Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2013

Lượm tin tức - Lạm bàn về chuyến thăm Khựa của Chủ tịch

Còn tệ hơn một tội, đây cũng là một sai lầm


Chuyến viếng thăm chính thức Trung Quốc ba ngày của ông Trương Tấn Sang nhân danh nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phá mọi kỷ lục về số lượng hiệp ước được ký kết. Bản tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc sau chuyến viếng thăm này cho biết hai bên đã đồng ý và thỏa thuận trên nhiều điểm rất quan trọng và đã ký kết tám hiệp ước và "nhiều văn kiện hợp tác kinh tế khác". Nhiều là bao nhiêu? Chắc chắn phải là quá dài để có thể kể hết dù đòi hỏi cơ bản của một thông cáo chung quan trọng như vậy là phải đầy đủ và chính xác. Nhưng dầu sao thì những hiệp ước được ký kết cũng không quan trọng bằng những thỏa thuận mà bản tuyên bố chung tiết lộ. Không biết những thỏa thuận này có được viết thành văn bản hay không.
Câu hỏi đầu tiên là ông Trương Tấn Sang đã ký kết và cam kết những gì? Nội dung các thỏa hiệp không hề được công bố, ngay cả trên trang báo điện tử của bộ ngoại giao nơi trên nguyên tắc các văn kiện đối ngoại được trình bày đầy đủ nhất. Người ta chỉ được nghe ông bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh qua một cuộc "phỏng vấn báo chí" sau chuyến công du, nhưng bài phỏng vấn này không giải thích gì cả, nó còn sơ sài hơn hẳn bản tuyên bố chung. Vả lại bộ trưởng ngoại giao Việt Nam không phải là người có tiếng nói quyết định trong chính sách đối ngoại, ông không phải là thành viên bộ chính trị, cũng không phải là trưởng ban đối ngoại trung ương và cũng không phải là phó thủ tướng. Riêng trong quan hệ đối với Trung Quốc ông còn ở dưới ông Nguyễn Thiện Nhân, người đại diện Việt Nam trong Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Song Phương Việt Nam - Trung Quốc; sự kiện ông Nhân vừa được bầu bổ sung vào bộ chính trị là một chỉ dấu rằng quan hệ với Trung Quốc trở thành ưu tư hàng đầu của lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Nghiêm trọng hơn là Quốc hội, theo hiến pháp là cơ quan quyền lực cao nhất và quyết định chính sách đối ngoại (điều 83), cũng không được thông báo. Chắc chắn sẽ không có đại biểu quốc hội nào phản đối, hay thậm chí bày tỏ sự thắc mắc. Ai cũng biết cái gọi là quốc hội của chế độ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chỉ là một cơ chế bù nhìn, nhưng lần này từ bù nhìn thật là quá nhẹ.  Tất cả những thỏa thuận và hiệp ước trong chuyến đi này đều hoàn toàn do một vài người trong ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam bàn bạc với nhau và quyết định một cách kín đáo. Đây là một sự dấm dúi rất nghiêm trọng và cũng là một thách đố xấc xược với nhân dân Việt Nam, cũng như với đại bộ phận cán bộ và quan chức của chế độ, khi ta nhìn vào nội dung các thỏa thuận.
Điều chắc chắn là ông Trương Tấn Sang chỉ tới Bắc Kinh để ký nhận chính thức những gì đã được quyết định từ trước và do Trung Quốc áp đặt. Bằng cớ là sau đó ông đã im lặng một cách bẽ bàng. Chính quyền cộng sản Việt Nam cũng im lặng ngoại trừ cuộc "phỏng vấn báo chí" của ông Phạm Bình Minh do bộ ngoại giao tự soạn. Báo nào, nhà báo nào đặt câu hỏi? Hình ảnh tiêu biểu nhất của chuyến công du này là tấm hình ông "chủ tịch nước" Trương Tấn Sang cúi rạp mình trước đội vệ binh danh dự Trung Quốc bên cạnh một Tập Cận Bình ung dung đứng thẳng.
Điều cũng chắc chắn không kém, dù nội dung các thỏa hiệp không được công bố và người ta chỉ có thể dựa trên bản tuyên bố chung, là ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã đem đất nước vào hẳn quỹ đạo Trung Quốc.
Ai cũng biết quan hệ hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là một quan hệ hợp tác mà là một quan hệ lệ thuộc. Từ "lệ thuộc" không phải là của những người đối lập mà do chính ông Trần Quang Cơ, người từng đại diện Việt Nam trong đàm phán thiết lập quan hệ Việt Trung hồi thập niên 1980, nói ra. Quan hệ lệ thuộc này thể hiện rõ ràng qua cách ứng xử của chính quyền cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc mà mọi người đều đã thấy. Sau mỗi lần tàu hải giám Trung Quốc bắn giết, đánh đập, bắt giam ngư dân Việt Nam và sau đó bắt nộp phạt, thậm chí bạo hành tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam ngay trong hải phận Việt Nam, chính quyền Hà Nội đã không bao giờ dám triệu tập đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam để chất vấn mà chỉ dám "giao thiệp" bằng cách đem thư đến sứ quán Trung Quốc để than phiền và để nhận những câu trả lời rất trịch thượng. Nhân dân Việt Nam, nhất là giới trẻ Việt Nam, đã rất phẫn nộ. Họ sẽ còn phải phẫn nộ hơn nữa vì sự lệ thuộc đó nay đã trở thành toàn diện và triệt để sau những gì mà ông Trương Tấn Sang vừa ký kết và cam kết bởi vì nó còn được "thúc đẩy", "mở rộng", "tăng cường" và "làm sâu sắc thêm". Những ai nghi ngờ có thể đọc lại bản tuyên bố chung. Những cụm từ "thúc đẩy", "mở rộng", "tăng cường" và "làm sâu sắc thêm" được lặp lại hơn 60 lần trong một văn kiện dài khoảng 3700 chữ. Cụm từ "hợp tác chiến lược toàn diện" được nhấn mạnh bốn lần, từ "hợp tác" được nhắc lại 61 lần. Ngược lại hai chữ "bình đẳng" hoàn toàn vắng mặt.
Có ba điều đặc biệt nghiêm trọng cần được chú ý.
Một là Việt Nam đã cam kết "điều phối" và "phối hợp" với Trung Quốc, nói cách khác nhận mệnh lệnh của Trung Quốc, trong các quan hệ đối với thế giới, kể cả với Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là đối với khối ASEAN và trong các diễn đàn khu vực. Chúng ta mất chủ quyền và không còn tiếng nói độc lập.
Hai là chúng ta cũng có nguy cơ mất cả lãnh thổ bởi vì chính quyền cộng sản Việt Nam đã chấp nhận để bảy tỉnh biên giới Việt Nam - Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh - "hợp tác" và "cùng phát triển" với bốn khu tự trị của Trung Quốc ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam. Muốn cùng phát triển thì phải có chế độ chính trị tương tự nghĩa là tự trị, điều mà chắc chắn Trung Quốc sẽ khuyến khích, xúi giục và tài trợ, như là bước đầu của ly khai. Đất nước đang bị đặt trước một tình trạng rất phức tạp và hiểm nghèo.
Ba là chính quyền cộng sản Việt Nam còn vừa bóp chết khả năng hợp tác chặt chẽ với các nước dân chủ, nghĩa là với hầu như cả thế giới. Vào lúc mà Trung Quốc đang được nhìn như một mối nguy có hy vọng gì để Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật và các nước dân chủ chuyển giao cho Việt Nam những vũ khí và kỹ thuật hiện đại khi Việt Nam đã trở thành một chư hầu của Trung Quốc với cam kết "làm sâu sắc thêm hợp tác giữa quân đội hai nước" và "làm sâu sắc thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ, lập phòng thí nghiệm chung, chuyển giao công nghệ" để tiến tới thế liên kết "hai hành lang, một vành đai" ?
Hậu quả tức khắc đã có thể nhìn thấy. Ông Trương Tấn Sang ngay sau đó đã sang thăm viếng chính thức Indonesia trong hai ngày và đã chỉ được tiếp đón lạnh nhạt trong một chuyến đi hoàn toàn vô tích sự. Sau buổi hội kiến hình thức bắt buộc với tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono, kết thúc bằng một cuộc họp báo chung không có gì để tường thuật vì hai bên không có gì để nói, ông gặp xã giao chủ tịch quốc hội Indonesia, người ít có lý do để gặp ông nhất vì Việt Nam không có quốc hội đúng nghĩa, sau đó đến thăm Văn phòng ASEAN tại Djakarta, cuối cùng thăm đại sứ quán Việt Nam trước khi về nước kết thúc chuyến công du nhạt nhẽo. Indonesia và Việt Nam không có gì để hợp tác về văn hóa, khoa học và kỹ thuật, ngoại thương giữa hai nước không đáng kể. Hợp tác giữa hai nước rất cần thiết nhưng trong một tương lai còn khá dài chủ yếu là hợp tác để tăng cường sự liên đới trong khối ASEAN và bảo đảm hòa bình trong vùng, đặc biệt trên Biển Đông nơi cả hai nước cùng chia sẻ những lo âu trước tham vọng bá quyền lộ liễu của Trung Quốc.  Sự hợp tác này đã trở thành vô nghĩa khi Việt Nam đã chấp nhận làm tai mắt của Trung Quốc trong khối ASEAN. Chuyến thăm viếng Hoa Kỳ và Pháp của thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, tổng tham mưu trưởng quân đội, cũng đã chỉ là một chuyến du lịch thuần túy. Ai còn muốn nói chuyện và hợp tác với một con cờ của Trung Quốc mà thế giới đang nhìn như một đe dọa cho hòa bình và những giá trị phổ cập ?
Không có gì đáng ngạc nhiên nếu từ nay quan hệ kinh tế của nước ta với Hoa Kỳ và Châu Âu cũng sẽ sút giảm vì một lý do giản dị là họ không muốn tiếp sức cho một chính quyền vi phạm nhân quyền đồng thời cũng là một vệ tinh của Trung Quốc. Lệ thuộc Trung Quốc như vậy không chỉ khiến Việt Nam mất chủ quyền và có nguy cơ mất thêm đất, biển và đảo, nó còn khiến chúng ta mất những nguồn đầu tư và những thị trường lớn. Kinh tế Việt Nam đang khốn đốn và sẽ còn khốn đốn hơn nữa trong những ngày sắp tới. Thật là vô duyên khi ông Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố tại hội nghị Shangri-la, Singapore, ba tuần trước đó rằng Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ đối tác chiến lược Mỹ, Anh và Pháp với điều kiện là họ không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của chế độ. Ai muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với chính quyền cộng sản Việt Nam trong lúc này ?  Lời nói của ông Dũng khiến người ta nhớ lại chuyện chính quyền cộng sản Việt Nam từng đặt điều kiện để chấp nhận bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ chỉ để khám phá ra sau đó là Hoa Kỳ chưa sẵn sàng. Cánh cửa hợp tác tuy vẫn còn mở nhưng chỉ mở để chờ đợi một nước Việt Nam dân chủ và thực sự có chủ quyền.
Chúng ta có thể tự hỏi tại sao những người lãnh đạo cộng sản lại có thể bất chấp quyền lợi đất nước đến như thế ? Đó trước hết là vì họ quyết tâm giữ chính quyền bằng mọi giá. Các lãnh tụ cộng sản Việt Nam, ngày trước cũng như bây giờ, dù xung đột với nhau đến đâu cũng đều đồng ý với nhau là phải bám vào Trung Quốc để giữ chính quyền, ngay cả nếu vì thế mà đất nước bị thiệt hại. Về điểm này, họ đều như nhau. Ai còn hy vọng gì ở ông Trương Tấn Sang sau chuyến đi này ? Kể cả ông Nguyễn Thiện Nhân mà nhiều nhân sĩ từng đánh giá là một người mới và cởi mở. Họ quên rằng từ hơn hai năm qua ông Nhân là chủ tịch Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Song Phương Việt Nam-Trung Quốc của phía Việt Nam và đã là kiến trúc sư của chính sách đưa Việt Nam vào hẳn quỹ đạo Trung Quốc. Ông vừa được thưởng công bằng một ghế trong Bộ chính trị, rất có thể do áp lực của Bắc Kinh. Phải nhìn thẳng vào sự thực : Đảng Cộng Sản Việt Nam không phải là một đảng yêu nước và không ai trong số những người có quyền nhất trong chế độ đặt quyền lợi của đất nước và dân tộc lên trên hết cả. Họ ứng xử không khác gì một lực lượng chiếm đóng. Tất cả đều chủ trương đàn áp thẳng tay mọi khát vọng dân chủ và không một ai mảy may xúc động trước những bản án nặng một cách dã man đối với những thanh niên chỉ có tội yêu nước, đòi dân chủ và phản đối chính sách xâm lược của Trung Quốc. Đàn áp chính trị đã rất thô bạo trong hơn ba năm qua và sẽ còn hung bạo hơn nữa trong những ngày sắp tới.
Họ nghĩ rằng có thể dựa vào Trung Quốc để tiếp tục thống trị đất nước. Nhưng còn tệ hơn tội phản quốc, đây đồng thời cũng là một sai lầm lớn cho chính họ. Trung Quốc không vững vàng như họ tưởng, mà chỉ là một sự phá sản chưa tuyến bố. Nó sẽ không thể duy trì lâu mức tăng trưởng kinh tế giả tạo bằng những chi tiêu công cộng, bằng cách sản xuất rồi tồn kho vì không bán được, bằng cách xây dựng những thành phố không người ở và những cầu đường không cần thiết. Nếu cách quản lý kinh tế này mà không dẫn tới phá sản thì phải vất bỏ tất cả mọi kiến thức và kinh nghiệm về kinh tế. Sự phá sản của mô hình Trung Quốc là chắc chắn và càng che dậy lâu bao nhiêu sự sụp đổ sẽ càng đau đớn bấy nhiêu.
Với một cái nhìn bình tĩnh, ta có thể nhận định rằng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã có được nhờ hai yếu tố ; một là vì thế giới hy vọng sự hợp tác sẽ khiến Trung Quốc chuyển hóa về dân chủ và hòa nhập vào thế giới ; hai là vì trong gần ba thập niên lý thuyết kinh tế thời thượng tại các nước giàu đã là lý thuyết kích thích tăng trưởng bằng tiêu thụ tối đa và nhập khẩu thả cửa. Nhưng hiện nay tình thế đã thay đổi hẳn. Trung Quốc đang trở thành một đe dọa cho hòa bình và một thách thức đối với các giá trị phổ cập, thế hợp tác đang nhường chỗ cho thế kình địch. Mặt khác, chính sách phát triển kinh tế bằng tiêu thụ và nhập khẩu đã được nhận diện là rất sai và, từ nay, ưu tư hàng đầu của mọi chính quyền là giữ cân bằng ngân sách và cán cân thương mại. Trung Quốc đã cố che giấu những khó khăn bằng một chính sách tín dụng liều lĩnh và bằng cách gia tăng chi tiêu công cộng với kết quả là khối tín dụng phình lên một cách nguy hiểm. Vào năm 2008, khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, khối tín dụng của Trung Quốc được ước lượng là 9.000 tỷ USD, ngày nay con số này là 23.000 tỷ USD, nghĩa là gấp bốn lần tổng sản lượng nội địa (GDP), trong đó một nửa là nợ khó đòi. Chưa kể khối tín dụng mà các công ty quốc doanh lớn cho các công ty nhỏ vay được ước lượng vào khoảng 200% GDP. Đó là những dấu hiệu rất báo động.  Sự phá sản của Trung Quốc không còn che giấu được bao lâu nữa. Thực ra nó đã bắt đầu xuất hiện. Ngay lúc ông Trương Tấn Sang đang ở Trung Quốc thì ngân hàng lớn thứ tư của Trung Quốc, Trung Quốc Ngân Hàng, đã hết khả năng hoàn trả và chỉ được cứu nguy nhờ sự can thiệp khẩn cấp của Ngân hàng trung ương. Trong cùng thời gian, lần đầu tiên Trung Quốc đã phải bỏ một dự án phát hành công khố phiếu vì không có người mua. Hiện nay, mười lăm (15) trong số mười sáu (16) ngân hàng lớn nhất của Trung Quốc có trị giá chứng khoán thấp hơn trị giá kế toán, nói nôm na là lỗ và nguy ngập. Dư luận đã rất xôn xao khi Hoa Kỳ và Pháp bị mất điểm AAA và tụt xuống hàng AA+, nhưng ngày nay mức độ tín nhiệm của kinh tế Trung Quốc chỉ còn là A- với qui chế "theo dõi quan ngại" (negative watch), nghĩa là còn có thể giảm nữa theo các định chế đánh giá (rating agency).
Và Trung Quốc không chỉ sắp phá sản về mặt kinh tế mà còn đang bị hủy diệt về môi trường. Sông cạn, đất khô, nước không uống được, không khí không thở được. Chính sự tồn tại của Trung Quốc đang bị đe dọa.
Cũng có những dấu hiệu cho phép nghĩ là chính Tập Cận Bình và ban lãnh đạo mới của Trung Quốc đã nhìn thấy nguy cơ của họ và đang tìm cách thích nghi với bối cảnh thế giới mới, nghĩa là thay đổi bản chất của chế độ. Nếu quả như thế thì tương lai của Việt Nam không đến nỗi quá đen tối, nhưng sự mù quáng của ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại càng lố bịch hơn : đi thần phục một kẻ đang chuẩn bị đầu hàng.
Những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ cần nhìn lại kinh nghiệm của chính họ. Cho tới giữa thập niên 1980 họ đã tưởng Liên Xô chỉ có thể toàn thắng, họ đã hung hăng đặt tất cả niềm tin vào sự che chở của Liên Xô và thách thức cả thế giới. Để rồi kinh hoàng khi Liên Xô đột ngột tan vỡ. Điểm chung của các đế quốc bạo ngược là chúng tỏ ra rất mạnh vào lúc sắp sụp đổ, vì lý do đơn giản là lúc đó cũng là lúc chúng gồng mình nhất. Lịch sử sắp lặp lại. Chỉ có một điều là lần này chế độ cộng sản Việt Nam không còn quan thầy nào để dựa.
Trên một mặt khác, lịch sử cũng hình như đang lặp lại. Điều đáng ngạc nhiên nhất trong lúc này là sự im lặng điếc tai của trí thức Việt Nam. Cũng như ba mươi năm trước, vào lúc mà ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam lấy quyết định chuyển hướng 180 độ để thần phục Trung Quốc, đã hầu như không có một phản ứng nào sau chuyến đi Trung Quốc của Trương Tấn Sang. Một giả thuyết là vì các nhân sĩ phản biện phần lớn được sự khuyến khích của ông Sang và do đó nể nang ông Sang. Nếu như vậy thì quá tệ, họ đã đặt một liên hệ cá nhân lên trên vận mệnh của đất nước. Một giả thuyết khác là trí thức Việt Nam chỉ dám phản biện ở mức độ mà họ nghĩ là được phép, nhưng lần này chính quyền cộng sản đã quả quyết theo hẳn Trung Quốc và mọi tiếng nói ngược lại sẽ không còn được dung túng. Nếu như vậy thì còn tệ hơn. Cũng có thể họ không ý thức được một cách đầy đủ sự nghiêm trọng của tình thế dù nhiều người đã báo động (1) vì Việt Nam thực ra không có trí thức chính trị. Nhưng dù không muốn, không dám hay không biết thì cũng rất đáng buồn. Các thế hệ mai sau sẽ phải chua chát tự hỏi trí tuệ và phẩm giá của cha chú họ ở đâu.
Trong khi chờ đợi, thế hệ trẻ hôm nay sẽ phải rút ra kết luận khẩn cấp là họ không thể chờ đợi gì ở thế hệ trước cả. Và như vậy cũng không còn lý do gì để nể nang.
Nguyễn Gia Kiểng
(Thông luận)
 
CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
Đưa về đất liền 15 ngư dân gặp nạn ở vùng biển Trường Sa (VTV). ASEAN phá vỡ kế “chia để trị” của Trung Quốc? (VnM)   —-Trung Quốc cần từ bỏ luận điệu ‘rẻ tiền’ và rút vũ khí khỏi Biển Đông   (Infonet)
Căng thẳng Quân Sự, Chính Trị trên Biển Đông đang “bóp chết” du lịch  (TTVN)   —-Quân đội Mỹ đang tìm kế tấn công TQ, mức độ vượt xa ngăn chặn Liên Xô? (GDVN)    —-Rosario: Philippines không chấp những tuyên bố của La Viện (GDVN)
Trung Quốc và động thái mới liên quan đến đàm phán COC (NĐT)

CNOOC và PetroBroad bắt tay thăm dò dầu khí trên…  (Petrotimes) - Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) vừa ký kết hợp đồng phân chia sản phẩm với Công ty năng lượng PetroBroad Copower ở lô 28/03, nằm trong lưu vực sông Châu, phía đông của Biển Đông.
Chùm cáp địa chấn do PetroBroad triển khai khảo sát trên Biển Đông===>>
Lô 28/03 trải rộng trên diện tích 68km2 ở vùng biển có độ sâu 95m.
Theo các điều khoản của hợp đồng, PetroBroad Copower sẽ tiến hành khảo sát dữ liệu địa chấn 3D và khoan giếng thăm dò và chịu mọi chi phí phát sinh trong thời gian thăm dò. Trong khi đó, nếu có bất kỳ phát hiện thương mại nào ở lô 28/03, CNOOC sẽ được hưởng 51% giá trị sản phẩm.
______________________________________________________________________________

Mẹ Nấm – Một thế hệ chuột bạch (Danluan)

Cầm Bùi – Mọi việc vẫn Rất ổn. (Danluan)

Tuyên ngôn của Adam Smith về cuộc cách mạng kinh tế năm 1776 -Mark Skousen(2007) -(Phiatruoc)

Bảo Ninh, người làm lễ bỏ mả cho giai đoạn thơ văn minh họa (DLB)


KINH TẾ
VĂN HÓA-THỂ THAO
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- PGS. TS Trần Thị Minh Hằng: Tri thức cần được cập nhật thường xuyên (GDTĐ).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
QUỐC TẾ

Cắt giảm lãi xuất không giúp giải cứu lĩnh vực ngân hàng và nền kinh tế Việt Nam

Thanh Ngân chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Moran Zhang, International Business Times
Việt Nam, nước Đông Nam Á được nhiều giới đầu tư nước ngoài xem như một mini-Trung Quốc, hôm thứ Năm vừa qua đã thông báo đạt được mức tăng trưởng mạnh trong quý hai năm 2013. Nhưng tiếc rằng việc này chẳng có gì đáng mừng cả.
VIETNAM-ECONOMY-BANK-RATE
Cơ quan thống kê của Việt Nam cho biết tổng sản phẩm trong nước đã tăng 5% giữa tháng Tư và tháng Sáu, tăng từ mức 4,9% trong quý đầu tiên của năm 2013. Tuy nhiên, mức tăng trưởng gia tăng so với quý đầu tiên không đồng nghĩa rằng điều kiện cơ bản tại nước này đang được cải thiện.
Ngay cả việc nhìn lại các dữ liệu một cách công bằng thì chúng cho thấy rằng Việt Nam đang trên đà tăng trưởng ở mức khoảng 5% trong năm nay, nghĩa là không có gì thay đổi so với mức tăng trưởng hồi năm ngoái. Các mức tăng trưởng này vẫn thấp hơn rất nhiều nếu so với mức tăng trưởng trung bình trong hơn hai thập kỷ qua ở mức 7,5% mỗi năm. Chính phủ đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế là 5,5% trong năm 2013.
Hơn nữa, sự gia tăng trong tỷ lệ tăng trưởng ít nhiều đến từ các trường chính sách nới lỏng tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cắt giảm lãi suất cho vay tám lần (bằng cách tích lũy 800 điểm cơ bản) trong hơn một năm qua nhằm thúc đẩy ngân hàng cho vay vốn cũng như thúc đẩy thị trường tiêu dùng sau khi tăng trưởng kinh tế giảm xuống mức 5,03% trong 2012, mức thấp nhất trong 13 năm qua. Tỷ lệ tái cấp vốn hiện tại ở mức 7% và các nhà phân tích tại Standard Chartered cho rằng tỷ lệ này sẽ tiếp tục cắt giảm thêm 50 điểm cơ bản – xuống còn 6,5% – trong quý tiếp theo nếu các nhà hoạch định chính sách cảm thấy thoải mái với chỉ số lạm phát.
Việt Nam đang vật lộn với một loạt các tai ương kinh tế, bao gồm cả tiêu dùng nội địa yếu kém, và lĩnh vực ngân hàng đang là một gánh nặng vì các khoản nợ xấu và phá sản tiếp tục tăng cao kỷ lục. Nhưng chỉ cắt giảm lãi suất sẽ không giải cứu được nền kinh tế. Bằng cách theo đuổi chiến lược kích cầu kinh tế, Việt Nam đã làm trầm trọng thêm các vấn đề mang tính dài hạn. Việc này tương tự như bơm vào đất nước và thị trường một lượng đường rất cao. Nó có thể gây ra một cú sốc, nhưng điều đó sẽ được thay thế bằng thực tế rằng những vấn đề cơ bản vẫn không được giải quyết tận gốc rễ.
Số liệu chính thực hôm thứ Ba tuần trước cho thấy rằng lạm phát tại Việt Nam đang ở mức 6,69% so với cùng kỳ năm vào tháng Sáu, đây là mức gia tăng đầu tiên trong tám tháng qua sau khi chính phủ cắt giảm lãi suất. Chỉ số này tăng từ mức 6,35% trong tháng Năm. Chính phủ đưa ra mục tiêu lạm phát ở khoảng 8% trong năm nay nhưng hy vọng sẽ kềm chế lạm phát ở mức 6-6,5%.
Nguyên nhân chính của sự suy giảm nằm ở lĩnh vực ngân hàng. Như Capital Economics đã chỉ ra trong một bản lưu ý, các khoản nợ xấu đã tăng rất mạnh, và nước này hiện đang trải qua một cuộc khủng hoảng tín dụng nghiêm trọng. Tín dụng hiện nay ngày càng tăng và thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
Hiện các nhà chức trách đang cố gắng giải quyết những vấn đề liên quan đến hệ thống ngân hàng. Hồi đầu năm nay, chính phủ thông báo sẽ thiết lập một công ty quản lý tài sản nợ để tiếp nhận các khoản nợ xấu từ các ngân hàng yếu kém. “Ngân hàng xấu”, hoặc có tên chính thức là Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam, sẽ là một công ty có vốn 100 phần trăm thuộc nhà nước với mục đích mà theo ngân hàng trung ương, là để “giải quyết các khoản nợ xấu và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý trong nền kinh tế”.
Nhưng câu hỏi chính là nguồn tiền sẽ đến từ đâu, và liệu 500 tỷ đồng (24 triệu USD) có đủ để làm sáng tỏ các khoản nợ xấu trị giá lên hàng trăm nghìn tỷ đồng trong hệ thống ngân hàng, và làm thế nào để thực hiện các chính sách đó.
Ngân hàng trung ương cho biết Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam sẽ mua lại các khoản nợ xấu với vốn tự có của họ hoặc thông qua “trái phiếu đặc biệt”, mà sẽ không phải trả lãi suất và có thể sử dụng để có được các khoản vay tái cấp vốn từ ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, các kinh tế gia vẫn còn hoài nghi về kế hoạch này. Hiện nay, bí quyết là làm cho tất cả các chính sách trông thật đẹp và hấp dẫn nhất, nhưng đó chỉ là một giải pháp mang tính ngắn hạn.
“Cho đến khi mà lĩnh vực ngân hàng được giải quyết và tín dụng bắt đầu trôi chảy tự do hơn, thì tăng trưởng vẫn còn rất hạn chế”, Gareth Leather – kinh tế gia tại Capital Economics, cho biết trong một bản lưu ý.
Gần đây, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã cắt giảm dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2013 từ 5,8% xuống còn 5,2% và nhấn mạnh chính phủ nước này cần chú tâm đến những chương trình cải cách. Đầu tháng này, Ngân hàng HSBC cũng cắt giảm dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm nay từ 5,5% xuống còn 5,1%.
Trong khi các vấn đề trong lĩnh vực ngân hàng sẽ tiếp tục đè nặng lên nền kinh tế, thì có một số dấu hiệu tốt đáng khích lệ đang diễn ra. Lĩnh vực xuất khẩu đang tiếp tục gia tăng rất tốt. Tổng Cục Thống kê cho biết kim ngạch xuất khẩu trong sáu tháng đầu năm đã tăng 16,1%, đạt 62,05 tỷ USD so với cùng kỳ một năm trước đó, trong khi nhập khẩu tăng 17,4% lên 63,5 tỷ, dẫn đến thâm hụt thương mại 1,4 tỷ USD.
“Tăng trưởng này không chỉ riêng các mặt hàng hóa cấp thấp như dệt may, mà còn bao gồm cả các lĩnh vực giá trị gia cao hơn, chẳng hạn như lắp ráp các mặt hàng điện tử tiêu dùng”, ông Leather nói, và thêm rằng xuất khẩu sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khá tốt trong vài năm tới mặc dù khả năng nhu cầu toàn cầu vẫn còn yếu kém.

Chính sách “Ngoại giao ổ khóa”


nhd-305.jpg
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức trong một lần biểu tình chống Trung Quốc trước đây.
File photo
Vào 9 giờ tối ngày 2 tháng 7, nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức đã bị công an sân bay Nội Bài, Hà Nội chặn lại không cho xuất cảnh khi ông được thư mời của Tòa thánh Vatican tham dự lễ “Bế mạc phần điều tra tại địa phương” trong hồ sơ phong Chân phước và hiển thánh cho Hồng Y Phanxico-Xavie Nguyễn Văn Thuận. Mặc Lâm có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Hoàng Đức để tìm hiểu thêm vấn đề này.

Cấm xuất cảnh không lý do

Mặc Lâm: Thưa ông, chúng tôi được biết ông vừa bị công an phi trường Nội Bài không cho xuất cảnh sang Vatican. Xin ông vui lòng kể lại câu chuyện này diễn tiến ra sao?
Nguyễn Hoàng Đức: Tôi đến quầy vé của hãng Hàng không Thái vì tôi được phép transit qua Thái đến Rome. Khi tôi vào quầy thì một cô nhân viên trẻ, ấp úng khi xem tên tôi, rồi một cô có vẻ dáng như là tổ trưởng đến cô ấy nói mời tôi sang gặp công an trước đã. Tôi vào phòng công an đợi mấy phút thì có một anh Thượng tá tên Phạm Tiến Dũng, anh thông báo với tôi là tôi không được phép xuất cảnh. Nếu tôi có kiến nghị hay khiếu nại gì thì về 44 và 46 Trần Phú Cục Quản lý xuất nhập cảnh để biết thêm. Anh cũng chỉ biết như thế và cũng chỉ thi hành lệnh.
Sau đó tôi bảo vì là cơ quan nhà nước nên tôi đề nghị phải có văn bản để xác định việc này chứ không thể xác định bằng mồm. Anh ta nói là do anh ta muốn sự việc nhẹ nhàng thì như vậy là được rồi. Nhưng tôi dứt khoát phải đòi giấy tờ. Sau đó thì anh ta có mời một đại úy khác tới và anh đại úy kia là cũng người của Cục Xuất nhập cảnh luôn, anh ta tên là Hoàng Dương. Anh kia viết biên bản và tôi có giữ một bản photo đây: biên bản về việc giữ tôi lại không cho xuất cảnh.
Sau khi học tiếng Pháp với Ngài thì tôi cảm nhiễm tinh thần của Đức Cha. Sau này thì tôi thôi việc, lý do là sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn tôi không còn muốn làm công an nữa.
-Nhà văn Nguyễn Hoàng Đức
Tôi có hỏi họ lý do vì sao tôi bị cấm xuất cảnh và tôi muốn biết ngay tại đây. Anh ấy trả lời là Cục Xuất nhập cảnh cũng không cho các anh ấy biết lý do.
Mặc Lâm: Như chúng tôi được biết thì chuyến đi này của ông là do Tòa Thánh Vatican mời trong khi chuẩn bị hồ sơ Phong Chân Thánh cho cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Ông có thể cho biết nhân duyên giữa ông và vị Hồng Y quá cố này như thế nào để dẫn ông tới cái vinh dự này ạ?
Nguyễn Hoàng Đức: Tôi đã từng làm trong Phòng Tôn giáo của Bộ Công an. Trong Phòng ấy người ta có “đối sách” về Đức Cha mà sau này là Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Ông bị chuyển đổi từ miền Nam ra với cái tội rất to là vì ông là cháu của Ngô Đình Diệm và trở về Sài Gòn làm Phó Tổng Giám  mục theo ý là lót ổ để lên Tổng Giám mục. Và ông cứ thế bị chuyển ra ngoài Bắc.
Trong thời gian ông ấy bị cầm cố ở Hà Nội (có nghĩa là không ở tù) tức là được giữ trong mật viện. Có một đội trông ông ta nhưng tôi là một cán bộ cũng khá lâu năm, một sĩ qua khá lâu năm nên tôi đề nghị để tôi ra học tiếng Pháp với Cha, để luyện nói trên tinh thần là luyện tiếng Pháp chứ không phải để trông Cha. Cụ thể là như thế.
Mặc Lâm: Trong lúc tiếp xúc với Hồng Y, ông có cảm nhận ra sao về Ngài dưới cái nhìn của một sĩ quan công an và nhất là công an chống phản động như ông vừa cho biết ạ?
Nguyễn Hoàng Đức: Sau khi học tiếng Pháp với Ngài thì tôi cảm nhiễm tinh thần của Đức Cha. Sau này thì tôi thôi việc, lý do là sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn tôi không còn muốn làm công an nữa vì tôi làm ở Cục chống phản động nên biết dễ phải đi đàn áp và tôi đã xin chuyển ngành nhưng không được, tôi xin thôi việc cũng không cho. Tôi vẫn cứ bỏ việc.
000_APW2001103119705-250.jpg
Đức Hồng Y Phanxico-Xavie Nguyễn Văn Thuận tại Chiapas, Mexico ngày 30 tháng 10 năm 2001. AFP PHOTO.
Sau khi vào Sài Gòn tôi làm cho dầu khí Việt Nam. Tôi có đi một số các nhà thờ, nhà thờ trung tâm Đức Bà, nhà thờ Kỳ Đồng. Sau khi ra Hà Nội thì tôi được mặc khải trong một giấc mơ là tôi đi nhà thờ và tôi có rửa tội. Đúng đêm tôi rửa tội ở nhà thờ lớn thì Cha Ngân, bây giờ trở thành Giám mục, bảo với Cha Hùng, hiện nay đang học bên Ý hay bên Pháp gì đấy, mời tôi viết diễn giải một cái tin và tôi có viết bài  “ Con Đường Đức Tin Qua Cây Cầu Francisco Savie Nguyễn Văn Thuận” Bài này đã gởi qua Tòa Thánh và nằm trong hồ sơ và đã được Cha Sỹ đang ở Việt Nam xin đưa chữ ký vào những bản dịch khoảng 4,5 thứ tiếng. Tôi hiểu là việc phong Thánh cần phải có phép lạ. Phép lạ thứ nhất là Đức tin. Phép lạ thứ hai là chữa bệnh. Phép lạ thứ ba là mồ mả phát. Tôi là một trong những phép lạ về Đức tin.
Mặc Lâm: Thưa, trước khi nhận được giấy mời thì ông có được Vatican dò hỏi về thời gian ông tiếp xúc với Ngài bằng các con đường không chính thức hay chính thức, thưa ông?
Nguyễn Hoàng Đức: Ở Giáo hội Việt Nam thì thỉnh thoảng tôi cũng chia sẻ đức tin và đặc biệt là ở nhà thờ Thái Hà vài lần, đi đâu tôi cũng nói chuyện, đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai thì có Cha thỉnh thoảng về hỏi thăm và tôi còn dẫn đến nhà giám quản Đức Cha Thuận ở đấy. Cũng có một số người khi ở Việt Nam cũng gặp, nhưng nói chung cũng không nhiều lắm, ba bốn lần thôi.
Tôi có hỏi họ lý do vì sao tôi bị cấm xuất cảnh và tôi muốn biết ngay tại đây. Anh ấy trả lời là Cục Xuất nhập cảnh cũng không cho các anh ấy biết lý do.
-Nhà văn Nguyễn Hoàng Đức
Mặc Lâm: Ông có nghĩ rằng việc sang Vatican của ông có thể gây khó chịu cho Hà Nội vì ông là nhân chứng đối với những hành xử của chính quyền trong thời gian mà Đức Hồng Y bị giam giữ đã dẫn đến việc cấm xuất cảnh ngày hôm nay đối với ông?
Nguyễn Hoàng Đức: Tôi tổng kết lại thì có mấy lý do chính. Lý do thứ nhất: việc phong Thánh cho Đức Cha là không hợp ý với Hà Nội vì Đức Cha được phong Thánh do công trạng Đức Cha bị hệ thống nhà tù của Cộng sản quản lý. Như vậy việc phong Thánh cho Đức Cha sẽ có một phản ứng ngược, một cái gương xoay ngược về việc cầm cố người ta, tôi tin là Hà Nội không đồng ý. Điều thứ hai tôi là một người tuy đã ra khỏi ngành lâu rồi nhưng tôi cũng là người ở trong ngành, có thể họ cũng ngại điều gì đấy. Điều thứ ba thì tôi cho đó là lý do khá lớn vì tôi là một cây bút viết khá mạnh. Tôi viết ngắn cũng vừa phải thôi nhưng đặc biệt về phê bình văn học thì tôi viết rất mạnh mẽ và thẳng thắn. Điều thứ tư thì thời kỳ này là thời kỳ nhạy cảm, dường như họ đang làm một cách mạnh mẽ nhất.
Mặc Lâm: Sau khi nhận được tin ông bị cấm xuất cảnh thì Vatican có liên lạc với ông để tìm hiểu vụ việc hay không?
Nguyễn Hoàng Đức: Tôi có mail sang Vatican và một Cha đã từng gặp tôi ở Việt Nam khích lệ tôi hãy chia sẻ sự khó khăn trong nhà nước Cộng sản thì phải chịu đựng  và hãy cố lên, hãy hy vọng. Hy vọng vào một dịp khác tôi sẽ được gặp các vị và được viếng Đức Thánh. Ông bảo là hãy hy vọng.
Mặc Lâm: Xin cảm ơn nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức về thời gian ông dành cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn ngày hôm nay.

LS Lê Quốc Quân gởi thư khẳng định quan điểm trước khi ra tòa


RFA 05.07.2013

lqq---
Bức thư tay do Luật sư Lê Quốc Quân viết chuyển ra bên ngoài khẳng định quan điểm của ông trước phiên xử dự trù diễn ra vào ngày 9 tháng 7 tới đây.
By Lê Quốc Quân

Từ nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, Luật sư Lê Quốc Quân đã chuyển ra bên ngoài một lá thư, khẳng định quan điểm của ông trước phiên xử dự trù diễn ra vào ngày 9 tháng 7 tới đây.  Trên đây là bản chụp lá thư Đài Á Chân Tự Do mới vừa nhân được hôm nay thứ Sáu 05/07/2013.

Mẹ Nấm - Một thế hệ chuột bạch


(Viết tặng những bạn sinh năm 1979 như tôi)

Năm tôi sinh ra đời, 1979, cuộc chiến tranh biên giới miền Bắc nổ ra giữa Việt Nam và Trung Quốc, một cuộc chiến mà thế hệ chúng tôi hầu như không biết đến bởi rất khó có thể tìm đọc thông tin trong giáo trình lịch sử được giảng dạy.

Dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, có thể nói lứa học sinh sinh năm 1979 là những học sinh trải qua đầy đủ các bước cải cách giáo dục ở cả ba cấp học: tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Tôi còn nhớ rất rõ, năm tôi thi tốt nghiệp cấp 2 (THCS) là năm đầu tiên Bộ Giáo dục Đào tạo áp dụng việc thi 6 môn, đến kỳ thi tốt nghiệp trung học (THPT) cũng là lần đầu tiên Bộ đưa môn tiếng Anh vào chương trình thi bắt buộc, và điểm liệt cho mỗi môn học là 2 điểm. Quy định này có nghĩa là dù bạn cộng tất cả 6 môn thi tốt nghiệp lại, bạn đủ 30 điểm để đậu nhưng nếu trong 6 môn thi mà có một môn điểm 2, thì bạn vẫn rớt như thường. Tỉ lệ đậu tốt nghiệp PTTH năm tôi ra trường rất thấp, đến độ người ta phải tổ chức lại kỳ thi tốt nghiệp lần 2 cho những thí sinh bị rớt, và đương nhiên là nhiều bạn bị lỡ kỳ thi đại học năm này.

Đây là năm đầu tiên và duy nhất áp dụng quy chế thi như trên.

“Chúng ta là những con chuột bạch của Bộ Giáo dục” – tôi thường nói đùa với bạn bè mình như vậy mỗi khi nhắc lại thời học sinh. Nói không phải để đùa, nhưng để chúng tôi nhớ rằng mình đã được trải qua quá trình “được thử nghiệm” thế nào, có người vượt qua được, nhưng cũng có người dang dở ở lại.

Và đương nhiên là như hàng trăm ngàn lần cải cách khác, không có ai phải chịu trách nhiệm cho những ý tưởng, hành động mang tính thử nghiệm trên tương lai của người khác.

Tôi lấy ví dụ ở lĩnh vực giáo dục với thế hệ sinh năm 1979 vì chính cá nhân tôi là người đã đi qua các giai đoạn đó, trên thực tế, những ai đang sống ở Việt Nam đều đang đóng vai chuột bạch trong phòng thí nghiệm cho các chính sách, quy định, nghị định, luật dự thảo… đã và sắp được ban hành.

Đa phần người ta không phải không biết tính thiếu thực tế và bất khả thi của một số chính sách, dự án… nhưng hầu như có rất ít sự phản đối, bởi đa phần chọn cách im lặng coi như là đồng ý.

Thỉnh thoảng tôi tự hỏi: những con chuột bạch trong phòng thí nghiệm nó không thể nói, không thể lựa chọn được, nhưng nếu chúng có suy nghĩ, có tiếng nói liệu chúng có chấp nhận vai trò bị xem là vật thử nghiệm hay không?

Viết đến đây tự nhiên liên tưởng đến việc thu phí bảo trì (sử dụng) đường bộ do Bộ Giao thông Vận tải quy định. Lần đầu tiên nước Việt áp dụng chính sách thu thuế đường bộ trực tiếp từ nhân dân thông qua tổ dân phố (có tỉ lệ ăn chia).

Đã có nhiều bài phân tích, nhiều ý kiến phản biện về việc thu phí này nhưng cuối cùng nó vẫn được đưa ra thực hiện. Điều khiến tôi đặt câu hỏi là tại sao cùng một loại phí nhưng ở Hà Nội lại thu 150.000đ cho xe máy trên 50 phân khối, trong khi tại Nha Trang (Khánh Hòa) mức thu là 120.000đ. Thời điểm thu cũng không đồng nhất, theo thông tin trên trang Facebook cá nhân của tôi thì tại Thanh Hóa chính quyền đã triển khai thu phí, trong khi tại Khánh Hòa thì đến tháng 8 và Sài Gòn thì hoãn đến năm sau? Phải chăng số phận của những con chuột bạch trong dự án thu phí sử dụng đường bộ tùy thuộc vào quyết định và chính sách của từng địa phương.

Cũng đã có bài phân tích người tiêu dùng Việt Nam hiện nay phải gánh 7.500đ cho một lít xăng trong đó đã bao gồm cả phí giao thông. (Trích lời ông Nguyễn Văn Thanh, nguyên Phó cục trưởng Cục đường bộ: "Thực chất phí xăng dầu hiện tại đang thu chính là phí giao thông. Vì vậy, khi bộ GTVT đã thực hiện việc thu phí bảo trì đường bộ thì phải kiến nghị các cơ quan chức năng bỏ ngay phí xăng dầu".) Xem tại đây!

Có vô lý quá không?

Xin thưa là có mà vẫn phải chấp nhận.

Tất cả những điều vô lý ấy đang diễn ra trước mắt, ít nhiều là nhờ vào sự im lặng đồng thuận của chính chúng ta bạn ạ.

Tôi đã từng tự hỏi, tại làm sao mà những thế hệ lớn hơn chúng ta lại đứng nhìn để mọi thứ trôi qua như hôm nay. “Tại sao chúng ta biết những việc sai trái, chúng ta thậm chí không đồng ý với nó, chúng ta bực bội, chúng ta cười nhạo các quyết định sai lầm mà chúng ta vẫn để nó xảy ra?”. “Tại sao chúng ta biết nó sai mà không lên tiếng? Để rồi có lúc lại phải biết ơn những người ban hành các quyết định sai lầm vì họ có động thái sửa sai.”.

Và tự mình tôi cũng đã tìm ra câu trả lời lớn nhất đó chính là sự sợ hãi trong sâu thẳm của mỗi người. Sợ mất chỗ ở, mất công ăn việc làm, sợ bị xa lánh, bị coi là thành phần dị biệt trong “xã hội đồng thuận”, sợ cả những thứ không hiện hữu… bởi không thể suy nghĩ được điều gì khác ngoài nỗi sợ hãi mơ hồ bao trùm.

Xã hội hôm nay của chúng ta đang sống là hệ lụy của sự sợ hãi được gieo rắc từ trên cao xuống thấp, từ trung ương đến địa phương, từ thành phố đến nông thôn.. Người ta nhìn nhau đầy sợ hãi mà đôi khi chẳng biết là mình đang sợ cái gì.

Hôm nay, khi trở thành một phụ huynh của hai đứa trẻ, phải đối mặt với nhiều nỗi sợ hãi mà những người lớn đã trải qua, tôi cũng cảm thấy mình sợ hãi như nhiều người khác. Nhưng nỗi sợ hãi lớn nhất bao trùm trong lòng tôi đó là cái viễn cảnh sẽ lại sẽ có nhiều thế hệ chuột bạch khác ra đời. Con cái chúng ta phải cắm cúi nhồi nhét vào đầu một đống kiến thức mà người khác muốn chứ không cần biết điều gì mới là thiết thực và cần thiết. Con cái chúng ta bị cuốn vào vòng quay thành tích ảo, lướt qua mọi cảm xúc của cuộc sống này vì bị định hướng, bị nhồi nhét..

Và đến một lúc nào đó, chúng cũng sẽ quay lại hỏi chúng ta câu hỏi tương tự mà ta đã hỏi những người lớn hơn mình.

Không ai muốn mình có cuộc sống của loài chuột bạch, tôi tin là như vậy.

Vì thế, nếu phải lựa chọn để có tiếng nói của mình, tôi nghĩ rằng, mỗi người sẽ có sự lựa chọn thích hợp và tối ưu nhất với hy vọng nhỏ nhoi là sẽ không có một thế hệ chuột bạch kế tiếp.

Luôn tin và mong như vậy các bạn thân mến của tôi ơi.
Mẹ Nấm
(Blog Mẹ Nấm) 

Hàng loạt báo điện tử lớn đang bị tấn công DDoS ?


ICTnews- Một số chuyên gia về an ninh mạng cho rằng, nhiều dấu hiệu cho thấy một số báo điện tử lớn như Vietnamnet, Dantri hay mới đây là Tuổi trẻ…đang bị tấn công từ chối dịch vụ (DDoS) với quy mô lớn gây ra hiện tượng khó truy cập đối với các trang web này.
>>Vietnamnet liên tục bị tấn công quy mô lớn / Nhiều trang tin lớn bị hacker tấn công
Ngày hôm qua 4/7, trên các trang diễn đàn và mạng xã hội như Facebook đã lan truyền thông tin về việc các trang báo điện tử lớn như Dantri, Vietnamnet, Tuổi Trẻ… đang bị tấn công từ chối dịch vụ với cường độ lớn khiến người dùng khó truy cập. Đến chiều ngày 5/7, khi phóng viên ICTnews truy cập vào trang web Dantri và Tuổi Trẻ thì đều gặp thông báo “Service Unavailable”. Còn Vietnamnet thì việc tải trang web rất chậm và phải rất khó khăn thì mới có thể truy cập thành công.
Trao đổi với phóng viên ICTnews, đại diện các báo Vietnamnet, Dantri và Tuổi Trẻ cho biết, họ đang tiến hành tìm hiểu nguyên nhân sự việc và sẽ sớm thông báo trong thời gian tới.
Tuy nhiên, một số chuyên gia an ninh mạng cho rằng, có nhiều dấu hiệu cho thấy, đang có một cuộc tấn công từ chối dịch vụ nhắm vào các báo điện tử lớn ở Việt Nam. Một nguồn tin riêng của ICTnews cho biết, lượng truy cập báo điện tử Dantri vào ban ngày gấp khoảng 40 lần và ban đêm lên tới 100 lần so với những ngày trước đó.
Trước đó, trong năm 2010-2011, Vietnamnet đã liên tục gặp phải các cuộc tấn công DDoS với cường độ cao, trong đó, đợt đầu tiên từ cuối năm 2010 cho đến đầu năm 2011 và đợt 2 là thời điểm tháng 8-9/2011. Khi đó, Vietnamnet đã phải chịu những cuộc tấn công từ chối dịch vụ với cường độ kỷ lục với 1,5 triệu kết nối tại cùng một thời điểm (vào ngày 27/1/2011).
Cũng trong năm 2011, một số website của công ty VC Corp như rongbay.com, enbac.com… cũng đã liên tục bị nhiều máy tính và máy chủ có địa chỉ ở nước ngoài tấn công từ chối dịch vụ (DDoS) với lưu lượng dữ liệu lớn gây nghẽn một số hướng truy nhập từ quốc tế. Tuy nhiên, theo đại diện VCCorp, do các máy tính và máy chủ tấn công liên tục thay đổi địa chỉ IP nên việc ngăn chặn DDoS cũng như xử lý triệt để rất khó khăn, không thể chủ động và xử lý dứt điểm trong thời gian ngắn.
DDoS gây nghẽn một website hay một cơ sở hạ tầng, khiến người sử dụng không thể truy cập giống như hiện tượng nghẽn mạng di động trong dịp lễ tết do có quá nhiều người gọi cùng lúc. Phương pháp này bị coi là “bẩn thỉu” nhưng đem lại hiệu quả tức thì: website bị tê liệt kéo dài cho tới khi cuộc tấn công chấm dứt.
TP
 

Khi Siêu Cường Vấp Ngã….

Vietbao.com

Tác giả : Nguyễn Xuân Nghĩa
Trung Quốc bắt kịp Hoa Kỳ? Tào lao, tào lếu, tào láo!
Khi kinh tế Trung Quốc qua mặt Nhật Bản vào năm 2010, Quỹ Tiền tệ Quốc tế mau mắn dự báo một vụ qua mặt nối tiếp. Từ 10 tỷ 128 triệu Mỹ kim vào năm 2010, sản lượng kinh tế Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi và lên tới 20 tỷ 440 triệu vào năm 2017. Cùng lúc ấy, sản lượng kinh tế Hoa Kỳ từ gần 15 ngàn tỷ chỉ lên tới 20 tỷ 77 triệu: Mỹ lãnh huy chương bạc, nhường chức vô địch cho Trung Quốc…
Giới kinh tế tài chánh ưa vui chơi với con số tính nhẩm là 70. Giả dụ như muốn tăng sản lượng gấp đôi trong bảy năm – như từ năm 2010 qua 2011, 2012… đến 2017 – thì hãy lấy số 70 chia cho bảy. Vị chi là phải có đà tăng trưởng 10% một năm (70/7). Muốn gấp đôi trong hai năm thì mỗi năm phải tăng 35%. Nếu đà tăng trưởng chỉ có 2% một năm thì phải đợi 35 năm….
Theo dự phóng nói trên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, kinh tế Trung Quốc vẫn duy trì được đà tăng trưởng 10% của hai thập niên trước. Lạc quan tếu.
Tính đến giữa năm thì chỉ tiêu tăng trưởng 7,5% cho năm nay của lãnh đạo Bắc Kinh đã có dấu hiệu bất khả. Được 7% là mừng, nhiều phần sẽ chỉ là 6%. Mà 7% một năm thì đấy đã là chỉ dấu “hạ cánh nặng nề” – hard landing – với khá nhiều vất vả.
Qua năm năm tới đây, nếu kế hoạch cải tổ cơ chế được áp dụng để đưa kinh tế qua hình thái phát triển khác – dựa vào phẩm hơn lượng, vào tiêu thụ nội địa hơn là đầu tư hay xuất cảng – thì tốc độ tăng trưởng hàng năm của kinh tế Trung Quốc sẽ ở dưới 5%. Tức là sản lượng chỉ nhân đôi trong 14 năm, khi ta tính nhẩm bằng hệ số 70.
Đấy cũng là thời điểm mà dân số Trung Quốc hết tăng, và bắt đầu giảm. Trong khi dân số Hoa Kỳ vẫn tăng. Siêu cường trẻ trung và hung hăng là nước Mỹ vẫn phơi phới đi lên, và đế quốc cổ xưa của Thiên triều đỏ thì chưa kịp giàu đã già. Nên đành lỡ hẹn với lịch sử.
Không chỉ lỡ hẹn, mà còn nghẹn ngào ứa lệ….
***
Trước sự lớn mạnh đột ngột của Trung Quốc kể từ khi Đặng Tiểu Bình giành lại quyền bính và tiến hành cải cách từ đầu năm 1979 – nhồi trong “bài học cho Việt Nam” – nhiều người Việt đã lo sợ cho tương lai bên cạnh một nước láng giềng xưa nay không hề che giấu tinh thần đại bá.
Một số người thì cho rằng mô hình Trung Quốc hay phép “đồng thuận Bắc Kinh” là phép màu phát triển Việt Nam, với đảng độc quyền dựa trên khu vực kinh tế nhà nước và xây dựng chế độ tư bản nhà nước theo quy luật thị trường. Đấy là quan điểm “lưỡng lợi” của thiểu số lưu manh, muốn duy trì ách độc tài để bảo vệ đặc quyền lẫn đặc lợi.
Một số người tử tế thì cho rằng về dài, cả hai mô thức phát triển kiểu tự do của Hoa Kỳ hay tập quyền của Trung Quốc sẽ có lúc “đồng quy”: chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ cần sự can thiệp của nhà nước để điều chỉnh những thái quá của thị trường và chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu Trung Quốc sẽ mở rộng không gian sinh hoạt của tư nhân và thị trường. Về dài thì Tầu Mỹ gì cũng gặp nhau.
Y như sự ngớ ngẩn của cánh tả năm xưa, người ta muốn tìm giải pháp trung dung của lực lượng thứ ba, với ưu điểm từ cả hai hệ thống tự do lẫn kế hoạch. Việc Trung Quốc vượt mặt Hoa Kỳ sau khi cải cách kinh tế chỉ chứng minh sự sáng suốt của con đường thứ ba.
Sự thật lại không trừu tượng và sạch sẽ như vậy.
***
Hoa Kỳ và Trung Quốc có kích thước tương tự, 10 triệu cây số vuông, mà khác biệt về địa dư hình thể.
Hoa Kỳ có lãnh thổ vuông vức và hệ thống sông ngòi thuận lợi bên trong nên có tiềm lực rất cao về sản xuất nông nghiệp, dư thừa lương thực để nuôi sống một dân số cao gấp bội. Trong khi lãnh thổ bát ngát của Trung Quốc thiếu đất và nước cho nhu cầu sinh hoạt, và diện tích khả canh tính theo đầu người chỉ bằng một phần ba của trung bình thế giới mà thôi.
Hình thể bất cân xứng còn là bài toán hợp tan ngàn đời.
Miền Đông hay Trung Nguyên trù phú nhờ độ ẩm đủ cao cho canh tác và nhờ lưu vực Hoàng hà và Trường giang tương đối thuận lợi cho giao thông buôn bán. Đây là nơi sinh sống của 400 triệu người, với mật độ dân số quá cao. Phần còn lại là khu vực hoang vu khô cằn rộng lớn bên trong, rất khó phát triển để nuôi sống 900 triệu dân.
Trong hoàn cảnh đó, một số tích cực thì đi làm “dân công” để kiếm ăn mà không có hộ khẩu và mạng lưới an sinh tối thiểu. Khoảng 250 đến 300 triệu dân công đã có cuộc sống tạm bợ mà kéo dài mấy chục năm. Họ từ nông thôn đi ra tỉnh, từ miền Tây đi làm gia công ở miền Đông.
Vì vậy, phát triển khu vực nội địa nghèo đói là ưu tiên chiến lược của trung ương, qua các dự án đầu tư kém hiệu năng và lại gặp trở lực của các tỉnh duyên hải muốn bung ra thị trường bên ngoài của thế giới. Đấy là bài toán hướng nội và hướng ngoại của hai khu vực quá khác biệt.
Kinh tế Trung Quốc có ưu thế là dân số đông nhất địa cầu. Nhưng ưu thế này mất dần sau bốn chục năm kế hoạch hóa gia đình với chế độ “mỗi hộ một con” và vì nếp văn hóa trọng nam khinh nữ. Mà dân số là một yếu tố chi phối khả năng sản xuất trong trường kỳ….
Ngoài tai ách về địa dư hình thể nằm trong gia phả, lãnh đạo Bắc Kinh còn gặp năm bài toán xuất phát từ dân số:
1) Lương bổng gia tăng ở nơi có mật độ dân số quá cao nên kinh tế mất sức cạnh tranh; 2) lương bổng thấp ở các vùng kém phát triển bên trong khó nâng cao khả năng tiêu thụ nôi địa để cân bằng lại cơ cấu kinh tế cho khỏi lệ thuộc vào đầu tư và xuất cảng; 3) dân số bị lão hóa với tỷ trọng cao niên gia tăng so với lực lượng ở vào tuổi lao động sản xuất nên gánh nặng xã hội chỉ tăng chứ không giảm; 4) dân số hết tăng kể từ năm 2026 và còn giảm dần để đến cuối thế kỷ thì chỉ còn 950 triệu nên sẽ làm giảm sức sản xuất; và 5) tỷ lệ tính phái nam đông hơn nữ tiếp tục mở rộng, cho đến 2020 sẽ là 130/100, nên ảnh hưởng đến sinh suất và cả sự ổn định xã hội. Con số 124 có thể tóm lược mấy bài toán này: một người phải nuôi song thân và bốn ông bà bên nội bên ngoại!
Nhìn rộng ra ngoài thì không xã hội nào có thể đạt mức tăng trưởng cao với một dân số giảm sút. Với Trung Quốc, tình hình sẽ tệ hơn vì 30 năm chỉ biết lượng hơn phẩm nên đà tăng trưởng 9-10% để lại một di sản ô nhiễm vĩ đại cho thế hệ về sau. Một lãnh thổ thiếu đất canh tác ở trên, 90% mạch nước ngọt ở dưới thì khô cạn hoặc chứa đầy độc chất: cường quốc kinh tế này thật ra không có tương lai!
Thiên triều đỏ ở trên không thể không thấy ra những nhược điểm này.
***
Họ nói đến phẩm hơn lượng và cụ thể là muốn đi từ hình thái phát triển kỹ nghệ chế biến với nhân công rẻ và năng suất thấp lên một trình độ tổ chức và sản xuất cao hơn. Như Nhật Bản hay Nam Hàn, từ cả chục năm nay, Trung Quốc muốn thoát khỏi ưu thế ảo là “hãng xưởng ráp chế toàn cầu” và xây dựng khu vực sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn nhờ tinh thần sáng tạo.
Nhưng kết quả là một sự nghèo nàn vì từ căn bản, họ chỉ có nền văn hóa kinh doanh kiểu cóp nhặt. Ngày nay, hơn 80% mặt hàng “cao kỹ” – loại “hi-tech” có nhãn hiệu “Made in China” – chỉ là sản phẩm gia công làm cho doanh nghiệp ngoại quốc. Nếp văn hóa ăn cắp theo nghệ thuật “ăn của địch để đánh địch” từng được dựng thành quốc sách nay tỏa xuống thần dân là cái thói không tôn trọng tác quyền của thiên hạ. Mà nền kinh tế hay giáo dục và đào tạo không thể lấy sức mạnh từ tri thức và sáng tạo nếu thiếu tự do và phản ứng cầu tiến.
Ngần ấy lý do đều dẫn tới việc Trung Quốc khó bước lên bậc thang cao hơn của tiến trình sản xuất dựa trên tri thức và sáng tạo – dùng cái đầu hơn bắp thịt. Tức là việc kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Hoa Kỳ chỉ là chuyện xa vời.
Nhưng vấn đề không nằm ở đó.
Vấn đề của Trung Quốc nằm ở các nhược điểm không thể cải sửa của nền kinh tế phi cầm phi thú – nửa dơi nửa chuột của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chế độ độc tài. Vì vậy, họ đầu tư và đi vay với nhiều lãng phí, mà lại trút đặc lợi vào khu vực kinh tế nhà nước, cho tay chân và thân tộc của lãnh đạo. Sự hình thành của các nhóm lợi ích cấu kết với con ông cháu cha – Thái tử đảng – còn cản trở mọi nỗ lực cải cách hoặc chuyển hướng. Đấy là một vấn đề kinh tế chính trị cực kỳ nan giải của một quốc gia rộng lớn không có thể chế liên bang và quy ước dân chủ.
Vấn đề còn nan giải và kinh hãi hơn vậy thuộc về lãnh vực văn hóa xã hội: đa số người dân Trung Quốc ngày nay lại hài lòng với chế độ chính trị và bộ máy quyền lực của nhà nước. Họ hãnh diện về uy thế quốc tế của xứ sở, không thấy ra vấn đề của đất nước và chẳng muốn thay đổi hệ thống cai trị. Vì trên dưới đều một lòng, Trung Quốc đang là cường quốc sẽ có ngày vấp ngã.
Đó là cuộc hẹn của con thiêu thân với ngọn lửa rực sáng.

Bảo Ninh, người làm lễ bỏ mả cho giai đoạn thơ văn minh họa



Đỗ Trường (Danlambao) – Cuộc sống này, quả thật còn có nhiều điều không thể hiểu. Tôi chỉ là người viết văn tép riu, vui là chính, như lời nhà thơ Trần Nhương. Ấy thế mà, tôi cảm giác, văn thơ như có một sợi dây vô hình nào đó gắn bết lại lại với nhau. Khi viết Nguyễn Trọng Tạo, tôi lại nghĩ đến nhà thơ Hoàng Cát, Lưu Quang Vũ. Lúc viết về Trần Mạnh Hảo, cái hào sảng, khí phách con người cũng như thơ ca Bùi Minh Quốc lại hiện về. Viết xong Đỗ Hoàng, thế quái nào tâm trí còn đọng lại bác Bảo Ninh. Giờ này đang viết về Bảo Ninh, người lính chiến miền Bắc, lại thấy ông em họ, lính thám kích miền Nam, chết sau mấy năm trở về, từ nhà tù Thanh Hóa, ngồi lù lù bên cạnh…
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng số một của miền Bắc viết tiểu thuyết, văn xuôi về đề tài chiến tranh. “Dấu Chân Người Lính” được cho là một trong những cuốn tiêu biểu đỉnh cao nghệ thuật của văn học thời kỳ ấy. Nhưng năm 1987, Nguyễn Minh Châu ra lời kêu gọi bằng chính tác phẩm của mình: “Hãy Đọc Lời Ai Điếu Cho Một Giai Đoạn Văn Nghệ Minh Họa”. Thật ra, trước ông đã có một số nhà văn, nhà thơ đã định làm lễ bỏ mả cho cái giai đoạn văn nghệ tuyên truyền, minh họa này. Tiêu biểu Phạm Tiến Duật năm 1974 với bài thơ “Vòng Trắng”. Mấy năm sau, Nguyễn Trọng Tạo lại trần trụi với bài “Tản Mạn Thời Tôi Sống”… Chưa đúng thời, cả hai ông đều bị tẩm quất. Văn chương thơ phú muốn nói thật viết thật, quả thật còn nguy hiển hơn cả ngoài mặt trận. Phạm Tiến Duật lộn lại chiến trường, còn Nguyễn Trọng Tạo bị dồn đến chân tường, có những lúc ông đã phải nghĩ đến cái chết.
Không ai phủ nhận những đóng góp, sức mạnh của văn thơ tuyên truyền, cổ động trong thời điểm đó và tài năng của các nhà thơ nhà văn. Nhưng văn thơ tuyên truyền, minh họa chỉ nhất thời, có tuổi thọ ngắn. Ngay đến nhà thơ tài danh Xuân Diệu, đầu năm 1979 vào Buôn Mê Thuột, theo đơn đặt của tỉnh ủy Daklak, ông viết bài thơ Huyện Lắc. Bài thơ này, được ông đọc và bình trước sinh viên trường đại học Tây Nguyên, trường sư phạm. Bài thơ không hay! Có một tên trời đánh Hoàng Thế Hoan (sinh viên sư phạm Đà Lạt, quê quán Nghĩa Hùng, Nghĩa Hưng, Nam Định), dám cả gan chê ngay trước mặt ông như vậy. Âu đó cũng là chuyện bình thường, bởi thơ đó không được tiết ra từ xúc cảm tâm hồn Xuân Diệu, mà cái đơn đặt hàng nó viết đấy thôi.
Ông phó cối, hàng xóm nhà tôi, người lính đã trải qua ba cuộc chiến. Ngày còn nhỏ anh thường phải theo cha đi đóng cối xay khắp nơi, nên ít được đến trường. Nhưng anh ham đọc, nhất là sách, truyện viết về chiến tranh. Có lần anh hỏi tôi, theo chú, tại sao truyện của Bảo Ninh đọc đi đọc lại mãi không chán? Nếu như người khác, tôi đã cho là hỏi đểu, nhưng với anh tôi biết, đó là câu hỏi thật. Vâng! Chỉ một câu trả lời: Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh. Và tôi hỏi lại, anh đọc “Nỗi Buồn Chiến Tranh”, thấy Bảo Ninh viết về những người lính và chiến trường giống những gì anh đã trải qua không? Anh bảo, giống… giống lắm, người lính tên Can là một phần cuộc sống của anh về cả xuất thân quê quán, hoàn cảnh, chiến tranh đánh đấm khói lửa cho đến suy nghĩ…
Cách nay vừa tròn hai mươi năm (1993), tôi có về Hà Nội, gặp được ông em họ vừa ở tù ra vì can tội là lính thám kích, quân đội VNCH. Tôi có đưa cho hắn cuốn “Nỗi Buồn Chiến Tranh”. Đọc xong, hắn bảo, ông Bảo Ninh viết hoàn toàn sai về người lính VNCH. Như câu chuyện bốn người lính thám kích bị bắt, tác giả viết một cách không đúng sự thật. Từ cách mô tả hành động đến thuật lại những mẩu đối thoại của những người lính thám kích này.
Lính thám kích được chọn, hầu hết còn trẻ, gan dạ và có bản lãnh. Họ không thể nào quá hèn hạ, van xin như Bảo Ninh kể. Nếu có xin tha đi nữa, thì cách nói và những lời nói ấy, nhất định không phải của họ. Điều này hắn khẳng định không thể có. Người lính thám kích đã được giáo dục về nhân cách, ngay sau khi đã được tuyển chọn. Trong nhiệm vụ đặc biệt, những toán thám kích cần phải tránh nổ súng, tránh bị phát hiện, trừ trường hợp, tự vệ, bất khả kháng. Cho nên, không thể có trường hợp phát hiện, bắt ba cô gái, rồi dẫn đi nhởn nhơ như vậy, để nhóm của Kiên tóm được. Hơn nữa, trong trường hợp đã bị bắt, trước sự sống chết, không thằng nào ngu xuẩn, nói giọng trêu cợt: Ba nhỏ đó trình quý anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi… Mấy nhỏ la khóc quá trời…
Hắn cũng cho rằng, cuốn truyện còn nhiều cảnh tưởng tượng quá mức, như trường hợp, một đám lính, làm thịt con xà niêng, nhưng sau khi cạo lông mới phát hiện ra đó là một người đàn bà.
Tôi viết lại lời hắn theo trí nhớ của mình. Và còn nhiều lời nặng nề khác của hắn về “Nỗi Buồn Chiến Tranh”  nhưng tôi xin phép không chép ra đây. Hắn ra người thiên cổ đã lâu. Vài dòng như một chút tưởng niệm đến hắn và các những người lính cả hai miền Nam-Bắc đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Tôi là người sinh sau đẻ muộn, rất may mắn không phải tham gia trận chiến thê thảm này. Bài này, tôi chỉ đề cập đến sự thật khốc liệt của chiến tranh, ở những tình tiết có ở trên trang sách của Bảo Ninh và nghệ thuật viết truyện của ông, qua suy nghĩ cá nhân. Do vậy, khi đọc các bác đặt quan niệm chính trị, ra ngoài bài viết này.
Cũng như Lưu Quang Vũ, Bảo Ninh được sinh ra trong một gia đình văn chương, khoa bảng. Nói một cách dân dã, các ông là con nhà nòi và lớn lên trong cái lò văn chương, nghệ thuật. Lưu Quang Vũ đã sớm nắm bắt được cái tinh cái cốt ấy, nên đến với thi ca rất sớm. Còn Bảo Ninh đủng đà đủng đỉnh, cứ như một gã thợ cày làm công nhật, tính điểm thời hợp tác xã vậy. Do đó, ông đến với văn chương khá muộn, so với các nhà văn cùng thế hệ. Có thể nói, nếu như không có sự cổ vũ, giúp đỡ tích cực của người cha thì chưa chắc Bảo Ninh đã theo nghiệp viết lách. Thật vậy, khi đọc văn của Bảo Ninh, thấy dường như có một nhà ngôn ngữ học thấp thoáng ở đâu đó.
Điều tất nhiên khi đánh giá tài năng nhà văn, cũng như kiểm tra OTK trong nhà máy, chỉ dựa vào chất lượng sản phẩm của họ. Xuất thân, đến sớm hoặc muộn với văn chương chỉ là tài liệu tham khảo. Tài năng phát tiết ra sớm hay muộn cũng như cơ địa của hai cô gái cùng tuổi, nhưng thời điểm dậy thì, khác nhau mà thôi.
Bảo Ninh có cái may mắn, gốc rễ, được sinh ra tại miền quê và ông lớn lên trưởng thành ở Hà Nội. Giống nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, ông được đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người ở vùng miền khác nhau. Những cách sống, văn hóa, ngôn ngữ vùng miền ấy, sau này đã được ông tiếp thu, hòa trộn đưa vào trang sách một cách sinh động phong phú. Dường như Bảo Ninh viết không nhiều, không viết tạp. Ông chỉ viết những gì, khi hiểu thật kỹ và đã, đang sống cùng nó. Ngoài viết báo ra, ông còn gánh hai mảng, truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết văn, nhất là tiểu thuyết là công việc nặng nhọc, nên nhà văn ngoài tài năng bẩm sinh, kỹ năng viết ra, cần phải có sức lực, vốn sống, kiến thức thâm hậu. Chứ viết văn dốt bị “nghĩa lộ” ngay, không như mấy bác lười nhác, trống rỗng làm thơ tắc tị, nhạt như nước ốc, vẫn có thể lấp liếm được, cho là thơ trừu tượng, thơ mới… Vì vậy, (tịnh) không thấy bác nào, lập ra hội văn phường, văn xóm như thơ. Vì những lý do này và là người kỹ tính, nên Bảo Ninh cốt tinh chứ không cốt lượng, viết thận trọng từng bước, từng bước chăng?
Cho đến nay, về tiểu thuyết, Bảo Ninh chỉ mới trình làng cuốn “Nỗi Buồn Chiến Tranh”  Cuốn tiểu thuyết này, ông viết cách nay đã trên hai chục năm. Tôi cho rằng, đây là cuốn sách rửa lại bộ mặt nhem nhuốc cho văn học Việt Nam. Và nó là lời ai điếu cho giai đoạn văn thơ minh họa tuyên truyền.
Thân Phận Tình Yêu là cái tên đầu của cuốn sách. Một cái tên vô thưởng vô phạt, không hay, nếu như không muốn nói là tối nghĩa. Bởi vì cái tên, cái tựa là cái giỏ chứa cả hồn cốt của cuốn truyện. Tôi nghĩ, cái tên này chỉ là giải pháp bắt buộc tạm thời như vậy, nếu Bảo Ninh, muốn đưa được cuốn sách này đến người đọc. Giả dụ, cái tựa này do Bảo Ninh thực sự đặt ra, thì cha ông, một giáo sư ngôn ngữ học, không chịu để yên như thế. Vậy là cuốn sách đã qua được vòng kiểm duyệt, (chắc chắn có sự hỗ trợ của một số nhà văn khác có trách nhiệm, tư tưởng cởi mở) để đến tay bạn đọc. Năm 1991, được tái bản, Bảo Ninh mới dám trả đúng tên cho cuốn sách của mình: “Nỗi Buồn Chiến Tranh”.
Mặc chiếc áo của người lính chiến tên Kiên, Bảo Ninh đã lột trần sự tàn nhẫn, của chiến tranh và thân phận đớn đau, không lối thoát của người lính ngay sau cuộc chiến. Một sự thật từ xưa đến nay người ta đều giấu giếm kiêng kỵ. Tiếng vang của nó không còn đóng khung trong nước, mà tràn ra khỏi biên giới. Độc giả các nước Âu-Mỹ đã đón nhận nó. Sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, kéo theo hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Những năm sau đó, trong nước có những lãnh đạo cao cấp đã nhận ra sai lầm. Tư tưởng người dân dao động. Tầng lớp trí thức, thanh niên bước đầu có những chính kiến rõ ràng. Các bác giật mình sợ hãi. Một cái lệnh vu vơ từ cõi trên, treo tái bản “Nỗi Buồn Chiến Tranh” hơn chục năm.
Mười năm, văn học Việt Nam vẫn luẩn quẩn, không có một cuốn sách nào vượt qua được “Nỗi Buồn Chiến Tranh”. Tuy sách của Nguyễn Huy Thiệp được xuất bản ở nước ngoài, gây tiếng vang, nhưng chỉ là truyện ngắn, không nặng ký như tiểu thuyết, truyện dài hơi. Đất nước muốn thoát cảnh đói nghèo, cánh cửa biên giới phải mở. Internet phát triển như vũ bão, các bác treo “Nỗi Buồn Chiến Tranh” người đọc tìm Bảo Ninh trên trang báo nước ngoài. Bộ mặt văn học Việt Nam vẫn méo mó, đối ngoại luẩn quẩn. Các bạn nước ngoài hỏi đến Bảo Ninh, các bác ngơ ngác, thật là kỳ cục. Thế là, người ta lại phải cần đến Bảo Ninh và “Nỗi Buồn Chiến Tranh” để lau lại khuôn mặt nhem nhuốc đó. Muốn vậy, chỉ còn cách duy nhất, “Nỗi Buồn Chiến Tranh” phải được tái bản lại ở trong nước. Đây là cuốn sách, được người đọc trong và ngoài nước yêu thích và cũng có số lượng phát hành nhiều nhất Việt Nam.
Tôi không thích đọc những bài viết về giải thưởng văn học trong cũng như ngoài nước. Nhưng hôm rồi lục tìm tài liệu về thân thế của Bảo Ninh, thấy có một bài viết của Đông La. Anh cho rằng, Bảo Ninh đã chôm một đoạn văn này, của cuốn sách nước ngoài (Bông Hồng Vàng) đưa vào “Nỗi Buồn Chiến Tranh”  “…Nếu Elêna nói với Anđexen: “Anh hãy chạy đi… Đừng nghĩ gì đến em. Nhưng nếu một ngày kia, tuổi già, nghèo nàn và bệnh tật có làm anh đau khổ thì chỉ cần anh nhắn cho em một lời, em sẽ… tới an ủi anh”, thì cô Lan cũng nói với Kiên: “Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi vào hãy sống cho thỏa… Còn nói ví dụ… một ngày nào anh gặp cảnh ngộ không hay, thấy đã hết ngả để đi tiếp thì xin anh hãy nhớ ngay rằng, dù sao cũng còn có một nơi, cũng còn một người… một chốn anh về (bài của Đông La).
Tôi nghĩ, anh Đông La đã lầm lẫn, hai đoạn văn trên hoàn cảnh, ngữ cảnh và những câu thoại hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, đoạn trích của Đông La là những câu ghép lại bằng những dấu ba chấm để so sánh. Lắp ghép kiểu này, dường như không được chính nhân cho lắm. Cũng chẳng cần phải phân tích đúng sai, nói cho nhanh, nếu đoạn văn trên là chôm chĩa thật, chẳng cần anh Đông La phải mất công đào bới, mấy ông bản quyền ở Âu- Mỹ, đã lôi cổ Bảo Ninh ra tòa lâu rồi. Có một điều, có lẽ anh Đông La không biết, luật bản quyền ở châu Âu chặt chẽ xuống từng đầu người, từng chiếc radio, từng cái ô tô. Ai cũng phải trả tiền bản quyền nghe nhạc. Sử dụng nhạc trong cửa hàng kinh doanh, càng phải trả nhiều tiền hơn, tính mét vuông nhân lên số tiền. Tiện đây cũng nhắc luôn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và các nhạc sỹ có bài hát, hay được (bị) sử dụng ở nước ngoài. Trước kia, các nhà hàng của người Việt ta, thường khai với công ty quản lý sử dụng nhạc trong kinh doanh (GEMA) chỉ sử dụng nhạc Việt, nên không phải trả tiền. Mấy năm gần đây, sử dụng nhạc Việt cũng phải nộp tiền cho công ty này. Họ bảo, nhạc Việt cũng được bảo hộ, tiền sẽ trả cho tác giả. Không biết công ty bản quyền và nhạc sỹ ở Việt Nam có được nhận hay không? Không những Đức mà còn nhiều các nước khác, châu lục khác. Tôi nghĩ, đó là khoản tiền không nhỏ.
Cũng như nhạc, ngoài ra bản quyền sách báo còn chặt chẽ hơn. Sách của Bảo Ninh có đoạn chôm chĩa, tôi bảo đảm không nhà sách nào dám in, chứ đừng nói mấy chục năm nay nó nằm chình ình ở các hiệu sách, thư viện Âu- Mỹ như vậy.
Đông La còn đánh giá, nếu như Bảo Ninh nhận được giải Nobel về văn học, thì mang mầu sắc chính trị, chứ không phải về học thuật. Tôi nghĩ, văn học Việt Nam đang như cái chợ chiều thế này, thế hệ nhà văn Bảo Ninh không có hy vọng nhận được giải ấy. Nếu như Việt Nam nuôi hy vọng nhận được giải Nobel, ngay bây giờ nên có những công trình nghiên cứu, giải quyết những câu hỏi. Tại sao “Nỗi Buồn Chiến Tranh” tràn đầy sức sống và sống dai đến như vậy? Không những nó ghim vào lòng độc giả trong nước mà cả đến độc giả các nước Âu-Mỹ. Điều này không phải tôi nói, trước đây đã nhiều người nói rồi. Cái này, từ ông viện trưởng viện văn học đến ông chủ tịch Hội nhà văn chắc chắn cũng thừa biết. Nhưng các bác không làm, vì có lẽ làm cũng chẳng ăn cái dải rút gì. Nên các bác để thời gian, cùng nhau lên đồng, cùng nhau tụng ca những thứ, thơ chẳng ra thơ, vè chẳng ra vè của những ông linh hồn bệnh hoạn như Hoàng Quang Thuận… Với những suy nghĩ còn tiểu nông như vậy, văn chương bao giờ mới lớn lên được.
Không biết Đông La đã đọc kỹ “Nỗi Buồn Chiến Tranh” hay chưa? Cuốn sách này, tôi chẳng thấy đồng chí chính trị viên hay bác tâm lý chiến nào ở trong đó cả. Cũng chẳng thấy bóng dáng, những ông Kissinger, Nixon, Johnson hay bác Nguyễn Khoa Điềm… Đinh Thế Huynh đâu. Chỉ thấy, thuần một ông Bảo Ninh đang lên cơn điên, với những nỗi ám ảnh chém nát linh hồn. Từ đó bật lên sự thật trần trụi, tàn nhẫn của chiến tranh cũng như thân phận bi quan không lối thoát của con người sau cuộc chiến, chẳng có chút chính trị chính em nào ở trong này cả. Cuốn “Nỗi Buồn Chiến Tranh” nếu như được trao giải, thì chẳng có lợi cho phe phái chính trị nào. Và Bảo Ninh cũng không phải là cái tầm cỡ to lớn như hai bác, thay mặt cho hai phe, xua quân đánh nhau, rồi bắt tay đình chiến, cùng được kêu tên nhận giải Nobel khi xưa, để người ta đáng phải làm như vậy. Đông La suy diễn quả thật không có cơ sở, dù sự việc chỉ là giả thiết.
Đến bây giờ tôi vẫn nghĩ, “Nỗi Buồn Chiến Tranh” nếu được viết, xuất bản ở môi trường xã hội khác, có lẽ Bảo Ninh sẽ viết theo thể truyện ký, hay tự truyện. Dùng đại từ nhân xưng (tôi) ngôi thứ nhất, thay cho ngôi thứ ba (Kiên), gần gũi, truyền cảm xúc nhanh nhất từ người viết đến người đọc. Nó cho người đọc cảm giác thật và có sức lan tỏa mạnh hơn nữa. Nhưng nó có mặt hạn chế bó buộc, không được vung tay mạnh, như viết tiểu thuyết. Bản thân tôi khi đọc, tiếp cận “Nỗi Buồn Chiến Tranh”  bằng mạch văn tự truyện, hay truyện ký, chứ không coi nó là tiểu thuyết.
Xuyên suốt “Nỗi Buồn Chiến Tranh” là sự hồi tưởng trong trạng thái ám ảnh của người lính chiến tên Kiên (tức là Bảo Ninh). Theo lời ông bạn, chuyên gia thần kinh học, thì ám ảnh cũng là một căn bệnh do bị tổn thương thần kinh. Những lúc bị ám ảnh, mỗi người bệnh có hành vi khác nhau. Có người đập phá, người hát hò nhảy múa hoặc tìm sử dụng chất ngây nghiện… Nhưng có những người lại trầm lặng làm những công việc đặc biệt, hoặc sinh ra những cá tính cá biệt. Có lý, như ông bác Đặng Trác, họ bên mẹ tôi là tướng tá gì đó, tư lệnh quân khu 9 từ thời đánh nhau với ông Pháp. Vợ ông ngày xưa có lẽ cũng tham gia đánh trận, nên bị ám ảnh, rất sợ bẩn. Có lần vợ chồng bác đến thăm ông trẻ, em bà ngoại tôi, chú Đặng Xuân Đỉnh (em ruột TBT Trường Chinh) cũng ở đó, đưa mời vợ bác Trác ly nước, bà vội rút khăn ra lót vào ly, rồi mới dám cầm. Bác Trác xin lỗi, và giải thích căn bệnh của bà…
Như vậy, rất may Kiên rơi vào dạng thứ hai này. Mỗi lần ám ảnh, thần kinh kích động cao độ, ông ngồi vào bàn viết, làm công việc duy nhất độc thoại về Phương về Can về Quảng, về Hòa… trong nội tâm và được chuyển tải trên từng trang giấy. Lúc này tâm hồn ông thoát, tách rời và khỏi thế giới xung quanh và không bị tác động bởi nó, ký ức hiện lên trang viết của ông là chân thật rõ nét nhất. Trong tâm trạng không bình thường, với nỗi ám ảnh chập chờn như bóng ma hiện về. Những ký ức bị xé vụn, đan xen chằng chịt, với lối kể nhanh, hoạt làm cho người đọc rờn rợn, nhưng vẫn đuổi theo hành động của nhân vật. Phải nói đây là cách dẫn chuyện mới lạ với người Việt, gần với tâm lý độc giả phương Tây hơn.
Có một nhà phê bình tên tuổi, khi đánh giá về “Nỗi Buồn Chiến Tranh” viết (quanh quẩn một hồi, rồi có câu kết): Bảo Ninh đã xây dựng thành công nhân vật người lính. Vâng! Tôi hiểu sự úp mở để che đậy cái suy nghĩ thật mà ông không dám nói, dám viết. Xây dựng của ông là nghệ thuật xây dựng của con chữ, chứ dứt khoát không phải xây dựng thành công người lính ĐIỂN HÌNH trong tập thể điển hình như những Dấu Chân Người Lính của Nguyễn Minh Châu, Đêm Trường Sơn Nhớ Bác của Nguyễn Trung Thu…
Bảo Ninh có cái nhìn khác về chiến tranh, thông qua cái mâu thuẫn nội tâm cũng như hành động cá thể của người lính. Tôi cho rằng, đó là cái nhìn biện chứng, khách quan, đúng với qui luật của cuộc sống cũng như tâm lý con người, dù là cái nhìn cá nhân. Đêm Trường Sơn, một thoáng lặng yên, trước nhất người lính phải nhớ về mẹ, về người yêu, người thân, chứ không thể nghĩ về người nào khác, dù người đó có là thánh nhân, (hoặc là ai đi chăng nữa).
Đọc lại đoạn thoại này, ta thấy được diễn biến tâm lý người lính rất thật, rất đau chứ không phải ấn vào mồm họ, những lý tưởng, từ ngữ phơi phới, đao to búa lớn:
“… Can từ từ đứng dậy, đối diện, nhìn thẳng mắt Kiên. 
 
- Cả đời đi đánh nhau, thú nhật, tôi chả thấy cái trò này là có gì vinh. Nhưng do hy vọng nên vẫn còn chịu đựng. Về quê, càng khốn nạn, tôi biết. Người ta chẳng để cho sống đâu. Nhưng mấy đêm vừa rồi tôi toàn mê thấy mẹ tôi gọi tôi… Có nhẽ anh tôi đã chết mà mẹ tôi thì khổ não lâm bệnh rồi chăng. Không thể nấn ná, vì suất học sĩ quan là của anh… Tôi phải lần về quê. Chỉ mong anh em trong trung đội thương tình, thông cảm. Sẽ chẳng ai tóm nổi tôi lại nếu như chính anh em trinh sát không truy đuổi. Nhất là anh, Kiên ạ, anh thả cho tôi đi thì tôi sẽ đi được… Tôi đành mang tội lỗi với anh em… Quê tôi thì anh biết rồi đấy… Hà Nam, Bình Lục… mai sau mà có dịp…” (NBCT)
Thay cho những buổi học chính trị sáo mòn ta thắng địch thua, người lính lao vào những cuộc sát phạt đỏ đen hay hút xách, nhằm quên đi cái tàn khốc của chiến tranh, mỏng manh của thân phận. Cỗ bài này, ngày mai ai sẽ là người khuyết chân?
“…Thường là cứ chập tối cơm xong bắt đầu ngả chiếu bạc. Trong bầu không khí ẩm rượt, nồng ngạt mùi mồ hôi và khét lẹt khói xông muỗi, các con bạc châu quanh cỗ bài, tơi bời đỏ đen. 
 
Tiền đặt cửa thường là những tàu thuốc “đồng bào” hôi mù, cay cú hơn thì thuốc lào, đá lửa hoặc sợi hồng ma một thứ tiền ma túy – hoặc là lương khô và ảnh nữa, ảnh con gái các loại, bất kể gái tây hay gái ta, xấu hay đẹp, người yêu hay người dưng, dùng tuốt, dốc hết ra mà sát phạt. Chẳng còn gì ăn thua nữa thì quệt muội đèn, chơi trò bôi râu. Người đánh kẻ chầu rìa, vui vẻ, om sòm nhiều hôm thâu đêm…
 
Chơi tà tà nhé, – Kiên đề nghị – nếu dở ván thì trời để cho cả bốn thằng sống qua trận này, để còn chơi tiếp…” (NBCT)
Vậy là, cỗ bài này chỉ còn lại một chân. Mình Kiên sống sót. Cái chết tuy đã được báo trước, nhưng trước cái chết quằn quại của những người lính trẻ từ cả hai phía Bắc-Nam, làm cho người đọc không khỏi bàng hoàng, đau xót. Và hình ảnh người lính bắn nhầm vào con xà niêng, cạo lông làm thịt một cách rùng rợn, cho ta thấy sự điển hình tàn nhẫn dã man của chiến tranh: “khi ngả ra, cạo sạch bộ lông thì hóa ra: con vật hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sần lở, nửa xám, nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược… Cả trung đội thất kinh, rú lên ù té, quẳng tiệt nồi niêu, dao kéo…” 
Phải nói, trí tưởng tượng, sự liên tưởng phong phú và tài năng kết nối sự việc là những yếu tố chính làm nên sự thành công của “Nỗi Buồn Chiến Tranh”. Chẳng có hương thơm nào có thể rửa hết mùi tử khí trong tâm hồn người lính chiến. Một cánh quạt trần quay cũng làm ông giật mình kinh hãi.
“… Nhiều hôm không đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72. 
 
Tử khí xộc lên từ vỉa hè nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt mũi như kẻ hóa rồ trước mắt người qua đường. Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường tôi nín thở đợi một trái hỏa tiễn từ tàu rà phụt xuống. “Chéo-éo-éo… Đoành!…”
Đọc “Nỗi Buồn Chiến Tranh”, tôi mới vỡ ra một điều, cái sự tưởng tượng của trang văn nó cần tính khái quát và cụ thể hơn so với thơ. Ở đây chỉ có một hình ảnh nhỏ “…luôn luôn nhìn xuống như sợ giẫm phải cái bóng của mình… người đọc đã liên tưởng, thấy được toàn bộ con người cũng như gia cảnh của người hàng xóm, tang thương vật vờ một cách sâu sắc hơn. Cái quan sát tỉ mỉ, lối miêu tả đầy hình ảnh này, chỉ nhà văn tài năng mới có được:
“… Có hôm ông bước xuống cầu thang vào sau bữa cơm trưa, xách trên tay chiếc cặp lồng đựng bữa tối. Ông không cao gì lắm nhưng vì quá gầy nên trông lênh khênh. Cổ lộ hầu, vai hẹp, lưng lòng khòng, luôn nhìn xuống như sợ giẫm phải bóng của mình. Ba người con của ông đều nằm lại trong chiến tranh. Anh con thứ là Toàn. Hy sinh gần như trước mắt Kiên. ông Huynh không biết chuyện đó. Vợ ông bị liệt khi báo tử đến người con cuối cùng. Vợ chồng ông sống nghèo khổ, câm nín, trống rỗng suốt bao năm trời. ông Huynh vẫn ngày ngày đi lái tàu điện”(NBCT)
Đôi lúc, ta thấy dường Bảo Ninh đã cởi chiếc áo lính ra, đứng từ góc cạnh khác để nhìn vào cuộc chiến. Đã giúp ông nhìn khách quan hơn. Và từ cái nhìn khách quan ấy, đã cho ông hiểu rõ hơn về bản chất của cuộc chiến. Từ đó, lòng nhân đạo là mạch nối giữa ông và người đọc thông qua trang viết:
“…Tên tuổi anh ta tôi không biết, chỉ biết anh ta là lính của liên đoàn 6 biệt động quân; Người Nam hay Bắc hay Trung cũng chả biết vì anh ta chỉ rên, rên thì dân xứ nào cũng một giọng như nhau…”
Câu nói, cũng như lời ước đầy tính nhân đạo, khi kết thúc chiến tranh: “Giá mà vào giờ phút giải phóng, tất cả những người lính đều được phục sinh”. Nhưng đó là những người lính nào? Vâng! Chính là những người lính chung của cả hai miền chiến tuyến. Đấy là tư tưởng Bảo Ninh trong toàn bộ tác phẩm này.
Thân phận của người lính sau chiến tranh, nằm trong cái bế tắc chung của toàn xã hội. Với những chính sách diệt tư sản tư nhân, cấm chợ ngăn sông, giá-lương-tiền, lạm phát phi nước đại, có những gia đình miền núi phía Bắc phải chết đói. Sự dối trá làm băng hoại đạo đức xã hội. Nhưng từ trên xuống dưới, các bác vẫn say sưa trong niềm vui chiến thắng. Phấn khởi lạc quan đến mức, bác Tố Hữu Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng (Phó thủ tướng) sau khi đi Pháp về, ví nếu trái đất là một chiếc nón, thì chúng ta đang ở trên đỉnh chóp cái nón đó. Làm cho người lành như nhà thơ Trần Đăng Khoa, cũng phải sửng sốt trước mặt bác Phó chủ tịch: Không biết chiếc nó đó đang úp hay ngửa?
Trong cái sấp, ngửa đó, Bảo Ninh nhận đã ra cái bi đát từ chính mình, đồng đội mình và trong gia đình, xã hội. Sau cuộc chiến súng đạn, là chiến tranh (trong) lòng người, còn ghê sợ hơn thế. Làm cho ông hoàn toàn thất vọng và kinh tởm những khuôn mặt giả dối ấy:
“- Hừ! Hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại có chút xương. Mà những người được phân công nằm lại góc rừng le là những người đáng sống nhất…- Nền hòa bình này… Hừ tôi thấy hình như các mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết. Mặt thật bày ra gớm chết…” (NBCT)
Một gia đình người hàng xóm có ba con liệt sỹ đói nghèo với cuộc sống vật vờ. Một đứa em gái người bạn chết trận là gái làm tiền. Người yêu đã là gái bao, Kiên cũng như bao đồng đội khác, lạc lõng, không thể hòa nhập vào cuộc sống, sau chiến tranh. Cuộc sống của họ chìm mình vào những cơn say và nôn ọe. Hình ảnh người lính hùng dũng lái xe chiến trường năm xưa, nay chỉ còn lái trong những lúc ám ảnh của linh hồn.
“… Xóc mạnh ổ gà, ổ trâu, chồm nẩy lên thì còn chịu được – Vượng kể – chứ mà những đoạn nhún nhảy, êm êm, mềm mềm, nhũn nhũn là tớ ọe liền, nôn chóng mặt đến buông cả tay lái. Đêm về không ngủ được. Ngủ lại gào lên như bị cắt tiết. Thế là tửu. Mà tửu vào thì còn lái chó gì được nữa…” (NBCT)
Có lẽ đồng đội của Bảo Ninh đều là những người ra đi từ miền quê, những nông dân chân lấm tay bùn, nên hầu như ông sử dụng từ ngữ địa phương của nông thôn miền Bắc trong cuốn sách, như một lời chi ân, tưởng nhớ chăng?
Vâng! Đúng như vậy, từ đầu đến cuối cuốn sách này, hình như chúng ta không hề tìm thấy động từ xem- nhìn- nó được thay bằng động từ nom, nông dân đồng bằng sông Hồng hay sử dụng “…Kiên nom thấy trong quầy… vẻ mặt hắn lúc này, nom phải đặt biệt nhà quê…“Hay cụm từ dưới đây là một minh chứng rõ ràng “Xin để mắt quan tâm…
Tôi nghĩ, việc sử dụng tiếng địa phương đúng với văn cảnh, hoàn cảnh, sẽ làm cho câu chuyện, lời văn sẽ sinh động và thật hơn. Đoạn trích dưới đây, với những lời nói, từ ngữ địa phương, miền quê ấy, làm tăng thêm cái trớ trêu của người ăn xin với người (có thể là) đồng đội cũ, sau chiến tranh:
“… Kiên bước qua đường. Dưới cột đèn trước cửa một hiệu ăn anh thấy một người ăn mày đang đứng co ro, tay giấu trong nách, rạp xuống ngẩng lên vái người qua đường và cất giọng ống bơ rỉ kêu van một cách tự tin: 
 
“Xin hãy để mắt quan tâm đến tình cảnh người khác một phút đồng chí ơi! Xin hãy nhớ tới những miền đang lụt lội, đồng chí”. 
 
- Ăn mày mà lập trường gang thép gớm chưa? Mẹ kiếp, cái dân An Nam nhà mình chỉ giỏi chống ngoại xâm chứ đến ăn xin cũng chẳng biết đường – một ông bệ vệ diện bành tô quắp một ả áo lông đi từ trong quán ra, lên giọng – ê, hạ lập trường xuống, thì cho. 
 
Ả áo lông cười rú lên như bị cù. Kể cũng buồn cười thật. Một lúc nào đó mình sẽ dùng đến cảnh này, tự nhiên Kiên nghĩ thế. Có thể sẽ viết rằng thằng cha bệ vệ kia và người ăn xin là bạn cũ của nhau. Thậm chí là đồng đội. Mà cũng có thể… Nhưng, vớ vẩn chưa kìa…”
Bảo Ninh đã viết khá nhiều trang về sinh hoạt văn chương của những năm sau chiến tranh. Thời văn học nghệ thuật phuc vụ, minh họa cho đường lối lãnh đạo của đảng. Thời kỳ văn chương không có cái tôi ở trong đó.
Đọc những trang viết này của Bảo Ninh, làm tôi sực nhớ đến bác Đặng Quốc Bảo, họ hàng bên mẹ tôi, nguyên bí thư trung ương đoàn. Cuối những năm 1979 đầu năm 1980, bác thường hay đến các trường đại học để nói chuyện về văn hóa nghệ thuật, lý tưởng thanh niên… Thời kỳ đó, trước cửa trường đại học, hay nơi sinh viên thường tụ tập, luôn có đội cờ đỏ cầm chai, cầm kéo kiểm tra. Ống quần, không đút cái vỏ chai vào được, gọi là ống típ, ống bó cắt xẻ ngược lên tới đầu gối. Quần ống rộng ống loe cắt, áo bó áo chẽn cắt. Người ta cắt xé tất cả những gì cho là văn hóa của Mỹ Ngụy, để lại. Cứ nhè lúc bác Bảo diễn về văn hóa trên bục, thì ở vòng ngoài bọn cờ đỏ đè mấy thằng sinh viên ra thiến. Quần áo người ngợm thằng nào cũng te tua như vừa đánh trận về.
Một lần tôi đến nhà bác ở phố Phan Đình Phùng, con đường đẹp và yên tĩnh bậc nhất của Hà Nội. Phải nói bên ngoại tôi, toàn những ông làm to, nhưng với con cháu, thân mật tình cảm nhất là bác Đặng Quốc Bảo. Sau khi thăm hỏi mẹ, bà tôi, là đến là chương trình lý tưởng thanh niên. Rồi ví dụ, những ngày đầu cách mạng, bác phải cà răng căng tai để làm công việc dân vận ở Tây Nguyên. Và nhiều công việc đại loại như nhà văn, người lính địa phương quân Trung Trung Đỉnh đã viết …Bài học của bác vừa kết thúc, không hiểu sao lúc đó, tôi buột miệng hỏi: Lúc bác đang nói về văn hóa với thanh niên, bọn cờ đỏ đè sinh viên ra cắt quần áo, một việc làm giết văn hóa như vậy, bác có biết không? Bác cũng bất ngờ câu hỏi của tôi. Có lẽ một câu hỏi bác không bao giờ nghĩ đến. Cũng may, lúc đó ca sỹ Mạnh Hà đến, nhận nhiệm vụ sang Liên Xô, dự Festivan hay gì đó. Tôi đứng dậy, xin phép bác về. Mạnh Hà bắt tay tôi, nhìn áo chẽn quần loe của anh, tôi định nói, ông anh ăn mặc thế này, vào cổng trường đại học, thế quái nào cũng bị chúng nó làm thịt.
Cũng đến 34 năm tôi không gặp lại bác Đặng Quốc Bảo. Nhưng gần đây được đọc những bài viết của bác, tôi thấy tư tưởng suy nghĩ hoàn toàn khác, không giống những bài giảng của bác trước đây. Tôi rất thích đọc những bài viết này, kể cả bài về chính trị, dù tôi không thích chính trị và những bài viết về nó. Khi nào về Việt Nam, nhất định tôi sẽ đến thăm bác, và xin được nghe bác giảng bài mới này. Dẫu biết, bác đã già lắm rồi và tôi cũng không còn trẻ nữa.
Trong bối cảnh xã hội đang cùng nhau lên đồng, cùng nhau cắt tiết văn hóa, Bảo Ninh viết trần trụi, trắng hếu ra như vậy, cha con người lính tên Kiên phải xé tranh, đốt bản thảo là phải. Có người cho rằng, hành động đốt bản thảo của Kiên là tiêu cực. Nhưng tôi lại nghĩ khác. Sự đốt bản thảo của của Kiên là hành động phản kháng tích cực, một cách tự nhiên tâm lý con người. Bởi nhà văn cũng là con người bình thường, không nên thần thánh hóa và ấn cho anh ta cái lý tưởng phơi phới không có thật nào đó. Nếu nhà văn Kiên không đốt bản thảo, bọn cờ đỏ gác cổng kia, không trước thì sau chúng nó cũng thiến mất thôi. Thôi thì, xé hết quần loe áo bó, hoa hoét màu mè, cứ mặc quần nâu áo gụ, đến trường cho nó lành.
Đằng sau sự đốt tranh, đốt bản thảo ấy, có hiệu quả báo động, lên án, cảnh tỉnh quá đi ấy chứ, không thì làm sao Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phải kêu lên, hãy cởi trói cho các văn nghệ sỹ. Không có sự đốt tranh, đốt bản thảo của cha con người lính Kiên, thì sẽ không có cuốn sách “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh ra lò, đến tay chúng ta và bạn bè năm châu như hôm nay. Vâng! Sự tàn khốc của kiểm duyệt trong giai đoạn đó là thế. Vậy thì phải cảm ơn sự đốt lửa của nhà văn Kiên lắm lắm… Tôi lại nghĩ, ngày còn sống, đọc đến đoạn văn này, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… chẳng vỗ đùi đen đét khen Bảo Ninh.
Dường như Bảo Ninh dành những từ, những câu văn hay và đẹp nhất viết về Phương. Là người có tính cách mạnh mẽ, có khát vọng tự do, nên lúc nào Phương cũng cảm thấy bị tù túng bức bối, muốn phá tan đi tất cả. Là người “vì sợ mà chẳng sợ gì nữa, nên Phương luôn hành động được coi dị thường trong giai đoạn đó. Bước vào đời Phương đã cú sốc nặng, con đường bước vào gái bao là tất yếu, trong khung cảnh tối tăm như vậy. Cũng như Chí Phèo, ai cho Phương làm người lương thiện, khi xung quanh toàn là Bá Kiến.
Khi đọc đến đoạn, Phương chủ động hơi chồm lên, vòng tay ôm lấy cổ Kiên kéo xuống, tôi lại nghĩ đến hành động, dám phá tan những ràng buộc của lễ giáo phong kiến của Thúy Kiều. Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình đến với Kim Trọng, khi ông bà Vương Viên Ngoại vắng nhà. Đó là hình ảnh đẹp. Một hình ảnh cho chúng ta thấy một điều, quyền lực, chế độ xã hội, tiền bạc qua năm tháng rồi sẽ biến đổi, chỉ còn lại khát vọng tình yêu là vĩnh cửu:
“Nhưng Phương không mệt à? – Kiên thấy giọng mình như lạc đi – Không lạnh à? 
 
- Có – Phương đáp và hơi nhổm người lên, vòng tay ôm lấy cổ Kiên kéo xuống. Thoạt tiên, một cảm giác nhức nhối làm Kiên gai hết người, run lên, gân cốt chùng xuống nhưng rồi sự chấp nhận biến thành sức cuốn mãnh liệt lập tức ghì riết anh, nuốt chặt anh vào thân hình mềm mại, thơm mát và nóng hổi, chân thành và mù quáng, đầy cuồng bách của Phương. Đó là một cái gì không thể ngờ được, như thể tiếng sét, và hơn cả đau đớn, như thể đột ngột cất lên một tiếng kêu tự đáy lòng. Và không phải là cái hôn đầu tiên nhưng là nỗi da diết đầu tiên được khám phá ra bên bờ hồ… Song, tất cả diễn ra chỉ trong khoảnh khắc. Đột nhiên một ý chí sầm tối và cứng rắn đánh thức nhói lên nói rằng anh không được, anh không thể, rằng… ráng hết sức bình sinh Kiên tự giằng mình ra, thả buông vòng tay đang dằn xiết Phương, ngồi chồm dậy. Sự buông hẫng ấy làm Phương lặng đi. Mọi cảm giác choáng loạn tản bay nhường chỗ cho sợ hãi và xấu hổ. Cô lăn tránh sang bên, gài nhanh hàng cúc áo sơ mi che kín ngực rồi nhè nhẹ ngồi lên. Sóng hồ dập dềnh, ì oạp vỗ vào bờ cỏ. Xa xa, từ chỗ pháo đội cao xạ chất nổi trên đám bè neo sâu trong hồ một hồi kẻng khuya chậm rãi dõng lên. Vị thần bảo hộ cứu tinh cho sự trong trắng và trong sạch của đôi bạn, chẳng là ai khác ngoài chính họ. 
 
Gió thở dài. Im lặng lan xa. Hai người như thể vừa từ đáy nước nổi bồng lên để rồi mỗi người bị cuốn dạt ra mỗi ngả. Kiên đưa tay ra, run run nắm lấy cổ tay Phương như muốn níu giữ cô. 
 
- Kiên sợ phải không? – Phương dịch lại gần – Sợ phải không? Phương cũng sợ… Nhưng vì sợ mà chẳng sợ gì nữa…” (NBCT)
Tôi rất thích đọc những đoạn văn tả cảnh, tả tình của Bảo Ninh vì rất khoáng đạt, từ ngữ đơn giản nhưng vẫn toát lên sự sang trọng. Nó lung linh sương khói mờ ảo như một bài thơ tình vậy. Đây là một trong những trang văn hay và đẹp nhất mà tôi đã được đọc:
“… Đêm hè mát rượi, mà trán và lưng anh ướt mồ hôi. Tràn ngập nỗi sợ hãi và lòng thương mến, anh xiết chặt eo Phương. Anh cảm thấy yếu đuối, mờ mịt. Tình yêu. Sự tôn thờ quy phục. Anh không sợ. Nhưng anh không thể. Anh không dám. 
 
Phương khẽ nằm xuống kéo Kiên ngả xuống theo. Cỏ mát rượi, hơi sương, nhưng nền đất vẫn còn đọng hơi ấm buổi chiều. Kiên gối đầu lên tay Phương, áp chặt vào mình cô. Như một cậu bé. Đúng là Phương không điên mà cô như là một người chị, một người mẹ trẻ, cô lùa tay vào tóc anh vuốt nhè nhẹ và thì thầm kể chuyện về người cha của anh. Mái tóc hồi đó Phương để rất dài, xỏa rộng phủ lên mình Kiên, ấm và thơm lạ lùng. Hé mắt nhìn qua làn tóc, Kiên nhận thấy trăng hạ tuần đã lộ. Vừng trăng mỏng và cong hiện ra rất nhanh ở rìa một khối mây đùn cao trên đỉnh hồ. Rồi lập tức bị che khuất. Anh nhìn thấy ánh lửa đập dờn như lửa ma trơi trên sân thượng. Cha và Phương. Những bức tranh màu lá úa và màu vàng như rơm. Những linh hồn được phóng thích ra khỏi mặt vải. Giọng Phương đều đều, ngái ngủ hệt như giọng một người mẹ kể chuyện cổ tích trong màn. Kiên không nhận thấy là mình đã bật mở hết cúc áo của Phương cho tới khi hai bầu vú trắng phau bật ra. Vành trăng lướt thoáng một dải sáng lên mặt hồ và bãi cỏ. Phương nằm yên, không trở mình, có lẽ đã ngủ say. Kiên không nhận thấy là miệng mình đã ngậm chặt lấy đầu vú của Phương còn thành thạo hơn một chú bé con. Anh mút nhè nhẹ thoạt tiên là như thế, như thuở mới ra đời người ta bú. Nhưng rồi kế đó là một nỗi khát khao kỳ quái thôi thúc, anh dùng cả sức mạnh của hai bàn tay, cho đến lúc cảm nhận trong miệng cái vị ươn ướt ngòn ngọt thoáng cả nỗi đau đớn mơ hồ như thể vị ngọt từ giấc mơ của Phương thấm truyền sang…”(NBCT)
Góp vào sự thành công “Nỗi Buồn Chiến Tranh” có nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quan trọng nhất làm nên nó là SỰ THẬT TÀN NHẪN CỦA CHIẾN TRANH. Sự thật đó đã chạm được vào nỗi đau tận cùng của con người. Nó như một bức thông điệp sáng giá đưa văn học Việt Nam đến gần với văn học chung thế giới. Và “Nỗi Buồn Chiến Tranh” - Bảo Ninh góp phần không nhỏ cùng với những Chuyện Ba Người của Tô Hoài, Mảnh Đất lắm Người Nhiều Ma - Nguyễn Khắc Trường, Ly Thân – Trần Mạnh Hảo… chứng minh sức sống của văn học hiện thực không xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên, trong một tác phẩm văn học nào cũng vậy, ngoài những yếu tố thành công, dứt khoát còn có mặt hạn chế, “Nỗi Buồn Chiến Tranh” cũng không ngoại lệ. Trong phạm vi bài viết này, tôi chưa thể đề cập đến.
Có một điều thú vị, khi đọc truyện ngắn của Bảo Ninh, tôi nghiệm ra, trong văn chương không có đề tài nào lớn hoặc nhỏ. Lớn, nhỏ do tài năng người viết. Có những cái rất nhỏ, tưởng chừng viết dăm ba câu là đủ, nhưng ông đã mở ra những điều rất lớn, rất đáng suy nghĩ ở trong đó. Câu chữ trong truyện ngắn của Bảo Ninh thô ráp, nhưng sau nó là cái tinh tế mượt mà. Giống như cô gái hiện đại thời nay sống trong ngôi nhà cổ cũ kỹ vậy.
Nhất định tôi sẽ trở lại với đề tài truyện ngắn của ông.
Leipzig ngày 6-7-2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét