Hội nghị TW7: Ai sẽ là Trưởng Ban Nội chính TW và Ban Kinh tế TW ?
Sau hội nghị TW7 sẽ rất khó sắp xếp nhân sự do cả hai Trưởng ban Nguyễn
Bá Thanh và Vương Đình Huệ mà Bộ Chính trị áp đặt đều không vào được Bộ
Chính trị. Diễn biến bất ngờ về nhân sự nói trên làm xuất hiện tình
trạng mất cân bằng cơ cấu nhân sự nghiêm trọng trong cán cân quyền lực
của Bộ Chính trị.
Vậy ai sẽ phụ trách Ban Nội chính và Ban kinh tế sau HNTW7?
.
Thử đi tìm câu trả lời từ các blog nổi tiếng về thông thạo về “thâm cung bí sử” và nội tình Đảng Cộng sản và các “bạch đầu binh” của ngài Chủ tịch nước:
Vậy ai sẽ phụ trách Ban Nội chính và Ban kinh tế sau HNTW7?
.
Thử đi tìm câu trả lời từ các blog nổi tiếng về thông thạo về “thâm cung bí sử” và nội tình Đảng Cộng sản và các “bạch đầu binh” của ngài Chủ tịch nước:
.
1- Vị trí Trưởng Ban Nội chính Trung ương
.
Đồng ý với nhận định của blog Cầu Nhật Tân khi cho rằng dù đang là Trưởng ban Nội chính, sau HNTW7 Nguyễn Bá Thanh vẫn chỉ là anh Trung ủy nói chẳng ai nghe, đe chẳng ai sợ ngồi cạo giấy tại HN mà thôi. Và trong cơ cấu cứng Trưởng ban Nội chính phải nằm trong Bộ Chính trị thì tiếng nói chỉ đạo mới đủ mạnh và có thể phối hợp chặt chẽ với Tổng bí thư. Như vậy, nếu từ giờ đến hết ngày 11/05/2013 mà Nguyễn Phú Trọng không thể “đảo ngược thế cờ” do chính mình bày ra, cưỡng bức Ban chấp hành trung ương để đưa Nguyễn Bá Thanh vào BCT theo “dự” của blogger Phạm Viết Đào thì sau HNTW7 ông này sẽ phải lui về làm Phó ban hoặc đi nơi khác (có thể là về lại Đà Nẵng hoặc là Chủ tịch VFF theo lời dân mạng???)
Vậy ai có thể thay ông Thanh? Chưa biết là ai nhưng chắc chắn người đó phải nằm trong Bộ Chính trị và phải “đi lên” hoặc ít nhất là “đi ngang”. Thử điểm qua một vài nhân vật phù hợp:
.
Khả năng thứ 1, muốn Ban Nội chính chết ngay từ trong trứng nước thì chỉ cần đưa Nguyễn Xuân Phúc về đó để 2 ông miền Trung choảng nhau, khi đó suốt ngày Bá Thanh gầm gừ: “Thằng đệ nhất miền Trung tê, răng mi mà làm sếp ta được, ta hốt mi liền!”, còn Nguyễn Xuân Phúc thì chắc chắn sẽ lạnh lùng đem vụ thanh tra đất đai tại Đà Nẵng ra để thịt “ông Phó Ban Nội chính” của mình đầu tiên.
.
Khả năng thứ 2 dành cho ông Bí thư TU.HN Phạm Quang Nghị thì sao? Hà Nội đang tụt dốc không phanh do ngài bí thư Thành uỷ dành phần lớn thời gian đồng cốt, ám sát tâm linh để
tiêu diệt đối thủ, dù là đi ngang nhưng để có nhiều thời gian hơn nữa,
Phạm Quang Nghị chắc muốn đi? Nhưng với những tai tiếng hiện tại thì
ông Nghị khó mà về Ban Nội chính.
.
Khả năng thứ 3, có một nhân vật rất sáng giá cho vị trí TBNC là đồng hương, đệ tử thân tín của ngài Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Trương Hoà Bình
– Chánh án Toà án tối cao, dù chỉ nằm trong Ban Bí thư. Tuy nhiên, trở
ngại lớn của Trương Hoà Bình lại nằm ở việc ông này không được sự ủng
hộ của ngành toà án và xuất hiện nhiều cáo buộc, tố cáo liên quan đến tham nhũng và sử dụng bằng giả.
Tréo ngoe! đây lại chính là chức năng, nhiệm vụ điều tra, xử lý của
Ban nội chính. Nếu ông này nắm TBNC thì có khi đơn tố cáo Trưởng ban
Nội chính Trung Ương còn nhiều hơn ở các nơi khác!!!
.
Khả năng thứ 4 có thể xảy ra là cho ông “Ừ” Lê Hồng Anh về Ban Nội chính, ông này chưa thấy có tiền án, tiền sự về tham nhũng, xuất thân từ Công an, lại sở hữu khuôn mặt của “thần ác”,
tại Thường trực Ban Bí thư thì ông chỉ ngồi cho có tụ chứ không làm
gì, nếu bổ ông về Ban Nội chính cũng khá phù hợp. Có điều, theo blog Cầu
Nhật Tân, nếu ông đi thì ông Nguyễn Phú Trọng và Phạm Quang Nghị lại
“mừng húm” vì Phạm Quang Nghị đang hăm he ghế Thường trực Ban Bí thư để
đường đường chính chính lên nắm Tổng Bí thư sau khi ông Trọng về.
.
Khả năng thứ 5, tại sao không phải là ông Trần Quốc Vượng?
Một nhân tố hoàn toàn mới, là người được cả Tứ trụ tin dùng, ông này
trong sạch, đã từng nắm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Nếu
BCT hết người thì bắt buộc phải lấy người từ Ban Bí thư thôi, tại sao không???
.
Nhân sự Ban Nội chính được các blog thạo tin phân tích như vậy là tương đối rõ và nhiều khả năng rơi vào tay một nhân vật nằm ngoài Bộ Chính trị. Đây chính là nỗi đau Nguyễn Bá Thanh, có khi cụ Tổng chậm lại vài tháng để ông này vào Bộ Chính trị rồi hãy đưa lên làm Trưởng ban Nội chính thì “đầu xuôi đuôi lọt” hơn. Giá mà ông Thanh nói ít thôi, giá mà đừng doạ “hốt liền, hốt hết”,… thôi thì đành “Tiên trách Bá hậu trách TW”!
.
Đồng ý với nhận định của blog Cầu Nhật Tân khi cho rằng dù đang là Trưởng ban Nội chính, sau HNTW7 Nguyễn Bá Thanh vẫn chỉ là anh Trung ủy nói chẳng ai nghe, đe chẳng ai sợ ngồi cạo giấy tại HN mà thôi. Và trong cơ cấu cứng Trưởng ban Nội chính phải nằm trong Bộ Chính trị thì tiếng nói chỉ đạo mới đủ mạnh và có thể phối hợp chặt chẽ với Tổng bí thư. Như vậy, nếu từ giờ đến hết ngày 11/05/2013 mà Nguyễn Phú Trọng không thể “đảo ngược thế cờ” do chính mình bày ra, cưỡng bức Ban chấp hành trung ương để đưa Nguyễn Bá Thanh vào BCT theo “dự” của blogger Phạm Viết Đào thì sau HNTW7 ông này sẽ phải lui về làm Phó ban hoặc đi nơi khác (có thể là về lại Đà Nẵng hoặc là Chủ tịch VFF theo lời dân mạng???)
Vậy ai có thể thay ông Thanh? Chưa biết là ai nhưng chắc chắn người đó phải nằm trong Bộ Chính trị và phải “đi lên” hoặc ít nhất là “đi ngang”. Thử điểm qua một vài nhân vật phù hợp:
.
Ông Nguyễn Xuân Phúc |
.
Ông Phạm Quang Nghị |
.
Ông Trương Hòa Bình |
.
Ông Lê Hồng Anh |
.
Ông Trần Quốc Vượng |
.
Nhân sự Ban Nội chính được các blog thạo tin phân tích như vậy là tương đối rõ và nhiều khả năng rơi vào tay một nhân vật nằm ngoài Bộ Chính trị. Đây chính là nỗi đau Nguyễn Bá Thanh, có khi cụ Tổng chậm lại vài tháng để ông này vào Bộ Chính trị rồi hãy đưa lên làm Trưởng ban Nội chính thì “đầu xuôi đuôi lọt” hơn. Giá mà ông Thanh nói ít thôi, giá mà đừng doạ “hốt liền, hốt hết”,… thôi thì đành “Tiên trách Bá hậu trách TW”!
.
Ông Vương Đình Huệ, một kẻ cơ hội, không đủ tâm, tầm ngồi vị trí Trưởng Ban Kinh tế, chắc chắn phải ra đi, thả mồi bắt bóng, cuối cùng chưa biết số phận vị này sẽ đi về đâu. Tân Ủy viên Bộ Chính trị – Nguyễn Thiện Nhân đã chắc suất Chủ tịch Uỷ ban Trung Ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam nên cũng không có khả năng ở vị trí này. Vậy chỉ còn 2 khả năng sau:
Ông Vương Đình Huệ, một kẻ cơ hội, không đủ tâm, tầm ngồi vị trí Trưởng Ban Kinh tế, chắc chắn phải ra đi, thả mồi bắt bóng, cuối cùng chưa biết số phận vị này sẽ đi về đâu. Tân Ủy viên Bộ Chính trị – Nguyễn Thiện Nhân đã chắc suất Chủ tịch Uỷ ban Trung Ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam nên cũng không có khả năng ở vị trí này. Vậy chỉ còn 2 khả năng sau:
.
Khả năng thứ 1, ai đủ tầm về kinh tế và đang nằm trong Bộ Chính
trị? Chúng tôi thiên về khả năng đồng ý với blogger Phạm Viết Đào khi
nhận định: “Ông Lê Thanh Hải chắc sẽ đảm nhận chiếc ghế Trưởng ban kinh tế”.
Nếu điều này xảy ra thì việc ai thay Lê Thanh Hải cũng là một dấu hỏi
lớn??? Theo phân tích của các blogger Phạm Viết Đào, ABS, có thể
đó sẽ là một UV.BCT đang có uy tín lớn và cần trải qua thử thách tại
một địa phương quan trọng như TP.HCM trước khi bước lên vị trí trong tứ
trụ - Đại tướng Trần Đại Quang?.
.
Khả năng thứ 2 là vị tân hoa hậu Bộ Chính trị - Nguyễn Thị Kim Ngân,
bà đã từng làm Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Bến Tre, Thứ trưởng Bộ Tài
chính, Thứ trưởng Thường trực Bộ Thương mại nên chắc đủ tầm về kinh tế
để đảm nhận vị trí này. Nhưng nếu ông Lê Thanh Hải đảm nhận vai trò TBKT
thì nhiều khả năng bà Ngân sẽ về làm Bí thư Thành ủy TP HCM.
.
Ngoài ra, chiếc ghế trống Phó Thủ tướng để lại sau khi ông Nguyễn
Thiện Nhân sang Mặt trận Tổ quốc, ai sẽ lên? Dĩ nhiên là một trong các
bộ trưởng hiện tại. Đúng ra ông Vương Đình Huệ đã chắc suất Phó Thủ
tướng nhưng do ông quá tham, quá cơ hội, nên cuối cùng xôi hỏng bỏng
không. Hai nhân sự còn lại có khả năng: Thứ nhất: ông Cao Đức Phát,
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nên nhớ, “biến đổi
khí hậu” là một trong 6 trọng tâm của HNTW7 đang bàn luận, ông Phát rất
có kiến thức về lĩnh vực này, từng học ở Havard. Tuy nhiên, ông này có
vẻ “lù khù” nên chưa biết thế nào.
.
Thứ hai: ông Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ. Nhân vật này nghe đồn được sự ủng hộ của cả tứ trụ và đang
chắc suất trong chương trình “Quy hoạch cán bộ” mà Trung Ương đang bàn
đến tại HNTW7.
.
Nói đến đây thì phải nói đến một người nữa, đó chính là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng! Không hiểu trời xui đất khiến hay giáo điều lú lẫn mà hết Nghị quyết TW4, rồi lại đến tái lập các Ban, tự tiện áp đặt Trung Ương về nhân sự,…mà càng làm thì lại càng sai, tự bắn vào chân mình!
.
Có lẽ đã đến lúc phải đặt câu hỏi: “Ai sẽ là Tổng bí thư?”.
(Còn tiếp)
Ông Lê Thanh Hải |
.
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân |
.
Ông Cao Đức Phát |
.
Ông Vũ Đức Đam |
.
Nói đến đây thì phải nói đến một người nữa, đó chính là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng! Không hiểu trời xui đất khiến hay giáo điều lú lẫn mà hết Nghị quyết TW4, rồi lại đến tái lập các Ban, tự tiện áp đặt Trung Ương về nhân sự,…mà càng làm thì lại càng sai, tự bắn vào chân mình!
.
Có lẽ đã đến lúc phải đặt câu hỏi: “Ai sẽ là Tổng bí thư?”.
(Còn tiếp)
(TSNH)
Đề nghị xem xét tư cách Đại biểu Quốc hội của hai ông Nguyễn Sinh Hùng và Nguyễn Phú Trọng
(ABS)
Ngô Ngọc Trai - Canh tân hệ thống
Sự thành công hay thất bại của mỗi chính sách do Đảng cộng sản chủ
trương sẽ ảnh hưởng tới nguồn lực quốc gia và mức sống người dân, nên
sẽ là chính đáng khi nhân dân đòi hỏi quyền có tiếng nói về quy trình
làm chính sách.
Đồng nghĩa với đó sẽ là không hợp lẽ nếu Đảng được độc quyền trong bố trí nhân sự hay tổ chức hệ thống mà bỏ qua tiếng nói người dân, với những điều kiện thực tiễn hiện nay bài viết này góp ý với Đảng về một vấn đề mới.
Đổi mới đồng nghĩa với phá vỡ hiện trạng vốn có sẽ khiến một số người bị ảnh hưởng bất lợi, mặt khác đổi mới đòi hỏi tư duy tri thức mới, từ đó đổi mới tất yếu gặp phải lực cản. Lực cản có thể đến từ bên ngoài do đối lập về quyền lợi hay từ bên trong vì những yếu kém nội tại bản thân, để đổi mới thành công cần sự nỗ lực bên trong và sự ủng hộ của quần chúng bên ngoài.
Lâu nay vai trò lãnh đạo của Đảng được thực hiện chủ yếu bởi hai cấp là Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương. Do các cơ quan này hoạt động theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể, biểu quyết thông qua theo đa số cho nên những chính sách đã ban hành là đạt được sự nhất trí của toàn bộ hoặc chỉ bởi đa số.
Điều đó có nghĩa rằng có thể có những ý kiến khác ngay trong giới lãnh đạo cấp cao và do vậy lực cản cũng tồn tại từ ngay trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp.
Cần hết sức lưu ý điều này bởi lẽ lực cản không chỉ tồn tại ở thời điểm ban hành chính sách mà nó còn duy trì trong khoảng thời gian triển khai, điều này tạo ma sát ảnh hưởng đến sự thành công mau chóng hoặc làm thất bại chính sách mà cuối cùng thì tiền bạc của nhân dân có thể bị hao phí vô ích.
Có một điểm hơi đặc biệt đó là Đảng lãnh đạo nhưng bản thân Đảng cũng là lực lượng với hàng triệu con người, tuy vậy ngần ấy người không thể đồng thời lãnh đạo cho nên Đảng chỉ tập trung vai trò lãnh đạo vào Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương.
Ngoài ra với lực lượng đông đảo Đảng thực hiện kế sách lồng hóa vào chính quyền, theo đó các vị trí trong bộ máy sẽ do các đảng viên nắm giữ, đảng viên cao cấp là ủy viên Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương đồng thời là cán bộ chính phủ.
Bằng cách đó Đảng cho rằng sẽ nắm chắc được chính quyền và cách tổ chức như vậy được thực hiện ở tất cả các quốc gia cộng sản xưa kia cũng như hiện nay.
Nhưng có khi đây lại chính là sai lầm lớn nhất của hệ thống cộng sản.
Theo cách tổ chức lãnh đạo chính phủ đồng thời là đảng viên cao cấp, người của cơ quan chấp hành đồng thời thuộc cơ quan lãnh đạo, như thế người thi hành chính sách cùng làm chính sách, gianh giới giữa lãnh đạo và chấp hành bị xóa nhòa và tạo sự đồng nhất ngang bằng giữa lãnh đạo và chấp hành.
Điều gì xảy ra khi lồng hóa lãnh đạo với chấp hành? Điều gì xảy ra khi hai tổ chức cùng lãnh đạo? Phải chăng không cần phân biệt và không quan trọng vì những con người ấy cùng thuộc một Đảng nên cùng lãnh đạo cùng quyết định?
Thứ nhất, xóa đi khoảng cách giữa lãnh đạo và chấp hành sẽ làm mất đi vị thế lãnh đạo, khiến cho uy quyền không còn trong khi đây là thành tố tối cần của sự lãnh đạo.
Thứ hai, lồng hóa lãnh đạo với chấp hành sẽ không thể phân định được cái nào là tiền đề tham số cho cái kia, Đảng theo chính phủ hay chính phủ theo Đảng? Khi chính phủ không chỉ cung cấp dữ liệu mà cùng tham gia với Đảng làm chính sách sẽ khiến Đảng bị thôi thúc bởi các vấn đề và giải pháp của chính phủ. Đảng bị mất không gian lựa chọn từ đó dẫn đến hệ quả đường lối lãnh đạo thụ động giải quyết vấn đề mang tính sự vụ hoặc lâm vào tình trạng luẩn quẩn.
Đảng Cộng sản là chính đảng duy nhất ở Việt Nam
Thứ ba, chính phủ tham gia lãnh đạo tức là hai tổ chức cùng lãnh đạo, điều này rất dễ xảy ra tranh chấp. Khi lồng hóa về con người thuộc hai tổ chức sẽ tạo ra sự ngang bằng tâm lý, khi bộ máy vận hành trạng thái ngang bằng ban đầu luôn có xu hướng chuyển hóa sang trạng thái mất cân bằng, tức là phát sinh tranh chấp bất đồng.
Để tránh tranh chấp tốt nhất lãnh đạo phải có vị thế cao hơn hẳn, khi bất đồng xảy ra uy quyền lớn hơn sẽ giúp dập tắt bất đồng đem lại sức mạnh đồng thuận.
Thứ tư, khi chấp hành tham gia lãnh đạo sẽ dẫn đến nguy cơ lấn át khiến lãnh đạo chỉ còn là hình thức, lý do là chấp hành có lực lượng trong khi lãnh đạo ít lực lượng, điều này vẫn đúng trong trường hợp của Đảng cộng sản.
Đảng là sự kết hợp giữa quyền lợi và tư tưởng, cùng những con người vừa là đảng viên vừa là cán bộ chính phủ nhưng sợi dây liên kết bằng quyền lợi lại bền chắc hơn sợi dây ràng buộc bằng tư tưởng, do vậy lực lượng này sẽ ngả theo phía nào nếu quyền lợi của họ đòi hỏi và đó là phía chính phủ.
Bộ máy chính phủ trở thành một lực lượng có quyền lợi và đường hướng riêng, điều này bản chất chính là cái vẫn được nói đến là xa rời đường lối lãnh đạo của Đảng, cũng đúng khi nói rằng đó là một đảng nhỏ nằm trong một đảng lớn vì có đủ sự hội tụ giữa tổ chức nhân sự, mối dây gắn kết và đường hướng quyền lợi chung.
Không phân tách rõ ràng, đồng nhất lãnh đạo với chấp hành sẽ dẫn đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo hoặc lãnh đạo chỉ còn là hình thức.
Để dễ hình dung cho việc này hãy thử tưởng tượng hàng vạn con người bị buộc lại với nhau và cùng di chuyển, vậy cái sự di chuyển của người đi hàng đầu đó là thực thi vai trò lãnh đạo cho đoàn người phía sau, hay đơn giản là nó bị người ngay sau thúc vào đít? Ai điều khiển ai trong trường hợp này?
Trong số hàng vạn con người đó nếu thực sự có một vài người lãnh đạo thì cần tách ra và đi lên trước, khi đi cùng và đồng nhất thì vị thế lãnh đạo không còn. Xét ngay trong tập thể Đảng với con số lên tới hàng triệu, để có thể lãnh đạo Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương đã phải đứng tách ra và cao hơn so với phần còn lại. Tại sao điều hợp lý đó lại không áp dụng trong mối quan hệ giữa đảng với chính phủ? Tại sao lại duy trì trạng huống lãnh đạo và chấp hành chồng lấn về nhân sự như lâu nay?
Sẽ không lạ nếu những dấu chân đoàn người để lại ngoằn nghèo và bất định hướng.
Đầu tiên, điều đó sẽ tách bạch Đảng lãnh đạo và Chính phủ chấp hành từ đó giúp phân định trách nhiệm, trong điều kiện một đảng lãnh đạo tuy chưa đặt ra vấn đề truy cứu trách nhiệm nhưng vẫn cần tách bạch để khi chính sách thất bại thì xem lỗi là ở khâu nào, khâu ra quyết định hay khâu chấp hành để còn chỉnh sửa.
Ngay cả trường hợp thành viên chính phủ bỏ phiếu thuận và chính sách được thông qua, nhưng quá trình làm chính sách chính phủ sẽ đưa vào những nội dung sẽ dễ cho họ trong quá trình thực thi. Đây là cái vẫn được nói đến là sự trục lợi và tham nhũng bằng chính sách.
Khi tách bạch sẽ giúp uy quyền lãnh đạo của Đảng lớn hơn hẳn, trong đó có uy quyền lựa chọn và uy quyền thay thế, cái mà nếu thiếu nó thì không còn gì là lãnh đạo.
Tách bạch sẽ tạo khoảng cách giúp Đảng không bị rối trước hàng loạt sự vụ, khoảng cách sẽ tạo không gian lựa chọn nhờ vậy đường lối chỉ đạo sẽ chính xác sáng sủa.
Khi có vị thế lớn hơn, Đảng có thể tạo ra áp lực thay thế nếu chính phủ hoạt động kém và uy quyền lớn hơn cũng giúp dẹp bỏ nguy cơ bất đồng.
Sẽ có ý kiến cho rằng chính phủ không có quyền thì làm sao điều hành được bộ máy? Câu trả lời là: Phương án trên chỉ rút bỏ vị thế chính trị chứ không liên quan đến vị thế pháp lý. Bộ máy chính phủ được tổ chức theo luật, mỗi vị trí trong bộ máy đều có nghĩa vụ và quyền hạn được luật định, cán bộ chính phủ cần tìm kiếm quyền hạn từ luật.
Hiến pháp Mỹ quy định không một người nào đang giữ một chức vụ trong chính quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được trở thành nghị sĩ trong thời gian còn tại chức. Hay hiến pháp nước Pháp quy định thành viên chính phủ không được kiêm nhiệm Nghị sỹ.
Cách thức tổ chức như thế tạo ra áp lực thay thế chính là động lực khiến chính phủ hoạt động tốt.
Thực tiễn ViệtNam lâu nay Quốc hội và Cơ quan Đảng cùng giữ vai trò làm chính sách và lãnh đạo chính phủ, tuy nhiên về nhân sự thì chồng chéo. Đây là nguyên nhân đưa đến hoạt động của chính phủ thì thực quyền cơ quan kia chỉ còn hình thức.
Do cùng tính chất giám sát và làm chính sách cho nên nhân sự giữa Quốc hội và Cơ quan đảng có thể song trùng, nhưng cần tách bạch với Chính phủ. Theo đó đảng viên cao cấp không nên giữ cương vị chính phủ, nói cách khác cán bộ chính phủ chỉ nên giữ từ ủy viên trung ương trở xuống và số lượng thì cũng giảm bớt đi dành phần cho đại biểu Quốc hội chuyên trách.
Cán bộ chính phủ được sự ủng hộ và áp lực của lực lượng bên dưới đã đi theo đường lối quyền lợi riêng, không nhận ra điều đó và cũng không có giải pháp tháo gỡ lãnh đạo Đảng cộng sản Liên Xô ảo tưởng tự ru ngủ mình vẫn là người lãnh đạo mà không biết rằng chính phủ đã lũng đoạn đảng từ lâu và cuối cùng là nuốt chửng đảng.
Lịch sử và hiện tại cho thấy lãnh đạo các Đảng cộng sản chưa đâu nhận ra điểm bất hợp lý nêu trên trong tổ chức hệ thống, hoặc cũng có thể đã nhận ra nhưng lại không đủ sự dũng cảm cần thiết để vượt qua được lực cản bản thân buông bỏ cương vị chính phủ, đó là những vị trí đầy thực quyền hấp dẫn mà bất kỳ đảng viên cao cấp nào cũng muốn giữ chặt cho mình.
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, Trưởng văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự.
Luật sư Ngô Ngọc Trai
gửi trực tiếp cho BBCVietnamese.com
Đồng nghĩa với đó sẽ là không hợp lẽ nếu Đảng được độc quyền trong bố trí nhân sự hay tổ chức hệ thống mà bỏ qua tiếng nói người dân, với những điều kiện thực tiễn hiện nay bài viết này góp ý với Đảng về một vấn đề mới.
Những lực cản
Để có được những chủ trương chính sách đúng đắn điều này phụ thuộc rất nhiều vào quy trình làm chính sách hay sự vận hành của hệ thống. Những vấn đề mà Đảng đang gặp phải cho thấy nhiều khả năng lâu nay hệ thống tổ chức chưa khoa học, các thiết chế giữ vai trò chồng lấn không rõ ràng quyền hạn trách nhiệm, từ đó chất lượng chính sách không cao, hiệu quả phát triển đất nước chưa xứng với tiềm năng.Đổi mới đồng nghĩa với phá vỡ hiện trạng vốn có sẽ khiến một số người bị ảnh hưởng bất lợi, mặt khác đổi mới đòi hỏi tư duy tri thức mới, từ đó đổi mới tất yếu gặp phải lực cản. Lực cản có thể đến từ bên ngoài do đối lập về quyền lợi hay từ bên trong vì những yếu kém nội tại bản thân, để đổi mới thành công cần sự nỗ lực bên trong và sự ủng hộ của quần chúng bên ngoài.
Lâu nay vai trò lãnh đạo của Đảng được thực hiện chủ yếu bởi hai cấp là Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương. Do các cơ quan này hoạt động theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể, biểu quyết thông qua theo đa số cho nên những chính sách đã ban hành là đạt được sự nhất trí của toàn bộ hoặc chỉ bởi đa số.
Điều đó có nghĩa rằng có thể có những ý kiến khác ngay trong giới lãnh đạo cấp cao và do vậy lực cản cũng tồn tại từ ngay trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp.
Cần hết sức lưu ý điều này bởi lẽ lực cản không chỉ tồn tại ở thời điểm ban hành chính sách mà nó còn duy trì trong khoảng thời gian triển khai, điều này tạo ma sát ảnh hưởng đến sự thành công mau chóng hoặc làm thất bại chính sách mà cuối cùng thì tiền bạc của nhân dân có thể bị hao phí vô ích.
"Đảng là sự kết hợp giữa quyền lợi và tư tưởng, cùng những con người vừa là đảng viên vừa là cán bộ chính phủ nhưng sợi dây liên kết bằng quyền lợi lại bền chắc hơn sợi dây ràng buộc bằng tư tưởng."Vấn đề đặt ra là khi chính sách đã được thông qua bởi đa số và để ý kiến thiểu số không trở thành lực cản khi triển khai thì tốt nhất là tách bạch giữa hai khâu làm và thực thi chính sách, theo đó những người đã tham gia biểu quyết chỉ giữ vai trò giám sát mà không tiếp tục là người thực hiện.
Lãnh đạo và chấp hành
Lãnh đạo thiên về hoạt động trí tuệ nên không cần nhiều lực lượng, trong khi đó chấp hành là hoạt động cần đến bộ máy tới hàng vạn con người. Vấn đề đặt ra làm cách gì để số đông chấp hành không chống lại số ít lãnh đạo?Có một điểm hơi đặc biệt đó là Đảng lãnh đạo nhưng bản thân Đảng cũng là lực lượng với hàng triệu con người, tuy vậy ngần ấy người không thể đồng thời lãnh đạo cho nên Đảng chỉ tập trung vai trò lãnh đạo vào Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương.
Ngoài ra với lực lượng đông đảo Đảng thực hiện kế sách lồng hóa vào chính quyền, theo đó các vị trí trong bộ máy sẽ do các đảng viên nắm giữ, đảng viên cao cấp là ủy viên Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương đồng thời là cán bộ chính phủ.
Bằng cách đó Đảng cho rằng sẽ nắm chắc được chính quyền và cách tổ chức như vậy được thực hiện ở tất cả các quốc gia cộng sản xưa kia cũng như hiện nay.
Nhưng có khi đây lại chính là sai lầm lớn nhất của hệ thống cộng sản.
Theo cách tổ chức lãnh đạo chính phủ đồng thời là đảng viên cao cấp, người của cơ quan chấp hành đồng thời thuộc cơ quan lãnh đạo, như thế người thi hành chính sách cùng làm chính sách, gianh giới giữa lãnh đạo và chấp hành bị xóa nhòa và tạo sự đồng nhất ngang bằng giữa lãnh đạo và chấp hành.
Điều gì xảy ra khi lồng hóa lãnh đạo với chấp hành? Điều gì xảy ra khi hai tổ chức cùng lãnh đạo? Phải chăng không cần phân biệt và không quan trọng vì những con người ấy cùng thuộc một Đảng nên cùng lãnh đạo cùng quyết định?
Những rắc rối
Thực tế không đơn giản và có nhiều vấn đề xảy ra khi người chấp hành cùng tham gia lãnh đạo.Thứ nhất, xóa đi khoảng cách giữa lãnh đạo và chấp hành sẽ làm mất đi vị thế lãnh đạo, khiến cho uy quyền không còn trong khi đây là thành tố tối cần của sự lãnh đạo.
Thứ hai, lồng hóa lãnh đạo với chấp hành sẽ không thể phân định được cái nào là tiền đề tham số cho cái kia, Đảng theo chính phủ hay chính phủ theo Đảng? Khi chính phủ không chỉ cung cấp dữ liệu mà cùng tham gia với Đảng làm chính sách sẽ khiến Đảng bị thôi thúc bởi các vấn đề và giải pháp của chính phủ. Đảng bị mất không gian lựa chọn từ đó dẫn đến hệ quả đường lối lãnh đạo thụ động giải quyết vấn đề mang tính sự vụ hoặc lâm vào tình trạng luẩn quẩn.
Đảng Cộng sản là chính đảng duy nhất ở Việt Nam
Thứ ba, chính phủ tham gia lãnh đạo tức là hai tổ chức cùng lãnh đạo, điều này rất dễ xảy ra tranh chấp. Khi lồng hóa về con người thuộc hai tổ chức sẽ tạo ra sự ngang bằng tâm lý, khi bộ máy vận hành trạng thái ngang bằng ban đầu luôn có xu hướng chuyển hóa sang trạng thái mất cân bằng, tức là phát sinh tranh chấp bất đồng.
Để tránh tranh chấp tốt nhất lãnh đạo phải có vị thế cao hơn hẳn, khi bất đồng xảy ra uy quyền lớn hơn sẽ giúp dập tắt bất đồng đem lại sức mạnh đồng thuận.
Thứ tư, khi chấp hành tham gia lãnh đạo sẽ dẫn đến nguy cơ lấn át khiến lãnh đạo chỉ còn là hình thức, lý do là chấp hành có lực lượng trong khi lãnh đạo ít lực lượng, điều này vẫn đúng trong trường hợp của Đảng cộng sản.
Đảng là sự kết hợp giữa quyền lợi và tư tưởng, cùng những con người vừa là đảng viên vừa là cán bộ chính phủ nhưng sợi dây liên kết bằng quyền lợi lại bền chắc hơn sợi dây ràng buộc bằng tư tưởng, do vậy lực lượng này sẽ ngả theo phía nào nếu quyền lợi của họ đòi hỏi và đó là phía chính phủ.
Bộ máy chính phủ trở thành một lực lượng có quyền lợi và đường hướng riêng, điều này bản chất chính là cái vẫn được nói đến là xa rời đường lối lãnh đạo của Đảng, cũng đúng khi nói rằng đó là một đảng nhỏ nằm trong một đảng lớn vì có đủ sự hội tụ giữa tổ chức nhân sự, mối dây gắn kết và đường hướng quyền lợi chung.
Không phân tách rõ ràng, đồng nhất lãnh đạo với chấp hành sẽ dẫn đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo hoặc lãnh đạo chỉ còn là hình thức.
Để dễ hình dung cho việc này hãy thử tưởng tượng hàng vạn con người bị buộc lại với nhau và cùng di chuyển, vậy cái sự di chuyển của người đi hàng đầu đó là thực thi vai trò lãnh đạo cho đoàn người phía sau, hay đơn giản là nó bị người ngay sau thúc vào đít? Ai điều khiển ai trong trường hợp này?
Trong số hàng vạn con người đó nếu thực sự có một vài người lãnh đạo thì cần tách ra và đi lên trước, khi đi cùng và đồng nhất thì vị thế lãnh đạo không còn. Xét ngay trong tập thể Đảng với con số lên tới hàng triệu, để có thể lãnh đạo Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương đã phải đứng tách ra và cao hơn so với phần còn lại. Tại sao điều hợp lý đó lại không áp dụng trong mối quan hệ giữa đảng với chính phủ? Tại sao lại duy trì trạng huống lãnh đạo và chấp hành chồng lấn về nhân sự như lâu nay?
Sẽ không lạ nếu những dấu chân đoàn người để lại ngoằn nghèo và bất định hướng.
Những lợi điểm khi tách bạch
Lâu nay thành viên của Cơ quan đảng gồm Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương kiêm luôn cán bộ chính phủ, chưa thấy ai đặt nghi vấn về tính đúng đắn của cách sắp xếp này trong hệ thống. Câu hỏi đặt ra là khi thành viên chính phủ thôi không tham gia Cơ quan đảng sẽ đem đến những lợi điểm gì?Đầu tiên, điều đó sẽ tách bạch Đảng lãnh đạo và Chính phủ chấp hành từ đó giúp phân định trách nhiệm, trong điều kiện một đảng lãnh đạo tuy chưa đặt ra vấn đề truy cứu trách nhiệm nhưng vẫn cần tách bạch để khi chính sách thất bại thì xem lỗi là ở khâu nào, khâu ra quyết định hay khâu chấp hành để còn chỉnh sửa.
"Khi tách bạch sẽ giúp uy quyền lãnh đạo của Đảng lớn hơn hẳn, trong đó có uy quyền lựa chọn và uy quyền thay thế, cái mà nếu thiếu nó thì không còn gì là lãnh đạo."Tiếp theo, tách bạch để chính phủ không bị ảnh hưởng bởi các quan điểm khác nhau khi thông qua chính sách. Sẽ thế nào khi thành viên chính phủ bỏ phiếu chống mà sau đó chính sách lại được thông qua và chính phủ lại là cơ quan thực hiện?
Ngay cả trường hợp thành viên chính phủ bỏ phiếu thuận và chính sách được thông qua, nhưng quá trình làm chính sách chính phủ sẽ đưa vào những nội dung sẽ dễ cho họ trong quá trình thực thi. Đây là cái vẫn được nói đến là sự trục lợi và tham nhũng bằng chính sách.
Khi tách bạch sẽ giúp uy quyền lãnh đạo của Đảng lớn hơn hẳn, trong đó có uy quyền lựa chọn và uy quyền thay thế, cái mà nếu thiếu nó thì không còn gì là lãnh đạo.
Tách bạch sẽ tạo khoảng cách giúp Đảng không bị rối trước hàng loạt sự vụ, khoảng cách sẽ tạo không gian lựa chọn nhờ vậy đường lối chỉ đạo sẽ chính xác sáng sủa.
Khi có vị thế lớn hơn, Đảng có thể tạo ra áp lực thay thế nếu chính phủ hoạt động kém và uy quyền lớn hơn cũng giúp dẹp bỏ nguy cơ bất đồng.
Sẽ có ý kiến cho rằng chính phủ không có quyền thì làm sao điều hành được bộ máy? Câu trả lời là: Phương án trên chỉ rút bỏ vị thế chính trị chứ không liên quan đến vị thế pháp lý. Bộ máy chính phủ được tổ chức theo luật, mỗi vị trí trong bộ máy đều có nghĩa vụ và quyền hạn được luật định, cán bộ chính phủ cần tìm kiếm quyền hạn từ luật.
Tham khảo nước ngoài
Một số quốc gia cơ quan làm chính sách là Nghị viện hay Quốc hội, họ phân tách rất rõ ràng về nhân sự giữa với cơ quan chấp hành là chính phủ.Hiến pháp Mỹ quy định không một người nào đang giữ một chức vụ trong chính quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được trở thành nghị sĩ trong thời gian còn tại chức. Hay hiến pháp nước Pháp quy định thành viên chính phủ không được kiêm nhiệm Nghị sỹ.
Cách thức tổ chức như thế tạo ra áp lực thay thế chính là động lực khiến chính phủ hoạt động tốt.
Thực tiễn ViệtNam lâu nay Quốc hội và Cơ quan Đảng cùng giữ vai trò làm chính sách và lãnh đạo chính phủ, tuy nhiên về nhân sự thì chồng chéo. Đây là nguyên nhân đưa đến hoạt động của chính phủ thì thực quyền cơ quan kia chỉ còn hình thức.
Do cùng tính chất giám sát và làm chính sách cho nên nhân sự giữa Quốc hội và Cơ quan đảng có thể song trùng, nhưng cần tách bạch với Chính phủ. Theo đó đảng viên cao cấp không nên giữ cương vị chính phủ, nói cách khác cán bộ chính phủ chỉ nên giữ từ ủy viên trung ương trở xuống và số lượng thì cũng giảm bớt đi dành phần cho đại biểu Quốc hội chuyên trách.
Bài học Liên Xô
Nhìn lại sự sụp đổ của Liên Xô thì thấy nguyên nhân chính từ trong hệ thống, các cán bộ chính phủ đồng thời là đảng viên đã lợi dụng vị thế chính trị và pháp lý bòn rút tài sản quốc gia, sau đó chính đội ngũ này đã góp phần kéo sụp chế độ.Cán bộ chính phủ được sự ủng hộ và áp lực của lực lượng bên dưới đã đi theo đường lối quyền lợi riêng, không nhận ra điều đó và cũng không có giải pháp tháo gỡ lãnh đạo Đảng cộng sản Liên Xô ảo tưởng tự ru ngủ mình vẫn là người lãnh đạo mà không biết rằng chính phủ đã lũng đoạn đảng từ lâu và cuối cùng là nuốt chửng đảng.
Lịch sử và hiện tại cho thấy lãnh đạo các Đảng cộng sản chưa đâu nhận ra điểm bất hợp lý nêu trên trong tổ chức hệ thống, hoặc cũng có thể đã nhận ra nhưng lại không đủ sự dũng cảm cần thiết để vượt qua được lực cản bản thân buông bỏ cương vị chính phủ, đó là những vị trí đầy thực quyền hấp dẫn mà bất kỳ đảng viên cao cấp nào cũng muốn giữ chặt cho mình.
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, Trưởng văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự.
Luật sư Ngô Ngọc Trai
gửi trực tiếp cho BBCVietnamese.com
HNTW 7 phá bỏ nguyên tắc 'Dân chủ - Tập trung' là hồi chuông cáo chung của Đảng CSVN
Hội nghị Trung Ương sắp kết thúc, cho dù cuộc bầu bán bổ sung vào 'nhà
đỏ' đã diễn ra, song truyền thông Lề đảng vẫn chưa được phép công bố kết
quả 'Quả đắng' mà Tổng Bí Thư và hầu hết Ủy viên BCT đang phải 'nuốt'
trong khi Thủ Tướng Dũng 'đường hoàng' công du đi Nga hội họp!
Khác với Hội nghị Trung Ương 6, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được một
vài Ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư 'phản thùng' lại Nghị Quyết của
BCT phát biểu 'xin không kỷ luật' đồng chí X. Tại HN 7, nhân sự do BCT
giới thiệu ít nhất cũng được 13/14 Ủy viên BCT nhất trí đề nghị Trung
Ương, song các ứng viên của 13 Ủy viên vẫn 'rụng' như sung và chỉ có
những 'con gà' của riêng đồng chí X là vượt qua cuộc bỏ phiếu.
Nếu kết quả đúng như các thông tin vỉa hè đồn đoán thì Đảng CSVN đã
'lập' một 'dấu mốc' mới: Đảng CSVN đã tự vứt bỏ nguyên tắc 'Dân chủ -
Tập trung' là 'nền tảng' và 'sợi chỉ đỏ' xuyên suốt nhiều thập kỷ từ khi
thành lập của Đảng. Nhờ nguyên tắc này mà bất cứ lúc nào Đảng quán
triệt là các Đảng viên phải tuân thủ, đến ngay cả Quốc Hội Việt Nam với
hơn 90% đảng viên CS dù cho phá biểu 'trên Trời, dưới biển' nhưng khi đã
được quán triệt thì kết quả bỏ phiếu đương nhiên sẽ là 80 - 90%! Nhờ
vậy mà Đảng CS đã tồn tại hàng nhiều thập kỷ qua.
'Dân chủ - Tập trung' là một nguyên tắc sống còn và riêng có không những
của Đảng CSVN mà của các Đảng cộng sản Trung Quốc, Cu Ba, Bắc Triều
Tiên, Xô Viết và các nước đông Âu trước đây.
Nguyên tắc 'Dân chủ - Tập trung' là gì? Có thể nói nôm na như các ông
đạp xe xíc lô và bà bán cá Hà Thành là "Cho lũ con cái nói thỏa thích,
nhưng khi cha mẹ bảo 1+1 bằng 3 thì đàn con phải răm rắp hô to 1+1 bằng 3
"...
Khi nguyên tắc 'Dân chủ - Tập trung' này bị vứt bỏ thì kết quả 'Thành
trì vững chắc' xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và ở Liên Xô mà Việt Nam nhiều
thập kỷ vẫn tự hào rao giảng trong các trường phổ thông đã lần lượt sụp
đổ.
Những bằng chứng vận dụng nguyên tắc 'Dân chủ - Tập trung' để bảo vệ sự
sống còn của Đảng CS có thể kể đến Giang Trạch Dân trong việc buộc tòan
thể Ban lãnh đạo Trung Nam Hải phải đứng về phía ông tiêu diệt Pháp Luân
Công!
Nhìn thấy sự lan tỏa vũ bão của Pháp Luân công mà ngay trong giới chóp
bu Trung Nam Hải không thiếu vợ con, gia đình hàng ngày tham gia. Giang
Trạch Dân nhìn thấy sự đe dọa của Pháp Luân công một ngày không xa sẽ
'lấn át' Đảng CS, vì vậy trước cuộc họp Trung Nam Hải, ông đa yêu cầu
phải dẹp bỏ Pháp Luân công. Nhưng chính ông Giang đã bị phản đối. Ngay
sau đó, ông Giang đã áp dụng nguyên tắc 'Dân chủ - Tập trung' bằng cách
'phát phiếu' yêu cầu toàn thể BCT bỏ phiếu "Ủng hộ" hay "Không Ủng hộ"
Tổng Bí Thư và kết quả 100% dù ấm ức trong bụng song vẫn phải bỏ phiếu
"Ủng hộ" Tổng Bí Thư để rồi Kết quả hàng chục ngàn thành viên Pháp Luân
công đã bị dìm trong múa, nước mắt và nhà tù...
Trên thế giới chỉ còn Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba và Bắc Triều Tiên, dù
cho Đông Âu và Liên Xô sụp đổ - thì 04 Đảng cầm quyền ở những nước này
vẫn giữ được nguyên tắc "Dân chủ - Tập Trung", nhờ vậy mà cả 04 nước
cộng sản này vẫn tồn tại.
Hội nghị Trung ương 7 với sự vứt bỏ nguyên tắc "Dân chủ - Tập trung",
biến các Ủy Viên Bộ chính trị Việt Nam thành những 'con rối chính trị'
trong tay chính 180 Ủy viên Trung Ương là thông điệp sinh động cáo chung
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên một điều đáng lo ngại cho Việt Nam là việc phá bỏ nguyên tắc
sống còn của Đảng CSVN không phải do những Nhà đấu tranh dân chủ mà do
chính kẻ độc tài, tham nhũng và phát xít đang nắm giữ vị trí Thủ Tướng
Việt Nam khởi xướng. Chính vì vậy điều có thể dự báo trước là Việt Nam
sẽ bị biến thành trại tập trung khổng lồ của Đảng độc tài, tham nhũng
Nguyễn Tấn Dũng.
Đánh đổi Đảng Cộng sản để chọn một Đảng mà bản chất là sự chắt lọc những
cặn bã nhất từ đảng cộng sản, được 'pha chế' thêm bởi những kẻ độc tài,
tham nhũng bạo tàn, phát xít, cuồng vọng để biến thành Đảng X thì liệu
cả dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
Điều có thể nhìn thấy nhãn tiền đã từng xảy ra ở 'nước anh em': sự tàn
sát cả gia đình Lâm Bưu, Lưu Thiếu Kỳ... có thể sẽ lặp lại ở Việt Nam.
Bên cạnh việc nhân dân sẽ bị dìm trong biển máu nếu dám đấu tranh chống
tham nhũng, đòi nhân quyền thì những lãnh đạo chóp bu như Trương Tấn
Sang, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Phú Trọng dễ dàng bị 'kết án' 'Phản
Đảng' là điều có thể sẽ sớm xảy ra.
Gần đây nhất trang Blog mới lập lên được điều hành bởi chính Nguyễn Văn
Hưởng thông qua Blogger Kami và ngân sách của Hồ Hùng Anh đã bắt đầu tạo
dư luận về một Trương Tấn Sang "phản động"... có thể là mở màn của
chiến dịch thanh trừng khi Đảng X thắng thế?
(QLB)
Nghệ sỹ khiếu nại lên Bộ Công an VN
Triển lãm nước đá tan chảy của Trần Trọng Linh thu hút sự chú ý
Một nghệ sỹ Việt Nam vừa gửi kiến nghị tới Bộ Công an hồi đầu tuần sau
khi bị cấm nhập cảnh mà lý do có thể là do những mảnh rác thải
'có liên quan tới Đảng Cộng sản' tại một triển lãm nghệ thuật năm
ngoái.
Ông Trần Trọng Linh, năm nay 34 tuổi, nói ông bị chặn không cho vào Việt Nam ở cửa khẩu Tân Sơn Nhất hồi tháng 2/2013 khi bay từ Pháp về Việt Nam cùng hai con nhỏ, một dưới hai tuổi, một hơn bốn tuổi.
Ông đã phải nhờ người thân đón hai con nhỏ về trông giúp trong khi chờ gia đình từ Hà Nội bay vào đón hai cháu vì bị buộc phải bay trở lại Pháp trong cùng ngày.
Nói chuyện với BBC hôm 7/5 từ Pháp, nghệ sỹ nói ông muốn chờ cho các con trở lại Pháp trước khi gửi kiến nghị tới Bộ Công an và Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch phòng trường hợp có những điều "không mong muốn" xảy ra với các cháu nhỏ.
Nghệ sỹ cũng cho rằng việc cấm nhập cảnh có thể do một triển lãm nước đá tan chảy từ sông Tô Lịch cùng các loại rác hai bên bờ sông trong đó có cả báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản và sách về Marx và Lenin.
"Năm ngoái 05-04-2012 tôi có nhận lời mời từ Trung Tâm Văn Hoá Pháp tại Hà Nội làm một cuộc triển lãm sắp đặt tại địa chỉ 24 phố Tràng Tiền.
Triển lãm Thương Thuyết của nghệ sỹ Trần Trọng Linh thu hút sự chú ý của công chúng
"Trước đó trong dự án làm việc với bên Trung Tâm Văn Hoá Pháp triển lãm của tôi dự kiến mang tên:"Cộng Hoà Phi Lý".
"Nhưng trong quá trình xin cấp phép triển lãm bên phía an ninh văn hoá yêu cầu tôi đổi tên tác phẩm vì họ cho rằng tên tác phẩm "Cộng Hoà Phi Lý" là ám chỉ đến Việt Nam.
"Trước thắc mắc trên tôi có giải thích sơ qua về ý đồ tác phẩm của tôi rằng trong tác phẩm không có chủ ý nói đến nền chính trị tại Việt Nam vì trên thực tế nền cộng hoà còn gắn với nhiều quốc gia phát triển khác như: Cộng Hoà Liên Bang Đức hay Cộng Hoà Pháp,"
"Tuy vậy, trước yêu cầu của cơ quan an ninh văn hoá tôi đã phải chấp nhận thay đổi tên tác phẩm của mình là "Thương Thuyết".
"Triển lãm đã được khai mạc theo đúng dự địnhvới nội dung tác phẩm là 7 khối nước đá có tổng khối lượng là 21m3 nước thải sông Tô Lịch được đóng băng cùng với những rác thải được thu lượm bên hai bờ sông Tô Lịch.
"Kế hoạch trong triển lãm sẽ để cho 7 khối nước đá tan chảy trong môi trường tự nhiên trong vòng 5 ngày tuy nhiên, đến ngày thứ 3 thì bên an ninh văn hoá ra lệnh dừng tác phẩm mà không cho biết lý do cụ thể bằng văn bản."
Trong đơn kiến nghị, ông Linh cũng nói ông đã giải thích với phía an ninh văn hóa về ý đồ triển lãm trong các cuộc gặp sau đó.
"Tôi cũng đã trao đổi rất thẳng thắn và chân thành với bên an ninh văn hoá về những suy nghĩ và lập trường nghệ thuật của mình.
"Tôi có nói rằng: Yêu cầu mới của nghệ thuật ngày hôm nay là người nghệ sỹ phải có những nghiên cứu và thực hành nghệ thuật bày tỏ quan điểm cá nhân bằng ngôn ngữ của nghệ thuật và can thiệp trực tiếp vào đời sống xã hội.
"Cụ thể trong tác phẩm này tôi muốn đưa ra lý thuyết về "chủ nghĩa nghi vấn".
"Tôi muốn dùng thứ vật liệu mang tính không bền vững để nói đến môt xã hội xây dựng theo cái nền tảng thiếu tính bền vững.
"Như chúng ta đã áp dụng chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam từ nhiều thập niên và chúng ta đã tự nhìn thấy những mặt hạn chế không có khả năng khắc phục."
Ngoài việc đòi giải thích rõ lý do cấm nhập cảnh và phục hồi "quyền lợi hợp pháp" của công dân, ông cũng đưa ra kiến nghị chung:
"Tôi xin kiến nghị bên an ninh văn hoá nên cởi bỏ dần nhưng ràng buộc và quy chế đối với nghệ sỹ, giúp nghệ sỹ được tự do hơn trong việc bày tỏ chính kiến bằng ngôn ngữ nghệ thuật."
"Chúng ta đã mở cửa và chấp nhận hội nhập với thế giới nghĩa là chúng ta chấp nhận sự bình đẳng và tự do với thế giới."
"Những hiểu lầm dẫn đến những cấm đoán như trong trường hợp của tôi dễ khiến chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đồng thế giới với các nước văn minh, đi ngược lại quá trình tiến hoá của nhân loại,"
"Cởi bỏ được những quy định giàng buộc đối với giới văn nghệ sỹ không chỉ giúp nghệ sỹ bày tỏ chính kiến, tự do sáng tạo mà cũng sẽ giúp người dân của chúng ta được tiếp cận với nghệ thuật, hiểu được những giá trị của nghệ thuật trong đời sống, giúp con người hướng tới những giá trị Chân-Thiện-Mỹ."
(BBC)
Ông Trần Trọng Linh, năm nay 34 tuổi, nói ông bị chặn không cho vào Việt Nam ở cửa khẩu Tân Sơn Nhất hồi tháng 2/2013 khi bay từ Pháp về Việt Nam cùng hai con nhỏ, một dưới hai tuổi, một hơn bốn tuổi.
Ông đã phải nhờ người thân đón hai con nhỏ về trông giúp trong khi chờ gia đình từ Hà Nội bay vào đón hai cháu vì bị buộc phải bay trở lại Pháp trong cùng ngày.
Nói chuyện với BBC hôm 7/5 từ Pháp, nghệ sỹ nói ông muốn chờ cho các con trở lại Pháp trước khi gửi kiến nghị tới Bộ Công an và Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch phòng trường hợp có những điều "không mong muốn" xảy ra với các cháu nhỏ.
Nghệ sỹ cũng cho rằng việc cấm nhập cảnh có thể do một triển lãm nước đá tan chảy từ sông Tô Lịch cùng các loại rác hai bên bờ sông trong đó có cả báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản và sách về Marx và Lenin.
'Cộng Hòa Phi Lý'
Ông viết trong đơn kiến nghị mà một bản sao cũng được gửi cho BBC:"Năm ngoái 05-04-2012 tôi có nhận lời mời từ Trung Tâm Văn Hoá Pháp tại Hà Nội làm một cuộc triển lãm sắp đặt tại địa chỉ 24 phố Tràng Tiền.
Triển lãm Thương Thuyết của nghệ sỹ Trần Trọng Linh thu hút sự chú ý của công chúng
"Trước đó trong dự án làm việc với bên Trung Tâm Văn Hoá Pháp triển lãm của tôi dự kiến mang tên:"Cộng Hoà Phi Lý".
"Nhưng trong quá trình xin cấp phép triển lãm bên phía an ninh văn hoá yêu cầu tôi đổi tên tác phẩm vì họ cho rằng tên tác phẩm "Cộng Hoà Phi Lý" là ám chỉ đến Việt Nam.
"Trước thắc mắc trên tôi có giải thích sơ qua về ý đồ tác phẩm của tôi rằng trong tác phẩm không có chủ ý nói đến nền chính trị tại Việt Nam vì trên thực tế nền cộng hoà còn gắn với nhiều quốc gia phát triển khác như: Cộng Hoà Liên Bang Đức hay Cộng Hoà Pháp,"
"Tuy vậy, trước yêu cầu của cơ quan an ninh văn hoá tôi đã phải chấp nhận thay đổi tên tác phẩm của mình là "Thương Thuyết".
"Triển lãm đã được khai mạc theo đúng dự địnhvới nội dung tác phẩm là 7 khối nước đá có tổng khối lượng là 21m3 nước thải sông Tô Lịch được đóng băng cùng với những rác thải được thu lượm bên hai bờ sông Tô Lịch.
"Kế hoạch trong triển lãm sẽ để cho 7 khối nước đá tan chảy trong môi trường tự nhiên trong vòng 5 ngày tuy nhiên, đến ngày thứ 3 thì bên an ninh văn hoá ra lệnh dừng tác phẩm mà không cho biết lý do cụ thể bằng văn bản."
Trong đơn kiến nghị, ông Linh cũng nói ông đã giải thích với phía an ninh văn hóa về ý đồ triển lãm trong các cuộc gặp sau đó.
"Tôi cũng đã trao đổi rất thẳng thắn và chân thành với bên an ninh văn hoá về những suy nghĩ và lập trường nghệ thuật của mình.
"Tôi có nói rằng: Yêu cầu mới của nghệ thuật ngày hôm nay là người nghệ sỹ phải có những nghiên cứu và thực hành nghệ thuật bày tỏ quan điểm cá nhân bằng ngôn ngữ của nghệ thuật và can thiệp trực tiếp vào đời sống xã hội.
"Cụ thể trong tác phẩm này tôi muốn đưa ra lý thuyết về "chủ nghĩa nghi vấn".
"Tôi muốn dùng thứ vật liệu mang tính không bền vững để nói đến môt xã hội xây dựng theo cái nền tảng thiếu tính bền vững.
"Tôi muốn dùng thứ vật liệu mang tính không bền vững để nói đến môt xã hội xây dựng theo cái nền tảng thiếu tính bền vững. Như chúng ta đã áp dụng chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam từ nhiều thập niên và chúng ta đã tự nhìn thấy những mặt hạn chế không có khả năng khắc phục."
Nghệ sỹ Trần Trọng Linh
"Như chúng ta đã áp dụng chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam từ nhiều thập niên và chúng ta đã tự nhìn thấy những mặt hạn chế không có khả năng khắc phục."
'Chân-Thiện-Mỹ'
Ông Trần Trọng Linh nói lý do gửi đơn khiếu nại là ông không rõ cấp nào được quyền cấm công dân Việt Nam vào chính nước của họ và luật pháp Việt Nam về vấn đề này ra sao.Ngoài việc đòi giải thích rõ lý do cấm nhập cảnh và phục hồi "quyền lợi hợp pháp" của công dân, ông cũng đưa ra kiến nghị chung:
"Tôi xin kiến nghị bên an ninh văn hoá nên cởi bỏ dần nhưng ràng buộc và quy chế đối với nghệ sỹ, giúp nghệ sỹ được tự do hơn trong việc bày tỏ chính kiến bằng ngôn ngữ nghệ thuật."
"Chúng ta đã mở cửa và chấp nhận hội nhập với thế giới nghĩa là chúng ta chấp nhận sự bình đẳng và tự do với thế giới."
"Những hiểu lầm dẫn đến những cấm đoán như trong trường hợp của tôi dễ khiến chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đồng thế giới với các nước văn minh, đi ngược lại quá trình tiến hoá của nhân loại,"
"Cởi bỏ được những quy định giàng buộc đối với giới văn nghệ sỹ không chỉ giúp nghệ sỹ bày tỏ chính kiến, tự do sáng tạo mà cũng sẽ giúp người dân của chúng ta được tiếp cận với nghệ thuật, hiểu được những giá trị của nghệ thuật trong đời sống, giúp con người hướng tới những giá trị Chân-Thiện-Mỹ."
(BBC)
Việt Nam phải nhập khẩu than từ Úc để đáp ứng nhu cầu năng lượng
(đau chưa, từ nước xuất khẩu than, giờ thì phải đi nhập... đã cảnh báo từ hơn 10 năm trước rồi...)
Mỏ than đá lộ thiên của tập đoàn Ensham Resources (DR)
Từng là nước xuất khẩu than đá, Việt
Nam đã phải lên kế hoạch nhập khẩu than từ Úc để thỏa mãn nhu cầu năng
lượng ngày càng tăng nhanh. Theo tờ báo Mỹ Wall Street Journal, số ra
ngày hôm qua,07/05/2013, tập đoàn dầu khí PetroVietnam xác nhận đã ký
một thỏa thuận khung với một tập đoàn Úc sản xuất than để mua ba triệu
mét khối than đá mỗi năm.
Theo nguồn tin trên, công ty PV Power Coal, một đơn vị thuộc Petro Việt Nam đã ký kết thỏa thuận với hãng Ensham Resources của Úc, nhằm cung cấp nhiên liệu cho hai nhà máy nhiệt điện lớn chạy bằng than đang được xây dựng ở miền Nam Việt Nam.
Hai nhà máy công suất 1.200 megawatt sẽ tiêu thụ khoảng 3,2 triệu tấn than mỗi năm và dự kiến sẽ bắt đầu phát điện vào năm 2015 và năm 2016.
Nghịch lý của vấn đề này là trước đây Việt Nam từng là một quốc gia xuất khẩu than thuộc loại lớn. Đỉnh điểm là vào năm 2009, Việt Nam đã xuất trên 25 triệu tấn. Tuy nhiên việc xuất khẩu than đá đã giảm mạnh kể từ lúc đó đến nay, và nguồn than trong nước ngày càng được giữ lại để sử dụng cho các nhà máy nhiệt điện.
Nhu cầu năng lượng càng lúc càng tăng, trong lúc các kế hoạch của Việt Nam nhằm khai thác nguồn dự trữ khí đốt dồi dào ngoài khơi đã bị chậm trễ, hai yếu tố này buộc chính quyền phải tính đến chuyện nhập khẩu than đá.
Mai Vân (RFI)
Theo nguồn tin trên, công ty PV Power Coal, một đơn vị thuộc Petro Việt Nam đã ký kết thỏa thuận với hãng Ensham Resources của Úc, nhằm cung cấp nhiên liệu cho hai nhà máy nhiệt điện lớn chạy bằng than đang được xây dựng ở miền Nam Việt Nam.
Hai nhà máy công suất 1.200 megawatt sẽ tiêu thụ khoảng 3,2 triệu tấn than mỗi năm và dự kiến sẽ bắt đầu phát điện vào năm 2015 và năm 2016.
Nghịch lý của vấn đề này là trước đây Việt Nam từng là một quốc gia xuất khẩu than thuộc loại lớn. Đỉnh điểm là vào năm 2009, Việt Nam đã xuất trên 25 triệu tấn. Tuy nhiên việc xuất khẩu than đá đã giảm mạnh kể từ lúc đó đến nay, và nguồn than trong nước ngày càng được giữ lại để sử dụng cho các nhà máy nhiệt điện.
Nhu cầu năng lượng càng lúc càng tăng, trong lúc các kế hoạch của Việt Nam nhằm khai thác nguồn dự trữ khí đốt dồi dào ngoài khơi đã bị chậm trễ, hai yếu tố này buộc chính quyền phải tính đến chuyện nhập khẩu than đá.
Mai Vân (RFI)
Dự luật về Việt Nam có vượt qua được Thượng viện Mỹ?
Một dự luật thúc đẩy tự do và nhân
quyền có tên gọi ‘Dự luật Nhân quyền Việt Nam 2013’ đã được công bố hôm
nay tại Quốc hội Hoa Kỳ.
Dự luật này do dân biểu Chris Smith chủ xướng với đồng bảo trợ là các nhà lập pháp quan tâm tới tình hình chính trị Việt Nam như ông Ed Royce và Frank Wolf.
Trả lời riêng VOA Việt Ngữ bên lề buổi công bố, ông Smith cho biết dự luật đưa ra năm nay có nhiều điểm giống với năm ngoái.
Dân biểu này nói: “Những điểm chính trong dự luật lần này bao gồm việc ngưng các khoản viện trợ phi nhân đạo cho Việt Nam ở mức của năm 2012 cho tới khi nào có các tiến bộ quan trọng và nghiêm túc trong lĩnh vực nhân quyền, gồm có việc thả tù nhân chính trị và tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Ngoài ra, dự luật còn đề cập tới vấn nạn buôn người đang ngày càng xấu đi tại Việt Nam. Chúng tôi cũng kêu gọi Tòa Bạch Ốc liệt Việt Nam vào danh sách Các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về vấn đề tự do tôn giáo”.
Nhà ngoại giao kỳ cựu người Mỹ, ông Grover Joseph Rees, là một trong những người lên phát biểu ủng hộ tại buổi lễ công bố.
Ông
nói với VOA Việt Ngữ rằng mục tiêu chính của dự luật là thu hút sự chú
ý, nhất là tại Thượng viện, về những gì đang thực sự xảy ra tại Việt
Nam.
Cựu đại sứ nói: “Tôi nghĩ rằng năm nay dân biểu Chris Smith hy vọng rằng Thượng viện quan tâm nhiều hơn nữa để thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam, thay vì chỉ có chú trọng tập trung duy trì mối quan hệ thân cận với chính phủ nước này bằng mọi giá”.
Dự luật cần phải vượt qua Hạ và Thượng viện Mỹ trước khi chính thức trở thành luật.
Trong các năm trước, các dân biểu Hoa Kỳ đã thông qua dự luật gắn viện trợ của Mỹ với việc Việt Nam phải bảo vệ nhân quyền. Tuy nhiên, dự luật đã bị chặn tại Thượng viện.
Ông Smith bày tỏ hy vọng và lạc quan với VOA Việt Ngữ rằng dự luật lần này sẽ qua được Thượng viện.
Ông nói: “Chúng tôi sẽ nỗ lực hết sức tại Thượng viện vì chúng tôi nghĩ rằng năm nay vấn đề nhân quyền ở Việt Nam còn tệ hơn năm ngoái và một năm trước nữa. Tình hình đã xấu đi một cách có hệ thống. Tôi đã làm việc về nhiều dự luật có liên quan tới nhân quyền. Nếu lần đầu tiên không được thông qua thì cứ phải tiếp tục thúc đẩy dự luật đó cho tới khi nào được thông qua thì thôi’.
Theo ông Rees, thượng viện Mỹ thường thông qua các dự luật với đa số phiếu thuận là 61 trên 100, vì thế cho nên, dự luật có thể bị chặn chỉ vì gặp phải sự chống đối của một thượng nghị sĩ.
Cựu đại sứ Mỹ tại Đông Timor cho hay, ông biết thông tin về việc cựu Thượng nghị sĩ John Kerry không thông qua dự luật về nhân quyền Việt Nam vì ông cho rằng Washington nên có cách tiếp cận mang tính hòa giải đối với Hà Nội.
Dân
biểu Ed Royce, hiện là Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, bày tỏ hy
vọng rằng với việc ông Kerry không còn làm việc tại Thượng viện, ‘công
lý sẽ thắng thế’.
Việt Nam chưa lên tiếng về dự luật mới được công bố, nhưng trước đây, Hà Nội từng nói Dự luật Nhân quyền Việt Nam 2012 ‘dựa trên những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình thực thi quyền con người tại Việt Nam’.
Nhân quyền được coi là một vấn đề gây trở ngại trong mối quan hệ giữa Hà Nội – Washington.
Hồi tháng Tư, dân biểu Chris Smith cũng đã chủ trì buổi điều trần về tình hình nhân quyền Việt Nam, tập trung vào vấn đề tự do tôn giáo, quyền của người thiểu số cũng như nạn buôn người.
Cũng trong tháng Tư, tại buổi điều trần về vấn đề nhân quyền và chính sách chuyển trọng tâm sang châu Á trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, Quyền Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Joseph Yun nói rằng Washington nhận thấy ‘còn nhiều việc cần phải làm ở các nước như Việt Nam nhằm bảo đảm rằng tất cả mọi công dân được hưởng quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí’.
(VOA)
Dự luật này do dân biểu Chris Smith chủ xướng với đồng bảo trợ là các nhà lập pháp quan tâm tới tình hình chính trị Việt Nam như ông Ed Royce và Frank Wolf.
Trả lời riêng VOA Việt Ngữ bên lề buổi công bố, ông Smith cho biết dự luật đưa ra năm nay có nhiều điểm giống với năm ngoái.
Dân biểu này nói: “Những điểm chính trong dự luật lần này bao gồm việc ngưng các khoản viện trợ phi nhân đạo cho Việt Nam ở mức của năm 2012 cho tới khi nào có các tiến bộ quan trọng và nghiêm túc trong lĩnh vực nhân quyền, gồm có việc thả tù nhân chính trị và tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Ngoài ra, dự luật còn đề cập tới vấn nạn buôn người đang ngày càng xấu đi tại Việt Nam. Chúng tôi cũng kêu gọi Tòa Bạch Ốc liệt Việt Nam vào danh sách Các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về vấn đề tự do tôn giáo”.
Nhà ngoại giao kỳ cựu người Mỹ, ông Grover Joseph Rees, là một trong những người lên phát biểu ủng hộ tại buổi lễ công bố.
Tôi nghĩ
rằng năm nay dân biểu Chris Smith hy vọng rằng Thượng viện quan tâm
nhiều hơn nữa để thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam, thay vì chỉ có chú
trọng tập trung duy trì mối quan hệ thân cận với chính phủ nước này
bằng mọi giá.
Cựu đại sứ nói: “Tôi nghĩ rằng năm nay dân biểu Chris Smith hy vọng rằng Thượng viện quan tâm nhiều hơn nữa để thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam, thay vì chỉ có chú trọng tập trung duy trì mối quan hệ thân cận với chính phủ nước này bằng mọi giá”.
Dự luật cần phải vượt qua Hạ và Thượng viện Mỹ trước khi chính thức trở thành luật.
Trong các năm trước, các dân biểu Hoa Kỳ đã thông qua dự luật gắn viện trợ của Mỹ với việc Việt Nam phải bảo vệ nhân quyền. Tuy nhiên, dự luật đã bị chặn tại Thượng viện.
Ông Smith bày tỏ hy vọng và lạc quan với VOA Việt Ngữ rằng dự luật lần này sẽ qua được Thượng viện.
Ông nói: “Chúng tôi sẽ nỗ lực hết sức tại Thượng viện vì chúng tôi nghĩ rằng năm nay vấn đề nhân quyền ở Việt Nam còn tệ hơn năm ngoái và một năm trước nữa. Tình hình đã xấu đi một cách có hệ thống. Tôi đã làm việc về nhiều dự luật có liên quan tới nhân quyền. Nếu lần đầu tiên không được thông qua thì cứ phải tiếp tục thúc đẩy dự luật đó cho tới khi nào được thông qua thì thôi’.
Theo ông Rees, thượng viện Mỹ thường thông qua các dự luật với đa số phiếu thuận là 61 trên 100, vì thế cho nên, dự luật có thể bị chặn chỉ vì gặp phải sự chống đối của một thượng nghị sĩ.
Cựu đại sứ Mỹ tại Đông Timor cho hay, ông biết thông tin về việc cựu Thượng nghị sĩ John Kerry không thông qua dự luật về nhân quyền Việt Nam vì ông cho rằng Washington nên có cách tiếp cận mang tính hòa giải đối với Hà Nội.
Tôi đã
làm việc về nhiều dự luật có liên quan tới nhân quyền. Nếu lần đầu tiên
không được thông qua thì cứ phải tiếp tục thúc đẩy dự luật đó cho tới
khi nào được thông qua thì thôi.
Việt Nam chưa lên tiếng về dự luật mới được công bố, nhưng trước đây, Hà Nội từng nói Dự luật Nhân quyền Việt Nam 2012 ‘dựa trên những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình thực thi quyền con người tại Việt Nam’.
Nhân quyền được coi là một vấn đề gây trở ngại trong mối quan hệ giữa Hà Nội – Washington.
Hồi tháng Tư, dân biểu Chris Smith cũng đã chủ trì buổi điều trần về tình hình nhân quyền Việt Nam, tập trung vào vấn đề tự do tôn giáo, quyền của người thiểu số cũng như nạn buôn người.
Cũng trong tháng Tư, tại buổi điều trần về vấn đề nhân quyền và chính sách chuyển trọng tâm sang châu Á trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, Quyền Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Joseph Yun nói rằng Washington nhận thấy ‘còn nhiều việc cần phải làm ở các nước như Việt Nam nhằm bảo đảm rằng tất cả mọi công dân được hưởng quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí’.
(VOA)
Trình Quốc hội Mỹ dự thảo “Đạo luật Nhân quyền cho VN”
Tiếp theo sự kiện điều trần về VN vi phạm nhân quyền diễn ra hôm mùng
10/4, ngày hôm qua, mùng 8/5, cũng tại tòa nhà Hạ viện Rayburn, các Dân
biểu thuộc hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đệ trình lên Quốc Hội bản dự
thảo “Đạo luật Nhân Quyền VN năm 2013”.
Dân biểu Ed Royce phát biểu tại buổi đệ trình lên Quốc Hội bản dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền VN năm 2013” ở tòa nhà Hạ viện Rayburn hôm 8/5. RFA |
Vận động cho dân chủ ở VN
Với mục đích vận động cho tự do và dân chủ ở VN, bản dự thảo “Đạo luật
Nhân quyền Việt Nam năm 2013” được đệ trình với nhiều triển vọng sẽ được
Hạ viện và Thượng viện thông qua trong năm nay. Chủ tịch Ủy ban Ngoại
giao Hạ viện, Dân biểu Ed Royce nhấn mạnh trong lời phát biểu của mình
rằng:
“Vì chỉ trong vòng 6 tuần lễ đầu tiên trong năm nay, có rất nhiều các
trường hợp những nhà bất đồng chính kiến ở VN bị bắt và giam giữ so với
năm trước đây. Có đến 40 trường hợp bị giam giữ được thông báo. Thật sự
là điều không thể tin nổi khi VN đang cố gắng trở thành thành viên Hội
đồng Nhân quyền LHQ mà càng ngày lại càng tiếp tục có nhiều hành động
chống lại nhân quyền. Tự do ngôn luận - tự do lập hội - tự do tôn giáo,
VN đều không có.”
Trước tình trạng vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo của nhà cầm
quyền Hà Nội, Dân biểu Ed Royce lên tiếng yêu cầu Hoa Kỳ cần phải đưa VN
trở lại danh sách CPC.
Trong số những người ủng hộ cho “Đạo luật Nhân quyền VN”, cựu Đại sứ Hoa
Kỳ - ông Grover Joseph Rees chia sẻ rằng những lý giải của chính quyền
VN trong thời gian ông làm việc trao đổi với họ về dân chủ - nhân quyền
là không thể chấp nhận được. Hà Nội luôn luôn cho rằng không có tù nhân
chính trị ở quốc gia họ. Những tù nhân mà phía Hoa Kỳ đề cập đến được
giải thích đó là vì vi phạm luật pháp của VN. Và VN cho rằng nền dân chủ
ở đây có phần khác biệt. Ông Grover Rees, một người làm việc trong Quốc
Hội và công việc chính phục vụ cho nền dân chủ đa sắc tộc, nói rằng một
quốc gia như VN mà những người dân bình thường trong xã hội phải tuân
thủ theo những quy định sai trái của chính quyền thật giống như địa ngục
nơi trần gian. Vị cựu Đại sứ Hoa Kỳ này quả quyết tiếp tục theo đuổi
vận động cho tự do và nhân quyền cho người dân ở VN.
Tác giả bản dự thảo “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam năm 2013”, Dân biểu
Chris Smith tuyên bố năm 2013 là thời điểm để Hoa Kỳ cần đưa VN trở lại
danh sách CPC vì 7 năm trước VN được loại ra khỏi danh sách này với hy
vọng tự do dôn giáo được cải thiện theo như hứa hẹn của Hà Nội. Tuy
nhiên, trước các bằng chứng qua buổi điều trần về VN vi phạm nhân quyền
hôm mùng 10/4 cho thấy rõ ràng tình trạng vi phạm nhân quyền và đàn áp
tôn giáo ở VN ngày càng trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết.
Một nhạc sĩ Việt Khang, một blogger Điếu cày, một Mục sư Phạm Công
Chính, một Linh mục Nguyễn Văn Lý và còn có những bác sĩ, luật sư, nhiều
người dân sắc tộc Khmer Krom, người Thượng ở Tây Nguyên cùng rất nhiều
người dân bình thường khác đang phải chịu bắt bớ, giam cầm đọa đày trên
chính quê hương vì đã cất lên tiếng nói chính kiến của mình, vì theo
đuổi tự do tín ngưỡng cũng như thực thi những quyền con người căn bản
nhất.
Tác giả dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền Việt Nam năm 2013” lên tiếng yêu
cầu chính quyền Obama chỉ viện trợ cho VN ngoài các chương trình nhân
đạo khi nào Nhà nước VN tôn trọng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do
lập hội đoàn, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, cần phải hủy bỏ và
sửa đổi các điều luật trong Bộ luật Hình sự cáo buộc người dân tội
“chống phá Nhà nước”, phải tuân theo các tiêu chuẩn nhân quyền Quốc tế
mà VN đã ký kết tham gia, tôn trọng các nhóm người sắc tộc thiểu số và
cần tiến hành các bước đúng đắn để chấm dứt tình trạng các quan chức hỗ
trợ cho tệ nạn buôn người.
Quốc hội sẽ thông qua?
Trả lời câu hỏi của đài ACTD rằng có nhiều hy vọng cho “Đạo luật Nhân
quyền Việt Nam” sẽ được cả Hạ viện và Thượng viện thông qua trong năm
2013 này, Dân biểu Chris Smith nói là khả năng được thông qua ở Hạ viện
là rất lớn vì buổi điều trần tại hội đồng được được mọi người quan tâm.
Dân biểu Chris Smith cho rằng đối với Thượng viện, theo như Chủ tịch Ủy
ban Ngoại giao Hạ viện, Dân biểu Ed Royce nói là thất vọng trong vài năm
trước vì đã không được thông qua bởi một hoặc hai cá nhân. Trong năm
2013 này, các Dân biểu đồng bảo trợ “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam” cùng
với tác giả Chris Smith thuyết phục Nhà Trắng áp dụng các biện pháp chế
tài đối với VN vì những hành xử không đúng về nhân quyền của Hà Nội. Dân
biểu Chris Smith nói:
“Chính phủ của tổng thống Bush và Obama đã không giải quyết vấn đề vi
phạm nhân quyền VN một cách có hiệu quả, cho nên lúc này là lúc chúng ta
nhìn vào thực trạng, xem họ đã vi pham các tiêu chuẩn về nhân quyền
quốc tế thế nào, chúng ta quyết định các biện pháp trừng phạt cho những
hành xử không đúng. Năm 2013, có thể có người nói là cho VN thêm một hai
năm nữa để cải thiện tình hình, thương mại hai bên đã tăng mạnh lên đến
25 tỉ đô la giữa 2 nước giữa hai nước nhưng tình hình nhân quyền đã
xuống dốc quá mức, nếu chúng tôi không lên tiếng thì ai sẽ lên tiếng?”
Các Dân biểu đồng bảo trợ cho “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam” khác cũng
lên tiếng kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam cần phải thay đổi tích cực để
có cơ hội thảo luận với Hoa Kỳ về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương (TPP) và cần có hành động đúng đắn để cải thiện tình trạng tự
do-nhân quyền để giúp cho việc xây dựng quốc gia trên giá trị căn bản
quyền con người.
Hòa Ái tường trình từ Quốc hội Hoa Kỳ.
Hòa Ái, phóng viên RFA
2013-05-08
Châu Âu chỉ trích thái độ bất nhất của Việt Nam về tự do tôn giáo
Giới chức cấp cao phụ trách chính sách an ninh và đối ngoại của Liên hiệp châu Âu (EU), bà Catherine Ashton.
Bà Nam tước Catherine Ashton, Đại diện Tối cao của Liên Hiệp Châu Âu về
Chính sách An ninh và Ðối ngoại, vừa bày tỏ quan ngại về các vi phạm
quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng tại Việt Nam, đặc biệt là sự bất nhất
rõ ràng giữa những lời tuyên bố của nhà cầm quyền Hà Nội với những gì
thực sự diễn ra trong thực tế.
Hồi đáp chất vấn của Dân biểu Quốc hội Châu Âu Ramon Tremosa Balcells hôm 25/4 vừa qua, bà Catherine Ashton nhấn mạnh các vi phạm về quyền tự do tôn giáo-tín ngưỡng vẫn là một mối quan tâm tại Việt Nam và EU đang theo dõi sát tình hình.
Bà Ashton cho biết Châu Âu đã nêu các quan ngại này với Hà Nội thông qua các cuộc đối thoại nhân quyền được thành lập từ đầu năm ngoái theo thỏa thuận đối tác và hợp tác giữa đôi bên.
Bà Ashton nói tự do tôn giáo-tín ngưỡng tại Việt Nam là đề tài then chốt được mang ra thảo luận tại hai buổi họp giữa EU với Việt Nam hồi tháng giêng và tháng 10 năm ngoái lần lượt tại Hà Nội và Brussels (Bỉ). Qua đó, các vụ việc như trường hợp của lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Đức Tăng thống Thích Quảng Độ, cũng đã được nêu lên.
Bà Ashton cho hay trong các cuộc đối thoại này, phía Việt Nam thông báo với EU rằng Đức Tăng thống Thích Quảng Độ không hề bị quản thúc tại gia và có thể tiếp xúc tự do bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, vẫn theo lời bà Ashton, trong các dịp ghé thăm Ngài vào năm ngoái, các vị đại sứ của Mỹ và Australia xác nhận rằng Đức Tăng thống không được phép rời khỏi Thanh Minh Thiền viện, nơi Ngài bị quản chế.
Trường hợp của nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Đức Tăng thống Thích Quảng Độ, cũng đã được nêu lên.
Bà Ashton cho biết trong khuôn khổ Đối thoại Nhân quyền và các mối liên hệ song phương với Việt Nam, Châu Âu sẽ tiếp tục thúc đẩy Hà Nội phóng thích những người bị bỏ tù, cầm giữ, hay sách nhiễu vì niềm tin tôn giáo, trong đó có trường hợp của Đức Tăng thống Thích Quảng Độ, vì rõ ràng là nhà cầm quyền Việt Nam nói một đằng làm một nẻo.
Đại diện tối cao của Liên hiệp Châu Âu cũng cho biết thêm trong cuộc đối thoại tháng 10 năm rồi, Hà Nội đã hồi đáp tích cực trước lời kêu gọi của EU mở cửa lại cho Báo cáo viên Liên hiệp quốc đặc trách Tự do Tôn giáo đến thăm Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa thấy có diễn tiến nào về khả năng hứa hẹn này.
Bà Ashton cho hay EU dự định sẽ nêu vấn đề lần nữa về chuyến thăm của Báo cáo viên Liên hiệp quốc đặc trách Tự do Tôn giáo đến Việt Nam nếu loan báo của Hà Nội về lời mời này không được khai triển.
Vẫn theo bà Ashton, Liên hiệp Châu Âu hiện đang phân tích Nghị định 92 về tôn giáo của Việt Nam và sẽ đưa lên bàn thảo luận trong cuộc Đối thoại Nhân quyền sắp tới giữa EU với Việt Nam dự kiến diễn ra trong tháng 10 năm nay. Nghị định 92, được ban hành tháng 11 năm ngoái quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng-tôn giáo và có hiệu lực từ đầu năm nay, đang gây tranh cãi vì các biện pháp siết chặt hơn nữa kiểm soát hoạt động tôn giáo trong nước.
Trong chất vấn gửi người đặc trách chính sách an ninh và đối ngoại của Liên hiệp Châu Âu, dân biểu Quốc hội Châu Âu Ramon Tremosa Balcells nói ông hết sức quan ngại trước Nghị định 92 của Hà Nội và các vi phạm về tự do tôn giáo nghiêm trọng tại Việt Nam dựa trên báo cáo đầy đủ của các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế, trong đó có Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam trụ sở tại Pháp.
Dân biểu Balcells cũng chất vấn về các biện pháp cấp bách mà Liên hiệp Châu Âu sẽ thực hiện để giúp phóng thích những người bị Hà Nội giam cầm vì niềm tin tín ngưỡng ôn hòa.
Ông Balcells hoan nghênh cam kết bảo vệ quyền tự do tôn giáo của EU qua việc Ban Đối ngoại của Châu Âu soạn thảo cẩm nang hướng dẫn về Tự do Tôn giáo-tín ngưỡng và việc thành lập nhóm làm việc của Nghị viện Châu Âu về Tự do Tôn giáo-tín ngưỡng.
Tuy nhiên, ông Balcells nhấn mạnh cam kết này sẽ vô nghĩa nếu không được thể hiện trong thực tế và mang lại quyền tự do cho những ai đang bị tước đoạt quyền tự do chỉ vì đức tin của họ.
Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam cho biết họ đã cung cấp cho EU và Nghị viện Châu Âu nhiều tư liệu và chứng cứ về tình trạng đàn áp tôn giáo, sách nhiễu bloggers, cư dân mạng, và những người bất đồng chính kiến tại Việt Nam.
Nguồn: VCHR, Europarl.europa.eu
Trà Mi-VOA
Hồi đáp chất vấn của Dân biểu Quốc hội Châu Âu Ramon Tremosa Balcells hôm 25/4 vừa qua, bà Catherine Ashton nhấn mạnh các vi phạm về quyền tự do tôn giáo-tín ngưỡng vẫn là một mối quan tâm tại Việt Nam và EU đang theo dõi sát tình hình.
Bà Ashton cho biết Châu Âu đã nêu các quan ngại này với Hà Nội thông qua các cuộc đối thoại nhân quyền được thành lập từ đầu năm ngoái theo thỏa thuận đối tác và hợp tác giữa đôi bên.
Bà Ashton nói tự do tôn giáo-tín ngưỡng tại Việt Nam là đề tài then chốt được mang ra thảo luận tại hai buổi họp giữa EU với Việt Nam hồi tháng giêng và tháng 10 năm ngoái lần lượt tại Hà Nội và Brussels (Bỉ). Qua đó, các vụ việc như trường hợp của lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Đức Tăng thống Thích Quảng Độ, cũng đã được nêu lên.
Bà Ashton cho hay trong các cuộc đối thoại này, phía Việt Nam thông báo với EU rằng Đức Tăng thống Thích Quảng Độ không hề bị quản thúc tại gia và có thể tiếp xúc tự do bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, vẫn theo lời bà Ashton, trong các dịp ghé thăm Ngài vào năm ngoái, các vị đại sứ của Mỹ và Australia xác nhận rằng Đức Tăng thống không được phép rời khỏi Thanh Minh Thiền viện, nơi Ngài bị quản chế.
Trường hợp của nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Đức Tăng thống Thích Quảng Độ, cũng đã được nêu lên.
Bà Ashton cho biết trong khuôn khổ Đối thoại Nhân quyền và các mối liên hệ song phương với Việt Nam, Châu Âu sẽ tiếp tục thúc đẩy Hà Nội phóng thích những người bị bỏ tù, cầm giữ, hay sách nhiễu vì niềm tin tôn giáo, trong đó có trường hợp của Đức Tăng thống Thích Quảng Độ, vì rõ ràng là nhà cầm quyền Việt Nam nói một đằng làm một nẻo.
Đại diện tối cao của Liên hiệp Châu Âu cũng cho biết thêm trong cuộc đối thoại tháng 10 năm rồi, Hà Nội đã hồi đáp tích cực trước lời kêu gọi của EU mở cửa lại cho Báo cáo viên Liên hiệp quốc đặc trách Tự do Tôn giáo đến thăm Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa thấy có diễn tiến nào về khả năng hứa hẹn này.
Bà Ashton cho hay EU dự định sẽ nêu vấn đề lần nữa về chuyến thăm của Báo cáo viên Liên hiệp quốc đặc trách Tự do Tôn giáo đến Việt Nam nếu loan báo của Hà Nội về lời mời này không được khai triển.
Vẫn theo bà Ashton, Liên hiệp Châu Âu hiện đang phân tích Nghị định 92 về tôn giáo của Việt Nam và sẽ đưa lên bàn thảo luận trong cuộc Đối thoại Nhân quyền sắp tới giữa EU với Việt Nam dự kiến diễn ra trong tháng 10 năm nay. Nghị định 92, được ban hành tháng 11 năm ngoái quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng-tôn giáo và có hiệu lực từ đầu năm nay, đang gây tranh cãi vì các biện pháp siết chặt hơn nữa kiểm soát hoạt động tôn giáo trong nước.
Trong chất vấn gửi người đặc trách chính sách an ninh và đối ngoại của Liên hiệp Châu Âu, dân biểu Quốc hội Châu Âu Ramon Tremosa Balcells nói ông hết sức quan ngại trước Nghị định 92 của Hà Nội và các vi phạm về tự do tôn giáo nghiêm trọng tại Việt Nam dựa trên báo cáo đầy đủ của các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế, trong đó có Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam trụ sở tại Pháp.
Dân biểu Balcells cũng chất vấn về các biện pháp cấp bách mà Liên hiệp Châu Âu sẽ thực hiện để giúp phóng thích những người bị Hà Nội giam cầm vì niềm tin tín ngưỡng ôn hòa.
Ông Balcells hoan nghênh cam kết bảo vệ quyền tự do tôn giáo của EU qua việc Ban Đối ngoại của Châu Âu soạn thảo cẩm nang hướng dẫn về Tự do Tôn giáo-tín ngưỡng và việc thành lập nhóm làm việc của Nghị viện Châu Âu về Tự do Tôn giáo-tín ngưỡng.
Tuy nhiên, ông Balcells nhấn mạnh cam kết này sẽ vô nghĩa nếu không được thể hiện trong thực tế và mang lại quyền tự do cho những ai đang bị tước đoạt quyền tự do chỉ vì đức tin của họ.
Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam cho biết họ đã cung cấp cho EU và Nghị viện Châu Âu nhiều tư liệu và chứng cứ về tình trạng đàn áp tôn giáo, sách nhiễu bloggers, cư dân mạng, và những người bất đồng chính kiến tại Việt Nam.
Nguồn: VCHR, Europarl.europa.eu
Trà Mi-VOA
Nguyễn Hưng Quốc - Tôi không chống Cộng
Ở cả hai lần bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam (11/2005 và 4/2009), tôi đều
không nhận được lời giải thích thỏa đáng nào từ chính quyền Việt Nam.
Nhưng tôi nghe được phong thanh đâu đó: người ta cho là tôi “chống
Cộng”. Mà không phải từ phía chính quyền, một số bạn đọc ở hải ngoại,
ngay cả những người có vẻ có cảm tình với tôi cũng thường nói: Tôi
“chống Cộng”. Riêng tôi, xin nói một cách thành thực: Tôi không hề chống
Cộng.
Viết thế, tôi biết nhiều bạn đọc sẽ ngạc nhiên. Tuy nhiên, trước khi đánh giá (hay chụp mũ), xin đọc tiếp phần giải thích phía dưới.
Tôi nói tôi không chống Cộng vì hai lý do chính:
Thứ nhất, tôi không thích chữ “chống”. “Chống”, trong tiếng Việt, khác với các từ hoặc từ tố được xem là tương đương trong tiếng Anh như “fight”, “against”, “counter-” hay “anti-”, thường gợi lên hai ấn tượng chính: một, gắn liền với tổ chức, và hai, có tính chất bạo động. Tôi không thích cả hai. Với bạo động, tôi tuyệt đối không thích. Với tổ chức, tôi trân trọng và nghĩ nó cần thiết, hơn nữa, một nhu cầu tất yếu trong đời sống xã hội, nhưng tôi lại không thích nằm trong bất cứ một tổ chức nào; thậm chí, tôi cũng chưa từng đi biểu tình hay ký tên vào bất cứ một kiến nghị chung nào (1), dù, trên nguyên tắc, có thể tôi đồng tình và ủng hộ những việc làm ấy. Tôi không làm những việc ấy chỉ vì một lý do đơn giản: Tôi không thích ở trong “đội ngũ”, dù lâu dài hay tạm thời, chính thức hay không chính thức. Vậy thôi. Khác với Chế Lan Viên, tác giả của câu thơ “Khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”, tôi chỉ thích đứng một mình. Khi phê phán bất cứ điều gì, tôi chỉ đứng từ góc độ một người trí thức; mà trí thức, tự bản chất, nói theo Edward W. Said, là kẻ lưu vong, nghĩa là, nói cách khác, một mình. Viết, tôi chỉ nhân danh chính mình và những gì mình tin là đúng. “Lực lượng” của tôi chỉ có sách vở và kinh nghiệm, kiến thức và lý trí, lương tâm và lương thức. Còn phương tiện, trước, với cây bút; sau, với bàn phím: Ở cả hai nơi, tôi chỉ có chữ. Hết.
Thứ hai, quan trọng hơn, ở thời điểm bây giờ, theo tôi, nói chống Cộng là nói chống cái không có, hay đúng hơn, cái không còn hiện hữu nữa.
Lý do thứ hai này cần được giải thích nhiều hơn:
Cái gọi là “chống Cộng” bao gồm hai nội dung chính: một, chống lại chủ thuyết Cộng sản (chủ yếu là chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lenin); và hai, chống lại chế độ Cộng sản. Với cả hai nội dung ấy, trước năm 1975, nói chống Cộng: Được; trước năm 1990, nói chống Cộng: Được. Nhưng sau năm 1991, nói chống Cộng là nói một điều thừa thãi, thậm chí, vô duyên. Và có hại.
Trong việc chống Cộng, trước năm 1991, hai khía cạnh chống chủ thuyết (hoặc ý thức hệ) và chống chế độ (hoặc một guồng máy) là một. Chế độ, vốn cụ thể, gắn liền với hệ thống chính trị, tức là hệ thống quyền lực, là mục tiêu chống đối trước mắt. Nhưng sức mạnh của chế độ Cộng sản không phải chỉ ở đảng viên, cán bộ, quân đội, công an, súng đạn và các nhà tù. Sức mạnh của chế độ Cộng sản còn ở các lý tưởng tự do, bình đẳng cũng như cái thiên đường Cộng sản chủ nghĩa vốn có sức mê hoặc to lớn đối với mọi người, đặc biệt với giới trí thức vốn khao khát những điều cao cả, có tầm nhân loại. Hơn nữa, nó còn nằm ở các ảo tưởng về tính khoa học của chủ nghĩa Cộng sản hay ở cái gọi là tính tất yếu trong quy luật phát triển của lịch sử. Bởi vậy, người ta không thể chống lại chế độ Cộng sản chỉ bằng các phương tiện vật chất. Người ta phải chống lại chế độ Cộng sản ngay cả trong phạm trù tư tưởng, trong lãnh vực nhận thức, nghĩa là bằng các phương tiện tuyên truyền và giáo dục, nhắm thẳng vào những tên tuổi như Marx, Engels, Lenin và Stalin, những người đã chết; hơn nữa, bằng một bảng giá trị khác, cao hơn, hiện hữu ngay trong đời sống xã hội để mọi người có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được, nghĩa là bằng một nỗ lực không ngừng tự do hoá, dân chủ hoá và nhân quyền hoá, như những điều chủ nghĩa tư bản, ở các quốc gia phát triển nhất, từng làm trong suốt thế kỷ 20.
Tuy nhiên, kể từ năm 1991, với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Cộng sản, với tư cách một chế độ, hoàn toàn sụp đổ; và cùng với nó, chủ nghĩa Cộng sản, với tư cách một ý thức hệ chính trị, cũng bị phá sản theo. Trật tự này, thật ra, theo một số học giả, cũng có thể đảo ngược hẳn lại: Vì sự phá sản của ý thức hệ Cộng sản, chế độ Cộng sản, với tư cách một bộ máy chính quyền, đã sụp đổ. Nhưng dù mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi, thực chất của vấn đề vẫn là một: phá sản và sụp đổ.
Về phương diện lý thuyết, hầu như ai cũng thấy chủ nghĩa Cộng sản sai. Những người thiên tả, ít nhiều lưu luyến với chủ nghĩa Cộng sản, cố vớt vát khi cho cái sai ấy không xuất phát từ Karl Marx mà từ Lenin, đặc biệt từ Stalin và Mao Trạch Đông; nghĩa là, nó không sai hẳn, nhưng một, nó không được cập nhật để theo kịp những thay đổi và tiến bộ của chủ nghĩa tư bản; và hai, nó chỉ sai trong cách ứng dụng và vận dụng lý thuyết Marx vào thực tế. Tuy nhiên, nói theo Richard Pipes, trong cuốn Communism, a History (2), chủ nghĩa Cộng sản, ngay trong tư tưởng của Karl Marx, không phải là một ý tưởng hay nhưng bị thực hiện sai mà, tự bản chất, nó là một ý tưởng dở; hay nói theo Kolakowski, do Pipes trích dẫn, chủ nghĩa Marx – nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa Cộng sản – là một huyễn tưởng lớn nhất của thế kỷ 20 (3).
Trong vô số những cái sai của chủ nghĩa Marx-Lenin, cái sai này là đáng kể nhất: Họ cho chế độ tư hữu là cội rễ của bất bình đẳng và tin là họ có thể xóa bỏ chế độ tư hữu ấy để xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, không ai bóc lột ai và cũng không ai thống trị ai. Trên thực tế, khi công hữu hóa mọi tài sản và mọi phương tiện sản xuất, thứ nhất, họ triệt tiêu hầu như mọi động cơ lao động và sản xuất của người dân; thứ hai, họ tạo nên một giai cấp đặc quyền và đặc lợi để nắm toàn bộ việc lãnh đạo và quản lý các tài sản và công cụ sản xuất đã được công hữu hóa ấy. Những người ấy, một mặt, kém khả năng quản lý nên dẫn đến hết thất bại này sang thất bại khác; mặt khác, quan trọng hơn, trở thành một thành phần thống trị vừa ngu dốt vừa độc đoán, vừa tham nhũng vừa tàn bạo. Tất cả các yếu tố ấy không những dẫn đến những sự thất bại nặng nề về phương diện kinh tế mà còn phá hủy toàn bộ nền tảng lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản vốn nhắm đến tự do, bình đẳng và hạnh phúc.
Một cái sai khác của chủ nghĩa Marx-Lenin là họ đơn giản hóa lịch sử nhân loại vào lịch sử đấu tranh giai cấp. Sự phát triển của lịch sử, thật ra, còn tùy thuộc, thậm chí, tùy thuộc chủ yếu vào sự hợp tác của con người trong việc khám phá các quy luật của tự nhiên, từ đó, đẩy mạnh các khám phá về kỹ thuật để nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người. Chủ nghĩa tư bản, trong thế kỷ 20, đã chứng minh điều đó: Giới chủ nhân biết san sẻ trách nhiệm và quyền lợi với giới công nhân, nhờ đó, so với thế kỷ 19, công nhân càng ngày càng được hưởng lương cao và càng ngày càng được hưởng chế độ lao động hợp lý hơn. Hơn nữa, chính quyền cũng can thiệp để bảo vệ quyền lợi của công nhân và, qua chính sách thuế khóa, bảo đảm sự công bằng trong xã hội. Nhiều quốc gia mang tiếng là tư bản nhưng về các chính sách lao động và an sinh xã hội lại không khác gì với cái lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Marx mơ ước. Chưa hết. Yếu tố then chốt trong sản xuất không phải chỉ là công cụ sản xuất mà còn có cả tri thức. Mà tri thức thì không ai độc quyền được.
Một người tị nạn, như người Việt Nam sau năm 1975, chẳng hạn, khi sang nước ngoài, với hai bàn tay trắng, không thể sở hữu các công cụ sản xuất để làm chủ nhân bất cứ thứ gì được. Nhưng bù lại, chỉ cần chịu khó học hành, sau một thời gian nhất định, người đó có thể sở hữu một vốn tri thức khá cao đủ để bước vào thế giới trung lưu, thậm chí trung lưu cao, dễ dàng. Chính trong lãnh vực tri thức, vốn gắn liền với giáo dục, xã hội tư bản đã tạo nên sự bình đẳng thực sự và tối đa: Nếu mọi người không được và không thể bình đẳng khi ra đời (vốn gắn liền với gia đình, thành phần xã hội, chủng tộc và những đặc điểm về trí tuệ riêng – những điều không ai có thể lựa chọn được), họ lại được bình đẳng trong cơ hội để phát triển và tiến bộ. Ai cũng được quyền đi học; bất cứ ai có trí và có nghị lực cũng đều đi học được, và từ đó, có thể thay đổi cuộc đời mình được. Với những đặc điểm ấy, chủ nghĩa tư bản không những thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội một cách hiệu quả mà còn tạo nên sự bình đẳng và dân chủ, tuy không hẳn đã hoàn hảo, nhưng cũng hơn hẳn chế độ xã hội chủ nghĩa đủ để mọi người, kể cả những người đang sống dưới chế độ Cộng sản, cũng nhận thấy không phải kẻ thù mà chính mình mới là những kẻ đang đứng trước vực thẳm. Sự so sánh ấy cũng làm cho người ta nhận thấy những hứa hẹn về một thiên đường Cộng sản chủ nghĩa “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, chỉ là một ảo tưởng, hơn nữa, một không tưởng. Cái không tưởng ấy lại bị trả giá bằng máu. Không phải máu của một hai người. Mà là của cả một tập thể, có khi cực kỳ đông đảo. Cả hàng triệu hay chục triệu người.
Về phương diện thực tiễn, với tư cách một chế độ, chủ nghĩa Cộng sản có năm đặc điểm chính trên bình diện tổ chức. Một, đảng Cộng sản nắm độc quyền lãnh đạo; hai, đảng ấy được tổ chức một cách chặt chẽ với một thứ kỷ luật thép từ trên xuống dưới; ba, kinh tế hoàn toàn tập trung, mọi quyết định, kể cả về giá cả thị trường, đều do cấp trên quyết định; bốn, mọi phương tiện sản xuất đều nằm trong tay nhà nước; và năm, mỗi quốc gia đều liên kết và, với những mức độ khác nhau, lệ thuộc vào cái gọi là phong trào Cộng sản quốc tế nói chung. Với cách tổ chức như thế, chế độ Cộng sản vấp phải vô số sai lầm. Và những sai lầm ấy rất dễ thấy.
Thứ nhất, các chế độ Cộng sản không những không công bằng hơn các chế độ tư bản, mà thậm chí, còn tệ hại hơn cả các chế độ phong kiến ngày xưa. Xưa, chỉ có vua, nay có cả nguyên một đảng đứng trên pháp luật. Xưa, chỉ có vua là được hưởng mọi đặc quyền và đặc lợi; nay, có cả hàng triệu người nhân danh đảng thi nhau vơ vét lợi và thao túng quyền.
Thứ hai, ngoài chuyện bất bình đẳng, chế độ Cộng sản, qua hơn 70 năm tồn tại, đã chứng tỏ sự tàn bạo vô tiền khoáng hậu. Những nhà lãnh đạo Cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Fidel Castro… không phải giống vua mà là giống các bạo chúa. Vua, còn đỡ. Trong đám vua còn có các minh quân. Trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng sản, được xây dựng quyền lực trên nguyên tắc “chuyên chính”, ngay cả những người có tiềm năng là minh quân cũng trở thành bạo chúa. Hậu quả là chế độ Cộng sản trở thành một chế độ đứng đầu trong danh sách giết người trong suốt cả thế kỷ 20. Họ giết người còn nhiều hơn cả chế độ phát xít và Nazi. Bàn tay của Stalin và Mao Trạch Đông còn nhuộm nhiều máu hơn cả bàn tay của Hitler. Trong cuốn The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression do Stéphane Courtois và nhiều người khác biên tập (4), các tác giả ước tính tổng số nạn nhân bị giết chết dưới các chế độ Cộng sản trên thế giới kể từ năm 1917 đến năm 1991 là khoảng 100 triệu người, bao gồm khoảng 20 triệu ở Nga, 65 triệu ở Trung Quốc, hai triệu ở Campuchia, hai triệu ở Bắc Triều Tiên, một triệu ở Đông Âu, v.v..
Thứ ba, chế độ Cộng sản hoàn toàn thất bại về phương diện lãnh đạo và quản lý kinh tế đất nước. Không có nước Cộng sản nào giàu có và dân chúng được no ấm. Từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, kinh tế của các nước Cộng sản bị lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đến thập niên 1980, chỉ số phát triển của nó hầu như chỉ là một con số không to tướng. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa thời ấy, rất nhiều cửa tiệm trống rỗng không có hàng hóa để bán (5). Dân chúng ngất ngư vì đói khát. Nhưng dễ thấy nhất là khi chúng ta nhìn vào các quốc gia bị chia đôi, trong đó, một nửa theo chế độ Cộng sản và một nửa theo chế độ tư bản. Như Đông Đức và Tây Đức. Hay như Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên. Cái nửa theo chế độ Cộng sản bao giờ cũng có chỉ số phát triển thấp hơn hẳn cái nửa theo chế độ tư bản. Thấp một cách toàn diện. Riêng ở Triều Tiên, thu nhập tính trên đầu người ở miền Nam (32.400 đô la/người/năm) gấp 18 lần ở miền Bắc (1.800 đô la). Cùng một dân tộc. Cùng một lịch sử. Chỉ khác ở chế độ. Mà hai nơi khác nhau đến vậy.
Cuối cùng, nói theo Stéphane Courtois (6), Cộng sản phạm vô số tội ác không phải đối với con người với tư cách cá nhân mà còn đối với cả văn minh nhân loại và văn hóa quốc gia. Ở đâu, các chế độ Cộng sản cũng phá tan tành rất nhiều di tích và di sản lịch sử cũng như các nhà thờ, chùa chiền và các nơi thờ tự. Họ trấn áp các tôn giáo, xóa bỏ nhiều truyền thống tốt đẹp với lý do, theo họ, đó là những tàn tích của chế độ phong kiến.
Với những thất bại hiển nhiên về cả phương diện lý thuyết lẫn thực hành như vậy, chủ nghĩa Cộng sản đã hoàn toàn bị sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, thoạt đầu, vào năm 1989, với việc đảng Cộng sản Hungary chấp nhận một hệ thống chính trị đa đảng vào tháng 2; việc Công đoàn Đoàn kết thắng phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội Ba Lan vào tháng 6, sau đó, lên nắm chính quyền vào tháng 9; việc Bức tường Berlin bị sụp đổ vào tháng 11 (sau đó nước Đức được thống nhất vào tháng 10/ 1990); kết thúc bằng việc Mikhail Gorbachev tuyên bố từ bỏ chế độ độc đảng vào ngày 7/2/1990; và sau đó, sự tan rã của Liên bang Xô Viết vào tháng 12/1991 (trước, trong và sau sự tan ra ấy, có 16 quốc gia – vốn bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết - tuyên bố độc lập, bao gồm: Lithuania, Estonia, Latvia, Georgia, Ukraine, Belarus, Moldova, Azerbaijan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan, Armenia, Turkmenistan, và Kazakhstan).
Nếu sự ra đời của chủ nghĩa Cộng sản là biến cố lớn nhất trong nửa đầu thế kỷ 20, sự tan rã của nó ở Nga và Đông Âu là một biến cố trọng đại nhất trong sau thế kỷ 20. Cả hai đều là cách mạng. Cuộc cách mạng đầu nổ ra và, sau đó, tồn tại bằng máu và nước mắt; cuộc cách mạng sau, ngược lại, diễn ra với ba đặc điểm chính: nhanh chóng, nhẹ nhàng và bất bạo động. Có vẻ như giới lãnh đạo Cộng sản (trừ ở Romania) tự ý từ bỏ quyền lực và chế độ Cộng sản tự tan rã. Không có sự kháng cự nào đáng kể cả.
Trước thập niên 1990, trên thế giới có tổng Cộng 23 quốc gia theo chế độ Cộng sản. Trong thời điểm giao thừa giữa hai thập niên 1980 và 1990, có 18 quốc gia từ bỏ Cộng sản: Afghanistan, Albania, Angola, Benin, Bulgaria, Campuchia, Congo, Czechoslovakia, Đông Đức, Ethiopia, Hungary, Mông Cổ, Mozambique, Ba Lan, Romania, Nga, Nam Yemen và Yugoslavia. Người ta gọi những nước này (trừ Đông Đức vốn không còn là một “nước” riêng sau khi thống nhất) là “hậu Cộng sản” (postcommunism), một thuật ngữ do Zbigniew Brzezinski đưa ra vào năm 1989 (7). Do một số quốc gia, sau năm 1991, bị chia cắt (chủ yếu là do vấn đề chủng tộc), hiện nay có 28 quốc gia được xem là hậu Cộng sản (8).
“Hậu Cộng sản” nghĩa là không còn Cộng sản nữa.
Có thể nói, trên bình diện thế giới, cái gọi là “Cộng sản” đã thuộc về quá khứ. Khi “Cộng sản” thuộc về quá khứ, chuyện chống Cộng cũng không còn lý do hiện hữu nữa.
Thật ra, trên thế giới cũng còn ít nhất năm quốc gia, trên danh nghĩa, chưa từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Bắc Triều Tiên và Cuba. Tuy nhiên, trong năm quốc gia ấy, chỉ có Bắc Triều Tiên là thực sự Cộng sản, Cộng sản theo kiểu Stalin trong thập niên 1930 và 1940. Ở tất cả bốn nước còn lại, kể cả Việt Nam, chủ nghĩa Cộng sản đang dần dần biến chất và biến thể. Nó không giống chủ nghĩa Cộng sản của Stalin và Mao Trạch Đông. Nó cũng không giống chủ nghĩa Cộng sản của Lenin. Và nó cũng không giống chút nào với cái chủ nghĩa Cộng sản mà Mark và Engels quan niệm.
Thứ nhất, về phương diện kinh tế, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều chấp nhận kinh tế thị trường vốn là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Dĩ nhiên, cái gọi là “kinh tế thị trường” ở đây vẫn còn bị giới hạn bởi cái đuôi phía sau “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhưng cái đuôi ấy chỉ là một cố gắng níu kéo nắm giữ quyền lợi cho một số người thuộc tầng lớp thống trị qua các đại công ty và tập đoàn quốc doanh. Trên thực tế, hầu hết các hoạt động và sự điều hướng kinh tế vẫn theo quy luật thị trường, nghĩa là tư bản hóa.
Thứ hai, về phương diện chính trị, tất cả vẫn cố thủ, trên danh nghĩa, trong cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng ở đây cũng lại có vấn đề. Cái gọi là chính trị Cộng sản chủ nghĩa vốn bao gồm hai khía cạnh: một, về tổ chức, sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản; và hai, về phương diện ý thức hệ, lý thuyết của Marx và Lenin. Ở tất cả bốn quốc gia kể trên, Cộng sản chỉ nằm ở bình diện tổ chức, còn ở bình diện ý thức hệ, hầu như không ai còn tin, thậm chí, không mấy người muốn nhắc đến ý thức hệ Cộng sản nữa. Ngay ở Việt Nam, giới lãnh đạo cũng thừa hiểu chủ nghĩa Marx-Lenin không còn sức thuyết phục và sự quyến rũ nữa. Họ phải thêm vào mấy chữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, cho đến nay, họ cũng không biết cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” ấy thực sự là gì. Lý do là Hồ Chí Minh vốn là người thực hành, không viết về lý thuyết, và thật ra thì cũng chẳng có lý thuyết gì ngoài một mớ giáo điều đơn giản và cũ kỹ ông học được ở Nga và Trung Quốc. Những kẻ đang nắm quyền tại Việt Nam sử dụng cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” như một huyền thoại chứ không như một chủ thuyết.
Theo chủ nghĩa Marx-Lenin, một hình thái chính trị đúng nghĩa phải tương ứng với, thứ nhất, một hình thái kinh tế nhất định; và thứ hai, một ý thức hệ nhất định. Nền chính trị Việt Nam hiện nay, trên danh nghĩa, vẫn là Cộng sản, nhưng kinh tế lại là tư bản hoặc ít nhất, nửa-tư bản hoặc đang trong quá trình tư bản hóa; còn ý thức hệ thì hoàn toàn trống rỗng: Nó phi-Marx và cũng phi-Lenin. Chẳng giống ai và cũng chẳng là cái gì cả. Đó là một thứ tôn giáo vừa không có thần linh vừa không có điển phạm (canon). Tên nó, ở Việt Nam, nhiều người gọi thẳng: mafia.
Bởi vậy, trong trường hợp của Việt Nam hiện nay, nếu chúng ta nói đến chuyện chống Cộng có lẽ ngay cả những người đang mang danh hiệu đảng viên Cộng sản trong nước – hầu hết đều rất giàu có và sống rất trưởng giả - sẽ cười khì, hỏi: “Cộng nào vậy nhỉ?” Lôi tư tưởng Marx, Engels và Lenin ra phê phán, phần lớn họ - những người chẳng bao giờ thực sự đọc Marx, Engels và Lenin – hẳn sẽ trố mắt lên hỏi: “Mấy người đó là ai vậy? Có phải mấy ông râu ria xồm xoàm gì đó không?” Nói đến đấu tranh giai cấp, đến tầng lớp công nhân và nông dân, đến chuyên chính vô sản, đến công bằng xã hội và đến lý tưởng làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, những vấn đề nòng cốt của ý thức hệ Cộng sản, họ - những người đang sống như giới thượng lưu và thường được gọi là “tư bản đỏ” – hẳn sẽ bịt tai lại, như nghe những chuyện cổ tích vừa xa vời vừa nhảm nhí.
Trong trường hợp ấy, chống Cộng là chống ai và chống cái gì?
Đối với riêng tôi, khi phê phán chính quyền trong nước, tôi không nghĩ là tôi chống Cộng. TÔI CHỈ CHỐNG LẠI ĐỘC TÀI.
Chế độ Việt Nam hiện nay đáng bị phê phán không phải vì nó là Cộng sản. Mà vì nó là độc tài. Cộng sản chỉ là nhãn hiệu. Độc tài mới là thực chất. Ngay cả khi chúng ta chống lại điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam, chúng ta cũng chỉ chống lại một sự độc tài. Chính quyền Việt Nam hiện nay đang rục rịch muốn đổi tên nước. Có khi họ đổi cả tên đảng. Nhưng dù đổi đảng Cộng sản thành đảng Dân chủ hay đảng Cộng hoà, cái việc nhân danh Hiến pháp để giành quyền lãnh đạo độc tôn như vậy cũng vẫn là độc tài. Tên gọi có thể thay đổi, thực chất vẫn là một. Vẫn độc tài.
Mọi sự độc tài đều đáng phê phán. Nhưng khi độc tài đi liền với bất tài thì càng đáng bị phê phán hơn. Và nhu cầu phê phán ấy cũng càng khẩn cấp hơn. Sự độc tài chà đạp lên dân chủ và nhân quyền, nhưng trong một số trường hợp nào đó, dưới một sự độc tài sáng suốt, người ta cũng có thể sẵn sàng chấp nhận hy sinh dân chủ và nhân quyền trong một thời gian nào đó để xây dựng và phát triển đất nước (như trường hợp của Singapore). Độc tài mà bất tài thì bao giờ cũng gắn liền với sự ngu dốt và tham nhũng bởi họ sẽ không có, không thể có, bất cứ lý tưởng nào khác ngoài tiền và cũng không có một thứ trí tuệ nào khác nào thứ “trí tuệ” dùng để làm giàu cho bản thân và gia đình. Sự ngu dốt trong chính sách và tham nhũng trong bộ máy chỉ tồn tại được nhờ hai yếu tố: dối trá trong tuyên truyền và tàn bạo trong quản trị. Tập hợp của tất cả các yếu tố ấy, người ta chỉ làm được mỗi một việc duy nhất là tàn phá đất nước và hành hạ dân chúng. Tính chất độc tài, bất tài, tham nhũng, dối trá và tàn bạo ấy càng trở thành nguy hiểm hơn nữa khi đất nước đối diện với nguy cơ xâm lấn chủ quyền và lãnh thổ của Trung Quốc.
Đối diện với các nguy cơ trên, chữ “chống Cộng”, theo tôi, rất dễ làm lệch vấn đề. Nó dễ gợi lên ấn tượng là, khi chống lại chế độ Việt Nam hiện nay, chúng ta nhân danh hai điều vốn bị xem là đối lập với Cộng sản, nhất là Cộng sản Việt Nam: Một, chủ nghĩa tư bản và hai, Việt Nam Cộng Hoà lúc trước. Nhưng chúng ta chống Cộng không phải vì chủ nghĩa tư bản và cũng không phải vì để trả thù hay để phục hồi miền Nam. Việc chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam cần xuất phát từ những lý tưởng hiện đại, cao cả và phổ quát hơn: quyền tự do, dân chủ và quyền làm người. Hơn nữa, nó còn xuất phát từ cả sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tiền đồ của đất nước nữa. Trong chiến tranh có tính dân tộc chủ nghĩa, người ta có thể huy động lịch sử, hay nói như Tố Hữu, trước năm 1975, “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”; trong cuộc chiến chống độc tài, nguồn sức mạnh không phải chỉ nằm ở quá khứ mà còn, nếu không muốn nói chủ yếu còn, nằm ở tương lai.
Chúng ta chống lại chế độ Việt Nam hiện nay không phải vì việc họ chọn lựa hệ thống xã hội chủ nghĩa, việc họ gây ra cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam, việc họ cưỡng chiếm miền Nam, việc họ trả thù những người miền Nam: Tất cả đều đã thuộc quá khứ.
Người ta cần lưu giữ quá khứ, cần thường xuyên đào xới lại quá khứ và cần viết lại quá khứ, một cách chính thức, bằng lịch sử; hoặc một cách không chính thức, bằng ký ức, từ ký ức cá nhân đến ký ức tập thể. Nhưng không ai thay đổi được quá khứ. Càng không cần phải chống lại quá khứ. Những điều ấy khác nhau.
Chúng ta chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam vì nó ĐANG chà đạp lên quần chúng, ĐANG làm cho đất nước bị phá sản trên mọi phương diện, từ kinh tế đến giáo dục, từ ý thức đạo đức đến cả lòng tự hào dân tộc, từ các giá trị truyền thống đến tinh thần hiện đại với những giá trị về dân chủ và nhân quyền vốn đang, cùng với xu hướng toàn cầu hoá, càng ngày càng trở thành phổ quát, ĐANG kiềm hãm sự phát triển của đất nước khiến Việt Nam, một dân tộc vốn rất nhiều năng lực, bị thua kém không những các nước được xem là những con rồng của châu Á mà còn có nguy cơ thua cả một quốc gia vốn bị rất nhiều tai tiếng, như Miến Điện.
Và chúng ta cũng chống lại chế độ ấy vì, với sự nhu nhược của nó, Việt Nam có nguy cơ bị biến thành một tỉnh lẻ của Trung Quốc.
Cuối cùng, có một điểm cần được nói thêm: Ở Tây phương, ngay trong thời Chiến tranh lạnh, nghĩa là lúc chế độ Cộng sản vẫn còn rất mạnh, nhiều chiến lược gia và trí thức, đặc biệt ở châu Âu, đã chuyển khẩu hiệu “chống Cộng” (anti-communism) thành “chống toàn trị” (anti-totalitarianism). Dưới khẩu hiệu chống toàn trị, người ta không những chống lại chế độ Cộng sản mà còn chống lại cả chế độ phát xít, đồng thời người ta cũng khẳng định được lập trường của họ một cách rõ ràng: Việc chống đối ấy, thứ nhất, không nhắm vào một lý thuyết mà nhắm vào một chế độ với những guồng máy và chính sách cụ thể; và thứ hai, không nhằm bảo vệ hay bênh vực cho chủ nghĩa tư bản mà là để bảo vệ dân chủ và nhân quyền, những lý tưởng vừa có tính phổ quát vừa dễ được mọi người đồng thuận.
Cả tính phổ quát và sự đồng thuận ấy tạo nên sức mạnh cho cuộc tranh đấu, cuối cùng, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa như một hệ thống độc tài đáng kinh tởm (9).
***
Chú thích:
(Blog Thùy Linh)
Viết thế, tôi biết nhiều bạn đọc sẽ ngạc nhiên. Tuy nhiên, trước khi đánh giá (hay chụp mũ), xin đọc tiếp phần giải thích phía dưới.
Tôi nói tôi không chống Cộng vì hai lý do chính:
Thứ nhất, tôi không thích chữ “chống”. “Chống”, trong tiếng Việt, khác với các từ hoặc từ tố được xem là tương đương trong tiếng Anh như “fight”, “against”, “counter-” hay “anti-”, thường gợi lên hai ấn tượng chính: một, gắn liền với tổ chức, và hai, có tính chất bạo động. Tôi không thích cả hai. Với bạo động, tôi tuyệt đối không thích. Với tổ chức, tôi trân trọng và nghĩ nó cần thiết, hơn nữa, một nhu cầu tất yếu trong đời sống xã hội, nhưng tôi lại không thích nằm trong bất cứ một tổ chức nào; thậm chí, tôi cũng chưa từng đi biểu tình hay ký tên vào bất cứ một kiến nghị chung nào (1), dù, trên nguyên tắc, có thể tôi đồng tình và ủng hộ những việc làm ấy. Tôi không làm những việc ấy chỉ vì một lý do đơn giản: Tôi không thích ở trong “đội ngũ”, dù lâu dài hay tạm thời, chính thức hay không chính thức. Vậy thôi. Khác với Chế Lan Viên, tác giả của câu thơ “Khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”, tôi chỉ thích đứng một mình. Khi phê phán bất cứ điều gì, tôi chỉ đứng từ góc độ một người trí thức; mà trí thức, tự bản chất, nói theo Edward W. Said, là kẻ lưu vong, nghĩa là, nói cách khác, một mình. Viết, tôi chỉ nhân danh chính mình và những gì mình tin là đúng. “Lực lượng” của tôi chỉ có sách vở và kinh nghiệm, kiến thức và lý trí, lương tâm và lương thức. Còn phương tiện, trước, với cây bút; sau, với bàn phím: Ở cả hai nơi, tôi chỉ có chữ. Hết.
Thứ hai, quan trọng hơn, ở thời điểm bây giờ, theo tôi, nói chống Cộng là nói chống cái không có, hay đúng hơn, cái không còn hiện hữu nữa.
Lý do thứ hai này cần được giải thích nhiều hơn:
Cái gọi là “chống Cộng” bao gồm hai nội dung chính: một, chống lại chủ thuyết Cộng sản (chủ yếu là chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lenin); và hai, chống lại chế độ Cộng sản. Với cả hai nội dung ấy, trước năm 1975, nói chống Cộng: Được; trước năm 1990, nói chống Cộng: Được. Nhưng sau năm 1991, nói chống Cộng là nói một điều thừa thãi, thậm chí, vô duyên. Và có hại.
Trong việc chống Cộng, trước năm 1991, hai khía cạnh chống chủ thuyết (hoặc ý thức hệ) và chống chế độ (hoặc một guồng máy) là một. Chế độ, vốn cụ thể, gắn liền với hệ thống chính trị, tức là hệ thống quyền lực, là mục tiêu chống đối trước mắt. Nhưng sức mạnh của chế độ Cộng sản không phải chỉ ở đảng viên, cán bộ, quân đội, công an, súng đạn và các nhà tù. Sức mạnh của chế độ Cộng sản còn ở các lý tưởng tự do, bình đẳng cũng như cái thiên đường Cộng sản chủ nghĩa vốn có sức mê hoặc to lớn đối với mọi người, đặc biệt với giới trí thức vốn khao khát những điều cao cả, có tầm nhân loại. Hơn nữa, nó còn nằm ở các ảo tưởng về tính khoa học của chủ nghĩa Cộng sản hay ở cái gọi là tính tất yếu trong quy luật phát triển của lịch sử. Bởi vậy, người ta không thể chống lại chế độ Cộng sản chỉ bằng các phương tiện vật chất. Người ta phải chống lại chế độ Cộng sản ngay cả trong phạm trù tư tưởng, trong lãnh vực nhận thức, nghĩa là bằng các phương tiện tuyên truyền và giáo dục, nhắm thẳng vào những tên tuổi như Marx, Engels, Lenin và Stalin, những người đã chết; hơn nữa, bằng một bảng giá trị khác, cao hơn, hiện hữu ngay trong đời sống xã hội để mọi người có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được, nghĩa là bằng một nỗ lực không ngừng tự do hoá, dân chủ hoá và nhân quyền hoá, như những điều chủ nghĩa tư bản, ở các quốc gia phát triển nhất, từng làm trong suốt thế kỷ 20.
Tuy nhiên, kể từ năm 1991, với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Cộng sản, với tư cách một chế độ, hoàn toàn sụp đổ; và cùng với nó, chủ nghĩa Cộng sản, với tư cách một ý thức hệ chính trị, cũng bị phá sản theo. Trật tự này, thật ra, theo một số học giả, cũng có thể đảo ngược hẳn lại: Vì sự phá sản của ý thức hệ Cộng sản, chế độ Cộng sản, với tư cách một bộ máy chính quyền, đã sụp đổ. Nhưng dù mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi, thực chất của vấn đề vẫn là một: phá sản và sụp đổ.
Về phương diện lý thuyết, hầu như ai cũng thấy chủ nghĩa Cộng sản sai. Những người thiên tả, ít nhiều lưu luyến với chủ nghĩa Cộng sản, cố vớt vát khi cho cái sai ấy không xuất phát từ Karl Marx mà từ Lenin, đặc biệt từ Stalin và Mao Trạch Đông; nghĩa là, nó không sai hẳn, nhưng một, nó không được cập nhật để theo kịp những thay đổi và tiến bộ của chủ nghĩa tư bản; và hai, nó chỉ sai trong cách ứng dụng và vận dụng lý thuyết Marx vào thực tế. Tuy nhiên, nói theo Richard Pipes, trong cuốn Communism, a History (2), chủ nghĩa Cộng sản, ngay trong tư tưởng của Karl Marx, không phải là một ý tưởng hay nhưng bị thực hiện sai mà, tự bản chất, nó là một ý tưởng dở; hay nói theo Kolakowski, do Pipes trích dẫn, chủ nghĩa Marx – nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa Cộng sản – là một huyễn tưởng lớn nhất của thế kỷ 20 (3).
Trong vô số những cái sai của chủ nghĩa Marx-Lenin, cái sai này là đáng kể nhất: Họ cho chế độ tư hữu là cội rễ của bất bình đẳng và tin là họ có thể xóa bỏ chế độ tư hữu ấy để xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, không ai bóc lột ai và cũng không ai thống trị ai. Trên thực tế, khi công hữu hóa mọi tài sản và mọi phương tiện sản xuất, thứ nhất, họ triệt tiêu hầu như mọi động cơ lao động và sản xuất của người dân; thứ hai, họ tạo nên một giai cấp đặc quyền và đặc lợi để nắm toàn bộ việc lãnh đạo và quản lý các tài sản và công cụ sản xuất đã được công hữu hóa ấy. Những người ấy, một mặt, kém khả năng quản lý nên dẫn đến hết thất bại này sang thất bại khác; mặt khác, quan trọng hơn, trở thành một thành phần thống trị vừa ngu dốt vừa độc đoán, vừa tham nhũng vừa tàn bạo. Tất cả các yếu tố ấy không những dẫn đến những sự thất bại nặng nề về phương diện kinh tế mà còn phá hủy toàn bộ nền tảng lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản vốn nhắm đến tự do, bình đẳng và hạnh phúc.
Một cái sai khác của chủ nghĩa Marx-Lenin là họ đơn giản hóa lịch sử nhân loại vào lịch sử đấu tranh giai cấp. Sự phát triển của lịch sử, thật ra, còn tùy thuộc, thậm chí, tùy thuộc chủ yếu vào sự hợp tác của con người trong việc khám phá các quy luật của tự nhiên, từ đó, đẩy mạnh các khám phá về kỹ thuật để nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người. Chủ nghĩa tư bản, trong thế kỷ 20, đã chứng minh điều đó: Giới chủ nhân biết san sẻ trách nhiệm và quyền lợi với giới công nhân, nhờ đó, so với thế kỷ 19, công nhân càng ngày càng được hưởng lương cao và càng ngày càng được hưởng chế độ lao động hợp lý hơn. Hơn nữa, chính quyền cũng can thiệp để bảo vệ quyền lợi của công nhân và, qua chính sách thuế khóa, bảo đảm sự công bằng trong xã hội. Nhiều quốc gia mang tiếng là tư bản nhưng về các chính sách lao động và an sinh xã hội lại không khác gì với cái lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Marx mơ ước. Chưa hết. Yếu tố then chốt trong sản xuất không phải chỉ là công cụ sản xuất mà còn có cả tri thức. Mà tri thức thì không ai độc quyền được.
Một người tị nạn, như người Việt Nam sau năm 1975, chẳng hạn, khi sang nước ngoài, với hai bàn tay trắng, không thể sở hữu các công cụ sản xuất để làm chủ nhân bất cứ thứ gì được. Nhưng bù lại, chỉ cần chịu khó học hành, sau một thời gian nhất định, người đó có thể sở hữu một vốn tri thức khá cao đủ để bước vào thế giới trung lưu, thậm chí trung lưu cao, dễ dàng. Chính trong lãnh vực tri thức, vốn gắn liền với giáo dục, xã hội tư bản đã tạo nên sự bình đẳng thực sự và tối đa: Nếu mọi người không được và không thể bình đẳng khi ra đời (vốn gắn liền với gia đình, thành phần xã hội, chủng tộc và những đặc điểm về trí tuệ riêng – những điều không ai có thể lựa chọn được), họ lại được bình đẳng trong cơ hội để phát triển và tiến bộ. Ai cũng được quyền đi học; bất cứ ai có trí và có nghị lực cũng đều đi học được, và từ đó, có thể thay đổi cuộc đời mình được. Với những đặc điểm ấy, chủ nghĩa tư bản không những thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội một cách hiệu quả mà còn tạo nên sự bình đẳng và dân chủ, tuy không hẳn đã hoàn hảo, nhưng cũng hơn hẳn chế độ xã hội chủ nghĩa đủ để mọi người, kể cả những người đang sống dưới chế độ Cộng sản, cũng nhận thấy không phải kẻ thù mà chính mình mới là những kẻ đang đứng trước vực thẳm. Sự so sánh ấy cũng làm cho người ta nhận thấy những hứa hẹn về một thiên đường Cộng sản chủ nghĩa “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, chỉ là một ảo tưởng, hơn nữa, một không tưởng. Cái không tưởng ấy lại bị trả giá bằng máu. Không phải máu của một hai người. Mà là của cả một tập thể, có khi cực kỳ đông đảo. Cả hàng triệu hay chục triệu người.
Về phương diện thực tiễn, với tư cách một chế độ, chủ nghĩa Cộng sản có năm đặc điểm chính trên bình diện tổ chức. Một, đảng Cộng sản nắm độc quyền lãnh đạo; hai, đảng ấy được tổ chức một cách chặt chẽ với một thứ kỷ luật thép từ trên xuống dưới; ba, kinh tế hoàn toàn tập trung, mọi quyết định, kể cả về giá cả thị trường, đều do cấp trên quyết định; bốn, mọi phương tiện sản xuất đều nằm trong tay nhà nước; và năm, mỗi quốc gia đều liên kết và, với những mức độ khác nhau, lệ thuộc vào cái gọi là phong trào Cộng sản quốc tế nói chung. Với cách tổ chức như thế, chế độ Cộng sản vấp phải vô số sai lầm. Và những sai lầm ấy rất dễ thấy.
Thứ nhất, các chế độ Cộng sản không những không công bằng hơn các chế độ tư bản, mà thậm chí, còn tệ hại hơn cả các chế độ phong kiến ngày xưa. Xưa, chỉ có vua, nay có cả nguyên một đảng đứng trên pháp luật. Xưa, chỉ có vua là được hưởng mọi đặc quyền và đặc lợi; nay, có cả hàng triệu người nhân danh đảng thi nhau vơ vét lợi và thao túng quyền.
Thứ hai, ngoài chuyện bất bình đẳng, chế độ Cộng sản, qua hơn 70 năm tồn tại, đã chứng tỏ sự tàn bạo vô tiền khoáng hậu. Những nhà lãnh đạo Cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Fidel Castro… không phải giống vua mà là giống các bạo chúa. Vua, còn đỡ. Trong đám vua còn có các minh quân. Trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng sản, được xây dựng quyền lực trên nguyên tắc “chuyên chính”, ngay cả những người có tiềm năng là minh quân cũng trở thành bạo chúa. Hậu quả là chế độ Cộng sản trở thành một chế độ đứng đầu trong danh sách giết người trong suốt cả thế kỷ 20. Họ giết người còn nhiều hơn cả chế độ phát xít và Nazi. Bàn tay của Stalin và Mao Trạch Đông còn nhuộm nhiều máu hơn cả bàn tay của Hitler. Trong cuốn The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression do Stéphane Courtois và nhiều người khác biên tập (4), các tác giả ước tính tổng số nạn nhân bị giết chết dưới các chế độ Cộng sản trên thế giới kể từ năm 1917 đến năm 1991 là khoảng 100 triệu người, bao gồm khoảng 20 triệu ở Nga, 65 triệu ở Trung Quốc, hai triệu ở Campuchia, hai triệu ở Bắc Triều Tiên, một triệu ở Đông Âu, v.v..
Thứ ba, chế độ Cộng sản hoàn toàn thất bại về phương diện lãnh đạo và quản lý kinh tế đất nước. Không có nước Cộng sản nào giàu có và dân chúng được no ấm. Từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, kinh tế của các nước Cộng sản bị lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đến thập niên 1980, chỉ số phát triển của nó hầu như chỉ là một con số không to tướng. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa thời ấy, rất nhiều cửa tiệm trống rỗng không có hàng hóa để bán (5). Dân chúng ngất ngư vì đói khát. Nhưng dễ thấy nhất là khi chúng ta nhìn vào các quốc gia bị chia đôi, trong đó, một nửa theo chế độ Cộng sản và một nửa theo chế độ tư bản. Như Đông Đức và Tây Đức. Hay như Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên. Cái nửa theo chế độ Cộng sản bao giờ cũng có chỉ số phát triển thấp hơn hẳn cái nửa theo chế độ tư bản. Thấp một cách toàn diện. Riêng ở Triều Tiên, thu nhập tính trên đầu người ở miền Nam (32.400 đô la/người/năm) gấp 18 lần ở miền Bắc (1.800 đô la). Cùng một dân tộc. Cùng một lịch sử. Chỉ khác ở chế độ. Mà hai nơi khác nhau đến vậy.
Cuối cùng, nói theo Stéphane Courtois (6), Cộng sản phạm vô số tội ác không phải đối với con người với tư cách cá nhân mà còn đối với cả văn minh nhân loại và văn hóa quốc gia. Ở đâu, các chế độ Cộng sản cũng phá tan tành rất nhiều di tích và di sản lịch sử cũng như các nhà thờ, chùa chiền và các nơi thờ tự. Họ trấn áp các tôn giáo, xóa bỏ nhiều truyền thống tốt đẹp với lý do, theo họ, đó là những tàn tích của chế độ phong kiến.
Với những thất bại hiển nhiên về cả phương diện lý thuyết lẫn thực hành như vậy, chủ nghĩa Cộng sản đã hoàn toàn bị sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, thoạt đầu, vào năm 1989, với việc đảng Cộng sản Hungary chấp nhận một hệ thống chính trị đa đảng vào tháng 2; việc Công đoàn Đoàn kết thắng phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội Ba Lan vào tháng 6, sau đó, lên nắm chính quyền vào tháng 9; việc Bức tường Berlin bị sụp đổ vào tháng 11 (sau đó nước Đức được thống nhất vào tháng 10/ 1990); kết thúc bằng việc Mikhail Gorbachev tuyên bố từ bỏ chế độ độc đảng vào ngày 7/2/1990; và sau đó, sự tan rã của Liên bang Xô Viết vào tháng 12/1991 (trước, trong và sau sự tan ra ấy, có 16 quốc gia – vốn bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết - tuyên bố độc lập, bao gồm: Lithuania, Estonia, Latvia, Georgia, Ukraine, Belarus, Moldova, Azerbaijan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan, Armenia, Turkmenistan, và Kazakhstan).
Nếu sự ra đời của chủ nghĩa Cộng sản là biến cố lớn nhất trong nửa đầu thế kỷ 20, sự tan rã của nó ở Nga và Đông Âu là một biến cố trọng đại nhất trong sau thế kỷ 20. Cả hai đều là cách mạng. Cuộc cách mạng đầu nổ ra và, sau đó, tồn tại bằng máu và nước mắt; cuộc cách mạng sau, ngược lại, diễn ra với ba đặc điểm chính: nhanh chóng, nhẹ nhàng và bất bạo động. Có vẻ như giới lãnh đạo Cộng sản (trừ ở Romania) tự ý từ bỏ quyền lực và chế độ Cộng sản tự tan rã. Không có sự kháng cự nào đáng kể cả.
Trước thập niên 1990, trên thế giới có tổng Cộng 23 quốc gia theo chế độ Cộng sản. Trong thời điểm giao thừa giữa hai thập niên 1980 và 1990, có 18 quốc gia từ bỏ Cộng sản: Afghanistan, Albania, Angola, Benin, Bulgaria, Campuchia, Congo, Czechoslovakia, Đông Đức, Ethiopia, Hungary, Mông Cổ, Mozambique, Ba Lan, Romania, Nga, Nam Yemen và Yugoslavia. Người ta gọi những nước này (trừ Đông Đức vốn không còn là một “nước” riêng sau khi thống nhất) là “hậu Cộng sản” (postcommunism), một thuật ngữ do Zbigniew Brzezinski đưa ra vào năm 1989 (7). Do một số quốc gia, sau năm 1991, bị chia cắt (chủ yếu là do vấn đề chủng tộc), hiện nay có 28 quốc gia được xem là hậu Cộng sản (8).
“Hậu Cộng sản” nghĩa là không còn Cộng sản nữa.
Có thể nói, trên bình diện thế giới, cái gọi là “Cộng sản” đã thuộc về quá khứ. Khi “Cộng sản” thuộc về quá khứ, chuyện chống Cộng cũng không còn lý do hiện hữu nữa.
Thật ra, trên thế giới cũng còn ít nhất năm quốc gia, trên danh nghĩa, chưa từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Bắc Triều Tiên và Cuba. Tuy nhiên, trong năm quốc gia ấy, chỉ có Bắc Triều Tiên là thực sự Cộng sản, Cộng sản theo kiểu Stalin trong thập niên 1930 và 1940. Ở tất cả bốn nước còn lại, kể cả Việt Nam, chủ nghĩa Cộng sản đang dần dần biến chất và biến thể. Nó không giống chủ nghĩa Cộng sản của Stalin và Mao Trạch Đông. Nó cũng không giống chủ nghĩa Cộng sản của Lenin. Và nó cũng không giống chút nào với cái chủ nghĩa Cộng sản mà Mark và Engels quan niệm.
Thứ nhất, về phương diện kinh tế, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều chấp nhận kinh tế thị trường vốn là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Dĩ nhiên, cái gọi là “kinh tế thị trường” ở đây vẫn còn bị giới hạn bởi cái đuôi phía sau “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhưng cái đuôi ấy chỉ là một cố gắng níu kéo nắm giữ quyền lợi cho một số người thuộc tầng lớp thống trị qua các đại công ty và tập đoàn quốc doanh. Trên thực tế, hầu hết các hoạt động và sự điều hướng kinh tế vẫn theo quy luật thị trường, nghĩa là tư bản hóa.
Thứ hai, về phương diện chính trị, tất cả vẫn cố thủ, trên danh nghĩa, trong cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng ở đây cũng lại có vấn đề. Cái gọi là chính trị Cộng sản chủ nghĩa vốn bao gồm hai khía cạnh: một, về tổ chức, sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản; và hai, về phương diện ý thức hệ, lý thuyết của Marx và Lenin. Ở tất cả bốn quốc gia kể trên, Cộng sản chỉ nằm ở bình diện tổ chức, còn ở bình diện ý thức hệ, hầu như không ai còn tin, thậm chí, không mấy người muốn nhắc đến ý thức hệ Cộng sản nữa. Ngay ở Việt Nam, giới lãnh đạo cũng thừa hiểu chủ nghĩa Marx-Lenin không còn sức thuyết phục và sự quyến rũ nữa. Họ phải thêm vào mấy chữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, cho đến nay, họ cũng không biết cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” ấy thực sự là gì. Lý do là Hồ Chí Minh vốn là người thực hành, không viết về lý thuyết, và thật ra thì cũng chẳng có lý thuyết gì ngoài một mớ giáo điều đơn giản và cũ kỹ ông học được ở Nga và Trung Quốc. Những kẻ đang nắm quyền tại Việt Nam sử dụng cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” như một huyền thoại chứ không như một chủ thuyết.
Theo chủ nghĩa Marx-Lenin, một hình thái chính trị đúng nghĩa phải tương ứng với, thứ nhất, một hình thái kinh tế nhất định; và thứ hai, một ý thức hệ nhất định. Nền chính trị Việt Nam hiện nay, trên danh nghĩa, vẫn là Cộng sản, nhưng kinh tế lại là tư bản hoặc ít nhất, nửa-tư bản hoặc đang trong quá trình tư bản hóa; còn ý thức hệ thì hoàn toàn trống rỗng: Nó phi-Marx và cũng phi-Lenin. Chẳng giống ai và cũng chẳng là cái gì cả. Đó là một thứ tôn giáo vừa không có thần linh vừa không có điển phạm (canon). Tên nó, ở Việt Nam, nhiều người gọi thẳng: mafia.
Bởi vậy, trong trường hợp của Việt Nam hiện nay, nếu chúng ta nói đến chuyện chống Cộng có lẽ ngay cả những người đang mang danh hiệu đảng viên Cộng sản trong nước – hầu hết đều rất giàu có và sống rất trưởng giả - sẽ cười khì, hỏi: “Cộng nào vậy nhỉ?” Lôi tư tưởng Marx, Engels và Lenin ra phê phán, phần lớn họ - những người chẳng bao giờ thực sự đọc Marx, Engels và Lenin – hẳn sẽ trố mắt lên hỏi: “Mấy người đó là ai vậy? Có phải mấy ông râu ria xồm xoàm gì đó không?” Nói đến đấu tranh giai cấp, đến tầng lớp công nhân và nông dân, đến chuyên chính vô sản, đến công bằng xã hội và đến lý tưởng làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, những vấn đề nòng cốt của ý thức hệ Cộng sản, họ - những người đang sống như giới thượng lưu và thường được gọi là “tư bản đỏ” – hẳn sẽ bịt tai lại, như nghe những chuyện cổ tích vừa xa vời vừa nhảm nhí.
Trong trường hợp ấy, chống Cộng là chống ai và chống cái gì?
Đối với riêng tôi, khi phê phán chính quyền trong nước, tôi không nghĩ là tôi chống Cộng. TÔI CHỈ CHỐNG LẠI ĐỘC TÀI.
Chế độ Việt Nam hiện nay đáng bị phê phán không phải vì nó là Cộng sản. Mà vì nó là độc tài. Cộng sản chỉ là nhãn hiệu. Độc tài mới là thực chất. Ngay cả khi chúng ta chống lại điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam, chúng ta cũng chỉ chống lại một sự độc tài. Chính quyền Việt Nam hiện nay đang rục rịch muốn đổi tên nước. Có khi họ đổi cả tên đảng. Nhưng dù đổi đảng Cộng sản thành đảng Dân chủ hay đảng Cộng hoà, cái việc nhân danh Hiến pháp để giành quyền lãnh đạo độc tôn như vậy cũng vẫn là độc tài. Tên gọi có thể thay đổi, thực chất vẫn là một. Vẫn độc tài.
Mọi sự độc tài đều đáng phê phán. Nhưng khi độc tài đi liền với bất tài thì càng đáng bị phê phán hơn. Và nhu cầu phê phán ấy cũng càng khẩn cấp hơn. Sự độc tài chà đạp lên dân chủ và nhân quyền, nhưng trong một số trường hợp nào đó, dưới một sự độc tài sáng suốt, người ta cũng có thể sẵn sàng chấp nhận hy sinh dân chủ và nhân quyền trong một thời gian nào đó để xây dựng và phát triển đất nước (như trường hợp của Singapore). Độc tài mà bất tài thì bao giờ cũng gắn liền với sự ngu dốt và tham nhũng bởi họ sẽ không có, không thể có, bất cứ lý tưởng nào khác ngoài tiền và cũng không có một thứ trí tuệ nào khác nào thứ “trí tuệ” dùng để làm giàu cho bản thân và gia đình. Sự ngu dốt trong chính sách và tham nhũng trong bộ máy chỉ tồn tại được nhờ hai yếu tố: dối trá trong tuyên truyền và tàn bạo trong quản trị. Tập hợp của tất cả các yếu tố ấy, người ta chỉ làm được mỗi một việc duy nhất là tàn phá đất nước và hành hạ dân chúng. Tính chất độc tài, bất tài, tham nhũng, dối trá và tàn bạo ấy càng trở thành nguy hiểm hơn nữa khi đất nước đối diện với nguy cơ xâm lấn chủ quyền và lãnh thổ của Trung Quốc.
Đối diện với các nguy cơ trên, chữ “chống Cộng”, theo tôi, rất dễ làm lệch vấn đề. Nó dễ gợi lên ấn tượng là, khi chống lại chế độ Việt Nam hiện nay, chúng ta nhân danh hai điều vốn bị xem là đối lập với Cộng sản, nhất là Cộng sản Việt Nam: Một, chủ nghĩa tư bản và hai, Việt Nam Cộng Hoà lúc trước. Nhưng chúng ta chống Cộng không phải vì chủ nghĩa tư bản và cũng không phải vì để trả thù hay để phục hồi miền Nam. Việc chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam cần xuất phát từ những lý tưởng hiện đại, cao cả và phổ quát hơn: quyền tự do, dân chủ và quyền làm người. Hơn nữa, nó còn xuất phát từ cả sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tiền đồ của đất nước nữa. Trong chiến tranh có tính dân tộc chủ nghĩa, người ta có thể huy động lịch sử, hay nói như Tố Hữu, trước năm 1975, “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”; trong cuộc chiến chống độc tài, nguồn sức mạnh không phải chỉ nằm ở quá khứ mà còn, nếu không muốn nói chủ yếu còn, nằm ở tương lai.
Chúng ta chống lại chế độ Việt Nam hiện nay không phải vì việc họ chọn lựa hệ thống xã hội chủ nghĩa, việc họ gây ra cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam, việc họ cưỡng chiếm miền Nam, việc họ trả thù những người miền Nam: Tất cả đều đã thuộc quá khứ.
Người ta cần lưu giữ quá khứ, cần thường xuyên đào xới lại quá khứ và cần viết lại quá khứ, một cách chính thức, bằng lịch sử; hoặc một cách không chính thức, bằng ký ức, từ ký ức cá nhân đến ký ức tập thể. Nhưng không ai thay đổi được quá khứ. Càng không cần phải chống lại quá khứ. Những điều ấy khác nhau.
Chúng ta chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam vì nó ĐANG chà đạp lên quần chúng, ĐANG làm cho đất nước bị phá sản trên mọi phương diện, từ kinh tế đến giáo dục, từ ý thức đạo đức đến cả lòng tự hào dân tộc, từ các giá trị truyền thống đến tinh thần hiện đại với những giá trị về dân chủ và nhân quyền vốn đang, cùng với xu hướng toàn cầu hoá, càng ngày càng trở thành phổ quát, ĐANG kiềm hãm sự phát triển của đất nước khiến Việt Nam, một dân tộc vốn rất nhiều năng lực, bị thua kém không những các nước được xem là những con rồng của châu Á mà còn có nguy cơ thua cả một quốc gia vốn bị rất nhiều tai tiếng, như Miến Điện.
Và chúng ta cũng chống lại chế độ ấy vì, với sự nhu nhược của nó, Việt Nam có nguy cơ bị biến thành một tỉnh lẻ của Trung Quốc.
Cuối cùng, có một điểm cần được nói thêm: Ở Tây phương, ngay trong thời Chiến tranh lạnh, nghĩa là lúc chế độ Cộng sản vẫn còn rất mạnh, nhiều chiến lược gia và trí thức, đặc biệt ở châu Âu, đã chuyển khẩu hiệu “chống Cộng” (anti-communism) thành “chống toàn trị” (anti-totalitarianism). Dưới khẩu hiệu chống toàn trị, người ta không những chống lại chế độ Cộng sản mà còn chống lại cả chế độ phát xít, đồng thời người ta cũng khẳng định được lập trường của họ một cách rõ ràng: Việc chống đối ấy, thứ nhất, không nhắm vào một lý thuyết mà nhắm vào một chế độ với những guồng máy và chính sách cụ thể; và thứ hai, không nhằm bảo vệ hay bênh vực cho chủ nghĩa tư bản mà là để bảo vệ dân chủ và nhân quyền, những lý tưởng vừa có tính phổ quát vừa dễ được mọi người đồng thuận.
Cả tính phổ quát và sự đồng thuận ấy tạo nên sức mạnh cho cuộc tranh đấu, cuối cùng, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa như một hệ thống độc tài đáng kinh tởm (9).
***
Chú thích:
- Trên một số bản kiến nghị lưu hành trên internet, tôi thấy có tên “Nguyễn Hưng Quốc” ở Úc. Đó không phải là tôi. Có thể chỉ là trùng tên hoặc là một sự giả mạo. Bản thân tôi thì chưa từng ký vào bất cứ một kiến nghị nào cả.
- Richard Pipes (2003), Communism, a History, New York: Random House, tr. 147.
- Như trên.
- Do Jonathan Murphy và Mark Kramer dịch sang tiếng Anh, Harvard University Press, 1999.
- Xem Stathis N. Kalyvas (1999), “The decay and breakdown of communist one-party systems”, Annu, 1999, tr. 329.
- Stéphane Courtois và nhiều người khác (biên tập) (1999), The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression, Cambridge: Havcard University Press, tr. 7.
- Leslie Holmes (1997), Post-Communism, an Introduction, Cambridge: Polity Press, tr. 13.
- Ghia Nodia (2000), “Chasing the meaning of ‘post-communsm’: a transitional phenomenon or something to stay?”, Contemporary European History, 9 (2000), tr. 278.
- Xem bài “From anti-communism to anti-totalitarianism: the radical potential of democray” của Dick Howard trên Government and Opposition số 37, 2002, tr. 551-572.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Kế hoạch vết dầu loang trên biển Đông
Trung Quốc lại ngang nhiên xua hơn 30 tàu đánh cá vào vùng biển Trường
Sa của Việt Nam nhưng vẫn lên tiếng cho rằng sẽ tuân thủ những gì mà họ
đàm phán trong bộ ứng xử Biển Đông gọi tắt COC. Cách nói và làm trái
ngược nhau đó cho Việt Nam thấy những gì?
32 chiếc tàu cá Trung Quốc kéo ra khu vực quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam đánh bắt trái phép |
Chiến lược “lấy thịt đè người” của Trung Quốc
Tháng ba vừa qua, Trung Quốc ngang nhiên mang tàu Ngư Chính không những
ngăn cản, dọa dẫm ngư dân Việt Nam trong vùng biển Hoàng Sa mà còn công
khai bắn cháy thuyền cá của anh Phạm Quang Thạnh như một cảnh báo cho
ngư dân biết rằng họ không thể chống lại sức mạnh của Trung Quốc nếu còn
tiếp tục đánh bắt cá trên ngư trường truyền thống của Việt Nam.
Trong khi Việt Nam chưa có động thái gì đủ mạnh để phản đối hành vi
ngang ngược này thì Trung Quốc tiếp tục lấn thêm những bước nguy hiểm
thọc sâu vào vùng biển thuộc chủ quyền kinh tế của Việt Nam trên khu vực
Trường Sa. Sáng ngày 6 tháng 5 tờ Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc đưa
tin với hình ảnh cho thấy một đội tàu gồm 22 chiếc tàu đánh cá loại lớn
trên 400 tấn đã khởi động tiến về Trường Sa để đánh bắt cá. Một viên
chức cao cấp của Sở Ngư Nghiệp và Hải Dương tỉnh Hải Nam cho biết đội
tàu này đang triển khai kế hoạch khai thác nguồn tài nguyên biển một
cách có hệ thống và đoàn tàu này sẽ hoạt động tại Trường Sa trong vòng
40 ngày.
Trung Quốc đang diễn trò lấy thịt đè người, bất kể công pháp quốc tế
và nhất là luật biển năm 1982. Là một nước lớn nhưng thừa cương quyết
và sẵn sàng hành xử với các nước trong khu vực bằng vũ lực.
Trước đó đã có 10 chiếc tàu cá khác đã tiến vào khu vực Trường Sa nâng
tổng số những con tàu đánh cá bất hợp pháp tại đây lên đến 32 chiếc.
Đội tàu này một khi vào ngư trường của Việt Nam thì đương nhiên chính
ngư dân Việt sẽ là thành phần chịu thiệt thòi đầu tiên. Nồi cơm người
ngư dân vốn đã héo hắt nay lại càng co cụm vì sức mạnh của những chiếc
tàu cá phương Bắc. Anh Phạm Quang Thạnh, chủ chiếc tàu bị Trung Quốc bắn
cháy cho biết tâm trạng của người ngư dân Lý Sơn:
Dạ đó là ngư trường truyền thống thì nói chung dù sao cũng phải đi
thôi. Dù Trung Quốc có làm thế nào thì ngư dân chúng em cũng phải đi
thôi vì đây là ngư trường truyền thống không thể bỏ được.
Bên cạnh nồi cơm hàng ngày có lẽ tiếng gọi chủ quyền đất nước cũng là
điều thúc đẩy ngư dân cố bám vùng biển của đất nước mặc dù trong tư thế
tuyệt vọng. Cho tới khi nào chính quyền có đối sách rõ ràng và sự đồng
thuận của toàn dân thì may ra họ không còn cô đơn trước mặt biển nữa.
Bão tố giờ đây không còn quan trọng mỗi khi họ ra biển vì dù sao máy móc
và kinh nghiệm nghề nghiệp có thể giúp cho họ tránh bão. Nhưng không ai
có thể biết trước tai họa ập xuống từ Trung Quốc khi chiếc tàu nào của
họ cũng lớn cũng trang bị đủ kiểu và sẵn sàng đánh chìm những con tàu
tội nghiệp của ngư dân Việt Nam.
Trung Quốc đang diễn trò lấy thịt đè người, bất kể công pháp quốc tế và
nhất là luật biển năm 1982. Là một nước lớn nhưng thừa cương quyết và
sẵn sàng hành xử với các nước trong khu vực bằng vũ lực. Sự thèm khát
dầu để phát triển đang làm cho Bắc Kinh nhắm mắt đạp lên những quy tắc
mà thế giới không nước nào vượt qua khi họ cố tình chèn ép láng giềng
bằng sức mạnh để chiếm cho bằng được tài nguyên của lân bang.
Bảo vệ ngư dân bằng mồm
Việt Nam không có chọn lựa nào khác kể cả nhẫn nhịn để vượt qua những
động thái gây hấn mà hơn một thập kỷ qua Trung Quốc luôn áp dụng. Tàu cá
xuất hiện đầy trên biển, tàu ngư chính tuần tra và buộc tàu Việt Nam
quay vào bờ, cộng với những hành vi ngang nhiên trấn áp đi kèm với xảo
thuật ngoại giao cố hữu là lập đi lập lại những diễn giải cho quốc tế
thấy Bắc Kinh đang hành xử rất hòa bình và không hề xâm phạm chủ quyền
của ai khác.
Trong khi đó bằng những nỗ lực tuyệt vọng, chính phủ Việt Nam gián tiếp
giao trách nhiệm cho tổ chức mang tên Khuyến Ngư đứng ra lập kế hoạch
bảo vệ ngư dân bằng những phương pháp thủ công, yếu kém mọi phương tiện
và chủ động bảo vệ sự an toàn của mình là chính. Phó GSTS Võ Văn Trác,
Nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy sản, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nghề Cá Việt
Nam cho biết:
Hiện nay thì bọn tôi đang theo dõi tình hình trên biển và cũng có nghe
32 chiếc tàu của Trung Quốc thì nó cũng xông vào lấn áp không phải chỉ
Hoàng Sa mà cả Trường Sa của mình nữa. Sáng hôm nay chúng tôi đang cố để
tìm hiều thêm việc này sau khi có thông tin chính xác thì hội cũng có
tiếng nói kịp thời trên cơ sở phải nắm thông tin nào đó, đúng là có
những cái tin như vậy bởi vì nó xâm phạm không phải Hoàng Sa không đâu
mà lấn sang Trường Sa nữa. Như vậy chuyện này không thể chậm trễ nữa mà
phải kịch liệt phản đối điều này.
Chúng tôi luôn luôn tuyên truyền tập huấn cho ngư dân nắm được tình hình
nhất là luật lệ trong nước và nước ngoài trên biển để cho ngư dân hiều
biết để có phản ứng kịp thời thì đó là việc đầu tiên. Trước sau như một
là chúng tôi sẽ tổ chức đội hình đi đánh bắt và bây giờ có trung tâm
khuyến ngư các lực lượng trên biển tổ chức thành đội hình. Ngay ngư dân
mà nhất là ở Quảng Ngãi, Quảng Nam thì người ta tổ chức đội hình đánh
bắt có tàu giúp đỡ hỗ trợ cho nhau thì đó là việc làm thứ hai, còn việc
làm thứ ba nói chung là phải phối hợp các lực lượng trên biển không để
nó phân tán đề từ đó có cơ chế chính sách để người dân yên tâm người ta
đi làm.
Đối với anh Phạm Quang Thạnh, nhà nước có hỗ trợ điều gì thì tốt điều đó
vì anh biết ngư dân không thể trông mong gì hơn trong hoàn cảnh hiện
nay, anh nói:
Nhà nước chỉ hỗ trợ về tinh thần tuy vẫn có vài phương án để hỗ trợ cho
ngư dân trên biển. Theo em được biết là vừa rồi có nhiều cuộc họp thì
tổng liên đoàn Lao động cho biết có thể khi ngư dân đi làm thì họ có
phương án hỗ trợ ngư dân trên biển nhưng cụ thể thực hiện như thế nào
thì họ chưa cho biết.
Những con tàu yếu ớt của ngư dân Việt Nam tuy đang đánh bắt trên ngư
trường của mình nhưng tâm trạng không khác nào đang đi đánh trộm trên
vùng biển của Trung Quốc vì không ai bảo vệ họ. Con số tàu Ngư chính
Trung Quốc hiện nay cho thấy ý tưởng bảo vệ tàu cá của Ngư dân Việt Nam
bằng các loại tàu thô sơ hiện có cũng chỉ là ý tưởng khó thực hiện.
Trung Quốc hơn ai hết biết rõ điều đó và việc Bắc Kinh vừa tiến công
bằng tàu cá loại công xuất lớn vừa lên tiếng phủ nhận ý đồ xâm phạm chủ
quyền Việt Nam đều nằm trong kế hoạch vết dầu loang mà ai cũng thấy
nhưng khó bảo toàn, nếu chính phủ Việt Nam không cương quyết đấu tranh
bằng tất cả các phương tiện hiện có thì hệ quả còn lớn hơn nhiều lần.
Ban đầu là lấn chiếm ngư trường, bước tiếp đến là xác định chủ quyền
bằng các giàn khoan dầu loại khổng lồ tại Biển Đông, sau đó thì đường
Lưỡi bò tự động trở thành hợp pháp là những nước cờ không khó nhận ra.
Các chuyên gia ngoại giao đều có nhận xét gần như giống nhau rằng các
nước nhỏ dù có lo lắng, chuẩn bị thế nào cũng khó tránh những cái bẫy
này, đặc biệt là Việt Nam, vừa nhỏ vừa yếu lại vừa là người học trò
ngoan của chủ nghĩa xã hội mà Bắc Kinh luôn trưng ra làm tê liệt lòng
yêu nước của họ mỗi khi gặp gỡ bàn về vấn đề nhạy cảm này.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2013-05-08
Thùy Linh - Dư luận viên, kẻ dấu mặt
Nạn nhân của bạo lực |
Thùy Linh: Mới đây, trong hội nghị “Tổng kết công tác tuyên truyền
miệng năm 2012”, người ta đã đưa ra con số là trong hệ thống tuyên
truyền “nói tốt cho chế độ” lên tới 80,000 người – những dư luận viên.
Nghe nói họ được trả lương để làm việc theo đơn đặt hàng của chính
quyền. Nhưng cho đến nay chưa thấy có cuộc tranh luận chính danh, công
khai nào trên các diễn đàn.
Gần đây vài dư luận viên cũng lập blog để viết bài phản biện lại những “kẻ phản biện nổi loạn”, nhưng chưa nhiều người biết đến. Hầu hết họ lấy nickname như “mõ làng”; “loa phường”; “tre làng”; “vua làm báo”; “người con đấy mẹ”…Dư luận viên này là ai? An ninh tư tưởng văn hóa hay đơn thuần là người được trả lương để viết thể loại “nói tốt cho chế độ” và công kích các blogger?
Dù nhân thân các dư luận viên này là ai thì thấy nổi bật một đặc điểm giống nhau giữa họ: sự hận thù, tính bạo lực trong ngôn từ khi nhìn nhận các vấn đề và những người bất đồng chính kiến với họ. Họ đã biến các cuộc tranh luận công khai trên diễn đàn về các vấn đề đang tồn tại sự bất đồng trong xã hội thành một chiến trường thực sự giữa hai bờ chiến tuyến.
Ngoài sự chế riễu cợt nhả, đắc thắng, thóa mạ, họ còn lạm dụng sức mạnh quyền lực để đe dọa blogger đối lập như muốn khởi tố, bắt bỏ tù tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, JB Nguyễn Hữu Vinh…
Lạ lùng hơn nữa là trên trang web mang tên ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đăng lại những bài viết như vậy. Dường như họ không ngần ngại bộc lộ giá trị thấp kém, hằn học của cả người viết lẫn người sử dụng các bài viết đó.
Bao giờ thực sự có tranh luận chính danh công khai, đàng hoàng?
Nhắc các bạn dự luận viên một điều rằng: các bạn có những 80.000 đồng đội (có thể nhiều hơn thế) với vô vàn lợi thế trong tay: đừng bao giờ tranh luận bắt đầu với những kết luận kiểu như “đây là thế lực thù địch”; “những kẻ cơ hội chính trị: “lợi dụng để chống phá đảng, chính phủ, nhà nước”…Không gì thảm hại hơn khi thể hiện sức mạnh chỉ bằng quyền lực thông qua bạo lực (kể cả bạo lực ngôn từ) chứ không phải bằng trí tuệ và trái tim hiểu biết.
Sau đây giới thiệu cho bạn bè hai bài viết của các dư luận viên của đảng để hiểu hơn những người đang bảo vệ chế độ này là những người như thế nào…
Gần đây vài dư luận viên cũng lập blog để viết bài phản biện lại những “kẻ phản biện nổi loạn”, nhưng chưa nhiều người biết đến. Hầu hết họ lấy nickname như “mõ làng”; “loa phường”; “tre làng”; “vua làm báo”; “người con đấy mẹ”…Dư luận viên này là ai? An ninh tư tưởng văn hóa hay đơn thuần là người được trả lương để viết thể loại “nói tốt cho chế độ” và công kích các blogger?
Dù nhân thân các dư luận viên này là ai thì thấy nổi bật một đặc điểm giống nhau giữa họ: sự hận thù, tính bạo lực trong ngôn từ khi nhìn nhận các vấn đề và những người bất đồng chính kiến với họ. Họ đã biến các cuộc tranh luận công khai trên diễn đàn về các vấn đề đang tồn tại sự bất đồng trong xã hội thành một chiến trường thực sự giữa hai bờ chiến tuyến.
Ngoài sự chế riễu cợt nhả, đắc thắng, thóa mạ, họ còn lạm dụng sức mạnh quyền lực để đe dọa blogger đối lập như muốn khởi tố, bắt bỏ tù tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, JB Nguyễn Hữu Vinh…
Lạ lùng hơn nữa là trên trang web mang tên ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đăng lại những bài viết như vậy. Dường như họ không ngần ngại bộc lộ giá trị thấp kém, hằn học của cả người viết lẫn người sử dụng các bài viết đó.
Bao giờ thực sự có tranh luận chính danh công khai, đàng hoàng?
Nhắc các bạn dự luận viên một điều rằng: các bạn có những 80.000 đồng đội (có thể nhiều hơn thế) với vô vàn lợi thế trong tay: đừng bao giờ tranh luận bắt đầu với những kết luận kiểu như “đây là thế lực thù địch”; “những kẻ cơ hội chính trị: “lợi dụng để chống phá đảng, chính phủ, nhà nước”…Không gì thảm hại hơn khi thể hiện sức mạnh chỉ bằng quyền lực thông qua bạo lực (kể cả bạo lực ngôn từ) chứ không phải bằng trí tuệ và trái tim hiểu biết.
Sau đây giới thiệu cho bạn bè hai bài viết của các dư luận viên của đảng để hiểu hơn những người đang bảo vệ chế độ này là những người như thế nào…
SỰ THẢM HẠI CỦA ĐÁM RÂN CHỦ Ở HÀ NỘI
Blog: Mõ làng
Sáng nay, tớ áo mũ nghiêm chỉnh để đi dự dã ngoại, thảo luận về quyền
con người trong công ước của Liên Hợp Quốc. Như thông báo trên mạng, 8
giờ tớ đã có mặt ở công viên Nghĩa Đô. Chẳng có ma nào cả, chỉ thấy một
đám quen quen mặt, vì hay xuất hiện trên mạng, ví như ông già gì đó kéo
Vi ô lôn, một số khuôn mặt lấm lét lượn qua, lượn lại phía ngoài cổng.
Cứ tưởng chắc đám này chỉ là theo đóm ăn tàn, còn cử tọa về một văn kiện
lớn như vầy chắc ở chỗ khác. Vội gửi xe, đi vào phía trong, vắng hoe.
Khoảng gần 9 giờ mới thấy lục tục đám người ở cổng ấy kéo nhau vào công
viên. Sáng nay, chủ nhật nhưng công viên cũng vắng lặng, chỉ ít người
tập thể dục nên sự xuất hiện của đám đông ấy cũng không gây được chú ý
gì. Cứ tưởng phải có một cuộc tụ tập đông đúc xung quanh một diễn giả
nào đó để nghe giảng giải về quyền con người trong công ước của Liên Hợp
Quốc. Nào ngờ, không khí quá thảm hại, trong số chừng 20 người có mặt
thì đã có đến gần chục người đi khiếu kiện đất đai ăn đằm ở đám tại Hà
Nội (mời xem ảnh mà Mõ đã chụp tại chỗ). Mấy bà này tranh thủ xông lên
trước, ngực ưỡn ra một tấm bảng tố cáo chính quyền cướp đất. Tệ hơn là
có bà ngã nón xin tiền!
Đây là biểu hiện thảm hại nhất của đám rân chủ HN. Sau một thời gian dở
trò ma giáo trong các đợt biểu tình năm ngoái, nhiều người chắc đã nhận
ra bộ mặt thật với những chiêu PR của chúng, nên không còn hưởng ứng
nữa, chúng đành nhờ vã vào những bà con đi khiếu kiện thu gom ở những
điểm tiếp dân. Mục đích chắc là nhằm tạo đám đông cho xôm tụ rồi chụp
hình, đưa lên mạng, đánh lừa dư luận. Nhưng, chúng nào ngờ đấy là cách
làm dốt nát tự tố cáo mình. Bà con mình coi, thành phần dự hội thảo đấy
ư!
Thảm hại hơn, diễn giả về dân chủ, nhân quyền hôm nay là con mụ “máu
trên, máu dưới” Minh Hằng. Cái ngữ ấy mà đứng lên gào thét công ước nhân
quyền của Liên Hợp Quốc thì hết chỗ nói. Xúc phạm người nghe đến thế là
cùng. Sự thực là chẳng có câu quảng bá nào cho văn kiện Quyền con người
cả, mà chỉ là những lời lăng mạ, chửi bới chính quyền, đặc biệt là Công
an. Vậy nên có ai nghe đâu, chỉ vài người đang tập thể dục thấy lạ nán
lại xem rồi đi, còn tự chúng nói với nhau. Tớ cam đoan là nếu cha nào
trong đấm rân chủ ấy chường ra được một mẩu clip có âm thanh giảng giải
về văn kiện quyền con người của LHQ thì tớ đóng blog vĩnh viễn.
Điều lạ và thật hài hước là có mặt cả đám Nguyễn Tường Thụy (đứng đằng
cột đèn ở ảnh dưới) đứng nghe con mụ Hằng giảng giải nhân quyền.
Hóa ra Tường Thụy là con kền kền đứng sau đám dân ngu kia để giật giây.
Trên tay hắn lăm lăm máy tính bảng để chụp, để quay, để chiều nay đưa
tin "nóng" cho RFA, BBC và các trang của Chênh, Lập, Dân làm báo, Ba
Sàm... lu loa. Chắc cứ mỗi lần như vầy hắn được bộn tiền nhuận bút. Còn
đám thiêu thân kia chỉ có chường cái mặt mo ra cho bà con lối xóm chửi.
Mẹ con nhà Thúy Nga, ở tận Hà Nam đêm qua đã kịp được lôi lên HN bố trì
ngồi dưới cột đèn chụp ảnh đưa lên PB để bôi nhọ Công an với cái tin
giật gân trên blog Tường Thụy "Công an đuổi mẹ con nhà Nga ra đường".
Chỉ tội 2 đứa trẻ, nhìn cái mặt nó dễ thương quá. Vậy mà mẹ nó đang tâm
đày đọa cả con mình. Nghe nói cô ấy là một bloger, bloger mà không lôi
nổi thông điệp nhân quyền từ trên mạng, sao lại bế con lên đây!
Còn cái xác thối Chí Đức thì đứng tách ra ngòai đám đông kia, không ra
mặt, không thấy xông vào xô đẩy để ăn vạ. Có lẽ thấy không khí dã ngoại
lèo tèo quá, không đủ tạo ra tình huống, mà tớ cũng chẳng thấy bóng dáng
cảnh sát nào ở cạnh đấy. Chắc vì thấy một nhỏn người ấy chẳng làm nên
cái qué gì, nên công an cũng chẳng thèm quan tâm.
Vỡ tuồng sáng nay cũng chỉ diễn được chừng nửa tiếng. Chắc thấy chẳng
lôi kéo được ai, đám rân chủ lục tục kéo nhau đi quanh hồ công viên.
Chẳng ai quan tâm đến chúng, chắc kéo nhau về đâu đó, túm tụm lại, tự
quay vài đoạn clip tung lên mạng để báo cáo với bọn Việt Tân nhằm giải
ngân, rồi bia hơi, mừng chiến thắng. Vậy là kết thúc một buổi thảo luận
về quyền con người. Thật hài hước.
Nản, mất mẹ nó buổi sáng.
TUYÊN NGÔN NGU XUẨN CỦA NHỮNG SINH VIÊN TRƯỜNG LUẬT
Blog: Tre làng
Lúc đầu đọc cái tuyên ngôn của đám sinh viên gà choai ở trường Đại học
luật TP Hồ Chí Minh, tớ đã thấy cái lập luận ngây ngô, sai toét cả những
kiến thức cơ bản của người hành nghề luật. Song, nghĩ rằng chúng nó còn
trẻ, ví như một đám gà trống choai, mái mơ, muốn đánh tiếng với bọn
cùng trang lứa, nên không chấp. Hơn nữa, chúng là sinh viên luật, cũng
nên cho chúng tập gáy cho có bản lĩnh mà thoát ra khỏi sự sợ hãi. Bởi
vì, nay mai ra trường, hành nghề luật sư chịu nhiều sức ép lắm, nếu
không có bản lĩnh thì chỉ là một đám ăn hại thân chủ mà thôi. Ai dè, sau
khi bị bọn cùng trang lứa đoàn trường phê phán, chúng nhảy dựng lên ra
tiếp một tuyên ngôn thứ hai yêu cầu Đoàn trường Đại học luật TP HCM phải
xin lỗi, nếu không sẽ khởi kiện. Đến cái nước này thì đéo chịu nổi.
Này đám trống choai, mái mơ kia, sao không biết nhục khi mà công khai ra
tuyên ngôn về luật mà lại dốt luật. Lũ chúng mày đã học Luật hình sự
chưa? Trong đó nó dạy chúng mày những gì? Có phải để kết luận một ai đó
có tội thì phải căn cứ vào 4 yếu tố cấu thành tội phạm, đó là các yếu
tố: khách quan, chủ quan, Khách thể, chủ thể.
Có phải luật quy định bằng giấy trắng mực đen rằng: Mặt chủ quan của tội
phạm là một trong bốn yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm, biểu hiện
trạng thái tâm lí của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Anh em nhà Vươn mua súng, đặt mình,
khi người ta vào thì giật mình, bắn súng vào họ có phải là cố ý, hay
chỉ là vô ý mà tụi mày nói là không có tội.
Có phải luật quy định rằng mặt khách quan của tội phạm là những dấu hiệu
biểu hiện ra bên ngòai của tội phạm tác động gây thiệt hại cho quan hệ
xã hội mà luật hình sự bảo vệ, được quy định trong từng điều luật. Đó là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi đó gây ra, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả cùng với những dấu hiệu khác như
phương pháp, thủ đoạn, phương tiện thực hiện phạm tội. Anh em nhà Vươn
có đủ những điều đó chưa mà chúng mày bảo là vô tội?
Có phải luật quy định Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ nhưng bị các hành vi phạm tội xâm hại bằng cách
gây thiệt hại hoặc đe dọa trực tiếp gây thiệt hại. Tính mạng, sức khỏe
của những người đi thi hành công vụ ở Tiên Lãng có phải là khách thể
được luật bảo vệ khỏi mọi sự xâm hại không? Anh em nhà Vươn nổ mình, nổ
súng, đốt xăng nhằm vào họ có phải là phạm luật không mà tụi mày nói là
vô tội?
Có phải luật quy định Chủ thể của tội phạm là người có hành vi phạm tội
khi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định (từ 16
tuổi trở lên). Anh em nhà Vươn đã đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự,
đã đủ tuổi chưa mà tụi mày nói vô tội? Chúng mày có nhớ thằng Luyện chết
băm, chết vằm đáng dựa cột mấy lần mà chỉ xử có hơn chục năm tù là vì
hắn chưa đến 16 tuổi không? Luật là luật.
Chúng mày là sinh viên luật sao ngu ngốc đến mức cho rằng hành vi nổ
mình, bắn súng vào người khác mà không phải là hành vi giết người nên
không thể truy tố anh em lão Vươn tội giết người! Nay mai ra trường về
nhà, trong trường hợp nhà chúng mày có tranh chấp đất đai với thằng hàng
xóm, mày đi kiện lên chính quyền, chính quyền xử sai là mày có quyền
xách dao sang chém chết thằng hàng xóm rồi cãi là mày không có tội à?
Chúng mày là sinh viên luật mà không hiểu hành vi phạm tội của anh em
nhà Vươn có phần bị tác động bởi cái sai của chính quyền chỉ là yếu tố
xem xét để giảm nhẹ khung hình phạt cho nhà Vươn à. Chính quyền ra quyết
định sai mà dẫn đến hậu quả hình sự thì phải xử theo luật hình sự đối
với cá nhân những người làm sai theo đúng tội danh. Nên Lão Khanh với
đồng phạm phải xử tù à. Đến anh em nhà Vươn còn biết nói câu không giải
quyết được bằng hành chính thì giải quyết băng hình sự, chấp nhận vào
tù, còn tụi mày đi học luật vậy chỉ tốn cơm cha mẹ, điểm thấp cũng là
phải. Nay mai ra trường, nếu mày lái xe nhưng cái xe bị hỏng phanh mà
mày không biết, xe cán chết người và mày nói rằng tội vì cái xe chứ mày
không có tội à. Rõ ngu xuẫn.
Tụi mày còn đòi Đoàn trường xin lỗi, tao mà là bí thư thì chỉ cần riêng
cái tội bỏ bê sinh hoạt là đã khai trừ đoàn tụi mày lâu rồi chứ chưa nói
đến học luật mà không hiểu khởi kiện người khác phải trên những căn cứ
nào. Mấy cái điểm học dốt của tụi mày là bí mật đời tư hay nó được đăng
công khai trên mạng học tập của nhà trường? Bằng chứng nào nói rằng tụi
mày là đại diện cho sinh viên nhà trường?
Này lũ trống choai, mái mơ kia đừng có biến mình thành kẻ bung xung cho
kẻ khác lợi dụng. Hỏi chúng mày một câu: Xong vụ nhà Vươn thì chúng mày
làm gì? hay là đi nhận ít tiền của Việt Tân rồi rải truyền đơn như
Phương Uyên.
Đã dốt mà còn tỏ ra nguy hiểm.
Ông Bá Thanh đã làm tôi "tỉnh"
"Ông Thanh đã nói rất nhiều, không chỉ với tôi mà với 129 ông chồng như
tôi, răn đe, bảo ban có, và đặc biệt tôi ấn tượng khi ông nói với tư
cách đàn ông, tư cách những ông chồng....".
Trần Văn Trường ( SN.1995, trú phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, Đà Nẵng), một trong những thanh thiếu niên chậm tiến quản lý tại địa phương:
Trần Văn Trường |
Năm 2011, em bỏ học đi chơi với nhóm bạn bè xấu. Do không có công ăn việc làm gì nên bọn em thường tụ tập đánh bài, uống rượu…
Không biết từ lúc nào em đã sa đà vào hút ma túy đá, vì thiếu tiền mua
thuốc em đã làm nhiều việc ảnh hưởng đến trật tự an ninh tại địa
phương. Vì vậy các chú công an phường đã đưa em và một số bạn vào diện
theo dõi quản lí thanh thiếu niên chậm tiến tại địa phương trong vòng 1
năm.
Đến khi được gặp và nghe bác Nguyễn Bá Thanh nói chuyện và chỉ bảo em đã suy nghĩ rất nhiều và tự thay đổi bản thân.
Em nhớ một câu nói của bác Thanh:
“Mỗi người có một hoàn cảnh khó khăn riêng nhưng không thể viện cớ đó
để phạm tội. Trước hết là do bản thân mình chứ đừng đổ lỗi cho ai khác.
Cuộc đời không ai là không có sai lầm nhưng phải biết nhận ra để khắc
phục, tiến lên, đó mới là dũng khí, chứ không phải cầm dao chém người
là anh hùng”.
Sau đó, Thành ủy Đà Nẵng và Công an phường Thanh Khê Tây đã cho em đi
học nghề cắt tóc và mua cho em một bộ đồ nghề cắt tóc để kiếm sống. Nhờ
vậy hiện nay em không còn hư hỏng nữa mà đã tự nuôi sống được bản thân
mình bằng sức lao động của mình.
Em nghĩ rằng, làm lãnh đạo mà được như bác Thanh thật sự người dân rất
được nhờ. Bây giờ nghe nói bác Thanh ra Hà Nội, em mừng cho bác và mong
ở cương vị mới bác tiếp tục sâu sát với người dân, lắng nghe người dân
để có những quyết định đúng đắn, đưa đất nước đi lên.
| ||
Ông Đặng Nữ, chủ nuôi cá lồng bè ở phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu, Đà Nẵng:
Tôi không phủ nhận những gì mà ông Nguyễn Bá Thanh đã làm được cho Đà
Nẵng. Tuy nhiên còn một số vấn đề liên quan đến việc giải quyết công ăn
việc làm cho những hộ dân đã bàn giao đất cho thành phố xây dựng chỉnh
trang đô thị thì tôi thấy ông Thanh cũng như lãnh đạo thành phố làm
chưa được triệt để, còn để cho nhiều hộ dân phải chịu thiệt thòi.
Như gia đình tôi cùng hàng chục gia đình khác ở phường Hòa Cường Nam.
Chúng tôi đã bàn giao đất cho thành phố nhưng không chuyển đổi được
nghành nghề ổn định. Tôi cùng các hộ này đã tổ chức nuôi cá trên sông
Cẩm Lệ để nuôi sống gia đình. Vậy mà thành phố đã ra thời hạn đến tháng
10.2013 phải di dời trong khi không có một kế hoạch cụ thể nào ổn định
lại sản xuất cho chúng tôi.
Tại cuộc tiếp xúc cử tri tháng 11.2012, các hộ nuôi cá trên sông đã nêu
ý kiến với ông Nguyễn Bá Thanh - Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND TP. Đà
Nẵng. Ông Thanh đã nói sẽ cho các hộ dân tiếp tục nuôi cá lồng trên
sông, với điều kiện là không làm ảnh hưởng môi trường và không gia tăng
số lồng bè. Tuy nhiên UBND thành phố Đà Nẵng vẫn tiếp tục ra quyết
định dỡ bỏ hết các lồng bè nuôi cá trên sông này.
Ông Nguyễn Thành Quảng – cán bộ hưu trí phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, Đà Nẵng
Là bộ đội, từng công tác tại Quân khu 5, tôi đã đôi lần tiếp xúc, trò
chuyện và làm việc với ông Nguyễn Bá Thanh, tôi thấy ông Thanh là con
người mà mọi suy nghĩ và hành động đều vì nhân dân và vì lợi ích chung
của TP.Đà Nẵng. Mọi việc làm đều vì sự phát triển đi lên của thành phố.
| ||
Một con người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, được các tổ
chức, đoàn thể, nhân dân ủng hộ. Một con người thẳng thắn, trung thực,
chân thành với đồng chí. Sai đâu sửa đó.
Là Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng đầu tiên sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam,
và sau này là Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng
đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố, ông Thanh là một lãnh đạo sâu sát đến
từng cơ sở, nắm sát tình hình từng phường, tổ dân phố. Nhờ đó, trong
những năm trên cương vị người đứng đầu TP.Đà Nẵng, ông Thanh đã nghĩ và
đưa ra nhiều quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân, xây dựng được niềm tin
vững chắc ở quần chúng. Qua đó, Đà Nẵng phát triển vượt bậc, thay da
đổi thịt, bộ mặt thay đổi từng ngày.
Tôi mong rằng, ông Thanh sẽ phát huy được những ưu điểm của mình để làm
tốt trên cương vị mới, nhiệm vụ mới mà Bộ Chính trị giao cho.
Anh Hồ Văn Lành (SN 1970, tổ 15, Lộc Phước 3, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, Đà Nẵng)
Là người được gặp và trò chuyện với ông Nguyễn Bá Thanh tại buổi đối
thoại về “Vai trò của nam giới trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống
gia đình trên địa bàn thành phố” tổ chức vào năm 2009, đến giờ tôi vẫn
có những ấn tượng đẹp về vị lãnh đạo này. Tôi là ngư dân, ăn sóng nói
gió, trước kia tôi cũng có những điều không phải với vợ khi say xỉn. Vì
vậy mà vợ con rất buồn, gia đình nhiều lúc rất nặng nề. Đến khi nhận
giấy mời có chữ ký của ông Thanh lên Hội đồng nhân dân thành phố, tôi
rất ngại và có ý định “né”.
Nhưng phải nói là khi đã gặp được ông Thanh, tôi lại thấy gần gũi. Ông
Thanh đã nói rất nhiều, không chỉ với tôi mà với 129 ông chồng như tôi,
răn đe, bảo ban có, nói với tư cách “quan chức” có, nói với tư cách
người anh cũng có, và đặc biệt tôi ấn tượng khi ông nói với tư cách đàn
ông, tư cách những ông chồng. Những lời nói mộc mạc, gần gũi, có tình
nghĩa của ông đã làm tôi “tỉnh”. Từ sau đó, tôi quyết tâm thay đổi bản
thân, và rất may, tôi đã làm được. Không còn tái diễn cảnh tôi say xỉn,
đánh đập làm khổ vợ khổ con nữa.
Bây giờ ông Thanh ra Hà Nội, tôi nói thật tình là gia đình tôi đã nợ ông Thanh một món nợ ân tình.
Đình Thiên-Xuân Trang
(Dân Việt)
Anh Nguyễn Tử Quảng BKAV từ làng Thư Điền
TGĐ Nguyễn Tử Quảng. |
Dân Tin học ĐHBK và cả nước đều biết hai thầy trò Quách Tuấn Ngọc và Nguyễn Tử Quảng.
Thầy Ngọc, tác giả bộ BKED ( Bách Khoa Editor) gõ tiếng Việt trên máy vi tính có từ thời DOS cách đây mấy chục năm. Nhờ có BKED (bê kẹt) mà anh xây nhà rất to, hiện là Cục trưởng Cục CNTT Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trò Quảng nổi nổi tiếng thế giới với bộ chống virus máy tính BKAV (Bách khoa Anti Virus – Bê cạp) có hàng triệu người dùng.
Thầy Ngọc hay lên tivi, xuất hiện trên báo, nhiều người biết đến. Trò
Tử Quảng rất hay được nhắc tới bởi nhiều phát biểu nổ vang trời.
Hôm trước, Tử Quảng lại lên báo. Theo báo Đầu tư, ngày 7/5,
tại lễ ra mắt phần mềm diệt vi rút BKAV 2013, Tổng giám đốc BKAV đã
ngỡ ngàng khi thấy BKAV đạt 2,6 tỷ lượt truy cập tại Việt Nam, qua mặt
hai “đại gia” Google (1,4 tỷ) và Facebook (1 tỷ) cộng lại.
Dân số Việt nam hiện khoảng 90 triệu với hơn 30 triệu người dùng internet
(năm 2012). Trong thực tế, số lượng PC ít hơn nhiều, ước đoán khoảng 5
triệu máy tính cá nhân, nhiều PC dùng BKAV vì có tiếng Việt, giá rẻ và
tiện lợi.
Xin làm một phép toán đơn giản: 2,6 tỷ / 90 triệu người/30 ngày trong
tháng, trung bình mỗi ngày từ đứa trẻ sơ sinh đến cụ già sắp sang bên
kia thế giới, mỗi người nhấn chuột vào trang BKAV gần 10 lần.
Nếu chỉ tính 30 triệu người dùng internet, số truy cập là gần 30
lần/ngày. Tính theo số PC (cứ cho là khoảng 10 triệu chiếc), số hit vào
BKAV lên tới gần 90 lần mỗi ngày, tương đương mỗi giờ (ngày đêm 24/7)
vào BKAV tới 4 lần.
Suy ra, người dùng internet tại Việt Nam bị rất nhiều virus, chẳng làm ăn gì, suốt ngày gọi BKAV giúp đỡ.
Tháng 3-2013, Tổng Cua có về qua làng Thư Điền, nơi có họ Nguyễn Tử nổi tiếng.
Trong Hiệu Minh blog có khoảng chục còm sỹ “dây mơ rễ má” với vùng đất
giầu truyền thống “Thư điền vô thuế tử tôn canh – Ruộng là sách thì
không mất thuế, con cháu nên vừa học vừa cấy cầy”, nên có nhiều người đỗ
đạt cao.
Bác còm sỹ – Giáo sư Nguyễn Tử Siêm là một trong những cây đa cây đề ở
Thư Điền. Anh Tử Quảng BKAV là một ví dụ khác về sự nổi tiếng. Mình
từng trọ học ở làng này những năm 1968-1970 nên hang Cua được thơm lây.
Năm 1772, cụ Nguyễn Tử Dự đã soạn 24 điều hương ước (lệ làng), khuyên
răn dân sống cho phải đạo, như Dường lão – trọng người già, Nhiêu học –
ham học, Giới tửu – tránh rượu chè, Khuyến thiện – nên làm việc tốt,
Giới thủ canh thổ – tránh bán đất ruộng.
Tìm mãi trong những điều cụ Dự dạy, chẳng thấy câu nào nói đến tránh ba
hoa, khoe mẽ cả. Có lẽ vì thế, làng này sinh ra anh Tử Quảng cực giỏi
IT, nhưng chỉ tội hay…“nổ”.
Đề nghị bác Nguyễn Tử Siêm thêm vào điều thứ 25 “Giới…nổ – tránh nổ” cho lệ làng Thư Điền.
Ghi lại mấy câu thơ của các cụ làng Thư Điền diễn nôm về khuyến học
tặng Tử Quảng và thế hệ sau nhớ về làng truyền thống văn hóa xưa:
Nào ai cắp sách theo thầy
Bút làng vào sổ từ rày chữ nhiêu
Phiên canh trong điếm ngoài lều
Việc làng công việc từ rao tận trừ
Chẳng nên yêu sách ngầy ngà
Có hậu phong tục mới ra nhân tài
Hiệu Minh
(Blog Hiệu Minh) Vương Trí Nhàn - Sự nghèo nàn của văn hóa sách ở Việt Nam
Viết về tình trạng của những con đường bảo đảm giao thông đi lại ở nước
VN cổ, một nhà nghiên cứu nước ngoài đã dùng đến hai chữ ấu trùng.
Tôi nghĩ rằng cũng có thể dùng hai chữ ấy để mô tả tình trạng của sách vở ở ta từ xưa tới nay
Gần như dân ta chưa biết làm sách, lại càng không tạo ra được một không gian có ý nghĩa tinh thần cho sách tồn tại và phát triển.
Sự nghèo nàn của văn hóa sách Việt Nam là một căn bệnh kéo dài kinh niên trong lịch sử.
1. Văn hóa Việt Nam thường được miêu tả qua các phương diện như tín ngưỡng tôn giáo lễ tiết, thi cử, các ngành nghệ thuật, rồi phong tục tập quán, các nghề thủ công, nhà ở, đồ ăn thức uống.
Giở những cuốn lịch sử văn hóa quen thuộc từ Việt Nam văn hoá sử cương (1938) của Đào Duy Anh, qua Văn minh Việt Nam (1943) của Nguyễn Văn Huyên, Hiểu biết về Việt Nam (1954) của P.Huard và M.Durand, không đâu người ta thấy nói tới nghề làm sách và vai trò của sách trong xã hội.
Bắt đầu từ quan niệm Đọc lướt qua các bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, thấy những chữ lên ngôi, thiết triều, hạ chiếu, chinh phạt, khởi loạn, rồi ban thưởng, xướng họa,... đầy rẫy và lặp đi lặp lại dày đặc bao nhiêu thì chữ sách, đọc sách, soạn sách, dịch sách hiếm hoi bấy nhiêu. Chưa một triều đại nào trong quá khứ có thời giờ nghĩ nhiều đến sách và coi sách là việc lớn của vương triều mình.
Phải công nhận trong khi ghi chép và phân loại thành tựu văn hóa trong quá khứ, Lịch triều hiến chương loại chí Phan Huy Chú đi xa hơn cả. Tác giả đã dành cả một chương mang tên văn tịch chí ghi lại sách vở các đời.
Thế nhưng đó vẫn không phải là lịch sử sách, càng không phải là sự trình bày quan niệm về sách, vai trò của sách vở trong đời sống của người Việt. Mà lý do chính là vì trong xã hội bấy giờ, những ý niệm này chưa xuất hiện, tác giả có muốn cũng không làm được.
Trong khi đó chỉ cần đọc lướt qua những cuốn lịch sử những nước có nền văn hóa phát triển người ta thấy ở xứ người, sách đã được quan niệm đầy đủ ra sao và được dành cho một vị trí như thế nào. Sự ra đời của những cuốn sách lớn được ghi nhận như những cái mốc lớn lao đánh dấu thành tựu của cộng đồng trong việc chinh phục thiên nhiên và tự nhận thức về mình, làm chủ cuộc sống của mình.
2. Đi vào cụ thể một số mặt trong văn hóa sách
Về kiểu loại sách: Nếu trên phương diện kinh tế, hàng hóa chúng ta sản xuất ra đã quá nghèo nàn về mẫu mã và chủng loại thì ở sách cũng có tình trạng tương tự. Sách được hiểu chủ yếu là các tập thơ tập văn.
Trong khi đó, cả ở phương Tây lẫn phương Đông, xuất bản phẩm có nghĩa rộng hơn nhiều, sách thường tổ chức theo một hệ thống thể loại chặt chẽ, bao gồm đủ loại từ các biên khảo, các sách biên niên sử, rồi từ điển và bách khoa thư. Việc làm một cuốn sách một bộ sách có khi được người ta dành cho cả một đời người.
Về nội dung sách: Trong cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu Phan Ngọc, khi tìm hiểu thư mục di sản văn hóa Hán Nôm Việt Nam đã chỉ rõ trong số 6000 quyển sách tạm gọi là tiêu biểu cho tâm thức của trí thức Việt Nam trước khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, có quá nửa là sách học để đi thi, các bài mẫu, các sách giảng về các kinh truyện, các bài thơ phú viết theo lối văn chương hàn lâm mà lại bị làm cho tầm thường đi.
Tức theo Phan Ngọc, đây chỉ là một nền xuất bản phục vụ cho việc học để làm quan!
Trong số 70 quyển thuộc loại nông nghiệp có 9 quyển nói về địa bạ, 4 quyển về cách kê khai ruộng đất, 5 quyển về đê điều, 18 quyển về việc đóng thuế, còn lại là nói về các thổ sản. Trong sách về thủ công nghiệp chỉ thấy nói về tiểu sử các ông thành hoàng các nghề...
Bảo quản giữ gìn sách: Sau khi được sao chép ra với số lượng ít ỏi, sách chỉ có cuộc sống ngắn ngủi.
Ta hay đổ cho nước ngoài - rõ nhất là thời kỳ quan quân nhà Minh sang đô hộ - tịch thu và tiêu hủy nhiều sách của ta. Song theo Phan Huy Chú, trước đó sách từng là nạn nhân của những cuộc khởi nghĩa, khi Thăng Long bị cướp phá, sách vở đã bị đốt rất nhiều.
Về sau này, trong các thế kỷ XVII- XVIII, cho tới XIX , tình hình cũng chẳng khá hơn đến mức hai nhà nghiên cứu người Pháp là L. Cadiere và P.Pelliot đã khái quát “không ở đâu mà cái gia tài kiến thức của một dân tộc lại tan biến nhanh như vậy” (dẫn theo Tạ Chí Đại Trường, lời mở đầu của sách Lịch sử nội chiến ở VN từ 1771 đến 1802 – SG 1973)
Giao lưu với nước ngoài: Một phương diện nữa đánh dấu sự phát triển của văn hóa sách một quốc gia là khả năng quốc gia đó trao đổi sách vở cùng các tài liệu in ấn nói chung với quốc gia khác, tức là vấn đề xuất nhập khẩu sách (từ đây mở đường cho những cuốn sách lớn trở thành tài sản chung của nhân loại).
Trong một tài liệu viết về thư tịch chữ Hán ở Nhật Bản (in trên tạp chí Nghiên cứu văn học ra ở Hà Nội số 4-2008), tôi thấy người ta cho biết triều đình Nhật có cả một Thư viện gọi là Văn khố hoàng gia, sau gọi là Sảnh thư, chuyên cất giữ sách Trung Quốc. Một văn khố khác mang tên Văn khố Hồng diệp sơn hoặc Văn khố nội các, hoặc Quốc lập công văn thư quán, đến nay còn lưu giữ 185.000 quyển. Đại khái có thể ước tính 50% điển tịch đời Tùy, 51,25 % điển tịch đời Đường đã được nhập vào xứ sở Phù Tang.
Tài liệu trên còn đưa ra một con số: tới đầu thế kỷ XIX từ 70 đến 80% sách in ở Trung Quốc đã được chuyển sang Nhật. Mà ở Trung Quốc sách in ra lúc đó đã tới 100.000 loại (loại chứ không phải cuốn).
Còn ở Việt Nam thì sao? Trên tôi đã nói là sử ta không mấy khi nhắc tới việc buôn bán trao đổi sách.
Chỉ đọc cuốn Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E.Hall, một giả người Anh (lần đầu in ở SG trước 1975, 1994 được in lại ở HN) tôi mới thấy ghi thời thế kỷ XVII, chúa Trịnh từng có lệnh cấm truyền tay sách Trung Quốc (sách này do những người Tàu nhập cư mang vào).
Sang đến đời Nguyễn vua quan có chú ý hơn tới việc học hỏi Trung Hoa qua sách vở, nhưng chưa thể nói là đã có một chủ trương, đừng nói là có một cách tổ chức hợp lý, cho việc du nhập sách ở nước ngoài. Đây cũng là tình trạng giao lưu văn hóa bị hạn chế ở ta suốt thời trung đại.
Có lần tôi được nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết ngày xưa các vị quan đi sứ, khi về hàng hóa bị kiểm tra rất ngặt nghèo, chỉ có hai thứ được khuyến khích là thuốc quý và sách.
Nhập hàng theo lối tiểu ngạch như vậy, mà lại nhỏ giọt, nên khi mang về sách trở thành quá ư là quý hóa, thường người mang về chỉ giữ cho riêng mình.
Tệ nhất là trường hợp nhiều vị trong số các sứ giả ấy – vốn không hề có ý thức rằng mình là sứ giả văn hóa – có được sách mang về liền giấu giấu diếm diếm rồi thuổng luôn của người ta, lấy của người làm của mình hoặc coi đó làm mẫu, mô phỏng theo. Một đôi khi người có sách lại kín kín hở hở mang ra khoe nhưng chỉ là để trộ thiên hạ và làm giá cho bản thân.
Sách ngoại như vậy là chết luôn sau khi vào xã hội Việt, hỏi còn đâu vai trò kích thích việc làm sách trong nước.
25/01/2009
(TT&VH )
Tôi nghĩ rằng cũng có thể dùng hai chữ ấy để mô tả tình trạng của sách vở ở ta từ xưa tới nay
Gần như dân ta chưa biết làm sách, lại càng không tạo ra được một không gian có ý nghĩa tinh thần cho sách tồn tại và phát triển.
Sự nghèo nàn của văn hóa sách Việt Nam là một căn bệnh kéo dài kinh niên trong lịch sử.
1. Văn hóa Việt Nam thường được miêu tả qua các phương diện như tín ngưỡng tôn giáo lễ tiết, thi cử, các ngành nghệ thuật, rồi phong tục tập quán, các nghề thủ công, nhà ở, đồ ăn thức uống.
Giở những cuốn lịch sử văn hóa quen thuộc từ Việt Nam văn hoá sử cương (1938) của Đào Duy Anh, qua Văn minh Việt Nam (1943) của Nguyễn Văn Huyên, Hiểu biết về Việt Nam (1954) của P.Huard và M.Durand, không đâu người ta thấy nói tới nghề làm sách và vai trò của sách trong xã hội.
Bắt đầu từ quan niệm Đọc lướt qua các bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, thấy những chữ lên ngôi, thiết triều, hạ chiếu, chinh phạt, khởi loạn, rồi ban thưởng, xướng họa,... đầy rẫy và lặp đi lặp lại dày đặc bao nhiêu thì chữ sách, đọc sách, soạn sách, dịch sách hiếm hoi bấy nhiêu. Chưa một triều đại nào trong quá khứ có thời giờ nghĩ nhiều đến sách và coi sách là việc lớn của vương triều mình.
Phải công nhận trong khi ghi chép và phân loại thành tựu văn hóa trong quá khứ, Lịch triều hiến chương loại chí Phan Huy Chú đi xa hơn cả. Tác giả đã dành cả một chương mang tên văn tịch chí ghi lại sách vở các đời.
Thế nhưng đó vẫn không phải là lịch sử sách, càng không phải là sự trình bày quan niệm về sách, vai trò của sách vở trong đời sống của người Việt. Mà lý do chính là vì trong xã hội bấy giờ, những ý niệm này chưa xuất hiện, tác giả có muốn cũng không làm được.
Trong khi đó chỉ cần đọc lướt qua những cuốn lịch sử những nước có nền văn hóa phát triển người ta thấy ở xứ người, sách đã được quan niệm đầy đủ ra sao và được dành cho một vị trí như thế nào. Sự ra đời của những cuốn sách lớn được ghi nhận như những cái mốc lớn lao đánh dấu thành tựu của cộng đồng trong việc chinh phục thiên nhiên và tự nhận thức về mình, làm chủ cuộc sống của mình.
2. Đi vào cụ thể một số mặt trong văn hóa sách
Về kiểu loại sách: Nếu trên phương diện kinh tế, hàng hóa chúng ta sản xuất ra đã quá nghèo nàn về mẫu mã và chủng loại thì ở sách cũng có tình trạng tương tự. Sách được hiểu chủ yếu là các tập thơ tập văn.
Trong khi đó, cả ở phương Tây lẫn phương Đông, xuất bản phẩm có nghĩa rộng hơn nhiều, sách thường tổ chức theo một hệ thống thể loại chặt chẽ, bao gồm đủ loại từ các biên khảo, các sách biên niên sử, rồi từ điển và bách khoa thư. Việc làm một cuốn sách một bộ sách có khi được người ta dành cho cả một đời người.
Về nội dung sách: Trong cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu Phan Ngọc, khi tìm hiểu thư mục di sản văn hóa Hán Nôm Việt Nam đã chỉ rõ trong số 6000 quyển sách tạm gọi là tiêu biểu cho tâm thức của trí thức Việt Nam trước khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, có quá nửa là sách học để đi thi, các bài mẫu, các sách giảng về các kinh truyện, các bài thơ phú viết theo lối văn chương hàn lâm mà lại bị làm cho tầm thường đi.
Tức theo Phan Ngọc, đây chỉ là một nền xuất bản phục vụ cho việc học để làm quan!
Trong số 70 quyển thuộc loại nông nghiệp có 9 quyển nói về địa bạ, 4 quyển về cách kê khai ruộng đất, 5 quyển về đê điều, 18 quyển về việc đóng thuế, còn lại là nói về các thổ sản. Trong sách về thủ công nghiệp chỉ thấy nói về tiểu sử các ông thành hoàng các nghề...
Bảo quản giữ gìn sách: Sau khi được sao chép ra với số lượng ít ỏi, sách chỉ có cuộc sống ngắn ngủi.
Ta hay đổ cho nước ngoài - rõ nhất là thời kỳ quan quân nhà Minh sang đô hộ - tịch thu và tiêu hủy nhiều sách của ta. Song theo Phan Huy Chú, trước đó sách từng là nạn nhân của những cuộc khởi nghĩa, khi Thăng Long bị cướp phá, sách vở đã bị đốt rất nhiều.
Về sau này, trong các thế kỷ XVII- XVIII, cho tới XIX , tình hình cũng chẳng khá hơn đến mức hai nhà nghiên cứu người Pháp là L. Cadiere và P.Pelliot đã khái quát “không ở đâu mà cái gia tài kiến thức của một dân tộc lại tan biến nhanh như vậy” (dẫn theo Tạ Chí Đại Trường, lời mở đầu của sách Lịch sử nội chiến ở VN từ 1771 đến 1802 – SG 1973)
Giao lưu với nước ngoài: Một phương diện nữa đánh dấu sự phát triển của văn hóa sách một quốc gia là khả năng quốc gia đó trao đổi sách vở cùng các tài liệu in ấn nói chung với quốc gia khác, tức là vấn đề xuất nhập khẩu sách (từ đây mở đường cho những cuốn sách lớn trở thành tài sản chung của nhân loại).
Trong một tài liệu viết về thư tịch chữ Hán ở Nhật Bản (in trên tạp chí Nghiên cứu văn học ra ở Hà Nội số 4-2008), tôi thấy người ta cho biết triều đình Nhật có cả một Thư viện gọi là Văn khố hoàng gia, sau gọi là Sảnh thư, chuyên cất giữ sách Trung Quốc. Một văn khố khác mang tên Văn khố Hồng diệp sơn hoặc Văn khố nội các, hoặc Quốc lập công văn thư quán, đến nay còn lưu giữ 185.000 quyển. Đại khái có thể ước tính 50% điển tịch đời Tùy, 51,25 % điển tịch đời Đường đã được nhập vào xứ sở Phù Tang.
Tài liệu trên còn đưa ra một con số: tới đầu thế kỷ XIX từ 70 đến 80% sách in ở Trung Quốc đã được chuyển sang Nhật. Mà ở Trung Quốc sách in ra lúc đó đã tới 100.000 loại (loại chứ không phải cuốn).
Còn ở Việt Nam thì sao? Trên tôi đã nói là sử ta không mấy khi nhắc tới việc buôn bán trao đổi sách.
Chỉ đọc cuốn Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E.Hall, một giả người Anh (lần đầu in ở SG trước 1975, 1994 được in lại ở HN) tôi mới thấy ghi thời thế kỷ XVII, chúa Trịnh từng có lệnh cấm truyền tay sách Trung Quốc (sách này do những người Tàu nhập cư mang vào).
Sang đến đời Nguyễn vua quan có chú ý hơn tới việc học hỏi Trung Hoa qua sách vở, nhưng chưa thể nói là đã có một chủ trương, đừng nói là có một cách tổ chức hợp lý, cho việc du nhập sách ở nước ngoài. Đây cũng là tình trạng giao lưu văn hóa bị hạn chế ở ta suốt thời trung đại.
Có lần tôi được nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết ngày xưa các vị quan đi sứ, khi về hàng hóa bị kiểm tra rất ngặt nghèo, chỉ có hai thứ được khuyến khích là thuốc quý và sách.
Nhập hàng theo lối tiểu ngạch như vậy, mà lại nhỏ giọt, nên khi mang về sách trở thành quá ư là quý hóa, thường người mang về chỉ giữ cho riêng mình.
Tệ nhất là trường hợp nhiều vị trong số các sứ giả ấy – vốn không hề có ý thức rằng mình là sứ giả văn hóa – có được sách mang về liền giấu giấu diếm diếm rồi thuổng luôn của người ta, lấy của người làm của mình hoặc coi đó làm mẫu, mô phỏng theo. Một đôi khi người có sách lại kín kín hở hở mang ra khoe nhưng chỉ là để trộ thiên hạ và làm giá cho bản thân.
Sách ngoại như vậy là chết luôn sau khi vào xã hội Việt, hỏi còn đâu vai trò kích thích việc làm sách trong nước.
25/01/2009
(TT&VH )
Chênh giá vàng, chẳng có lý gì để nói dân hưởng lợi
‘Tôi chưa hiểu Thống đốc Nguyễn Văn Bình nói rằng chênh lệch giá vàng
thì nhân dân được hưởng lợi là như thế nào? Nói nhà nước hưởng lợi thì
được chứ nói dân hưởng thì không có lý gì vì ít nhất họ phải mua giá
cao’.
TS Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Ủy viên Hội đồng
quản trị Ngân hàng TMCP Đông Á chia sẻ với Đất Việt như vậy.
Chả có lý gì nói dân hưởng lợi từ chênh lệch giá vàng |
Chả có lý gì nói dân được lợi
Trước đó, trong chương trình Dân hỏi Bộ trưởng trả lời, khi được hỏi giá
vàng trong nước và thế giới chênh lệch cao thì ai sẽ là người được
hưởng lợi, Thống đốc Nguyễn Văn Bình nói rằng: ‘ngân sách nhà nước và
nhân dân hưởng lợi từ chênh lệch giá hiện nay’.
Theo ông Bình, trước đây với những người có vàng muốn bán thì rõ ràng ở
mức độ nào đó họ được hưởng lợi khi giá trong nước cao hơn thế giới.
Nhưng với người cần mua vàng, có vẻ là họ bị thiệt vì phải mua với giá
cao hơn.
‘Nhưng phải thấy rằng nếu mua giá cao hơn thì cũng bán giá cao. Do vậy
sự chênh lệch ở đây không phải là cái thiệt thòi của người mua - bán, mà
chỉ là chênh lệch giữa giá mua và giá bán thôi. Còn nếu anh mua giá
cao, anh cũng bán được giá cao thì sự chênh lệch ở đây không ảnh hưởng
đến lợi nhuận của người mua bán vàng trong nước’, ông Bình nói.
Tuy nhiên cũng là người từng ở vị trí như ông Bình song TS Cao Sỹ Kiêm lại không thể hiểu cái ý dân có lợi là theo ý nào.
‘Nhà nước có lợi thì đúng rồi. Dân khó lợi vì ít nhất là người dân phải
mua giá cao. Tôi không hiểu ý lợi ở đây là như thế nào’, TS Kiêm nói.
Theo TS Kiêm, việc ngân hàng nhà nước tham gia trực tiếp vào thị trường
vàng cũng được nhưng để khách quan thì nên thành lập một công ty riêng
chứ không phải tham gia trực tiếp như hiện nay.
'Nên thành lập một công ty có vốn điều lệ, chiến lược kinh doanh và chỉ
đạo nó chứ không nên vừa quản lý, vừa làm kinh doanh. Lập công ty sẽ
khách quan trong vấn đề lợi nhuận. Chứ như hiện nay vừa làm quản lý lại
dính đến lợi, nhuận, cạnh tranh thì dễ dẫn đến độc quyền và mất khách
quan" - TS Kiêm góp ý.
Theo lý giải của ông Bình, nếu như trước đây cho nhập vàng (tư nhân, các
tổ chức kinh tế nhập vàng hoặc nhập lậu) thì toàn bộ sự chênh lệch giá
nội - ngoại do các đối tượng kinh doanh này được hưởng và người dân
không được gì.
Nay toàn bộ do nhà nước đảm nhiệm nên chênh lệch này thuộc về ngân sách
nhà nước để đầu tư lại cho nền kinh tế, thực hiện các công trình phúc
lợi xã hội.
Lợi thì chưa thấy… nhưng
Theo các chuyên gia, trước kia giá vàng được quyết định bởi thị trường.
Nhưng nay NHNN độc quyền nhập, dập và bán. Vậy NHNN đang thao túng giá
vàng. Một khi NHNN đã phát giá đi từ các phiên đấu thầu là cao thì giá ở
thị trường thứ cấp (doanh nghiệp – người dân) đều đặn cao chứ không thể
có chuyện doanh nghiệp bỏ tiền mua giá cao về bán lỗ. Ở đây người đi
mua vàng là dân chứ thực sự họ lấy đâu ra nhiều vàng để bán.
Sự ‘có lợi’ cho dân có lẽ cũng chưa thể hiện hết. Ngày 22/4, Thanh tra
Chính phủ đã công bố quyết định thanh tra tại Ngân hàng Nhà nước liên
quan đến trách nhiệm, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này đối với hoạt
động kinh doanh vàng, huy động và cho vay vốn bằng vàng.
Tại giao ban của Ban chỉ đạo công tác phòng chống buôn lậu, hàng giả,
gian lận thương mại (Ban chỉ đạo 127), Thiếu tướng Nguyễn Tiến Lực, Phó
tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (Bộ CA), khẳng
định: ‘Thương hiệu vàng miếng quốc gia giúp SJC hưởng lợi’.
Theo Thiếu tướng Nguyễn Tiến Lực, những thương hiệu khác thì bị phương hại.
Ông cho biết từ 2012 đến nay, đã xuất hiện độ chênh lệch khá lớn giữa
giá vàng trong nước và giá vàng nước ngoài. Đồng thời, cũng xuất hiện
tình trạng vàng giả SJC, vàng kém chất lượng đưa vào các doanh nghiệp
kinh doanh bán cho dân.
Từ khi vàng SJC trở thành thương hiệu quốc gia, giá của loại vàng này
với các thương hiệu khác luôn có một khoản chênh nhất định.
Bích Ngọc
(Đất Việt)
Bẫy thu nhập trung bình – làm sao thoát?
IMF vừa công bố tăng trưởng năm nay của châu Á – Thái Bình Dương có thể đạt 5,75%. Nhưng IMF cũng cảnh báo các nước thận trọng để khỏi rơi vào bẫy thu nhập trung bình (Middle-Income Trap/MIT).Buôn bán phát đạt ở chợ trung tâm của thủ đô Lào Vientiane. Mặc dầu tăng trưởng kinh tế và thương mại thế giới suy giảm, Lào vẫn tiếp tục duy trì phát triển cao ở mức 8,3% và trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. Ảnh: TL |
Tuần trước, quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự đoán là các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ dẫn đầu sự phục hồi kinh tế toàn cầu với đà tăng trưởng khá cao. Cơ sở của dự báo lạc quan này là bối cảnh của khối kinh tế công nghiệp hoá Âu – Mỹ, chính sách kích thích kinh tế của Nhật, và nhất là những đặc điểm mới của các nước trong khu vực.
Báo cáo dành cả chương 3 để bàn về nan đề của nhiều nước là làm sao tránh được MIT. Nếu thu nhập bình quân của dân Mỹ hiện đạt gần 50.000 USD/năm, của châu Âu hơn 30.000 USD/năm, thì Hàn Quốc hay Đài Loan cũng đã vượt qua mức 20.000 USD/năm, trong khi Trung Quốc vẫn ở mức 6.000 USD/năm. Việt Nam đạt khoảng 1.200 USD/năm, nhiều nước khác chưa vượt khỏi giới hạn 1.000 USD/năm.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế không phải là ưu tiên số một trong mục tiêu phát triển của Việt Nam năm 2012, nhưng mức tăng trưởng 5,03% là mức thấp so với mục tiêu đề ra 6% và so với mục tiêu trung hạn (6 – 6,5% trong kế hoạch năm năm 2011 – 2015); thấp so với mức tăng GDP trung bình của các nước điển hình trên thế giới thành công trong việc thoát khỏi “bẫy” MIT.
Theo thống kê của ngân hàng Thế giới (WB), trong giai đoạn 1977 – 1987 kinh tế thế giới có mức tăng ngoạn mục 8%, đưa thu nhập bình quân đầu người từ 1.042 USD lên 3.368 USD. Singapore cũng duy trì tốc độ 8% trong vòng bảy năm từ 1971 – 1978, riêng Hong Kong mức tăng trưởng là 10% và đây là con số đáng nể để thoát khỏi MIT.
Nhắc đến khung cảnh rộng lớn để thấy một thực tế khách quan. Các nước có thể học hỏi lẫn nhau để xây dựng những động lực đem lại sự thịnh vượng. Ngoài yếu tố tri thức hay công nghệ, một trong các động lực ấy là giá trị của niềm tin và quyền tự do trong kinh tế. Các nước đã có thể bật lên là nhờ buôn bán với nhau chứ không phải do xứ này bóc lột xứ khác.
Lý thuyết tranh đoạt quyền lợi kinh tế theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé” là những sai lầm đã gây ra chiến tranh và tàn phá. Trong khi ấy, sự thể khách quan mà ta cần thấy ra ngày nay là sự thịnh suy của các nước tuỳ thuộc chủ yếu vào chính sách bên trong từng nước, chứ không thể đổ lỗi cho thiên hạ là xong. Ngược lại, các nước có thể tự rơi vào “bẫy”!
Bài học nào cho Việt Nam?
Trong khi Thái Lan đã phục hồi tăng trưởng “đáng nể”, ở mức 5,7%, sau khi suy giảm thì Việt Nam có mức tăng trưởng giảm sâu nhất và là nước duy nhất trong nhóm suy giảm tốc độ tăng trưởng trong ba năm liên tiếp kể từ năm 2010 đến nay. Mặc dầu tăng trưởng kinh tế và thương mại thế giới suy giảm, Lào vẫn tiếp tục duy trì phát triển cao ở mức 8,3% và trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á.
Thứ trưởng bộ Kế hoạch và đầu tư Đặng Huy Đông đánh giá, việc suy giảm tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là theo xu hướng chung của tăng trưởng thế giới, nhưng ngược với xu hướng tăng trưởng của các nước xung quanh. So với tình hình các nền kinh tế trong khu vực, thì dấu hiệu giảm sút tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2012 khá khác biệt.
Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư phát triển năm 2013 tuỳ thuộc nhiều vào tăng trưởng kinh tế thế giới và phản ứng chính sách của chính phủ nhằm đón dòng vốn đầu tư FDI/ODA đang được dịch chuyển từ Trung Quốc, Ấn Độ vào các nước ASEAN. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI được cải thiện sẽ dẫn đến cán cân vốn tiếp tục tăng. Dự báo năm 2013 cán cân vốn Việt Nam đạt 5,956 tỉ USD, tăng so với năm 2012 (con số này là 5,700 tỉ USD).
Tuy nhiên, chính sách vừa qua của Việt Nam mới chỉ quan tâm thu hút đầu tư, mà chưa chú ý tới việc hỗ trợ doanh nghiệp sau khi cấp phép, giữ chân doanh nghiệp ở lại Việt Nam trước những sức hút mới nổi từ các nước trong khu vực. Việt Nam cần định hướng dòng vốn này vào những lĩnh vực ưu tiên, loại bỏ những dự án đầu tư với công nghệ cũ, lạc hậu, cũng như giảm thiểu tác động tiêu cực của FDI lên các doanh nghiệp trong nước.
Chính phủ vẫn cần duy trì ưu tiên ổn định vĩ mô, giữ lạm phát ở mức tương tự như năm 2012, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, linh hoạt. Chú trọng triển khai các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, đặc biệt khu vực kinh tế nhà nước. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó đặc biệt là tái cơ cấu đầu tư công.
Đồng thời, từng bước thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước nhằm giảm sự thất thoát lãng phí trong sử dụng vốn, tạo môi trường lành mạnh và bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Thực hiện các chính sách thu hút các nguồn vốn trong nước đưa vào sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng.
Đặc biệt, cần có giải pháp phá băng thị trường bất động sản nhằm giải quyết vấn đề nợ xấu, nhất là nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Việc tái cơ cấu ngân hàng cần được thực hiện triệt để, không chỉ nhằm giải quyết một phần nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, quan trọng hơn là lành mạnh hoá thị trường tín dụng, khơi thông nguồn vốn cho doanh nghiệp.
(SGTT)
Việt Nam 'nuôi' 80 ngàn 'tuyên truyền viên miệng'
(thừa tiền nuôi bọn ăn hại này làm gì, để tiền đấy cho bọn trẻ con miền núi đang đói khát dài ra kia kìa!)
Phúc trình được công bố tại hội nghị “Tổng kết công tác tuyên truyền
miệng năm 2012” ở Hà Nội nói rằng mạng lưới “tuyên truyền viên bằng
miệng” hình tháp, càng xuống thấp càng “to đùng.”
Báo Lao Động dẫn phúc trình này nói rằng cấp trung ương quy tụ 375 “báo
cáo viên” làm nhiệm vụ “tuyên truyền miệng.” Còn ở cấp tỉnh hai năm
trước đây, số “báo cáo viên làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng” tăng gấp
mười lần, tức gần 3,000 người.
Các “tuyên truyền viên” bằng miệng tham dự các cuộc hội nghị, cứ hai ngày rưỡi một lần. (Hình: Internet) |
Tại 10,732 thị xã, số “báo cáo viên làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng tăng
gấp 3,000 lần, tức lên đến trên 65,000 người. Tổng cộng cả hệ thống
tuyên truyền “nói tốt cho chế độ” lên tới 80,000 người.
Cũng tại Hội nghị tổng kết nói trên, người ta còn tính đã tổ chức tổng
cộng 146 cuộc họp “báo cáo chuyên đề,” chỉ riêng trong năm 2012. Trung
bình, cứ hai ngày rưỡi thì có một cuộc hội nghị “báo cáo chuyên đề” như
thế.
Còn theo dư luận, trong khi giới cán bộ, công chức nhà nước hưởng số
lương tháng chỉ bằng một nửa mức sống căn bản thì “hệ thống tuyên truyền
miệng” ở một số vùng được “đẻ” ra đã ăn bớt “khẩu phần” ít ỏi của ngân
sách nhà nước.
Tại hội nghị nói trên, đại diện tỉnh Lào Cai khoe đã tổ chức thử mô hình
“ban tuyên vận” cấp xã - phường, và trả lương cho họ bằng mức căn bản.
Theo dư luận, trong hầu hết các lĩnh vực mà đảng cộng sản cần tuyên
truyền, “khen hoặc chê theo ý đảng,” đội ngũ tuyên truyền viên bằng
miệng này tỏ ra hoạt động khá tích cực.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các tuyên truyền viên càng nói nhiều thì
lĩnh vực mà họ “giáo dục” ra chiều càng thêm “bết bát.” Chẳng hạn như
trong lĩnh vực giao thông hiện nay, họ càng tuyên truyền, nhắc nhở người
dân tôn trọng luật lệ giao thông để làm giảm tai nạn xe cộ thì số vụ
tai nạn lại tăng vọt.
Cũng theo báo Lao động, tại hội nghị nói trên, ông phó trưởng ban Tuyên
giáo trung ương, - bộ phận cao cấp nhất của hệ thống tuyên truyền, ông
Bùi Thế Đức cho rằng “cần phải coi chừng hoạt động tự diễn biến” có thể
làm sụp đổ đảng Cộng sản Việt Nam và sụp đổ chế độ.
Ông này cho rằng, tình hình Việt Nam hiện nay giống hệt Liên Xô hồi đảng
cộng sản nước này sắp bị lật nhào hồi năm 1991. Đặc biệt trong những
ngày qua, dư luận đòi nới rộng tự do báo chí cũng đã khiến “hệ thống
tuyên truyền miệng” hoang mang. Có người lo sợ lực lượng báo chí sẽ là
một sức mạnh “thúc đẩy quá trình tự diễn biến,” tức làm cho chế độ Cộng
sản Việt Nam tự sụp đổ.
Ông Bùi Thế Đức yêu cầu phải “cân nhắc khi lựa chọn tuyên truyền viên,
vì không khéo thì chính những người này cũng lại “phản tuyên truyền,”
quay sang nói xấu chế độ.
(Người Việt)
Bộ trưởng Quốc phòng Việt-Trung gặp song phương
(sao không hỏi nó vụ đưa tàu quân sự hộ tống tàu cá đến khai thác Trường Sa của mình???)
Bên lề Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 7 (ADMM-7) tại thủ đô
Bandar Seri Begawan của Brunei, tối 7/5, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt
Nam Phùng Quang Thanh đã gặp song phương Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc
Thường Vạn Toàn.
Tại cuộc gặp, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc khẳng định Trung Quốc và
Việt Nam là hai nước láng giềng gần gũi, có nhiều nét tương đồng, nhất
là trong lịch sử chống ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc; hai nước đã
và đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, giành được
nhiều thành tựu quan trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Bộ trưởng Thường Vạn Toàn nêu rõ Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc
trân trọng mối quan hệ gắn bó, tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước do
Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng.
Bộ trưởng đánh giá cao việc Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng lần thứ nhất và thiết lập cơ chế ADMM+.
Trung Quốc rất coi trọng quan hệ với Việt Nam và sẽ tiếp tục thúc đẩy
quan hệ giữa hai nước nói chung, quan hệ quốc phòng nói riêng lên một
bước mới.
Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh và Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn. (Ảnh: Quân Thủy/TTXVN) |
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh chúc mừng thành công Đại hội lần thứ 18 Đảng
Cộng sản Trung Quốc, chúc mừng đồng chí Thường Vạn Toàn được cử giữ
chức Ủy viên Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Uỷ viên Quốc
vụ viện, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đại
tướng bày tỏ niềm xúc động và chia sẻ trước những tổn thất lớn mà thiên
tai, thảm họa gây ra đối với nhân dân một số địa phương của Trung Quốc,
đặc biệt là hậu quả trận động đất xảy ra tại Tứ Xuyên tháng Tư vừa qua.
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh khẳng định: Đảng, Chính phủ, nhân dân và
Quân đội nhân dân Việt Nam luôn trân trọng, biết ơn sự giúp đỡ to lớn,
có hiệu quả của Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giành độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng đất
nước ngày nay. Việt Nam luôn coi trọng phát triển quan hệ láng giềng
hữu nghị tốt đẹp và bền vững lâu dài với Trung Quốc. Việc tăng cường hợp
tác, đoàn kết hữu nghị, hiểu biết tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam và
Trung Quốc là nhân tố quan trọng để giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu
vực.
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh giữa Việt Nam và Trung Quốc còn
một số vấn đề tồn tại trên biển do lịch sử để lại. Hai bên cần nghiêm
chỉnh tuân thủ Thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai
nước đã đạt được, cùng nhau giải quyết tranh chấp trên biển thông qua
đàm phán hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông
(DOC) và nỗ lực thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc về cách ứng xử của các bên ở
biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc…
Về hợp tác quốc phòng, hai bên cần tiếp tục thúc đẩy chiến lược đối
thoại quốc phòng, đẩy mạnh tiếp xúc, giao lưu, tham vấn ở các cấp để
tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau; sớm triển khai đường dây nóng ở
cấp Bộ Quốc phòng và cấp quân khu, Bộ đội Biên phòng; trao đổi về đào
tạo học viên.
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã trao cho Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc
thư mời thân nhân gia đình các đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Nguyễn
Sơn và các cựu chiến binh Trung Quốc từng sang giúp đỡ Việt Nam trong
các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước trước
đây sang thăm Việt Nam.
Bộ trưởng trân trọng mời Bộ trưởng Thường Vạn Toàn cùng phu nhân sang
thăm hữu nghị chính thức Việt Nam và đề nghị Bộ trưởng Thường Vạn Toàn
chuyển lời mời hai đồng chí Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc:
Phạm Trường Long, Hứa Kỳ Lượng và các đồng chí lãnh đạo khác của Quân
Giải phóng nhân dân Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Bộ trưởng Thường Vạn
Toàn vui vẻ nhận lời mời và sẽ sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam
vào thời điểm thích hợp./. (miễn bình luôn)
(TTXVN)
Tọa đàm Đàn Xã Tắc: Nóng mặt và... bỏ về
(bắn súng lục vào lịch sử, tương lai sẽ được đáp trả bằng đại bác)
Hòn đá "ghi dấu mốc" Đàn Xã Tắc |
Đại biểu vừa ngắt lời, nhận tiếng ồ và tràng pháo tay vang rền phía dưới, còn ông thì đi thẳng ra cửa, bỏ về.
Tọa đàm “Đàn Xã Tắc có đáng được bảo vệ không” diễn ra sáng 8/5, tại Hà
Nội, có sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học từng có những phát
ngôn về “Đàn Xã Tắc” trên báo chí thời gian qua.
Lý do tổ chức của cuộc tọa đàm bắt nguồn từ phát biểu của ông Nguyễn Văn
Hảo, người từng giữ chức Phó Viện trưởng Viện Khảo cổ học:“Hà Nội chưa
bao giờ tìm ra Đàn Xã Tắc”. Ngay sau đó, người phụ trách khai quật khảo
cổ học di tích này năm 2006, TS Nguyễn Hồng Kiên phản pháo: “Phát biểu
sai của ông Hảo hẳn đã khiến không ít người nghĩ chúng tôi làm ăn bậy
bạ”.
Cuộc tọa đàm sáng nay mục đích để các bên “ba mặt một lời” tranh luận trực tiếp, có gì nói thẳng với nhau.
“Còn cái Đàn bỏ nốt thì tôi cũng chịu”
Cuộc tọa đàm bắt đầu lúc 9h sáng, nhưng mới hơn 8h, hội trường tại Không
gian cà phê Trung Nguyên (đường Hai Bà Trưng, Hà Nội) đã trở nên nhốn
nháo vì hết chỗ ngồi.
Người thuyết trình chính, TS Sử học Nguyễn Hồng Kiên nhắc lại quá trình
ông phụ trách khảo cổ Di tích Đàn Xã Tắc và khẳng định cần phải bảo tồn.
Nhà nghiên cứu Bùi Thiết nhận mình là người 30 năm nay luôn chiến đấu vì
sự bảo tồn, nâng cấp di sản Thăng Long, đồng thời chống lại sự bịa đặt
những di sản cho Thăng Long một cách không có chứng cớ.
Ông Thiết cho rằng, không cần bàn cãi về di tích Đàn Xã Tắc. Lý do: “Các
cụ xưa không thể nói ngoa chuyện ấy được, không ai bịa đặt chuyện thần
thánh. Tôi không ngờ ông Nguyễn Văn Hảo là giáo sư lại phủ nhận ghi chép
của lịch sử”.
Ông Thiết đề nghị bảo vệ di tích Đàn Xã Tắc, bởi: “Bây giờ chúng ta chưa
có điều kiện làm, sau này con cháu chúng ta sẽ làm to hơn. Không có gì
giết chết Đàn Xã Tắc nhanh hơn là xây cầu vượt”.
Sau lời phát biểu, gần nửa hội trường đứng dậy vỗ tay ủng hộ ý kiến của
ông Thiết. Không khí hội trường “nóng” rừng rực khi bên dưới hàng loạt
cánh tay giơ lên. Một số đại biểu rời vị trí lên đứng phía hàng ghế đầu
cho tiện theo dõi và giơ tay phát biểu.
Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Việt Nam - KTS Đoàn Đức
Thành cho rằng cuộc tọa đàm này quá nhiều nhà khoa học mà thiếu “nhà
giao thông”. Ông mong ước, có nhà hoạch định giao thông tại đây để nghe ý
kiến từ các nhà khoa học.
Ông Thành hăng hái đưa ra những luận điểm chứng minh cho ý kiến của ông,
cần bảo vệ di tích Đàn Xã Tắc. Ông Thành khẳng định, việc tìm được ra
Đàn Xã Tắc như vậy là hết sức quý báu đối với người dân Thủ đô. Nên
khoanh vùng bảo vệ Đàn Xã Tắc đến cùng. Không thiếu phương án kiến trúc,
giải pháp cho giao thông qua khu vực Ô Chợ Dừa, chỉ có những ai “có vấn
đề” mới xây cầu qua đây.
Câu khẳng định chắc như đinh đóng cột của ông Thành nhận được sự cổ vũ
nhiệt thành của các đại biểu tham dự phía dưới. Ngày càng có nhiều đại
biểu muốn phát biểu và tràn lên hàng đứng ở hàng ghế đầu. Thậm chí, đang
giữa buổi họp, một đại biểu ở phía dưới đứng dậy, đề nghị các đại biểu
phía trên ngồi xuống, để anh em phía dưới có theo dõi.
PGS. TS Nguyễn Khắc Lợi tự nhận mình là nhà khoa học về văn bia nên ông
chỉ thông tin một số ý kiến về văn bia. Vị PGS này cho rằng, tại khu vực
Ô Chợ Dừa này có đình Đông Tác và văn bia ở Đình này thế kỷ 17 là biểu
trưng của Thăng Long Hà Nội.
“Nhưng giờ nó là trụ sở công an Phường Ô Chợ Dừa. Còn tấm bia đang lăn
lóc ở làng khác. Khu vực ấy thời Lê – Trịnh có Đàn Xã Tắc, Đình Đông Tác
quá đẹp nhưng chúng ta bỏ Đình, giờ còn cái Đàn Xã Tắc bỏ nốt thì tôi
cũng xin chịu”.
“Vồ trượt” Đàn Xã Tắc?
Càng lúc, buổi tọa đàm càng sôi nổi, những cánh tay tiếp tục giơ lên chờ
phát biểu. Ban tổ chức liên tiếp ngắt lời các đại biểu và ra quy chế
tại chỗ “phát biểu đúng trọng tâm và hạn thời gian không quá 5 phút”.
Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng UIA - TS. Vũ
Thế Khanh lên phát biểu về các tiêu chí của Đàn Xã Tắc. Ông Khanh đọc
tham luận quá dài, và “được” một tràng pháo tay cùng tiếng la ó mời
xuống khiến ông bối rối. Ông xin mọi người nghe thêm một chút và tiếp
tục đọc, nhưng vẫn bị vỗ tay. Ông lại tiếp tục đọc. Và lại bị vỗ tay.
Ban tổ chức đề nghị ông đi thẳng vào phần kết luận. Ông Khanh nổi nóng:
“Nếu các bác muốn tôi phát biểu có nên xây cầu vượt quan đó hay không,
tôi phát biểu tiếp, nếu không tôi không phát biểu nữa”.
Ban tổ chức xuống nước hỏi lại, vậy theo bác có nên xây hay không? Ông
Khanh còn chưa kịp nói, ban tổ chức đã mời đại biểu khác lên phát biểu.
Dưới hàng ghế đầu, vị đại biểu kia đã sẵn sàng.
Ông Khanh cố nói trong tiếng ồn ào: “Chúng ta đưa Đàn Xã Tắc lên cao,
làm cầu và dùng nghệ thuật kiến trúc và khoa học hiện đại đưa Đàn Xã Tắc
lên cao và làm cầu vượt đi qua”, ông Khanh nói câu cuối rồi đi thẳng ra
cửa, bỏ về.
Mặc dù chưa được BTC mời, nhưng do hết kiên nhẫn chờ đợi, ông Nguyễn Văn
Hảo, nguyên Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học – người từng có phát ngôn
Hà Nội chưa từng tìm ra Đàn Xã Tắc lên phát biểu.
Theo ông Hảo việc bảo vệ di tích có nhiều biện pháp khác nhau, điều đó
tùy thuộc từng loại di tích, thực trạng di tích mà chúng ta có biện pháp
thích hợp. Dù những năm trước các nhà khảo cổ đã khai quật hơn 900m2 để
tìm Đàn Xã Tắc và nhiều chuyên gia cho biết đã tìm được dấu tích của nó
ở đây.
Tuy nhiên, theo ông Hảo cuộc khai quật ở đây có thể nói là đã “vồ trượt”
Đàn Xã Tắc. “Đến nay, Đàn Xã Tắc vẫn giữ nguyên là một ẩn tích không
biết đến bao giờ mới tìm được. Nếu có tìm ra thì hình hài cũng đã bị phá
hủy nặng nề”.
Trong khi đa số ý kiến đòi bảo vệ di tích Đàn Xã Tắc, ý kiến của ông Hảo
có vẻ không được sự đồng tình của ban tổ chức, nhưng bên dưới vẫn có
những tiếng vỗ tay, reo hò cổ vũ. Trong lúc ban tổ chức loay hoay tìm
lời đáp lại ông thì ông đã lặng lẽ ra về. Có tiếng hỏi: “Bác ra ngoài
giải lao à?”, ông Hảo trả lời: “Về thôi chứ còn ở lại mà nghe cái quái
gì nữa”.
Ông Bùi Danh Liên, chủ tịch Hiệp Hội vận tải Hà Nội được một số tờ báo
phong chức “Đại sứ giao thông” với đề xuất ưu tiên giao thông, di tích
là quá khứ không có gì đáng để phải luyến tiếc... Tại tọa đàm, ông Liên
cho rằng, các nhà khoa học khi phát biểu ra ngôn luận đừng có "dọa dân".
Ví dụ như nói: Mất Đàn Xã Tắc là mất dân, mất nước; ngồi lên đầu tổ
tiên.
Ông Liên nói: “Người dân làm nhà cao tầng cũng gọi là ngồi lên đầu tổ
tiên à? Máy bay trên trời cũng là đi trên đầu tổ tiên, hay thành lập
vùng cấm bay qua Hà Nội đi”. Ông Liên kết luận, hãy dừng tranh luận, vì
có nói nữa cũng không đi đến đâu.
Kết thức tọa đàm, BTC kết luận: “Buổi tọa đàm hôm nay chỉ kể lại câu
chuyện về việc khai quật Đàn Xã Tắc trước đây. BTC không đưa ra kết luận
gì, qua các ý kiến tại đây, tự mỗi người dự có kết luận của riêng
mình”.
(Khám phá)
Bùng nổ các nhà thầu Trung Quốc tại Việt Nam
Tính đến cuối năm 2009, các công ty kỹ thuật của Trung Quốc đã tham gia
vào nhiều dự án của Việt Nam với trị giá lên đến 15.4 tỉ đô la, biến
Việt Nam trở thành thị trường lớn nhất của Trung Quốc tại Đông Nam Á.
Có hai nhân tố chính đối với sự tăng trưởng mạnh mẽ của các nhà thầu kỹ
thuật Trung Quốc ở Việt Nam là: các điều kiện đi kèm với các khoản vay
ưu đãi và các khoản tín dụng xuất khẩu ưu đãi của bên mua mà Trung Quốc
đã dành cho Việt Nam, và cách thức làm ăn “linh động” của các nhà thầu
Trung Quốc.
Thi thoảng, các nhà đấu thầu Trung Quốc còn phụ trách lên tới 90% các hợp đồng Kỹ thuật, Thuê mua, Xây dựng, gọi tắt là EPC (Engineering/Procurement/Construction) cho các nhà máy nhiệt điện tại Việt Nam. |
Trong khi các khoản trợ cấp của Trung Quốc dành cho Việt Nam bị hạn chế
từ năm 1991 thì các khoản cho vay ưu đãi đã lên tới 500 triệu USD tính
tới cuối năm 2010. Các khoản tín dụng xuất khẩu ưu đãi mà bên mua của
Trung Quốc dành cho Việt Nam cũng tăng lên tới 1 tỷ USD vào cuối năm
2008.
Nhưng nếu muốn nhận được những khoản vay ưu đãi này cũng như các khoản
tín dụng xuất khẩu ưu đãi từ phía Trung Quốc, Việt Nam cần phải sử dụng
các nhà thầu, công nghệ, thiết bị cũng như dịch vụ của Trung Quốc cho
các dự án có liên quan.
Chính những điều kiện đi kèm này đã góp phần lớn dẫn tới sự gia tăng các
nhà thầu và công ty kỹ thuật của Trung Quốc tại Việt Nam.
Trong khi đó, đối với các dự án được tài trợ theo các cách khác và có sự
góp mặt của cả các nhà thầu quốc tế thì lại có những kẽ hở trong Luật
Đấu thầu của Việt Nam, theo đó giá thành thấp sẽ được lợi hơn so với các
tiêu chuẩn kỹ thuật.
Các nhà thầu Trung Quốc có thể đưa ra mức giá thấp hơn nhiều so với các
nhà thầu khác nên họ có được lợi thế cao trong các dự án kiểu này. Nhưng
vấn đề nảy sinh là sau khi nhận được hợp đồng đấu thầu, các công ty
Trung Quốc thường cố tìm cách tiết kiệm chi phí bằng cách thuyết phục
các chủ dự án thay đổi các điều khoản ban đầu của hợp đồng, hoặc thậm
chí chằng thèm đoái hoài gì tới chúng.
Không có gì là lạ khi mà số lượng nhà thầu Trung Quốc tăng lên cũng đi kèm với nhiều vấn đề nghiệm trọng tại Việt Nam.
Trước hết, thông tin về việc hoạt động yếu kém của các công ty Trung
Quốc đã được các phương tiện thông tin đại chúng lan truyền rộng rãi,
chủ yếu là về việc các nhà thầu đã không đảm bảo được chất lượng, không
có khả năng làm theo đúng thời hạn hoặc vi phạm điều khoản trong hợp
đồng. Những chi phí phát sinh này đã cản trở sự phát triển bền vững cơ
sở hạ tầng của Việt Nam.
Thứ hai, chính các điều kiện đi kèm với các ưu đãi từ phía Trung Quốc
dành cho Việt Nam đã yêu cầu bên Việt Nam nhập khẩu công nghệ, thiết bị
và cả dịch vụ từ phía Trung Quốc. Điều này đã làm cho thâm hụt thương
mại của Việt Nam so với Trung Quốc ngày càng trầm trọng hơn – 9 tỉ USD
trong năm 2007 và 16.4 tỉ USD trong năm 2012.
Cuối cùng, các nhà thầu Trung Quốc đòi được sử dụng lao động Trung Quốc.
Họ cho rằng điều này giúp họ tránh những rắc rối từ rào cản ngôn ngữ và
ngoài ra thì lao động Trung Quốc cũng có kỹ năng hơn. Đây là một sự
thiệt thòi lớn đối với người lao động Việt Nam.
Những vấn đề nay đã gây ra những vấn đề nghiêm trọng đối với quan hệ kinh tế cũng như chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trước tiên, việc Việt Nam phụ thuộc vào các nhà thầu Trung Quốc đã giấy
lên lo lắng về an ninh quốc gia, đặc biệt là an ninh năng lượng của Việt
Nam.
Tình trạng chậm trễ và chất lượng công trình nhà máy điện thấp do các
nhà thầu Trung Quốc xây dựng đã làm cho tình trạng thiếu điện ở Việt Nam
trở nên trầm trọng hơn.
Tiếp đến là sự ồ ạt công nhân Trung Quốc, hợp pháp cũng như bất hợp
pháp, trong khu vực quanh các công trình đã gây ra tâm lý bất mãn trong
quần chúng nhân dân Việt Nam. Ngoài việc người lao động Việt Nam ở đây
bị thiệt thòi, họ còn phải gánh chịu những bất ổn an ninh do phía công
nhân Trung Quốc gây ra. Có nhiều tin tức liên quan tới việc lao động
Trung Quốc đã vi phạm luật, gây rối trật tự xã hội, thậm chí đánh nhau
với cư dân địa phương. Ví dụ như việc hàng trăm công nhân Trung Quốc làm
việc cho nhà thầu Chalieco tại nhà máy nhôm ở Tây Nguyên đã dẫn tới
những phản đối từ các nhân vật cao cấp của Việt Nam – trong đó có cả Đại
tướng Võ Nguyễn Giáp. Ông cho rằng việc có một số lượng lớn lao động
Trung Quốc ở Tây Nguyên có thể tạo ra một chỗ đứng cho Trung Quốc trong
các lĩnh vực có tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam.
Thứ ba, chất lượng các dự án do Trung Quốc đấu thầu quá kém đã làm cho
phần đông người dân Việt Nam thấy bất mãn và cả những tổ chức và các nhà
hoạch định chính sách của Việt Nam cũng lên tiếng phản ứng mạnh mẽ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang sửa đổi Luật Đấu thầu để cho phép các chủ dự
án loại bỏ các nhà thầu không đủ điều kiện, những người đưa ra mức giá
thấp nhưng dường như không có khả năng cung cấp dịch vụ có chất lượng.
Luật được sửa đổi cũng quy định rằng các nhà thầu đã trúng thầu không
được phép sử dụng lao động nước ngoài cho công việc mà công nhân Việt
Nam có thể làm được. Luật cũng đặt ra các giới hạn về nhập khẩu hàng hóa
và thiết bị nào đã sẵn có tại địa phương.
Những quy định như vậy, một khi được thông qua, sẽ làm yếu đi khả năng cạnh tranh của các nhà thầu Trung Quốc tại Việt Nam.
Kể từ khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc được bình thường hóa, có
thể thấy tình trạng phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai nước đang
ngày càng gia tăng, và đây là nền tảng quan trọng cho mối quan hệ hòa
bình và ổn định giữa hai quốc gia.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc này cũng có cái giá của nó. Việc các nhà thầu
Trung Quốc áp đảo tại Việt Nam đã tạo ra tâm lý thù địch trong quần
chúng người Việt và tiếp tục khoan sâu thêm mối ngờ vực của người dân
Việt Nam đối với Trung Quốc.
Lê Hồng Hiệp, VNU and UNSW@ADFA – EAF
Anh Khôi chuyển ngữ, CTV Phía Trước
© 2013 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
Trần Kinh Nghị - Nhớ Cụ Phan Chu Trinh với 10 điều bi ai của dân tộc Việt Nam
Phan Chu Trinh (1872-1926) |
Sinh ngày 9/9/1872 tại Tây Lộc, Tiên Phước, Tam Kỳ (nay là Tam Lộc,
Phú Ninh) tỉnh Quảng Nam, mất ngày 24/3/1926, Cụ Phan Chu Trinh là người
Việt Nam đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) nhìn thấy trước cảnh “dịch
chủ tái nô” (đổi chủ nhưng dân vẫn là nô lệ)…Để tránh điều này, Cụ đã
chỉ ra con đường giành độc lập – tự do cho dân tộc là phải bắt đầu từ
“khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.
Lời tiên tri của Cụ xuất phát từ 10 nhận xét vô cùng tinh tế và
chính xác về đặc điểm con người Việt Nam mà đối chiếu thực tế ngày nay
vẫn còn nguyên thâm căn cố đế (xem dưới đây). Tiếc thay các thế hệ nối
tiếp nhau đến nay vẫn chưa thực hiện đúng theo lời lời giáo huấn của Cụ.
Dẫu sao, chậm còn hơn không bao giờ, mỗi người Việt Nam chúng ta dù
sống ở đâu và làm việc gì, còn trẻ hay đã già hãy chiêm nghiệm những lời
dạy trên đây của bậc Tiền bối đáng kính của dân tộc-
Mười điều bi ai của dân tộc Việt nam
1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì
lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống
nhục nhã đoạ đày.
2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.
3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang
trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.
4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì
ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.
5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm
cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất
nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở
thành vô dụng.
6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết;
thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết
trâu.
7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo;
thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực
nghiệp.
8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý,
thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.
9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta
chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.
10. Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ”
của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia
đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v…
Trần Kinh Nghị
(Blog Trần Kinh Nghị)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét