Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Bài đáng chú ý: Liệu sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị ở Việt Nam?

Liệu sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị ở Việt Nam?

Bài tham luận "Liệu sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị ở Việt Nam?" của Tiến Sĩ Kinh tế Phạm Chí Dũng, một cây bút thường xuyên của RFA, dưới đây được đọc trong Cuộc hội thảo Hè năm 2013 tại Singapore với chủ đề "Cải cách ở Việt Nam đang đi về đâu?" trong hai ngày Thứ Hai 12 và Thứ Ba 13 tháng 8 2013..
Nhóm nhân sĩ trí thức khởi xướng kiến nghị 72 và dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 RFA files
Những người cùng thời
Cùng với bối cảnh suy thoái kinh tế trầm kha và nhiều tiền đề cho khủng hoảng xã hội ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay, vấn đề chủ quyền biển đảo và những đòi hỏi về dân chủ, nhân quyền đang được những người trong phong trào dân chủ ở Việt Nam áp sát hơn hẳn so với những năm trước.
Một sự kiện chưa từng có trong lịch sử thể chế đương đại là vào đầu năm 2013, một nhóm nhân sĩ, trí thức mang tinh thần phản biện yêu nước, còn gọi là nhóm “Kiến nghị 72”, đã nêu ra các khuyến nghị và khuyến cáo đối với đảng và chính quyền về các quyền lập hội, biểu tình, trưng cầu dân ý và cả về sự thay đổi phải có của điều 4 trong hiến pháp.
Hoạt động không chỉ mang tính lời nói như thế đang phản ánh bầu tâm tư rất nặng lòng của không chỉ công dân đối với chế độ, mà còn là tình cảm mong muốn một sự thay đổi tốt đẹp hơn, hoặc ít ra cũng đỡ xấu hơn, xuất phát từ chính những cán bộ lão thành, đảng viên và cả một bộ phận công chức, viên chức đương nhiệm.
Như một quy luật, phản biện không thể thiếu đất sống ở những nơi mà mầm non bị vùi dập. Xuất phát chỉ với một hành trang hạn hẹp, nhưng đến đầu năm 2012, cùng với hành động nổi dậy của người nông dân Đoàn Văn Vươn, giới blogger lề dân đã tạo cho mình được một tài sản đáng giá là truyền thông xã hội. Trong suốt năm 2012, bất chấp nhiều áp lực chính trị, một số blogger vẫn làm được những việc có ích cho xã hội, đặc biệt hỗ trợ quyền lợi chính đáng của dân oan đòi đất và dấy lên không khí về chủ quyền biển đảo. Cho đến đầu năm 2013, sau chuyến đi Roma của người đứng đầu đảng Nguyễn Phú Trọng, điều có vẻ ngẫu nhiên là một số cơ quan quản lý nhà nước về thông tin và cả một số lãnh đạo cao cấp của đảng đã phải thừa nhận thế đứng của giới truyền thông xã hội, về độ thông tin nhanh nhạy mà hoàn toàn có thể cạnh tranh và còn vượt hơn cả báo chí nhà nước.
Như một quy luật, phản biện không thể thiếu đất sống ở những nơi mà mầm non bị vùi dập. Xuất phát chỉ với một hành trang hạn hẹp, nhưng đến đầu năm 2012, cùng với hành động nổi dậy của người nông dân Đoàn Văn Vươn, giới blogger lề dân đã tạo cho mình được một tài sản đáng giá là truyền thông xã hội
Với những gì mà giới truyền thông xã hội đã gây ấn tượng và tích tụ cho đến ngày hôm nay, đó là cái gì, nếu không phải là một tiền đề đầu tiên và cực kỳ quan trọng cho một mẫu hình nào đó cho xã hội dân sự trong tương lai ở Việt Nam?
Sự tự do tương đối cho tới nay của giới truyền thông xã hội đã tạo nên một chân đứng đầu tiên về thông tin cho xã hội dân sự ở Việt Nam. Quan trọng hơn, chân đứng này còn đang được nối kết ngày càng mật thiết với giới truyền thông quốc tế. Nhiều vấn đề về an ninh biển Đông, an sinh xã hội, mâu thuẫn và xung đột mang tính xã hội, những chủ đề chính trị như sửa đổi hiến pháp và điều 4 độc đảng, dân chủ và nhân quyền, tự do tôn giáo… đã được nhiều báo nước ngoài trích dẫn và bình luận từ tin tức của giới truyền thông xã hội trong nước.
Ba giai đoạn trong trung hạn
Một cách thông thường và diễn ra theo kịch bản trì trệ mà không xảy ra một biến động đủ mạnh và đủ lớn ứng với một cuộc suy thoái nặng nề hoặc khủng hoảng kinh tế, nền chính trị vẫn kéo dài sự tồn tại của nó, còn những nguyện vọng đòi hỏi dân chủ hơn của các nhóm phản biện xã hội vẫn chỉ có thể đạt được một tầm mức không đủ cao. Sự phản ánh chân thực của báo chí nhà nước cũng vì thế sẽ chưa thể hiện được đúng với khả năng còn tiền ẩn và bầu tâm huyết của nó.
Nhưng nếu nền kinh tế bị sói mòn trầm trọng và kéo theo những biến động xã hội đủ mạnh, đó lại là điều kiện và sự gieo mầm cho các ý tưởng và hành động phản biện. Mức độ thăng trầm của xã hội và chính trị càng lớn, quy luật tất yếu là phản biện sẽ càng gia tăng sức ép của nó đối với thể chế.
Cũng có một quy luật chính trị - xã hội khác: trong bối cảnh nội bộ thể chế không thuận hòa và phát sinh nhiều mâu thuẫn - có thể là mâu thuẫn giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm lợi ích, nhóm thân hữu với nhau, đó là một điều kiện quan trọng để hoạt động phản biện phát triển, không chỉ bằng hoạt động thông tin và bình luận trên mạng, mà còn có thể hình thành những tổ chức sinh hoạt công khai theo đường lối ôn hòa. Nhóm “Kiến nghị 72” với nhiều nhân sĩ, trí thức đầu đàn là một minh chứng và một phương pháp luận như thế.
Hiện thời và trong thời gian tới, một lực lượng trí thức có tính độc lập, hay nói khác hơn là mang tính trung lập, có thể là cần thiết, với mục đích tạo nên một độ mở dân chủ nào đó cho khuôn mặt của chế độ, cũng là nhân tố có thể mang lại thiện cảm với các tổ chức và quốc gia trên thế giới
Trong cách nhìn của một bộ phận lãnh đạo đảng và chính quyền, hiện thời và trong thời gian tới, một lực lượng trí thức có tính độc lập, hay nói khác hơn là mang tính trung lập, có thể là cần thiết, với mục đích tạo nên một độ mở dân chủ nào đó cho khuôn mặt của chế độ, cũng là nhân tố có thể mang lại thiện cảm với các tổ chức và quốc gia trên thế giới quan tâm đến vấn đề dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự ở Việt Nam.
Phản biện xã hội và phong trào phản biện của giới nhân sĩ, trí thức cũng có thể tương tác và tương ứng với những ưu thế mới trong tình hình mới. Và đó cũng là một điều kiện nữa để hoạt động phản biện có thể tiến xa hơn một bước: hình thành các nhóm công khai với sinh hoạt theo phương châm ôn hòa, bất bạo động.
Nếu cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra vào những năm 2016-2017, thời gian từ nay đến đó sẽ có thể được xem là quãng đường trung hạn trong 3-4 năm. Quãng đường đó có thể phải trải qua 3 giai đoạn:
1/ Giai đoạn thứ nhất: giải quyết những vấn đề gay cấn trong nội bộ và tạm kết thúc với thế cục chính trị nghiêng hẳn về một quan điểm và một nhóm chính khách nào đó. Trong giai đoạn này, nền kinh tế tạm phục hồi, chưa lộ ra những xung đột khủng hoảng và những phản ứng xã hội mang tính đối kháng. Hoạt động phản biện xã hội cũng có điều kiện để phát triển về lượng và chất, về mối liên kết chiều rộng và cả chiều sâu. Giai đoạn này có thể kéo dài từ giữa năm 2013 đến giữa năm 2015.
2/ Giai đoạn thứ hai: hành xử mang tính “hồi tố” của chính thể và nhóm chính khách chiếm ưu thế đối với những tiếng nói và hành động bị xem là đối lập, đối kháng và đi quá xa. Phong trao phản biện tạm lắng. Giai đoạn này có thể trùng với một cuộc suy thoái kép hoặc khủng hoảng kinh tế nổ ra trên thế giới, bắt nguồn từ Trung Quốc. Kinh tế Việt Nam cũng chìm sâu vào vòng xoáy khủng hoảng và bùng nổ nhiều xung đột về kinh tế và xã hội. Giai đoạn này có thể diễn ra từ giữa năm 2015 đến giữa hoặc cuối năm 2017.
3/ Giai đoạn thứ ba: khi tất cả cùng cộng hưởng ở một điểm: kinh tế, xã hội và cả chính trị mất kiểm soát, không phải bởi các lực lượng phản biện của trí thức, mà do phản ứng sống còn của chính người dân trước làn sóng suy thoái kinh tế kinh niên hoặc khủng hoảng kinh tế, tước đoạt những nỗ lực tồn tại cuối cùng của đời sống dân sinh. Khủng hoảng kinh tế càng trầm trọng, tính chất và quy mô phản ứng xã hội càng ghê gớm, có thể dẫn đến một sự thay đổi về chân đứng, thậm chí về bản chất nền chính trị của chế độ. Đây là giai đoạn mà phong trào phản biện xã hội mang tính ôn hòa sẽ thăng hoa. Giai đoạn này sẽ diễn ra nhanh chóng hơn hai giai đoạn trước, có thể vào nửa cuối năm 2017 và kéo sang năm 2018.
Dù không có nhiều kỳ vọng từ kết quả của cuộc gặp Obama – Sang, nhưng tình thế đã có một chuyển biến nhỏ và có thể hy vọng sẽ dẫn tới những chuyển biến lớn hơn. Nhà nước VN sau một thời gian dài im lặng, đang dần chấp nhận quan điểm phản biện về nhân quyền và dân chủ của người Mỹ và các tổ chức quốc tế
Giai đoạn thứ ba lại khiến xã hội Việt Nam sẽ phải trải qua một giai đoạn hệ quả tiếp nối, từ năm 2017-2018 trở đi, với quá trình ma sát thô và tương tác giữa các lực lượng chính trị cũ và mới, trước khi tiến tới một sự ổn định mới về chính trị và xã hội, phục hồi kinh tế. Giai đoạn tiếp theo này rất khó xác định về thời gian diễn biến, nhưng ít nhất phải mất 4-5 năm.
Với mỗi giai đoạn trên, xã hội dân sự ở Việt Nam đều có thể đạt được những bước tiến triển mong muốn, nếu những người thực hiện nó đủ chuyên cần, đoàn kết và sáng tạo.
Phản biện xã hội những năm tháng cận cảnh
Ngay trước mắt, điều mà đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam gọi là “cơ hội lịch sử” cho chuyến đi của ông Trương Tấn Sang đến Washington vào tháng 7/2013 cũng lại là một cơ hội khác cho hoạt động phản biện độc lập ở Việt Nam.
Dù không có nhiều kỳ vọng từ kết quả của cuộc gặp Obama – Sang, nhưng tình thế đã có một chuyển biến nhỏ và có thể hy vọng sẽ dẫn tới những chuyển biến lớn hơn. Nhà nước Việt Nam sau một thời gian dài im lặng, đang dần chấp nhận quan điểm phản biện về nhân quyền và dân chủ của người Mỹ và các tổ chức quốc tế, nhưng tất nhiên có tính điều kiện.
Nhưng cùng với những điều kiện song hành giữa kinh tế, chính trị và cả quân sự, trong vài năm tới lối mở cho dân chủ, nhân quyền và không khí phản biện ở Việt Nam sẽ rộng đường hơn. Phản biện và những hoạt động có tính tổ chức của nó sẽ có thể được công khai hóa trong một chừng mực và phạm vi nào đó.
Ngay từ bây giờ, đang rất cần đến một sự kết nối có tính thành tâm, hữu dụng và bài bản giữa các nhóm trí thức kiều bào Việt Nam ở nước ngoài với trí thức trong nước, không chỉ dừng ở tính chất đơn lẻ, mà nhằm xây dựng một phong trào phản biện chặt chẽ và có chiều sâu, với hàng loạt chủ đề thiết thân như:
- Bảo vệ chủ quyền biển đảo, hạn chế sự phụ thuộc của nền kinh tế và chính trị Việt Nam vào Trung Quốc.
- Phản biện chống tham nhũng và các nhóm lợi ích, nhóm thân hữu.
- Bảo vệ quyền lợi của nông dân trước hành vi trưng thu đất đai bất hợp pháp và vô lối.
- Phản biện đối với chủ đề sở hữu trong Luật đất đai và cơ chế thu hồi đất đối với các dự án kinh tế - xã hội.
- Bảo vệ quyền lợi của công nhân và thị dân về điều kiện làm việc và an sinh xã hội.
- Đấu tranh chống tác động tiêu cực của một số doanh nghiệp đối với môi trường tự nhiên.
Loạn lạc là đường cùng của nhân dân, và đường cùng của dân chúng lại rất thường là đường cùng của chế độ. Đó cũng là một bài học nhãn tiền cho những chính khách đương thời và những nhà quản lý xã hội trong tương lai
- Phản biện đối với một số vấn đề kinh tế gay gắt như nợ công quốc gia; nợ và nợ xấu; tính độc quyền của kinh tế quốc doanh và một số tập đoàn; ngân hàng; các thị trường đầu cơ như vàng, bất động sản; những ngành có liên quan mật thiết đến người tiêu dùng như điện, xăng dầu, nước…
- Thúc đẩy Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình, Luật lập hội, Luật trưng cầu dân ý.
- Thúc đẩy tiếng nói của trí thức độc lập tại Quốc hội.
- Thúc đẩy tính hợp hiến và hợp pháp hóa của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo.
- Phản biện đối với các điều luật chính trị hóa hành vi phản phản biện như điều 79, 87, 88, 258 trong Bộ luật hình sự.
- Phản biện đối với điều kiện giam giữ phạm nhân trong các trại giam.
- Hỗ trợ tinh thần và vật chất cho các gia đình có người bị giam giữ, liên quan đến yếu tố chính trị.
- Phản biện với chính những tiếng nói phản biện thiếu tinh thần xây dựng và đoàn kết.
Tương lai từ xã hội dân sự
Loạn lạc là đường cùng của nhân dân, và đường cùng của dân chúng lại rất thường là đường cùng của chế độ. Đó cũng là một bài học nhãn tiền cho những chính khách đương thời và những nhà quản lý xã hội trong tương lai.
Một trong những giải pháp tốt đẹp nhất cho xã hội Việt Nam trong tương lai chỉ có thể đến từ xã hội dân sự.
Song song với các mục tiêu ngắn hạn, những nhóm nhân sĩ và trí thức trong nước và ngoài nước cần phối hợp tiến hành nghiên cứu một đề án về xã hội dân sự Việt Nam trong tương lai, cho 15-20 năm tới, nhưng những tiền đề của mô hình xã hội dân sự ấy có thể được ứng dụng ngay trong 4-5 năm tới, nếu các điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội cho phép.
Việc kêu gọi các tổ chức quốc tế về nhân quyền và dân chủ hỗ trợ cho đề án về xã hội dân sự là rất cần thiết.
Cuộc hành trình của phản biện xã hội và xã hội dân sự ở Việt Nam trong ít nhất 20 năm tới không chỉ là một sự thay đổi về tương quan kinh tế - chính trị, mà còn là một cuộc cách mạng về văn hóa và dân trí cho các tầng lớp nhân dân.
Thay đổi của xã hội cũng là hệ quả cho phản biện và cơ hội cho dân chủ. Phong trào phản biện dân chủ và những điều kiện cho một xã hội dân sự ở Việt Nam đang nằm trong xu thế và lộ trình trung hạn có thể trong giai đoạn 2013-2017, và nếu được tổ chức tốt, phong trào này có thể góp sức cho xã hội về những triển vọng lạc quan trong tương lai dài hạn của dân tộc.
Xã hội dân sự có thể làm cái điều mà một chính thể hiện thời không làm được: phục hồi và nâng cấp chất liệu văn hóa và nhân cách cho cả một dân tộc.
TS Phạm Chí Dũng gửi RFA
2013-08-11
 

Những bước tiến mới của xã hội dân sự Việt Nam

Đại diện Mạng lưới bloggers Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho bà Elenore Kanter, phó Đại sứ Thụy Điển.
Việc cải cách kinh tế theo hướng tự do cùng sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho xã hội dân sự Việt nam phát triển.

Nhóm 258

Phản ứng dân sự mới nhất của người dân đối với nhà cầm quyền Việt Nam là một nhóm năm bloggers đến Văn phòng của Hội đồng nhân quyền Liên Hiêp Quốc tại Bangkok trao kiến nghị yêu cầu chính phủ Việt Nam do đảng cộng sản lãnh đạo xóa bỏ điều 258 trong bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nội dung của điều luật này là:

"Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân."

Nhóm năm blogger này đại diện cho hơn 100 người ký tên trong một kiến nghị (gọi tắt là kiến nghị 258) yêu cầu hủy bỏ điều luật được cho là không rõ ràng, dễ tạo điều kiện cho cơ quan công quyền lạm dụng quyền lực, bắt giữ người trái phép.

Bình luận về việc này, ông Lê Hiếu Đằng thành viên Mặt Trận Tổ quốc, tổ chức ngọai vi của đảng cộng sản cho là,

“Đó là một điều luật phi dân chủ mù mờ nên bỏ đi. Hiện nay, khi mà xã hội công dân ngày càng phát triển thì người ta càng có các họat động đòi hỏi dân chủ nhiều hơn.”

Xã hội dân sự hình thành

Từ Xã hội công dân mà ông Đằng dùng cũng chính là một tên khác của xã hội dân sự, nơi các họat động dân sự độc lập với chính quyền diễn ra tự do. Kể từ năm 1986, các họat động có tính cách dân sự độc lập với sự lãnh đạo của đảng cộng sản đã xuất hịên và gia tăng ở Việt Nam đồng hành với sự chấp nhận kinh tế thị trường tự do.


Cũng hôm 7 tháng 8, 2013 tại Hà Nội đại diện Mạng lưới bloggers Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho bà Elenore Kanter, phó Đại sứ Thụy Điển.

Chính những họat động kinh tế tự do đã tạo điều kiện cho các họat động phi kinh tế độc lập với sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dù rằng Hiến pháp vẫn ghi rằng đảng lãnh đạo mọi thứ, và luật về các hiệp hội dân sự vẫn chưa ra đời. Có thể kể các họat động ấy trong rất nhiều lãnh vực khác nhau, từ việc quyên góp cứu trợ bão lụt đến đấu tranh đòi sửa đổi Hiến pháp, từ tập hợp biểu tình chống Trung quốc xâm lược đến tổ chức Hội thảo về di sản tinh thần của cụ Phan Chu Trinh, từ việc lên tiếng trên báo chí về các vụ ô nhiễm môi trường ở công ty Vedan đến việc thành lập các trường đại học tư thục.

Những họat động dân sự ấy đã đi từ rời rạc đến có tổ chức hơn. Cách đây vài năm, từ sự phản đối dự án bauxite tại Tây Nguyên, một web site mang tên bauxiteVietnam đã hình thành như một tổ chức thường xuyên đưa ra các ý kiến phản biện, phê bình mang tính xây dựng cho các chính sách của chính phủ Việt Nam. Sự phản đối việc cưỡng đọat đất đai của các nhà thờ công giáo đã thúc đẩy sự đòan kết hơn giữa các giáo phận ở hai miền Nam Bắc ít nhiều bị chia cắt trong cuộc chiến Việt Nam. Và trong thời gian chưa đầy một năm qua, với sự giúp đỡ của Internet và mạng xã hội, hàng lọat nhóm với các họat động dân sự đã ra đời: Nhóm các trí thức nhân sĩ yêu cầu sửa đổi Hiến pháp mang tên nhóm kiến nghị 72, Nhóm dã ngọai vì nhân quyền, Nhóm Công lý cho Đòan văn Vươn, Nhóm công dân tự do đòi viết lại Hiến pháp, và Nhóm mới nhất là Kiến nghị 258 như đã trình bày ở phần mở đầu. Bên cạnh đó là sự nở rộ của các trang thông tin cá nhân độc lập với bộ máy truyền thông của đảng cộng sản như Dân Làm Báo, Ba Sàm, Bauxite Việt Nam…

Đảng cộng sản lo ngại

Nhà nước do đảng cộng sản lãnh đạo đã cố gắng duy trì sự lãnh đạo của mình trong các họat động dân sự ấy. Các trường đại học tư thục vẫn phải duy trì chương trình dạy chủ nghĩa Mác Lê Nin, cốt lõi ý thức hệ của đảng cộng sản. Việc bổ nhiệm các chức sắc của giáo hội công giáo vẫn là đề tài thường xuyên gây ra tranh cãi giữa giáo hội và nhà nước. Nhà nước đã tổ chức một chiến dịch rầm rộ chống lại kiến nghị 72 đòi sửa đổi Hiến pháp. Có ý kiến cũng cho rằng hiện đang có chiến dịch tấn công vào luận văn của nhà thơ Nhã Thuyên, dù luận văn này đã được trình cách đây ba năm, là nhằm vào giới Đại học có những tư tưởng và họat động ngày càng xa rời sự kiểm sóat của đảng cộng sản.

Có khi không kiểm sóat được nữa thì đảng cộng sản tìm cách dẹp tan các tổ chức ấy. Các nhà báo trong Câu lạc bộ nhà báo tự do bị cầm tù. Viện nghiên cứu phát triển của một số nhân sĩ trí thức đã phải giải tán theo sau một quyết định của Thủ tướng. Các trang thông tin cá nhân thường xuyên bị ngăn cản truy cập. Và mới đây nhất là nghị định 72 ra đời nhằm vô hiệu hóa các trang thông tin điện tử cá nhân, hay nói một cách khác là để đặt họ ra ngòai vòng pháp luật của đảng cộng sản.

Vượt qua sự sợ hãi của công dân để tiến tới xã hội dân sự

Sau 27 năm cải cách kinh tế, với các họat động dân sự như hiện nay, cùng phản ứng vẫn gay gắt của đảng cầm quyền, cũng khó có một kết luận về hiện trạng của xã hội công dân hiện tại, cùng viễn cảnh phát triển của nó trong quá trình dân chủ hóa Việt Nam. Điều chắc chắn là với một nền tảng quân chủ chuyên chế của xã hội cổ truyền, cộng với mấy mươi năm cai trị chặt chẽ của đảng cộng sản với hệ thống chi bộ của họ len lỏi đến từng thôn ấp, người dân phải thóat ra khỏi thói quen vâng lời nhà cầm quyền một cách tự động, thóat ra khỏi sự sợ hãi cả ngàn năm, để ngõ hầu phát triển những hành vi dân sự. Việc ấy không dễ dàng.

Một blogger trong nhóm 258 là Thảo Chi sau khi về nước từ Bangkok đã bị giữ lại ở sân bay Tân Sơn Nhất khỏang 30 phút, ở đó có nhân viên an ninh mặc thường phục đòi xem sổ tay của chị và chị đã khước từ. Khi được chúng tôi hỏi về những quan ngại trong thời gian sắp tới, chị nói:

“Em không lo sợ gì cả vì mình làm mọi chuyện một cách công khai.”

Trong khái niệm xã hội công dân đang phổ biến trên thế giới, có bao hàm ý nghĩa của một sự tham gia vào điều hành xã hội thông qua những tiến trình hòa bình. Khi được chúng tôi hỏi quan điểm về sự việc hình thành nhóm 258, một nhà lập pháp Việt Nam là ông Dương Trung Quốc đã trả lời chúng tôi qua email, trong đó có đọan nói về các điều luật như sau,

Riêng việc giải thích luật là điều dễ gây khác biệt và xung đột trong nhận thức.

Sự hình thành xã hội công dân với nhiều ý kiến và quyền lợi khác biệt, tham gia một cách hòa bình vào việc điều hành xã hội chính là điều tốt để giải quyết những xung đột ấy, tạo nên một Việt nam mạnh mẽ hơn. Đảng cộng sản nên chấp nhận điều đó, tạo điều kiện để xã hội công dân phát triển, và chính đảng cộng sản trở thành một thành viên của xã hội dân sự, đúng với điều quy định về Mặt trận tổ quốc, trong đó đảng cộng sản là một thành viên chứ không phải bao trùm lên tất cả.

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-08-11 

Tại sao THỤY ĐIỄN đóng cửa Tòa Đại Sứ tại Hà Nội

(Vũ Kiều Trinh, Trưởng phòng Văn hóa của Ban Thời sự- Đài Truyền hình VN)

Dưới đây là một trong nhiều phản hồi (comments) sau bài viết của Ông Đại Sứ Thụy Điển tại Hà Nội, trước khi Ông rời khỏi VN vì Tòa Đại Sứ Vương Quốc Thụy Điển đóng cửa.
Thân gởi các bạn Việt Nam trên diễn đàn này!
Đọc tin này tôi buồn ghê. Một nỗi buồn mang tên Thụy Điển ở VN
Nhưng phải nhìn rõ vấn đề tìm nguyên nhân của nó. Vì sao vậy?
Thứ nhất là tại người Vn của chúng ta
Những chương trình trợ giúp của SIDA, các học bổng về du học các chuyến huấn luyện về báo chí sẽ khó khăn
Chương trình nhân đạo cao đẹp của Thụy Điển đã bị VN lợi dụng một cách tồi tệ
Chỉ có con ông cháu cha mới được đến Thụy Điển và tòan là đem rắc rối cho họ
Tôi không nói chuyện các khóa học của SIDA, nhưng nói chuyện các phóng viên Vn qua đây du học
Tôi biết đa số các phóng viên của báo Đại Đòan kết qua đây tu nghiệp. Tôi biết từng người.
Nhưng sự kiện chấn động là năm 2001 bà Vũ Kiều Trinh, Biên tập viên của VTV qua Thụy Điển tu nghiệp 3 tuần. bà Vũ Kiều Trinh hiện nay xuất hiện trên VTV rất nhiều, là con gái ông tổng Giám đốc VTV Vũ Văn Hiến. Năm 2001, bà Vũ Kiều Trinh, lợi dụng chuyến đi tu nghiệp này ăn cắp rất nhiều đồ trong siêu thị tại Kalmar centrum. Bị cảnh sát bắt giam hơn 1tuần lễ. Sau đó nhờ đường ngọai giao can thiệp bà Vũ Kiều Trinh và đòan nhà báo VN về nước nhưng hình ảnh các phóng viên Vn trong cái nhìn các phóng viên các nước khác là kẻ gian tham và trôm cắp. Năm 2006, được đi tu nghiệp tại Anh, bà Vũ Kiều Trinh cũng ăn cắp 1 lần nữa.
Hình ảnh những lao động VN tại Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Hải Dương…( các tỉnh miền bắc) qua Đông Âu trước sư kiện bức tường Berlin sụp đỗ. Họ chạy trốn qua Thụy Điển và hành nghề…trộm cướp. Phải nói là người miền Bắc trốn ở đây chỉ đi ăn cắp mà thôi
Khi qua đây họ tìm cách giúp người thân uqa bằng con đường hôn nhân giả dối. kéo cả dòng họ qua bên này đi…ăn cướp
Từ lâu Thụy Điển hạn chế visa du lịch từ VN.
Ngày nay bận cầm hộ chiếu VN mà nhập cảnh vào 4 nước Bắc Âu bạn sẽ cảm nhận được vì sao người ta ” cảnh giác” với người Việt đến thế.Vì những người này đây, những người VN qua đây sinh sống bằng nghề trộm cắp và trốn ở lại không về nước.Con của Giám đốc VTV mà còn đi ăn cắp thì dân thường càng nhiều hơn
Quốc thể đã bị người ta làm nhục cách trơ trẽn
Cái hộ chiếu Việt Nam bị người ta khinh khi vì những tội phạm của người Việt nam trên xứ người. Đức Cha Kiệt nói câu nói đó rất chính xác
Sẽ là rất nhục nhã khi thấy hình ảnh tội phạm VN trên xe bus, ngay cửa siêu thị, chỗ công cộng. Họ dán hình và không ghi tên là bà Vũ Kiều Trinh, hay Hiền mã lỵ ( dân hải phòng chuyên ăn cắp hàng siêu thị ở Getoborg) mà chỉ ghi là VIETNAMESE
Tôi mang ơn những người Thụy Điển, nhưng tôi lấy visa không phải ở VN . Lẽ ra tôi nên tri ân những nhân viên ngọai giao của Thụy Điển ở một quốc gia khác chứ không phải ở VN
Tôi đi nhiều nước, nhưng tôi thấy người Thụy Điển đẹp và rất tốt bụng. Quê hương của các giải Nobel thật tuyệt vời.
Theo Đỗ Vũ

 

Không có ‘bảo bối’ nào cho ông Trần Xuân Giá!

Cùng với các thành viên khác trong Hội đồng Quản trị, ông Trần Xuân Giá – nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng ACB cũng bị Cơ quan điều tra đề nghị truy tố.
Còn nhớ tại thời điểm trước khi bị bắt, ông Trần Xuân Giá từng lên tiếng khẳng định ông có một “bảo bối” có thể giúp ông tự vệ và rằng, “bảo bối” đó chính là đứa con tinh thần mà ông thai nghén lên, ông hiểu nó hơn ai hết nên cái gì được làm, không được làm, chẳng ai rõ bằng ông. “Bảo bối” mà ông Giá nhắc tới chính là Luật Doanh nghiệp – một trong những Luật quan trong bậc nhất, quy định hoạt động của hầu hết các lĩnh vực kinh tế.
Trước khi về làm việc tại ACB, ông Trần Xuân Giá từng Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và được biết đến là người có đóng góp rất lớn trong việc xây dựng Luật Doanh nghiệp. Chính vì vậy, nếu nói ông Giá quá tự tin khi tuyên bố về cái gọi là “bảo bối” có thể giúp ông tự vệ thì chắc chẳng ai tin nhưng đó là cách để ông hướng sự chú ý của dư luận xã hội theo một chiều hướng khác thay vì tập trung vào những sai phạm của ông này mà thôi.
“Vùng tự do” bên ngoài khuân khổ pháp luật mà ông từng nhắc tới cũng chẳng tồn tại. Pháp luật rất nghiêm minh và mọi hành vi phạm pháp đều phải bị trừng trị. Và không có bất kỳ ngoại lệ nào cho ông Trần Xuân Giá.
Theo Cơ quan Cảnh sát điều tra, ông Trần Xuân Giá chính là người đã ký biên bản cuộc họp Thường trực Hội đồng Quản trị ACB về việc dùng tiền huy động của dân uỷ thác cho nhân viên ACB và công ty gửi tiền VND, USD vào các tổ chức tín dụng để hưởng lãi suất chênh lệch tiền gửi.
Số tiền được xác định lên tới hơn 130 ngàn tỉ đồng với lãi suất từ 8,5%/năm đến 27%/năm và hơn 81 triệu USD với lãi suất từ 3,0% đến 6% vào 29 ngân hàng. Tổng số tiền lãi thu về từ hoạt động này lên tới 6.279 tỉ đồng và 1,89 triệu USD, trong đó lãi suất chênh lệch vượt trần là 258 tỉ đồng. Đáng chú ý, trong số tiền được mang đi cho vay có 719 tỉ đồng trong vụ Huỳnh Thị Huyền Như.
Việc làm này được Cơ quan Cảnh sát điều tra xác định là đã vi phạm Điều 13 và Điều 106 Luật các tỏ chức tín dụng, gây rối loạn thị trường tiền tệ, gây hậu quả đặt biệt lớn trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ và thu lợi bất chính cho các cổ đông ngân hàng ACB.
Ngoài ra, với vai trò là Chủ tịch Hội đồng Quản trị ACB, ông Giá còn đồng ý với chủ trương “bơm” tiền cho ACBS (công ty chứng khoán 100% vốn của ACB) để đầu tư vào chính cổ phiếu ACB thông qua các công ty của Nguyễn Đức Kiên. Hoạt động này đã gây thiệt hại cho ACB số tiền là 688 tỉ đồng. Hành vi này của ông Giá đã vi phạm Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng và Điều 29 của Quyết định 27/2007/QĐ-BTC.
Nhưng hành vi sai phạm trên cũng đã được ông Trần Xuân Giá xác nhận trong phần lời khai trước Cơ quan Cảnh sát điều tra. Và theo kết luận điều tra thì ông Giá đã thừa nhận có tham gia họp và ký biên bản ra chủ trương cho nhân viên ngân hàng ACB, các công ty gửi tiền VND, USD vào các tổ chức tín dụng và cấp tín dụng cho Công ty TNHH Chứng khoán ACB để đầu tư vào cổ phiếu của chính ACB.
Với những hành vi trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra kết luận: Hành vi của Trần Xuân Giá đã đủ yếu tố cấu thành tội Có ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hâu quả nghiêm trọng, quy định tại Điều 16 Bộ luật hình sự với vài trò đồng phạm giúp sức.
Từng là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư, ông Giá đã tin vào bảo bối của mình là “Luật Doanh nghiệp”: Ông được làm những điều pháp luật không cấm chứ không chỉ làm những thứ quy định trong luật.
Nhưng cuối cùng thì bảo bối mà ông từng nói đã không thể bảo vệ được ông.
Nhóm phóng viên PetroTimes

Mánh khóe thao túng các ngân hàng của ‘bầu’ Kiên

Phát hành trái phiếu cho các ngân hàng với tài sản đảm bảo là cổ phiếu nắm giữ tại các ngân hàng, rồi dùng chính số tiền đó đi đầu tư vào các công ty và mua cổ phiếu của chính các ngân hàng đó là cách Nguyễn Đức Kiên tạo ảnh hưởng lên các tổ chức tín dụng.
Được nhắc tới như là nguy cơ gây rủi ro, bất ổn đối với hệ thống tài chính ngân hàng nhưng “thao túng ngân hàng” mới gần như chỉ là khái niệm được phác hoạ trên lý thuyết và chỉ khi các sai phạm của Nguyễn Đức Kiên được làm rõ, “thao túng ngân hàng” mới được nhận diện.
Khoảng 2 năm trở lại đây, câu chuyện sở hữu chéo và đặc biệt là hành vi thao túng ngân hàng, lũng đoạn thị trường được nhắc tới khá nhiều. Thậm chí, theo cách nói của giới chuyên gia thì hiện tượng này chính là “quả bom” nổ chậm đe doạ sự ổn định tài chính của mọi nền kinh tế. Và nếu hiện tượng này không được dẹp bỏ, dòng tiền trong xã hội sẽ chỉ là dòng tiền ảo, được thổi phồng lên bởi các nhóm lợi ích thông qua việc mua đi – bán lại cổ phiếu của các ngân hàng.
Cũng trong 2 năm qua, mối lo ngại xoay quanh các hợp đồng uỷ thác đầu tư cho các công ty đầu tư tài chính (thực chất nhiều công ty do chính ông chủ hoặc các cổ đông của ngân hàng lập lên và rót vốn đầu tư vào) đã được nhắc tới như là thứ vũ khi đi thâu tóm các tổ chức tín dụng khác. Có một nghi vấn cũng đã từng được nhiều người nhắc tới là việc ngân hàng bơm tiền cho công ty tài chính để công ty tài chính mua cổ phiếu của chính ngân hàng đó…
Hay như chuyện ngân hàng bơm tiền cho một công ty nào đó và rồi công ty này đi mua cổ phiếu của ngân hàng khác và rồi dùng số cổ phiếu đó đi thế chấp ở một ngân hàng khác nữa lấy tiền. Số tiền này tiếp tục được công ty này mang đi mua bán cổ phiếu… và như vậy, từ 100 đồng tiền ban đầu, sau quá trình chạy lòng vòng qua các ngân hàng, tổ chức tín dụng thông qua các hợp đồng mua bán cổ phiếu đã được nhân bản lên thành 200, 300… đồng. Dòng tiền ảo là như thế!
Trở lại thời điểm Nguyễn Đức Kiên bị bắt (ngày 21/8/2012), với những thông tin ban đầu được Cơ quan Cảnh sát điều tra đưa ra, hiện tượng sở hữu chéo, thao túng ngân hàng đã được phát giác. Và thực tế, sau gần 1 năm tiến hành điều tra, với những thông tin trong kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra thì hành vi thao túng ngân hàng của Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm là khá rõ ràng.
Sau khi rời ghế Phó Chủ tịch Ngân hàng Á Châu (ACB), để tiếp tục duy trì tầm ảnh hưởng của mình và cũng là để thuận tiện trong việc huy động vốn từ ACB, Nguyễn Đức Kiên đã đứng ra đề xuất thành lập lên Hội đồng sáng lập ACB và Kiên làm Phó Chủ tịch. Và với 5 công ty mà Kiên là người đại diện pháp luật, Nguyễn Đức Kiên đã “đạo diễn” một loạt thương vụ mua bán cổ phiếu của các ngân hàng. Cụ thể:
Ngày 30/11/2010, Kiên đã chỉ đạo Đặng Ngọc Lan – Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư B&B (gọi tắt là B&B) ký hợp đồng bán 10 triệu trái phiếu trị giá 1.000 tỉ đồng cho ACB với kỳ hạn 10 năm và tài sản đảm bảo cho hợp đồng này là 916.350 cổ phiếu ngân hàng Vietbank, trị giá 916,350 tỉ đồng do Kiên và người thân nắm giữ.
Đáng chú ý, số cổ phiếu mà B&B dùng làm tài sản đảm bảo trong hợp đồng trên có được là do B&B đã uỷ thác cho Đặng Ngọc Lan (vợ Kiên), Đào Văn Kiên (em rể Kiên) và Nguyễn Tuấn Anh mua cổ phiếu của Vietbank nhưng tổng giá trị chỉ là 324,6 tỉ đồng.
Sở hữu chéo ngân hàng là một trong những kẽ hở để “bầu” Kiên trục lợi.
Tại Công ty Cổ phần Tập đoàn tài chính Á Châu (gọi tắt là AFG), Kiên đã chỉ AFG dùng 3.200 tỉ đồng vốn điều lệ của công ty nhờ 15 cá nhân đứng tên mua Trái phiếu chuyển đổi của ACB.
Với Công ty cổ phần Đầu tư ACB (gọi tắt là ACBI), Kiên đã chỉ đạo ACBI phát hành 8 triệu trái phiếu trị giá 800 tỉ đồng cho ACB với tài sản đảm bảo là 16 triệu cổ phiếu của Teckcombank và sau nhiều lần thay đổi, hiện tài sản đảm bảo cho hợp đồng này đã bao gồm cả là 22 triệu cổ phần Công ty cổ phần Thép Hoà Phát và một số tài sản đảm bảo khác. Hợp đồng được thực hiện ngày 25/3/2008.
Sau đó, Kiên đã chỉ đạo ACBI dùng 800 tỉ đồng trên cùng với 300 tỉ vốn điều lệ và hơn 400 tỉ đồng huy động được (trong đó 100 tỉ ACBI đã cho Công ty cổ phần Đầu tư Á Châu vay) góp vốn và mua cổ phần của một loạt công ty, trong đó có mua cổ phiếu của Teckcombank với giá trị gần 700 tỉ đồng. Khoản tiền 100 tỉ mà ACBI cho Công ty cổ phần Đầu tư Á Châu (ACI) vay được dùng để mua cổ phần của ngân hàng Eximbank.
Cũng tại ACI, với cách làm tương tự, ACI đã phát hành 5 triệu trái phiếu với tổng trị giá là 500 tỉ đồng và bán cho Sở Giao dịch Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long (MHB). Số tiền này sau đó được ACI chuyển cho một loạt công ty, trong đó có Công ty Thiên Nam (nơi mà Nguyễn Đức Kiên thực hiện các giao dịch mua bán vàng dù công ty này không được phép kinh doanh).
Với Công ty TNHH Đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội (gọi tắt là ACI-HN), dưới sự chỉ đạo của Kiên, ACI – HN đã dùng 8,75 tỉ đồng uỷ thác cho ACB mua 17.500 cổ phiếu của Vietbank và uỷ thác cho một số cá nhân, trong đó có các ông Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang mua hộ Kiên 19,8 triệu cổ phiếu của Ngân hàng KienLongBank. Đồng thời, ACI-HN cũng uỷ thác cho một số cá nhân mua 12,962 triệu cổ phiếu của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á.
Tiếp đó, trong giai đoạn từ tháng 6/2010 đến tháng 8/2012, ACI-HN tiếp tục dùng số tiền huy động được để mua 19,8 triệu cổ phiếu của KienLongBank. Và để có tiền tiếp tục thực hiện các giao dịch mua bán cổ phiếu, đặc biệt là cổ phiếu ngân hàng, ACI-HN đã phát hành trái phiếu và bán cho Vietbank để lấy 350 tỉ đồng. Số tiền này một phần đã được ACI-HN trả tiền mua 11,907 triệu cổ phiếu ngân hàng ACB.
Đến tháng 11/2010, ACI-HN tiếp tục phát hành 650 tỉ trái phiếu cho ACB và tài sản đảm bảo là lượng cổ phiếu mà ACI-HN nắm tại KienLongBank, DaiAbank, Eximbank, VietBank và của một số công ty khác. Số tiền này sau đó lại được ACI-HN uỷ thác cho chính ngân hàng ACB mua cổ phiếu của VietBank và uỷ thác cho một số cá nhân mua hộ cổ phiếu của chính những ngân hàng này.
Căn cứ vào tài liệu thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng xác định: Trước sức ép của cổ đông, Nguyễn Đức Kiên và Thường trực Hội đồng Quản trị ACB đã họp đi đến chủ trương sẽ cấp tiền cho ACBS (công ty chứng khoán 100% vốn của ACB) và giao cho Nguyễn Đức Kiên chỉ đạo việc đầu tư vào cổ phiếu của ACB.
Để thực hiện được điều này, ACB đã chuyển tiền cho KienLongBank vay qua liên ngân hàng để sau đó, ngân hàng này chuyển tiền cho ACBS dưới hình thực mua trái phiếu do ACBS phát hành. Nhưng vì biết ACBS không được mua cổ phiếu của ACB. Nhưng ACBS lại không được mua cổ phiếu của ACB nên đã chuyển tiền cho ACI và ACI-HN là để thực hiện dưới hình thức hợp đồng hợp tác đầu tư.
Nhóm phóng viên PetroTimes

Rơi vào kiểm soát đặc biệt, sếp VDB sẽ bị đình chỉ chức?

Dự thảo về điều lệ hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) vừa được Bộ Tài chính hoàn tất để lấy ý kiến góp ý của các bên liên quan.
Một trong những nội dung đáng chú ý là việc quy định quyền hạn và trách nhiệm của đội ngũ quản lý, đặc biệt là hai chức danh chủ tịch hội đồng thành viên và tổng giám đốc.
Theo đó, dự thảo nêu rõ, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc VDB không được đồng thời là người điều hành hoặc chủ tịch hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp đó là công ty con của VDB; không được đồng thời tham gia điều hành tại doanh nghiệp khác.
Đặc biệt, Chủ tịch Hội đồng Thành viên của VDB không được đồng thời là người điều hành của ngân hàng này; không được đồng thời là thành viên hội đồng thành viên, hội đồng quản trị, người điều hành tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là công ty con của VDB.
Lãnh đạo VDB cũng không được tạo điều kiện để cá nhân mình hoặc người có liên quan vay vốn tại ngân hàng mình với những điều kiện ưu đãi, thuận lợi hơn so với quy định chung của pháp luật và của Ngân hàng.
Về quy định tạm đình chỉ, đình chỉ lãnh đạo, dự thảo nêu rõ, trường hợp VDB bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, Ban kiểm soát đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền thành lập có quyền đình chỉ, tạm đình chỉ việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch và các thành viên hội đồng thành viên, trưởng ban và các thành viên ban kiểm soát, tổng giám đốc nếu xét thấy cần thiết.
Trường hợp Chủ tịch và các thành viên Hội đồng Thành viên, Trưởng ban và các thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc VDB vi phạm quy định của pháp luật và điều lệ này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, cơ quan có thẩm quyền có quyền đình chỉ, tạm đình chỉ việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của những đối tượng vi phạm này nếu xét thấy cần thiết.
Chủ tịch và các thành viên Hội đồng Thành viên, Trưởng ban và các thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc của VDB có thể bị đình chỉ, tạm đình chỉ việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn theo quyết định của cơ quan bảo vệ pháp luật có thẩm quyền.
Thành lập từ tháng 5/2006, Ngân hàng Phát triển Việt Nam là ngân hàng chính sách 100% vốn chủ sở hữu của Nhà nước, phục vụ tín dụng đối với các dự án trọng điểm của quốc gia, các chương trình cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ.
Mới đây Thủ tướng đã ký quyết định tăng vốn điều lệ của VDB lên gấp 2 lần hiện nay, đạt 20 nghìn tỷ đồng vào năm 2015 và sẽ tăng lên 30 nghìn tỷ vào năm 2020.
THEO VNECONOMY

Có nên giải cứu cha con người rừng: “Người rừng” bị còng – trói tay gây bức xúc


Trong phóng sự “Trở về sau 40 năm sống trong rừng sâu” phát sóng trên VTV tối 8/8 có hình ảnh người rừng bị còng tay khiến dư luận bức xúc.
Ngay sau khi chương trình thời sự tối 8/8 phát sóng phóng sự chính quyền, người dân xã…đưa cha con “người rừng” Hồ Văn Thanh, Hồ Văn Lang về sống hòa nhập với cộng đồng, nhiều người đã “soi thấy” hình ảnh người con trai bị còng hai tay và tỏ thái độ rất bức xúc. Một số ý kiến cho rằng, hai cha con họ đã quen với cuộc sống ở rừng, hoàn toàn khỏe mạnh và không vi phạm pháp luật vậy cớ sao phải cưỡng chế, bắt ép họ quay về với cuộc sống xa lạ.
Trên trang mạng cá nhân, một chuyên gia kinh tế viết: Anh con trai hơn 40 năm không chịu sự chăm sóc của hệ thống y tế Việt Nam nhưng vẫn có vẻ thánh thiện và khỏe mạnh hơn người thường. Anh sẽ sống những ngày tới ra sao đây? Khi những người nhân danh văn minh và đạo đức đã nhất định giằng anh ra khỏi cánh rừng già 40 năm anh đã cùng lớn lên? Giờ đây cha anh sắp mất. Còn anh thì chắc chắn đã bị mất tự do. Sau 40 năm tự do, anh đã bị xiềng xích trở về với xã hội. Sớm muộn gì anh cũng phải làm một việc mà anh chưa bao giờ làm: đi ăn xin người khác. Không mảy may suy nghĩ gì về hành động chúng ta đang làm với hai cha con họ. Thế thì chúng ta đã tha hóa đến mức nào?
Một chuyên gia kinh tế khác cũng cho rằng: Họ vẫn sống như ngàn năm vẫn sống trước khi bị cuốn vào cuộc chiến mà họ không hiểu. Và bỏ chạy vào rừng sống nửa thế kỷ cách ly với thế giới văn minh, khước từ tất cả các sản phẩm của văn minh từ quần áo cho tới đồ dùng cũng là lựa chọn của họ. Tại sao lại phải cưỡng ép họ trở về mà không cứ để họ sống và chết như cách họ muốn chứ?
Trên nhiều trang báo cũng đăng tải hình ảnh, bài viết miêu tả cuộc sống cha con người rừng trong những ngày đầu tiên trở về với cộng đồng. Các thông tin cho biết, họ vẫn muốn quay lại rừng, sống sợ hãi, buồn bã ở môi trường mới. Vì thế “để đề phòng cha con ông Thương bỏ về lại rừng, bệnh viện đã cột nhẹ vào giường bệnh viện trong khi truyền nước biển”, báo Tiền Phong viết.


Người rừng bị còng tay đưa về làngCha con “người rừng” tại bệnh viện. Đề phòng ông Thanh bỏ trốn, bệnh viện cột nhẹ tay ông vào giường bằng vải trắng.

Trên Dân Việt có đoạn viết: “Từ khi được đưa về đến giờ, ông Lang tuy ăn uống bình thường nhưng ăn trầu và hút thuốc liên tục, còn ban đêm có lẽ do lạ nên ngủ rất ít”.
Còn theo ghi nhận của phóng viên Dân Trí: “Người rừng” Hồ Văn Loan lặng lẽ nép mình vào góc tường, nhìn xa xăm về phía những ngọn núi, ánh mắt đầy vẻ xa lạ, sợ hãi”.
Tuy nhiên, trao đổi với phóng viên, PGS.TS Phạm Sỹ Giáo, Giảng viên bộ môn Nhân học, trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội rằng, một số hình ảnh của cuộc đưa cha con người rừng về với cộng đồng có thể khiến người xem phản cảm nhưng trong đó có ý đồ tốt của chính quyền địa phương và những người trong gia đình.
“Nếu có hình ảnh anh con trai bị còng, áp giải đưa về làng thì cần phải tìm hiểu vì sao người ta lại phải còng như vậy. Có thể anh ta sống cách biệt cộng đồng từ bé nên khi thấy người lạ có những hành động bất thường nên những người đưa họ về mới phải làm vậy hoặc có thể do gia đình yêu cầu”, ông Giáo nói.
Cũng theo ông Giáo, có thể những ngày đầu hai bố con người rừng chưa quen với cuộc sống mới nhưng việc đưa họ về hòa nhập với cộng đồng là yêu cầu của cả cộng đồng, quan hệ huyết thống.
THEO TIN MỚI

Làm khó người thất nghiệp

Từ giữa tháng 4 đến nay, cán bộ Trung tâm Giới thiệu việc làm (GTVL) TP.HCM phải từ chối nhiều hồ sơ xin hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Nguyên do xuất phát từ quy định mới (thông tư 04/2013 ngày 1-3-2013 của Bộ LĐ-TB&XH, có hiệu lực từ ngày 15-4) bắt buộc người thất nghiệp phải có tháng liền kề đóng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trước khi nghỉ việc. Trong khi theo quy định cũ, chỉ cần người lao động đóng BHTN đủ 12 tháng trong vòng 24 tháng.
Chị H.M. hết hạn hợp đồng từ tháng 12-2012 nhưng công ty thỏa thuận làm thêm tháng 1 và 2-2013 (không đóng BHTN). Đến tháng 3, chị nghỉ việc nhưng khi nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp thì bị từ chối do trong hai tháng 1 và 2 chị không tham gia BHTN. Còn anh N.H.H. bức xúc cho biết mình bị từ chối hưởng trợ cấp do nghỉ việc từ tháng 1 nhưng đến đầu tháng 3 công ty mới ra quyết định nghỉ việc. Do đó tháng 2 anh không tham gia BHTN. “Tôi phải về công ty điều chỉnh thời gian ra quyết định nghỉ việc mới được hưởng trợ cấp” – anh H. nói.
Một cán bộ Trung tâm GTVL TP cho biết đa số doanh nghiệp không nắm được quy định về “tháng liền kề” nên ra quyết định thôi việc chậm trễ so với thời điểm người lao động nghỉ việc và chưa kể có trường hợp do cơ quan bảo hiểm xã hội chốt sổ bảo hiểm xã hội sai nên không có “tháng liền kề”.
Ông Nguyễn Cao Thắng, phó giám đốc Trung tâm GTVL TP, cho biết những trường hợp như chị H.M. nằm ngoài hướng dẫn của thông tư 04 về thực hiện BHTN nên không được hưởng trợ cấp. Theo thông tư, sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, nếu tiếp tục làm việc hoặc tìm việc mới với hợp đồng dưới 12 tháng (không phải tham gia BHTN) thì khi nghỉ việc người đó sẽ không được hưởng trợ cấp do không có “tháng liền kề”. Ông Thắng cho biết quy định như vậy “trái” với mục đích của BHTN là khuyến khích người thất nghiệp tìm việc làm mới.
Ngoài ra, người lao động làm việc trong doanh nghiệp sử dụng mười lao động cũng có nguy cơ không được hưởng trợ cấp khi thất nghiệp. Theo quy định, trong doanh nghiệp này nếu có một số người nghỉ việc mà đến ngày 1-1 hằng năm không tuyển thêm đủ mười người thì những người đang làm việc không được tiếp tục đóng BHTN. Những người này khi nghỉ việc cũng không có “tháng liền kề” nên không được hưởng trợ cấp dù đủ điều kiện.
Cũng theo ông Thắng, thông tư 04 cũng quy định một số trường hợp không cần đóng BHTN ở tháng liền kề trước khi nghỉ việc như: tạm hoãn hợp đồng, người hưởng trợ cấp thai sản hoặc nghỉ ốm đau từ 14 ngày trở lên. Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn về việc xác nhận những trường hợp trên nên gây khó cho người lao động. Sổ bảo hiểm xã hội chỉ chốt đến thời gian đóng BHTN chứ không thể hiện rõ thời gian tạm hoãn hợp đồng, nghỉ ốm… Do vậy, Trung tâm GTVL TP không thể tiếp nhận hồ sơ mà phải hướng dẫn về doanh nghiệp xác nhận, khiến người thất nghiệp phải tốn thời gian và công sức.
Thiết nghĩ, những văn bản pháp luật sửa đổi, bổ sung các quy định trước đó thường làm cho việc giải quyết quyền lợi của người lao động được thông thoáng hơn. Nhưng với quy định “tháng liền kề” như trên, thông tư 04 lại bắt chẹt và ngăn trở người lao động hưởng quyền lợi khi thất nghiệp.
Thông tư 04 vi phạm Luật bảo hiểm xã hội
Quy định của thông tư số 04/2013/NĐ-CP ngày 1-3-2013 của Bộ LĐ-TB&XH đã xâm phạm quyền lợi của người lao động bị thất nghiệp. Theo khoản 4 điều 3 của Luật bảo hiểm xã hội, người thất nghiệp là người đang đóng BHTN mà bị mất việc làm nhưng chưa tìm được việc làm và theo điều 81 của Luật bảo hiểm xã hội thì điều kiện để được hưởng trợ cấp thất nghiệp là người thất nghiệp đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp.
Như vậy, đối với việc quy định thêm điều kiện có tháng liền kề là đã vi phạm Luật bảo hiểm xã hội và hạn chế bất hợp lý quyền lợi của những người lao động bị mất việc làm. Do đó theo tôi, Bộ LĐ-TB&XH cần nghiên cứu ban hành lại thông tư phù hợp với thực tiễn, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người thất nghiệp.
THEO TUỔI TRẺ

Cựu Chủ tịch tỉnh bị đập nhà bất ngờ nói ngược


“Tôi xây nhà còn chưa làm hết đất. Chỉ là do anh em người ta làm, người ta láng trước, láng sau cái nền xi măng nên mình không có tính đến chứ có phải lấn chiếm gì đâu.”

Tôi còn chừa ra cả mấy mét



Vỉa hè phía nhà ông Đấu chỉ rộng 3,3 m. Ảnh: Sáu Nghệ

Sáng 11/8, liên quan đến quyết định đập nhà của cựu Chủ tịch tỉnh Vĩnh Long để trả lại vỉa hè, phóng viên Báo Đất Việt nhiều lần liên lạc với ông Phạm Văn Đấu để nghe lời phân trần.
Ông Đấu cho biết, ông đã nghỉ hưu rồi, nên nếu muốn hỏi gì thì hỏi cơ quan chức năng họ sẽ nói khách quan hơn.
“Riêng việc nắn đường, để tránh nhà tôi như báo chí nói là không có, ngay từ đầu tôi cũng không có một lời nói nhỏ, nói lớn nào can thiệp vào chuyện này hết”, ông Đấu cho biết.
“Khi tôi xây nhà, tôi còn chừa ra cả mấy mét chứ đã làm hết đất nhà mình đâu. Chỉ là do anh em người ta làm, người ta láng trước, láng sau cái nền xi măng nên mình không có tính đến chứ có phải lấn chiếm gì đâu.
Việc anh em giải tỏa, chắc vì có người nói này nói nọ nên họ tức tối mà phải thực hiện thôi. Hiện họ cũng đang thực hiện, cũng phải phá đi mất mấy mét vì theo dự án đã được phê duyệt. Tôi không có ý kiến gì”.
Ông Đấu cho rằng, nếu như việc này được chỉ đạo ngay từ đầu thì không mất công, mất sức phải phá đi, đập lại như hiện giờ.

Khổ công nắn đường, bóp vỉa hè

Trong khi đó, báo chí đưa tin sáng 10/8, cơ quan chức năng bắt đầu đập phần nhà xây vượt quá giấy phép của ông Phạm Văn Đấu, cựu Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long, để mở rộng vỉa hè đường Bạch Đàn.
Theo thiết kế, vỉa hè đường Bạch Đàn, TP Vĩnh Long rộng đúng 4,5m. Nhưng từ năm 1996, đường Bạch Đàn – vốn là con hẻm tráng xi măng được UBND tỉnh quy hoạch mở đường với chiều rộng 30m, dài 480m nối từ đường Trần Phú đấu vuông góc với đường Phạm Thái Bường.
Với thiết kế này, con đường sẽ đâm thẳng vào nhà ông Phạm Văn Đấu, lúc đó làm Giám đốc Công ty xuất nhập khẩu Vĩnh Long sau đó là Phó Chủ tịch rồi nay là Chủ tịch UBND tỉnh. Nhà ông Đấu mất 17m chiều ngang, chỉ còn lại hơn 1m.
Vậy mà khi ông Đấu lên làm Chủ tịch UBND tỉnh, cơ quan tham mưu đã điều chỉnh thiết kế con đường từ rộng 30m xuống còn 18m.
Năm 2009, cán bộ thiết kế thi công và thẩm định của Sở GTVT tỉnh Vĩnh Long vì “ngán” chủ tịch tỉnh nên đã tùy tiện né ngôi nhà, bóp vỉa hè nhỏ lại chỉ còn khoảng 3m.
Ông Trần Hoàng Tựu – Giám đốc Sở GTVT tỉnh Vĩnh Long đã có buổi làm việc với phóng viên. Theo ông Tựu, quy hoạch thông thường phải theo đường thẳng và ông cũng thừa nhận là vì chuyện “bẻ qua bẻ lại” mà tim đường chuyển sang đất của người dân.
“Khi tôi mới về làm lãnh đạo Sở GTVT (năm 2008 ông Tựu làm Chủ tịch UBND huyện Tam Bình – PV), thấy đường Bạch Đàn bị bẻ cong, tôi có hỏi thì được cấp dưới báo cáo là do né chùa Long Viễn…”, ông Tựu cho biết.
Dư luận ở TP. Vĩnh Long bức xúc, vì đâu mà đoạn đường chưa đầy 500m đã bị bẻ cong đến 2 lần? Trong lúc người dân còn đang khiếu nại thì ông Đấu đã cho thi công tiếp một công trình hoành tráng trên phần đất trước đây là tim đường.
Mới đây, khi đường Bạch Đàn làm xong, báo chí phát hiện sự tùy tiện và Sở GTVT tỉnh Vĩnh Long nhận khuyết điểm, tổ chức sửa sai.
THEO ĐẤT VIỆT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét