Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

Bài đáng chú ý: Cải cách hay sụp đổ! (Đọc “Tôi biết làm thế nào” của Tập Cận Bình)

Bỏ đảng, lập đảng khác

Năm ngoái mục này viết một bài với tựa đề: “Người biết suy nghĩ, sẽ từ bỏ đảng Cộng sản.” Vừa rồi, trên mạng Bô Xít Việt Nam mới đăng một bài của ông Lê Hiếu Ðằng với ý kiến tương tự. Ông Lê Hiếu Ðằng viết: “ (T)ôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Ðảng, hoặc không còn sinh hoạt Ðảng. Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới, chẳng hạn như Ðảng Dân Chủ Xã Hội,...”

Lê Hiếu Ðằng viết như vầy: “Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập... Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo và thông qua Hiến Pháp mới.” Ðó là điều mà các người tranh đấu hiện nay, ở trong và ngoài nước đều đồng ý. Ông đi xa hơn với một bước cụ thể, đề nghị các đảng viên cùng ý hướng hãy thành lập một đảng mới, đứng ra đối lập với đảng Cộng sản đang cầm quyền.

Trong bài viết năm ngoái, tôi đã nêu ra nhiều lý do khiến các đảng viên cộng sản “biết suy nghĩ,” phải từ bỏ đảng. Xin nhắc lại một vài đoạn để tóm tắt như sau:

“Quý vị vào đảng Cộng sản vì tin ở chủ nghĩa Mác, Lê Nin? (A) Bây giờ còn ai tin tưởng ở các lý thuyết duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của ông Karl Marx nữa hay không? (B) Còn ai thấy các lý thuyết của Lenin có ích lợi cho dân tộc mình, hay chỉ là cái gông xiềng buộc chặt lên đầu, lên cổ cả dân tộc?

“Tai họa của nước ta là do những người đã đem chủ nghĩa Mác Lê Nin vào đặt lên đầu lên cổ cả dân tộc. Từ đó, họ đã đi tới những lựa chọn sai lầm tàn phá đất nước, khi biết thì đã quá trễ. (1) Tai họa thứ nhất là tổ chức kinh tế theo lối Liên Xô, mà hiệu quả ai cũng biết. (2) Tai họa thứ hai là tổ chức chính quyền chuyên chế, lấy bạo lực, công an để bảo vệ quyền hành; nhưng sau khi đã dựng lên rồi thì chính guồng máy chuyên chế đó tự phát triển, tự bảo vệ nó; không thể nào nó tự thay đổi được nữa. (3) Tai họa thứ ba là chủ trương gây thù hận, phương pháp dùng dối trá để củng cố quyền hành. Từ thói quen dối trá đó, cả xã hội suy đồi vì người lương thiện không thể sống được. Lựa chọn theo chủ nghĩa Mác Lê Nin đã tạo ra tất cả các tai họa trên.

“(4) Cũng vì theo chủ nghĩa Mác Lê Nin cho nên đảng Cộng sản đã phạm sai lầm ngoại giao lớn trong việc chọn đồng minh; mà không nghĩ tới mối nguy hiểm trong tương lai.” Tai họa thứ tư này đưa tới hậu quả là đi theo Cộng sản Trung Quốc: ‘Vì vậy mới giết hàng trăm ngàn người vì cải cách ruộng đất; vì vậy mới sinh ra cái công hàm Phạm Văn Ðồng năm 1958. Từ đó mới ngậm miệng làm ngơ không dám phản đối Trung Cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974.’”

Những điều tóm tắt trên đây được trình bày với thái độ khách quan, bình thản, ý kiến của một người đứng ngoài. Dù người đảng viên hoặc không là đảng viên cộng sản, cũng có thể nhìn thấy những lý lẽ đó. Một đảng viên cộng sản chắc sẽ nhìn vấn đề theo cách khác, nhưng cũng có thể đi tới cùng một kết luận. Trong bài viết mới công bố, lấy tựa đề “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh...” Lê Hiếu Ðằng đã “tính sổ đời mình” từ lúc gia nhập đảng Cộng sản cho tới những ngày nằm trong bệnh viện có thời giờ suy nghĩ lại. Những ý nghĩ của ông cũng dẫn đến ý kiến các đảng viên cộng sản phải “tuyên bố tập thể” quyết định của họ cùng rút ra khỏi đảng. Nhưng lời lẽ ông dùng chứa đựng nhiều cay đắng hơn. Về đối ngoại, ông tố cáo: “Sau khi hy sinh biết bao xương máu, nay Ðảng và Nhà nước Việt Nam muốn làm việc gì đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng Trung Quốc, những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta...” Ðối với cả chế độ ông cũng nói: “Tôi nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo...” Trả lời đài RFI phỏng vấn, Lê Hiếu Ðằng nói về toàn cảnh xã hội “xuống cấp,” “Có thể nói là xuống cấp một cách toàn diện, khủng hoảng toàn diện!”

Cũng trong bài phỏng vấn, ông nói rõ hơn: “Có nhiều người cũng đến gặp tôi và chán nản đòi ra khỏi đảng. Hoặc là (giấy chuyển) sinh hoạt đảng thì đem về không đưa cho địa phương mà bỏ vào ngăn kéo, coi như không sinh hoạt đảng nữa.

Như vậy tại sao khi vào đảng thì (công khai), bây giờ anh nên công khai, tuyên bố đàng hoàng vì sao tôi ra khỏi đảng?” Và giải thích thêm: “Vì đảng này bây giờ họ đã phản bội lại những mục đích ban đầu về việc xây dựng một xã hội tốt đẹp, thực hiện lý tưởng mà một thời trai trẻ mình đã đổ biết bao xương máu...”

Trong lời giới thiệu bài viết của Lê Hiếu Ðằng, mạng lưới Bô Xít Việt Nam còn viết nặng nề hơn, coi chế độ cộng sản hiện nay là “một cái ách cực kỳ phi lý” mà dân Việt đang phải đeo trên cổ (như cái ách đè trên cổ trâu bò). Rồi kết luận: “Câu nói âm thầm từ muôn miệng hình như đang cùng muốn thốt lên: Hãy hất nó xuống khe vực để đứng thẳng dậy, sánh bước cùng nhân loại văn minh.”

Sau đề nghị ra khỏi đảng với hành động tập thể, Lê Hiếu Ðằng đề nghị thành lập một đảng khác. Ông đặt câu hỏi: “Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều (này?) Nhận xét “tình hình đã chín mùi” được giải thích khi Lê Hiếu Ðằng nói với đài RFI: “...có nhiều đảng viên đồng tình với việc làm đó, nên tôi mới đề nghị như vậy. Và đã ra khỏi đảng thì phải thành lập một đảng mới.”

Và ông lý luận rằng, “Chủ trương không (chấp nhận) đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Ðảng (Cộng sản) chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Ðó là quyền công dân chính đáng của chúng ta.”

Tất nhiên, những người ngoại cuộc có thể nhìn thấy một kẽ hở trong lý luận đó. Nhiều người sẽ phê bình rằng ông quá ngây thơ. Xưa nay đảng Cộng sản vẫn chẳng bao giờ quan tâm đến luật pháp, đến nguyên tắc pháp lý, cũng như các quyền công dân! Có nhạc sĩ Việt Khang, nông dân Ðoàn Văn Vươn và hàng vạn người khác sẵn sàng làm chứng. Nhưng Lê Hiếu Ðằng vẫn nêu lên lý lẽ trên, vì một mục tiêu của ông là “thách thức” đảng Cộng sản đấu lý công khai. Những luật gia như Nguyễn Văn Ðài, Lê Thị Công Nhân, Lê Công Ðịnh, Cù Huy Hà Vũ cũng đều dùng pháp lý để tranh đấu; mặc dù họ biết chế độ cộng sản vốn bất chấp luật pháp. Các luật gia này đã và đang bị tù. Liệu Lê Hiếu Ðằng sẽ bị chung số phận hay không?

Câu trả lời là: Tùy theo phản ứng của các đảng viên vẫn là bạn bè của ông. Hãy chờ coi họ có bỏ rơi ông hay sẽ can đảm đi cùng ông. Trong bài bình luận viết năm ngoái, chúng tôi đã hình dung chuỗi hậu quả: “(Khi) Một số người đông đảo và có danh tiếng tuyên bố từ bỏ đảng, họ có thể kêu gọi các đảng viên có lương tâm cùng dứt khoát rút ra khỏi đảng. Khi số người bỏ đảng đông hơn, gây thành một phong trào lớn khắp nước, thì các biện pháp trả thù và đàn áp của guồng máy (nhà nước cộng sản) sẽ mất hiệu lực. Các đảng viên khác sẽ không sợ hãi nữa, nhiều người sẽ làm theo.”

Một chuyện tình cờ là cuối tuần qua, cũng trong mục này, chúng tôi đã nhắc lại đề nghị các đảng viên cộng sản nên từ bỏ đảng. Nhân dịp ngày giỗ Trung Tướng Trần Ðộ, một đảng viên công thần đã bị trục xuất hơn mười năm trước. Chúng tôi viết: “Cái dấu hiệu ‘bị đảng trục xuất’ là một huy chương gắn trên quan tài ông” (để con cháu ông sau này có thể hãnh diện về cha, ông mình). Bài tuần qua cũng đặt lại một câu hỏi cho các đảng viên cộng sản bây giờ: “Họ muốn tự mình từ bỏ đảng hay là chờ tới ngày cũng bị trục xuất (như Trần Ðộ)? Nếu hàng ngàn người cùng tuyên bố bỏ đảng một lúc thì hàng trăm ngàn đảng viên khác sẽ theo.”

Quan sát từ bên ngoài, chúng ta không biết “tình hình đã chín mùi” đến mức nào. Cho nên khó ước đoán một phong trào như vậy sẽ bùng lên hay không. Nhưng có thể tin một người trong cuộc đã thấy nó “chín mùi.” Những ý kiến của Lê Hiếu Ðằng được nêu ra công khai cho thấy người dân Việt Nam đã hết sợ, hết sợ từ lâu rồi. Không những hết sợ, người ta còn khinh bỉ cái câu lạc bộ “chỉ dành cho những người nói láo.”

Ðảng Cộng sản như một bức “trường thành” đang bị nứt. Chân đế đã mục nát; những khe nứt rạn ngày càng nhiều, càng mở rộng ra. Khách quan mà xét thì cũng thấy họ không có cách nào cứu chữa. Họ có muốn đàn áp thì phản ứng ngược lại của người dân càng nhiều hơn và mạnh hơn; người ta càng khinh bỉ lại càng bớt sợ. Bức trường thành sẽ sụp đổ. Dân Việt Nam sẽ “hất nó xuống khe vực.”
Ngô Nhân Dụng
(Người Việt)

Cơ hội cuối cùng

Hội đàm giữa hai ông Obama-Trương Tấn Sang hôm 25/7 vẫn còn để lại nhiều dấu hỏi.
Tuyên bố chung chỉ liệt kê những vấn đề bao trùm “toàn diện” quan hệ giữa hai nước trong thời gian tới, nhưng nội dung cụ thể của những vấn đề này là gì thì vẫn cần được giải mã. Hai ông đã “mật đàm” những gì và đã thỏa thuận những gì?
Người ta phải theo dõi những gì diễn ra trong vài tháng, vài năm tới, mới thấy được những chi tiết của thông điệp đưa ra từ cuộc hội đàm lịch sử này.
Nhưng có một điều đã khá rõ: ban lãnh đạo Việt Nam đang đứng trước sự lưa chọn cuối cùng - Trung Quốc hay Hoa Kỳ.
Mọi ý đồ “đi dây” giữa hai cường quốc này chỉ là ảo tưởng, trong bối cảnh thế giới và khu vực hậu chiến tranh lạnh, hậu bin Laden, trong thực tế bành trướng của Trung Quốc, và chính sách “xoay trục” sang Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.
Quan hệ Việt - Mỹ không chỉ có nụ cười?
Cần đồng minh
Dân tộc ta một mình không thể đương cự được với sự tàn bạo và nham hiểm cùng sức mạnh quân sự, kinh tế, chính trị của một Trung Quốc đang vươn dậy, đang ngang nhiên bành trướng khắp nơi, thách thức cả khu vực và toàn thế giới.
Nước ta nằm ở tuyến đầu trên con đường bành trướng xuống Đông Nam Á của Trung Quốc. Chúng ta phải có đồng minh, nếu muốn bảo tồn nòi giống và toàn vẹn lãnh thổ.
Các nước Đông Nam Á cũng không đủ sức đương cự được sức bành trướng của Trung Quốc, nếu không đoàn kết với nhau và không có được đồng minh hùng mạnh như Hoa Kỳ. Philippines đã thấy rõ và đã chọn lựa. Singapore đã thấy rõ và đã chọn lựa. Đó là sự thực mà ban lãnh đạo CS phải chấp nhận và chọn lựa, nếu họ không muốn trở thành kẻ thù của toàn dân, phản bội lại dân tộc, trở thành một Lê Chiêu Thống thời đại.
Mọi người Việt yêu nước đều không thể chấp nhận con đường Hán thuộc ô nhục. Đã đến lúc ban lãnh đạo CSVN cần dứt khoát và quyết liệt tìm mọi cách thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của Bắc phương, và chọn lựa con đường sống còn cho dân tộc.
Những gì đang diễn biến tại khu vực Á châu-Thái Bình Dương cho thấy tình hình đã rất khẩn trương, thời gian để chọn lựa không còn nhiều nữa.
Trung Quốc vẫn quyết tâm đẩy mạnh tiến trình bành trướng xuống Biển Đông, kể cả chuẩn bị dùng vũ lực, nếu cần. Mỹ, Úc đang triển khai và sắp xếp thế trận chính trị, kinh tế và quân sự nhằm ngăn chặn sức bành trướng của Trung Quốc tại vùng Đông Bắc Á, Nam Thái Bình Dương và Đông Nam Á.
Nhật Bản, Philippines, Singapore đã dứt khoát yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ, gấp rút tăng cường phòng thủ, dàn thế trận sẵn sàng ứng chiến.
Việt Nam đắn đo giữa lựa chọn Trung Quốc và Hoa Kỳ
Trong khi đó, đối với Hoa Kỳ, điều quan trọng là bảo đảm được họat động tự do của hải quân và thương thuyền tại Thái Bình Dương, Biển Đông và Đông Bắc Á. Nếu Trung Quốc khôn khéo, sẵn sàng bảo đảm cho quyền tự do lưu thông hàng hải này và các quyền lợi kinh tế tài chánh khác của Hoa Kỳ tại Biển Đông; nếu Trung Quốc vừa tương nhượng với Hoa Kỳ và Nhật Bản tại vùng biển Đông Bắc Á, vừa hòa hoãn với Hoa Kỳ, để đổi lấy chủ quyền tại biển Đông; và nếu Việt Nam vẫn lừng chừng không dứt khóat; thì số phận Việt Nam sẽ hoàn toàn do Việt Nam tự định đoạt.
Đối với Hoa Kỳ, vùng Đông Bắc Á, vùng biển của Nhật Bản, quan trọng hơn vùng Biển Đông, và vấn đề lưu thông tự do tại Biển Đông quan trọng hơn vấn đề ai nắm chủ quyền các hòn đảo tại đây.
Tất nhiên Hoa Kỳ vẫn muốn tăng cường hay cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc tại vùng Biển Đông và ĐNÁ, và chống lại việc Trung Quốc sử dụng bạo lực để khống chế Biển Đông. Và Hoa Kỳ đang làm như thế, khi đồng ý hỗ trợ các nước Đông Nam Á trong cố gắng của các nước này muốn độc lập với Trung Quốc.
Hoa Kỳ đã nhận được sự yêu cầu của nhiều quốc gia trong vùng và đã nhận lời, chỉ còn Việt Nam. Và Việt Nam thì đang bị chính đàn anh phương Bắc của mình bao vây, từ ngoài Biển Đông, từ phía Lào, Miên đã ngả hẳn sang Trung Quốc.
Về phía Mỹ thì đã sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam như đã sẵn sàng với Singapore, Philippines. Nhưng không thể hỗ trợ vô điều kiện, như không thể cung cấp vũ khí sát thương để chính quyền độc tài sử dụng bắn vào người dân khi họ biểu lộ bất mãn với chính quyền một cách ôn hòa bất bạo động. Lương tri Mỹ không cho phép, dư luận Mỹ không cho phép, và cộng đồng người Mỹ gốc Việt không chấp nhận.
Nhìn tình hình Biển Đông trong bối cảnh địa lý chính trị khu vực và trong tương quan quyền lợi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc như thế, chúng ta thấy Việt Nam cần đến Hoa Kỳ nhiều hơn Hoa Kỳ cần đến Việt Nam.
Xoay trục
Nếu Việt Nam không dứt khoát chọn con đường “thoát Trung” thì Hoa Kỳ vẫn có thể để mặc Việt Nam cho Trung Quốc, lập phòng tuyến vững mạnh ngăn chặn Trung Quốc tại Nam Á với Ấn Độ, tại Đông Nam Á với Philipines, Singapore, và các nước khác, tại Nam Thái Bình Dương qua liên minh đã có với Úc, vả tại Đông Bắc Á với Nhật Bản và Hàn Quốc.
Và từ khi Obama lên cầm quyền đến nay, trong chiến lược “xoay trục’, Hoa Kỳ đã gần như hoàn tất thế trận liên minh này rồi, chỉ còn lại Việt Nam tại vùng Biển Đông. Mọi người Việt quan tâm đến tiền đồ đất nước đều mong rằng ban lãnh đạo Việt Nam đã nhìn thấy thế trận chính trị-kinh tế-quân sự này của Mỹ và đồng minh, và chuyến đi Mỹ vừa qua của Chủ tịch Trương Tấn Sang báo hiệu cho một chọn lựa dứt khoát của Bộ Chính trị Đảng CSVN.
Để Việt Nam sớm ra khỏi thế bị bao vây tứ phía và trong vòng kiềm tỏa chặt chẽ của Trung Quốc. Nếu không thì Việt Nam sẽ rơi xuống vực thẳm Hán thuộc không gì ngăn chặn được.
Nhưng con đường “thoát Trung” là con đường độc đạo. Nó chỉ được khai thông bằng những thay đổi rõ ràng của chính quyền trong đường lối đối nội, trong cách điều hành đất nứơc một cách văn minh dân chủ, trong cách hành xử minh bạch và công bằng với dân.
Không thể thoát Trung nếu dân và chính quyền không là một. Dân không thể là một với một chính quyền độc tài, đàn áp dân, đàn áp những người yêu nước, bỏ tù những người phản đối ôn hòa những sai lầm của chính quyền. Không thể có được con đường thoát Trung nếu không thiết lập được một quan hệ chân thật với Hoa Kỳ. Nhưng không thể chân thật với Mỹ nếu không chân thật với người dân của mình trước đã.
Người dân Việt bây giờ đã khác rất xa với người dân trong chế độ bao cấp toàn diện 30 năm trước. Người dân Việt đã được tiếp cận quốc tế, đã mở rộng tầm nhìn ra thế giới, và đã cất lên tiếng nói bất bình của họ. Những người cầm quyền không còn dễ dàng bịt tai, bịt mắt, bịt miệng người dân được nữa.
Chỉ có dứt khoát từ bỏ độc tài đảng trị, chân thật tôn trọng nhân phẩm và bảo đảm các quyền tự do căn bản cho người dân mới chân thật có người dân là đồng minh trong mọi kế sách đối phó với Trung Quốc.
Nếu chính nhân dân mình chưa thật sự cùng mình bảo vệ tổ quốc thì không một chính quyền nào có thể có được một đồng minh quốc tế bền vững và chân tình. Lịch sử Việt Nam đã nhiều lần chứng minh điều đó.
Con đường mà Việt Nam phải đi thật đã rõ ràng: thoát Trung thân Mỹ. Không còn thể chần chừ lưỡng lự được nũa. Và để thực hiện được con đường này, chính quyền phải thay đổi đường lối đổi nội và đối ngoại.
Chấp nhận những điều kiện gia nhập TPP để cứu vãn kinh tế; liên kết quốc phòng với Philippines, Nhật Bản và Hàn Quốc; hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ, nhất là về mặt quân sự.
Về đối nội, phải chấm dứt đàn áp các tiếng nói đối kháng ôn hòa bất bạo động, thả tù nhân chính trị và tôn giáo, chấp nhận đối lập chính trị và thực hiện đối thọai dân chủ với mọi thành phân dân tộc để bảo vệ tổ quốc và cùng nhau tìm ra con đường phát triển bền vững và phồn vinh cho đất nước.
Cần tạo điều kiện để có được những diễn đàn như cuộc họp mặt Văn Miếu vừa qua, những thứ Diên Hồng trong thời đại dân chủ, do dân và do các thức giả yêu nước hội tụ lại để thể hiện ý chí toàn dân quyết tâm bảo vệ tổ quốc, không phân biệt quá khứ chính trị và khác biệt chính kiến, tôn giáo. Chỉ có đường lối đối nội và đối ngọai như thế mới thích hợp với xu thế chung của khu vực và thế giới, và mới mở đường thoát cho dân tộc vươn dậy sánh vai cùng cộng đồng nhân loại trong thời đại toàn cầu.
Đoàn Viết Hoạt
Gửi cho BBC Việt ngữ từ bang Virginia, Hoa Kỳ
* Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả. Ông Đoàn Viết Hoạt từng giảng dạy ở Đại học Vạn Hạnh và Đại học Sài Gòn. Sau 1975, ông nhiều lần bị chính quyền ở Việt Nam bắt giam trước khi đi tị nạn chính trị ở Mỹ vào năm 1998.
(BBC)

Trước và Sau Chuyến Thăm Mỹ của Chủ Tịch Trương Tấn Sang

Năm 2013 là năm có nhiều thay đổi với các chuyến đi dồn dập của các lãnh đạo Việt Nam.Tại Singapore trong kỳ họp Shangri-La, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng nhìn nhận rằng: “Ðâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.”Theo tác giả thì đây là một chính sách ngoại giao mới (1).

Sau đó Chủ Tịch CSVN Trương Tấn Sang (TTS) viếng thăm Trung Quốc, Indonesia và Hoa Kỳ.Đã có nhiều bài đánh giá chuyến đi TQ này một cách tiêu cực nhiều hơn là tích cực.Chuyến viếng thăm Trung Quốc của ông TTS có phải là một việc “bất đắc dĩ” - một cách Bắc Triều triệu tập VN bắt ký 10 hiệp định, được xem là một bước thụt lùi so với chính sách ngoại giao được công bố tại Shangri-La chăng?

Cuộc viếng thăm Hoa Kỳ tổ chức một cách vội vãcủa ông TT Sang được đánh giá thế nào trong khung cảnh chung của viếng thăm Trung Quốc của TBT Trọng năm 2012, mối bất đồng trong giới lãnh đạo VN trước mối lo Ðại Hán, và việc VN từng bước tiến lại gần Hoa Kỳ và các đồng minh Hoa Kỳ như Nhật và tiếng nói của các cộng đồng người Việt trên thế giới cũng như các ý kiến phản biện trong nước?

Diễn đàn Shangri-La

Tại Shangri-La, Singapore, diễn văn của ông Dũng đã đưa ra một chính sách ngoại giao rõ rệt. Các điểm chính của chính sách ngoại giao này là: phòng vệ, giữ chủ quyền, không liên minh với một nước này chống lại nước kia, hoan nghênh sự can dự tích cực của cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ ở Á Châu Thái Bình Dương, và củng cố sự đoàn kết của ASEAN.

Khi ông Nguyễn Tấn Dũng nhận định như câu vừa trích ở trên, và nhất là câu “Cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta.” Việc này có thể coi như VN có một chính sách đối ngoại mới đối với TQ (1) và, từ đó, có thể nói mộtchính sách ngoại giao mới của Việt Nam đã thành hình.

Chuyến thăm Trung Quốc của ông Trương Tấn Sang

Ngày 19 Tháng Sáu, ông Sang thăm chính thức TQ thể hiện chủ trương Ðối Thoại Song Phương Trung-Việt.Hai bên đã ký kết 10 văn kiện hợp tác song phương. Các văn kiện hợp tác, gồm có: 1) Chương trình hành động giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện; 2) Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa hai Bộ Quốc Phòng; 3) Thỏa thuận giữa Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam và Bộ Nông Nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển; 4) Hiệp định khung giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Trung Quốc về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi (cho dự án hệ thống thông tin đường sắt) trị giá 320 triệu Nhân dân tệ; 5) Bản Ghi nhớ giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Trung Quốc về việc thành lập Trung tâm văn hóa tại hai nước; 6) Ðiều lệ công tác của Ủy ban Hợp tác Quản lý Cửa khẩu Biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc; 7) Thỏa thuận giữa Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam và Tổng Cục Giám Sát Chất Lượng, Kiểm Nghiệm, Kiểm Dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu; 8) Kế hoạch hợp tác giữa liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội Hữu Nghị Ðối Ngoại Nhân Dân Trung Quốc giai đoạn 2013-2017; 9) Hiệp định vay cụ thể tín dụng người mua ưu đãi cho Dự án Nhà máy Ðạm than Ninh Bình trị giá $45 triệu; 10) Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tổng Công Ty Dầu Khí Ngoài Khơi Quốc Gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa Thuận Thăm Dò Chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ.

Nói tóm đây là cách Trung Quốc ràng buộc VN theo bản đã ký với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng nhân chuyến viếng thăm 2012.Đây là một cách “cột chân” VN vào phía Trung Quốc.

Hội Nghị ASEAN và diễn đàn ARF

Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) ngày 2/7/2013 tại Brunei, (2) ASEAN chứng tỏ có sự đoàn kết hơn và thông cáo chung đề cập đến “các vấn đề và diễn biến gần đây” ở biển Ðông, xác định quan điểm chung của ASEAN qua “6 nguyên tắc về biển Ðông”, và “tham khảo chính thức” với TQ để sớm hoàn tất Quy tắc ứng xứ (COC).Nói tóm lại, trên giấy tờ ASEAN có đoàn kết hơn, khác với tình huống năm ngoái tại Cambodia.

Chuyến viếng Thăm Hoa Kỳ của ông TTS

Cuộc viếng thăm Hoa Kỳ của ông TT Sang (3) đã mang lại một số điểm tích cực. Bản thông cáo chung Mỹ-Việt nói nhiều điều nhưng chỉ chung chung mà thôi kể cả việc đối tác chiến lược toàn diện Mỹ-Việt. Hai bên quyết định xác lập quan hệ “Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ” nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Trong tuyên bố chung (4) có đoạn: "Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama đồng thời tái khẳng định ủng hộ nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và tranh chấp lãnh thổ…nhấn mạnh giá trị của việc tuân thủ đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC), và tầm quan trọng của việc khởi động đàm phán để hoàn tất một bộ Quy tắc ứng xử (COC) có hiệu quả."

Điều quan trọng trong tuyên bố chung là "Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận tầm quan trọng của quan hệ thương mại ngày càng tăng giữa hai nền kinh tế, và đặc biệt nhắc tới: Bản ghi nhớ giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ về hỗ trợ thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng ở Việt Nam, Thỏa thuận khung triển khai dự án phát triển mỏ Cá Voi Xanh ngoài khơi Việt Nam giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Công ty Exxon Mobil, Thỏa thuận hợp tác giữa Tổng Công ty thăm dò, khai thác dầu khí (PVEP) và Công ty dầu khí Murphy..." [Trước đây, nên nhớ là TQ đã “xí” phần biển của các công ty dầu Mỹ và Ân, cho đấu thầu, hăm dọa các công ty Mỹ cũng như các công ty Ấn Độ làm việc trên thềm lục địa VN ở Biển Đông. Các công ty Mỹ đã khựng lại nhưng các công ty Ấn đã được chính phủ Ấn ủng hộ.Nay chính phủ Mỹ đã làm như vậy đối với các công ty Mỹ.] Điều quan trọng là Hoa Kỳ công nhận các công ty này làm việc hợp pháp trên thềm lục địa Việt Nam. Đây là quan điểm rõ ràng của Hoa ỳ trong việc làm ăn với Việt Nam ở Biển Đông và gián tiếp công nhận luật biển UNCLOS đối với VN và gián tiếp Mỹ cho là đường lưỡi bò không áp dụng trong trường hợp này.

Chuyến viếng thăm của ông TTS lại quan trọng hơn khi ông phát biểu công khai tại Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và các vấn đề Quốc tế (CSIS) chiều thứ Năm 25/7, khi ông TTS nói về đường lưỡi bò.Tại cuộc tọa đàm ông Sang nói: "Chúng tôi không thấy có nền tảng pháp lý hay cơ sở khoa học nào cho tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và do vậy chính sách nhất quán của Việt Nam là phản đối kế hoạch đường chín đoạn của Trung Quốc".Như vậy là các ông Nguyễn Tấn Dũng,Trương Tấn Sang đã cùng tuyên bố lập trường chính thức của VN về Biển Đông.(5)

Tóm lại chuyến viếng thăm của ông TTS đã có những thành công nhất định về kinh tế, về thềm lục địa VN và việc xây một khung làm việc giữa hai bên. Chuyến đi Hoa Kỳ của ông TTS đã là cách trả lời “khéo léo” về yêu sách TQ tại Biển Đông, về việc gặp Tập Cận Bình tại Trung Quốc. Nhưng để tiến đến “đối tác toàn diện với Hoa Kỳ” thì VN cần phải làm một bước nữa - giải quyết các vấn đề nhân quyền để có thể mua vũ khí, để dần tách ra khỏi ảnh hưởng TQ. Việc này nhanh hay chậm nay tùy thuộc phía Việt Nam.

Chuyến viếng thăm của Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị


Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (6) đã đến Việt Nam trong một chuyến thăm chính thức 3 ngày kéo dài đến ngày 06/08.Ông ta đã có những cuộc tiếp xúc với Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng. Có thể nói là chuyến đi ASEAN của Ngoại trưởng Vương Nghị được coi là chiến lược “ chia để trị” của Bắc Kinh nhằm vào ASEAN.

Việc ông Vương Nghị không gặp ông TTS, có phải là dấu hiệu cố ý chia rẽ lãnh đạo VN?

Đảng lập 7 đoàn kiểm tra tham nhũng

Theo Thông tấn xã Việt Nam (7) thì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã ký quyết định thành lập 7 đoàn kiểm tra các vụ tham nhũng nghiêm trọng và sẽ hoạt động từ ngày 15/08 đến ngày 30/09/2013.

Liệu đây có phải cuộc tranh giành quyền lực giữa Đảng và Chính phủ ở Việt Nam hay là phe thân TQ muốn “phá đám -ngăn cản” các bước tiến đi của Việt Nam muốn xích lại gần Hoa kỳ?

Phân Tích/Đánh giá

Ða số người VN đều biết ý đồ thâm hiểm của TQ-Ðại Hán, kể cả các phe phái trong ĐCSVN thân hay không thân TQ.

Đối với trí thức và các giới trong nước, chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Sang được coi như một cơ hội. Bài của GS Tương Lai và thư của 82 trí thức gởi ông TTS trên mạng Boxít VN (8) là một ví dụ.Theo ông Lê Hiếu Đằng (9) thì “…Thực tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã tập hợp được những khuynh hướng có chủ trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo Hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí thức tiêu biểu ở trong Nam ngoài Bắc (8). Việc đóng góp Hiến Pháp của nhóm 72, của các tôn giáo, đa số các người có ưu tư đến đất nước đều cho thấy là quy trình phải đi đến Dân chủ - đa nguyên (10) một cách ôn hòa, tránh các xáo trộn gây nhiều bất trắc mới giúp VN giữ biển đảo và độc lập.

Các cộng đồng VN tại hải ngoại cũng nghĩ như vậy và cũng mong muốn một Việt Nam dân chủ, nhân quyền. Chúng ta chỉ có thể làm được thế khi có liên kết trong và ngoài nước trên căn bản quyền con người – dân chủ - ôn hòa. Có những dấu hiệu khả quan vì các cộng đồng VN tại hải ngoại, các công dân của Anh, Canada, Ðức, Mỹ, Pháp, Úc, vv. đã và sẽ ảnh hưởng đến VN, đến nhân quyền - đến việc trả tự do cho các blogger, các nhà tranh đấu ôn hòa, đến cả việc “hòa hợp” với người chết đang nằm tại Nghĩa Trang Biên Hòa, v.v... [Việc TT Obama có nhắc với ông TTSang đến cộng đồng VN tại Mỹ và việc ông tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn và thứ trưởng ngoại giao CSVN bàn về Nghĩa trang Biên Hòa là các dấu hiệu của các vấn đề này]. Hiệncó nhiều phái đoàn quân sự CSVN viếng thăm Ngũ Giác Ðài (không chỉ có phái đoàn của Trung Tướng Đỗ Bá Tỵ mà thôi) cho thấy sự tiến bộ trong việc đối thoại giữa hai quân đội. Và đây là chính sách của Hoa kỳ đối với Việt Nam.

Tóm lại chuyến đi của ông Trương Tấn Sang đã có phần thành công nhất định, nhưng cần thay đổi thêm, cần làm thêm các bước tiến thì mới được sự ủng hộ của Quốc Hội Mỹ.

Kết luận

Ý chí của lãnh đạo Việt Nam muốn “thoát Tàu” và chuyển hướng ngày càng rõ. Nhưng các lãnh đạo CSVN đang chơi trò chơi cá nhân, mỗi người đóng một vai cạnh tranh lẫn nhau – cản đường chuyển đổi của dân Việt Nam.

Trước mắt, chuyến đi Hoa kỳ của ông TTSang đã mang lại một số thành quả nhất định.Nhưng vẫn còn một số vấn đề tồn tại đè nặng trên quy trình “lột xác – dân chủ hóa một cách ôn hòa” hầu ra khỏi cái tròng TQ.Muốn thành đối tác chiến lược với Mỹ, được nhập vào TPP và giữ vững bờ cõi VN trước người khổng lồ phương Bắcthì tự mình phải có chuyển động.Tại Việt Nam chúng ta đã thấy sự chuyển động rõ ràng của trí thức, của giới trẻ và các tôn giáo - nói chung sự đòi hỏi của dân chúng về một thể chế dân chủ hơn. Nhưng thái độ của phía lãnh đạo thì chưa bớt "hèn với giặc" chút nào ngoài vài lời tuyên bố cửa miệng, trong khi phần "ác với dân" thì xem ra vẫn có mòi tăng tiến đều đều.Tại sao?Vì vẫn muốn nắm quyền toàn trị độc đảng?Vì nội bộ vẫn đang lủng củng phe phái đấu đá nhau? Nghị định 72 vừa ban hành với ý đồ bóp nghẹt tiếng nói của dân chúng trên Internet phải chăng nhằm đưa xã hội Việt Nam về lại thời "bao cấp tinh thần" mọi thứ đã có nhà nước lo? Hay đó chẳng qua là để ngăn chặn tiếng nói của "đối phương" trong cuộc diện đấu đá nội bộ? Dù lý do nào, hành viđó cũng là biểu hiệu đi ngược lại con đường tiến bộ của xã hội, không phù hợp một tí nào với những dấu hiệu "làm thân với Tây phương" trong mấy màn đi dây còn đầy run rẩy vừa diễn ra.

Nhưng dù người làm xiếc có trở nên điêu luyện cỡ nào trong màn đi dây, thì yếu tố đầu tiên phải có là: không bao giờ biến dân thành kẻ thù của mình. Vì như thế thì tự khắc chân sẽ run, và kết quả nhiều phần là sẽ lộn cổ xuống vực sâu.

Tại Shangri La ông NTD có nói đến Miến Điện nhưng liệu các lãnh đạo VN có đủ bản lãnh của một Then Sein để phá tung sự toàn trị của đảng CS đang phủ chụp trên đất nước Việt Nam hiện nay chăng?

Các lãnh đạo VN thừa biết phải làm gì để có sự hậu thuẫn của trí thức, của tuổi trẻ, của nông dân, nói chung là cả toàn dân. Trong khi đó, các cộng đồng VN tại hải ngoại đang theo dõi một cách tích cực và sẽ hết lòng ủng hộ sự thay đổi tại quốc nội để tiến tới dân chủ hóa một cách ôn hòa.

Tiến Sĩ Đinh Xuân Quân

------------------
Chú thích:
1) Xem cùng tác giả Diễn Ðàn Thế kỷ 11/6/2013 www.diendantheky.net
3) Lãnh đạo VN cấp tốc sang Mỹ sau thất bại của chuyến công du TQ, RFI ngày 22/7/2013
8) http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130722-nhan-si-tri-thuc-khuyen-nghi-chu-tich-nuoc-truong-tan-sang-truoc-chuyen-cong-du-hoNhân sĩ trí thức khuyến nghị chủ tịch nước VN trước chuyến viếng thăm Mỹ, RFI ngày 22 tháng 7, 2013.

(Diễn Đàn Thế Kỷ)

Tống văn Công - Cải cách hay sụp đổ!

                            (Đọc “Tôi biết làm thế nào” của Tập Cận Bình)

I. TÔI THƯỜNG ĐỂ TÂM CÂU THÀNH NGỮ TRUNG HOA: ĐỒNG  BỆNH TƯƠNG LIÊN.

“Tôi biết làm thế nào?” là bài  được tạp chí Tiền Tiêu, Hồng Công, tháng 4-2013 đăng theo ghi âm phát biểu nội bộ của Tổng bí thư Tập Cận Bình.  Viet-studie  đăng bản tiếng Việt  ngày 14-7 . Đã gần tròn một tháng,  Bắc Kinh vẫn không bác bỏ, vậy có thể tin bài này có thật.

Tôi thường để tâm đến Đảng Cộng sản Trung Quốc, không chỉ vì nó liên quan đến vận mệnh của đất nước  mà còn   liên quan đến vận mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam  như một thành ngữ  Trung Hoa: “đồng bệnh tương liên”. Năm 2010 , tôi  viết bài “Những điều nên học và không nên học  từ Trung Quốc”,  cho rằng thuyết “Mèo trắng, mèo đen” của Đặng Tiểu Bình và thuyết “Ba đại diện” của Giang Trạch Dân có ý nghĩa tích cực. Bởi các lý thuyết  này giúp  Đảng Cộng sản Trung Quốc vứt bỏ ý thức hệ cộng sản, thẳng tiến vào chủ nghĩa tư bản (nhiều học giả kèm thêm mấy chữ “hoang dã”, “thân hữu”)  mà vẫn có thể khẳng định rằng đang tiến lên  chủ nghĩa xã hội, giữ yên lòng các lão thành cách mạng.
Ngày 25-2-2010, Tuần Việt Nam đưa bài này lên mạng, lập tức  hai cơ quan quản lý nhà nước buộc phải lấy xuống ngay. Theo Tổng biên tập Nguyễn Anh Tuấn, các cơ quan này  sợ mất lòng Đảng bạn, vì bài viết chỉ trích hai điều không nên học Đảng Cộng sản Trung Quốc:
1-Tham nhũng, gây khoảng cách giàu nghèo rất lớn ;
2- Đàn áp đẫm máu phong trào đòi dân chủ ở Thiên An Môn.
Cả hai vấn đề nay  đều được  Tổng bí thư Tập Cận Bình nhắc đến. Các nhà lý luận chính thống của Việt Nam vẫn không đồng ý hai thuyết nói trên, họ cho rằng “mèo trắng, mèo đen” là thứ chủ nghĩa cơ hội. Kể ra  cũng có lý, bởi để mua lòng “con hổ giấy”, ông Đặng đã  không run tay chỉ đạo  hai cuộc chiến biên giới phía Bắc và Tây Nam để  lấy máu Việt Nam đem đặt cược. Tuy dân tộc Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam đã nếm quá nhiều vị đắng từ người đồng chí “bốn tốt”, nhưng  tôi vẫn cứ  nuôi ảo vọng trước khi đọc Tập Cận Bình, người cầm trịch của thế hệ lãnh đạo thứ 5 ! Tuy nhiên…
II- ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG  QUỐC  ĐÃ THAY ĐỔI  BẢN CHẤT HAY VỐN NÓ LÀ  NHƯ THÊ ?
Tập Cận Bình có những luận điểm về Đảng cộng sản Trung Quốc rất đáng kinh ngạc :
1-“ Đảng Cộng sản chúng ta làm gì đều xuất phát từ lợi ích căn bản và logic của chúng ta”.
 Nghe cái “lợi ích căn bản” này không khỏi nhớ chuyện chia quả thực trong cải cách ruộng đất. Ở thế kỷ trước, các Đảng cộng sản đều dạy cho  đảng viên  của mình về Đạo đức cách mạng (Hồ Chí Minh) và Bàn về tu dưỡng của đảng viên cộng sản (Lưu Thiếu Kỳ). Cả hai ông đều nói, Đảng cộng sản chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân, ngoài ra Đảng không có  lợi ích nào khác. Hồ Chí Minh còn nói rõ:” Đảng không phải là một tổ chức để làm quan, phát tài. Nó làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Nếu đảo ngược lại Đảng làm gì cũng xuất phát từ lợi ích của mình, thì hẳn là chẳng  đếm xỉa tới nỗi  khổ và nguyện vọng của nhân dân!
2- “Nếu xâm phạm quá mức tới lợi ích của quần chúng nhân dân, rõ ràng sẽ tác động không tốt tới lợi ích lâu dài của Đảng”.
Câu này cho thấy lợi ích của Đảng và lợi ích của nhân dân  khác nhau. Do đó,  Đảng chỉ nên xâm phạm  lợi ích của nhân dân vừa vừa, phải phải, để dân còn chịu được lâu dài. Nhân dân đang ở vị thế thần dân, tưởng mình còn  nhờ  ơn mưa móc,  không quá bức xúc mà  nổi loạn!
3 - “Chúng ta phải làm thế nào để kiên trì không mệt mỏi sự nghiệp của Đảng ta, củng cố cho được chính quyền mà Đảng chúng ta phải chịu bao nhiêu gian khổ mới giành được”.
Như vậy chính quyền  do Đảng giành lấy thì nó mãi mãi là của Đảng. Trước kia, chúng tôi được dạy rằng “Marx nói quần chúng sáng tạo ra lịch sử”, và “Lê nin nói, cách mạng là ngày hội của quần chúng”(Lê nin toàn tập, tiếng Việt,tập 11, trang 131). Hồ Chí Minh nói “Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương  do dân cử ra”(TT, ST, 1985,T1, trang 299 và “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”(TT,ST, 1984, T4, trang 283).
Có lẽ các luận điểm của Tập Cận Bình  xuất phát từ việc kiên trì chủ nghĩa Mao :”Tôi vẫn phải nhấn mạnh tinh thần cách mạng của đồng chí Mao Trạch Đông”. Mao là cha đẻ   thuyết “Súng đẻ ra chính quyền”. Có rất nhiều thức giả trong và ngoài Trung Quốc  đánh giá Mao rất tệ hại : Đảng viên cộng sản, đại tá Tân Tử Lăng, trong quyển sách viết về Mao đã nhận định:” Nhảy vọt lớn và Đại cách mạng văn hóa vô sản là sự phát triển ác tính của chủ nghĩa xã hội bạo lực Mao Trạch Đông. Ba năm nhảy vọt lớn, cả nước có 37, 55 triệu người bị chết đói”. Ông Lý Quang Diệu nói:”Ông ta thật điên rồ”. Nguyên Thủ tướng Đức Helmut Schmidt nói:”Mao là một tay tàn bạo”. Giáo sư Francis Fukuyama, đại học Stanford nói, Mao là một “ngụy vương”…
Nhưng tại sao nhà cải cách Đặng Tiểu Bình lại  chủ trương bảo vệ Mao? Hãy nghe Helmut Schmidt kể với Lý Quang Diệu như sau:”Năm 1983, tôi có buổi trò chuyện với ông ấy. Hai chúng tôi và người phiên dịch. Khi đó, chúng tôi đã quen nhau gần mười năm cho nên nói chuyện khá cởi mở và thân mật.Tôi giễu cợt:” Nhìn kỹ vào thực tế thì thấy những người cầm quyền ở Bắc Kinh không trung thực cho lắm; họ tuyên bố mình là cộng sản, nhưng thực ra thì họ theo Khổng giáo.”  Ông Đặng có vẻ hơi sốc một chút, mất vài giây, nhưng sau đó thì ông ấy đáp lại vỏn vẹn ba từ. Ba từ đó là :”Thì đã sao?”. Ông Đặng công nhận mình theo Khổng giáo,  một học thuyết bảo vệ vương quyền, xưa  là các hoàng đế Trung Hoa,  nay là những vị “vua tập thể”! Do đó, Đặng  bảo vệ Mao đâu có gì khó hiểu! Có lẽ chúng ta đã nhầm, Đảng Cộng sản Trung Quốc xưa nay vốn vẫn y như thế!
III -  GIẢI Mà VỤ THẢM SÁT THIÊN AN MÔN.
Tập Cận Bình nói:”Phong trào dân chủ Thiên An Môn ngày 4-6-1989 cho tới nay là cái cớ để các thế lực phản động trong và ngoài nước công kích Đảng ta. Đồng chí Triệu Tử Dương cũng do đó mà bị hạ bệ và đưa lại hậu quả nghiêm trọng”. Đây không phải ý kiến riêng của Tập Cận Bình mà là quan điểm xuyên suốt  của các thế hệ cầm quyền Bắc Kinh. Phân tích vụ thảm sát Thiên An Môn sẽ cho thấy rõ 3 quan điểm lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
 1- CÁC THẾ  LỰC THÙ ĐỊCH CHÍNH LÀ NHÂN DÂN NHEN NHÓM PHONG TRÀO DÂN CHỦ .
  Mặc dù nhà cầm quyền Trung Quốc đã ký kết các Công ước  dân chủ, nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, nhưng họ luôn luôn bài bác cái gọi là “dân chủ, nhân quyền của phương Tây”. Các nhà lý luận Trung Quốc cho rằng Mỹ và Phương Tây muốn  Trung Quốc “Tây hóa”, hòng chống phá   chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.  Lưu Minh Phúc tác giả  Giấc mơ Trung Quốc ( Gần đây, Tập Cận Bình nêu lên như là một quyết sách của chính ông) cho rằng Mỹ đưa ra “3 định luật chính trị” nhằm lật đổ địa vị cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc
1-Chế độ một Đảng là nguồn gốc tham nhũng.
2- Liên Xô sụp đổ là do chỉ có một Đảng cầm quyền.
3- Phải thực hiện đa Đảng  thì mới là nhà nước dân chủ.
Lưu Minh Phúc cho rằng: “Đảng cộng sản Trung Quốc trường kỳ cầm quyền sẽ bác bỏ “3 định luật chính trị  kiểu Mỹ”(trang 586). Ông cho rằng, Trung Quốc sẽ vô hiệu hóa con át chủ bài “dân chủ kiểu Mỹ” bằng “chế độ thống nhất hữu cơ gồm có 3 yếu tố: sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhân dân làm chủ và Nhà nước pháp trị”( trang 579).
Thực tế cho thấy “chế độ thống nhất hữu cơ” này đưa tới: Đảng độc quyền, Đảng làm chủ, Đảng trị. Giáo sư Trương Duy Vi  trong đối thoại với giáo sư Francis Fukuyama, cho rằng hệ thống bầu cử Mỹ chỉ là “trình diễn dân chủ”. Trung Quốc, ngược lại, “ đó là quốc gia chỉ có thể được điều hành bởi những người có đủ tài năng và kinh nghiệm, được lựa chọn theo chế độ tuyển dụng nhân tài truyền thống”. Ông còn lạc quan hơn cả Lưu Minh Phúc về sự trường tồn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, khi nêu ra khái niệm “khí” của văn hóa Trung Hoa: Mỗi triệu đại hưng thịnh trong lịch sử Trung Hoa đều kéo dài từ 200 đến 300 năm. Sự trỗi dậy hiện nay, do đó có thể coi là chỉ  mới bước vào giai đoạn khởi đầu! Ông đưa ra 4 điều bất cập của chế độ dân chủ, trong đó có tình trạng xấu là rất  khó tạo ra sự đồng thuận cao, một Đảng thắng cử chỉ đạt 51% phiếu bầu.  Trung Quốc không bị ràng buộc bởi thứ dân chủ ấy, nhờ đó  Đảng có thể  quyết định được mọi việc một cách rất nhanh chóng.
Các học giả của Đảng không biết rằng, Tocqueville đã từng lo ngại nguy cơ “chuyên chế của đa số” ông cho rằng phải có  nền quản lý phi tập trung để góp phần cho cá nhân bớt bị bộ máy quan liêu đè nén, và cần phải có tòa án độc lập để đối trọng với quyền lực của đa số. Huống hồ ở Trung Quốc hiện nay là nền chuyên chế không phải của đa số mà là của chế độ toàn trị  một Đảng, lại không có nền  tư pháp độc lập!
2- QUÂN GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN LÀ CÔNG CỤ CỦA ĐẢNG.
      
Đảng Cộng sản Trung Quốc từ chỗ coi Quân Giải phóng Nhân dân  là công cụ của nhân dân như tên gọi của nó, có nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh lâu dài  để giải phóng nhân dân khỏi ách thống trị ngoại bang và các thế lực cường quyền áp bức. Dù tên gọi vẫn không đổi, nhưng ngày nay Quân Giải phóng Nhân dân  bị buộc  phải  là công cụ của Đảng để đàn áp nhân dân gây thảm sát ở Thiên An Môn. Trong lịch sử, các nhà nước độc tài đều dùng bạo lực đàn áp nhân dân, nhưng vụ thảm sát Thiên An Môn đứng đầu về mức độ man rợ. Người ta huy động  quân đoàn 27 và 28  từ  xa, âm thầm tiến vào thủ đô từ  4 giờ khuya, xông thẳng vào  những trí thức,  sinh viên, công nhân  trong  tay không tấc sắt,  bắn chết và  nghiền nát  hơn 800 người, làm bị thương hơn 10.000 người !
Hiện nay, để đáp ứng tham vọng bá quyền, Tập Cận Bình đang đòi hỏi Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đáp ứng cho được “cuộc chiến tranh quy mô lớn trong điều kiện kỹ thuật cao phức tạp, có Mỹ tham chiến”!
3- ĐỒNG THỜI  THẢM SÁT QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA CÁC DÂN TỘC.
       
Vụ thảm sát  dân chủ ở Thiên An Môn cũng đồng thời  thảm sát quyền tự quyết của các dân tộc vừa manh nha trong các  nhà lãnh đạo có tư tưởng cải cách  dân chủ,  để nuôi lớn chủ nghĩa dân tộc  sô vanh Đại Hán. Trước khi gây ra vụ thảm sát Thiên An Môn, Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Quân ủy Trung ương Đặng Tiểu Bình đã  sa thải liên tục hai Tổng bí thư có tư tưởng cải cách chính trị là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương.
Hồ Diệu Bang bị kết tội “sai lầm trong những nguyên tắc chính trị”: Cảm thông, lắng nghe và  tiếp thu  ý kiến của trí thức về tự do, dân chủ. Tán thành tự do ngôn luận, tự do báo chí. Rút cán bộ người Hán khỏi Tây Tạng, để cho người Tây Tạng điều hành việc quản lý khu tự trị của mình.
Triệu Tử Dương  kế nhiệm và cũng kế tục tư tưởng  Hồ Diệu Bang: Chủ trương phát triển kinh tế phải đi đôi với dân chủ hóa chính trị. Chấp nhận đối thoại với trí thức, sinh viên đang biểu tình ở Thiên An Môn.  Bỏ lá phiếu duy nhất chống quyết định thiết quân luật, để gây ra vụ thảm sát. Trong  hồi ký viết khi đã bị quản chế, ông cho rằng:”Hệ thống nghị viện dân chủ Phương Tây là con đường duy nhất giúp cho Trung Quốc có thể giải quyết nạn tham nhũng và cách biệt giàu nghèo to lớn”.
Ngay khi còn “ẩn mình chờ thời”, những nhà lãnh đạo nuôi  tư tưởng quân quyền đã  thẳng tay  dìm nhân dân mình vào bể máu Thiên An Môn và  nuốt chững các dân tộc Tây Tạng, Uyghur Tân Cương, Nội Mông. Vậy thì ngày nay, khi đã trỗi dậy, tự cho mình tư cách sắp đứng đầu thế giới, việc họ  ngang nhiên tuyên bố “các lợi ích cốt lõi”, thè “lưỡi bò”  liếm trọn Biển Đông, đe dọa các nước trong khu vực là sự phát triển logic của chủ nghĩa bá quyền!
IV- CẮT CÁI NGỌN THAM NHŨNG, GIỮ CÁI GỐC TOÀN    TRỊ!
       
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có nhiều nghị quyết về chống tham nhũng. Hệ thống  tuyên huấn Đảng, bộ máy truyền thông nhà nước thường xuyên, rầm rộ tuyên truyền  sâu rộng nhằm tạo niềm tin rằng không cần thực hiện đa đảng, cũng không cần tam quyền phân lập kiểu phương Tây, vẫn có thể chống tham nhũng thắng lợi. Chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc là thực hiện dân chủ trong Đảng thay thế cho dân chủ ngoài xã hội, phân chia định chế tổ chức của Đảng thành 3 bộ phận:1-  Ra quyết định. 2- Thực thi chính sách. 3- Giám sát. Tức là chuyên môn hóa theo chức năng “3 định chế”  trong nội bộ của Đảng.
Cách làm đó  giữ cho  Đảng đứng trên sự giám sát, đứng trên Hiến pháp. Ủy ban trung ương về Chính trị và Pháp luật của Đảng (CCPL- Chính pháp Ủy) chỉ đạo các cơ quan chức năng của nhà nước như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ An ninh quốc gia. Đây được coi là bộ máy quyết định tiêu diệt tham nhũng của Trung Quốc.
Nhiều nhà lý luận lớn của họ viết sách cổ vũ cho niềm tin này. Trong Giấc mơ Trung Quốc của Lưu Minh Phúc xuất bản năm 2009 có đoạn: “Làm nên kỳ tích “Trị quốc liêm khiết lâu dài” hiệu quả hơn cạnh tranh đa Đảng”. Ông  thuyết lý vấn đề  một cách rổn rảng dài dòng: ”Chúng ta cần phải đi con đường liêm khiết đặc sắc Trung Quốc, xây dựng quốc gia đặc sắc liêm khiết Trung Quốc, xã hội liêm khiết đặc sắc Trung Quốc. Trung Quốc giàu mạnh ắt phải là Trung Quốc liêm khiết. Xây dựng một hệ thống chính quyền liêm khiết  đặc sắc Trung Quốc là như thế nào? Đây là một vấn đề cần bứt phá và sáng tạo mới.” Nhưng sau đó không thấy ông chỉ ra thế nào là sự “ bứt phá và sáng tạo mới”!
Giáo sư Trương Duy Vi  cho rằng tham nhũng là vấn đề kinh tế chứ không phải chính trị, khi nói “các vùng đã phát triển của Trung Quốc miễn dịch tốt hơn với tham nhũng” và kết luận rằng để chống tham nhũng đạt hiệu quả thì “Quản trị tốt là điều quan trọng hơn dân chủ hóa theo phong cách Phương Tây”.  Tập Cận Bình nhiều lần nói về nạn tham nhũng, gọi nó là “con hổ” và đồng ý với Trưởng ban kiểm tra kỷ luật Trung ương Vương Kỳ Sơn rằng cách làm hiện nay chỉ là “xì hơi khi quả bóng quá căng”, “lấy đũa khuấy nồi canh đang sôi để nước không tràn”, “chỉ là trị ngọn chứ không trị tận gốc”. Như vậy Tập Cận Bình đã phải công nhận sự phá sản của chiến lược chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Thực ra  từ lâu người dân Trung Quốc đã thấy điều đó.  Vụ Bạc Hy Lai vỡ ra cho thấy những kẻ tham nhũng lớn không phải là cá biệt mà là sản phẩm phổ biến của chế độ Đảng đứng trên Hiến pháp và pháp luật. Chế độ đảng trị đang dung chứa ngày càng  nhiều những “đồng chí chưa bị lộ”. Trong cuộc đối thoại với Trương Duy Vi, giáo sư Francis Fukuyama có nhận xét xác đáng: ”Ở nhiều khía cạnh khác, cơ cấu quản trị xã hội ở Trung Quốc ngày nay lại rất giống với những gì từng tồn tại dưới triều đại Tần Thủy Hoàng. Đó là một chính phủ quan liêu tập trung có chất lượng cao được xây dựng trên sự tuyển chọn khách quan và các luật lệ mang tính hình thức”. Và, “Ngày nay trong chính phủ Trung Quốc tính giải trình và chịu trách nhiệm theo chiều từ cấp dưới lên cấp trên trong hệ thống do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thay vì Hoàng đế hay vua như trước kia”. Và “đặc tính quan liêu luôn mang lại tình trạng tham nhũng và điều hành yếu kém.” Trả lời bạn đọc BBC “ vì sao tham nhũng là vấn nạn lớn của Trung Quốc?”, nhà bình luận quốc tế kỳ cựu John Simpson đáp:” Nó luôn là vấn nạn lớn khi các xã hội khép kín đột nhiên tiếp xúc với tiền bạc mà không có sự giám sát phù hợp”. Có lẽ nên nói thêm: Tuy đã mở cửa, nhưng bên trong xã hội Trung Quốc, vẫn tiếp tục là một xã hội khép kín, vì nó không có tự do tư tưởng, tự do báo chí, không có  một xã hội dân sự đúng nghĩa.
Tập Cận Bình đặt câu hỏi và trả lời:”Khi nào chúng ta mới trị được tận gốc nạn tham nhũng ? Có lẽ phải đợi tới khi mà lý luận, đường lối, chế độ bắt đầu đứng trước sự điều chỉnh thực sự. Có người hỏi, tới khi đó có quá muộn không? Tôi cho rằng có lẽ chúng ta phải tìm câu trả lời trong cuốn sách “Chế độ cũ và Đại cách mạng” mà đồng chí Vương Kỳ Sơn giới thiệu với chúng ta.”  Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn muốn nói đến quyển Chế độ cũ và Cách mạng ( L` ancien Régime et la Révolution) của Tocqueville  xuất bản năm 1856 . Tocqueville cho biết đây là tập 1 của bộ Lịch sử Cách mạng Pháp, nhưng cái chết đột ngột đến với ông khiến cho  không có tập 2. Tác phẩm này chứng minh, cách mạng   hoàn tất sự phát triển đã hình thành sẵn trong lòng của chế độ cũ. Ngày 30-11- 2012,  Vương Kỳ Sơn kêu gọi các quan chức và học giả nên đọc quyển sách này. Sau đó, các báo chính thống đều đăng tin này, nhưng tóm tắt nội dung sách méo mó và  chỉ gọn lỏn hai câu:”Chế độ phong kiến trước kia sụp đổ và mất lòng dân, nhưng những cuộc bạo loạn xã hội không đem lại kết quả mà những nhà cách mạng mong muốn. Cả những kẻ thống trị và quần chúng cuối cùng đều bị ngọn lửa phẫn nộ nuốt chửng”.
Từ cách làm này cho  thấy mục đích chính của Tập Cận Bình, Vương Kỳ Sơn chỉ là muốn cảnh báo với các quan chức của Đảng Cộng sản rằng, quan liêu và tham nhũng có thể làm cho một chế độ hùng mạnh phải  sụp đổ. Đồng thời, cảnh báo với  giới  trí thức rằng nếu đòi  dân chủ hóa nhanh chóng, thì  có thể gây ra hỗn loạn, đổ máu và nhiều hậu quả khôn lường. Đây là  thủ đoạn “quản lý thông tin” phục vụ cho điều ông gọi là tiếp tục “3 tin tưởng”  để thực thi  “liệu pháp giữ nguyên”, khiến cho việc chống “con hổ tham nhũng” chỉ nhằm “cái ngọn”, còn “cái gốc” là chế độ toàn trị thì không được động đến bởi sợ “rút dây động rừng”!
V- LỜI GIẢI CỦA NHÀ CÁCH MẠNG VĨ ĐẠI TÔN TRUNG SƠN.
         
Tập Cận Bình nhắc lời Hồ Cẩm Đào, phải sáng tạo, đổi mới  phương pháp quản lý xã hội và bác bỏ “một số dư luận lại cho rằng đây chỉ là chủ nghĩa kỹ trị để tăng cường tính chuyên chế độc đoán của một Đảng”. Các nhà lãnh đạo và học giả Trung Quốc tìm cách chứng minh rằng phát triển kinh tế phồn vinh là bảo đảm vững chắc cho độc quyền lãnh đạo của Đảng. Giáo sư Trương Duy Vi cho rằng Mùa Xuân A rạp không phải là phong trào  tự do mà chỉ là vấn đề kinh tế. Nhiều người  bác bỏ ý kiến này cho rằng: Kỹ sư Bouazizi - người châm ngòi nổ Mùa xuân A rap – tự thiêu không phải vì bị thất nghiệp mà để phản đối sự xúc phạm nhân phẩm!  Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào tìm đến thuyết kỹ trị của các học giả Mỹ  thế kỷ 20, cho rằng có thể  thực hiện một cuộc “cách mạng quản lý” để ổn định xã hội,  không cần phải cải cách chính trị.
Trong Giấc mơ Trung Quốc, tác giả Lưu Minh Phúc có một nhận định đúng là “Làm người cải cách khó hơn làm người cách mạng”…Người cách mạng bao giờ cũng là động lực của cách mạng chứ không thể trở thành đối tượng của cách mạng; người cải cách vừa là động lực cải cách lại vừa là đối tượng của cải cách”. Chứng minh cho việc này, ông cho biết có đến 97% quan chức Trung Quốc phản đối công khai tài sản riêng. Về vấn đề này Việt Nam có câu thành ngữ rất hay “Không ai muốn lấy đá ghè chân mình”!
Những năm gần đây càng ngày càng có nhiều nhân dân và đảng viên cộng sản Trung Quốc công khai  đòi hỏi phải cải cách chính trị.
Ngày 25-12-2012,  hơn 70 trí thức hàng đầu Trung Quốc trình Bản Kiến nghị kêu gọi Ban lãnh đạo mới sau Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc phải  cải cách chính trị, thực hiện bầu cử tự do,  tự do ngôn luận và nền tư pháp độc lập. Kiến nghị có đoạn:” Nếu những cải cách hệ thống chính trị mà xã hội Trung Quốc đang đòi hỏi khẩn cấp tiếp tục bị ghìm nén và tình trạng tham nhũng, bất bình xã hội tích tụ đến mức độ nguy hiểm và bùng nổ thì lúc đó Trung Quốc sẽ một lần nữa để lỡ cơ hội cải cách hòa bình, sẽ chìm  trong hỗn loạn của cách mạng bạo lực”.*
Trước đó, ngày 29-11-2011, giáo sư Tôn Lập Bình, người thày hướng dẫn Tập Cân Bình làm luận án tiến sĩ , đã  phát biểu tại cuộc hội thảo ở Bắc Kinh:”Tôi nghĩ rằng, vào lúc này, dân chúng vẫn còn một chút tin tưởng và cảm tình dành cho chính quyền. Nếu một vấn đề nào đó không được giải quyết mà lãnh đạo xin lỗi thì người dân vẫn cảm động đến khóc. Tuy nhiên cơ hội này không kéo dài. Nhiều lắm là 5 đến 10 năm. Có thể không đến 10 năm. Có thể trên dưới 5 năm. Khi đó chỉ còn một cách là: Cai trị bằng bạo lực, đàn áp bất cứ ai chống đối”. Ông trùm bất động sản Nhiệm Chí Cường viết trên blog của mình: ”Nếu không cải cách sẽ không có Đại hội Đảng lần thứ 19 !” *
Gần đây ở Trung Quốc có hai hiện tượng  rất đáng coi trọng là:
1- ĐANG  XUẤT HIỆN NHIỀU ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN MUỐN THỰC HIỆN  MỘT NỀN DÂN CHỦ ĐA ĐẢNG .
Càng ngày càng có nhiều đảng viên cộng sản cao cấp, đặc biệt là các nhà lý luận của Đảng  lên tiếng yêu cầu thực hiện nền dân chủ kiểu phương Tây. Nhà lý luận nổi tiếng của Đảng cộng sản Trung Quốc, Du Khả Bình viết: ”Sẽ nguy hiểm chết người nếu cho rằng Trung Quốc chỉ cần dân chủ trong Đảng, thay vì một nền dân chủ thực sự cho nhân dân (nhân dân dân chủ) hay dân chủ xã hội ( xã hội dân chủ), cả hai hình thức dân chủ này đều bao hàm bầu cử đại chúng và thực hiện từ cơ sở”.  Giáo sư Vương Trường Giang chủ nhiệm bộ môn xây dựng Đảng của Trường Đảng Trung ương nói: ”Thúc đẩy dân chủ trong nội Đảng không vì thế mà hi sinh dân chủ của toàn xã hội.” Ông dẫn chứng những cuộc khủng hoảng ở Tây Tạng , Tân Cương và những cuộc bạo loạn xã hội nổi lên khắp nơi, rồi nhận định: ” Dân chủ cho xã hội là thứ không thể ngồi chờ mà có được!”. Nữ học giả Từ Trung Quân, nguyên giám đốc Viện nghiên cứu Hoa Kỳ thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội TQ, phê phán các nhà lãnh đạo có quan điểm cho rằng dân chủ là thứ không phù hợp với truyền thống Trung Quốc và “những giá trị phổ quát toàn cầu” chỉ là âm mưu của Phương Tây nhằm chống phá Trung Quốc. Cả ba học giả nổi tiếng nói trên đều là đảng viên cộng sản, vậy tại sao họ lại tán thành nền dân chủ đa nguyên chính trị, sẽ xuất hiện  những chính Đảng cạnh tranh với Đảng của họ?  Những người bảo thủ cho rằng như vậy tức là chống Đảng, phản Đảng.
Thực ra,  những đảng viên trí thức này  hiểu rõ sự  độc quyền toàn trị chính là nguyên nhân gây thoái hóa  Đảng, làm cho Đảng sụp đổ một cách nhục nhã. Hiên nay Đảng đã lâm vào  tình trạng mà Tập Cận Bình  gọi một cách bóng bẩy là ”Đảng phong trong nội bộ Đảng hiện nay không bằng trước đây”. Nếu nói thẳng ra là, một Đảng quan liêu, tham nhũng, phản bội nhân dân! Sự suy thoái của Đảng kéo theo sự băng hoại đạo đức của cả xã hội. Do đó, các đảng viên cộng sản này muốn đặt lợi ích và  tiền đồ dân tộc lên trên quyền lợi ích kỷ của Đảng và cũng là một cách cứu Đảng may ra khỏi bị ghi danh bạo chúa, sau Tần Thủy Hoàng.
2- NHIỀU ĐẢNG VIÊN LÀ SĨ QUAN QUÂN GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN  KÊU GỌI“QUÂN ĐỘI LÀ CỦA QUỐC GIA”.
       Cuối năm 2012, một số đảng viên là sĩ quan Quân Giải phóng Nhân dân phát lời kêu gọi  chủ trương “quân đội là của quốc gia” thay vì “quân đội là của Đảng”. Phong trào này là sự thức tỉnh của các đảng viên là sĩ quan sau những vụ dùng quân đội đàn áp đẫm máu ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông và nhiều cuộc bạo loạn của nông dân bị mất đất đang xảy ra  khắp nơi. Cũng có thể nói sự thức tỉnh ấy được  nhen nhóm từ ngọn lửa âm ỉ  ở vụ thảm sát Thiên An Môn hơn 20 năm trước. Giáo sư Tiễn Lý Quần của Đại học Bắc Kinh cho rằng các “thái tử Đảng” trong quân đội giải phóng nhân dân sẽ ủng hộ chủ trương này. *
Hai hiện tượng nói trên cho thấy xu thế  của phong trào dân chủ đang phát triển rất sâu sắc. Tờ  Hoàn cầu Thời báo (bản tiếng Anh) thông báo cuộc thăm dò của họ ở 7 thành phố  Trung Quốc cho thấy có 63,6% người được hỏi không phản đối việc chấp nhận nền dân chủ kiểu phương Tây cho Trung Quốc. Có lẽ, Tập Cân Bình và các nhà lãnh đạo thế hệ thứ 5 của Đảng Cộng sản Trung Quốc không cần tìm sách ở đâu xa mà chỉ cần học lại lời dạy  của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn ngày 9-3-1924 trong bài thuyết giảng của ông với quốc dân:
“Thế giới ngày nay là thế giới gì? Là thế giới dân quyền! Tuy mầm mống đã có từ thời Hy Lạp, La Mã cách đây hơn 2000 năm, nhưng nó mới được xác lập vững vàng cách đây 150 năm… Dân quyền là người dân đấu tranh với nhà vua, cũng có thể nói là người thiện đấu tranh với kẻ ác, công lý đấu tranh với cường quyền. Ở thời đại này, dân quyền dần dần phát triển. Chủ trương nền chính trị dân quyền, chúng ta phải khảo sát tình hình dân quyền ở các nước trên thế giới để thực hiên cho tốt. Bởi vì từ khi có lịch sử, Trung Quốc chưa hề thực hiện chế độ dân quyền. Lịch sử Trung Quốc trải 4000 năm, có thời thịnh trị có thời loạn ly, nhưng đều áp dụng chế độ quân quyền.”
Một tập trung trí tuệ Trung Hoa mới mẻ và sát cuộc sống hiện nay hơn, đó chính là Bản Linh bát Hiến chương ra đời ngày 10-12-2008 bởi 300 người con ưu tú nhất của Trung Hoa đứng đầu là Lưu Hiểu Ba, người sống sót trong vụ thảm sát Thiên An Môn. Linh bát Hiến chương có những chữ lớn là: Tự do, Nhân quyền, Bình đẳng, Cộng hòa, Dân chủ, Hiến trị. Và những điều “ nhiệt liệt cổ vũ” là: Một Hiến pháp đảm bảo nhân quyền, dân quyền; Một nhà nước phân chia và hạn chế quyền lực; Một nền tư pháp độc lập đứng trên mọi đảng phái; Quân đội, Công an chịu trách nhiệm trước chính phủ, không dính dáng với đảng phái…
Xin cầu chúc  Trung Quốc trỗi dậy cũng đồng thời là  Trung Quốc thức tỉnh tự do dân chủ! Đó không chỉ là hạnh phúc của 1,3 tỉ  nhân dân Trung Quốc anh em! Đó còn là may mắn cho lân bang  và  toàn nhân loại yêu chuộng  hòa bình!
                                                               
Tống văn Công
11- 8 2013
                                                                
-----------------
.* Theo “Hồi kết cho chế độ chuyên chế dẻo dai của Đảng cộng sản Trung Quốc”… của Cheng Li (Lý Thành) đã đăng trên Thời đại của  Viet-studies.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét