và hành động sai trái của Nhật Bản trong nửa đầu thế kỷ 20, theo cung cách có thể làm phương hại đến mối quan hệ hợp tác giữa hai bên.
Việc nuôi dưỡng những suy tính thiển cận và khắc sâu lập trường đối lập đang ngày một định hình bản sắc dân tộc của các nước Đông Bắc Á sẽ gây rắc rối lớn. Các nhà lãnh đạo cần nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy các câu chuyện dân tộc trong khuôn khổ hợp tác khu vực rộng hơn, tập trung vào hòa bình, sự thịnh vượng chung, cũng như vận mệnh liên hệ mật thiết của các nước trong khu vực.
Nếu tư thế đối đầu được củng cố, sẽ xảy ra nguy cơ là trật tự của khu vực trong tương lai có thể bị phá hỏng. Nhiệm vụ của các nhà hoạch định chính sách là phải nhận thức rõ những thay đổi trật tự khu vực trong trung hạn và dài hạn, và tập trung vào quan hệ hợp tác khu vực. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể hi vọng đến một nền hòa bình, thịnh vượng, ổn định chung ở Đông Á.
Hà Trang (theo Eastasiaforum)
Tác giả bài viết, Hitoshi Tanaka là thành viên cấp cao của Trung tâm Trao đổi Quốc tế Nhật Bản và là Chủ tịch Viện Chiến lược Quốc tế, trực thuộc Viện Nghiên cứu Nhật Bản. Trước đó ông từng là thứ trưởng ngoại giao Nhật Bản.
(VNN)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét