Bộ chính trị: Nhà máy đốt tiền
Hình minh họa |
Khi chuẩn bị đốt tiền, ông Thủ Tướng nào cũng tuyên bố một câu có chân
lý nhất trong các câu tuyên bố: “Đã được Bộ Chính Trị thông qua”!
Bài báo này không dám minh chứng tất cả các đề án, dự án, quy hoạch… của nhà nước CHXHCNVN sợ làm mất thời giờ quý báu của người đọc, nhân đọc được trên báo chuyện thủ tướng Dũng phát lệnh đốt tiền bằng dự án mạng xã hội thanh niên mà số tiền quy ra thóc là 200 triệu usd, “Đã được Bộ Chính Trị thông qua”!
Vậy là người đại biểu nhân dân chỉ biết nghe và nhìn, nhân dân không có lấy một suất vé dự, đúng nguyên tắc thôi, vì số tiền được đốt phải trên 10.000 tỷ mới phải thông qua QH, việc xé lẻ một quy hoạch ra thành nhiều dự án (module) lẻ là quá hợp tình hợp lý chăng? Dích zắc ở chỗ Thủ tướng phải là đại biểu Quốc hội nhưng cũng là cùng mâm với Bộ Chính Trị?!!
Tổng mức đầu tư của Bauxite là cỡ 250.000 tỷ đồng (năm 2007) quy hoạch tới năm 2029, giờ này sơ bộ tổng kết đốt hết bao nhiêu cũng chưa ai biết được ngoài Bộ chính trị.
Khi một đề án, dự án, quy hoạch…“Đã được Bộ Chính Trị thông qua”, có nghĩa là ai cũng không hiểu chỉ có 4 người được hiểu, sau này sai trái tội lỗi thì gánh nặng này đã được chia tư rồi, khỏe!
Cả một đất nước sụt sùi nhìn cảnh chảy máu của cải, thôi thì quy ra USD nghe cho nó đỡ xót, dân ta nghèo khó có thói quen ưa quy ra thóc (bữa nhậu của quan hết vài tấn thóc còn thiếu).
Đề án 112 (Quyết định 112 ngày 25/7/2001) “Đề án Tin học hóa hành chính nhà nước” mức dự án 3.800 tỷ, chưa thưc hiện xong thì sâu đã ăn hết khá nhiều, phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ cũng là một con sâu bị khởi tố.
Tháng 4/2007 Thủ tướng Dũng chỉ đạo ngưng đề án.
Theo thằng dân @ tôi thì Bộ Chính Trị nên nói gì với bá tánh đi chứ, “người đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” đúng chăng hay là “người đại biểu đẻ ra quái thai không thèm thừa nhận”
Tôi là Nguyễn minh Dân, khu vực Đồng bằng sông Hồng, công dân của nước gọi là CHXHCN Việt Nam dám đánh cược với Bộ chính trị về cái đề án mạng xã hội đoàn viên thanh niên không chửa mà sắp đẻ rằng:
- Thất bại còn thảm hại hơn Bauxite, 112 tin học hóa…
- Sâu hại bầy đàn lần này còn nhiều gấp bốn lần đề án 112
- Quốc hội sẽ lên tiếng.
- Tính không minh bạch, tính tương tác tiện nghi người dùng, tính xâm phạm riêng tư công dân của mạng xã hội này là không có gì đảm bảo.
Xin bà con thông cảm, vì tôi không rành về điều lệ đảng CSVN, bạn đọc và các đảng viên đảng cs lượng thứ.
Minh Dân
(DLB)
Bài báo này không dám minh chứng tất cả các đề án, dự án, quy hoạch… của nhà nước CHXHCNVN sợ làm mất thời giờ quý báu của người đọc, nhân đọc được trên báo chuyện thủ tướng Dũng phát lệnh đốt tiền bằng dự án mạng xã hội thanh niên mà số tiền quy ra thóc là 200 triệu usd, “Đã được Bộ Chính Trị thông qua”!
Vậy là người đại biểu nhân dân chỉ biết nghe và nhìn, nhân dân không có lấy một suất vé dự, đúng nguyên tắc thôi, vì số tiền được đốt phải trên 10.000 tỷ mới phải thông qua QH, việc xé lẻ một quy hoạch ra thành nhiều dự án (module) lẻ là quá hợp tình hợp lý chăng? Dích zắc ở chỗ Thủ tướng phải là đại biểu Quốc hội nhưng cũng là cùng mâm với Bộ Chính Trị?!!
Tổng mức đầu tư của Bauxite là cỡ 250.000 tỷ đồng (năm 2007) quy hoạch tới năm 2029, giờ này sơ bộ tổng kết đốt hết bao nhiêu cũng chưa ai biết được ngoài Bộ chính trị.
Khi một đề án, dự án, quy hoạch…“Đã được Bộ Chính Trị thông qua”, có nghĩa là ai cũng không hiểu chỉ có 4 người được hiểu, sau này sai trái tội lỗi thì gánh nặng này đã được chia tư rồi, khỏe!
Cả một đất nước sụt sùi nhìn cảnh chảy máu của cải, thôi thì quy ra USD nghe cho nó đỡ xót, dân ta nghèo khó có thói quen ưa quy ra thóc (bữa nhậu của quan hết vài tấn thóc còn thiếu).
Đề án 112 (Quyết định 112 ngày 25/7/2001) “Đề án Tin học hóa hành chính nhà nước” mức dự án 3.800 tỷ, chưa thưc hiện xong thì sâu đã ăn hết khá nhiều, phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ cũng là một con sâu bị khởi tố.
Tháng 4/2007 Thủ tướng Dũng chỉ đạo ngưng đề án.
Theo thằng dân @ tôi thì Bộ Chính Trị nên nói gì với bá tánh đi chứ, “người đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” đúng chăng hay là “người đại biểu đẻ ra quái thai không thèm thừa nhận”
Tôi là Nguyễn minh Dân, khu vực Đồng bằng sông Hồng, công dân của nước gọi là CHXHCN Việt Nam dám đánh cược với Bộ chính trị về cái đề án mạng xã hội đoàn viên thanh niên không chửa mà sắp đẻ rằng:
- Thất bại còn thảm hại hơn Bauxite, 112 tin học hóa…
- Sâu hại bầy đàn lần này còn nhiều gấp bốn lần đề án 112
- Quốc hội sẽ lên tiếng.
- Tính không minh bạch, tính tương tác tiện nghi người dùng, tính xâm phạm riêng tư công dân của mạng xã hội này là không có gì đảm bảo.
Xin bà con thông cảm, vì tôi không rành về điều lệ đảng CSVN, bạn đọc và các đảng viên đảng cs lượng thứ.
Minh Dân
(DLB)
Góp ý với Chủ tịch Trương Tấn Sang
“Về vai trò của Đảng với quân đội. Tôi cho rằng Đảng
ta lập ra quân là để bảo vệ Tổ quốc, nhân dân chứ không phải là lập ra
là bảo vệ, trung thành với Đảng, vì vậy quân đội phải trung thành, bảo
vệ Tổ quốc, nhân dân rồi mới đến Đảng, có như vậy mới đúng chứ. Nay vì theo tập quán, nhận thức vẫn chưa thực hiện được.
Theo Hiến pháp: Chủ tịch là Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang, nhưng hiện nay theo tập quán là khi trong kháng chiến vẫn đặt ra vấn đề do người đứng đầu Đảng trực tiếp thống lĩnh quân đội nên vẫn để như cũ, sau này nếu có sửa đổi thì xem xét lại thế nào cho hợp lý và phù hợp với phong cách quốc tế hiện nay”.
Đọc
được lời phát biểu trên đây của Chủ tịch tại Câu lạc bộ Thăng Long vào
hồi 10 giờ ngày 19 tháng 2 năm 2013, tôi nhớ câu nói của một số lãnh đạo
Việt Nam khi Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa của Việt nam, đại khái là
“bạn giữ dùm mình, sau này bạn cũng sẽ trả lại cho mình thôi...”.
Như
thế là đã rõ ràng, tập thể 14 vị trong Bộ Chính trị đã quyết và ông
Sang là phe thiểu số, là một trong có lẽ không đến năm đầu ngón tay
những người cùng chí hướng. Ai đời Hiến pháp lại thua tập quán – tập
quán ngồi xổm trên Hiến pháp. Mà nói cho cạn ý, tập quán đó cũng chỉ là ý
muốn của mấy ông trong Bộ Chính trị trừ đi một vài. Rồi đây họ sẽ bảo
là “nhất trí” – nhất chi mà 14 trừ đi một (hay vài người)…!
Nay
vì tập quán, có lẽ thứ tập quán “hợp tác toàn diện” vì bên nước lạ nhóm
thất nhân bang (bọn bảy người) cũng đòi Quân đội phải trung với Đảng.
Thế
thì trong mấy Hiến pháp trước, lời minh định là Bộ đội, Công an là phải
luôn luôn “trung với nước, hiếu với dân” trong suốt mấy mươi năm không
là tập quán sao – một tập quán hợp lòng dân hợp truyền thống của Dân
tộc? Ngay bản thân dân Trung Quốc, có lẽ ngoại trừ một bộ phận đảng viên
người máy, ai mà cho điều “quân đội phải trung với Đảng” là điều đúng
đắn? Thời Mao Trạch Đông, người mà dân Tàu coi như thần thánh cũng không
có điều tương tự, dù trên trực tế người ta đã thề trung thành với Mao
Chủ tịch, nhưng chưa bao giờ trong Hiến pháp của họ ghi điều“quân đội
trung với Đảng” mà chỉ có là Quân đội Nhân dân.
Trích dẫn bài "Lực lượng vũ trang phải trung thành với tổ quôc" của nhà cách mạng lão thành cựu Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ VN tại Trung Quốc:
“Năm
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói Trung với nước, hiếu với dân nên trên
báo chí và trong các văn kiện sau này ghi “Quân đội ta từ nhân dân mà
ra, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
“Năm
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói Trung với nước, hiếu với dân nên trên
báo chí và trong các văn kiện sau này ghi “Quân đội ta từ nhân dân mà
ra, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
"Trong
Hiến pháp 1980, tại Chương IV Điều 51 ghi “Các lực lượng vũ trang nhân
dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc và nhân dân…”.
Trong Hiến pháp
1992, tại Chương IV Điều 45 vẫn còn ghi “Các lực lượng vũ trang nhân dân
phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…”".
Chủ tịch Sang ơi, một mặt ông bảo “Đảng cũng phải tuân thủ Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước, không thể đứng trên Hiến pháp và Pháp luật được”,
một mặt ông bảo chưa làm được vì “tập quán”, ông ngụy biện quá xá và
ông muốn nói sao cho nghe êm tai để qua chuyện… Ngày Hoàng Sa bị mất,
các luận cứ tương tự đã được đưa ra từ Bộ Chính trị là những người chịu
trách nhiệm cao nhất trước Dân tộc… Họ đã xây thành phố Tam Sa hoành
tráng rồi, ông không biết sao?
Tôi tin rằng các
anh chị em Bộ đội, dù có bị buộc hô to, vung tay thề “trung với Đảng”
thì trong lòng của họ, trừ đi những kẻ mà lý trí, lòng yêu nước đã bị
kẹp trong trang bìa sổ hưu, lúc ấy đã coi đó là lời thề trớt quớt… Mà đã
là trớt quớt thì khi phải chọn lựa thì chuyện phản lại hay làm cho lời
thề thành trớt quớt là điều các anh các chị có quyền và thoải mái làm và
Dân tộc sẽ đánh giá cao việc làm ấy. Nếu Đảng lãnh đạo và dẫn dắt Dân
tộc trọn vẹn trên con đường giữ nước và dựng nước thì không cần đến lời
thề “trớt quớt” đó ta cũng sẽ theo Đảng đến cùng như trong những năm
tháng kháng chiến chống Pháp dành Độc lập.
Đã “Trung với nước, hiếu với dân” thì
trong bất cứ hoàn cảnh nào ta cũng biết đâu là tối thượng, điều gì là
thiêng liêng nhất để dẫn dắt chúng ta hành đông, kể cả như tiền nhân
chúng ta, vua Lê Thánh Tôn đã nói “Ai để mất một tấc đất của tổ tiên thì phải tru di tam tộc!!!”. Và ai đó trước sau gì Nhân dân cũng sẽ biết.
01-04-2013
Trần Bích Đăng
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Thêm một chiến dịch vận động nhân quyền cho Việt Nam
Cuộc tổng vận động vào đầu tháng 6 với phái đoàn hằng trăm người Việt sẽ đổ về thủ đô Washington tới các văn phòng dân biểu và thượng nghị sĩ kêu gọi ủng hộ hai đạo luật nhân quyền cho Việt Nam.
03.04.2013
Thêm một chiến dịch vận động nhân quyền cho Việt Nam khởi sự tại Hoa Kỳ
trước khi cuộc đối thoại nhân quyền thường niên Việt-Mỹ diễn ra vào
giữa tháng này.
Chiến dịch do Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS đề xướng bắt đầu từ ngày 10/4 với các buổi họp và điều trần tại Quốc hội Mỹ và sẽ kết thúc bằng cuộc tổng vận động vào đầu tháng 6 với phái đoàn hằng trăm người Việt đổ về thủ đô Washington tới các văn phòng dân biểu và thượng nghị sĩ kêu gọi ủng hộ hai đạo luật nhân quyền cho Việt Nam và đặt điều kiện nhân quyền với Hà Nội khi thương nghị Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP.
Trong cuộc trao đổi với Trà Mi ngày 3/4, Giám đốc điều hành tổ chức BPSOS, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, cho biết thêm chi tiết nghị trình cuộc vận động năm nay.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Ngày 10/4 sẽ có cuộc họp với các nhân viên lập pháp trong Ủy ban Đối ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ. Sau đó sẽ có cuộc họp báo về vấn đề nhân quyền Việt Nam ngay tại Hạ viện. Chiều 10/4 sẽ có cuộc họp với Chủ tịch Ủy hội Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ về tình hình đàn áp tôn giáo tại Việt Nam.
Ngày 11/4 sẽ có cuộc điều trần tại Hạ viện Mỹ về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, tập trung vào 3 lĩnh vực: đàn áp tôn giáo, nạn tra tấn-bạo hành của công an, và nạn buôn người.
Vài tuần sau đó sẽ có cuộc điều trần nối tiếp, tập trung vào vấn đề tài sản của các giáo hội và của công dân Hoa Kỳ gốc Việt đã và đang bị cưỡng đoạt bởi chính quyền Việt Nam.
Hai cuộc điều trần này là nền móng cho hai đạo luật nhân quyền Việt Nam hy vọng được đưa vào Hạ viện Mỹ vào tháng 5 gồm Đạo luật Nhân quyền Việt Nam và Đạo luật Chế tài những kẻ vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Ngày 4/6 sẽ có cuộc tổng vận động tại Hạ và Thượng viện Quốc hội Hoa Kỳ để kêu gọi ủng hộ hai đạo luật này.
VOA: Thành phần tham dự các buổi điều trần này gồm những ai?
Tiến sĩ Nguyễn Ðình Thắng, Giám đốc điều hành tổ chức BPSOS.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Các nhân chứng ra điều trần ngày 11/4 gồm cựu dân biểu Cao Quang Ánh, ông Võ Văn Ái từ Pháp đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một giáo dân Cồn Dầu đã chứng kiến cuộc đàn áp ngày 4/5/2010, thân nhân của một nạn nhân buôn người trong số 15 cô gái Việt bị bán sang Nga làm mại dâm (mà hiện còn 8 cô đang trong tay những kẻ buôn người). Có tổng cộng 5 nhân chứng người Việt ra điều trần. Người thứ năm chúng tôi đang quyết định. Đây là cuộc điều trần hỗn hợp của hai Tiểu ban dưới Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ. Chúng tôi kỳ vọng có sự tham dự của Chủ tịch Tiểu ban đặc trách nhân quyền là dân biểu Christopher Smith và Chủ tịch Tiểu ban đặc trách Đông Á-Thái Bình Dương là dân biểu Steve Chabot, cùng một số các vị thường xuyên quan tâm về vấn đề Việt Nam như dân biểu Ed Royce, Frank Wolf, và Zoe Lofgren.
VOA: Nội dung buổi điều trần thứ nhì xoay quanh vấn đề tài sản giáo hội và tài sản công dân Mỹ gốc Việt bị tước đoạt. Vì sao vấn đề này được đặt ra trong cuộc vận động nhân quyền Việt Nam năm nay?
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Đất đai là một vấn đề nhân quyền, nằm trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Mọi người đều có quyền sở hữu đất và không bị tước đoạt. Việc cưỡng chế đất đai đang là vấn đề nóng hổi ở Việt Nam hiện nay, gây ra hoạn nạn cho các nông dân và các giáo hội. Đó là công cụ đàn áp của chế độ nhắm vào các giáo hội độc lập như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo hội Phật giáo Khme Krom, và những người Hmong, người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo đạo Tin Lành..v.v...Đối với các dân oan tại Việt Nam bị tịch thu đất đai, Hoa Kỳ không có tiếng nói mạnh mẽ được vì coi như “chuyện nội bộ”, nhưng trong suốt 37 năm qua, chính quyền Việt Nam đã tước đoạt tài sản của công dân Mỹ. Đó là vi phạm luật quốc tế. Luật pháp Hoa Kỳ đòi hỏi hành pháp phải có biện pháp chế tài đối với bất kỳ chính quyền nào đã tước đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Có đến chục hay trăm ngàn trường hợp bỏ nước ra đi từ năm 1975 hiện đã trở thành công dân Hoa Kỳ mà tài sản của họ đã bị chính quyền Việt Nam tước đoạt.
VOA: Cuộc vận động tổng thể lần này có những điểm giống và khác ra sao so với chiến dịch vận động thỉnh nguyện thư vào Tòa Bạch Ốc kêu gọi nhân quyền cho Việt Nam hồi năm ngoái?
Một nạn nhân của nạn buôn người, cô Vũ Phương Anh (thứ nhì từ bên phải), phát biểu trong một cuộc điều trần trước tiểu ban nhân quyền của Ủy ban đối ngoại Hạ-viện Hoa Kỳ, ngày 24/1/2012.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Đây là bước nối tiếp. Sau cuộc vận động vào Tòa Bạch Ốc tháng 3 năm ngoái, chúng tôi đã làm việc và hướng dẫn các phái đoàn tiếp tục vận động tại địa phương. Bây giờ, họ trở lại thủ đô Washington để tiếp tục vận động. Điểm khác biệt là năm nay chúng tôi làm quy củ hơn gồm ba bước. Thứ nhất là các buổi điều trần và tiếp xúc trong 10 và 11/4. Cuộc điều trần kế tiếp vài tuần sau đó hy vọng sẽ mời được các giới chức hành pháp tham gia để trả lời các thắc mắc của phía lập pháp trong Quốc hội Hoa Kỳ. Sau hai cuộc điều trần này sẽ có hai đạo luật được đưa ra để làm mấu chốt khởi động cuộc vận động từ địa phương lên đến toàn liên bang vào đầu tháng 6. Năm nay là năm đầu trong nhiệm kỳ hai năm của Quốc hội Mỹ. Chúng ta khởi đầu sớm sẽ có thời gian dài hơn để vận động cho các đạo luật về nhân quyền đối với Việt Nam.
Đặc biệt năm nay tại Việt Nam đang có phong trào đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp. Các giáo hội độc lập trong nước đã lên tiếng mạnh mẽ và chúng tôi cũng muốn yểm trợ cho các tiếng nói đó để đòi hỏi thay đổi Hiến pháp Việt Nam.
VOA: Cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ năm nay diễn ra vào giữa tháng 4 này tại Hà Nội. Thời gian sự kiện đó và chiến dịch vận động nhân quyền bắt đầu từ 10/4 kéo dài đến tháng 6 có sự trùng hợp..
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Vâng, rất đúng. Nó trùng hợp vì có lý do. Chúng tôi muốn có cuộc điều trần trước khi phái đoàn Bộ Ngoại giao Mỹ lên đường đi Việt Nam. Sau khi họ trở về lại có cuộc điều trần thứ nhì. Chúng tôi đang làm việc với Quốc hội Hoa Kỳ để yêu cầu một số giới chức hành pháp tới cuộc điều trần thứ hai này trình bày về chuyến đi đó xem họ đã nêu những vấn đề gì, thỏa thuận những điều nào, và đã có những tiến bộ nào từ phía Việt Nam hay chưa.
VOA: Về mục tiêu của chiến dịch, những người tổ chức kỳ vọng đạt được những điều gì sau cuộc vận động năm nay?
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Kỳ vọng thứ nhất, hành pháp và Quốc hội Mỹ sẽ có thể thức hội ý, hợp tác thường xuyên, đều đặn, chính thức với người Mỹ gốc Việt. Mục tiêu thứ hai, đạt những điểm trọng tâm trong công cuộc tranh đấu nhân quyền Việt Nam, trong vấn đề đối ngoại của Mỹ với Việt Nam như thúc đẩy Việt Nam tôn trọng tự do tôn giáo, ngưng các biện pháp tra tấn và nạn công an bạo hành, thực tâm phòng-chống nạn buôn người, và chính quyền Hoa Kỳ phải công tâm thi hành trách nhiệm bảo vệ quyền lợi-tài sản của công dân Mỹ hiện đang bị xâm phạm bởi chính quyền Việt Nam.
VOA: Xin chân thành cảm ơn anh đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.
Trà Mi-VOA
Chiến dịch do Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS đề xướng bắt đầu từ ngày 10/4 với các buổi họp và điều trần tại Quốc hội Mỹ và sẽ kết thúc bằng cuộc tổng vận động vào đầu tháng 6 với phái đoàn hằng trăm người Việt đổ về thủ đô Washington tới các văn phòng dân biểu và thượng nghị sĩ kêu gọi ủng hộ hai đạo luật nhân quyền cho Việt Nam và đặt điều kiện nhân quyền với Hà Nội khi thương nghị Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP.
Trong cuộc trao đổi với Trà Mi ngày 3/4, Giám đốc điều hành tổ chức BPSOS, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, cho biết thêm chi tiết nghị trình cuộc vận động năm nay.
Thêm một chiến dịch vận động nhân quyền cho Việt Nam
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Ngày 10/4 sẽ có cuộc họp với các nhân viên lập pháp trong Ủy ban Đối ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ. Sau đó sẽ có cuộc họp báo về vấn đề nhân quyền Việt Nam ngay tại Hạ viện. Chiều 10/4 sẽ có cuộc họp với Chủ tịch Ủy hội Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ về tình hình đàn áp tôn giáo tại Việt Nam.
Ngày 11/4 sẽ có cuộc điều trần tại Hạ viện Mỹ về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, tập trung vào 3 lĩnh vực: đàn áp tôn giáo, nạn tra tấn-bạo hành của công an, và nạn buôn người.
Vài tuần sau đó sẽ có cuộc điều trần nối tiếp, tập trung vào vấn đề tài sản của các giáo hội và của công dân Hoa Kỳ gốc Việt đã và đang bị cưỡng đoạt bởi chính quyền Việt Nam.
Hai cuộc điều trần này là nền móng cho hai đạo luật nhân quyền Việt Nam hy vọng được đưa vào Hạ viện Mỹ vào tháng 5 gồm Đạo luật Nhân quyền Việt Nam và Đạo luật Chế tài những kẻ vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Ngày 4/6 sẽ có cuộc tổng vận động tại Hạ và Thượng viện Quốc hội Hoa Kỳ để kêu gọi ủng hộ hai đạo luật này.
VOA: Thành phần tham dự các buổi điều trần này gồm những ai?
Tiến sĩ Nguyễn Ðình Thắng, Giám đốc điều hành tổ chức BPSOS.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Các nhân chứng ra điều trần ngày 11/4 gồm cựu dân biểu Cao Quang Ánh, ông Võ Văn Ái từ Pháp đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một giáo dân Cồn Dầu đã chứng kiến cuộc đàn áp ngày 4/5/2010, thân nhân của một nạn nhân buôn người trong số 15 cô gái Việt bị bán sang Nga làm mại dâm (mà hiện còn 8 cô đang trong tay những kẻ buôn người). Có tổng cộng 5 nhân chứng người Việt ra điều trần. Người thứ năm chúng tôi đang quyết định. Đây là cuộc điều trần hỗn hợp của hai Tiểu ban dưới Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ. Chúng tôi kỳ vọng có sự tham dự của Chủ tịch Tiểu ban đặc trách nhân quyền là dân biểu Christopher Smith và Chủ tịch Tiểu ban đặc trách Đông Á-Thái Bình Dương là dân biểu Steve Chabot, cùng một số các vị thường xuyên quan tâm về vấn đề Việt Nam như dân biểu Ed Royce, Frank Wolf, và Zoe Lofgren.
VOA: Nội dung buổi điều trần thứ nhì xoay quanh vấn đề tài sản giáo hội và tài sản công dân Mỹ gốc Việt bị tước đoạt. Vì sao vấn đề này được đặt ra trong cuộc vận động nhân quyền Việt Nam năm nay?
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Đất đai là một vấn đề nhân quyền, nằm trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Mọi người đều có quyền sở hữu đất và không bị tước đoạt. Việc cưỡng chế đất đai đang là vấn đề nóng hổi ở Việt Nam hiện nay, gây ra hoạn nạn cho các nông dân và các giáo hội. Đó là công cụ đàn áp của chế độ nhắm vào các giáo hội độc lập như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo hội Phật giáo Khme Krom, và những người Hmong, người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo đạo Tin Lành..v.v...Đối với các dân oan tại Việt Nam bị tịch thu đất đai, Hoa Kỳ không có tiếng nói mạnh mẽ được vì coi như “chuyện nội bộ”, nhưng trong suốt 37 năm qua, chính quyền Việt Nam đã tước đoạt tài sản của công dân Mỹ. Đó là vi phạm luật quốc tế. Luật pháp Hoa Kỳ đòi hỏi hành pháp phải có biện pháp chế tài đối với bất kỳ chính quyền nào đã tước đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Có đến chục hay trăm ngàn trường hợp bỏ nước ra đi từ năm 1975 hiện đã trở thành công dân Hoa Kỳ mà tài sản của họ đã bị chính quyền Việt Nam tước đoạt.
VOA: Cuộc vận động tổng thể lần này có những điểm giống và khác ra sao so với chiến dịch vận động thỉnh nguyện thư vào Tòa Bạch Ốc kêu gọi nhân quyền cho Việt Nam hồi năm ngoái?
Một nạn nhân của nạn buôn người, cô Vũ Phương Anh (thứ nhì từ bên phải), phát biểu trong một cuộc điều trần trước tiểu ban nhân quyền của Ủy ban đối ngoại Hạ-viện Hoa Kỳ, ngày 24/1/2012.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Đây là bước nối tiếp. Sau cuộc vận động vào Tòa Bạch Ốc tháng 3 năm ngoái, chúng tôi đã làm việc và hướng dẫn các phái đoàn tiếp tục vận động tại địa phương. Bây giờ, họ trở lại thủ đô Washington để tiếp tục vận động. Điểm khác biệt là năm nay chúng tôi làm quy củ hơn gồm ba bước. Thứ nhất là các buổi điều trần và tiếp xúc trong 10 và 11/4. Cuộc điều trần kế tiếp vài tuần sau đó hy vọng sẽ mời được các giới chức hành pháp tham gia để trả lời các thắc mắc của phía lập pháp trong Quốc hội Hoa Kỳ. Sau hai cuộc điều trần này sẽ có hai đạo luật được đưa ra để làm mấu chốt khởi động cuộc vận động từ địa phương lên đến toàn liên bang vào đầu tháng 6. Năm nay là năm đầu trong nhiệm kỳ hai năm của Quốc hội Mỹ. Chúng ta khởi đầu sớm sẽ có thời gian dài hơn để vận động cho các đạo luật về nhân quyền đối với Việt Nam.
Đặc biệt năm nay tại Việt Nam đang có phong trào đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp. Các giáo hội độc lập trong nước đã lên tiếng mạnh mẽ và chúng tôi cũng muốn yểm trợ cho các tiếng nói đó để đòi hỏi thay đổi Hiến pháp Việt Nam.
VOA: Cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ năm nay diễn ra vào giữa tháng 4 này tại Hà Nội. Thời gian sự kiện đó và chiến dịch vận động nhân quyền bắt đầu từ 10/4 kéo dài đến tháng 6 có sự trùng hợp..
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Vâng, rất đúng. Nó trùng hợp vì có lý do. Chúng tôi muốn có cuộc điều trần trước khi phái đoàn Bộ Ngoại giao Mỹ lên đường đi Việt Nam. Sau khi họ trở về lại có cuộc điều trần thứ nhì. Chúng tôi đang làm việc với Quốc hội Hoa Kỳ để yêu cầu một số giới chức hành pháp tới cuộc điều trần thứ hai này trình bày về chuyến đi đó xem họ đã nêu những vấn đề gì, thỏa thuận những điều nào, và đã có những tiến bộ nào từ phía Việt Nam hay chưa.
VOA: Về mục tiêu của chiến dịch, những người tổ chức kỳ vọng đạt được những điều gì sau cuộc vận động năm nay?
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng: Kỳ vọng thứ nhất, hành pháp và Quốc hội Mỹ sẽ có thể thức hội ý, hợp tác thường xuyên, đều đặn, chính thức với người Mỹ gốc Việt. Mục tiêu thứ hai, đạt những điểm trọng tâm trong công cuộc tranh đấu nhân quyền Việt Nam, trong vấn đề đối ngoại của Mỹ với Việt Nam như thúc đẩy Việt Nam tôn trọng tự do tôn giáo, ngưng các biện pháp tra tấn và nạn công an bạo hành, thực tâm phòng-chống nạn buôn người, và chính quyền Hoa Kỳ phải công tâm thi hành trách nhiệm bảo vệ quyền lợi-tài sản của công dân Mỹ hiện đang bị xâm phạm bởi chính quyền Việt Nam.
VOA: Xin chân thành cảm ơn anh đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.
Trà Mi-VOA
Nguyễn Hưng Quốc - 1975: Việt Nam có thắng Mỹ?
Trong bài “Thắng và bại”,
từ kinh nghiệm chiến tranh ở Iraq, tôi nêu lên nhận định: Thắng và bại
là một vấn đề phức tạp, gắn liền với một chu cảnh (context) nhất định.
Có khi người ta thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến
tranh; có khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc
chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại. Cũng có khi người ta thua hẳn một cuộc
chiến tranh nhưng lại thắng trong hòa bình, sau đó.
Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng Tư, thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.
Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt Nam) đã thắng Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay người Mỹ cũng tự nhận là họ thua: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương dữ dội đối với một siêu cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở. Chiến tranh Việt Nam, do đó, với họ, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war) hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả.
Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính.
Một, một số người cho, về phương diện quân sự, quân đội Mỹ hầu như luôn luôn chiến thắng, hơn nữa, tính trên tổng số thương vong, họ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ có 50.000 người chết, phía miền Bắc, có khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ phía người Việt Nam, chúng ta biết rõ điều này: Trong đó có rất nhiều dân sự ở cả hai miền!) Những người này cho họ chỉ thua trên mặt trận chính trị; và trong chính trị, họ không thua Bắc Việt, họ chỉ thua… những màn ảnh tivi hằng ngày chiếu những cảnh chết chóc ghê rợn ở Việt Nam trước mắt hàng trăm triệu người Mỹ, từ đó, làm dấy lên phong trào phản chiến ở khắp nơi. Nói cách khác, Mỹ không thua Bắc Việt: Họ chỉ thua chính họ, nghĩa là họ không thể tiếp tục kéo dài chiến tranh trước sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng, trước quyền tự do ngôn luận và phát biểu của quần chúng, trước nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
Hai, một số người khác lại lý luận: Mặc dù Mỹ thua trận năm 1975, nhưng nhìn toàn cục, họ lại là người chiến thắng. Một người Mỹ gốc Việt, Viet D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên tạp chí Policy Review số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy, trong một bài viết có nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta thắng như thế nào tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới (tr. 53). Hơn nữa, cùng với phong trào đổi mới tại Việt Nam cũng như việc Việt Nam tha thiết muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, Mỹ cũng đã thắng trên mặt trận lý tưởng và thiết chế: Cuối cùng thì Việt Nam cũng đã theo Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường (Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa!) (tr. 61).
Một số người khác lại cho, sau khi rút quân khỏi Việt Nam, nhìn lại, người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau mình trên con đường tư bản hóa. Họ khẳng định: “Chúng ta đã chiến thắng cuộc chiến tại Việt Nam bằng cách rút quân ra khỏi nơi đó.”
Ba, một số người khẳng định dứt khoát: Mỹ không hề thua Bắc Việt. Chiến thắng của miền Bắc vào tháng Tư 1975 là chiến thắng đối với miền Nam chứ không phải đối với Mỹ. Lý do đơn giản: Lúc ấy, hầu hết lính Mỹ đã rút khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000 lính; cuối năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ở Việt Nam chỉ còn 27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Từ đó, ở Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực lượng giám sát đình chiến và khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận chiến cuối cùng vào đầu năm 1975, lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc giao tranh nào giữa Việt Nam và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu hỏi: Tại sao có thể nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đó?
Có thể tóm tắt lập luận thứ ba ở trên như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ không thua cuộc.
Một số người phản bác lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức là không hoàn thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; không hoàn thành mục tiêu ấy cũng có nghĩa là thua cuộc. Không có gì khác nhau cả.
Nhưng ở đây lại nảy ra một vấn đề: Mục tiêu Mỹ đặt ra lúc tham gia vào chiến tranh Việt Nam là gì?
Có hai mục tiêu chính:
Một, giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc.
Hai, ngăn chận làn sóng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó, toàn bộ vùng Đông Nam Á.
Tập trung vào mục tiêu thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt Nam. Đó là điều không thể chối cãi được: cuối cùng, vào ngày 30/4/1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ.
Tuy nhiên, xin lưu ý: trong hai mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai mới là quan trọng nhất. Khi lính Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ luôn luôn được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta không đến đây để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có thể sẽ phải chiến đấu chống lại nó ở San Francisco sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm xây dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến.
Có thể nói mục tiêu thứ nhất được đặt ra để cụ thể hóa mục tiêu thứ hai. Nói cách khác, chính vì muốn ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, Mỹ mới nhảy vào giúp chính quyền miền Nam. Mục tiêu thứ nhất, như vậy, chỉ là hệ luận của mục tiêu thứ hai. Nó chỉ là mục tiêu phụ.
Liên quan đến mục tiêu thứ hai, nên nhớ đến thuyết Domino vốn xuất hiện từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, và được xem là nền tảng lý thuyết cho các chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập niên 1960 trở đi. Dựa trên thuyết Domino, chính phủ Mỹ tin là: Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản, Miến Điện và Thái Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như ngay tức khắc. Sau đó, sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, để cho Indonesia, Ấn Độ và các nước khác tiếp tục nằm ngoài quỹ đạo thống trị của Cộng sản Xô Viết.” Nghĩ như thế, chính phủ Mỹ đã xem Miền Nam như một tiền đồn để ngăn chận hiểm họa cộng sản.
Nếu chỉ nhìn vào mục tiêu thứ hai này - mục tiêu ngăn chận làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á - không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại. Ngược lại. Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon, Mỹ đã thành công ở ba điểm: Một, bước đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước để, tuy chưa hẳn là bạn, họ cũng không còn thù nghịch với nhau như trước nữa; hai, khoét sâu mối mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để hai nước đứng đầu khối Cộng sản này không còn thống nhất với nhau; và ba, làm giảm bớt sự ủng hộ và trợ giúp của Trung Quốc đối với Bắc Việt.
Với ba sự thành công ấy, Mỹ an tâm được ba điều: Một, khi Trung Quốc và Liên Xô đã bị phân hóa, khối Cộng sản không còn mạnh và do đó, cũng không còn quá nguy hiểm như trước. Hai, khi khối Cộng sản không còn mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong vùng Đông Nam Á. Và ba, như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.
Với ba sự an tâm trên, Mỹ quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam. Với họ, mục tiêu thứ hai, tức mục tiêu quan trọng nhất, đã hoàn tất thì mục tiêu thứ nhất trở thành vô nghĩa. Miền Nam chỉ còn là một nước cờ chứ không phải là một ván cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng cả một ván cờ.
Thắng ở ba điểm:
Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản không hề phát triển ra khỏi biên giới Lào và Campuchia. Các nước láng giềng của Đông Dương vẫn hoàn toàn bình an trước hiểm họa Cộng sản.
Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa Cộng sản ở Á châu không những không mạnh hơn, mà ngược lại, còn yếu hơn hẳn. Yếu ở rất nhiều phương diện. Về kinh tế, họ hoàn toàn kiệt quệ. Về quân sự, họ liên tục đánh nhau. Về đối nội, họ hoàn toàn đánh mất niềm tin của dân chúng, từ đó, dẫn đến phong trào vượt biên và vượt biển rầm rộ làm chấn động cả thế giới. Về đối ngoại, họ hoàn toàn bị cô lập trước thế giới với những hình ảnh rất xấu: Ở Khmer Đỏ là hình ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam là hình ảnh của sự độc tài và tàn bạo; ở Trung Quốc, sự chuyên chế và lạc hậu. Cuối cùng, về ý thức hệ, ở khắp nơi, từ trí thức đến dân chúng, người ta bắt đầu hoang mang hoài nghi những giá trị và những tín lý của chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp trí thức khuynh tả Tây phương, trước, một mực khăng khăng bênh vực chủ nghĩa xã hội; sau, bắt đầu lên tiếng phê phán sự độc tài và tàn bạo của nó. Một số trí thức hàng đầu, như Jean-Paul Sartre, trở thành những người nhiệt tình giúp đỡ những người Việt Nam vượt biên.
Ba, vào năm 1990, với sự sụp đổ của Liên Xô, của bức tường Berlin và của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ toàn thắng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Ván cờ kéo dài nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa tư bản đã kết thúc.
Nhìn vào ba sự thành công ấy, khó có thể nói Mỹ đã thua trận ở Việt Nam. Lại càng không thể nói là miền Bắc Việt Nam đã thắng Mỹ.
Cũng cần lưu ý đến những sự thay đổi trong bản chất của chiến tranh. Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết các chiến lược gia, khi nghĩ về chiến tranh, đều cho cái đích cuối cùng là phải chiến thắng một cách tuyệt đối. Tiêu biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ thù của phe Đồng minh đều tuyên bố đầu hàng. Ranh giới giữa thắng và bại rất rõ. Rõ nhất là ở Nhật Bản. Sức tàn phá kinh hồn của hai trái bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã chứng tỏ sức mạnh vô địch không thể chối cãi được của người chiến thắng.
Tuy nhiên, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh và cùng với nó, ý nghĩa của chiến thắng, hoàn toàn thay đổi. Trong chiến tranh lạnh, cả Mỹ lẫn Liên Xô đều có bom nguyên tử. Lúc nào cũng muốn tiêu diệt nhau nhưng cả hai đều biết rất rõ cái điều Albert Einstein từng cảnh cáo: “Tôi không biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đánh bằng gì, nhưng trong chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ có thể đánh nhau bằng gậy và đá.” Thành ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật nhiều, thật nhiều vũ khi nguyên tử vừa biết trước là chúng sẽ không được sử dụng. Không nên được sử dụng. Không thể được sử dụng. Để tránh điều đó, chiến tranh toàn diện (total war) biến thành chiến tranh giới hạn (limited war); chiến tranh thế giới biến thành chiến tranh khu vực, ở một số điểm nóng nào đó. Ý nghĩa của cái gọi là chiến thắng, do đó, cũng đổi khác: bên cạnh cái thắng/bại về quân sự có cái thắng/bại về chính trị và bên cạnh cái thắng/bại có tính chiến thuật có cái thắng/bại có tính chiến lược.
Với những thay đổi ấy, chuyện thắng hay bại lại càng trở thành phức tạp hơn.
Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:
Thứ nhất, tôi chỉ muốn tìm hiểu một sự thật lịch sử chứ không hề muốn bênh vực cho Mỹ.
Thứ hai, dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng Tư, thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.
Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt Nam) đã thắng Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay người Mỹ cũng tự nhận là họ thua: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương dữ dội đối với một siêu cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở. Chiến tranh Việt Nam, do đó, với họ, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war) hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả.
Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính.
Một, một số người cho, về phương diện quân sự, quân đội Mỹ hầu như luôn luôn chiến thắng, hơn nữa, tính trên tổng số thương vong, họ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ có 50.000 người chết, phía miền Bắc, có khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ phía người Việt Nam, chúng ta biết rõ điều này: Trong đó có rất nhiều dân sự ở cả hai miền!) Những người này cho họ chỉ thua trên mặt trận chính trị; và trong chính trị, họ không thua Bắc Việt, họ chỉ thua… những màn ảnh tivi hằng ngày chiếu những cảnh chết chóc ghê rợn ở Việt Nam trước mắt hàng trăm triệu người Mỹ, từ đó, làm dấy lên phong trào phản chiến ở khắp nơi. Nói cách khác, Mỹ không thua Bắc Việt: Họ chỉ thua chính họ, nghĩa là họ không thể tiếp tục kéo dài chiến tranh trước sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng, trước quyền tự do ngôn luận và phát biểu của quần chúng, trước nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
Hai, một số người khác lại lý luận: Mặc dù Mỹ thua trận năm 1975, nhưng nhìn toàn cục, họ lại là người chiến thắng. Một người Mỹ gốc Việt, Viet D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên tạp chí Policy Review số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy, trong một bài viết có nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta thắng như thế nào tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới (tr. 53). Hơn nữa, cùng với phong trào đổi mới tại Việt Nam cũng như việc Việt Nam tha thiết muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, Mỹ cũng đã thắng trên mặt trận lý tưởng và thiết chế: Cuối cùng thì Việt Nam cũng đã theo Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường (Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa!) (tr. 61).
Một số người khác lại cho, sau khi rút quân khỏi Việt Nam, nhìn lại, người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau mình trên con đường tư bản hóa. Họ khẳng định: “Chúng ta đã chiến thắng cuộc chiến tại Việt Nam bằng cách rút quân ra khỏi nơi đó.”
Ba, một số người khẳng định dứt khoát: Mỹ không hề thua Bắc Việt. Chiến thắng của miền Bắc vào tháng Tư 1975 là chiến thắng đối với miền Nam chứ không phải đối với Mỹ. Lý do đơn giản: Lúc ấy, hầu hết lính Mỹ đã rút khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000 lính; cuối năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ở Việt Nam chỉ còn 27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Từ đó, ở Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực lượng giám sát đình chiến và khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận chiến cuối cùng vào đầu năm 1975, lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc giao tranh nào giữa Việt Nam và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu hỏi: Tại sao có thể nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đó?
Có thể tóm tắt lập luận thứ ba ở trên như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ không thua cuộc.
Một số người phản bác lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức là không hoàn thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; không hoàn thành mục tiêu ấy cũng có nghĩa là thua cuộc. Không có gì khác nhau cả.
Nhưng ở đây lại nảy ra một vấn đề: Mục tiêu Mỹ đặt ra lúc tham gia vào chiến tranh Việt Nam là gì?
Có hai mục tiêu chính:
Một, giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc.
Hai, ngăn chận làn sóng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó, toàn bộ vùng Đông Nam Á.
Tập trung vào mục tiêu thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt Nam. Đó là điều không thể chối cãi được: cuối cùng, vào ngày 30/4/1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ.
Tuy nhiên, xin lưu ý: trong hai mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai mới là quan trọng nhất. Khi lính Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ luôn luôn được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta không đến đây để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có thể sẽ phải chiến đấu chống lại nó ở San Francisco sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm xây dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến.
Có thể nói mục tiêu thứ nhất được đặt ra để cụ thể hóa mục tiêu thứ hai. Nói cách khác, chính vì muốn ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, Mỹ mới nhảy vào giúp chính quyền miền Nam. Mục tiêu thứ nhất, như vậy, chỉ là hệ luận của mục tiêu thứ hai. Nó chỉ là mục tiêu phụ.
Liên quan đến mục tiêu thứ hai, nên nhớ đến thuyết Domino vốn xuất hiện từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, và được xem là nền tảng lý thuyết cho các chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập niên 1960 trở đi. Dựa trên thuyết Domino, chính phủ Mỹ tin là: Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản, Miến Điện và Thái Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như ngay tức khắc. Sau đó, sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, để cho Indonesia, Ấn Độ và các nước khác tiếp tục nằm ngoài quỹ đạo thống trị của Cộng sản Xô Viết.” Nghĩ như thế, chính phủ Mỹ đã xem Miền Nam như một tiền đồn để ngăn chận hiểm họa cộng sản.
Nếu chỉ nhìn vào mục tiêu thứ hai này - mục tiêu ngăn chận làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á - không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại. Ngược lại. Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon, Mỹ đã thành công ở ba điểm: Một, bước đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước để, tuy chưa hẳn là bạn, họ cũng không còn thù nghịch với nhau như trước nữa; hai, khoét sâu mối mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để hai nước đứng đầu khối Cộng sản này không còn thống nhất với nhau; và ba, làm giảm bớt sự ủng hộ và trợ giúp của Trung Quốc đối với Bắc Việt.
Với ba sự thành công ấy, Mỹ an tâm được ba điều: Một, khi Trung Quốc và Liên Xô đã bị phân hóa, khối Cộng sản không còn mạnh và do đó, cũng không còn quá nguy hiểm như trước. Hai, khi khối Cộng sản không còn mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong vùng Đông Nam Á. Và ba, như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.
Với ba sự an tâm trên, Mỹ quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam. Với họ, mục tiêu thứ hai, tức mục tiêu quan trọng nhất, đã hoàn tất thì mục tiêu thứ nhất trở thành vô nghĩa. Miền Nam chỉ còn là một nước cờ chứ không phải là một ván cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng cả một ván cờ.
Thắng ở ba điểm:
Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản không hề phát triển ra khỏi biên giới Lào và Campuchia. Các nước láng giềng của Đông Dương vẫn hoàn toàn bình an trước hiểm họa Cộng sản.
Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa Cộng sản ở Á châu không những không mạnh hơn, mà ngược lại, còn yếu hơn hẳn. Yếu ở rất nhiều phương diện. Về kinh tế, họ hoàn toàn kiệt quệ. Về quân sự, họ liên tục đánh nhau. Về đối nội, họ hoàn toàn đánh mất niềm tin của dân chúng, từ đó, dẫn đến phong trào vượt biên và vượt biển rầm rộ làm chấn động cả thế giới. Về đối ngoại, họ hoàn toàn bị cô lập trước thế giới với những hình ảnh rất xấu: Ở Khmer Đỏ là hình ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam là hình ảnh của sự độc tài và tàn bạo; ở Trung Quốc, sự chuyên chế và lạc hậu. Cuối cùng, về ý thức hệ, ở khắp nơi, từ trí thức đến dân chúng, người ta bắt đầu hoang mang hoài nghi những giá trị và những tín lý của chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp trí thức khuynh tả Tây phương, trước, một mực khăng khăng bênh vực chủ nghĩa xã hội; sau, bắt đầu lên tiếng phê phán sự độc tài và tàn bạo của nó. Một số trí thức hàng đầu, như Jean-Paul Sartre, trở thành những người nhiệt tình giúp đỡ những người Việt Nam vượt biên.
Ba, vào năm 1990, với sự sụp đổ của Liên Xô, của bức tường Berlin và của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ toàn thắng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Ván cờ kéo dài nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa tư bản đã kết thúc.
Nhìn vào ba sự thành công ấy, khó có thể nói Mỹ đã thua trận ở Việt Nam. Lại càng không thể nói là miền Bắc Việt Nam đã thắng Mỹ.
Cũng cần lưu ý đến những sự thay đổi trong bản chất của chiến tranh. Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết các chiến lược gia, khi nghĩ về chiến tranh, đều cho cái đích cuối cùng là phải chiến thắng một cách tuyệt đối. Tiêu biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ thù của phe Đồng minh đều tuyên bố đầu hàng. Ranh giới giữa thắng và bại rất rõ. Rõ nhất là ở Nhật Bản. Sức tàn phá kinh hồn của hai trái bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã chứng tỏ sức mạnh vô địch không thể chối cãi được của người chiến thắng.
Tuy nhiên, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh và cùng với nó, ý nghĩa của chiến thắng, hoàn toàn thay đổi. Trong chiến tranh lạnh, cả Mỹ lẫn Liên Xô đều có bom nguyên tử. Lúc nào cũng muốn tiêu diệt nhau nhưng cả hai đều biết rất rõ cái điều Albert Einstein từng cảnh cáo: “Tôi không biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đánh bằng gì, nhưng trong chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ có thể đánh nhau bằng gậy và đá.” Thành ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật nhiều, thật nhiều vũ khi nguyên tử vừa biết trước là chúng sẽ không được sử dụng. Không nên được sử dụng. Không thể được sử dụng. Để tránh điều đó, chiến tranh toàn diện (total war) biến thành chiến tranh giới hạn (limited war); chiến tranh thế giới biến thành chiến tranh khu vực, ở một số điểm nóng nào đó. Ý nghĩa của cái gọi là chiến thắng, do đó, cũng đổi khác: bên cạnh cái thắng/bại về quân sự có cái thắng/bại về chính trị và bên cạnh cái thắng/bại có tính chiến thuật có cái thắng/bại có tính chiến lược.
Với những thay đổi ấy, chuyện thắng hay bại lại càng trở thành phức tạp hơn.
Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:
Thứ nhất, tôi chỉ muốn tìm hiểu một sự thật lịch sử chứ không hề muốn bênh vực cho Mỹ.
Thứ hai, dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Đòi nợ ngoài đông hải
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, dường như vụ đụng độ vừa
qua tại Đông hải, nơi mà ngư phủ Việt Nam lại bị tàu Trung Quốc tấn
công nữa, lần này lại có một ý nghĩa khác. Theo dõi câu chuyện đó, ông
thấy thế nào và cho rằng Việt Nam nên chú ý đến khía cạnh gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng về bối cảnh kinh tế, thì quyền lợi của Việt
Nam tại vùng biển Đông Nam Á mà ta gọi là Đông Hải và Trung Quốc gọi là
biển Hoa Nam thật ra rất lớn về cả hai mặt năng lượng và hải sản.
Về năng lượng, dầu khí của Việt Nam chỉ đủ cho yêu cầu nhập khẩu xăng
dầu chế biến, tức là bán ra bao nhiêu thì lại dùng tiền đó để mua vào
sản phẩm hoàn tất gốc xăng dầu, mà trữ lượng bên trong thì không còn
nhiều nên càng phải khai thác dầu khí xa hơn ở ngoài khơi. Về hải sản,
Việt Nam xuất khẩu thủy sản như nguồn lợi quan trọng và ngày càng phải
khai thác ngư hải sản ngoài biển vì giảm dần sản lượng bên trong và nói
chung khoảng năm sáu triệu người hiện đang sống trong lĩnh vực ngư
nghiệp.
Ngoài động lực kinh tế vốn dĩ quan trọng như vậy, yếu tố an ninh mới có
tính cách chiến lược. Lý do là ở cạnh một nước đói ăn và khát dầu như
Trung Quốc, chủ quyền lãnh hải của Việt Nam bị Bắc Kinh đe dọa và mâu
thuẫn đã xảy ra với nhịp độ và cường độ nguy hiểm hơn. Trong vụ xung đột
vừa qua, Bắc Kinh lại nêu ra một ý kiến rất đáng cho dư luận chú ý.
Vũ Hoàng: Thưa ông, ý kiến đó là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng trong khi bộ Ngoại giao của Bắc Kinh đang
trả lời dư luận về động thái đáng e ngại của Hải quân Trung Quốc thuộc
Bộ Quốc phòng thì hôm Thứ Tư 27 tuần trước, báo Toàn Cầu của họ đã có
một bài xã luận bằng Hoa ngữ với tựa đề ngạo mạn. Đó là "Khu Trục Việt
Nam Thâu Liệp Thuyền Vô Khả Phi Nghị", dịch nôm na là "đuổi đánh tàu ăn
cắp của Việt Nam là điều chính đáng nên không có gì phải bàn cãi!" Nội
dung bài viết giải thích về sự chính đáng lạ lùng ấy mà còn tiết lộ một
chi tiết khác liên quan đến đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam trong Vịnh Bắc
Bộ. Xin nói thêm rằng ngay sau đó, dư luận Trung Quốc tỏ vẻ hưởng ứng
quan điểm này và đả kích chính quyền là quá rộng lượng với Việt Nam!
Một ngư dân Lý Sơn nhìn ra biển hôm 10/8/2012 |
Động thái của Trung Quốc
Vũ Hoàng: Ông trình bày vụ việc cũng ly kỳ như trong truyện trinh
thám chính trị vậy! Vì sao từ vụ ngư phủ của Đà Nẵng bị tấn công mà Bắc
Kinh lại dẫn qua chuyện Bạch Long Vĩ để chứng tỏ rằng họ rộng lượng với
Việt Nam?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin thú thật là cũng ngạc nhiên nên phải tìm
hiểu, kể cả qua cổng điện tử của Huyện Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải
Phòng và các diễn biến lịch sử sâu xa hơn.
Bắc Kinh nêu quan điểm là vào đầu năm 1957, họ có thiện chí trao trả đảo
Bạch Long Vĩ cho Hà Nội và dùng đảo này là dấu mốc về chủ quyền giữa
hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. Ở phía Tây hòn đảo là thuộc về Việt Nam trên
một diện tích bằng 53,23% của cả Vịnh, ở phía Đông là thuộc về Trung
Quốc và chỉ có diện tích là 46,77% thôi. Tóm tắt thì Bắc Kinh nói là đã
nhường phần hơn cho Việt Nam mà nay ngư phủ của Việt Nam lại xâm phạm
vào quyền lợi thủy sản của Trung Quốc cho nên nếu có bị đánh đuổi thì
cũng chính đáng.
Về địa dư, Bạch Long Vĩ là hòn đảo lớn nhất và có người ở tại Vịnh Bắc
Bộ, cách Hải Phong 110 cây số và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 130 cây
số nên nằm ở tâm điểm phân chia chủ quyền giữa hai nước. Về lịch sử thì
sau khi Việt Nam rơi vào ách đô hộ Pháp, nhà Mãn Thanh và Pháp có Công
ước Pháp-Thanh năm 1887 theo đó Bạch Long Vĩ thuộc về Việt Nam và thực
tế được Việt Nam liên tục quản lý và canh phòng rồi từ năm 1920 đã có
nông ngư dân đến sinh sống.
Khi Nhật đảo chính hệ thống cai trị của Pháp trong Thế chiến II thì lính
Nhật đuổi lính Việt để chiếm đóng đảo này cho đến khi Pháp trở lại từ
năm 1946 sau khi Nhật bị Hoa Kỳ đánh bại. Thế rồi, trong cuộc Nội chiến
Quốc- Cộng tại Trung Quốc, khi bị đánh bật khỏi lục địa, quân đội của
Quốc Dân Đảng chạy qua Đài Loan và còn chiếm đảo Bạch Long Vĩ của Việt
Nam từ năm 1949, cho đến khi Hồng quân Trung Quốc lấy lại hòn đảo vào
năm 1955. Đến Tháng Giêng năm 1957, Trung Quốc trả lại Bạch Long Vĩ cho
phía Việt Nam và dùng hòn đảo làm tọa độ phân ranh. Sau này, việc tranh
giành đánh bắt thủy sản có xảy ra giữa đôi bên nhưng không đến nỗi trầm
trọng.
Vũ Hoàng: Và ngày nay, bỗng nhiên Bắc Kinh nhắc lại chuyện Bạch Long Vĩ. Ông nghĩ sao về điều này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thứ nhất, ta đặt vấn đề vào bối cảnh năm 1957. Khi Hà
Nội tiến hành cải tạo ở miền Bắc theo kiểu sắt máu của Mao Trạch Đông
và chuẩn bị cuộc chiến ở miền Nam thì Bắc Kinh coi chuyện trả lại hòn
đảo là một phần của món nợ chiến tranh. Thời đó, có thể là họ chưa nhìn
thấy kích thước kinh tế hay chiến lược như sau này nhưng về sau thì coi
đó là sự rộng lượng của mình với một đảng đồng chí đang bành trướng chủ
nghĩa cộng sản.
Nhưng cũng có lúc họ nghĩ đến việc đòi lại hòn đảo và hẳn là có nêu vấn
đề ấy trong các đợt đàm phán với Hà Nội sau khi Liên Xô tan rã và Việt
Nam lại trôi vào quỹ đạo Trung Quốc từ hội nghị vào năm 1991 của lãnh
đạo Cộng sản Việt Nam ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên bên Tầu.
Chi tiết đáng chú ý ở đây là Hà Nội không hề công bố nội dung của các
cuộc đàm phán về lãnh thổ và lãnh hải với Trung Quốc trong nhiều năm
liền để người dân biết được là nước Việt Nam đã mất những gì để đảng
Cộng sản Việt Nam được những gì khi ranh giới được vẽ lại. Người dân
cũng chẳng biết lãnh đạo đã mắc nợ Trung Quốc những gì về mặt quân sự
như súng đạn hay bộ đội tham chiến trong mấy chục năm chiến chinh mà lâu
lâu chỉ thấy Bắc Kinh đòi nợ.
Lần này, khi nhắc đến chuyện Bạch Long Vĩ từ gần nửa thế kỷ trước, Bắc
Kinh đang muốn chứng tỏ với thần dân của mình rằng Hà Nội là kẻ bội
phản, ngư phủ Việt Nam là bọn ăn cắp săn trộm, nội dung của chữ "thâu
liệp". Đáng chú ý hơn vậy là nhiều trí thức gốc Hoa ở ngay tại Hoa Kỳ
chứ chẳng phải ở Trung Quốc cũng lý luận như vậy, rằng lãnh đạo ở Bắc
Kinh đã quá rộng lượng và việc đánh đuổi ngư phủ Việt Nam hay đòi lại
chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là chính đáng, có
chính nghĩa.
Những điều đáng suy ngẫm
Vũ Hoàng: Từ biến chuyển ly kỳ này, ông nhận xét thế nào về tranh chấp kinh tế giữa hai nước?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi trộm nghĩ là có hai yếu tố khiến người ta nên suy ngẫm.
Thứ nhất là phía Việt Nam và các nước liên hệ khác có thể nghĩ đến việc
quốc tế hóa diễn đàn đối thoại hoặc đối phó với Trung Quốc. Bắc Kinh bèn
có biện pháp mà chúng ta thấy từ giữa năm ngoái khi phân định ra chín
lô dầu ngoài Đông Hải mà Tập đoàn Dầu khí Hải dương CNOOC của họ đòi gọi
thầu khai thác dù chín lô này bao trùm lên các khu vực mà Việt Nam đã
ký kết với nước ngoài, kể cả tổ hợp Videsh của Ấn Độ. Nghĩa là họ dùng
mối lợi kinh doanh để phân hóa mọi hy vọng hợp tác quốc tế theo kiểu bẻ
đũa từng chiếc.
Bây giờ, khi Bắc Kinh cho phanh phui những thoả thuận nội bộ với Hà Nội,
họ muốn chứng minh với các nước khác rằng Việt Nam không đáng tin và
chuyện này là vấn đề song phương giữa hai nước. Lãnh đạo Trung Quốc muốn
cô lập Việt Nam và biết rằng Hà Nội há miệng mắc quai trong khi nạn
nhân thật là người Việt Nam lại bị bịt mắt và chẳng có quyền khiếu nại.
Vũ Hoàng: Ông vừa nêu ra hai yếu tố đáng suy ngẫm. Thưa ông, ngoài nhu cầu hóa giải nỗ lực quốc tế hóa thì yếu tố kia là gì?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa rằng tôi nghĩ đến hiện tượng mà người ta gọi là
"hậu quả bất lường", nôm na là tính thế này mà ra thế nọ và bị tuột tay!
Số là lãnh thổ Trung Quốc có bờ biển dài nhất thế giới, từ cửa sông Áp
Lục bên bán đảo Triều Tiên đến Vịnh Bắc Bộ là hơn 22 ngàn cây số. Nhưng
vì là cường quốc lục địa mới vươn ra ngoài nên họ không có hệ thống bảo
vệ duyên hải thống nhất. Thực tế thì Bắc Kinh có năm bộ phận với cấp số
bốn vạn người cùng chia sẻ trách nhiệm về hải dương mà lại thiếu phối
hợp, đó là Hải Sự, Hải Cảnh, Hải Quan, Ngư Chính và Hải Giám, thuộc
nhiều bộ hay cơ quan khác nhau.
Tháng 10 vừa qua, chính quyền Bắc Kinh vừa công bố kế hoạch tái cơ cấu
hệ thống rời rạc này qua việc thống nhất bốn bộ phận làm một với vai trò
quan trọng của Quốc gia Hải dương cục tiếng là thuộc về Bộ Tài Nguyên
và Công Thổ mà thực chất là do Bộ Công An điều động về quân sự. Mục tiêu
là để bảo vệ quyền lợi ở vùng duyên hải mà khỏi dùng tới Hải quân để
tránh mang tiếng là hiếu chiến và gây phản ứng từ siêu cường có lực
lượng Hải quân mạnh nhất là Hoa Kỳ. Đấy là một chiến lược ngoại giao
khéo léo nhằm tạo ra một vỏ bọc dân sự che giấu mũi nhọn quân sự của họ
nhắm vào các lân bang nhỏ yếu hơn.
Vậy mà sau vụ đụng độ với Nhật về chủ quyền trên quần đảo nhỏ là Senkaku
mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư thì tầu tuần duyên của Hải quân Trung
Quốc lại bắn cháy ngư thuyền Việt Nam. Trước đây, loại vụ xung đột như
vậy thường là do tầu Hải giám hay Ngư chính gây ra, lần này lại là tuần
duyên của Hải quân. Biết đâu là vỏ bọc đã rách và lòi ra mủi nhọn quân
sự rất đáng ngại của Trung Quốc trước thế giới. Tôi nói đến chuyện "hậu
quả bất lường" là trong ý đó vì cứ chơi dao mãi thì có ngày đứt tay.
Phải chăng vì vậy mà Bắc Kinh mới bạch hóa vài ba mật ước xa xưa với Hà
Nội để biện minh cho phản ứng dữ dội quá đà của kẻ gờm súng ở ngoài
biển?
Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, ông kết luận thế nào về chuyện này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi cho là trước động thái này ta nên theo dõi phản
ứng của các nước nhưng trong khi chờ đợi thì cũng suy ngẫm về chuyện
Việt Nam.
Lãnh đạo Hà Nội đã cam kết những gì và mắc nợ đến mức nào, người dân
phải có quyền biết và có quyền lên tiếng để phủ nhận nếu đấy là những
khoản nợ mà quốc tế có thể gọi là đáng tởm. Thứ hai là trong cuộc tranh
luận hiện nay về Hiến pháp, phải chấm dứt vai trò thống trị của đảng,
phải tách đảng ra khỏi nhà nước, xây dựng pháp quyền và cơ chế đại diện
người dân là Quốc hội phải có thực quyền để thẩm xét mọi dự án hay cam
kết của hệ thống lãnh đạo cũ hầu người dân khỏi bị ngoại bang ức hiếp và
bóc lột. Thế giới chỉ tin tưởng và hỗ trợ Việt Nam khi Việt Nam cũng
tôn trọng và bảo vệ quyền dân chứ lãnh đạo không bán nước rồi kêu cứu
thiên hạ vào giúp dân mình.
Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông Nghĩa về cuộc trao đổi hôm nay.
Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2013-04-03
Việt Nam: 10 năm cải cách hành chính thất bại
Nói không đi đôi với làm, một viên chức cao cấp cho rằng kế hoạch cải
cách hành chính của chính quyền kéo dài hơn chục năm qua “coi như thất
bại”.
Trong “hội nghị giao ban giữa lãnh đạo Hà Nội với các sở ngành, quận
huyện” tuần qua về “công tác cải cách hành chính”, ông PGS.TS Nguyễn Hữu
Tri, Viện phó phụ trách Viện Xã hội học và Khoa học quản lý, nguyên là
Viện trưởng Viện Khoa học hành chính, Trưởng khoa Quản lý hành chính,
Học viện hành chính Quốc gia, được báo Đất Việt tường thuật hôm 3 tháng
Tư thú nhận rằng: “Chúng ta đang nỗ lực cải cách hành chính nhưng kết
quả của 10 năm qua coi như thất bại và công cuộc đào tạo, cải cách chất
lượng công chức đang bị lệch mục tiêu”.
Trong dịp này, ông Phạm Quang Nghị, bí thư thành ủy thành phố Hà Nội, kể
một câu chuyện để “chứng minh một thực tế đau lòng: chất lượng đội ngũ
công chức đang đi xuống thê thảm hay họ đang vô trách nhiệm quá mức?!.”
Công cuộc cải cách hành chính 10 năm qua tại Việt Nam “coi như thất bại!” (Hình: Đất Việt) |
Ông Nghị cho biết, 'để viết một văn thư cảm ơn nước bạn Lào mà hai cơ
quan là Văn phòng UBND TP và Sở Ngoại vụ phải làm suốt... 29 ngày mới
xong!”.
Theo lời ông này, đó chỉ là “một trong số vô vàn ví dụ chưa được nêu ra ở
đây để chứng minh cho cái gọi là ‘thiếu chuyên nghiệp’ và ‘vô trách
nhiệm’” của hệ thống công chức nhà nước CSVN.
Càng hô hào cải cách hành chính, guồng máy cầm quyền CSVN ngày càng nặng
nề, càng “xấu dần” hơn chỉ vì “đánh trống bỏ dùi”, theo bản tin Đất
Việt.
Ngày 18/10/2000, khi ông Phan Văn Khải còn là thủ tướng đã ban hành nghị
quyết “tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp” theo sự đốc thúc của các định chế viện trợ quốc tế.
Mục đích là chỉ trong 2 năm phải giảm được 15% cán bộ công chức trong
guồng máy. Nhưng năm sau số lượng lại càng phình ra nhiều hơn, chứ không
giảm.
Khoảng 13 năm trước, số lượng công chức cán bộ hành chính CSVN khoảng
1.5 triệu người. Ngày 25/1/2013, ông phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu
ra con số công chức cán bộ hiện nay là khoảng 2.8 triệu người, trong đó
có ít ra 30% là cán bộ dôi dư “không có cũng được, bởi họ làm việc theo
kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công
việc nào”.
Khi đẻ ra cái nghị quyết “tinh giản biên chế” guồng máy hành chính, nghị
quyết số 16/2000/NQ-CP của ông Khải đòi hỏi phải bảo đảm “Bình đẳng
trong việc xem xét bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo của cơ quan nhà
nước như cán bộ, công chức làm việc ở cơ sở công lập khi có đủ tiêu
chuẩn theo quy định của pháp luật”.
Nhưng đến nay, trong cuộc phỏng vấn của báo Dân Trí ngày ½/2013, ông Lê
Như Tiến, “Phó chủ nhiệm Ủy Ban Văn Hóa, Giáo Dục, Thanh Niên, Thiếu
Niên và Nhi Ðồng” Quốc Hội CSVN, cho hay, trong số những kẻ lãnh lương
nhà nước mà không làm gì cả “lại chính là con cháu các cụ”. Bởi vậy, ai
muốn đề nghị đuổi những kẻ ăn bám đó, nhiều khi họ “chưa kịp giảm” thì
mình “đã bị giảm rồi”.
Ngày 8/8/2007, ông Nguyễn Tấn Dũng là thủ tướng ra một nghị định về
“chính sách tinh giản biên chế”. Rất nhiều hội nghị và chương trình cải
cách hành chính được phát động và tuyên truyền rầm rộ, nay thì có người
kêu “thất bại”.
Ngày 31/1/2013, ông Nguyễn Thế Trung, phó trưởng ban Dân Vận Trung Ương
của đảng CSVN cho là khoảng 50% cán bộ công chức làm việc, còn “50% chỉ
giữ chỗ ăn lương”
(Người Việt)
Không còn là dự toán kinh tế
Cá nhân tôi có 12 tờ báo đặt hàng; chưa kể đến những diễn thuyết tham
luận tại các diễn đàn và hội thảo. Khi tôi từ chối vì thực ra không còn
gì để dự đoán…ai cũng ngạc nhiên. Như Tết mà không có bánh mứt dưa hành,
Xuân không có trẩy lộc mai đào…và báo Xuân không có dự đoán.
Các năm trước, những chuyên gia kinh tế kiếm tiền quá dễ. Trừ những anh
chị phải lạc quan vì nhận chỉ thị hay tiền thưởng, bất cứ ai vô tư phán
xét đều thấy rõ lối đi của chiếc xe kinh tế Việt.
Quá dễ để tiên đoán
Doanh nghiệp nhà nước làm chủ thể lãnh đạo? Tất cả kinh nghiệm từ OPM
(tiền người khác) qua 5 ngàn năm lịch sử cho thấy sự lãng phí tham ô là
hệ quả tất yếu (và người chủ thực sự của đồng tiền phải cày lưng trả nợ
trong một thời gian dài).
67% tiền đầu tư của quốc gia cho vào bất động sản ư? Bong bóng phải
phình căng và ngày bể bụng là chuyện thời gian. Rồi 82% phần trăm nợ
ngân hàng xuất xứ từ thế chấp BDS? Khi bong bong BDS vỡ, thì các mùi hôi
thối chôn vùi trong đống rác phải xì theo. Không thể có kết luận nào
khác.
Trong khi đó, nguồn vốn thực của các ngân hàng bị méo mó vì sở hữu chéo,
vì công ty sân sau của các chủ ngân hàng, vì “quan hệ” quan trọng hơn
tính khả thi của dự án….Ngày mà mọi người liên quan phải chốt sổ kết
toán phải là ngày của chuông báo tử.
Còn thị trường chứng khoán? Khi giá cả tùy thuộc vào đội lái tàu và tin
đồn hay hỏa mù, thì sớm hay muộn, các nhà đầu tư chính thống phải chào
thua và bỏ chạy. Trên nguyên tắc, một canh bạc bịp không thể kéo dài vì
số lượng người ngu thường có giới hạn.
Lạm phát, lãi suất và tỷ giá? Khi chánh phủ qua Ngân Hàng Nhà Nước quyết
định các con số và được Cục Thống Kê hổ trợ đắc lực, xa rời mọi can
thiệp của thị trường, thì hoang tưởng xâm nhập cơ thể và cả quốc gia
phải “lên đồng” và mọi người thi nhau ca múa.
Thị trường là một thế lực cứng đầu
Tôi về Việt Nam vào 2007 với tất cả háo hức của một đứa con vừa tìm về
nhà. Chỉ 6 tháng sau, tôi bắt đầu thấy rõ những thủ thuật qua những con
số thống kê thoa nắn, những chiêu tiếp thị vô trách nhiệm và những lòng
tham cá nhân không kiểm soát. Tôi viết về những dự đoán không lấy gì làm
sáng sủa và những quyền lực đang cầm lái cho chiếc xe kinh tế phản bác
với những lạc quan hồ hởi kiểu viết biểu ngữ. Dù tôi sai về thời điểm
(tôi nghĩ 2010 là năm bản lề) nhưng trận bão năm Thìn 2012 cũng đã đến
với một cường độ Việt Nam chưa hề trải nghiệm.
Tôi kể lại chuyện cũ không phải để khoe vì thực ra mọi chuyên gia kinh
tế có chút hiểu biết đều đi đến kết luận như tôi (tuy có vài người không
tiện nói). Tôi nói ra để mọi người hiểu là chuyện dự đoán cái vũng lầy
mà chúng ta đang mắc cạn ở đây không gì là khó khăn. Một sinh viên mới
ra trường cũng có thể luận giải được điều này.
Tóm lại, chúng ta sẽ bắt đầu 2013 với một chiếc xe đang kẹt cứng trong bùn.
Định hướng nào đây, bác Mao ơi?
Dĩ nhiên có rất nhiều giải pháp để kéo chiếc xe ra khỏi đầm lầy. Chúng
ta có thể kêu mấy cha tư bản ở xa (Âu Mỹ Nhật IMF..) đem chiếc xe câu
tối tân đến kéo thoát. Chúng ta có thể chạy qua nhờ anh hàng xóm (TQ)
dùng chiếc bán tải. Nhưng dĩ nhiên, ông Alan đã nói là “không gì là miễn
phí”. Chúng ta phải cân nhắc so sánh giá cả phải trả, kể cả bổng lộc
chức quyền của mọi người trong phe nhóm . Chúng ta cũng có thể về nhà,
bắt mẹ đĩ phải lấy “vàng” hay “đô la” cho phe ta đem bán? Hay chúng ta
có thể quyết định tử thủ vì lý tưởng vĩ đại, sống trên xe và chơi giữa
đầm lầy như Bắc Triều Tiên.
Dĩ nhiên, tôi đoan chắc là không chuyên gia kinh tế nào có thể…dự đoán
nổi cái giải pháp sẽ được chọn lựa. Vì tình hình hiện nay đã không còn
là …kinh tế, mà là chánh trị. Chánh trị ở xứ này thì không ai có dự đoán
chính xác, ngoài 5, 10 người sẽ “đóng cửa bảo nhau”.
Vì thế, khi các báo yêu cầu tôi viết một bài về …”dự đoán kinh tế cho
2013” thì tôi chỉ mỉm cười. Sau 5 năm đi về thường xuyên ở đây, nhân vật
quyền lực nhất mà tôi quen biết là ..ông bảo vệ trong khu chung cư tôi
sống. Tôi nghĩ ông cũng như 99.99% các người Việt hoàn toàn không can dự
và hay biết gì về quyết định ảnh hưởng đến đời sống của ông và kinh tế
Việt năm 2013 và 5, 10 năm sau đó.
Tôi quen làm khán thính giả cho rất nhiều vở kịch suốt 67 năm qua tại
rất nhiều hí viện. Có nhiều vở kịch nồng hơn mắm ruốc…nhưng tôi bị cấm
không được bỏ về sớm. Phần lớn đạo diễn và diễn viên đều ghét nhà phê
bình. Nhưng mọi thứ rồi cũng thành thói quen. Mizaru, Kikazaru,
Iwazaru….(a)
Alan Phan
(Bài viết từ 2012 nhưng lại rất đúng cho thời điểm này, nên xin đăng lại)
Dân oan Nam - Bắc biểu tình ủng hộ ông Đoàn Văn Vươn
Hôm nay một số dân oan tỉnh Tiền Giang, phối hợp cùng dân oan Sài Gòn,
biểu tình bày tỏ sự ủng hộ đối với ông Đoàn Văn Vươn vào khi vụ án giết
người và chống người thi hành công vụ mà họ bị cáo buộc bước sang ngày
thứ hai tại toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Sáng nay, phiên xử gia đình ông Đòan Văn Vươn bước sang ngày thứ hai tại
toà án nhân dân thành phố Hải Phòng. Đến trưa, vào lúc toà tạm ngưng,
bà Nguyễn Thị Thương vợ ông Đoàn Văn Vươn báo cho biết:
Vì là công an ở sát bên cạnh 24/24, bảo vệ ngày đêm cho nên là nói chuyện không tiện....
Miền Nam
Trong khi đó một số dân oan tỉnh Tiền Giang và dân oan thành phố Hồ Chí
Minh, tụ tập từ sáng nay trước Nhà Tiếp Dân đường Võ Thị Sáu thành phố
Hồ Chí Minh, vẫn chưa chịu giải tán.
Đến từ Tiền Giang, bà Bùi Thị Thành, cho biết:
Đây là bà con đang ủng hộ Đoàn Văn Vươn, yêu cầu trả tự do cho Đoàn Văn Vươn và yêu cầu diệt trừ tham nhũng.
Bà Trương Thị Hoa, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, phát biểu:
Bữa nay chị lên ủng hộ ông Đoàn văn Vươn, tại vì toà án xử chị không còn
cái quần mặc, nên chị nghe vụ án Đoàn Văn Vươn đi tới đâu là chị lên
tới đó. Bữa nay cũng là sáu bảy chục người.
Dân oan thứ ba, cũng đến từ miền Tây:
Trụ sở tiếp dân của nhà nước, thanh tra chính phủ, đang nói chuyện với
em mà bây giờ công an vây quanh đây nè, cũng nói chứ sợ gì đâu, ngồi
đúng kế bên cũng là chụp hình quay phim đủ hết.
Ngoài một dân oan ở Quận 4 thành phố Hồ Chí Minh, nhà cửa bị trưng thu
và đã đi khiếu kiện 18 năm nay, dân oan Huỳnh Thị Út thuộc sáu hộ dân bị
mất đất ở Phường 3 Quận 5 cũng có mặt:
Đoàn Văn Vươn bị oan, hôm nay chúng tôi yêu cầu chính phủ trả tự do cho
Đoàn Văn Vương , Tiên Lãng, bị oan ức, đồng thời trả quyền lợi hợp pháp
của sáu hộ dân Quận 5.
Bà Huỳnh Thị Út xác nhận là chung quanh có công an, trong đó nhiều người
mặc thường phục, đi lại chụp hình và quay phim những người biểu tình.
Bà Lê Thị Nguyệt, huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang, cách đây hai hôm đã
bị công an bắt và phạt tiền khi tìm cách vào uỷ ban nhân dân tỉnh rồi cả
nhà chủ tịch tỉnh để khiếu nại đất đai:
Chị lên đây ủng hộ cho Đoàn Văn Vươn, một người xứng đáng, một người anh hùng của Việt Nam.
Tôi là dân oan Trần Thị Hàn tỉnh Tiền Giang, những người dân oan hiện
giờ rất khổ. Hôm nay ngày 3 tháng Tư chúng tôi đến đây ủng hộ Đoàn Văn
Vươn, yêu cầu trả tự do cho Đoàn Văn Vươn, đòi lại sự công bằng trả đất
trả nhà.
Đó là những người bị mất nhà mất đất một cách oan sai ở Tiền Giang và
Sài Gòn, đồng bày tỏ thái độ trước vụ án Đoàn Văn Vươn đang được xét xử
mà họ cho là bất công và oan ức như họ từng phải gánh chịu bao năm qua.
Hàng trăm dân oan ở Hố Nai, tỉnh Đồng Nai đã kéo về trụ sở thanh tra chính phủ ở đường Võ Thị Sáu, Quận 3, TpHCM để khiếu kiện đất đai. (2011, ảnh minh họa) |
Miền Bắc
Từ Hà Nội, nhà báo tự do Dương Thị Xuân, cho biết hôm qua, ngoài việc
bị ngăn chận bên ngoài toà án xử ông Đoàn Văn Vươn, chi còn bị bắt giữ
sau khi phiên toà ngày đầu chấm dứt:
Sáng hôm qua khoảng mười người trong đó có chị Bùi Hằng, anh Chí Đức anh
Trung Dũng, hai bạn nam thanh niên bị bắt và bị đánh rất ghê. Mấy dân
oan các tỉnh về Hải Phòng để ủng hộ Đoàn Văn Vươn cũng bị bắt lên ô to
về đồn công an Phường Bạch Đằng Giang cách toà án hai cây số.
Đến khoảng 5 giờ chiều tôi có nhờ một người chở tôi xuống Tiên Lãng Hải
Phòng, nhà của Đoàn Văn Vươn. Trên đường đến Hải Phòng, còn cách nhà
Đoàn Văn Vươn 9 cây số thì khoảng mười nhân viên an ninh mặc đồ dân sự
chận xe lại, bắt tôi về trụ sở công an xã Tiên Thắng huyện Tiên Lãng.
Họ vu cho tôi là nhân dân báo tin tôi tàng trữ vũ khí quân dụng. Họ giữ
tôi lại đến gần 11 giờ đêm họ mới thả.
Nhà hoạt động dân chủ Nguyễn Bá Đăng, cư ngụ tại Hải Dương, mãn hạn ba
năm ngày 6 tháng Hai vừa qua, cho biết Internet của ông bị cắt và nhà
ông thì bị công an canh gác mấy hôm nay:
Ngay bây giờ họ cũng đang ngồi trước cửa nhà tôi và sau nhà , hơn chục
người, suốt cả đêm và ngày. Mới đầu họ rút Internet nhà tôi, sau họ nói
anh chưa nộp tiền án phí thì mời anh lên trụ sở công an. Gia đình tôi
quyết định không mở cổng để theo họ lên trụ sở công an.
Tuy nhiên, vẫn lời ông Nguyễn Bá Đăng, sau đó công an nói rõ là ông không được rời nhà từ ngày 30 cho đến ngày 10 tháng Tư này:
Họ nói không được đi đâu lý do là vì toà án thanh phố Hải Phòng xử gia
đình Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quí và một số thành viên khác của gia đình
thì buộc anh phải ở nhà .
Thanh Trúc, phóng viên RFA, Bangkok
"Giết người" hay "Tình tiết giảm nhẹ"?
Thứ tự xếp lịch xét xử đối với Người giữ đất và những quan chức “ăn đất”
sẽ là một hành vi có ý nghĩa, nếu tòa án Hải Phòng làm đúng theo thông
báo số 43 của Chính phủ “Kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét
tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo do các quyết định không đúng pháp
luật của Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng”.
Hải Phòng lại “thụt lùi”
Phiên tòa xét xử vụ án “Đoàn Văn Vươn và đồng phạm”, được chính quyền và
Tòa án nhân dân Hải Phòng tuyên bố là “công khai và minh bạch”, đang
diễn ra trong bối cảnh những chiếc xe bus chở nhân dân Dương Nội và Văn
Giang đến tham dự đã bị cảnh sát giao thông ngăn bức với nhiều lý do từ
vi mô đến vĩ mô.
Cùng lúc, một số “đồng phạm” khác ở khu vực bên ngoài tòa án cũng đã bị
công an Hải Phòng đẩy đuổi, câu lưu và xúc phạm thân thể một cách hoàn
toàn công khai. Những hành động thể hiện quyền lực một cách hoàn toàn
thái quá đã được người dân và phóng viên báo chí quốc tế tận tình ghi
nhận qua videoclip.
Mới chỉ là ngày xét xử đầu tiên, nhưng đã có khá nhiều chuyện để bàn
luận và nghi ngờ về cái cách “xử kín” như thường xảy ra tại không ít
phiên tòa ở Việt Nam - điều đã dẫn đến những bản án khó có thể được xem
là minh bạch, khách quan và hơn thế nữa càng không mang tính thuyết phục
đối với đại đa số dân chúng.
Cho dù một số giới chức lãnh đạo cấp cao có tỏ thái độ ôn hòa trên
phương diện ngoại giao và khoan hòa trước khối cử triđã bầu cho họ, song
một lần nữa mục tiêu dân chủ trong xét xử đã bị biến dạng bởi các cấp
thừa hành ở địa phương.
Sự khởi đầu không mấy trọn vẹn như trên cũng đang xảy ra ngay trước thềm
cuộc hội đàm Việt - Mỹ về vấn đề nhân quyền ởViệt Nam, dự kiến sẽ được
tổ chức vào giữa tháng 4/2013.
Trước đó vào tháng 3/2013, Phó trợ lý ngoại trưởng đặc trách Đông Nam Á
Dan Baer đã bày tỏ quan ngại về sự “thụt lùi”của Việt Nam về mặt nhân
quyền, liên quan đến cách đối xử của Hà Nội đối với các blogger bị truy
tố về những điều luật liên quan đến an ninh quốc gia. Sựlên tiếng công
khai và được coi là thẳng thắn này được biểu lộ trước tiểu ban ngoại
giao Thượng nghị viện Mỹ.
Vào năm 2012, một cuộc đàm phán cấp cao về nhiều nội dung liên quan đến
“quyền làm người” đã được phía Mỹ dự kiến tổ chức vào tháng Chạp. Tuy
nhiên cuộc họp này đã bị hoãn lại trong bối cảnh nhiều tổ chức nhân
quyền quốc tế phản ứng gay gắt đối với Nhà nước Việt Nam về một số
vụviệc cụ thể gây bức xúc.
Một trong những tiêu điểm bức xúc nhất trong thời gian qua là vụ án Đoàn Văn Vươn.
Ông Đoàn Văn Vươn trong phiên xử tại tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng hôm 02.04.2013 |
Báo Nhân dân: “Giết người”!
Trước phản ứng của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ,vào đúng ngày “cá tháng Tư”,
Nhân dân - tờ báo đại diện cho tiếng nói của đảng- đã phát đi một lời
khuyên cho Phó trợ lý ngoại trưởng Dan Baer “Họ nên sớm thay đổi nhận
thức về nhân quyền”.
Hầu hết những cơ sở của bài viết phê phán Dan Baer trên báo Nhân dân
được cấu thành từ mối liên quan giữa ông với những cá nhân và tổ chức
người Việt lưu vong, để từ đó đánh giá về nhận thức nhân quyền của Mỹ
như một thái độ cực đoan.
Nhưng trong khi thuần túy mô tả về “nhận thức đối ngoại”, báo Nhân dân
đã hoàn toàn không đề cập đến hàng loạt “nhận thức đối nội” đang trở nên
phổ cập đến tận cấp cơ sở ở Việt Nam, đặc biệt những nơi vẫn còn trong
tình trạng “mù chữ” và xử thế theo “luật rừng” với người dân, nhưthực
trạng giải tỏa đất đai và xử lý khiếu kiện, thực tiễn “xử lý” vấn đề cơ
sởvật chất của các tôn giáo, lao động và quyền lợi lao động liên quan
đến các vụ đình lãn công, tự do báo chí “có điều kiện” hay cách thức đối
xử với những người thể hiện chính kiến…
Ở một góc độ khác, chính kiến một chiều cũng luôn thể hiện cái logic bất biến của nó.
Cùng thời điểm với phiên tòa xét xử ngườiđược nhiều người dân suy tôn là
“Anh hùng áo vải”, báo Nhân dân cũng đăng tải một bài viết với tiêu đề
quyết liệt “Đoàn Văn Vươn và đồng phạm chuẩn bị, chống đối việc cưỡng
chế thu hồi đất như thế nào?”.
Với toàn bộ nội dung chính của cáo trạngđã công bố được chép lại trong
bài báo trên, “Giết người” chắc chắn là tội danh không thay đổi và còn
cần được mặc định đối với Người giữ đất.
Nếu chiếu theo “tuyên ngôn” trên, sự bức xúc và lòng mong mỏi của người
dân Việt Nam về “ông Vươn cần được tha bổng” hay“thả ông Vươn sẽ thu
phục lòng dân” có lẽ chẳng có lý do nào để sinh tồn.
Thậm chí ngược lại, với quan điểm “đúng người, đúng tội”, chính quyền
Hải Phòng sẽ có thêm một cơ hội nữa làm trái ý nguyện của cử tri thành
phố mang biểu tượng Hoa phượng đỏ.
Báo điện tử đảng: Tình tiết giảm nhẹ?
Vào thời gian đầu xảy ra vụ cưỡng chế gia đình Đoàn Văn Vươn ở Tiên
Lãng, mọi chuyện chỉ được đưa ra ánh sáng sau một tháng và cũng sau khi
vài báo cáo của chính quyền Hải Phòng đã không được Chính phủ thông qua
về quan điểm mô tả, đánh giá và xử lý vấn đề.
Áp lực của dư luận đối với Chính phủ là quá lớn vào thời gian đó.
Nhưng một quan chức của huyện Tiên Lãng lại cho rằng Đoàn Văn Vươn là “một kẻ mất nhân tính”.
Lẽ ra, ông Vươn đã không được khôi phục“nhân tính” nếu không do trực
tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “vào cuộc”. Những chỉ đạo khá rõ ràng của
người đứng đầu Chính phủ, nằm trong một văn bản là thông báo số 43, đã
tạm an dân vào thời gian đầu năm 2012.
Chỉ có điều, hòa cùng việc tiếng nói của báo chí trong nước trở nên yếu
ớt một cách đáng ngạc nhiên, tình thế của Đoàn Văn Vươn lại bất chợt trở
nên xấu hơn sau đó.
Năm 2012 cũng là thời gian mà giới chính khách phải lo lắng nhiều đến “đại sự quốc gia”.
Còn vào lần này, có lẽ mọi chuyện lại phải trông chờ ở cấp lãnh đạo cao
nhất, thay vì những hành động của chính quyền cấp dưới vốn thường bị
người dân coi là “làm càn”.
Bước vào ngày xét xử thứ hai, một thông tin trên báo điện tử của Đảng
cộng sản Việt Nam có vẻ nên được chú ý là bà Nguyễn Thị Mai - Chánh án
Tòa án nhân dân Hải Phòng, khi trao đổi với phóng viên báođiện tử Đảng
cộng sản Việt Nam, đã cho biết: xét xử khách quan, công bằng, đúng tội
và xem xét tình tiết giảm nhẹ theo đúng thông báo số 43/TB-VPCP kết luận
của thủ tướng chính phủ về vụ cưỡng chế thu hồi đất ở xã Vinh Quang,
huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.
Về mặt nội dung, hai bài viết trên báo điện tử của đảng và của báo Nhân
dân là gần tương tự khi đều “tuyên ngôn” không khác cáo trạng của Viện
kiểm sát. Tuy nhiên, phát biểu trên của bà Nguyễn Thị Mai là yếu tố mới
và có vẻ “khoan hồng” hơn so với “Đoàn Văn Vươn và đồng phạm chuẩn bị,
chống đối việc cưỡng chế thu hồi đất như thế nào?”.
Tiêu đề bài viết trên báo điện tử của đảng“Xét xử vụ án Đoàn Văn Vươn và
đồng phạm: Khách quan, đúng tội và xem xét tình tiết giảm nhẹ” cũng có
vẻ nhẹ nhàng hơn lời lên án đanh thép trước đó của báo Nhân dân.
Vậy thông báo 43 có những nội dung nào đáng nhớ?
Thông báo 43
Thông báo 43 - một văn bản ký ngày 10/2/2012 - đã nhận định cụ thể việc
“Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã có những sai
phạm trong giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông
Đoàn Văn Vươn”.
Như người dân đã được thông tin rộng rãi sau đó, kết quả của “thế hợp
đồng binh chủng” dẫn đến “trận đánh đẹp” cùng việc giải quyết “chiến lợi
phẩm” bằng vào “việc phá dỡ nhà của ông Đoàn Văn Vươn” đã lôi một số
quan chức có “nhân tính” ra trước vành móng ngựa cùng với “kẻ mất nhân
tính” vào những ngày này.
Tuy vậy, phiên tòa xét xử đối tượng quan chức “ăn đất” sẽ chỉ diễn ra
ngay sau khi số phận của Người giữ đất được phán quyết. Cách xếp lịch
xét xử theo thói quen tính toán như thế của ngành tòa án đang khiến giới
quan sát phải suy ngẫm về một vài ẩn ý nào đó.
Nếu chiếu theo quan điểm “đúng người, đúng tội” của cơ quan kiểm sát và
tòa án, cho tới nay mọi việc dường như đều“đúng”, tức Đoàn Văn Vươn sẽ
không thể thoát khỏi tội danh “giết người”, cũng như vụ án xử các quan
chức Tiên Lãng không thể “chìm xuồng”.
Nhưng cùng trong “cảnh ngộ”, có thể ai đó không muốn tạo thêm mâu thuẫn,
trong khung cảnh mâu thuẫn đã quá đủ để bùng nổ. Người ta đang tự hỏi
là nếu quan chức Tiên Lãng không được nương nhẹ thì có thể số “sâu” này
cần được xếp lịch hầu tòa trước Đoàn Văn Vươn mà chẳng cần phải tư thế
người trước kẻ sau.
Hoặc, thứ tự xếp lịch xét xử đối với Đoàn Văn Vươn và quan chức Tiên
Lãng sẽ là một hành vi có ý nghĩa, nếu tòa án Hải Phòng làm đúng theo
thông báo số 43 của Chính phủ “Kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng
xem xét tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo do các quyết định không đúng
pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng”.
Những ẩn ý có thể bất ngờ lộ ra vào thời điểm đầy ngờ vực cùng thất vọng.
Công tâm mà nói, chẳng ai muốn làm cho hình ảnh nhân quyền ở Việt Nam bị
“thụt lùi” sâu sắc hơn trong bối cảnh xã hội và ngành tòa án đã diễn ra
quá nhiều “sa sút”.
Thiền Lâm gửi RFA từ Việt Nam
2013-04-03
Vụ án Đoàn Văn Vươn: Vì sao phải dừng ngày xử thứ 2?
Hôm nay, vẫn tiếp tục giai đoạn thẩm vấn, buổi sáng Tòa tiếp tục thẩm
vấn với “cái gọi là người bị hại” và những người cũng có thể tạm gọi là
“”người làm chứng”. Nội dung cơ bản chưa cần xác định theo cáo trạng
đúng hay sai về người bị hại và người làm chứng nhưng nóng lên tại phiên
tòa chính là Hội đồng xét xử và Viện Kiểm sát hỏi theo hướng buộc tội
hoặc mang tính chất để buộc tội. Đến phần luật sư thẩm vấn thì đa số bị
Chủ tọa phiên tòa dùng quyền uy để cắt hoặc dừng câu hỏi của luật sư;
tạo nên không khí căng thẳng tại phiên tòa không đáng có.
Điều đáng bàn nhất lời khai của những người “ bị hại” và của nhân chứng
là mâu thuẫn nhau, “ tát” vào miệng nhau tại phiên tòa với những nội
dung chủ yếu là: Có trang bị vũ khí hay không? Có bắn trước hay bắn sau?
Vết đạn trên tường, áo giáp, mũ bảo vệ,…Việc thi hành có đúng pháp luật
hay không? Đi vào nhà người khác không được đồng tình của chủ nhà…khi
kíp nổ là sự cảnh báo nhằm ngăn chặn sự cưỡng chế và xâm phạm vào nhà ở
trái pháp luật của anh Đoàn Văn Qúy nhưng lực lượng cưỡng chế vẫn tiếp
tục xông vào?...
Hội trường nóng lên khi luật sư Trần Đình Triển hỏi ông Lê Văn Mải (
nguyên Trưởng công an, thủ trưởng cơ quan điều tra huyện Tiên Lãng) thì
ông Lê Văn Mải lấy lý do không đủ sức khỏe để trả lời và từ chối trả lời
câu hỏi của luật sư Trần Đình Triển. Trước tình cảnh đó, luật sư Triển
đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) nếu ông Mải không trả lời luật sư thì
luật sư có quyền đề nghị HĐXX xét hỏi ông Mải về những câu hỏi mà luật
sư nêu ra để buộc ông Mải phải trả lời. Sự căng thẳng giữa luật sư và
Chủ tọa phiên tòa đã diễn ra: Chủ tọa thì cho rằng quyền của chủ tọa có
quyền cắt hoặc dừng theo quyền của chủ tọa. LS Triển thì cho rằng: “ Chủ
tọa có quyền nhưng phải trên cơ sở pháp luật được quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự và nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về cải cách tư
pháp, đề nghị Hội đồng nếu ông Mải không đủ sức khỏe để trả lời luật sư
thì tạm dừng phiên tòa, khi nào ông Mải đủ sức khỏe để trả lời thì tiếp
tục xét hỏi ông Mải”.
Tình huống đó và cũng gần hết giờ làm việc buổi sáng nên Chủ tọa phiên
tòa tuyên bố tạm dừng phiên tòa buổi sáng, buổi chiều nếu ông Mải có đủ
sức khỏe thì LS Triển tiếp tục phỏng vấn.
Buổi chiều phiên tòa được khai mạc tiếp vào 14h. LS Triển hỏi ông Mải: “
Với tư cách ông tham gia cấp Uỷ của Huyện, Trưởng công an kiêm TThủ
trưởng cơ quan điều tra của công an huyện Tiên Lãng thì ông có biết
quyết định hành chính của huyện Tiên Lãng đã bị khởi kiện và đã có bản
án có hiệu lực của tòa án thì việc thi hành cưỡng chế đó thuộc thẩm
quyền của Cơ quan Thi hành án, vậy mà cơ quan hành chính ( UBND Huyện)
ra quyết định cưỡng chế là trái pháp luật, với tư cách cơ quan tham mưu
ông có ý kiến gì về việc này?”. Ông Mải trả lời: “ Việc đúng sai là do
UBND Huyện, chúng tôi là cơ quan chấp hành nên ra lệnh thì chúng tôi
làm”. Nhiều câu hỏi khác của LS Triển đưa ra như: Nhà anh Qúy không
thuộc diện cưỡng chế, không được phép của gia đình thì ai cho phép đoàn
cưỡng chế xông vào nhà người ta ?, các vết đạn trên tường nhà anh Qúy do
ai bắn? Tại sao khi kíp mìn nổ chưa gây hậu quả gì mà ông chỉ đạo tiếp
tục xông vào nhà anh Qúy để hậu quả xảy ra vụ án này?,…Ông Mải đều trả
lời: Tôi không trả lời LS hoặc viện giải với những lý do khác không thể
chấp nhận được.
Buổi chiều chỉ tiến hành khoảng 30 phút chủ yếu dành cho LS Triển hỏi
ông Mải. Sau đó, chủ tọa phiên tòa tuyên bố tạm dừng phiên tòa tại đây.
Ngày mai 8h tòa tiếp tục làm việc.
(FB Trần Đình Triển)
Nguyễn Trung - Sự kiện Đoàn Văn Vươn nhắc nhủ lương tri cả nước không được ngủ.
Tác giả Nguyễn Trung |
Luồng không khí nhẹ nhõm chút ít do Hội nghị Trung ương 4 đem lại tan
biến rất nhanh khi nổ ra tiếng “súng hoa cải” của Đoàn Văn Vươn chống
lại các hành vi cưỡng đoạt của nhà cầm quyền nhân danh thực hiện “sự
cưỡng chế theo Luật” để thu hồi đất đai.
Khắp nơi trong cả nước đã có nhiều ý kiến phân tích xác đáng sự kiện này.
Có thể coi sự phản kháng của Đoàn Văn Vươn báo động nấc cao nhất người
dân có thể làm gì và sẽ làm gì để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ.
Đồng thời, sự “cưỡng chế theo luật” ở Cống Rộc – Tiên Lãng – như một mẫu
phẩm sinh thiết cắt ra từ cơ thể chính trị của đất nước, tự nó bóc trần
những bất cập, yếu kém và thoái hóa trầm trọng của một cấp chính quyền
địa phương (huyện – tỉnh, thành phố) với tính cách là một bộ phận cấu
thành của hệ thống chính trị nước ta.
Cuộc sống cho thấy một chế độ chính trị dù là ở quốc gia nào, một khi
để cho nội tình đất nước diễn biến tới mức chỉ còn nói chuyện được với
nhau bằng vũ lực, dù là từ phía người dân hay từ phía chính quyền, chế
độ ấy đang hướng tới giờ cáo chung.
Để bào chữa và bảo vệ cho các việc làm sai trái của nhà chức trách dưới
cái tên “cưỡng chế theo luật” như đã xảy ra ở Cống Rộc – Tiên Lãng, có
thể tùy tiện khai thác đến vô tận rất nhiều “lỗi” nằm ngay trong những
bất cập và kẽ hở của hệ thống luật pháp nước ta, nhất là các phần trong
Hiến pháp và trong các Luật có liên quan đến vấn đề đất đai, các văn bản
dưới Luật… Nhưng xin đừng quên, các “lỗi” như thế là tác phẩm của toàn
bộ hệ thống chính trị, nghĩa là người dân chỉ là nạn nhân. Vì vậy, khái
niệm “hợp pháp”, hay “phạm pháp” còn phải được xem xét trong bối cảnh
người dân bị dồn ép đến mức có lúc họ phải lựa chọn phạm pháp làm giải
pháp.
Có thể câu chuyện không liên quan với nhau lắm và mỗi sự việc đều có
bối cảnh riêng, song cứ xem xét thuần túy mệnh đề “hợp pháp” và mệnh đề
“phạm pháp”, chắc chúng ta có thể hiểu được tiếng bom Sa Điện của liệt
sỹ anh hùng Phạm Hồng Thái định ám sát toàn quyền Martial Merlin là hành
động chính nghĩa; và đồng thời chúng ta cũng có thể hiểu được vì sao
chế độ thực dân Pháp coi hành động của Phạm Hồng Thái là “phạm pháp”;
việc chính phủ đô hộ này coi việc kết án ông là “hợp pháp”.
Vì những lý do sinh tử, đất nước ta đang cần có hòa bình, ổn định, song
hiển nhiên không phải bằng phương thức dùng lực lượng vũ trang “cưỡng
chế theo luật” như đã xảy ra ở Cống Rộc – Tiên Lãng, mà bằng cách gìn
giữ lòng tin của người dân đối với chế độ, bằng cách làm cho chế độ trở
thành chỗ dựa của từng người dân trong mưu sinh và trong mưu cầu hạnh
phúc của họ.
Trong tình hình hệ thống luật pháp còn nhiều “lỗi” của một nhà nước
nhận về mình sứ mạng là nhà nước của dân – do dân – vì dân, lẽ ra các
công bộc của một nhà nước như thế bắt buộc phải có trách nhiệm và nghĩa
vụ bổ khuyết tối đa có thể những gì mà hệ thống pháp luật hiện hành chưa
làm được, để giảm thiểu những bất cập, vả để phục vụ lợi ích của dân.
Đặt vấn đề như thế, lại xuất hiện thêm câu hỏi: Vụ Cống Rộc – Tiên Lãng
phải được xử như thế nào là hợp pháp, nghiêm minh, thấu tình đạt lý, giữ
được lòng dân, được chế độ chính trị?
Không thể trốn tránh được sự thật là sự kiện Đoàn Văn Vươn đặt ra một
tình huống khó xử cho quốc gia, cho chế độ chính trị: Không xử nghiêm
thì loạn, nhưng nghiêm thì phải theo chuẩn mực pháp lý nào, đạo đức nào
và đối với đối tượng nào trong thực tế hệ thống chính trị và hệ thống
pháp luật của nước ta có quá nhiều “lỗi” như hiện nay?
Như vậy, rõ ràng không thể nói đơn giản “cứ xử lý nghiêm theo pháp
luật!” là mọi chuyện sẽ đâu vào đó. Cuộc sống nhiều quốc gia khác cũng
không thiếu những tình huống khó xử như thế; và không hiếm khi xảy ra
tình trạng cuộc sống đứng ra tự xử theo luật đời, nghĩa là “cùng tắc
biến!”.
Cái “cùng tắc biến” như thế sẽ làm thay những gì mà luật pháp hiện hành
ở đó không làm được; lợi cho bên này hay cho bên kia, đúng hoặc sai,
cái giá phải trả và ai trả? cái kết cục cuối cùng sẽ ra sao? vân vân..,
tất cả tùy thuộc vào tương quan lực lượng của các bên tham gia nằm trong
cái “cùng tắc biến” như thế và sự diễn biến tiếp theo. Chung cuộc của
cái cùng tắc biến như thế, đất nước thường mất nhiều hơn được.
Rồi đây sự kiện Đoàn Văn Vươn sẽ phải đưa ra xử, và xử những ai, chỉ xử
một bên, hay xử cả hai bên bao gồm phía Đoàn Văn Vươn và phía những
người thực thi “cưỡng chế theo luật”, xử như thế nào… tất cả đều còn đề
để ngỏ. Án lệ đồng Nọc Nạn (Bạc Liêu) năm 1928 (xem tại đây) cho một ví
dụ tốt để tham khảo và đối chiếu.
Trong trường hợp đạt được kết quả xử án đúng, nghiêm minh với pháp
luật, thấu tình đạt lý, thu phục được nhân tâm, còn phải thực thi nghiêm
túc kết quả xử án mới có khả năng cải thiện được tình hình, lập lại
trật tự và lấy lại lòng tin của dân. Kể cả một khi làm được như vậy,
trước sau vụ án Cống Rộc – Tiên Lãng vẫn còn nguyên vẹn đối với những
người lãnh đạo các cấp và toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước, với
nghĩa là từ sự kiện này phải rút ra được những kết luận gì, phải thực
hiện những thay đổi nào khả dĩ phòng ngừa được các “sự kiện Đoàn Văn
Vươn” mới trong tương lai. Chắc chắn sẽ có nhiều rác rưởi của vụ này
phải hót tiếp. Những rác rưởi và những khuyết tật trong toàn bộ hệ thống
chính trị cũng như trong hệ thống luật pháp có thể phát hiện ra được
qua vụ án này sẽ đặt ra nhiều việc phải làm. Cao xa hơn nữa, giải quyết
đúng đắn sự kiện Đoàn Văn Vươn, sẽ tạo ra cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước
cơ hội thúc đảy thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI; cơ hội này
cần được tận dụng cho khởi xướng cải cách hệ thống chính trị của đất
nước.
Trong trường hợp sự kiện Đoàn Văn Vươn không được xử lý trọn vẹn như
trình bày trên, sớm muộn sẽ dẫn tới những bùng nổ nguy hiểm mới, lúc nào
đó luật đời sẽ đứng ra tự xử theo cái lẽ “cùng tắc biến”.
Rồi đây, theo Luật Đất đai, trong cả nước quyền sử dụng ruộng đất được
giao sẽ hết hạn năm 2013. Sự nghiệp phát triển đất nước sẽ còn đòi hỏi
rất nhiều đất đai cho xây dựng kết cấu hạ tầng, xúc tiến đô thị hóa,
công nghiệp hóa… Vân vân và vân vân… Đường lối chính sách và hệ thống
chính trị phải như thế nào để tránh cho đất nước kết cục là tình trạng
luật đời sẽ đứng ra tự xử mọi việc.
Một khía cạnh khác:
Cuộc cưỡng chế dân bằng lực lượng vũ trang ở Cống Rộc – Tiên Lãng được
một trong những nhân vật điều hành chủ chốt coi là hiệp đồng cực kỳ hay,
một trận đánh đẹp, có thể viết thành sách… Một mình câu nói này tự nó
đã cho thấy: Chủ trương trấn áp này đến từ đâu, cấp nào, quy mô hình
thành ra sao, mức độ nghiêm trọng của sự việc trấn áp… Câu nói này toát
lên hơi hướng hay linh hồn của toàn bộ công vụ cưỡng chế theo luật ở
Cống Rộc – Tiên Lãng. Riêng một câu nói này, cùng với sự chấp nhận,
hưởng ứng, tán thành hay biện minh, bao che… của các cộng sự, còn cho
thấy mức độ sa đọa nghiêm trọng về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo
đức và văn hóa của những cán bộ, đảng viên có chức có quyền đã chỉ đạo
hay đã nhân danh pháp luật trực tiếp thực thi công vụ này. Sự phấn khích
bột phát ra từ câu nói này thật ghê sợ và đáng ngẫm nghĩ.
Không thể không đặt ra câu hỏi: Phẩm chất đảng viên ĐCSVN như thế nào,
đạo đức cán bộ là công bộc của dân ra sao nằm trong phát ngôn như vậy?
Cứ coi câu nói ghê sợ đó của đại tá giám đốc công an thành phố Đỗ Hữu
Ca là hiện tượng cá biệt, song nó không phải là sản phẩm của công tác
giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng cho đảng viên, nhìn xa hơn nữa là
của nền giáo dục nước nhà, của sự biến đổi khủng khiếp những giá trị về
sơn hà xã tắc đang diễn ra trong nước ta, là sản phẩm trực tiếp của hệ
thống chính trị nước ta hiện nay hay sao? Nếu nhìn từ các hiện tượng xấu
nghiêm trọng khác đã xảy ra trong cả nước trong những năm gần đây, có
thể nói thực trạng tha hóa này lũng đoạn nghiêm trọng đời sống mọi mặt
đất nước ta từ lâu rồi, nhưng nó đang bị che lấp. Câu nói ghê sợ của Đỗ
Hữu Ca tự xé toạc ra sự thật và thách thức lương tri chúng ta.
Nghĩ như vậy không phải là cố ý bôi đen chế độ hay nghiêm trọng hóa sự
việc. Đơn giản là, cũng như nhiều địa phương khác, Hải Phòng có không ít
các “vụ cưỡng chế theo luật” trong vấn đề đất đai. Xin đừng quên khổ
chủ Đoàn Văn Vươn – bây giờ trở thành bên bị – đã khiếu kiện từ năm
2008, nhưng nước đổ lá khoai, hoặc chính quyền bất lực không giải quyết
được. Xin đừng quên, Hải Phòng năm 2006 đã có những vụ tham nhũng đất
đai động trời mà tòa án sơ thẩm chỉ xử mức án không có trong Luật Hình
sự là “cảnh cáo”. Ngày nay cái tên gọi “vụ xử án sơ thẩm tham nhũng đất
đai ở Đồ Sơn” trở thành bia miệng người đời. Xin đừng quên, cũng như
nhiều nơi khác, Hải Phòng không thiếu các “con sâu” chỉ bị phê bình,
cảnh cáo, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự vì “đã có nhiều cống
hiến..”; có dịp, những “con sâu” này vẫn có thể được thuyên chuyển công
tác, lên chức, vân vân…
Có lẽ những sự việc cụ thể như vậy đã xảy ra ở Hải Phòng và trong cả
nước trực tiếp giải thích tại sao mọi nỗ lực chấn chỉnh và đổi mới xây
dựng Đảng 26 năm qua không chặn đứng được xu thế tha hóa trong Đảng. Sự
việc Cống Rộc – Tiên Lãng róng thêm một hồi trống mới: Cải cách hệ thống
chính trị và đổi mới xây dựng Đảng ngày càng trở thành vấn đề sống còn
đối với Đảng.
Cho dù vụ nổ súng hoa cải và mìn bình ga của Đoàn Văn Vươn rồi đây sẽ
được xử đúng xử sai như thế nào, nạn nhân-tội phạm Đoàn Văn Vươn đã tự
khắc tên mình vào một cột mốc trên chặng đường đau khổ đất nước đang đi
hôm nay, nhắc nhủ lương tri cả nước không được ngủ.
Rút từ: Hội nghị Trung ương 4 – sự kiện Đoàn Văn Vươn và vấn đề sửa đổi Hiến pháp
(Viet-studies)
Ông Đoàn Văn Vươn và những người trong gia đình ông không có tội.
Về tội danh “ chống người thi hành công vụ” và “ tội giết người”, cơ
quan điều tra Hải phòng định tội đối với ông Đoàn Văn Vươn và những
người trong gia đình ông, theo quan điểm của tôi như sau:
1. Tội “ chống người thi hành công vụ”
Trước khi xác định người đó có phạm tội hay không, phải căn cứ vào “bốn
yếu tố cấu thành tội phạm” mà bất kể một điều tra viên nào cũng phải
nhuần nhuyễn. Đó là “khách thể, chủ thể, khách quan, chủ quan”. Thiếu
một trong bốn yếu tố, không cấu thành tội phạm! Đây là một nguyên tắc
bất biến, vừa thể hiện tính nhân văn, đồng thời là căn cứ khoa học trong
nghiệp vụ điều tra tội phạm.
Về “khách thể bị xâm hại” được pháp luật bảo hộ trong tội danh này lại
chính là “ nhà ở, tính mạng, tài sản” của ông Đoàn Văn Vươn, vì những
người đang “thi hành công vụ” sai pháp luật. Ông Đoàn Văn Vươn được pháp
luật bảo hộ về “ quyền bất khả xâm phạm nhà ở, tính mạng tài sản…”
Về “chủ thể”, ông Đoàn Văn Vươn là một công dân không có tiền án, tiền sự, đã từng là người lính cầm súng bảo vệ tổ quốc.
Về “khách quan”, căn cứ luật đất đai, những người thi hành lệnh cưỡng
chế hoàn toàn làm sai pháp luật ( đã được thủ tướng chính phủ kết luận).
Về “chủ quan”, ông Đoàn Văn Vươn không ý thức chống lại những người thi
hành công vụ mà chỉ chống lại những người làm sai pháp luật để bảo vệ
tài sản và tính mạng những người thân trong gia đình mình. Hành động này
là chính đáng, được luật pháp bảo hộ.
Bởi thế, hành động của ông Đoàn Văn Vươn và những người trong gia đình ông không có cơ sở cấu thành tội “chống thi hành công vụ”
2. Về tội danh “giết người”
Như đã trình bày với các bạn phần trước, muốn chứng minh người đó có
phạm tội hay không, phải căn cứ vào “bốn yếu tố cấu thành tội phạm”. Ở
tội danh này, phần khách thể bị xâm hại được pháp luật bảo hộ vẫn là gia
đình ông Đoàn Văn Vươn. Bởi không có một điều luật bảo hộ cho những
hành vi trái pháp luật, dù họ ở cương vị nào. Điều này hoàn toàn bất lợi
cho những người “thi hành công vụ” trong vụ thi hành lệnh cưỡng chế thu
hồi đất của hộ ông Đoàn Văn Vươn tại huyện Tiên Lãng.
Tôi tin những người đang đại diện cho pháp luật sẽ rất công minh trong
việc nhìn nhận vụ án Đoàn Văn Vươn, định đúng tội danh và sử lý đúng
người, đúng tội. Có như thế, pháp luật với nghiêm minh và có tác dụng
răn đe những kẻ cậy quyền cậy thế coi pháp luật là của riêng nhà mình,
tự ý ra lệnh xua những những chàng thanh niên xông vào chỗ chết, phản
bội lại cha ông giống như những người lính ngụy trước đây, làm tổn hại
đến lòng tin yêu của nhân dân với Đảng Bác Hồ.
Có một điều đáng buồn là “người ta” chỉ nghĩ đến định tội danh cho ông
Đoàn Văn Vươn mà không định tội danh cho những người lãnh đạo chỉ huy
lực lượng xâm phạm trái pháp luật quyền bất khả xâm phạm nơi ở và cố ý
hủy hoại tài sản nhà ông Vươn? Về luật, họ hoàn toàn có đủ căn cứ phạm
tội! Hay họ quan niệm chỉ những thằng dân đen mới có tội?
Mong rằng, sau vụ án Đoàn văn Vươn, các “ông trời con” khác không dám
hoành hành tác oai tác quái, coi trời bằng vung, sẽ phải tôn trọng pháp
luật hơn!
3/2013
Trịnh Tuyên
Nguyên sỹ quan CSĐT công an Thanh Hóa
(Quê Choa)
GS. TS. Nguyễn Đăng Dung - Từ vụ Tiên Lãng, nghĩ về sửa đổi Hiến pháp
Vụ việc Tiên Lãng xảy ra đúng thời điểm cả nước đang tiến hành tổng kết
việc thi hành Hiến pháp 1992 và thảo luận sửa đổi Hiến pháp này. Vụ Tiên
Lãng là một vụ việc rất điển hình mà khi xem xét, đánh giá, có thể thấy
nó liên quan đến tất cả các lĩnh vực nhà nước và xã hội, từ lập pháp
đến hành pháp; từ hành pháp đến tư pháp; từ nguyên tắc Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; từ công tác quân sự cho đến chính
trị dân sự, từ trách nhiệm của chính quyền, của Nhà nước đến quyền lợi,
ích hợp pháp của người dân…
Có tác giả đã cho rằng, vụ việc ông Đoàn Văn Vươn chống lại Đoàn cưỡng
chế thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng đầu năm 2012, dù chưa xét xử ở
Tòa án, nhưng đã có thể coi là một “án lệ” quan trọng về pháp luật đất
đai, khiếu nại, khiếu kiện v.v.. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, chúng
ta đang thảo luận sửa đổi Hiến pháp 1992, vụ việc này có nhiều điều đáng
bàn từ góc độ luật hiến pháp như: sở hữu đất đai, quyền con người, sự
giám sát của người dân đối với chính quyền, hoạt động của chính quyền
địa phương, cơ chế bảo hiến[1]. Chúng tôi đồng ý với nhận định này.
Chúng tôi cũng cho rằng, tất cả vấn đề của vụ Tiên Lãng có liên quan đến
sự phân quyền: phân quyền từ trung ương xuống địa phương, phân quyền từ
Đảng với Nhà nước, từ Nhà nước với người dân, từ quân sự cho đến dân
sự, và nhất là, từ lập pháp cho đến hành pháp, từ hành pháp đến tư pháp…
Cho đến nay, vấn đề phân quyền vẫn chưa được quy định rõ ràng trong
Hiến pháp Việt Nam. Hiến pháp sửa đổi cần phải làm rõ sự phân quyền này.
Vụ việc Tiên Lãng có tác dụng giúp chúng ta đẩy nhanh việc nghiên cứu,
hay làm rõ hơn nữa các nội dung của sửa đổi Hiến pháp.
Đối với vấn đề sề sở hữu đất đai. Nói đến vụ Tiên Lãng, không ai không
nói đến vấn đề sở hữu đất đai. Vì mục tiêu muốn tiến nhanh, tiến mạnh
lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa không quy
định/không thừa nhận quyền sở hữu đất đai cho tư nhân, coi sở hữu tư
nhân là nguyên nhân sâu thẳm của chế độ người bóc lột người. Từ Hiến
pháp năm 1980, Việt Nam không thừa nhận sở hữu tư nhân, chỉ cho phép tồn
tại hai loại hình sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Riêng
đối với đất đai, chỉ có duy nhất một loại hình sở hữu là sở hữu toàn
dân. Đến Hiến pháp năm 1992, sở hữu tư nhân được thừa nhận, nhưng đất
đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân (sau này được chỉnh lại là sở hữu nhà
nước). Việc thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đã tạo nên những thành công
trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, mà trước hết là giúp cho Việt Nam
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Mặc dù có những thành công này,
nhưng nền kinh tế nói riêng cũng như xã hội nói chung cũng xuất hiện
những vấn đề búc xúc khác cần phải giải quyết, mâu thuẫn giữa người giàu
và người nghèo ngày một gia tăng, khiếu nại tố cáo của người dân càng
ngày càng chồng chất, trong đó khiếu nại về đất đai chiếm tới gần 80%,
có cả những cuộc khiếu nại rất đông người. Theo nhận định của nhiều
người, chính việc không thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai là một trong
những nguyên nhân quan trọng của tình trạng khiếu nại, tố cáo.
Theo chúng tôi, việc không thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với đất
đai, tức là đã không thừa nhận quyền con người trong lĩnh vực này. Việc
không thừa nhận quyền sở hữu tài sản của tư nhân đối với đất đai là một
thiếu hụt quan trọng về nhân quyền trong lĩnh vực tư hữu tài sản, vì đất
đai là một thứ tài sản rất quan trọng đối con người, nhất là đối với
người nông dân. Trong khi đó, lịch sử ra đời của Hiến pháp luôn gắn liền
với lịch sử bảo vệ quyền tài sản của con người, trong đó đất đai là một
tài sản quan trọng.
Việc không thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai – ngay cả đối với đất ở
và đất thổ cư của ông cha để lại, kể cả đất hương hoả - đã gây ra rất
nhiều phiền phức cho việc giao dịch mua bán của người dân. Đối với đất
nông nghiệp và phi nông nghiệp, việc chuyển giao cũng phức tạp không
kém. Không phải ngẫu nhiên mà các vụ khiếu kiện về đất đai chiếm hơn 80%
các khiếu kiện nói chung. Vì tuy là “sở hữu toàn dân” nhưng trên thực
tế, người nông dân không rõ ai là người chủ sở hữu đích thực về đất đai
của họ, trong khi đó, chính quyền địa phương lại được trao rất nhiều
thẩm quyền về đất đai, nhất là trong việc giao đất, cho thuê đất và thu
hồi đất. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tạo nên những kẽ hở lớn để
các quan chức chính quyền bắt tay với tư nhân, các “đại gia” cùng trục
lợi, đặc biệt trong thu hồi đất (nhất là đất nông nghiệp của người nông
dân) cho các dự án công nghiệp, thương mại, đô thị. Cộng với việc thiếu
sự kiểm soát quyền lực hiệu quả, thiếu tính giải trình, minh bạch, đã
dẫn đến hệ quả là đất đai rất dễ rơi vào tay các “cường hào”, “tư bản”
mới. Một mảnh đất của người nông dân bị thu hồi với giá đền bù rất rẻ
mạt, nhưng khi thu hồi xong lại sang tên bán cho người khác với giá gấp
hàng trăm, hàng ngàn lần, thì ai mà lại không khiếu nại…
Sở hữu nhà nước hay sở hữu toàn dân đi chăng nữa thì cuối cùng, quyền sở
hữu cũng sẽ rơi vào tay các cơ quan nhà nước, mà Nhà nước chính là của
những người nắm quyền lực nhà nước, cụ thể là các cá nhân đang nắm
quyền. Mặt khác, với chế độ sở hữu toàn dân, đất đai được giao, cho thuê
luôn có thời hạn khiến cho người sử dụng không thể an tâm bỏ vốn đầu tư
lâu dài, không thể chuyển nhượng hiệu quả. “Hễ có vướng mắc nào phát
sinh thì người ta lại an ủi lẫn nhau rằng, đất đai thuộc sở hữu toàn
dân. Nhưng mọi sai lầm đều từ đó mà ra”[2]. Từ sau 1980, Hiến pháp và
Luật Đất đai đã được sửa đổi nhiều, nhưng riêng điều khoản về chế độ sở
hữu đất đai vẫn “dậm chân tại chỗ”. Theo một số tác giả, “nhiều người
không dễ dàng “buông” quy định này, bởi cơ chế “nhà nước quản lý” mang
lại không ít nguồn lợi hấp dẫn cho một bộ phận quan chức và nhà đầu
tư”[3]. Cái “tổ con tò vò” nằm ở chỗ này đây. Trong khi đó trước đây,
thời kỳ phong kiến và thực dân là Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 đều
thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai.
Trong khi đó,“ở các nước, không có ý niệm sở hữu toàn dân. Như ở Mỹ,
quyền công hữu đất đai và tài nguyên thuộc về các địa chỉ rõ ràng: Chính
phủ liên bang hoặc chính quyền tiểu bang, hay thành phố (60% thuộc tư
hữu, 40% thuộc công hữu, trong đó 28% thuộc Chính phủ liên bang, 9%
thuộc Chính phủ bang và Chính phủ cấp tương đương tỉnh hay thành phố, 2%
thuộc người dân da đỏ). Không có đất đai, tài nguyên nào lại thuộc
huyện, xã như ở Việt Nam”[4].
Hiến pháp 1959 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vẫn kế thừa truyền
thống xã hội Việt Nam, thừa nhận “bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và
các tư liệu sản xuất khác của nông dân” (Điều 14) và chỉ coi “đất hoang”
mới thuộc sở hữu toàn dân (Điều 12). Khi Quốc hội thảo luận xây dựng
Hiến pháp 1980 và sau này Hiến pháp 1992 thì đất đai (toàn bộ đất đai
nói chung) được tuyên bố là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, các ý kiến
trái lại, đề nghị xem xét theo Hiến pháp 1959 đều không được chấp nhận.
Như vậy, khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai chỉ xuất hiện lần đầu tiên
trong Hiến pháp 1980.
Đến Hiến pháp năm 1992, mặc dù có sự thừa nhận nền kinh tế thị trường,
sở hữu tư nhân được thừa nhận, nhưng sở hữu đất đai vẫn là của toàn dân.
Luật Đất đai được thông qua năm 1987 và sửa đổi năm 1993, mặc dù có
nâng thời hạn quyền sử dụng đất đến 20 năm và với hạn điền không quá 03
ha cũng không khỏi hết những vướng mắc cho người dân sử dụng. “Rõ ràng
việc giao đất có thời hạn và không công nhận tư hữu đất đai khiến người
sử dụng chưa an tâm, phần nào hạn chế, không khuyến khích các doanh
nghiệp, nhà đầu tư tham gia lĩnh vực nông nghiệp. Đồng thời, do luật
chưa sát với thực tiễn nên phát sinh chuyện ngoài luật còn “đẻ” ra thêm
vô số văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, thông tư, nghị định… Từ đó
chính quyền cấp địa phương muốn vận dụng sao cũng được, và dễ… vận dụng
sai làm tình hình quản lý đất đai thêm phức tạp, nhất là dễ lợi dụng để
trục lợi, hay vận dụng sai luật dẫn tới gây thiệt thòi cho người sử dụng
đất. Vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên Lãng là một điển hình. Phải nhìn
nhận là chính sách đất đai cứ thay đổi liên tục như vừa qua gây khó
trong quản lý, vừa phát sinh tiêu cực. Đáng lý ra nó nhất thiết phải
chuẩn, tinh gọn và nhất quán. Trên thế giới nhiều nước công nhận quyền
sở hữu tư nhân về đất đai, ở nước ta chỉ giao quyền sử dụng, hiện người
dân không có quyền sở hữu về đất. Tuy nhiên, lâu nay người dân vẫn mua
bán, chuyển thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất và đều được chính quyền
công nhận, thừa nhận. Như vậy điều đó cho thấy thực tế đất đai đã là một
dạng tài sản, đồng thời quyền sử dụng đã giống như quyền tư hữu. Với
thực tế đó thì luật cũng phải thay đổi cho phù hợp thực tiễn. Chúng ta
nên giao đất vĩnh viễn theo hình thức sở hữu. Nghĩa là công nhận quyền
sở hữu đất đai cho người dân, đồng thời đa dạng hóa sở hữu đất đai như
sở hữu quốc gia do Nhà nước quản lý, sở hữu của cộng đồng dân cư, sở hữu
của pháp nhân và sở hữu của cá nhân”[5]. Vì thế, “hai vấn đề mấu chốt
của Luật Đất đai cần sửa đổi ngay là bỏ “hạn điền 03 héc ta” và công
nhận “sở hữu tư nhân” về đất đai. Cái được lớn nhất là các viên chức địa
phương và trung ương sẽ ít có cơ hội tham nhũng, lạm dụng chức quyền
đối với vấn đề đất đai để trục lợi. Nhà nước vẫn có thể sòng phẳng với
nhân dân khi cần trưng dụng đất đai cho các mục tiêu quốc phòng, làm
đường sá, xây công trình công cộng, xây dựng đô thị, xây khu công
nghiệp… Khi phải trưng dụng đất của dân đang canh tác, Nhà nước sẽ sử
dụng phần đất công của mình (thí dụ đất rừng đang khai thác) để tạo lập
một vùng canh tác mới có đủ cấu trúc hạ tầng để đổi lại cho nông dân như
kiểu thành lập những đồn điền dầu cọ FELDA của Malaysia”[6].
“Chuyện ai sở hữu cần phải được làm rõ, đất cần phải có chủ. Phần nào
thuộc về nhà nước, phần nào thuộc về tư nhân phải rõ ràng. Ngoài ra, chế
tài cũng phải rất mạnh và được quy định ngay trong Luật Đất đai. Có như
vậy mới hạn chế được một số nguy cơ mà không ít người đang lo ngại, như
tình trạng hồi tố đất đai hoặc tích tụ ruộng đất chỉ để đầu cơ sinh
lời. Còn nếu cứ duy trì tình trạng như hiện nay, chỉ dẫn đến thụt lùi.
Hiện chỉ có khoảng 1% trong hơn chục triệu hộ nông dân của cả nước sản
xuất làm ăn ở quy mô trang trại, đây là một tỷ lệ rất thấp so với nhiều
nước”[7].
Trong trường hợp Nhà nước không thừa nhận sở hữu tư nhân đối với đất
đai, kể cả trong trường hợp Hiến pháp vẫn tiếp tục công nhận sở hữu toàn
dân, thì vẫn nên thu hẹp quyền giao đất, thu hồi đất của Nhà nước. Thay
vào đó, nên áp dụng quyền trưng dụng, trưng mua của người dân. Cơ chế
trưng mua, trưng dụng cũng phải rất chi tiết, thận trọng và chỉ nên áp
dụng với các dự án vì lợi ích quốc gia.
Vấn đề phân quyền giữa trung ương với địa phương, địa phương với địa
phương. Trong vụ việc xảy ra ở Tiên Lãng, có thể thấy có quá nhiều cấp
tham gia vào việc giải quyết, từ xã cho đến huyện, cho đến tỉnh và thậm
chí có cả cấp trung ương. Hiến pháp năm 1992 quy định nước ta có 04 cấp
chính quyền: trung ương, tỉnh, huyện và xã, nhưng lại có sự dập khuôn về
mô hình tổ chức, không phân biệt rõ ràng thẩm quyền, trách nhiệm của
trung ương, địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Trung ương có bộ phận nào, cơ quan nào thì địa phương có cơ quan ấy, bộ
phận ấy. Và cũng tương tự như vậy, cấp trên có chức năng nhiệm vụ gì,
thì ở cấp dưới dứt khoát phải có chức năng, nhiệm vụ ấy. Điển hình là
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cả ba cấp chính quyền
địa phương đều giống nhau. Điều này dẫn đến sự chồng chéo chức năng,
nhiệm vụ; tạo điều kiện để đùn đẩy trách nhiệm, nhưng đồng thời lại tạo
ra kẽ hở cho chính quyền lạm dụng, dựa dẫm vào nhau cùng che chở cho
những cái sai. Trong vụ Tiên Lãng, chính quyền đã ban hành những văn bản
quy phạm không thuộc thẩm quyền của mình. Từ những quy định của pháp
luật, với thói quen, cách làm cũ, đồng thời cũng do sự phân quyền không
rõ ràng, trước khi quyết định, các cấp chính quyền đều có sự trao đổi
xin ý kiến thống nhất của cấp trên, đến khi thi hành lệnh cưỡng chế cũng
vậy, hầu như đều có sự đồng ý của các cấp trên dưới của chính quyền
huyện Tiên Lãng, dù quyết định cưỡng chế là sai trái.
Cần phải thấy rằng, có những lĩnh vực mặc dù được phân quyền cho chính
quyền địa phương (như quản lý đất đai) nhưng việc quản lý của trung ương
trong lĩnh vực này (xây dựng và công bố quy hoạch tổng thể) lại phân
định không rõ ràng hoặc thực hiện không tốt, dẫn đến sự cát cứ của các
địa phương, mỗi nơi thực hiện mỗi kiểu, làm phá vỡ trật tự quản lý nhà
nước. Chính quyền huyện Tiên Lãng đã quy định thời hạn giao đất cho
nhiều cá nhân, hộ gia đình rất tùy tiện: có người được giao 4 năm; có
người 10 năm, 14 năm… Sự tùy tiện này đã làm nhiều người cho rằng,
Việt Nam có nguy cơ bị phân chia thành 63 vương quốc nhỏ cộng với một
vương quốc ở trung ương là 64. Không phải chỉ dừng lại ở con số 64, mà
qua vụ việc Tiên Lãng đã thấy có hiện tượng của các “tiểu vương quốc”
hơn 600 quận, huyện trên cả nước.
Quy định về chính quyền địa phương là một trong những nội dung rất quan
trọng cần sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp 1992. Như nhiều ý kiến đề
xuất, có thể chỉ tổ chức hai cấp chính quyền địa phương gồm cấp tỉnh và
dưới cấp tỉnh (có thể là thành phố hay xã). Chính quyền địa phương hoàn
chỉnh bao gồm cơ quan do nhân dân địa phương bầu ra (HĐND), HĐND là cơ
quan đại diện ở địa phương, và Uỷ ban nhân dân là cơ quan tổ chức thực
hiện ở địa phương, chịu sự giám sát của HĐND[8].
Vấn đề không nằm ở chỗ nên bỏ HĐND ở cấp nọ, giữ cấp ở kia, mà ở chỗ
Hiến pháp và luật phải phân định những việc gì địa phương làm được thì
trung ương không làm; những gì chỉ của cấp trên làm mà cấp dưới không
làm, những việc chỉ trung ương làm mà địa phương không làm, như an ninh –
quốc phòng, ngoại giao, tư pháp…; Tuyệt đối tránh hiện tượng trên và
dưới, nhiều cấp chính quyền cùng làm một việc. Một khi đã giao cho công
việc quyết định thì phải kèm theo cả ngân sách, sẽ có ngân sách trung
ương và có ngân sách địa phương. Cũng không nên áp dụng nguyên tắc quản
lý hành chính từ thời bao cấp “song trùng trực thuộc”: ngang thì trực
thuộc HĐND và UBND, dọc thì lại trực thuộc trung ương. Trừ những việc
cực chẳng đã mới có cả trung ương và địa phương đều phải làm, đều quản
lý, nhưng trong mọi trường hợp, cần có sự phân định rõ ràng. Từ vụ việc ở
Tiên Lãng, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần được phân
định lại, không phải cấp nào cũng có thể ban hành như cấp nào, về bất
kỳ lĩnh vực gì.
Vấn đề phân quyền giữa hành pháp và tư pháp. Khi vụ việc xảy ra, sự việc
được trình lên Chính phủ. Vấn đề là, giải quyết sự việc này có thuộc
thẩm quyền của Thủ tướng, của Chính phủ? Một khi quyết định hành chính
đã được ban hành, đã được áp dụng, thì mọi hậu quả của nó thuộc quyền
đánh giá, xét xử của lĩnh vực của tư pháp – toà án, nhất là một khi vụ
việc đã có sự tham gia của tòa án. Chính phủ, Thủ tướng cũng không nên
có đề nghị tòa án xét xử, vì tòa án khi xét xử chỉ thực hiện nguyên tắc
độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, và càng không nên quả quyết hành vi
của phía nào sai hay là đúng pháp luật. Công việc đó là tuộc phạm vi của
tư pháp – xét xử.
Qua vụ việc Tiên Lãng, hoạt động tư pháp cũng là một nội dung cần phải
quan tâm khi sửa đổi Hiến pháp. Nếu cơ quan tư pháp giải quyết đúng ngay
từ khâu xét xử đầu tiên thì hậu quả vụ việc có lẽ đã khác. Việc kiện
lên toà án để yêu cầu toà án phán quyết về quyết định thu hồi đất của
ông Đoàn Văn Vươn là rất đúng. Khi toà án sơ thẩm quyết định bác đơn của
ông Đoàn Văn Vươn, ông tiếp tục kiện ra Toà phúc thẩm của thành phố
cũng rất đúng. Nhưng ở cấp phúc thẩm, Thẩm phán Toà phúc thẩm đã lừa dối
ông Đoàn Văn Vươn, khi khuyên ông đồng ý rút đơn kháng cáo quyết định
sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng nhưng lại không tiến hành
các bước hoà giải tiếp theo. Việc rút đơn kháng cáo của các ông Vươn,
ông Luân đã làm cho quyết định sơ thẩm của Toà án có hiệu lực thực thi.
Thẩm phán như vậy đã làm trái các quy định của pháp luật và không có đạo
đức hành nghề thẩm phán.
Sự phân quyền giữa Đảng và Nhà nước. Bên cạnh và sau khi chờ kết luận
của Thủ tướng về vụ việc Tiên Lãng xong, chúng ta lại tiếp tục chờ quyết
định của Thành uỷ Hải Phòng. Sự chờ đợi này thể hiện một cách làm theo
cơ chế cũ: tất cả đều phải chờ vào quyết định của cấp ủy đảng. Nên
chăng, cần xác định rõ đây là vấn đề của chính quyền, chính quyền phải
rốt ráo làm, chứ không phải là vấn đề của Thành uỷ Hải Phòng, hay của
huyện uỷ Tiên Lãng.
Vấn đề sử dụng lực lượng vũ trang. Có nên hay không nên việc sử dụng
quân đội vào công việc cưỡng chế này? Theo quan điểm của nhiều người
thì vụ việc này không phải dùng đến lực lượng quân đội. Vì theo nguyên
tắc, chỉ được sử dụng quân đội trong tình trạng chiến tranh để bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trong tình trạng khẩn cấp có thiên
tai địch họa. Chính vì việc tổ chức và hoạt động theo cơ chế tập trung,
huyện cũng có quân đội, người đứng đầu quân đội – huyện đội trưởng –
cũng tham gia cấp ủy địa phương nên chính quyền đã lạm dụng khi huy
động. Hiến pháp sửa đổi cũng phải xem xét lại mối quan hệ này, quy định
rõ khi nào mới có sự tham gia của lực lượng vũ trang.
*
Qua vụ việc Tiên Lãng, có thể nhận định: mọi hệ lụy phát sinh từ vụ việc
cũng như nguyên nhân phát sinh vụ việc đều có nguyên nhân sâu xa từ các
quy định của Hiến pháp hiện hành: Hiến pháp không thừa nhận quyền sở
hữu tư nhân về đất đai, không thừa nhận phân quyền giữa các cơ quan nhà
nước, giữa Đảng và nhà nước. Vì vậy, Hiến pháp sửa đổi phải thừa nhận
quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai, phải thừa nhận sự phân quyền giữa
các cơ quan nhà nước, nhất là giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đảng
phải lãnh đạo chính quyền thông qua các cơ quan nhà nước. Đảng không
trực tiếp quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước./
[1] Xem Nguyên Lâm, Hiến pháp nhìn từ Tiên Lãng, tr. Blog Thanh niên Phía trước
[2] Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc phát biểu trên VTV ngày 11/2/2012.
[3] Tọa đàm trên Việt Nam Net, ngày 12/2/2012
[4] Xem Vũ Quang Việt, Những vấn đề về sở hữu toàn dân, Kinh tế Sài gòn 17/2/2012
[5] Xem Võ Tòng Xuân, Nên giao vĩnh viễn đất cho người dân, Quy hoạch đô thị, ngày 14/2/2012
[6] Võ Tòng Xuân, Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào sự thật, Kinh tế Sài gòn 14/2/2012
[7] Đặng Kim Sơn, Buổi tọa đàm trên Việt Nam Net ngày 12/2/2012.
[8] Xem Nguyễn Lâm, Tlđd
GS. TS. Nguyễn Đăng Dung
1/3/2012,
(Có chỉnh lại)
(Nghiên cứu lập pháp)
Ông Đoàn Văn Vươn bị đề nghị 5-6 năm tù
Sáng 4/4, dựa trên ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị chiều ngày 3.4.2012,
xác định việc kế hoạch 'dàn trận' giết người chưa xảy ra,
chủ mưu Đoàn Văn Vươn nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, VKS đề
nghị phạt ông này 5-6 năm tù, bằng nửa mức thấp nhất của khung
hình phạt.
Các bị cáo nghe VKS luận tội, đề nghị mức án tại phiên xử sáng 4/4. Ảnh chụp qua màn hình: Hà Anh |
Theo VKS, ông Vươn là người bàn bạc kế hoạch chống đoàn cưỡng
chế, mua súng, hướng dẫn các bị cáo "dàn trận". Ông chủ đầm
tôm tại Tiên Lãng bị coi là người có vai trò cao nhất trong vụ
án giết người và chống người thi hành công vụ.
Cơ quan công tố nhận thấy, ông Vươn thành khẩn khai báo, chưa
tiền án tiền sự, từng phục vụ trong quân đội nên đề nghị HĐXX
cho hưởng mức án thấp dưới khung hình phạt truy tố của tội
Giết người (từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình).
Bị cáo Đoàn Văn Quý bị đánh giá tích cực tham gia chống đối,
thực hiện quyết liệt, có vai trò sau anh trai - ông Vươn, Trong
quá trình điều tra, ông Quý thành khẩn, chỉ ra nơi cất giấu
súng. VKS áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, đề nghị phạt 54-60
tháng tù.
Bị cáo Đoàn Văn Sịnh được đánh giá là đồng phạm giúp sức,
nhân thân tốt, đề nghị phạt 42-48 tháng tù cùng về tội Giết
người.
Bị cáo Thương và Báu bị truy tố tội Chống người thi hành công vụ. Ảnh: Hà Anh |
Từng là người giúp sức cho ông Vươn mua súng, Đoàn Văn Vệ bị
đánh giá "chuẩn bị phạm tội", có vai trò thấp nhất nên được
áp dụng mức phạt thấp nhất của tội Giết người, 20-30 tháng
tù treo.
Hai nữ bị cáo Phạm Thị Báu và Nguyễn Thị Thương được xác
định có vai trò như nhau, nhận thức hạn chế, tham gia chống
người thi hành công vụ vì người thân trong gia đình nên đề nghị
cho tất cả hưởng hình phạt tù treo. Bà Báu bị đề nghị 18-24
tháng, bà Thương 15-18 tháng.
Nhóm phóng viên
(VnExpress)
Chống người thi hành “công vụ sai” có phạm tội không?
Tội “chống người thi hành công vụ”, mà trung tâm là xác định thế nào là
công vụ, vốn là một đề tài tranh luận không dứt trong suốt lịch sử phát
triển nhà nước pháp quyền. Việc chống lại một người/lực lượng thi hành
một công vụ sai thì có bị coi là phạm tội “chống người thi hành công vụ”
không? Trang Pháp luật & cuộc sống xin giới thiệu hai luồng ý kiến
khác nhau.
Phải hiểu đúng bản chất của “thi hành công vụ”
Người thi hành công vụ là người đang thực hiện nhiệm vụ công, tức là
người đang thực thi quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lý hành
chính. Tôi nghĩ pháp luật của chúng ta cũng đã quy định rõ về tội chống
người thi hành công vụ. Nếu người thi hành công vụ làm trái pháp luật mà
bị cản trở, xâm phạm thì người cản trở, xâm phạm không phải chịu tội
chống người thi hành công vụ.
Tuy nhiên, cần phải hiểu đúng bản chất của việc “thi hành công vụ”. Tôi
lấy ví dụ trong một vụ cưỡng chế, những người đang thực hiện quyết định
cưỡng chế (cho dù quyết định đó đúng hoặc sai) mà tuân thủ đúng nội
dung, kế hoạch của quyết định cưỡng chế đó thì có nghĩa họ đang thi hành
công vụ. Bởi vì trong thời điểm đó, những người thực hiện nhiệm vụ
cưỡng chế đang thực thi một quyết định có hiệu lực pháp luật (nếu người
bị cưỡng chế thấy quyết định đó sai thì có thể khiếu nại hoặc kiện ra
tòa). Như vậy, quyết định cưỡng chế có thể sai nhưng những người đang
thực hiện không làm trái với nội dung quyết định đó mà bị xâm phạm thì
đối tượng xâm phạm bị coi là chống người thi hành công vụ. Chỉ khi những
người đang thực hiện nhiệm vụ cưỡng chế làm sai với nội dung, kế hoạch
của quyết định cưỡng chế mà bị xâm phạm thì đối tượng xâm phạm mới không
phải chịu tội chống người thi hành công vụ.
Nếu cứ lý luận rằng một quyết định hành chính sai nên việc xâm phạm
những người đang thực thi quyết định hành chính đó không bị coi là chống
người thi hành công vụ thì lại khuyến khích việc lấy cái sai để chống
cái sai, mà có thể người đang thực thi công vụ hoàn toàn không có lỗi gì
trong quyết định sai đó. Ví dụ, một quyết định cưỡng chế sai được ký
bởi ông chủ tịch UBND huyện và ông chủ tịch mới chính là người chịu
trách nhiệm trước quyết định này, còn những người thực hiện quyết định
đó là chiến sĩ công an, chuyên viên phòng, ban chức năng của UBND thì
không chịu trách nhiệm trước quyết định sai trên.
Nguyên bộ trưởng Bộ Tư pháp NGUYỄN ĐÌNH LỘC
LÊ KIÊN ghi
Chống lại một quyết định trái pháp luật chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ
Trao đổi với Tuổi Trẻ, luật sư Nguyễn Hồng Bách - Đoàn luật sư Hà Nội -
cho rằng đây là một vấn đề về khoa học pháp lý, cần phải xem xét có các
yếu tố cấu thành tội phạm hay không mới xác định có phải hành vi phạm
tội hay không. Theo luật sư Nguyễn Hồng Bách, bốn yếu tố cấu thành tội
phạm để xác định hành vi phạm tội, xử lý hình sự gồm hành vi trái pháp
luật, hành vi phải có lỗi, hành vi phải gây hậu quả nghiêm trọng, mối
quan hệ giữa hành vi và hậu quả. Theo đó, nếu hành vi “chống lại một
quyết định trái pháp luật” mà đã đủ bốn yếu tố này thì không cần xem xét
các vấn đề khác cơ quan điều tra vẫn có thể khởi tố vụ án, khởi tố bị
can và điều tra để xử lý trước pháp luật.
Luật sư Bách cho rằng về mặt nguyên tắc, những người thi hành công vụ
được lệnh thực hiện công vụ, họ không biết được rằng việc chấp hành công
vụ của họ đúng hay sai. Do đó, dù chống lại một quyết định trái pháp
luật nhưng nếu có đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm như trên thì hành vi
đó vi phạm pháp luật. Chống lại một quyết định trái pháp luật chỉ được
coi là một tình tiết giảm nhẹ tội cho những người phạm tội. Theo ông
Bách, những người bị cưỡng chế dù chưa biết đúng hay sai nhưng phải chấp
hành lực lượng thực thi công vụ, sau đó có quyền khiếu nại hoặc tố cáo
hành vi đó là sai trái chứ không được phản ứng tiêu cực.
MINH QUANG
Công vụ phải hợp pháp (*)
Khách thể của tội phạm này là xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của
những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động
của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ
công.
Đối tượng tác động của tội phạm này là người thi hành công vụ.
Người đang thi hành công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và
chưa kết thúc, nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc nhiệm vụ mà bị xâm phạm
thì không thuộc trường hợp chống người thi hành công vụ, mà tùy trường
hợp cụ thể để xác định một tội phạm khác có tình tiết vì lý do công vụ
của nạn nhân.
Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một công vụ hợp pháp,
mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người
thi hành công vụ lại là người làm trái pháp luật mà bị xâm phạm thì
người có hành vi xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành
công vụ.
__________
(*) Tít của Tuổi Trẻ đặt.
(Trích trong cuốn Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm -
tập VIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. NXB Tổng Hợp
TP.HCM (năm 2005) của tác giả Đinh Văn Quế - chánh tòa hình sự Tòa án
nhân dân tối cao.
__________
Không thể đặt việc răn đe công dân làm trọng tâm
Thời quân chủ, chỉ cần nhân danh nhà vua thì bất cứ ai cũng không được chống lại, không ai được hỏi lệnh vua đúng hay sai.
Thuở ban đầu của nhà nước quân chủ lập hiến, thực thi công vụ được hiểu
là mọi hoạt động nhân danh nhà nước. Quá trình phát triển nhà nước pháp
quyền chỉ ra rằng bản chất của hoạt động công vụ là sử dụng quyền lực
nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, bất kỳ hình thức sử dụng quyền lực
nhà nước nào cũng phải được luật pháp cho phép. Nói một cách khác, một
hành vi, một hoạt động công vụ nào cũng phải căn cứ vào ít nhất một điều
luật. Hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước mà không có cơ sở pháp lý
(không căn cứ trên một điều luật cụ thể nào) không những không phải là
hoạt động công vụ, mà còn là hành vi lợi dụng quyền lực nhà nước.
Có thể nói trường phái theo chủ nghĩa răn đe trong luật hình sự vẫn
thuyết phục được nhiều người khi lập luận rằng khi chống lại người thi
hành công vụ, “thủ phạm” đã hiểu rằng đó là công vụ và vì vậy rõ ràng là
có chủ đích chống lại người thi hành công vụ. Luật hình sự phải trừng
phạt chủ đích này để răn đe. Tuy nhiên, ngày nay lập luận “Nhà nước pháp
quyền hiện đại với trọng tâm là bảo vệ, bảo đảm phẩm giá con người,
không thể đặt việc răn đe công dân lên trên nghĩa vụ và trách nhiệm tự
ràng buộc mình vào luật pháp” đã trở thành lập luận được đa số ủng hộ.
Vì vậy nhiều nước, trong đó có CHLB Đức, đã bổ sung vào luật hình sự
điều khoản không trừng phạt người chống lại “người thi hành công vụ” nếu
công vụ đó không có cơ sở pháp lý, ngay cả khi “thủ phạm” ngộ nhận đó
là công vụ thật sự.
Như vậy, nếu một vụ cưỡng chế thu hồi đất sai pháp luật bị chống trả xảy
ra tại một nhà nước pháp quyền như CHLB Đức chẳng hạn, thì các bị cáo
trong vụ án không bị truy tố tội “chống người thi hành công vụ”, mà cao
nhất chỉ có thể truy tố tội “tự vệ vượt quá giới hạn”. Ngược lại, các
quan chức ra quyết định cưỡng chế sai sẽ bị truy tố về tội lợi dụng
quyền lực nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng với bản án vài năm tù và bồi
thường thiệt hại cho gia đình người bị cưỡng chế cũng như cho những
người trong lực lượng cưỡng chế bị thương tật.
TS NGUYỄN VÂN NAM
Các nhà lập pháp đang nợ nhân dân việc sửa đổi điều 257
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia viết rằng:
“Công vụ là một hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo
quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích
của nhân dân và xã hội”.
Nội dung này cũng phù hợp với cách giải nghĩa trong Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.
Rõ ràng, công vụ phải là việc công, do công chức nhân danh Nhà nước thực
hiện. Nếu lợi dụng chức quyền để triển khai những việc nhằm trục lợi
cho bản thân, không nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội, thì
không thể ngụy biện là công vụ.
Khi công vụ được thi hành một cách đúng đắn thì người chống lại cần bị
trừng phạt. Nhưng khi công vụ được thực hiện không đúng với quy định của
pháp luật thì không thể đòi hỏi người dân phải im lặng chấp thuận, và
không thể đơn giản kết tội chống đối nếu người dân có phản ứng tự vệ.
Bộ luật hình sự của nước Đức được ban hành vào năm 1871, với tội chống
người thi hành công vụ được quy định ở điều 113, trong đó viết rõ điều
kiện áp dụng là công vụ được thực hiện đúng pháp luật (rechtmäßige
Ausübung). Tức là không thể mặc nhiên kết tội này cho người chống lại
nếu công vụ được thực hiện sai pháp luật. Điều kiện “thực hiện đúng pháp
luật” được duy trì trong điều 113 suốt 98 năm, “sống sót” qua bốn lần
chỉnh sửa bộ luật hình sự, kể cả lần chỉnh sửa vào năm 1943 dưới thời
phát xít. Đó là một yếu tố pháp lý quan trọng để bảo vệ người dân trước
khả năng lạm dụng quyền lực của bộ máy công quyền. Chưa yên tâm với điều
kiện đó, năm 1970 các nhà lập pháp Cộng hòa Liên bang Đức đã thay nó
bằng một điều khoản rõ ràng hơn, có tác dụng bảo vệ người dân triệt để
hơn, đó là:
“Hành động (chống người thi hành công vụ) không thể bị xử phạt theo quy
định này (tức là quy định trong điều 113) nếu việc thực hiện công vụ
không đúng pháp luật”.
Dù xã hội văn minh đến đâu thì cũng vẫn xảy ra việc người thi hành công
vụ vô tình hay cố ý vi phạm pháp luật, khiến người dân phải tự vệ một
cách chính đáng. Cho nên, những quy định pháp lý như trong bộ luật hình
sự của Đức để bảo vệ người dân trước khả năng công quyền bị lạm dụng là
thật sự cần thiết. Ở Việt Nam, khi mà có tình trạng sự tha hóa và tham
nhũng làm ô nhiễm bộ máy công quyền thì những quy định để bảo vệ dân oan
lại càng bức thiết. Rõ ràng, các nhà lập pháp đang nợ nhân dân việc sửa
đổi điều 257 (về tội chống người thi hành công vụ) của Bộ luật hình sự
hiện hành, để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của cuộc sống.
GS HOÀNG XUÂN PHÚ
(Viện Toán học thuộc Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam)
T.C. gh
(Tuổi trẻ)
Đức Hiển - Cổ súy cho “tự xử” là triệt tiêu công lý!
Hình minh họa |
Các cơ quan chức năng đã làm rõ, trong vụ án Đoàn Văn Vươn, chính quyền
đã sai trong việc thu hồi đất, thay đổi những thỏa thuận trước đó.
Cái sai thứ hai là đã phá hủy những tài sản không nằm trong phạm vi cưỡng chế.
Vụ án thu hút sự quan tâm của dư luận. Thủ tướng đã chỉ đạo và kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng tìm mọi tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, đồng thời xử lý nghiêm những người làm sai, không né tránh, bao che.
Tuy nhiên, cần khẳng định đây là một vụ chống người thi hành công vụ nghiêm trọng, có sự bàn bạc, tính toán, có sử dụng vũ khí và vật liệu nổ. Trong quá trình chống người thi hành công vụ đó, một số người thân của bị cáo Vươn đã có hành vi kích mìn nổ, dùng súng bắn… làm bảy cán bộ trong đoàn cưỡng chế bị thương.
Cán bộ, chính quyền sai thì phải xử lý nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Đoàn Văn Vươn và những bị cáo khác không có tội, không có nghĩa phải tha bổng họ mới là công lý như một số người bày tỏ trên mạng trong những ngày qua.
Có ý kiến cho rằng các bị cáo không mong muốn hậu quả chết người xảy ra và trên thực tế cũng chưa có nạn nhân nào thiệt mạng, vì thế hành vi của họ không phải là hành vi giết người. Tuy nhiên, với tội phạm có cấu thành hình thức như tội giết người, hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc khi định tội. Việc cài kíp nổ dưới bình gas, rải rơm đã tẩm xăng quanh hiện trường, kích kíp nổ và dùng súng hoa cải bắn vào lực lượng cưỡng chế sau khi kích nổ, một người bình thường phải lường trước hậu quả xấu nhất có thể xảy ra. Và cho dù bị cáo không lường trước thì luật cũng buộc những người có năng lực hành vi bình thường phải lường trước hậu quả.
Không một quốc gia nào cho phép người dân tự mình giải quyết các mâu thuẫn với cơ quan nhà nước bằng vũ lực, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hình sự tuyên bố bảo vệ. Mà ở đây là trật tự quản lý xã hội và sức khỏe, sinh mạng của người thi hành công vụ.
Cho dù việc thu hồi đất là sai pháp luật thì việc lực lượng cưỡng chế thi hành một quyết định của cơ quan có thẩm quyền vẫn là người thi hành công vụ. Dùng vũ lực chống lại tức là chống người thi hành công vụ.
Điều gì sẽ xảy ra nếu bất kỳ ai cũng có thể chọn con đường dùng vũ lực, vũ khí chống lại lực lượng cưỡng chế khi cho rằng mình bị chính quyền xử ép? Cổ súy cho điều đó là vô hiệu hóa pháp luật, trật tự xã hội sẽ đảo lộn.
Không thể có công lý nếu mọi người bất chấp pháp luật và hành xử theo cách của mình!
Đức Hiển
(PLTP)
Cái sai thứ hai là đã phá hủy những tài sản không nằm trong phạm vi cưỡng chế.
Vụ án thu hút sự quan tâm của dư luận. Thủ tướng đã chỉ đạo và kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng tìm mọi tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, đồng thời xử lý nghiêm những người làm sai, không né tránh, bao che.
Tuy nhiên, cần khẳng định đây là một vụ chống người thi hành công vụ nghiêm trọng, có sự bàn bạc, tính toán, có sử dụng vũ khí và vật liệu nổ. Trong quá trình chống người thi hành công vụ đó, một số người thân của bị cáo Vươn đã có hành vi kích mìn nổ, dùng súng bắn… làm bảy cán bộ trong đoàn cưỡng chế bị thương.
Cán bộ, chính quyền sai thì phải xử lý nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Đoàn Văn Vươn và những bị cáo khác không có tội, không có nghĩa phải tha bổng họ mới là công lý như một số người bày tỏ trên mạng trong những ngày qua.
Có ý kiến cho rằng các bị cáo không mong muốn hậu quả chết người xảy ra và trên thực tế cũng chưa có nạn nhân nào thiệt mạng, vì thế hành vi của họ không phải là hành vi giết người. Tuy nhiên, với tội phạm có cấu thành hình thức như tội giết người, hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc khi định tội. Việc cài kíp nổ dưới bình gas, rải rơm đã tẩm xăng quanh hiện trường, kích kíp nổ và dùng súng hoa cải bắn vào lực lượng cưỡng chế sau khi kích nổ, một người bình thường phải lường trước hậu quả xấu nhất có thể xảy ra. Và cho dù bị cáo không lường trước thì luật cũng buộc những người có năng lực hành vi bình thường phải lường trước hậu quả.
Không một quốc gia nào cho phép người dân tự mình giải quyết các mâu thuẫn với cơ quan nhà nước bằng vũ lực, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hình sự tuyên bố bảo vệ. Mà ở đây là trật tự quản lý xã hội và sức khỏe, sinh mạng của người thi hành công vụ.
Cho dù việc thu hồi đất là sai pháp luật thì việc lực lượng cưỡng chế thi hành một quyết định của cơ quan có thẩm quyền vẫn là người thi hành công vụ. Dùng vũ lực chống lại tức là chống người thi hành công vụ.
Điều gì sẽ xảy ra nếu bất kỳ ai cũng có thể chọn con đường dùng vũ lực, vũ khí chống lại lực lượng cưỡng chế khi cho rằng mình bị chính quyền xử ép? Cổ súy cho điều đó là vô hiệu hóa pháp luật, trật tự xã hội sẽ đảo lộn.
Không thể có công lý nếu mọi người bất chấp pháp luật và hành xử theo cách của mình!
Đức Hiển
(PLTP)
Cái gọi là “Kiến nghị 72” - kẻ giấu mặt là ai?
Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị về việc
tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia góp ý đối với Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992, cả hệ thống chính trị và toàn dân đã tích cực tham gia
vào các cuộc tổ chức lấy ý kiến của các cấp, các ngành, các địa phương
và đơn vị trong cả nước tổ chức. Hàng triệu lượt ý kiến tâm huyết với
vận mệnh của đất nước được góp ý thẳng thắn, dân chủ và cởi mở, mang
tính xây dựng với mong mỏi sắp đến nước ta có một bản Hiến pháp mới hoàn
chỉnh, thể hiện đầy đủ quyền và lợi ích của đất nước, của nhân dân. Đây
là một đợt sinh hoạt chính trị lớn, có ý nghĩa sâu sắc đối với vận mệnh
của đất nước.
Từ vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của đợt sinh hoạt chính trị này,
nhiều người ví đây như là một “Hội nghị Diên Hồng thời mở cửa” quả không
phải là quá lời. Vấn đề thực hành quyền dân chủ của mọi người được thể
hiện rõ nét trong việc tham gia ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp, ai
cũng có quyền bày tỏ chính kiến của mình trước từng câu chữ, điều,
khoản, chương của Hiến pháp năm 1992. Đó là điều thật đáng quý, thật
đáng trân trọng cho dù ý kiến của ai đó chưa thấu tình, đạt lý, thậm chí
trái ngược lại ý kiến của số đông. Tất nhiên, điều dễ thấy là do họ
chưa nhận thức thật đầy đủ về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng, mục đích
yêu cầu của việc góp ý sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này, thậm chí họ
chỉ biết “nói theo” sự “mớm mồm” của người khác. Xét cho cùng, họ không
có chủ ý gì gọi là xấu xa, đáng trách.
Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thấy trên diễn đàn mạng xuất hiện một
số tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề dân chủ trong đợt sinh hoạt chính
trị này để đưa ra những quan điểm sai trái, hoàn toàn không có tính xây
dựng. Nổi lên là việc một số người tự xưng là “... chúng tôi, những
người Việt Nam ký tên dưới đây... nói lên ý kiến để nhân dân ta có một
Hiến pháp bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền vững của đất
nước, mang lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương
lai...”. Nhóm này công bố danh sách 72 người ký kiến nghị sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 và kèm theo “Dự thảo Hiến pháp 2013” (gọi là tài liệu để
tham khảo, thảo luận), sau đây xin gọi tắt là Kiến nghị 72 (KN72). Người
viết bài này lướt qua danh sách số người mà nhóm KN72 công bố, thì thấy
phần lớn trong số đó là nhân sĩ, trí thức, trong đó nhiều người đã từng
có vị trí cao trong xã hội, và cũng có người đang tại chức. Từ “sự kiện
lạ” này, nhiều người đặt câu hỏi: Có thật là 100% số nhân sĩ, trí thức
đã trực tiếp ký vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như nhóm
KN72 công bố? Theo ý kiến của những người có trách nhiệm và tâm huyết
đối với sự kiện chính trị quan trọng này, phải có một cuộc họp đủ mặt cả
72 vị nhân sĩ, trí thức có tên trong danh sách của nhóm KN72 đưa ra,
mới minh chứng “hai năm rõ mười” về việc ký tên kiến nghị sửa đổi Hiến
pháp như nói ở trên.
Đại diện Nhóm Kiến nghị 72 |
Trở lại nội dung những kiến nghị của nhóm KN72, mới đọc qua thì ai cũng
tưởng đó là ý kiến rất tâm huyết với đất nước, có giá trị thực tiễn và
khách quan của nhóm nhân sĩ, trí thức chân chính, theo nhìn nhận của
nhiều người thì bao hàm những kiến nghị đó là quan điểm sai trái mà lâu
nay một số người thuộc nhóm bất mãn chế độ, cơ hội chính trị, phản động
trong nước được sự hà hơi, tiếp sức của bọn cực đoan, phản động nước
ngoài sử dụng như là một chiêu bài hòng chống phá Đảng và Nhà nước ta.
Có nhiều nội dung do nhóm KN72 đưa ra nhưng tựu trung vẫn là những vấn
đề cốt lõi sau đây:
Thứ nhất, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tại
Điều 4 của Hiến pháp, với lý lẽ vừa hết sức ngụy biện, vừa suy diễn một
cách tùy tiện, có tính công kích, nói xấu Đảng ta không hơn, không kém.
Ai cũng hiểu rất rõ rằng, lịch sử cách mạng Việt Nam đã ghi nhận toàn bộ
quá trình thực thi nội dung các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều gắn liền với những
thắng lợi to lớn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng của cách mạng nước ta do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điều đó cho thấy rất rõ Đảng ta đã,
đang và chắc chắn sẽ thể hiện đầy đủ vai trò là người lãnh đạo và tổ
chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là sự thật lịch sử hoàn
toàn không thể phủ nhận. Do vậy, việc đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp là một hành động xét về mặt đạo
lý thuần túy khác gì là vô ơn, bội nghĩa cần phải lên án mạnh mẽ, một
thái độ như vậy đã gây phẫn nộ hơn lúc nào hết cho những ai biết chuyện.
Chắc chắn những nhân sĩ, trí thức chân chính không có lối hành xử thiếu
nhân văn như vậy!
Thứ hai, đòi phân chia sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, bằng cách yêu cầu
thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập (như tại Điều 9, Chương I
về Đảng phái chính trị của cái gọi là “Dự thảo Hiến pháp năm 2013” do
nhóm KN72 đưa ra) với lập luận theo lối “ru ngủ” những ai nhẹ dạ, mất
cảnh giác như: “Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là
phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước,
đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng
Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước”. Rồi nhóm KN72
lại dám khẳng định như “đinh đóng cột” rằng : “Ý kiến nêu trên được tiếp
thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng
có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị được xã
hội chấp nhận”.
Với thái độ hết sức cầu thị, Đảng ta đã từng nghiêm túc thừa nhận rằng,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng có lúc phạm phải những sai lầm,
khuyết điểm chỉ là nhất thời, Đảng đã sớm nhận ra những sai lầm, khuyết
điểm ấy và bằng quyết tâm chính trị của mình đã nhanh chóng tìm các giải
pháp khắc phục, từng bước củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Từ sau ngày hòa bình, thống nhất đất nước cho đến nay, đã 38 năm trôi
qua, cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đưa đất
nước ta phát triển lớn mạnh toàn diện; từ một nước nghèo nàn, lạc hậu,
khó khăn thiếu thốn trăm bề, đã vươn lên mạnh mẽ thoát ra khỏi nhóm các
nước nghèo của thế giới, để trở thành một quốc gia đang phát triển sánh
vai xứng đáng cùng bầu bạn năm châu; nhân dân ta thật sự có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc được nhiều nước trên thế giới ngưỡng mộ và thán
phục. Vì vậy, chẳng việc gì phải có nhiều đảng phái để rồi đấu đá xâu
xé, tranh giành nhau quyền kiểm soát xã hội, rồi xảy ra nội chiến như
nhiều nước ở quanh ta và trên thế giới đang hằng ngày phải đối mặt với
chết chóc, đau thương và mất mát, mà người phải gánh chịu hậu quả thiệt
thòi không ai khác, chính là nhân dân.
Thứ ba, nhóm KN72 đòi phi chính trị đối với lực lượng vũ trang (LLVT),
với lập luận hết sức đơn điệu và lạc lõng là: “LLVT phải trung thành với
Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào,
như quy định tại Điều 70 của Dự thảo...”, sau đó họ ngang nhiên tuyên bố
: “Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định LLVT phải trung thành với Đảng Cộng
sản Việt Nam”. Đòi hỏi phi lý này của nhóm KN72 thật là lố bịch. Ai cũng
biết rằng LLVT được sinh ra, làm nhiệm vụ là công cụ chuyên chính sắc
bén đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Chính sự tuyệt đối trung thành, hoàn toàn tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng mà gần bảy thập niên qua, quân đội ta đã xây dựng,
chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, thêu dệt nên truyền thống anh
hùng, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và nhân
dân Việt Nam, là người Cha thân yêu của các LLVT nhân dân ân cần chỉ
bảo: “Phải xây dựng và lãnh đạo vững chắc LLVT cách mạng của nhân dân,
bảo đảm đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào. Phải
luôn luôn củng cố và tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân, kiên quyết
giữ vững chuyên chính đối với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp và thực
hiện dân chủ thật sự đối với nhân dân” (1).
Lịch sử đã chứng minh LLVT nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói
riêng đã đánh thắng các đội quân xâm lược nhà nghề hùng mạnh nhất của
thế giới là Pháp và Mỹ... Truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân
Việt Nam là trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh
phúc bền vững của nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Thực tế lịch sử cách mạng
nước ta cho thấy, nếu không có LLVT tuyệt đối trung thành và bách chiến
bách thắng thì liệu đất nước Việt Nam có được như hôm nay? Từ sau chiến
thắng mùa xuân 1975 lịch sử đến nay, dưới sự lãnh đạo sâu sát, sáng tạo
và kịp thời của Đảng, LLVT ta đã đánh tan quân xâm lược ở biên giới Tây
Nam và biên giới phía Bắc vào những năm 1976-1979, bảo vệ toàn vẹn biên
cương ở hai đầu Tổ quốc, sau đó là liên tiếp dẹp tan nhiều vụ bạo loạn
mang màu sắc chính trị, do các thế lực thù địch trong nước cấu kết với
bọn phản động nước ngoài thực hiện. Đó là những bài học xương máu, cảnh
tỉnh cho chúng ta về sự trung thành vô hạn của quân đội đối với Đảng.
Hay nói cách khác rằng, LLVT Việt Nam cần phải luôn luôn đặt dưới sự
lãnh đạo, tuân thủ đường lối quân sự và phương châm chiến tranh nhân dân
bảo vệ Tổ quốc do Đảng ta định hướng. Nếu thoát ly khỏi sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng nghĩa với việc LLVT ta sớm hoặc muộn sẽ
mất phương hướng chiến đấu, không xác định được đối tượng tác chiến,
chắc chắn sẽ thất bại trên chiến trường, đó là điều chúng ta nhất quyết
không để xảy ra. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Sự
đoàn kết nhất trí giữa Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân ta trở
thành một lực lượng vô cùng to lớn. Nó giúp ta vượt tất cả mọi khó khăn
gian khổ. Nó rèn luyện cho chiến sĩ, cán bộ và đồng bào ta thành những
người anh hùng”(2). Liên hệ với thực tiễn cách mạng Việt Nam để kiểm
nghiệm lời nói ấy của Người quả không sai chút nào.
Chỉ nêu một số nội dung trong KN72 như phân tích ở trên, đủ thấy rõ bản chất ý đồ xấu xa của họ. Nhưng họ là ai?
Nhóm KN72 xướng danh: “... chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới
đây...”, thật là một kiểu danh xưng vô thưởng vô phạt, bởi chắc chắn họ
không đủ tư cách đại diện cho tất cả 90 triệu người Việt Nam, vậy họ đại
diện cho bao nhiêu người? Điều đó đủ thấy kẻ giấu mặt đứng đằng sau
nhóm KN72 không dám xưng gì hơn, đồng nghĩa với việc họ sợ đối mặt với
nhân dân, những người làm chủ vận mệnh đất nước, mặt khác họ sợ đối mặt
với sự thật lịch sử hào hùng của dân tộc mà họ đang rắp tâm bôi nhọ,
xuyên tạc một cách trơ trẽn. Họ làm như vậy để làm gì? Trả lời câu hỏi
này không khó, bởi những gì họ bộc lộ trong cái gọi là “Dự thảo Hiến
pháp năm 2013” đã nói thay họ - những người với nhiều lý do khác nhau
đang bất mãn chế độ, được các thế lực thù địch bơm thổi kích động, được
bọn phản động trong và ngoài nước lôi kéo, mua chuộc, cổ súy. Họ - những
con người luồn cúi bán rẻ lương tâm cho các thế lực thù địch để thực
hiện cho bằng được chiêu bài chiến tranh không tiếng súng vốn được dàn
dựng khá công phu từ lâu, hòng chống phá Đảng và Nhà nước ta, chống lại
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nhân dân ta.
Thời gian dành cho việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 còn nhiều (đến 30 tháng 9 năm 2013), chắc chắn bên
cạnh sự tiếp tục góp ý thẳng thắn, công khai, dân chủ và đầy tinh thần
trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân của các tầng lớp nhân dân ta, thì
bọn cực đoan, hận thù dân tộc và kẻ địch sẽ không bỏ dịp để tiếp tục có
những chiêu thức mới trong việc lợi dụng góp ý sửa đổi Hiến pháp năm
1992, nhằm tán phát những tài liệu với nội dung sai trái, phản động làm
nhiễu thông tin, làm phân tâm nhân dân trong việc tham gia góp ý xây
dựng Hiến pháp. Chúng ta cần phải hết sức cảnh giác để không mắc mưu của
kẻ xấu, góp phần làm cho đợt sinh hoạt chính trị có ý nghĩa lớn lao này
đạt được kết quả tốt đẹp nhất.
Mặc Sinh
Khối u bất động sản: Làm sao giải quyết? (1)
Viết nhân đọc bài “Doanh nghiệp BĐS Hà Nội gửi thư ngỏ chất vấn TS Alan Phan” và bài “Nên để thị trường bất động sản rơi tự do”.
1. Hệ thống kinh tế hoạt động thế nào?
Hệ thống kinh tế là một hệ thống to lớn và phức tạp, để có thể mô tả
chính xác nó hoạt động thế nào sẽ rất dài. Miêu tả dài là không cần
thiết, có thể làm mệt đọc giả. Tôi xin lấy một sự so sánh để bạn đọc có
thể nhanh chóng hình dung về sự hoạt động của hệ thống kinh tế. Tất
nhiên là so sánh nào cũng khập khiễng.
Chúng ta hãy quan sát một đứa bé mới sinh. Nó nặng tầm 2-4kg, có đầy đủ
các bộ phận mắt, mũi, miệng, chân, tay, tim, phổi,… Tất nhiên là mỗi thứ
một xíu cân đối vừa vặn với cơ thể. Theo thời gian đứa bé sẽ phát triển
thành chàng trai lực lưỡng 60-70kg với hai chân to, tay khỏe, đầu to,…
và cũng cân đối.
Giá nhà đất hiện nay đang chững lại, thanh khỏan thấp, giao dịch trầm lắng. |
Điều gì sẽ xảy ra nếu trong quá trình phát triển, các bộ phận không lớn
cùng nhau một cách cân đối? Ví dụ một đứa trẻ mới 5 tuổi mà có cái chân
to như chàng trai 20, dù cái chân đó có hình dáng hoàn thiện như người
20 tuổi? Rõ ràng đây là hiện tượng bất thường, có thể gọi là khối u. Em
bé không có nhu cầu và cũng không thể sử dụng được cái chân “tốt” như
vậy. Cần phải cắt bỏ hoặc nếu có phép thuật thì phải thu nhỏ nó lại để
em bé có thể sống, đi lại bình thường. Nhờ bình thường mới phát triển
các bộ phận còn lại, nếu di trì khối u thì em bé đó sẽ suy kiệt và biến
dạng.
Trong nền kinh tế quốc gia cũng vậy. Có rất nhiều bộ phận, ngành nghề
cấu thành: chính trị gia (có thể xem như não), ngân hàng (có thể xem như
tim), bất động sản, viễn thông (dây thần kinh),… Chúng cần phải phát
triển hài hòa với nhau thì nền kinh tế mới vận hành tốt. Nếu ngành BĐS
phình to trong khi các ngành còn lại chưa có gì, đó là khối u. Rõ ràng
5-10 năm nữa người VN cần nhiều hơn số nhà, số căn hộ hiện có nhưng nay
so với các ngành khác nó đã “lớn” quá mức. Nó là khối u đang hút hết
dinh dưỡng các bộ phận khác.
2. Tại sao có khủng hoảng?
Trong cơ thể em bé, không một ai có thể dùng ý chí để quyết định là cái
nào nên lớn trước, cái nào nên lớn sau. Quá trình phát triển là hoàn
toàn tự động, nó tuân theo các qui luật tự nhiên về sinh học, hóa lý.
Ngày nay khoa học giúp ta hiểu một phần cơ chế điều hòa sự phát triển là
hóc môn. Khi một bộ phận cần lớn nó sẽ tiết ra hocmon để hấp thụ dinh
dưỡng, lớn đủ mức thì lượng hocmon sẽ giảm dần. Ví dụ khi đủ tuổi sinh
sản thì hocmon sẽ kích thích cơ quan sinh sản phát triển.
Nền kinh tế cũng vậy. Để có thể hoạt động tốt, nó cần vận hành đúng qui
luật. Ngày nay chúng ta biết qui luật chi phối nền kinh tế là cơ chế thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế hoạt động,
giao tiếp với nhau qua hệ thống giá. Động lực để các thành phần kinh tế
hoạt động là lợi nhuận. Lợi nhuận ngoài là động lực, nó còn là tín hiệu
cho sự phát triển. Một ngành nào đó sức sản xuất còn nhỏ mà nhu cầu lớn
thì sẽ có lợi nhuận cao, nguồn vốn xã hội sẽ đổ về để phát triển, khi
bão hòa thì lợi nhuận giảm, ngành sẽ ít phát triển. Vậy giá cả và lợi
nhuận là cơ chế và tín hiệu cho nền kinh tế thị trường hoạt động. (Đây
là nền kinh tế hoạt dộng đúng qui luật thị trường, còn các kiểu kinh tế
ba rọi hay nhân tạo tôi không bàn).
Trong cơ thể, nếu tín hiệu kiểm soát sinh trưởng nhiễu loạn thì sẽ làm
cho cơ thể bị khối u đâu đó hoặc trở thành người khổng lồ.
Tương tự như vậy, nếu tín hiệu giá cả và lợi nhuận bị nhiễu loạn, bóp
méo, hoặc sai lầm thì tất yếu sẽ làm cho một số ngành nghề sẽ phát triển
vượt mức, gây mất cân đối dẫn đến khủng hoảng. Tất cả các khủng hoảng
đều xuất phát từ sự mất cân đối trong nền kinh tế thị trường mà ra.
Trong thời gian qua, ta vận hành nền kinh tế ba rọi nên tín hiệu giá cả,
lợi nhuận bị méo mó, kèm theo nạn ỷ thế làm liều nên khủng hoảng nghiêm
trọng là tất yếu.
3. Nguyên tắc sòng phẳng của thị trường:
Thị trường là một sân chơi của tất cả các ngành kinh tế (tất nhiên là
chơi trong khuôn khổ luật pháp): nông nghiệp, bất động sản, thủy sản,
viễn thông, ngân hàng,… với nguyên tắc là lời ăn lỗ chịu. Động lực hoạt
động kinh tế là lợi nhuận, có lợi nhuận là có tiền, có tiền thì có thể….
mua tiên, do vậy lỗ thì phải chấp nhận. Không biết nếu trong nền kinh
tế mà có nguyên tắc lời mình ăn, lỗ người khác chịu thì sẽ thế nào?
4. Cú tát là cần thiết:
Một đứa con mà bố mẹ bao bọc, che chở thì nó không bao giờ khôn lớn, nó có xu hướng ỷ lại và càn quấy.
Không gì bảo đảm rằng hôm nay chính phủ trợ giúp cho BĐS chỉ là lần duy
nhất. Trong tương lai các ngành khác cũng thế thì làm sao? Lại giúp hay
bỏ mặc?
Nếu có lỗi lầm, chúng ta phải trả giá thì mới học được bài học và tiến
bộ. Lời chúng ta ăn, lỗ người khác chịu không chỉ là vấn đề bài học mà
còn là vấn đề công bằng và đạo đức. Khi chúng ta lời 10 lần, nhà xe đề
huề, cả ngày café, vui chơi ca hát,… trong khi dân đen nai lưng kiếm bạc
cắt ra trả cho chỗ trú thân, ta có xót xa cho họ không?
Một cú tát cho ngành bất động sản là cần thiết. Có bị đánh đau lần sau
mới cẩn thận và chừa cái thói liều lĩnh, cẩu thả. Cuộc sống như vậy mới
an toàn.
5. Con dại cái mang
Nói như mục sư Martin Luther King “chúng ta dệt nhau trong một tấm vải
số phận” nên sẽ liên đới. Một người có quyền quyết định cuộc sống của
mình nhưng nếu người đó tự tử thì xã hội không thể làm ngơ, còn nếu
người đó có ý định tự tử bằng bom thì xã hội càng phải lo cho anh ta.
Tương tự như vậy cho ngành BĐS, nếu để đúng lời ăn lỗ chịu thì phải phá
sản. Điều này cũng sẽ tạo ra hiệu ứng như quả bom trên. Nó có thể kéo
theo nhiều hệ lụy. Do vậy chính phủ phải có trách nhiệm trong vụ này.
Con dại thì cái mang.
Giữa vấn nạn “ỷ thế làm liều” và nỗi khổ “con dại cái mang” nên xử lý thế nào cho ổn thỏa?
Trần Văn Thạnh
(Dân luận)
Nhức nhối con số “một triệu đô” trong “dự án ma” của ông Đinh Đức Lập
Loạt bài về những sai phạm có hệ thống của ông Đinh Đức Lập tại báo Đại Đoàn Kết
Bắt đầu từ Quyết định số 322 do ông Vũ Trọng Kim ký ngày 13/5/2010 chỉ
định một công ty tư nhân làm đơn vị đầu tư và quản lý sau đầu tư dự án
xây dựng tòa nhà báo Đại Đoàn Kết, tọa lạc tại khu đất vàng 66 Bà Triệu,
phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Tiếp theo hợp đồng
liên danh hợp tác giữa báo Đại Đoàn Kết (do ông Đinh Đức Lập là người
chịu trách nhiệm) ký kết với công ty Đông Dương (đơn vị tư nhân duy nhất
được chỉ định là nhà đầu tư) với nhiều thỏa thuận không dựa trên cơ sở
nào; trong đó có thỏa thuận về một “quy trình ngược” (hợp tác đầu tư khi
chưa có dự án, nhà đầu tư chịu trách nhiệm “chạy dự án”; không có điều
khoản ràng buộc đảm bảo việc thực hiện dự án của nhà đầu tư....); con số
“nhức nhối” một triệu đô la Mỹ mà báo Đại Đoàn Kết phải bồi thường nếu
đơn phương chấm dứt hợp đồng được đưa ra trong bối cảnh hết sức bất cập,
coi thường các quy định của pháp luật trong vụ hợp tác làm ăn nói trên.
Những thỏa thuận không căn cứ nói trên đã không hề chịu sự giám sát nào
khi hợp đồng lại có điều khoản “bảo mật” thông tin. Chỉ khi dư luận xôn
xao vì dự án ngày càng hiện hình thành “dự án ma”, không thể triển khai
thực hiện được sau hơn 3 năm hứa hẹn thì mọi người mới bàng hoàng nhận
ra quá trình hình thành nên vụ làm ăn này cùng các điều khoản bất cập,
phi lý, một hậu quả pháp lý vô cùng xấu mà báo Đại Đoàn Kết đã và đang
phải đối mặt.
Trong hợp đồng liên danh hợp tác đầu tư xây dựng và khai thác tòa nhà
báo Đại Đoàn Kết tại số 66 Bà Triệu, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội có một thỏa thuận rất đáng lưu ý. Đó là điều khoản quy
định về trường hợp Bên A (báo Đại Đoàn Kết) đơn phương chấm dứt hợp
đồng. Theo đó, ngoài việc Bên A phải thanh toán cho Bên B (Công ty Đông
Dương) các chi phí dự án mà Bên B đã đóng góp từ khi ký kết hợp đồng
này, Bên A còn phải bồi thường cho Bên B số tiền 1.000.000 USD (một
triệu đô-la Mỹ). Trong khi đó, cũng theo các thỏa thuận trong hợp đồng,
nếu Bên B đơn phương chấm dứt hợp đồng thì Bên B không phải bồi thường
thêm bất cứ một khoản nào khác, ngoài số tiền chi phí cho dự án từ khi
ký hợp đồng.
Cam kết bồi thường cho đối tác một triệu đô la Mỹ của ông Đinh Đức Lập
(người đứng đầu báo Đại Đoàn Kết chịu trách nhiệm pháp lý đối với hợp
đồng này), đã để lại hậu quả pháp lý rất xấu cho báo Đại Đoàn Kết. Đặc
biệt là khi quá trình ký kết hợp đồng đã bỏ qua rất nhiều quy định của
pháp luật Nhà nước về việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện đầu tư dự án có
sử dụng đất (có nguồn gốc thuộc sở hữu Nhà nước – như trường hợp công
sản 66 Bà Triệu, trụ sở chính của báo Đại Đoàn Kết).
Như chúng tôi đã phân tích trong bài viết trước [tham khảo ở đây], quá
trình đi tới việc ký kết hợp đồng số 270910/HĐ.HTLD giữa báo Đại Đoàn
Kết và Công ty Đông Dương ngày 27/9/2010 là một “quy trình ngược”, vi
phạm hàng loạt các quy định của pháp luật Nhà nước liên quan tới lĩnh
vực này. “Quy trình ngược” đó chứng tỏ những người có liên quan và có
trách nhiệm trong việc chỉ định nhà đầu tư, đàm phán các thỏa thuận và
ký kết hợp đồng đã hết sức coi thường các quy định của pháp luật. Mà
những quy định đó được các cơ quan quản lý Nhà nước ban hành căn cứ vào
các cơ sở pháp luật được Quốc hội thông qua nhằm kiểm soát và ngăn chặn
tình trạng lợi dụng quyền hạn, chức vụ để lạm dụng tài sản Nhà nước, sử
dụng tùy tiện, vô nguyên tắc gây lãng phí, thất thoát, tham nhũng tài
sản công có giá trị lớn là đất đai, nhà cửa thuộc sở hữu Nhà nước. Tình
trạng sử dụng lãng phí, thất thoát tài sản công mà đặc biệt là nhà đất
thuộc sở hữu Nhà nước trong một thời gian dài đã trở thành vấn nạn nhức
nhối, là một trong những điểm nóng của công tác phòng chống tham nhũng
của cả nước từ trung ương tới địa phương.
Phó chủ tịch kiêm TTK UBTWMTTQ Việt Nam Vũ Trọng Kim, Tổng biên tập báo Đại Đoàn Kết Đinh Đức Lập cắt băng tại lễ công bố mô hình tòa nhà Đại Đoàn Kết 66 Bà Triệu, Hà Nội, sáng ngày 8/1/2012 (ảnh: Hoàng Long) |
Quyết định số 322/QĐ-MTTW-BTT do ông Vũ Trọng Kim (Phó chủ tịch kiêm
Tổng thư ký UBTWMTTQVN) thay mặt Ban Thường trực ký ngày 13/5/2010 chỉ
định Công ty cổ phần địa ốc Đông Dương là đơn vị đầu tư và quản lý sau
đầu tư dự án xây dựng Tòa nhà báo Đại Đoàn Kết tại số 66 Bà Triệu, Hà
Nội mặc dù có ghi căn cứ vào Luật Đấu thầu song nội dung của quyết định
này đã bỏ qua tất cả các quy định liên quan tới việc đấu thầu, chỉ định
thầu, nhằm lựa chọn nhà đầu tư tham gia dự án được pháp luật điều chỉnh
rất cụ thể. Trong trường hợp này là dự án xây dựng tòa nhà báo Đại Đoàn
Kết, có sử dụng nhà đất là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, được điều
chỉnh rõ ràng và minh bạch bởi Thông tư 03/2009/TT-BKH của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư ban hành ngày 16/4/2009 hướng dẫn lựa chọn nhà đầu tư thực
hiện đầu tư dự án có sử dụng đất.
Không có cơ sở pháp lý nào để cho thấy Quyết định 322 bảo đảm việc chỉ
định công ty Đông Dương là nhà đầu tư duy nhất tham gia dự án xây dựng
tòa nhà báo Đại Đoàn Kết, có đủ điều kiện và đã trải qua đầy đủ trình
tự các bước theo quy trình được quy định bởi pháp luật. Từ đó để có thể
kết luận rằng Quyết định 322 do ông Vũ Trọng Kim ký đã bỏ qua các quy
định của pháp luật về trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư dự án có sử
dụng đất, vi phạm các nguyên tắc cơ bản nhất của luật pháp Nhà nước
trong lĩnh vực này (bất kể là bằng hình thức đấu thầu hay chỉ định nhà
đầu tư cũng đều phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật). Quan
trọng hơn trình tự và thủ tục đó là để chứng minh rằng công ty này đã
vượt qua được quy trình nghiêm ngặt của pháp luật quy định chứng tỏ các
khả năng, điều kiện, ràng buộc để đảm bảo thực hiện dự án và bị chế
tài khi không đảm bảo được các cam kết đầu tư, tham gia dự án của mình.
Việc chỉ định thầu không có cơ sở pháp lý đã vô hình chung tạo điều kiện
cho một công ty tư nhân lọt qua hầu hết các điều kiện, quy định nghiêm
ngặt của pháp luật để đảm đảm bảo thực hiện đầu tư trở thành nhà đầu tư
duy nhất (khó hiểu) lọt vào một dự án cũng chưa hề được công bố công
khai theo quy định. Những biểu hiện khuất tất này, trên thực tế đã và
đang để lại một hậu quả pháp lý phức tạp và rất xấu cho báo Đại Đoàn
Kết.
Một điều kiện hết sức quan trọng để bắt đầu quy trình lựa chọn nhà đầu
tư (bất kể theo hình thức đấu thầu hay chỉ định) là phải công bố công
khai danh mục dự án cần lựa chọn nhà đầu tư. Quyết định 322 chỉ định
công ty Đông Dương làm nhà đầu tư duy nhất tham gia dự án xây dựng tòa
nhà báo Đại Đoàn Kết trong khi chưa hề thực hiện việc công bố công khai
danh mục dự án đầu tư. Hơn nữa, trong các thỏa thuận của hợp đồng liên
danh hợp tác giữa báo Đại Đoàn Kết và công ty Đông Dương có điều khoản
giao cho công ty Đơng Dương đầu tư toàn bộ chi phí đầu tư xây dựng dự án
từ khâu giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư; khảo sát, thiết kế bản
vẽ thi công; lập tổng dự toán; thẩm định dự án, thực hiện dự án đầu tư,
thi công xây lắp đồng bộ cho đến khi đưa dự án vào khai thác, sử dụng.
Công ty Đông Dương còn được giao đại diện cho liên danh làm việc với các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để: làm thủ tục để dự án được phê duyệt;
thực hiện các thủ tục xây lắp từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai
đoạn thực hiện dự án đầu tư và khai thác quản lý dự án đầu tư theo quy
định của pháp luật. Nói theo ngôn ngữ dân gian, công ty Đông Dương sau
khi được ông Vũ Trọng Kim ký quyết định chỉ định là nhà đầu tư dự án xây
dựng tòa nhà báo Đại Đoàn Kết tại khu đất vàng 66 Bà Triệu (Hà Nội)
phải lãnh trách nhiệm “chạy dự án”. Bởi lẽ, trước và ngay cả trong khi
đàm phán ký kết hợp đồng hợp tác giữa báo Đại Đoàn Kết và công ty Đông
Dương chưa hề có dự án nào được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhân đây
cũng nên lưu ý rằng trong một clip có liên quan tới ông Đinh Đức Lập
được lưu hành trên mạng, có đoạn được cho là phát ngôn của ông Lập nói
về chuyện ông Kim gặp ông Thảo (Chủ tịch UBNDTP. Hà Nội) để "lobby" dự
án tòa nhà 66 Bà Triệu của Đại Đoàn Kết.
Các thỏa thuận nói trên ghi trong hợp đồng đã khẳng định việc chỉ định
nhà đầu tư (Quyết định 322) và việc đàm phán ký hợp đồng đã diễn ra
trước khi thực hiện một điều kiện bắt buộc phải làm theo quy định của
pháp luật trước tiên là phải công bố công khai danh mục dự án cần lựa
chọn nhà đầu tư. “Nhà đầu tư được chỉ định” là công ty Đông Dương hầu
như được hoán vị trở thành “chủ đầu tư thứ thiệt” của dự án, khi phải
bắt đầu tiến hành những bước cơ bản đầu tiên trước khi lựa chọn nhà đầu
tư đó là phải xây dựng dự án, phải tìm cách “chạy” dự án có sự phê
duyệt của các cấp có thẩm quyền và sau đó là chịu trách nhiệm toán bộ
quý trình thẩm định dự án, quản lý thi công và quản lý khai thác sau đầu
tư. Hơp đồng lại không có quy định nào về trách nhiệm của “nhà đầu tư
được chỉ định” một khi công ty Đông Dương không có khả năng để “chạy” dự
án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, không chạy được giấy phép xây dựng
phù hợp với quy hoạch kiến trúc của giới chức có thẩm quyền. Đáng tiếc
là hợp đồng này lại được hai bên cam kết “bảo mật” nên tập thể báo Đại
Đoàn Kết cũng như nhiều vị lãnh đạo của MTTQ (cơ quan chủ quản của báo
Đại Đoàn Kết có trách nhiệm trong việc chỉ định nhà đầu tư và thẩm định
danh mục dự án công bố trước khi tiến hành thủ tục lựa chọn nhà đầu tư)
và các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực này không có điều
kiện để giám sát.
Trong hợp đồng hợp tác liên danh với một công ty ty nhân được chỉ định
làm nhà đầu tư chưa hề trải qua các bước thẩm định về năng lực, điều
kiện có thật để đảm bảo việc thực hiện đầu tư gự án của công ty này,
song Bên A (báo Đại Đoàn Kết) lại không có bất cứ điều kiện ràng buộc
nào một khi Bên B (công ty Đông Dương) không có đủ khả năng, điểu kiện
thực hiện các điều đã thỏa thuận. Nghiên trọng hơn, Bên A (báo Đại Đoàn
Kết) lại sẵn sàng đưa ra cam kết bồi thường 1.000.000 USD (một triệu đô
la Mỹ) nếu Bên A đơn phương rút lại hợp đồng thì quả là một sự liều
lĩnh đáng sợ. Thực tế đã chứng tỏ Đông Dương suốt 3 năm qua vẫn chưa
thực hiện được bước nào trong hợp đồng. Chưa hề có dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt, chưa hề có giấy phép đầu tư xây dựng dự án,... Cho
tới thời điểm hiện nay dự án xây dựng tòa nhà báo Đại Đoàn Kết vẫn hoàn
toàn nằm trên giấy. Công ty Đông Dương suốt 3 năm qua chưa hề đầu tư
cho báo Đại Đoàn Kết được một đồng nào, song nếu báo Đại Đoàn Kết muốn
đơn phương kết thúc hợp đồng hợp tác này sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá
sản vì thỏa thuận cam kết bồi thường 1.000.000 USD.
Vì sao những người có trách nhiệm và có liên quan trọng vụ làm ăn hợp
tác này từ Quyết định 322 cho tới hợp đồng liên danh hợp tác của báo Đại
Đoàn Kết lại có thể coi thường các quy định vốn rất rõ ràng, minh bạch
và chặt chẽ của pháp luật để phòng ngừa, ngăn chận các hành vi lợi dụng
chức vụ quyền hạn nhằm sử dụng lãng phí, thất thoát, cũng như các biểu
hiện tham nhũng tài sản công như vậy?
Trong lúc việc triển khai dự án cho đang lùng nhùng trên giấy, chưa rõ
dự án được phê duyệt như thế nào thì đầu năm 2012, ông Đinh Đức Lập đã
tổ chức một buổi lễ long trọng cắt băng khánh thành “bức tranh vẽ mô
hình tòa nhà báo Đại Đoàn Kết” treo ngay phía trước mặt tiền nhà 66 Bà
Triệu hiện nay. Tham dự buổi lễ khánh thành và công bố bức tranh vẽ mô
hình tòa nhà này có ông Vũ Trọng Kim (Thủ trưởng cơ quan UBTWMTTQVN),
đại diện Công ty Đông Dương và ông Đinh Đức Lập cùng cắt băng khánh
thành. Hoạt động này được ông Đinh Đức Lập cho chụp hình đang trang
trọng trên trang nhất báo Đại Đoàn Kết số đặc biệt kỷ niện 70 năm báo
Cứu Quốc – Đại Đoàn Kết số ra ngày 9/1/2012.
Sự kiện này đã khiến cho những người có am hiểu luật pháp rất thắc mắc
và thấy khó hiểu theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Vì sao dự án chưa
có, chưa được ai phê duyệt, mô hình tòa nhà được ông Lập công bố rình
rang, cắt băng khánh thành long trọng dưới sự chủ tọa của ông Vũ Trọng
Kim đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt chưa, mô hình này có phù hợp với
quy hoạch và kiến trúc của thành phố Hà Nội không? Công bố những thông
tin chưa có cơ sở pháp lý một cách rình rang, long trọng với sự có mặt
của thủ trưởng cơ quan MTTQVN trên chính tờ báo Đại Đoàn Kết như ông Lập
đã làm với “bức tranh vẽ mô hình tòa nhà báo Đại Đoàn Kết” chưa được
cấp thẩm quyền phê duyệt hôm 8/1/2012 liệu có phải là một hành vi hợp
pháp? Nếu mô hình tòa nhà được ông Lập công bố trên báo chí công khai,
rộng rãi nhưng chưa được cấp thẩm quyền phê duyệt, không có giấy phép
xậy dựng hợp chuẩn của cơ quan chức năng quản lý Nhà nước trên địa bàn
thì hành vi sai trái đó nhằm mang lại điều gì?
Các khuất tất nói trên càng làm cho người ta thêm thắc mắc, căn cứ nào
để ông Vũ Trọng Kim thay mặt Ban Thường trực UBTWMTTQVN ký Quyết định
322 chỉ định công ty Đông Dương làm nhà đầu tư và quản lý sau đầu tư xây
dựng tòa nhà báo Đại Đoàn Kết? Cơ sở nào để có thể tin cậy và giao cho
công ty Đông Dương hầu như toàn bộ quyền hạn của “chủ đầu tư” khi mà dự
án chưa có và công ty này sau khi ký kết các thỏa thuận hợp tác xong
thì mới bắt đầu bước đầu tiên là “chạy dự án”; căn cứ nào để bàn bạc và
thỏa thuận các điều khoản “ăn chia” giữa hai bên khi mà giá trị về
quyền sử dụng “khu đất vàng” 66 Bà Triệu chưa minh định, còn dự án xây
dựng thì chưa có, chưa được cấp thẩm quyền phê duyệt, cấp phép (nên
không thể biết giá trị đầu tư của công ty Đông Dương là bao nhiêu?);
không hề có bất kỳ điều khoản nào nhằm ràng buộc, chế tài nhà đầu tư
Đông Dương một khi công ty này không đảm bào được việc thực hiện các cam
kết trong hợp đồng khiến cho việc triển khai thực hiện hợp đồng kéo dài
có thể là vô hạn mà nhà đâu tư Đông Dương không phải chịu bất cứ trách
nhiệm hay thiệt hại nào; trong khi báo Đại Đoàn Kết muốn đơn phương rút
khỏi hợp đồng thì ngoài việc phải bồi hoàn các chi phí mà nhà đầu tư
Đông Dương đã chi ra cho việc thực hiện dự án (không hiểu kiểm soát bằng
cách nào) còn phải bồi thường 1.000.000 USD.
Rõ ràng, sự coi thường và bỏ qua các quy định nghiêm ngặt của pháp luật
nhằm phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực lựa chọn nhà đầu tư tham gia
các dự án có sử dụng đất thuộc quyền sở hữu, quản lý của cơ quan Nhà
nước tại báo Đại Đoàn Kết trong việc liên danh, hợp tác xây dựng tòa nhà
66 Bà Triệu, Hà Nội mà trách nhiệm chính thuộc về ông Đinh Đức Lập đã
đặt báo Đại Đoàn Kết (cơ quan trung ương của MTTQVN) trước nguy cơ phải
đối diện với một hậu quả pháp lý vô cùng xấu. Chưa kể những hành động
bất chấp pháp luật xảy ra trong một tổ chức được xem là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân, là cơ quan báo chí của khối đại đoàn kết dân
tộc, có chức năng giám sát và phản biện xã hội đã mang lại nhiều tai
tiếng cho báo Đại Đoàn Kết và lãnh đạo MTTQVN trong vụ làm ăn coi thường
các quy định của pháp luật, có quá nhiều điều rất khó hiểu này.
(Còn tiếp)
Hữu Nguyên
Loạt bài “Những sai phạm có hệ thống của ông Đinh Đức Lập tại báo Đại Đoàn Kết”:
Ông CT Quận Hai Bà Trưng có đặt mình vào vị trí những cô giáo bị cắt hợp đồng không?
Đọc quyết định số 300/UBND-NV ra ngày 27/3/2013 của Uỷ ban nhân dân Quận
Hai Bà Trưng do ông Nguyễn Văn Hiếu chủ tịch UBND Quận Hai Bà kí tôi
không tin vào mắt mình. Bởi lẽ theo quyết định này thì cho đến hết ngày
31/6/ 2013 các trường Trung học cơ sở, Trường tiểu học và trường mẫu
giáo sẽ chấm dứt hợp đồng với 131 giáo viên, nhân viên đang dậy học và
phục vụ ở các trường thuộc diện này trong Quận. Vậy là 131 con người sau
hàng chục năm miệt mài cống hiến cho sự nghiệp dạy học, trồng người đột
nhiên bị thất ngiệp, bị dồn ra xã hội với hai bàn tay trắng. Đi liền
với họ là 131 gia đình từ 1/7 lâm vào tình trạng bị rút đi khoản tiền
thu nhập mà bấy lâu nay họ được trả một cách rẻ mạt theo hợp đồng. Gia
đình 131 người sẽ lâm vào tình trạng khốn khổ, cùng cực giữa thời buổi
giá cả một ngày một tăng một cách phi mã.
Ông Hiếu Chủ tịch quận chỉ cần hạ một chữ kí đơn giản để ra một quyết
định, nhưng không biết vị quan cấp huyện do dân bầu ra, đóng thuế để
nuôi ông và bộ máy chính quyền Quận hai Bà có nghĩ đến tình trạng chữ kí
của ông đã đẩy 131 con ngưòi thất nghiệp, 131 gia đình ngay lập tức lâm
vào tình trạng khốn khố, đồng thời tạo ra những tiềm ẩn cho những tệ
nạn và hiểm hoạ của xã hội. Đọc trong danh sách những người bị ông Chủ
tịch Quận Hai Bà đẩy vào tình trạng không có công ăn việc làm tôi thấy
có những cô giáo sinh năm 1971,1972,1973, 1974 …như vậy là họ đã cống
hiến cho ngành giáo dục trên dưới 20 năm trời. Trong số họ không ít
người đã trở thành giáo viên dậy giỏi cấp quận, cấp thành phố. Còn đa
phần là các nhà giáo sinh năm 1976, 1978…tức là họ đã đứng trên bục
giảng dậy dỗ học sinh hơn 10 năm trời. Đã là những thầy cô giáo hợp đồng
thì hơn bao giờ hết sau hàng chục năm trời những nhà giáo này đều căng
hết mình, tận tuỵ với nghề giáo dục đảm nhận tất cả phần việc khó khăn,
nặng nhọc, đi đầu gánh vác mọi nhiệm vụ trong trường mà các giáo viên
công chức ít nhiều né tránh để hi vọng một ngày nào đó có thể được thi
tuyển, được chọn lựa để trở thành công chức giáo viên …
Nhưng đáng buồn thay với cách quản lý đánh trống bỏ dùi sau vài chục năm
nay Quận Hai Bà Trưng không hề có đợt thi tuyển công chức nào bộ môn
Anh văn, mà cứ theo lệ mỗi năm hết hợp đồng các nhà giáo hợp đồng lại lo
lắng, khốn khổ chạy vạy bằng đủ mọi cách để được tiếp tục kí hợp đồng.
Hơn hai chục năm các vị có quyền chức trong ngành giáo dục Hai Bà nói
riêng và Quận Hai Bà nói chung đều áp dụng sự nửa nạc nửa mỡ này để kiếm
thêm những đồng tiền khốn khổ của các giáo viên hợp đồng. Phải chăng
đây cũng sự lợi dụng chức quyền để tham nhũng.
Cũng trong giai đoạn cắt giảm một cách tàn nhẫn 131 giáo viên, nhân viên
hợp đồng đa phần có kinh nghiệm và bề dày trong giảng dạy này người ta
lại giữ lại những giáo viên hợp đồng thâm niên ít, tuổi nghề thấp. Có
những trường thừa giáo viên bộ môn ấy lại bị giữ lại, trong khi những bộ
môn khác lại thiếu vẫn bị cắt .…một cách khó hiểu. Nhìn vào hiện tượng
này, dư luận lại đặt câu hỏi. Cắt hợp đồng thì cứ cắt, những ai khéo
chạy, ai có quan hệ tốt với các vị có trách nhiệm thì vẫn được kí tiếp.
Dư luận trong Quận Hai Bà còn cho biết. Ông Chủ tịch Quận kí quyết định
cắt 131 giáo viên, nhân viên hợp đồng nhưng vợ ông lại là cán bộ phụ
trách tổ chức của Phòng giáo dục Quận hai Bà.
Lục Dân
(trannhuong.com)
Ông Đặng Văn Thành nợ Sacombank bao nhiêu?
Nhóm các doanh nghiệp liên quan đến Công ty Thành Thành Công (bà Huỳnh
Bích Ngọc - vợ ông Đặng Văn Thành - đang đảm nhận vai trò cố vấn) hiện
còn nợ Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín 3.900 tỉ đồng
Ngày 3-4, ông Phạm Hữu Phú, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng (NH) Sài Gòn Thương
Tín (Sacombank), cho biết: Các doanh nghiệp (DN) gia đình và DN liên
quan đến ông Đặng Văn Thành, nguyên chủ tịch HĐQT Sacombank, đã từng vay
của NH này 7.000 tỉ đồng.
Bán cổ phiếu thu hồi nợ hơn 1.668 tỉ đồng
Theo Sacombank, ông Đặng Văn Thành và ông Đặng Hồng Anh (con ông Thành,
đồng thời là thành viên HĐQT Sacombank) đã ủy quyền cho HĐQT được toàn
quyền mua, bán gần 80 triệu cổ phiếu mà 2 ông đang nắm giữ với giá
20.000 đồng/cổ phiếu, để thanh toán các khoản vay 1.596 tỉ đồng liên
quan trực tiếp đến các công ty của gia đình ông Thành. Đây là số tiền
Sacombank đã cho nhóm DN này vay nhiều năm trước và trước tháng 5-2012
(thời điểm ông Thành còn nắm giữ chức danh chủ tịch HĐQT Sacombank).
Cụ thể, sau khi bán số cổ phiếu được ủy quyền, Sacombank sẽ thu hồi được
172 tỉ đồng đã cho Công ty Tân Việt vay; cấn trừ được 678 tỉ đồng đã
cho Công ty Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal) vay; thu hồi 329 tỉ
đồng mà Sacombank đầu tư vào trái phiếu Sacomreal; 18 tỉ đồng cho vay
đối với Công ty Thành Thành Công và thu hồi 192 tỉ đồng đầu tư vào trái
phiếu của công ty này; thu hồi 148 tỉ đồng đầu tư vào trái phiếu Công ty
Đặng Huỳnh và 59 tỉ đồng cho Công ty Thành Ngọc vay.
Điều mà giới đầu tư quan tâm là khi Sacombank bán ra gần 80 triệu cổ
phiếu sẽ tác động mạnh đến thị trường chứng khoán, cổ phiếu Sacombank có
thể bị pha loãng. Tuy nhiên, ông Phạm Hữu Phú cho biết Sacombank đã ký
hợp đồng bán toàn bộ số cổ phiếu cho 2 nhà đầu tư cá nhân theo phương
thức thỏa thuận với giá 20.900 đồng/cổ phiếu và bên mua đã đặt cọc.
“Chậm nhất là đến ngày 31-5, Sacombank sẽ thu về hơn 1.668 tỉ đồng bao
gồm cả vốn và lãi của số tiền đã cho nhóm công ty thuộc gia đình ông
Thành vay” - ông Phú nói.
Chằng chịt nhóm công ty liên quan
Đề cập tính pháp lý và nguyên tắc tín dụng khi Sacombank cho các công
ty gia đình ông Thành vay tiền, ông Phú cho rằng các khoản vay này đều
có tài sản thế chấp là cổ phiếu, bất động sản, hàng hóa tồn kho, máy
móc, nhà xưởng… nhưng chưa chắc đã đầy đủ.
Tuy nhiên, Thanh tra NH Nhà nước đã kết luận: Các khoản vay liên quan
đến công ty gia đình ông Thành và nhóm công ty liên quan đến Công ty
Thành Thành Công đều trái quy định. Bởi, Luật Các tổ chức tín dụng không
cho phép một NH cho nhóm công ty liên quan đến thành viên HĐQT vay quá
25% vốn điều lệ của NH đó. Trong khi đó, số tiền mà Sacombank cho các
công ty gia đình ông Thành và nhóm công ty liên quan đến Công ty Thành
Thành Công vay đã lên tới 7.000 tỉ đồng, tương đương hơn 51% vốn điều lệ
của NH này - 10.700 tỉ đồng. Vì thế, NH Nhà nước đã đề nghị đến hết
tháng 12-2013, Sacombank phải giảm tỉ lệ cho vay đối với nhóm công ty
liên quan đến ông Thành và Công ty Thành Thành Công về mức 25% vốn điều
lệ.
Theo Sacombank, hiện các nhóm công ty liên quan đến Công ty Thành Thành
Công còn nợ 3.900 tỉ đồng, bao gồm tiền cho vay và đầu tư trái phiếu vào
nhóm công ty này, trong đó có các khoản vay đã đến hạn phải trả và còn
thời hạn vay. Đơn cử, Công ty Tân Thắng, chuyên kinh doanh bất động sản
nằm trong nhóm công ty liên quan, còn nợ Sacombank song năng lực trả nợ
khá tốt.
(Người Lao động)
Những quyết định "giời ơi, đất hỡi" và sự lãng phí
Thời gian gần đây, một số quy định vừa “ra lò” đã khiến dư luận bị “sốc
nặng”. Phần lớn, các quy định do ra đời quá vội vàng, chưa nghiên cứu
kỹ nhưng lại yêu cầu có hiệu lực ngay nên đã bị người dân phản ứng và
dẫn đến… “chết yểu” ngay khi mới ra đời.
Vài năm trở lại đây, lâu lâu dư luận
lại được phen “dậy sóng” với những qui định mới, hoặc dự thảo quy định
mới của cơ quan chức năng. Khi các nguồn thông tin trở nên phổ biến hơn
đã giúp người dân dễ dàng tiếp cận được với các chủ trương, chính sách
mới. Thế nhưng, đáng tiếc là nhiều khi người dân lên tiếng mạnh mẽ thì
“sự đã rồi” - các văn bản được xây dựng đã có hiệu lực, nghĩa là lãng
phí, tốn kém về thời gian, tiền bạc...
Còn nhớ, hồi tháng 9-2012, các tiểu
thương kinh doanh thịt được một phen “tá hỏa” vì quy định thịt sống chỉ
bán trong 8 giờ, nếu bảo quản lạnh được bán trong 72 giờ… Đó chính là
những điểm trong Thông tư 33 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
quy định về điều kiện vệ sinh, đảm bảo an toàn thực phẩm đối với cơ sở
kinh doanh thịt và phụ phẩm tươi sống từ động vật. Thông tư 33 này ra
đời đã gây không ít gây tranh cãi.
Người dân được một phen "tá hỏa" vì quy định thịt sống chỉ bán trong vòng 8 giờ |
Chị Vũ Thị Thuận, một người bán hàng tại
chợ Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Hà Nội nới với P.V ANTĐ: “Tôi thấy việc
này thật bất cập, vì không phải chỗ nào cũng kê được tủ bảo quản, nên
rất khó khăn cho các hộ kinh doanh”.
PGS.TS Phan Thị Sử, Hội khoa học kỹ
thuật An toàn thực phẩm nhìn nhận: “Thịt bảo quản sau khi giết mổ trong 8
tiếng rất khó thực hiện, khó kiểm soát vì ở Việt Nam hầu hết là chợ chứ
ít siêu thị, đấy còn chưa nói tới chợ cóc, chợ tạm”.
Trong một câu chuyện khác, khoảng cuối
năm 2012, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ký quyết
định số 2891/QĐ-BNN-TY về việc phê duyệt kế hoạch khống chế và loại trừ
bệnh dại năm 2012. Cụ thể, UBND cấp xã phải lập sổ theo dõi số lượng chó
nuôi, số hộ nuôi chó trên địa bàn xã. Chủ vật nuôi phải thực hiện đăng
ký nuôi chó với UBND xã và được cấp số.
Quy định đăng ký và cấp số cho chó để theo dõi, quản lý mới chỉ dừng lại ở việc thống kê số lượng |
Từ khi có quy định này, UBND phường Mai
Dịch được giao nhiệm vụ đăng ký số cho chó, mèo. Nhưng cho đến thời điểm
này, quy định này mới chỉ dừng lại ở việc thống kê số lượng chó, mèo
trên địa bàn mà chưa thấy nhúc nhích gì thêm.
Còn theo quy định tại Thông tư 30/2012
của Bộ Y tế có hiệu lực từ ngày 20-1-2013, ngoài việc khám sức khỏe,
người bán hàng rong, thức ăn đường phố phải có đủ hóa đơn chứng từ chứng
minh nguồn gốc nguyên liệu; được tập huấn và có giấy xác nhận đã được
tập huấn kiến thức ATVSTP...
Quy định về thức ăn dường phố phải có hóa đơn chứng từ đã bị bỏ ngỏ |
Tại chợ Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội, sau
gần 3 tháng ra quyết định, thông tư này còn xa lạ với những người buôn
bán ở đây. Khi hỏi hầu hết người bán hàng không nắm được quy định này,
chưa nói gì đến việc thực hiện.
Không ai phủ nhận những quy định nói
trên ra đời chủ yếu là nhằm để bảo vệ lợi ích cho người dân, đồng thời
giúp cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng được thuận tiện hơn.
Nhưng nếu không được triển khai đồng bộ, và có trách nhiệm thực sự, thì
việc ban hành ra Thông tư chỉ là để cho có, còn trên thực tế thì những
lĩnh vực này vẫn đang bị buông lỏng và xem nhẹ.
Luật sư Hà Đăng, Giám đốc Công ty luật
Hà Đăng cho biết: “Thời gian qua có rất nhiều văn bản được ban hành tùy
tiện, thiếu khả thi, không đi sâu đi sát thực tế, và mang tính chủ quan.
Mỗi khi văn bản mới ra đời chỉ mang mục đích thí nghiệm gây tốn kém
không ít tiền của của nhân dân. Cho nên những văn bản quy định
như vậy đã tạo ra kẽ hở về tham nhũng và khiến người dân thêm mất tín
nhiệm, niềm tin vào cơ quan quản lý".
Thực
tế, việc cho “ra lò” những quy định một cách vội vàng, không có sự
nghiên cứu kỹ lưỡng, chưa được chuẩn bị về phương thức thực hiện cũng
như chưa có đủ thời gian để tuyên truyền, hỗ trợ cho người dân chính là
nguyên nhân khiến cho những quy định đó bị phản ứng gay gắt. Bở vậy, bất
kỳ một quyết định nào, dù có lợi với người dân cũng cần được người dân
ủng hộ thì quyết định đó mới đi vào cuộc sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét