Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Võ Dũng, đứa con bướng bỉnh - viết về người con trai đã hi sinh của Võ Văn Kiệt

Võ Dũng, đứa con bướng bỉnh

Hôm ấy ông Võ Văn Kiệt chủ trỉ cuộc họp Thường vụ Đảng ủy Khu IX, bàn biện pháp phối hợp  giành lại thế chủ động trên chiến trường miền Tây Nam bộ. Giờ giải lao, ông đang đứng nói chuyện vui với chính ủy mặt trận, thì bác sỹ Huỳnh Hoài Nam đến bên cạnh, nói nhỏ với ông:
           - Anh Sáu ơi! Đơn vị báo thằng Dũng hy sinh rồi anh!
          
Không nghe rõ, ông  Sáu Dân kéo tay  bác sỹ Huỳnh  Hoài Nam hỏi:
           - Mầy nói gì vậy?
          
Giọng bác sỹ Huỳnh Hoài Nam nghẹn lại:
           - Dũng hy sinh rồi anh ơi!
Ông Sáu Dân bỗng thấy choáng váng, suýt ngã. Bác sỹ Huỳnh Hoài Nam vòng tay đỡ,  ông Sáu gượng đứng thẳng dậy, và ông nói:
           - Không  sao đâu!
          
Chính ủy mặt trận và những người có mặt  chết lặng khi nghe  tin Võ Dũng , con trai Bí thư Khu ủy Võ Văn Kiệt hy sinh hai ngày trước,  29-4-1972,  khi đang bò vào hàng rào dây kẽm gai trinh sát  một chốt địch ở  Sóc Trăng, mấy chị phụ nữ bật khóc.  Ông Võ Văn Kiệt vẫy tay bảo mọi người vào họp tiếp. Khuôn mặt hốc hác  đen sạm  của ông  vẫn tỏ ra cương nghị.
           
Tan cuộc họp,  ông  lầm lũi về chiếc chòi riêng, đứng một mình,  đăm đắm  nhìn những cánh rừng tràm, đước mênh mông. Ông  đứng như thế, không nhúc nhích  đến khi màn đêm buông xuống. 
           
Ông Võ Văn Kiệt lấy vợ năm 1949. Ông không lấy đảng viên theo sắp xếp của tổ chức, mả vì tình cảm chân thành giữa hai người, dù tuổi tác và hoàn cảnh chênh lệch.  Năm ấy ông  27 tuổi, là Thường vụ Tỉnh ủy ,vợ ông 17 tuổi,  con thứ sáu một gia đình từng là  địa chủ có 300 mẫu ruộng và một nhà máy xay lúa.
            
Năm 1950,  bà Kim Anh có thai đứa con đầu lòng  được bốn tháng thì ông Kiệt lên đường ra chiến khu Việt Bắc. Hơn hai năm sau ông trở về, đứa con trai đã lẫm chẫm biết đi. Bà Kim Anh tủi thân kéo con vào lòng  ôm  mặt khóc.
             
Ông Võ Văn Kiệt đặt tên con là Phan Văn Dũng, lấy họ mẹ làm tên thường gọi  là Võ Dũng.  Ở với vợ con được năm ngày, ông lại  ra đi  trong đêm khuya , khi Võ Dũng  đang ngủ say .
            
Năm 1954,  các ông Lê Duẩn,  Phan Văn Hòa (Võ Văn Kiệt) và nhiều cán bộ lãnh đạo khác không tập kết ra Bắc mà ở lại  miền Nam làm nhiệm vụ, bị chính  quyền Ngô Đình Diệm  truy quét gắt gao,  phải lánh sang Campuchia, đóng vai thương nhân ở thủ đô Phnom Pênh.  Năm 1955, ông Võ Văn Kiệt  đón vợ và hai con - Hiếu, Dân sinh 1953- qua bên đó. Đó là  lần đầu tiên, cũng là  duy nhất,  gia đình ông  được đoàn tụ.
             
Nhưng trên  đất  khách quê người, và với một nhà hoạt động chính trị bí mật,  cuộc sum họp  của gia đình ông bấp bênh đầy căng thẳng hồi hộp, và cũng chỉ được  ngắn ngủi ít ngày rồi lại chia ly. Theo quyết định của trên, ông Võ Văn Kiệt gửi cậu con trai Võ Dũng ra miền Bắc, đưa vợ và cô con gái về quê ngoại , còn mình  về Sài Gòn làm Bí thư Thành ủy.
            
Võ Dũng năm ấy mười tuổi bé loắt choắt, nhưng nhanh nhẹn, khuôn mặt và dáng đi giống hệt ông Võ Văn Kiệt.  Sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước Nam bộ phóng khoáng, không được gần ba, nên còn nhỏ Võ Dũng đã  có tính tự lập vẻ tỏ ra  hào hiệp.  Võ Dũng tự gói quần áo, đồ dùng vào bồng,  tự rút từng chiếc quai dép cho vừa chân, và chia cho mấy người bạn cùng đi từ cục xà bông đến bịch ruốc bông má mua cho mình.
             
Trước lúc tiễn con trai ra Bắc, tiễn con gái và vợ quay về quê, ông Võ Văn Kiệt muốn chụp một tấm hình kỷ niệm. Ông đưa vợ con đến một hiệu ảnh ở đường Monivong , thủ đô Phnom Pênh.  Người thợ ảnh chuẩn bị bấm máy, thì ông xin lỗi tách ra , không chụp chung  với vợ con nữa. Cuộc chiến đấu một mất một còn đang tiếp diễn , chính quyền Ngô Đình Diệm đang truy  lùng mình ráo riết, hậu quả sẽ ra sao ?   Ý nghĩ ấy chợt đến khiến ông Võ Văn Kiệt bỏ lỡ  cơ hội duy nhất  có một tấm hình kỷ niệm với vợ con, để rồi sau này, ông  mang trong lòng niềm ân hận, nuối tiếc.
             
Mẹ con bà  Kim Anh  trở về Rạch Gíá ở vơi ông bà ngoại, biền biệt mấy năm không được tin chồng. Nhớ ngày ở Campuchia  có quen các ông Huỳnh Tấn Phát, Trần Bửu Kiếm,  bà Kim Anh  mang con lên Sài gòn vừa kiếm kế sanh nhai vừa dò la tin chồng.
             
Đường ra trận
Dù là một  địa chủ nhưng ruộng đất đã hiến cho cách mạng gần hết, nhà máy xay thì phá hủy  theo tinh thần tiêu thổ kháng chiến , nên gia đình bà Kim Anh đã khánh kiệt. Bà lên Sài Gón với chút vốn liếng chỉ đủ góp cùng người anh trai mua một căn nhà nhỏ vách ván, lợp lá dừa nước , bên ao rau muống trong con hẻm Đội Có đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Hàng ngày bà xay bột làm bành tai yến mang ra chợ Tân Định bán kiềm tiền nuôi con.
              
Bấy giờ ông Kiệt ở căn cứ Hố Bò, Củ Chi. Chỉ một quãng  đường mà vợ chồng như cách xa vời vợi muôn trùng. Mãi đến năm 1961, ông mới móc nối được vợ con, và  bà Kim Anh cùng Hiếu Dân được giao liên đưa lên Hố Bò.
              
Năm 1962, bà Kim Anh sinh  con gái thứ ba,đặt tên là Ánh Hồng. Cô bé xinh xắn vừa lẫm chẫm biết đi thì phải   quay về thành, vì Củ Chi liên tiếp bị càn quét quá ác liệt. Về thành  một thời gian, còn cảm thấy  nguy hiểm hơn, mẹ con bà Kim Anh lại bồng bế nhau  lên cứ.
              
Năm 1965, Mỹ trực tiếp đưa quân vào miền Nam, cuộc chiến tranh ác liệt hơn. Ông Võ Văn Kiệt quyết định gửi tiếp cô con gái Hiếu Dân ra Bắc. Bà Kim Anh tiễn con ra trạm giao liên, trên đường về ghé vào  bệnh viện khám , biết mình đã có thai đứa con thứ tư.
              
Bà Kim  Anh nhớ ba lần sanh nở  đều vắng chồng , vừa cực, vừa tủi,  có lần phải đẻ nhờ   trong nhà ông thợ may bên bở kinh, cắt nhau cho con bằng kéo cắt vải. Bây giờ  đang có bầu, lại về quê , cảnh nhà như thế biết nhờ ai ? Suy nghĩ kỹ, bà  Kim Anh quyết định  giữ Hiếu Dân lại không cho ra Bắc nữa. Năm ấy Hiếu Dân đã mười tuổi, là một cô bé nhanh nhẹn đảm đang .  Bà Kim Anh  lật đật  quay lại trạm giao liên, nhưng Hiếu Dân đã lên đường mất rồi. Bà đành lặng lẽ rời Hố Bò,  bồng đứa con ba tuổi quay về Rạch Gíá nương nhờ cha mẹ. Cuối năm ấy Chí Tâm ra đời, cũng một mình bà xoay trở như ba đứa trước.
              
Ông Võ Văn Kiệt được tin nhắn về,  bảo vợ con  vào cứ. Gia đình khuyên bà Kim Anh không nên đi vì cháu Chí Tâm còn quá nhỏ, nhưng bà nóng lòng gặp chồng nên không ai cản nồi.
             
Cơ quan cử bà Ba Kiếm, một cán bộ giao liên về đón mẹ con bà Kim Anh.
              
Rời Rạch Gía sáng sớm  ngày rằm tháng Chạp , chỉ còn nửa tháng nữa là tết Bính Ngọ,1966. Lòng vòng cắt đuôi đeo bám của mật vụ, mật thám, đến sáng 17 tháng Chạp xuống con tàu Thuận Phong ở Bến Cát , xuôi sông Sài Gòn về  Củ Chi.
             
Cách vài cây số là tới Bến Dược. Bỗng một tốp  máy bay trực thăng của Mỹ  bay tới quần đảo,  rồi  bắn Rocket  vào con tàu đang  chở mấy trăm khách, trong đó có cả người Việt cộng lẫn Quốc gia,  nhiều nhất là thường dân. Chiếc tàu bốc cháy , đắm giữa dòng sông Sài Gòn chảy xiết. Hơn  hai trăm người thiệt mạng  trong đó có bà Kim Anh, vợ ông Võ Văn Kiệt và hai đứa  con ông,  Ánh Hồng lên ba,  Chí Tâm chưa đầy ba tháng tuổi.
             
Hai ngày sau,  đang ở Nhà Bè, ông Võ Văn Kiệt mới biết tin vợ con mình chết, không tìm được xác.  Ông đứng lặng  trong nhà một cơ sở bí mật. Từ  đó  ông  luôn  giữ bên  mình tấm hình vợ con và bộ quần áo bà ba lụa , bà Kim Anh may  gửi lên cho ông trước khi mất không lâu.
              
Liệt sĩ Võ Dũng
Hai anh em Võ Dũng, Hiếu Dân  nhận được tin má và hai em chết cách đó mấy tháng.  Hiếu Dân khóc, còn Võ Dũng, y hệt như tính cách ông Võ Văn Kiệt , cắn môi chảy máu mà không khóc.
            
Năm ấy Võ Dũng 16 tuổi,  đang học lớp 6 phổ thông, học khá nhưng điểm  trung bình về  hạnh kiểm.
            
Từ ngày ra Bắc , Võ Dũng sống chung  trong gia đình bà Bảy Huệ , vợ ông Nguyễn Văn Linh.  Hiếu Dân ra cũng ở đó với anh trai.
              
Lúc còn bé Võ Dũng đã có tính tự lập,và cương trực , thằng thắn, mang đậm khí chất dân Nam bộ.  Phải xa ba má , sống trong một hoàn cảnh đặc biệt, hoàn toàn khác với môi trường mình sinh ra , có khi  phải chịu cảnh bất công , Dũng  phản kháng như bản năng.  Dũng không thể nín nhịn khi con người ta sai lại đổ lỗi cho mình.  Dũng không  thích bị sai khiến, không khép nép để được người lớn khen ngoan. Ngược lại Dũng thích sòng phẳng , thích bao bọc bạn bè và bênh vực những người yếu thế. Ai nói oan cho mình và bạn mình Dũng cãi lại liền bất kể   người đó là ai.  Đứa nào bắt nạt em gái hay bạn bè Dũng tẩn lại liền ,dù bản thân bị  toét đầu đổ máu và bị ghi hạnh kiểm xấu .
            
Có lần Hồ Chủ tịch cho các cháu miền Nam vào phủ chủ tịch chơi, lúc chia kẹo, ông  hỏi các cháu có ngoan không? Tất cả trả lời “ Thưa Bác  Ngoan ạ!” Riêng Võ Dũng thẳng thắn trả lời “ Cháu không ngoan!” Trở về người phụ trách hỏi tại sao em trả lời như vậy? Dũng trả lời “ Em  không thích nói dối!”
             
Từ khi nghe tin mẹ và em mất, Võ Dũng càng cô đơn, càng buồn hơn, và Dũng thường tỏ ra bức xúc trước lối sống ích kỷ của một số người chung quanh. Và thế là những  nhận xét thiếu vô tư, nhiều ác cảm  từ miệng   người nọ người kia, biến Võ Dũng thành một thanh niên hư hỏng, đến nỗi  người bạn gái nói lời từ biệt Dũng. Buồn chán và thất vong, Dũng đã lấy phẩm xanh viết lên cánh tay mình : “Tôi là đứa con bất hạnh!”
            
Những tin không vui về Võ Dũng đến tai ông Võ Văn Kiệt. Ông viết thư cho con trai: “Từ khi má con mất ba buồn lắm. Ba lại nghe các chú nói con hư, ba càng buồn. Thôi con hãy về đây với ba, để ba dìu dắt con trưởng thành, để con sưởi ấm lòng ba!”.
              
Nhân được thư ba, Võ Dũng bỏ học dở dang lớp 9, vào bộ đội, và lên thẳng Hòa Bình huấn luyện đi B. Hết khóa huấn luyện, một cán bộ  trong Ủy ban Thống nhất Trung ương lúc đó, lên đơn vị  nói với Võ Dũng:
             - Các chú bố trí cho cháu đi máy bay sang Phnom Pênh, từ đó sẽ có giao liên đón cháu về chỗ ba cháu!
            
Dũng hỏi:
            - Thế mọi người trong đơn vị đi bằng phương tiện gì?
           
- Đơn vị hành quân bộ vượt Trường Sơn ba, bốn tháng mới tới, sốt rét, bom đan gian khổ lắm.
              
Dũng nói:
             - Các chú các bác là cán bộ phài đi bộ, cháu là lính binh nhì lại đi máy bay?  Đã  vào Nam chiến đấu thì phải vượt Trường Sơn như mọi người, cháu không thích được ưu tiên như vậy.
              
Võ Dũng kiên quyết từ chối đi bằng máy bay, hòa mình vào cùng với  các chiến sỹ khác trong đơn vị,  Chi đội một, đi B2 bằng đường bộ. Dũng kết bạn thân với nhà thơ Thanh Quế , chia ngọt sẻ bùi với nhau trên đường hành quân. Anh Thanh Quế kể rằng, suốt chặng đường Trường Sơn, hai người luôn gắn bó bên nhau, nhưng Dũng không hề nói cho Thanh Quế biết ba mình đang làm cán bộ lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam. Khi Thanh Quế rẽ vào Khu V, Võ Dũng moi ba lô lấy tút thuốc Tam Đảo bao bạc để dành tặng Thanh Quế và hẹn gặp lại nhau ngày chiến thắng .
               
Võ Dũng vào cơ quan  Trung ương cục gặp ông Võ Văn Kiệt  một buổi chiều hanh hao cuối mùa khô. Ông Võ Văn Kiệt ôm con rất lâu, nhưng không ai khóc, và ông Kiệt không nhắc lại những điều người ta nói về con trai.
              
Ông Võ Văn Kiệt muốn bố trí công tác cho Võ Dũng ở cơ quan , nhưng Võ Dũng dứt khoát đòi ra trận. Ông Kiệt nhờ bác sỹ Nam thuyết phục Dũng , Dũng nói :
             - Em về Nam để chiến đấu trả thù cho mà và em em, đâu phải về đào hầm cho ông già em núp!
             
Bác sỹ Huỳnh Hoài Nam nói:
             - Ở cứ bảo vệ lãnh đạo cũng là nhiệm  vụ chiến đấu !
              
Dũng ngắt lời:
             - Em không muốn chiến đấu trong  xó rừng! Ba em kêu gọi mọi người ra trân địa , mà lại để con mình ở cứ ?
             
Không thuyết phục được Võ Dũng, bác sỹ Huỳnh Hoài Nam nói với ông Võ Văn Kiệt:
               - Thằng Dũng bướng lắm anh Sáu. Nó dứt khoát vào trinh sát. Em đầu hàng anh ơi!
              
Ông Võ Văn Kiệt nói:
               - Thôi kệ nó!
           
Võ Dũng vào đại đội trinh sát bộ binh, xông xáo chiến đấu hết trận này trận khác, coi thường nguy hiểm. Ông Lê Đức Anh nghe tin, ra quyết định điều Võ Dũng sang đơn vị pháo binh. Quyết định chưa kịp trao, thì  Võ Dũng hy sinh.
            
Hơn bốn chục năm rồi, kể từ buổi chiều ấy. Chiến tranh đã lùi xa 38 năm. Ông Võ Văn Kiệt mất cũng đã trên 5 năm, ông không còn cần bất cứ thứ vàng son nào tô điểm thêm lên tên tuổi ông. Tôi, một người lính, một nhà báo già, không còn tham vọng và cũng không thể nịnh nọt một người đã chết để kiến chác danh lợi.
            
Bằng tài liệu của bản thân và bạn bè, tôi chỉ muốn kể lại một câu chuyện thực về một thời đầy bi đã qua và muốn cùng các bạn suy nghĩ đôi điều: Võ Dũng , sẽ trở thành một một học sinh hạnh kiểm cực tốt nếu  biết dạ vâng, khép nép cúi đầu làm theo những cô, bác anh chị trông coi mình. Và dù Võ Dũng không ngoan như vậy, ông Võ Văn Kiệt vẫn có thừa quyền lực và mối quan hệ đề đưa con sang Liên Xô, Đông Đức, hayTiệp để thanh nhàn, thậm chí chỉ ăn chơi, vui thú ‘xứ người’ mà vẫn có một tấm bằng đỏ đại học sau này ấm thân. Nhưng Võ Dũng đã sống với bản chất, nghị lực của mình, không thớ lợ, không dựa dẫm, và ông Võ Văn Kiệt sẵn sàng chấp “tính bướng bình” đáng khâm phục ấy của con mình. Hình như tính cách ấy, phẩm chất ngày xưa cũng không nhiều, bây giờ thì...không có.
Minh Diện
(Blog Bùi Văn Bồng)

Trần Độ, xóa ác thay cực thiện

Tướng trần Độ
(Sắp đến 9/8 ngày giỗ tướng Trần Độ)
Trong tâm hồn sâu thẳm của  chúng ta dù đi đâu, ở đâu, ai cũng có cội nguồn, ít nhiều đều có kỷ niệm và biểu lộ tình yêu quê hương theo cảm nhận, góc nhìn của mình.
 Quê hương
Năm 2012, lần đầu tiên tôi gặp nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo tại nhà họa sĩ Nguyễn Quốc Việt ở Thái Bình, tác giả của nhạc phẩm “khúc hát sông quê” nổi tiếng.
Thời kháng chiến, nhà thơ  Giang Nam có bài thơ nổi tiếng với những câu thơ giản dị mà sâu sắc, thấm đẫm lòng người khi nói đến quê hương:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có  những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”
Yêu quê hương, trước hết là hiểu lịch sử và văn hóa quê hương, đặc biệt các nhân vật đã đi vào huyền thoại của đất nước. Trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S thân thương của chúng ta, Thái Bình quê hương tôi không có núi, nhưng có ngọn núi nào cao hơn “ngọn núi”- nhà bác học Lê Quý Đôn?
Người dân Thái Bình  vẫn  luôn tưởng nhớ đến những người con “lớn” của quê hương như Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Văn Thái, Trần Độ, Vũ Ngọc Nhạ vv… Nhân  kỷ niệm ngày mất của Trung tướng Trần Độ sắp đến (9/8) xin có đôi lời về vị văn tài võ tướng chịu nhiều oan khuất kể cả khi đã về cõi vĩnh hằng.
Trong một lần về thăm quê hương, tôi được nhà văn Võ Bá Cường tác giả cuốn sách “Chuyện tướng Trần Độ” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân 2007), kể cho nghe những gian nan vất vả khi đi tìm sự thật. Dù được sự ủng hộ của các vị lão thành cách mạng như Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu vv… nhưng tác giả vẫn phải biết cách “lách”, không bình luận để đưa được cuốn sách ra mắt bạn đọc.
Trần Độ tên thật là Tạ Ngọc Phách sinh ra ở xóm Bát Điếu, làng Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải (do Doanh điền Nguyễn Công Trứ khai khẩn từ 1828). Trần Độ tham gia cách mạng từ thuở thanh niên, trải nghiệm, thử thách giữ vững khí tiết của người dân yêu nước qua các nhà tù tàn khốc từ Thái Bình, đến Sơn La.
Ông là một vị  tướng nổi tiếng, tài kiêm văn võ, có nhiều công lao đi cùng dân tộc trong suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Ông là ủy viên Trung ương Đảng nhiều khóa, là Phó Chủ tịch Quốc hội.
Nhà văn Ma Văn Kháng nhận xét Trần Độ là người nhạy cảm với thời cuộc, tha thiết với yêu cầu “đổi mới” của Đảng để đưa đất nước tiến lên. Với văn nghệ, ông là người chủ trương định hướng rộng. Tiếc thay, ông sa vào cái mạng lưới “hạn chế” của thời cuộc, rơi vào tình thế lao lung hiểm nguy và cuối cùng bị xử trí oan ức.
Và may thay Võ Bá Cường với tư cách nhà văn, đã tự nguyện dấn thân kiên trì và dũng cảm làm công việc giải oan cho ông bằng việc sưu tầm tư liệu,  gặp gỡ các nhân chứng còn sống ở khắp miền đất nước, xuất bản sách để dư luận hiểu rõ về phẩm chất cao đẹp, sáng ngời chính nghĩa của ông, không phải là người chống Đảng mà chỉ chống sự… ô nhiễm trong Đảng.
Bản lĩnh Trần Độ
Danh tướng ở nước ta có nhiều, nhưng là tướng tài, ‘văn –võ song toàn’ như tướng Trần Độ rất hiếm.
Ông được người đời mến mộ bởi ‘tâm sáng, chí cao, bản lĩnh phi thường, lập trường kiên định’. Ở mặt trận xông xáo tác chiến, thắng giặc rồi vẫn bền chí trung kiên, sẵn sàng bút chiến.  Những  gì mà có hại đến uy tín của Đảng, có hại cho dân, bất lợi cho nước đều không nằm ngoài tầm kiểm soát và trăn trở của ông. Sự thẳng thắn, cương trực của ông đã làm cho những vị  quan chức quyền uy, thích vuốt ve, khoái nịnh bợ khó chịu, thậm chí hằn học.
Tuy ông đã đi xa, nhưng  người dân đều thấy những điều ông nói, suy cảm, những đề xuất ích nước lợi dân  nay vẫn còn mang đậm tính thời sự, và giá trị hiện thực. Tâm hồn, bản lĩnh, ý chí của ông như còn tươi nguyên.
Ở cương vị thay mặt Đảng, lãnh đạo văn hóa, văn nghệ, ông có ý thức "cởi trói".  Ông nhận thức rằng văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp. Cần phải biết trọng dụng các tài năng, thuyết phục các tài năng do cá tính độc lập, và tài năng sáng tạo, họ không phải là những kẻ dễ chịu ngoan ngoãn, phục tùng.
Về vấn đề Đảng lãnh đạo, Trần Độ phát biểu: "Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hoá, ruỗng nát, tắc tỵ không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể Đảng nữa. Nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng".
Ông kêu gọi:  "Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử, ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ "hiệp thương" mà thực chất là gò ép".
Ngay từ năm 1973, sau khi đi tham quan ở Cộng hòa Dân chủ Đức và trải nghiệm thực tế của bản thân, Trung tướng Trần Độ viết bức thư tâm huyết yêu cầu đổi mới (13 trang) gửi các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước: Lê Duẩn, Trường Chinh và Lê Đức Thọ.
Nội dung chủ yếu, ông kiến nghị đưa ra khỏi Đảng những nhân vật lười biếng, mất phẩm chất, chỉ biết nói về Nghị quyết của Đảng như con vẹt, không có năng lực nhưng chiếm chỗ quan trọng, là đầu mối gây bất hòa trong Đảng. Ông kiến nghị cần tổ chức để đưa nông dân ra đồng làm việc một cách tự giác, để phát triển nông nghiệp. Đưa thanh niên học sinh đi học ở nước ngoài (không phải chỉ làm thuê) để có kiến thức về phục vụ xây dựng phát triển đất nước vv…
Trần Độ có 04 câu thơ giãi bày tâm sự thật ngao ngán (và được một số tài liệu đăng lại khác nhau):
 Bản 1
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ác xóa đi, thay bằng cực thiện
Tháng ngày biến hoá, ác luân hồi.
  
  
Bản 2
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.
Chính vì các quan điểm nêu trên, ông bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tiếng vỗ tay trong một đám tang
Để tưởng nhớ công lao to lớn của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đối với sự phát triển kinh tế xã hội vùng tứ giác Long Xuyên, lãnh đạo và nhân dân địa phương quyết định đổi tên kênh Tuần Thống- T5 thành kênh Võ Văn Kiệt.
Ở đầu kênh có tấm bia đá hoa cương khắc bài văn bia do Anh Nguyễn Minh Nhị (nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh) chấp bút.  Khi được giao nhiệm vụ này, Anh Bẩy hiểu rõ “khôn văn tế, dại văn bia ” nên đã lao tâm, khổ tứ, vắt óc chắt lọc từng con chữ từ trái tim thành kính, ngưỡng mộ vị Thủ tướng của nhân dân, để lại áng văn sâu sắc đi vào lòng người.
Ngược lại với văn bia kể trên là “văn tế” trong đám tang của Trung tướng Trần Độ.
Bài điếu văn của Trưởng ban tang lễ do ông Vũ Mão vừa mới đọc xong, đã bị con trai Trung tướng Trần Độ là Đại tá Trần Thắng đáp từ, phản đối không chấp nhận trong… tiếng vỗ tay đồng tình của những người đi viếng. Sự kiện hy hữu này, đã làm ông Vũ Mão mang tiếng để đời.  Còn Đại tá Trần Thắng bị kỷ luật trong quân đội!?
Dù vậy, hẳn Trung tướng Trần Độ ngậm cười nơi chín suối? Và Đại tá Trần Thắng không hề ân hận, thậm chí bình thản khi chấp nhận kỷ luật đó? Ông đã làm, chí ít bổn phận đạo hiếu làm con, là bênh vực lẽ phải cho cha mình!
Năm năm sau ngày mất của tướng Trần Độ, ngày 1/8/2007 tại hội trường Ba Đình, ông Vũ Mão viết bức thư “Nghị sỹ đóng vai nghệ sỹ bất đắc dĩ”, thanh minh, dù không đồng tình nhưng vẫn phải chấp nhận phân công của tổ chức, đọc bài điếu văn “lại phải đọc cả thiếu sót khuyết điểm của người quá cố”.
Ông biết, đó là điều tối kỵ chưa ai làm thế bao giờ nhưng vẫn phải làm (?)
Nghĩa tử là nghĩa tận. Đạo hiếu người Việt không bao giờ cho phép lương tâm người sống “nói xấu” người đã khuất, khi mà người đó thực ra đã dám sống trung thực với tổ chức của mình. Trần Độ không phải người đầu tiên. Ông chỉ là “hậu bối” của các bậc tiền nhân tiên liệt nước Việt như Chu Văn An…
Tiếng “vỗ tay” trong tang lễ là bài học đắt giá cho các vị chính khách chỉ biết nhìn vào “cái ghế” của mình nhân danh “ý thức tổ chức”, không dám hiểu thấu đáo công bằng của sự thật và tình nhân ái của con người.
Lời sám hối muộn màng nhưng có còn hơn không!
Mảnh đất Thái Bình còn nhân vật rất nổi tiếng khác đó là ông Nguyễn Hữu Đang. Ông được Hồ Chí Minh tin tưởng giao cho nhiệm vụ chỉ huy xây dựng lễ đài để Người thay mặt toàn dân tộc đọc bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ ngày 2/9/1945 tại Ba Đình lịch sử.
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Nguyễn Hữu Đang tin tưởng, cống hiến  đi theo Đảng nhưng éo le thay đã phải trả bằng cái giá quá đắt! Ông bị xử lý oan trái trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, bị giam cầm 15 năm ở T75 (Hà Giang), muốn đến nơi ông ở phải đi qua các vùng đất đầy khắc nghiệt:
“  Muỗi Pắc Xum, hùm làng Đán
Dốc cán Tỷ,  phỉ Đồng Văn”
May thay, tuy muộn nhưng ông được lãnh đạo Đảng và Nhà nước nhận ra sai  lầm, đã sửa sai, phục hồi, cấp nhà và thẻ cử tri.  Ngay lúc cuối đời , ông vẫn làm việc nghĩa, đã bán căn nhà được cấp ở Hà Nội để lấy tiền xây trường học cho trẻ em ở quê hương Thái Bình.
Những gì của Caesar trước sau cũng sẽ phải được trả cho Caesar
Đánh giá về Trung tướng Trần Độ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng viết (ngày 12/7/2006), nguyên văn như sau:
“Trần Độ là một thanh niên yêu nước, sớm giác ngộ và tham gia đấu tranh cách mạng, trở thành người cộng sản kiên cường. Vào quân đội, Trần Độ là cán bộ trẻ thuộc lớp cán bộ Trung đoàn, Đại đòan, Quân khu đầu tiên, trở thành vị tướng có đức có tài, đã có nhiều công lao trong  hai cuôc kháng chiến vĩ đại chống đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trong thời kỳ đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Trần Độ có nhiều suy tư trăn trở về con đường phát triển tiến lên của đất nước, về xây dựng Đảng, sống liêm khiết trung thực, luôn đoàn kết với đồng bào, đồng chí, đấu tranh chống  biểu hiện tiêu cực tham nhũng, quan liêu mất dân chủ.
Trong tìm tòi nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Trần Độ manh dạn nêu ý kiến suy nghĩ cá nhân nhưng có lúc chưa tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc. Trung tướng Trần Độ là một con người yêu nước và cách mạng, suốt đời chiến đấu cho lý tưởng của Đảng, vì độc lập của dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Chúng ta mãi mãi thương tiếc Trung tướng Trần Độ”.
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (viết ngày 2/5/2007):
“Tôi biết nhiều về anh Trần Độ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả anh và tôi cùng ở Trung ương Cục miền Nam. Năm 1941 anh bị thực dân Pháp bắt kết án 15 năm tù đầy đi Sơn La. Năm 1944, anh vượt ngục về công tác ở Ban tuyên truyền Trung ương.
Anh Trần Độ cống hiến gần hết cuộc đời mình cho dân, cho nước suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trực tiếp chiến đấu và chỉ huy ở chiến trường trên cương vị Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam-Phó bí thư Quân ủy Miền (thời kỳ chống Mỹ). Đánh giá con người nói chung, sự cống hiến, một chặng đường dài trong đấu tranh cách mạng, ít ai không có vấp váp sai phạm ở mức độ khác nhau. Đó cũng là lẽ bình thường trong một chặng đường và cả cuộc đời.
 Đảng ta không chủ trương lấy công thay cho lỗi lầm, ngược lại cũng không vì lỗi lầm mà phủ định hết giá trị của sự cống hiến. Vấn đề ở đây phải hết sức công bằng, có sức thuyết phục cao.
Hơn nữa, chúng  ta cần xem xét thuộc quan điểm, chủ trương như trước đổi mới và đổi mới ban đầu và ở những chặng sau này. Có những cái ta cho là đúng trước đây, khi đổi mới và càng về sau càng thấy là nó sai hoặc trước đây là sai nghiệm trọng nhưng khi đổi mới lại là đúng như trường hợp đồng chí Kim Ngọc (Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú).
Ngay cả đổi mới lúc đầu với mức hiện nay cũng có nhiều mức khác biệt, ngay cả trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Lịch sử sẽ phán xét công minh nhưng trước tiên mỗi một cá nhân  cũng phải sòng phẳng với lịch sử. Với tinh thần ấy, tôi tin việc xuất bản cuốn sách “Tướng Trần Độ” là việc làm kịp thời và rất có ý nghĩa”.
Thay cho lời kết
Xin mượn câu đối của tiến sĩ  Hà Sĩ Phu tặng Trung tướng Trần Độ  để thay cho kết luận của bài viết này:
“Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm.
Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm.”
Tô Văn Trường

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét