TÀU NGẦM MỸ CÓ THỂ TIÊU DIỆT HẠM ĐỘI NAM HẢI CỦA TRUNG QUỐC TRONG PHÚT… MỐT
Phamvietdao.net:
Còn nhớ cách đây khoảng dăm, bảy năm gì đó, Nga cho thể nghiệm một loại
tàu ngầm mới; chiếc tàu này vừa lảng vảng ở vùng biển Bắc Âu thì bị
“troạng” ( vỡ ) phần đầu làm cho toàn bộ thủy thủ đoàn tiêu…
Sau cú này Nga cú lắm vì thủ phạm gây ra vũ troạng này là
do tàu ngầm Mỹ; rồi cả 2 bên đều chọn phương án im lặng: Bên Mỹ thì xì
tiền ra đền, nghe nói Mỹ đền cho Nga hơn tỷ USD, về tiền Nga lãi to; đổi
lai Nga phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nuốt mối nhục này và tuyên bố: tàu
Nga “troạng” là do sự cố kỹ thuật, có thể húc phải một con cá heo nào đó
chăng??? Qua sự cố này cho thấy ngay cả tàu ngầm Nga cũng chưa là cái
đinh gì so với tàu ngầm Mỹ nhá…
Tàu ngầm hạt nhân Hoa Kỳ đã xuất hiện gần khu vực bãi cạn
Scarborough nơi Philippines và cộng đang có tranh chấp về chủ quyền.
Ngoài ra, có tin rằng sẽ có thêm tàu chiến Mỹ xuất hiện tại Biển Đông
trong thời gian tới.
SSN NORTH CAROLINA Ở VỊNH SUBIC
Tàu chiến Mỹ xuất hiện chỉ một ngày sau khi Trung cộng ra lệnh cấm
đánh bắt cá tại Biển Đông bắt đầu từ ngày 16/5 trong đó có cả bãi cạn
Scarborough. Ngoài ra, các nguồn tin khác cho hay sẽ có thêm nhiều tàu
chiến Mỹ xuất hiện tại bờ biển Philippines trong thời gian tới.
Tàu ngầm USS North Carolina thuộc lớp Virginia, do Northrop Grumman Newport News thiết kế và đóng mới.
USS North Carolina dài 115 m và có nặng 7.800 tấn.
Tàu được trang bị một lò phản ứng S9G, có khả năng lặn sâu 244 m và tốc độ tối đa 46 km/h.
USS North Carolina có tầm hoạt động không giới hạn và chạy liên tục trong 33 năm không cần nạp nhiên liệu.
Vũ khí chính của tàu gồm 12 hoả tiển hành trình Tomahawk và 4 ngư lôi Mk-48 cỡ 533 mm.
Các chuyên gia quân sự Nhật Bản và Hàn Quốc đều cho
rằng sự kiện này là bước đi cần thiết của Washington trong bối cảnh hiện
nay. USS North Carolina thực ra chỉ là chiếc tầu tiên phong của Mỹ
trong chính sách giúp Philippines “ẤM CHÂN” chống Trung cộng.
Nhiều người nhận định rằng chỉ cần sức mạnh một
mình tầu ngầm tấn công USS North Carolina cũng đủ diệt một nửa Hạm đội
Nam Hải, do vậy không có lý gì mà Philippines cũng như các quốc gia Đông
Nam Á phải e ngại sự bành trướng của Trung cộng…
USS North Carolina có thể xem là con bài mà Hoa Kỳ muốn dùng để thử gân Trung cộng
USS North Carolina
Được đánh giá cao ở khả năng phối hợp tác chiến, tuy
nhiên USS North Carolina cũng được đánh giá cao nhờ tính năng hoạt động
độc lập, cùng một lúc USS North Carolina có thể tấn công và tiêu diệt
được nhiều mục tiêu dưới nước và trên đất liền
Bí mật bất ngờ cũng là một ưu điểm của USS North Carolina…
Hình ảnh hoả tiển hành trình Tomahawk được phóng đi từ tầu ngầm USS North Carolina
Với hoả lực hùng hậu USS North Carolina chính là mối đe dọa thường trực từ dưới nước đối với bất kỳ kẻ thù nào
Mô tả hình ảnh hoả tiển Tomahawk được phóng đi từ thân tầu ngầm
Hiện, Trung cộng tuyên bố có chủ quyền đối 90% diện
tích ở Biển Đông, trong khi thực chất nước này chỉ kiểm soát khoảng 10%.
Thời gian gần đây, Trung cộng không ngừng đẩy mạnh các hoạt động tại
các vùng biển tranh chấp, trong đó có cả việc quấy nhiễu, đe dọa tàu
thuyền của các nước khác đang hoạt động hợp pháp trên Biển Đông.
Tất nhiên Mỹ sẽ không làm ngơ để Trung cộng dễ dang đạt được mục đích của mình
TỔNG HỢP
Được đăng bởi Nhà văn Phạm Viết ĐàoTrung Quốc bổ nhiệm Tư lệnh Tam Sa
- Không gì lay chuyển được ý chí và quyết tâm bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc-CRI
Cập nhật: 10:10 GMT – thứ sáu, 27 tháng 7, 2012 - BBC
Việc bổ nhiệm được Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân loan báo chính thức hôm thứ Năm 26/7 tại Bắc Kinh.
Theo đó, Tư lệnh khu cảnh bị là Đại tá Thái Hỷ Hồng còn Chính ủy là Đại tá Liêu Triều Nghị.
Quyết định bổ nhiệm này có hiệu lực tức thì.
Ngày 22/7, Quân ủy Trung ương Trung Quốc mới chấp thuận thành lập lực lượng đồn trú ở Tam Sa và giao cho Quân khu Quảng Châu ‘thành lập một bộ chỉ huy lực lượng’.
Thông tin này đã gây phản ứng gay gắt từ các nước láng giềng, đặc biệt là Philippines và Việt Nam, vốn đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông. Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng bày tỏ quan ngại.
Đáp lại phản đối từ các nước trên, Người phát ngôn Dương Vũ Quân nói: “Trung Quốc thành lập cơ quan tương ứng trên lãnh thổ của mình không liên quan gì với các nước khác”.
Ông Dương cho biết thêm rằng phạm vi chức trách của khu cảnh bị Trung Quốc “thông thường nhất trí với địa giới hành chính”.
‘Thành phố Tam Sa’ mới thành lập là thành phố cực nam của Trung Quốc, thuộc tỉnh Hải Nam, có diện tích lớn nhất trong các thành phố trên toàn quốc và bao gồm cả ba quần đảo: Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa.
Đảo nhỏ
Trung Quốc cho ra mắt Tam Sa trong buổi lễ được tuyên truyền rầm rộ trên đải Phú Lâm, được cho là thủ phủ của thành phố nhân tạo này, hôm 24/7.Tam Sa được cho là chỉ có chừng 1.000 người, và đảo Phú Lâm là đảo nhỏ nằm trong quần đảo Hoàng Sa, có đường băng dành cho phi cơ nhưng nước ngọt phải chở bằng đường biển từ Hải Nam ra.
Việt Nam và Philippines đã tuyên bố việc thành lập Tam Sa và đặt quân đồn trú là vi phạm chủ quyền của hai nước này cũng như trái với luật pháp quốc tế.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói quyết định Tam Sa ‘không liên quan Việt Nam’===>>>
Hôm thứ Năm, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland khẳng định rằng Hoa Kỳ quan ngại về các hành động đơn phương của Trung Quốc và nhấn mạnh cần có “ngoại giao tập thể” để giải quyết các tranh chấp chủ quyền.
Đối diện các chỉ trích, dường như Trung Quốc vẫn kiên định không thay đổi lập trường.
Cũng tờ China Daily dẫn lời ông Trương Triết Hâm, chuyên gia nghiên cứu Hoa Kỳ thuộc Viện Nghiên cứu Quốc tế Thượng Hải, nói: “Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố kiểm soát chính trị và quân sự đối với Tam Sa vì đã có bài học từ các tranh chấp hàng hải trong quá khứ”.
Truyền thông Việt Nam những ngày này, dường như có sự ủng hộ của chính quyền, đăng nhiều bài chỉ trích chính sách hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông.
Các diễn đàn mạng cũng tràn ngập thông tin đả phá Trung Quốc.
Đả phá Việt Nam
Ngược lại, các báo chính thống của Trung Quốc cũng bắt đầu đăng tải ý kiến chống lại Việt Nam. Trang web của Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc, trong một cử chỉ ít thấy, mở diễn đàn ở cuối bản tin về bổ nhiệm lãnh đạo quân sự Tam Sa để người đọc gửi bình luận.Tất cả các bình luận đăng trên trang này đều mang nội dung chỉ trích Việt Nam.
Một độc giả được nói tên Đỗ Thị Nhung viết: “Tôi buồn quá, hai nước Trung Việt vừa là đồng chí vừa là anh em, tôi hi vọng mọi thứ sẽ được giải quyết qua đàm phán”.
Độc giả đề tên Vinhat viết: “Việc thành lập thành phố Tam Sa là cần thiết để bảo vệ an ninh hàng hải, tài nguyên biển, chủ quyền của Trung Quốc”.
“Việt Nam tranh chấp với Trung Quốc là không đúng. Công Hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký 1958 công nhận đảo biển Tây Sa, Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc một cách rõ ràng công khai minh bạch. Việt Nam đang phá hoại truyền thống hữu nghị của nhân dân, đảng và chính phủ 2 nước, đi ngược lại với nguyện vọng lợi ích chung của 2 dân tộc Việt Trung.”
Còn độc giả được nói tên là Nguyễn Anh Tuấn thì viết: “Biển Đông (Nam Hải) và các quần đảo xung quanh, từ xưa đến nay là thuộc về Trung Quốc, từ thập niên 70,80 thế kỷ XX, Việt Nam đã chiếm được rất nhiều, vì vậy Việt Nam không có lý do gì để phản đối Trung Quốc Thành lập TP. Tam Sa. Trong thời kỳ chống Pháp và Mỹ, Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều, người Việt Nam không nên ăn cháo đái bát”.
Đái Húc đề cập việc thành lập Binh Đoàn Xây Dựng Biển Nam Hải (Chinascope) (TL 271)
Thongluan
“…Trung Hoa nên xét đến việc tái lập lại đoàn dân vệ nổi tiếng ở biển Nam Hải bằng cách chuyển một số chiến hạm…”
Chinascope: Đái Húc (Dai Xu) là một Đại tá Không quân đồng thời là chuyên gia tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược tại Đại Học Bắc Kinh. Đương sự thuộc cánh “Diều Hâu” của Quân Đội Trung Quốc. Họ Đái gần đây đề nghị thiết lập một tổ chức bán quân sự gọi là Binh Đoàn Sản Xuất và Xây Dựng. Một đội ngũ như vậy phối hợp cả hai chức vụ quân sự và sản xuất. Đoàn này sẽ đóng chốt tại vùng đang tranh chấp ở biển Đông Hải để thực hiện phát triển kinh tế có hộ tống trang bị vũ khí. Bài dưới đây là bài dịch của bài họ Đái.[1]
Vấn đề Biển Nam Hải mỗi ngày mỗi trở nên phức tạp. Gần đây, có nhiều dấu hiệu cho thấy khó lòng mà giải quyết những vần đế trong khuôn khổ ngắn hạn. Làm thế nào một mặt chúng ta quân bình được việc bảo vệ chủ quyền của Trung Hoa và mặt khác duy trì sự ôn định trong vùng? Tôi nghĩ chúng ta có thể noi gương lịch sử về Đồn Điền Thuật Biên (Tuntian Shubian) (dùng lính hoặc nộng dân để khai khẩn đất đai tại biên giới Trung Hoa), để thiết lập một đội ngũ sản xuất và xây dựng tại Biển Nam Hải.
Vì việc đô thị hóa ở Trung Quốc gia tăng nên yêu cầu về nguyên liệu cũng tăng tốc. Có rất nhiều quặng mỏ trên đất liền đăng cạn kiệt. Sự lệ thuộc của Trung Hoa vào biển cả cũng đang đặt đến mức bão hòa. Trung Hoa chúng ta phải có tầm nhìn bao quát trong việc quản lý thềm lãnh hải của ta, tương tự như chúng ta đã thực hiện trước đây với biên giới lục địa.
Vì vậy tôi đề nghị Trung Quốc thử thành lập một đội ngũ sản xuất và xây dựng tại Biển Nam Hải. Nội dung và hình thức của đội ngũ này có thể sao chép mô hình của Tân Cương sinh sản kiến thiết binh đoàn (Xinjiang Production and Construction Corps - 新疆生產建設兵團). Dựa trên nguồn lực địa hải, Trung Hoa nên quyết định cấp độ hành chánh thích hợp của đoàn sản xuất kiến thiết, rồi sau đó tạo nên những nhóm sinh hoạt, bao gồm những nhóm khai thác dầu khí, nhóm sản xuất công nghiệp hải sản, nhóm xây dựng hạ tầng cơ sơ, và nhiều thứ khác nữa. Tất cả các nhóm đều phải có tàu sản xuất, hộ tống hạm vũ trang, và tàu tiếp vận.
Những nhóm này phải hợp tác với nhau, chia sẻ hạ tầng cơ sở, và cùng nhau tham chiến đánh lại kẻ thù. Vì tính chất phức tạp của tình hình hiện nay tại Biển Nam Hải, Trung Hoa nên xét đến việc tái lập lại đoàn dân vệ nổi tiếng ở biển Nam Hải bằng cách chuyển một số chiến hạm không cần thiết và các đơn vị quân sự từ Hải Quân sang phía dân sự và phối hợp chúng với các đơn vị kinh doanh để thành lập binh đoàn sản xuất kiến thiết ở Biển Nam Hải
Bên cạnh chính sách quốc tế, điểm thiết yếu cho sự thành công của Sản Xuất Kiến Thiết Binh Đoàn Biển Nam Hải sẽ là việc phát triển hạ tần cơ sở tại Biển Nam Hải. Mã Lai, Phi-Luật-Tân và Việt Nam tất cả những nước này đã xây dựng phi trường trên những quần đảo của Trung Hoa mà họ chiếm đóng một cách bất hợp pháp. Chúng ta có thể toan tính giành lại một hay vài hòn đảo, hoặc chúng ta có thể thiết lập những căn cư tiếp liệu quy mô tại khu vực chúng ta đã nắm quyền kiểm soát. Những căn cứ tiếp liệu này cần có một phi trường, một hải cảng, các phương tiện tồn kho và chuyên chở và những khu vực lưu trú. Nhờ những căn cứ như vậy, Binh Đoàn Sản Xuất Và Kiến Thiết Biển Nam Hải có được một cứ điểm vững chắc về dài hạn, đoàn hải thuyền của chúng ta có nơi dừng nghỉ và các tàu hàng hải ngoại quốc có thể nhận tiếp liệu.
Tôi nghĩ sự vắng mặt bấy lâu nay của Trung Hoa trên Biển Nam Hải là nguyên nhân chính khiến cho một số quốc gia chiếm giữ quần đảo của Trung Hoa. Việc thành lập binh đoàn sản xuất và kiến thiết tại Biển Nam Hải sẽ giải quyết những sai lầm lịch sử và tạo nên sự tiếp cận trong tinh thần trách nhiệm duy trì hòa bình trong vùng và trên thế giới bằng cách phát động chương trình phát triển kinh tế hàng hải và ngăn chặn rồi sau đó chuyển hóa tiệm từ từ tình hình. Một tình hình trong đó một số quốc gia (lợi dụng) khuấy động Biển Nam Hải.
Một Biển Nam Hải an bình không những là quyền lợi của Trung Hoa, mà còn là quyền lợi của Hoa Kỳ và các nước lân cận vùng Biển Nam Hải. Việc Trung Hoa thành lập binh đoàn sản xuất và kiến thiết có thể ban đầu gây xáo trộn trong bang giao quốc tế nhưng thế giới sẽ quen thuộc với nó trong một thời gian ngắn – như đã từng xảy ra đối Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Tân Cương
Đặc biệt quan trọng, Trung Hoa hội đủ tất cả những điều kiện để thiết lập Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Biển Nam Hải.
Thứ nhất, tỉnh Hải Nam có thể hỗ trợ về mặt hành chánh và địa lý cho Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Biển Nam Hải. Năm 1988, Trung Hoa đã dùng vũ lực để đánh đuổi Việt Nam ra khỏi quần đảo Trường Sa của Trung Hoa. Một tháng sau, tỉnh Hải Nam đã được chính thức thành lập. Sau khi thành lập, Hải Nam chú tâm đến việc phát triển hòn đảo (Đảo Hải Nam). Biển Nam Hai thuộc tỉnh Hải Nam. Tỉnh Hải Nam không nên riêng chú trọng đến đất đai và bờ biển của Đảo Hải Nam. Hải Nam phải là điểm trợ lực để Trung Hoa bảo vệ chủ quyền của mình trên Biển Nam Hải
Thứ hai, Hải Nam có tiềm lực lớn trong đội ngũ hải thuyền và ngư dân. Theo thống kê, có đến 26.500 hải thuyền sản xuất ngư sản và gần một triệu người làm việc trong các vùng sản xuất ngư sản. Khai triển tài nguyên tại Biển Nam Hải không những tạo nên việc làm, những còn là một hỗ trợ lớn cho phát triển kinh tế của Hải Nam
Hơn nữa, Trung Hoa có kinh nghiệm cả chục năm về phát triển địa ốc, đường xá, cầu cống và đường hầm. Trung Hoa có đội ngũ kiến thiết cao cường hơn bất cứ đội ngữ nào trên thế giới. Cũng thế, nền kinh tế, năng lực quân sự và những sức mạnh khả dĩ khác của Trung Hoa đủ mạnh để hỗ trợ Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Biển Nam Hai.
Mọi người Trung Hoa sẽ ủng họ sáng kiến này. Biển Nam Hải là tài sản quốc gia cốt yếu của Trung Hoa mà bấy lâu nay Trung Hoa đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Nơi đây cũng là địa điểm chiến lược của Trung Hoa trong tương lai. Việc thành lập Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Biển Nam Hải là một nỗ lực lớn đem đến lợi ích tức khắc và sẽ đem lại lợi ích cho ngàn năm tới. Tôi hy vọng các nhóm lợi ích sẽ thống nhất tư tưởng và, trong tinh thần hòa bình và hợp tác, thiết lập binh đoàn sản xuất và kiến thiết và phái họ đến Biển Nam Hải càng sớm càng tốt ■
NNL, AEF, AT dịch từ Hoa ngữ
Nguyễn Gia Thưởng dịch
Nguồn: chinascope.org
Ghi chú:
[1] Huanqiu Online (Hoàn Cầu Thời Báo), “Dai Xu: (China) Should Establish South China Sea Construction Corps Quickly,” May 23, 2012.
“…Trung Hoa nên xét đến việc tái lập lại đoàn dân vệ nổi tiếng ở biển Nam Hải bằng cách chuyển một số chiến hạm…”
Chinascope: Đái Húc (Dai Xu) là một Đại tá Không quân đồng thời là chuyên gia tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược tại Đại Học Bắc Kinh. Đương sự thuộc cánh “Diều Hâu” của Quân Đội Trung Quốc. Họ Đái gần đây đề nghị thiết lập một tổ chức bán quân sự gọi là Binh Đoàn Sản Xuất và Xây Dựng. Một đội ngũ như vậy phối hợp cả hai chức vụ quân sự và sản xuất. Đoàn này sẽ đóng chốt tại vùng đang tranh chấp ở biển Đông Hải để thực hiện phát triển kinh tế có hộ tống trang bị vũ khí. Bài dưới đây là bài dịch của bài họ Đái.[1]
Vấn đề Biển Nam Hải mỗi ngày mỗi trở nên phức tạp. Gần đây, có nhiều dấu hiệu cho thấy khó lòng mà giải quyết những vần đế trong khuôn khổ ngắn hạn. Làm thế nào một mặt chúng ta quân bình được việc bảo vệ chủ quyền của Trung Hoa và mặt khác duy trì sự ôn định trong vùng? Tôi nghĩ chúng ta có thể noi gương lịch sử về Đồn Điền Thuật Biên (Tuntian Shubian) (dùng lính hoặc nộng dân để khai khẩn đất đai tại biên giới Trung Hoa), để thiết lập một đội ngũ sản xuất và xây dựng tại Biển Nam Hải.
Vì việc đô thị hóa ở Trung Quốc gia tăng nên yêu cầu về nguyên liệu cũng tăng tốc. Có rất nhiều quặng mỏ trên đất liền đăng cạn kiệt. Sự lệ thuộc của Trung Hoa vào biển cả cũng đang đặt đến mức bão hòa. Trung Hoa chúng ta phải có tầm nhìn bao quát trong việc quản lý thềm lãnh hải của ta, tương tự như chúng ta đã thực hiện trước đây với biên giới lục địa.
Vì vậy tôi đề nghị Trung Quốc thử thành lập một đội ngũ sản xuất và xây dựng tại Biển Nam Hải. Nội dung và hình thức của đội ngũ này có thể sao chép mô hình của Tân Cương sinh sản kiến thiết binh đoàn (Xinjiang Production and Construction Corps - 新疆生產建設兵團). Dựa trên nguồn lực địa hải, Trung Hoa nên quyết định cấp độ hành chánh thích hợp của đoàn sản xuất kiến thiết, rồi sau đó tạo nên những nhóm sinh hoạt, bao gồm những nhóm khai thác dầu khí, nhóm sản xuất công nghiệp hải sản, nhóm xây dựng hạ tầng cơ sơ, và nhiều thứ khác nữa. Tất cả các nhóm đều phải có tàu sản xuất, hộ tống hạm vũ trang, và tàu tiếp vận.
Những nhóm này phải hợp tác với nhau, chia sẻ hạ tầng cơ sở, và cùng nhau tham chiến đánh lại kẻ thù. Vì tính chất phức tạp của tình hình hiện nay tại Biển Nam Hải, Trung Hoa nên xét đến việc tái lập lại đoàn dân vệ nổi tiếng ở biển Nam Hải bằng cách chuyển một số chiến hạm không cần thiết và các đơn vị quân sự từ Hải Quân sang phía dân sự và phối hợp chúng với các đơn vị kinh doanh để thành lập binh đoàn sản xuất kiến thiết ở Biển Nam Hải
Bên cạnh chính sách quốc tế, điểm thiết yếu cho sự thành công của Sản Xuất Kiến Thiết Binh Đoàn Biển Nam Hải sẽ là việc phát triển hạ tần cơ sở tại Biển Nam Hải. Mã Lai, Phi-Luật-Tân và Việt Nam tất cả những nước này đã xây dựng phi trường trên những quần đảo của Trung Hoa mà họ chiếm đóng một cách bất hợp pháp. Chúng ta có thể toan tính giành lại một hay vài hòn đảo, hoặc chúng ta có thể thiết lập những căn cư tiếp liệu quy mô tại khu vực chúng ta đã nắm quyền kiểm soát. Những căn cứ tiếp liệu này cần có một phi trường, một hải cảng, các phương tiện tồn kho và chuyên chở và những khu vực lưu trú. Nhờ những căn cứ như vậy, Binh Đoàn Sản Xuất Và Kiến Thiết Biển Nam Hải có được một cứ điểm vững chắc về dài hạn, đoàn hải thuyền của chúng ta có nơi dừng nghỉ và các tàu hàng hải ngoại quốc có thể nhận tiếp liệu.
Tôi nghĩ sự vắng mặt bấy lâu nay của Trung Hoa trên Biển Nam Hải là nguyên nhân chính khiến cho một số quốc gia chiếm giữ quần đảo của Trung Hoa. Việc thành lập binh đoàn sản xuất và kiến thiết tại Biển Nam Hải sẽ giải quyết những sai lầm lịch sử và tạo nên sự tiếp cận trong tinh thần trách nhiệm duy trì hòa bình trong vùng và trên thế giới bằng cách phát động chương trình phát triển kinh tế hàng hải và ngăn chặn rồi sau đó chuyển hóa tiệm từ từ tình hình. Một tình hình trong đó một số quốc gia (lợi dụng) khuấy động Biển Nam Hải.
Một Biển Nam Hải an bình không những là quyền lợi của Trung Hoa, mà còn là quyền lợi của Hoa Kỳ và các nước lân cận vùng Biển Nam Hải. Việc Trung Hoa thành lập binh đoàn sản xuất và kiến thiết có thể ban đầu gây xáo trộn trong bang giao quốc tế nhưng thế giới sẽ quen thuộc với nó trong một thời gian ngắn – như đã từng xảy ra đối Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Tân Cương
Đặc biệt quan trọng, Trung Hoa hội đủ tất cả những điều kiện để thiết lập Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Biển Nam Hải.
Thứ nhất, tỉnh Hải Nam có thể hỗ trợ về mặt hành chánh và địa lý cho Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Biển Nam Hải. Năm 1988, Trung Hoa đã dùng vũ lực để đánh đuổi Việt Nam ra khỏi quần đảo Trường Sa của Trung Hoa. Một tháng sau, tỉnh Hải Nam đã được chính thức thành lập. Sau khi thành lập, Hải Nam chú tâm đến việc phát triển hòn đảo (Đảo Hải Nam). Biển Nam Hai thuộc tỉnh Hải Nam. Tỉnh Hải Nam không nên riêng chú trọng đến đất đai và bờ biển của Đảo Hải Nam. Hải Nam phải là điểm trợ lực để Trung Hoa bảo vệ chủ quyền của mình trên Biển Nam Hải
Thứ hai, Hải Nam có tiềm lực lớn trong đội ngũ hải thuyền và ngư dân. Theo thống kê, có đến 26.500 hải thuyền sản xuất ngư sản và gần một triệu người làm việc trong các vùng sản xuất ngư sản. Khai triển tài nguyên tại Biển Nam Hải không những tạo nên việc làm, những còn là một hỗ trợ lớn cho phát triển kinh tế của Hải Nam
Hơn nữa, Trung Hoa có kinh nghiệm cả chục năm về phát triển địa ốc, đường xá, cầu cống và đường hầm. Trung Hoa có đội ngũ kiến thiết cao cường hơn bất cứ đội ngữ nào trên thế giới. Cũng thế, nền kinh tế, năng lực quân sự và những sức mạnh khả dĩ khác của Trung Hoa đủ mạnh để hỗ trợ Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Biển Nam Hai.
Mọi người Trung Hoa sẽ ủng họ sáng kiến này. Biển Nam Hải là tài sản quốc gia cốt yếu của Trung Hoa mà bấy lâu nay Trung Hoa đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Nơi đây cũng là địa điểm chiến lược của Trung Hoa trong tương lai. Việc thành lập Binh Đoàn Sản Xuất và Kiến Thiết Biển Nam Hải là một nỗ lực lớn đem đến lợi ích tức khắc và sẽ đem lại lợi ích cho ngàn năm tới. Tôi hy vọng các nhóm lợi ích sẽ thống nhất tư tưởng và, trong tinh thần hòa bình và hợp tác, thiết lập binh đoàn sản xuất và kiến thiết và phái họ đến Biển Nam Hải càng sớm càng tốt ■
NNL, AEF, AT dịch từ Hoa ngữ
Nguyễn Gia Thưởng dịch
Nguồn: chinascope.org
Ghi chú:
[1] Huanqiu Online (Hoàn Cầu Thời Báo), “Dai Xu: (China) Should Establish South China Sea Construction Corps Quickly,” May 23, 2012.
ĐÁNH THỨC LƯƠNG TRI TRUNG HOA
Vietstudies
Tất cả bọn bạo quyền, xâm lược xưa nay đều rất coi trọng việc tuyên truyền , đầu độc quần chúng bằng những điều dối trá. Bộ trưởng Bộ tuyên truyền Đức quốc xã P.J. Goebbels nổi tiếng với câu: “Nói 10 lần người ta chưa tin, thì nói 100 lần họ sẽ tin”. Bọn bành trướng Bắc Kinh còn cao thủ hơn, họ đưa vào sách giáo khoa các vùng biển và các quần đảo mà họ đơn phương cho rằng thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Họ cho phát hành 23.527 tạp chí nghiên cứu Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) minh họa luận điệu giả trá của họ. Trong 10 năm, họ khuyến khích cho làm 238 luận văn tiến sĩ về Biển Đông và các quần đảo, có nội dung xác định chủ quyền Trung Quốc. Cũng trong thời gian đó, họ tổ chức 516 cuộc hội thảo về Biển Đông, biển Đông Bắc, các quần đảo và cho phổ biến rộng rãi trên hệ thống truyền thông, vu cáo các nước trong đó có Việt Nam chiếm đoạt biển, đảo của Trung Quốc. Họ luôn luôn đòi hỏi chúng ta phải kiềm chế, coi trọng đại cục, không làm rối tình hình, không đưa tin những vụ va chạm (do họ gây ra) lên báo chí, nhưng họ làm ngược lại, ngày nào cũng ra rả vu khống, đe dọa ta, kích động chủ nghĩa dân tộc Đại Hán trong nhân dân Trung Quốc.
Chắc chắn những người có lương tri muốn nói lên lòng mong muốn sự công bằng với lân bang láng giềng từng một thời “môi hở răng lạnh” không khỏi bị nhà cầm quyền độc đoán răn đe. Trong tình hình như vậy, chúng ta vô cùng xúc động trước sự thức dậy của lương tri Trung Hoa. Năm ngoái, giữa lúc căng thẳng do tàu hải giám Trung quốc liên tục cắt cáp 2 hai tàu thăm dò của ta, đài truyền hình Phượng Hoàng (Hồng Công) mời giáo sư Vũ Cao Phan trả lời phỏng vấn. Giáo sư đã được dịp nói rõ Hoàng Sa vốn là của Việt Nam, do đó không thể “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Năm nay, giữa lúc Bắc Kinh hung hăng diễu võ dương oai thì hằng loạt các trí thức, nhà nghiên cứu lên tiếng rất mạnh mẽ, vạch rõ những sai trái không thể bào chữa của nhà cầm quyền: Thạc sĩ, biên tập viên Tân hoa xã Chu Phương: ”Hãy lập tức xóa bỏ cái gọi là thành phố Tam Sa, bởi vì nó là trò cười quốc tế điển hình”. Nhà nghiên cứu Lý Lệnh Hoa:”Đường lưỡi bò chiếm 80% Biển Nam Trung Hoa là do Trung Quốc tự vẽ”. Giáo sư Hà Quang Hộ cho “đòi hỏi vô lý là không biết giữ nhân tình”. Giáo sư Trương Thư Quang:” Quyền lợi của Trung Quốc cần phải được các nước thừa nhận”. Giáo sư Trương Kỳ Phạm khuyên nhà cầm quyền đừng theo luật rừng, nên theo luật biển vv… và vv…
Lương tri từ các trí thức sáng suốt và dũng cảm chắc chắn sẽ nhanh chóng lan tỏa đến 1,3 tỉ người, đánh thức lương tri Trung Hoa.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 25-7-12
Tống Văn Công
Ngày 22-7 Trung Quốc khai trương
hoạt động trái phép Trạm thu phát sóng di động (BTS) 3G trên đảo Phú Lâm
thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 23-7 họ tổ chức cuộc họp Hội
đồng Nhân dân khóa 1 của cái gọi là thành phố Tam Sa, bao gồm cả hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Từng ngày, họ ngang nhiên xâm
phạm chủ quyền nước ta, chà đạp lên chính chữ ký của họ thỏa thuận DOC,
cam kết cùng đối thoại, hợp tác vì ổn định và tin cậy trong khu vực. Để
chống lại có hiệu quả những bước leo thang xâm lược của Bắc Kinh, rất
nhiều việc đặt ra trước chúng ta: Trước hết, mọi người Việt Nam cần nhận
thức sâu sắc trách nhiệm trước họa ngoại xâm, đoàn kết, sẵn sàng gánh
vác mọi việc để nâng cao nội lực của đất nước, đặc biệt là kinh tế và
quốc phòng. Về đối ngoại, phải tranh thủ bạn bè ở các quốc gia dân chủ,
làm cho nhân loại tiến bộ hiểu chúng ta, một dân tộc yêu chuộng hòa bình
và công lý, đang là nạn nhân của chủ nghĩa bành trướng, bá quyền. Khơi
dậy lương tri Trung Hoa là một việc vô cùng hệ trọng trong cuộc đấu
tranh này. Phải luôn luôn phân biệt rạch ròi giữa nhà cầm quyền Bắc Kinh
nham hiểm với nhân dân Trung Hoa vốn sống theo đức nhân của Khổng Tử
với nội dung là “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn
thì đừng gây cho người khác).Tất cả bọn bạo quyền, xâm lược xưa nay đều rất coi trọng việc tuyên truyền , đầu độc quần chúng bằng những điều dối trá. Bộ trưởng Bộ tuyên truyền Đức quốc xã P.J. Goebbels nổi tiếng với câu: “Nói 10 lần người ta chưa tin, thì nói 100 lần họ sẽ tin”. Bọn bành trướng Bắc Kinh còn cao thủ hơn, họ đưa vào sách giáo khoa các vùng biển và các quần đảo mà họ đơn phương cho rằng thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Họ cho phát hành 23.527 tạp chí nghiên cứu Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) minh họa luận điệu giả trá của họ. Trong 10 năm, họ khuyến khích cho làm 238 luận văn tiến sĩ về Biển Đông và các quần đảo, có nội dung xác định chủ quyền Trung Quốc. Cũng trong thời gian đó, họ tổ chức 516 cuộc hội thảo về Biển Đông, biển Đông Bắc, các quần đảo và cho phổ biến rộng rãi trên hệ thống truyền thông, vu cáo các nước trong đó có Việt Nam chiếm đoạt biển, đảo của Trung Quốc. Họ luôn luôn đòi hỏi chúng ta phải kiềm chế, coi trọng đại cục, không làm rối tình hình, không đưa tin những vụ va chạm (do họ gây ra) lên báo chí, nhưng họ làm ngược lại, ngày nào cũng ra rả vu khống, đe dọa ta, kích động chủ nghĩa dân tộc Đại Hán trong nhân dân Trung Quốc.
Chắc chắn những người có lương tri muốn nói lên lòng mong muốn sự công bằng với lân bang láng giềng từng một thời “môi hở răng lạnh” không khỏi bị nhà cầm quyền độc đoán răn đe. Trong tình hình như vậy, chúng ta vô cùng xúc động trước sự thức dậy của lương tri Trung Hoa. Năm ngoái, giữa lúc căng thẳng do tàu hải giám Trung quốc liên tục cắt cáp 2 hai tàu thăm dò của ta, đài truyền hình Phượng Hoàng (Hồng Công) mời giáo sư Vũ Cao Phan trả lời phỏng vấn. Giáo sư đã được dịp nói rõ Hoàng Sa vốn là của Việt Nam, do đó không thể “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Năm nay, giữa lúc Bắc Kinh hung hăng diễu võ dương oai thì hằng loạt các trí thức, nhà nghiên cứu lên tiếng rất mạnh mẽ, vạch rõ những sai trái không thể bào chữa của nhà cầm quyền: Thạc sĩ, biên tập viên Tân hoa xã Chu Phương: ”Hãy lập tức xóa bỏ cái gọi là thành phố Tam Sa, bởi vì nó là trò cười quốc tế điển hình”. Nhà nghiên cứu Lý Lệnh Hoa:”Đường lưỡi bò chiếm 80% Biển Nam Trung Hoa là do Trung Quốc tự vẽ”. Giáo sư Hà Quang Hộ cho “đòi hỏi vô lý là không biết giữ nhân tình”. Giáo sư Trương Thư Quang:” Quyền lợi của Trung Quốc cần phải được các nước thừa nhận”. Giáo sư Trương Kỳ Phạm khuyên nhà cầm quyền đừng theo luật rừng, nên theo luật biển vv… và vv…
Lương tri từ các trí thức sáng suốt và dũng cảm chắc chắn sẽ nhanh chóng lan tỏa đến 1,3 tỉ người, đánh thức lương tri Trung Hoa.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 25-7-12
Cái kết cho “công ty mua bán nợ quốc gia”
Phải chăng số phận của mô hình công ty mua bán nợ quốc gia đã chính thức được kết thúc từ khi nó còn chưa ra đời?
Có những cái kết đã được hiện thực hóa ngay từ khi chủ thể của nó chưa thành hình thành khối. “Công ty mua bán nợ quốc gia” là một minh họa cho logic phản chiều này. Không phải tất cả, nhưng những gì xa rời với quyền lợi nhân dân đều có thể nhận một kết thúc tương tự.
Vào ngày 4/7/2012, trong một hội nghị toàn ngành với sự tham dự của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã yêu cầu ngành ngân hàng làm rõ thực chất nợ xấu và xem xét xử lý ngay nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro, mà không chờ thành lập công ty mua bán nợ.
Một ngày trước đó, trong buổi họp báo thường kỳ của Chính phủ, vấn đề công ty mua bán nợ quốc gia đã lần đầu tiên được một quan chức có trách nhiệm – Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam – xác nhận thế chân đứng thiếu cơ sở của nó. Ông Đam tỏ ra hoài nghi về gốc gác của con số 100.000 tỷ đồng, và cho rằng có thể đã có “một sự nhầm lẫn nào đó”.
“Sự nhầm lẫn” trên lại khởi phát từ ý tưởng gây tranh cãi diện rộng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình. Ý tưởng thành lập một công ty mua bán nợ có tầm vóc quốc gia với số vốn điều lệ lên đến 100.000 tỷ đồng đã được ông Bình nêu ra trước kỳ họp Quốc hội vào trung tuần tháng 6/2012.
Ý tưởng này cũng có thể được Ngân hàng Nhà nước xúc tiến hiện thực hóa bằng một đề án trình Chính phủ nhằm giải quyết tỷ lệ nợ xấu lên đến 10% trong khối ngân hàng – một số liệu hoàn toàn bất ngờ mà lần đầu tiên, tính từ phiên họp Quốc hội vào tháng 11/2011, người chịu trách nhiệm điều hành tín dụng của Ngân hàng Nhà nước mới thừa nhận.
Cũng cần lược lại phản ứng của dư luận.
Ngay sau khi xuất hiện dề xuất về công ty mua bán nợ quốc gia của Thống đốc Nguyễn Văn Bình, rất nhiều ý kiến của giới chuyên gia, người dân, báo chí và cả quan chức đã phản bác khá gay gắt.
“Cứu ai và cứu để làm gì?” là chủ đề chính trong nhiều phản bác như thế. Nếu trong lĩnh vực bất động sản, vào tháng 4/2012, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam đã nói thẳng việc Nhà nước có chủ trương mua lại nhà chung cư là nhằm cứu giới chủ ngân hàng đang bị tồn kho quá nhiều căn hộ cao cấp, thì nhiều vấn đề riêng tư của khối ngân hàng cũng từ đó mà lộ ra.
Cũng bởi, nếu doanh nghiệp bất động sản là một nạn nhân của ngân hàng thì nền kinh tế và doanh nghiệp các ngành nghề khác còn bị xem là “con tin” của những người nắm giữ yết hầu tín dụng quốc gia.
Từ tháng 8/2011 khi Chính phủ mới được thành lập, một điều hết sức đáng lo ngại là phần lớn động thái của Ngân hàng Nhà nước đã chỉ phục vụ cho lợi ích của nhóm các ngân hàng thương mại. Người ta có thể nhận ra logic thuần thục này qua nhiều dẫn chứng từ nạn đầu cơ vàng, hoạt động thâu tóm ngân hàng – bằng hai công cụ lãi suất cho vay và thanh khoản.
Thực trạng giá vàng trong nước luôn chênh cao từ 2-3 triệu đồng/lượng so với giá vàng thế giới, hay những cái tên như Phương Nam, Sài Gòn Thương Tín đã trở thành những minh họa tiêu biểu nhất, mang tính quyết định cho dư luận từ trạng thái hoài nghi lợi ích nhóm vào năm ngoái sang một kết luận cụ thể về nhóm lợi ích vào năm nay.
Cũng đã hiện diện quá nhiều phản ứng và phản bác của dư luận về hành vi không chỉ là hiện tượng như trên. Song như thường lệ, mọi việc vẫn không dẫn đến một kết thúc có hậu nào.
Trong khi đó, nhóm lợi ích ngân hàng vẫn ung dung với kế hoạch và tiến trình thâu tóm, thao túng tín dụng và đẩy nền kinh tế vào thế bế tắc, doanh nghiệp phá sản và người lao động phải ra đường.
Tại sao ngân hàng lại “thích” bán nợ xấu?
Không phải ngẫu nhiên mà chỉ mới gần đây, một báo cáo của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia đã “tiết lộ” con số dư nợ cho vay bất động sản thực chất lên đến 348.000 tỷ đồng, gấp 1,8 lần so với con số báo cáo của các ngân hàng thương mại là gần 200.000 tỷ đồng vào cuối năm 2011. Số nợ xấu bất động sản cũng theo đó mà tăng gấp 8 lần so với số công bố của khối ngân hàng.
Cũng cần nói thêm, trong một báo cáo trước kỳ họp Quốc hội vào tháng 11/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước NguyễnVăn Bình đã chỉ thừa nhận tỷ lệ nợ xấu của trong hệ thống ngân hàng là 3,6%. Tuy nhiên vào kỳ họp Quốc hội giữa năm nay, tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng đã “bất ngờ” được vị quan chức này thông báo đến 10%, tạo nên một chuyển biến hoàn toàn phi logic nếu so sánh với “lộ trình” tăng nợ xấu trước đó.
Gót chân Asin bắt đầu lộ ra, ở chính nơi mà người ta tưởng như tồn tại một cách bền vững nhất.
Bắt đầu từ thời điểm sau quý 1/2012, hàng loạt ngân hàng đã buộc lòng phải tiết lộ thân phận nợ xấu của mình. Cũng theo báo cáo của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, 10 ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay bất động sản và xây dựng lớn nhất đã mang trên mình số dư nợ cho vay 147.000 tỷ đồng.
Nhưng có lẽ đó chưa phải là con số cuối cùng, bởi nếu căn cứ vào số dư nợ cho vay 348.000 tỷ đồng của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, và khả năng “biến mất” đến 50% như giới phân tích và bản thân một số ngân hàng thừa nhận về tình trạng nợ khó đòi, thì số nợ xấu bất động sản thực tế có thể lên đến 170.000 tỷ đồng!
“Tiền thuế của dân không thể dùng để mua nợ xấu ngân hàng” – Viện sĩ Trương Công Phú, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Đầu tư phát triển, Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn kinh tế thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chia sẻ trên VnEconomy – “Nhân dân đóng thuế không phải để đi mua nợ, tại sao lại bắt nhân dân phải nai lưng ra gánh chịu những món nợ xuất phát từ những sai lầm của một nhóm người?”.
Bài học còn nóng hổi từ câu chuyện chuyển lỗ và đổ lỗ từ hoạt động kinh doanh thất bát và sai lầm của mình lên đầu người dân vẫn còn nguyên đó – ứng với những minh họa khó tưởng tượng như Tập đoàn Điện lực Việt Nam hay Tổng công ty Kinh doanh xăng dầu Việt Nam.
Vậy tại sao ngân hàng lại “thích” bán nợ xấu? Cũng theo ông Trương Công Phú, nguy hiểm nhất của nợ xấu là bóng dáng của trục lợi, tham nhũng lấp ló đằng sau đó. Nếu bán được những món nợ ấy thì mọi tội lỗi của các nhóm lợi ích và tham nhũng sẽ được xóa hết, thậm chí còn hợp pháp hóa được những món nợ ấy. Sâu xa của vấn đề bán nợ là do các ngân hàng thương mại sợ khi cơ quan chức năng vào cuộc xử lý sẽ phát hiện ra những khuất tất và sẽ lòi ra nhiều chuyện khác.
Chỉ cần sự giải thích ngắn gọn như trên của ông Trương Công Phú đã là đủ cho người dân nhìn ra chân tướng của hoạt động mua bán nợ và một công ty nhằm phục vụ cho ý đồ đó, nếu trong tương lai công ty này được triển khai đúng với kế hoạch của nhóm lợi ích ngân hàng.
Khi đó, không chỉ hàng trăm ngàn tỷ đồng sẽ được cường điệu trong bối cảnh toàn bộ nền kinh tế rơi vào suy thoái cùng những dấu hiệu thiểu phát đầu tiên, mà cuộc tranh luận “Tiền ở đâu ra?” rất có thể sẽ dẫn đến thất bại cho phe phản biện, trong khi phần thắng lại thuộc về ngân hàng – nơi có toàn quyền sử dụng tiền gửi tiết kiệm của người dân để phục vụ cho những mục đích thâm sâu hơn.
Sự vắng mặt “bất thường”
Một cách xâu chuỗi, logic từ đề án huy động vàng đến công ty mua bán nợ quốc gia đã biến đường thẳng thành một thứ đường cong mà người dân đứng ở đầu này sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy được đầu kia của con đường.
Nói cách khác, nếu đề án huy động vàng được chuẩn y và đưa vào triển khai, sẽ không có gì bảo đảm là vàng của dân được ngân hàng bảo đảm bằng những giá trị thuộc về ngân hàng nhưng lại gây quá nhiều nghi vấn.
Xin trở lại với hội nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và số phận của công ty mua bán nợ quốc gia. Một chi tiết rất đáng chú ý là lần đầu tiên kể từ thời điểm tháng 8/2011, những vấn đề có tính quyết sách về hệ thống ngân hàng lại không phải do chính lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước thông báo. Quyết sách đó còn liên quan đến cả chủ đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng mà trước đây Thống đốc Nguyễn Văn Bình vẫn thường chủ trì thông tin cho các ngân hàng và báo giới.
Phải chăng số phận của mô hình công ty mua bán nợ quốc gia đã chính thức được kết thúc từ khi nó còn chưa ra đời?
Nếu quả như vậy, xã hội và người dân không chừng lại có cơ may đỡ đi một mối lo lớn cùng những hậu quả không hề nhỏ.
Viết Lê Quân
Theo Doanh Nhân Sài Gòn
Bộ mặt thật của những người lãnh đạo Trung Quốc trong quá trình dài quan hệ “môi răng” giữa Trung Quốc và Việt Nam
Hình chép từ TTXVA
Bộ mặt thật của những người lãnh đạo Trung Quốc trong quá trình dài quan hệ “môi răng” giữa Trung Quốc và Việt Nam
Khách
quan mà nói, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của Việt
Nam, cùng với Liên Xô, Trung Quốc giúp ta khá nhiều, nhân dân ta rất
biết ơn. Sau khi giải phóng miền Nam, Nhà nước ta đã cử một đoàn đại
biểu cấp cao do Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp sang cám ơn lãnh
đạo và nhân dân Trung Quốc. Nhưng năm 1974, những người lãnh đạo Trung
Quốc đã dùng lực lượng mạnh đánh quân đồn trú Việt Nam Cộng hòa cướp
quần đảo Hoàng Sa của chúng ta, rồi tháng 2 – 1979, để tặng cho Mỹ một
món quà và cứu bọn tay sai Pôn Pốt, Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân
xâm lăng nước ta, giết hại đồng bào ta từ người già, trẻ nhỏ đến phụ nữ
mang thai, chiếm đất đai của ta, tàn phá triệt để các tỉnh biên giới
nước ta trước khi buộc phải rút lui. Tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học”
như vậy là Đặng Tiểu Bình đã tự xóa hết mọi tình nghĩa, nợ nần rồi còn
gì nữa, mà gần đây báo chí Trung Quốc vẫn kể công, phê phán Việt Nam “Vong ân bội nghĩa”? Sau này để giảm tội ác xâm lược, họ gọi trẹo ra cuộc đánh phá ấy là cuộc “phản kích tự vệ”!
Ai xâm lược họ mà họ phải đưa 60 vạn quân để “tự vệ”? Nhà cầm quyền
Trung Quốc quả là có tài và thói quen đổi trắng thay đen, dùng từ ngữ
xảo trá, bịp bợm không ai bằng!!!
Trước thái độ “kể công” đó của giới hữu trách Trung
Quốc, tôi buộc phải viết bài này để vạch trần bộ mặt thật của những
người lãnh đạo Trung Quốc.
I. Bành trướng, bá quyền ích kỷ nước lớn là tư tưởng xuyên suốt của những người lãnh đạo Trung Quốc
Tháng 9-1950, tại Hội nghị Quân ủy Trung ương, Chủ
tịch Mao Trạch Đông nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất, đó là mục
tiêu của chúng ta”.
Trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963, ông Mao nói : “Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á”.
Trong cuộc họp BCH TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 8-1965, Chủ tịch Mao Trạch Đông khẳng định: “Chúng
ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái
Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapo… một vùng như Đông Nam châu Á rất
giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để
chiếm lấy…”.
Trong cuộc họp giữa 4 đảng cộng sản Việt Nam, Trung
Quốc, Indonesia, Lào tại Quảng Đông tháng 4-1963, Thủ tướng Chu Ân Lai
nói: “Nước chúng tôi lớn, nhưng không có đường ra, nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho con đường xuống Đông Nam châu Á”.
II. Những phương án thu phục và khuất phục Việt Nam
1. Thu phục Việt Nam bằng tư tưởng Mao Trạch Đông
Muốn xuống Đông Nam Á, trước hết và tất yếu cần qua Việt Nam.
Ngay từ năm 1950, sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời,
những nhà lãnh đạo Trung Quốc đã cử cố vấn Trung Quốc sang và viện trợ
cho Việt Nam vũ khí, xe vận tải giúp Việt Nam đánh Pháp. Đoàn cố vấn còn
có nhiệm vụ truyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông. Họ đã đề nghị cho
dạy tư tưởng Mao Trạch Đông trong trường đảng Việt Nam, lãnh đạo ta đã
chấp nhận. Lúc chúng ta tiến hành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ
chức theo kinh nghiệm các vị cố vấn giới thiệu cho ta, ta phạm sai lầm
nghiêm trọng: đấu tố tràn lan, quy kết sai lầm làm nhiều cán bộ bị bắt,
nhiều người chết oan. Khi phát hiện, Hồ Chủ tịch phải đứng ra nhận trách
nhiệm và xin lỗi đồng bào. Từ đó ta tỉnh ngộ không dạy tư tưởng Mao
Trạch Đông và không làm theo kinh nghiệm Trung Quốc nữa.
Những người lãnh đạo thấy không chinh phục Việt Nam bằng tư tưởng Mao Trạch Đông được, họ chuyển sang dùng phương án khác.
2. Mạnh tay giúp xây dựng kinh tế để Việt Nam hàm ơn và phụ thuộc Trung Quốc
Từ 1955 đến 1963, lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam
rất nhiều nhà máy, nhiều công trình: nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá
(Cao Xà Lá); nhà máy bóng đèn phích nước; nhà máy sứ Hải Dương; nhà máy
hóa chất Việt Trì; nhà máy dệt Minh Phương; nhà máy sản xuất mỳ chính
(bằng đậu xanh); khu gang thép Thái Nguyên; nhà máy phân đạm Hà Bắc;
công trình thủy điện Thác Bà, cầu Việt Trì, v.v. Trung Quốc giúp ta hàng
loạt nhà máy còn có mục đích là Việt Nam sẽ phải phụ thuộc về nguyên
liệu, phụ tùng, linh kiện.
Đến khi Mỹ hất cẳng Pháp gây chiến ở Việt Nam thì
phần lớn các nhà máy mà Trung Quốc giúp bị ném bom tàn phá và một số xí
nghiệp hoạt động không có hiệu quả thành ra việc giúp xây dựng kinh tế
không còn mấy ý nghĩa. Vả lại từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, ta đã
không đồng ý với lập trường của những người lãnh đạo Trung Quốc, họ
thấy rằng “phương án kinh tế” cũng không thu phục được Việt Nam theo họ
nên họ lại chuẩn bị phương án khác.
3. Hình thành 2 gọng kìm hòng uy hiếp và khuất phục Việt Nam
Ở phía Bắc, Trung Quốc mở những con đường từ nội địa ra sát biên giới các tỉnh Việt Nam, chuẩn bị sẵn sàng cho việc tiến quân.
Lãnh đạo Trung Quốc trang bị cho Pôn Pốt đủ mạnh để
nắm nó làm gọng kìm phía Tây Nam Việt Nam. Được sự khuyến khích của lãnh
đạo Trung Quốc, năm 1977, bọn Pôn Pốt xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến
biên giới Nam Bộ Việt Nam, đánh phá, giết hại đồng bào ta. Không đừng
được, quân ta tiến vào tiêu diệt Pôn Pốt, cứu dân Kmer khỏi họa diệt
chủng thì Đặng Tiểu Bình huy động 60 vạn quân đánh ta, vừa để cứu tay
sai Pôn Pốt vừa để làm lễ vật “làm ăn” với Mỹ, vừa để nói lên rằng giữa
Trung Quốc và Việt Nam không còn chung ý thức hệ, không còn là “đồng
chí”.
Việt Nam vẫn không khuất phục.
III. Giúp Việt Nam chống Pháp đồng thời hạn chế thắng lợi của Việt Nam làm Việt Nam suy yếu phải phụ thuộc Trung Quốc
Giúp Việt Nam kháng chiến chống Pháp, Trung Quốc cũng
có động cơ vì lợi ích của họ. Nếu Việt Nam thắng, Trung Quốc sẽ có một
khu đệm an toàn ở phía Nam giống như Triều Tiên ở phía Bắc. Không giúp
chẳng may mà Việt Nam không đứng vững, Pháp thắng thì ở mặt Nam Trung
Quốc sẽ là đế quốc Pháp, mà Pháp là một nước tham gia “liên quân 8 nước”
đánh triều đình nhà Thanh (TQ), buộc nhà Thanh phải nhượng cho các nước
phương Tây những “tô giới” ở Thượng Hải và những điều kiện thiệt thòi
khác.
Sau chiến thắng vang dội Điện Biên Phủ của Việt Nam
tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất tưởng như “bất khả xâm phạm” của
quân Pháp, Chính phủ và giới quân sự Pháp cực kỳ dao động. Lo ngại Quân
đội nhân dân Việt Nam có thể thừa thắng tổng tấn công đồng bằng Bắc Bộ,
ngày 18-5-1954, Thủ tướng Pháp Lanien (Joseph Laniel) đã cứ Tướng Êli
(Paul Ély) sang Đông Dương truyền đạt chỉ thị cho Tướng Nava (Eugène
Navarre), Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp: “Lúc này phải lấy mục
tiêu chính, trên tất cả các cái khác là cứu đội quân viễn chinh”.
Trong tình hình đó, nếu lãnh đạo Trung Quốc thực tâm
giúp Việt Nam thì rất có thể đã buộc Pháp phải rút toàn bộ quân Pháp
khỏi Đông Dương.
Nhưng, ngược lại, những người lãnh đạo Trung Quốc đã
phản bội nhân dân Việt Nam, đàm phán với Pháp trên lưng Việt Nam. Ngay
từ ngày 24-8-1953, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố: “đình chiến ở Triều
Tiên có thể dùng làm mẫu mực cho những xung đột khác” (ý nói đến cuộc
chiến tranh Đông Dương, chỉ “đình chiến” thôi và hai miền song song tồn
tại).
Từ ngày 8 tháng 5 đến 23 tháng 6-1954, Trưởng đoàn
Pháp trong khi tránh tiếp xúc với Việt Nam đã đàm phán trực tiếp với
Trưởng đoàn Trung Quốc 4 lần, đi tới thỏa thuận về những nét cơ bản về
một hiệp định ngừng bắn ở Đông Dương.
Ngày 17-6-1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp Trưởng đoàn đại biểu Pháp Biđô (Georges Bidault) đưa ra những nhân nhượng chính trị có tính chất cơ bản…
Ngày 23-6-1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp Măngđet
PhơRăngxơ (Mandès-France), Thủ tướng mới của Pháp đã đưa ra những nhượng
bộ mới: “chia cắt Việt Nam, 2 miền Việt Nam cùng tồn tại hòa bình…”.
Một ngày sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký, ngày
22-7-1954, trong khi ăn cơm với Ngô Đình Luyện, em ruột Ngô Đình Diệm,
Chu Ân Lại đã gợi ý “đặt công sứ quán của Sài Gòn ở Bắc Kinh”.
Ngô Đình Diệm không đồng ý. Nhưng đây là bằng chứng lãnh đạo Trung Quốc
công nhận chính quyền Ngô Đình Diệm và âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam.
Trong Hội nghị Giơ-ne-vơ, Việt Nam đòi định giới
tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 13, tổ chức Tổng tuyển cử trong vòng 6
tháng để thống nhất nước nhà. Lúc đầu đoàn đại biểu Trung Quốc đề ra vĩ
tuyến 16 làm giới tuyến 2 miền Việt Nam. Sau đó lại nói: “Vĩ tuyến 16 khó có thể thỏa thuận”, ép Việt Nam nhân nhượng: “Có
những điều kiện không công bằng và hợp lý để Chính phủ Pháp có thể chấp
nhận được… không nên làm phức tạp, lôi thôi… kéo dài đàm phán để cho Mỹ
phá hoại”.
Trong tình thế Mỹ, Pháp Trung Quốc chung một lập trường, Trung Quốc ép buộc Việt Nam phải chấp nhận giải pháp: “Các
nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân
Lào và nhân dân Campuchia, ngừng bắn trên toàn chiến trường Đông Dương,
Pháp rút quân, vĩ tuyến 17 là vĩ tuyến quân sự tạm thời, chia Việt Nam
làm 2 miền, tiến tới tổng tuyển cứ tự do trong cả nước sau 2 năm để
thống nhất đất nước”.
Để ngăn cản ta tiếp tục chiến đấu, sau Hiệp định
Giơ-ne-vơ, tháng 7-1955, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình dọa: “dùng lực lượng vũ trang để thống nhất đất nước sẽ có 2 khả
năng: một là thắng, và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc”. Ngày
11-5-1956, ông Mao Trạch Đông nói với những đồng chí lãnh đạo ta: “tình
trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một
thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ… nếu 10 chưa được thì phải 100 năm”. Tháng 7-1957, Mao Trạch Đông lại nói: “Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có, phải giữ vĩ tuyến 17… thời gian có lẽ dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt”. Những người lãnh đạo Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh với Việt Nam là: “chỉ có thể dùng phương châm thích hợp là trường kỳ mai phục, tích trữ lực lượng, chờ đợi thời cơ”.
Rõ ràng là những người lãnh đạo Trung Quốc không muốn
cho Việt Nam thống nhất để mạnh lên, hãm Việt Nam trong tình trạng yếu
kém để dễ khống chế. Một nửa Việt Nam là khu đệm an toàn phía Nam cho
Trung Quốc yên ổn làm ăn là được.
IV. Nhân dân Việt Nam quyết tâm chống Mỹ để
thống nhất Tổ quốc, Trung Quốc giúp Việt Nam và dùng Việt Nam làm con
bài để làm ăn với Mỹ
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền Ngô Đình Diệm do
Mỹ dựng lên ra sức phá hoại Hiệp định, tìm mọi cách khước từ tổng tuyển
cử trên cả nước, tổ chức tố Cộng, bắt bớ giết hại những người cộng sản,
nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn ngăn cản nhân dân Việt Nam đẩy mạnh
vũ trang. Tháng 5-1960, hội đàm với phía Việt Nam họ nói như sau: “Không
nên nói đấu tranh chính trị hay đấu tranh vũ trang là chính… không phải
là cướp chính quyền ngay mà cuộc đấu tranh vẫn là trường kỳ, dù Diệm có
đổ cũng không thể thống nhất được…”. Mặc họ cản, bức xúc quá, nhân
dân miền Nam vẫn đồng khởi, phát triển chiến tranh du kích, miền Bắc
chi viện đồng bào ruột thịt của mình, không ai cản được.
Khi Mỹ đưa quân vào miền Nam, ném bom miền Bắc, lãnh đạo Trung Quốc buộc phải giúp Việt Nam đánh Mỹ.
Vì sao Trung Quốc giúp Việt Nam đánh Mỹ? Có 3 lý do:
Một là: đề
phòng phải gặp lại tình hình năm 1950, khi quân Bắc Triều bị quân Mỹ –
Hàn dồn sát đến sông Áp Lục, bom đã rơi vào đất Trung Quốc, Trung Quốc
đã phải đem 50 vạn quân “kháng Mỹ viện Triều”, tổn thất nặng nề mới lập
lại được vĩ tuyến 38 phân chia 2 miền Nam Bắc Triều Tiên…
Chính vì thế mà tháng 1-1965, qua nhà báo Mỹ Ét-ga-xnâu (Edgar Snow), Mao Trạch Đông nhắn Washington: “Quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau” và trong cuộc đàm phán Trung Mỹ cấp Đại sứ tại Vac-sa-va , phía Trung Quốc làm cho Mỹ hiểu rõ câu nói của Mao Trạch Đông: “Người không đụng đến ta thì ta không đụng đến người”. Nghĩa là mặc Mỹ đánh nhau ở miền Nam Việt Nam, Trung Quốc không muốn lại đánh nhau với Mỹ.
Hai là: Lãnh đạo Trung Quốc
bấy giờ đương muốn giương cao ngọn cờ lãnh đạo phong trào cộng sản thế
giới mà không giúp Việt Nam là nước đã thắng trận Điện Biên Phủ lẫy
lừng, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa trên thế giới, thì sẽ mất uy tín.
Ba là: cạnh tranh với Liên
Xô trong việc tranh thủ Việt Nam. Trong khi Liên Xô giúp Việt Nam xe
tăng, máy bay tên lửa, v.v. mà Trung Quốc không giúp thì sợ Việt Nam ngả
theo Liên Xô.
Năm 1963, Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình thông báo với lãnh đạo Việt Nam ý kiến của lãnh đạo Trung Quốc “sẽ viện trợ cho Việt Nam 1 tỷ nhân dân tệ nếu Việt Nam khước từ mọi viện trợ của Liên Xô”.
Sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 của chúng ta
vào gần khắp các thành phố ở miền Nam, cả vào Sứ quán Mỹ, Bộ tổng tham
mưu chính quyền miền Nam và Mỹ đều dao động, lộ rõ ý muốn chấm dứt ném
bom để ngồi vào đàm phán. Chúng ta chủ trương “vừa đánh vừa đàm” để kéo
Mỹ xuống thang, thì lãnh đạo Trung Quốc ngăn cản, họ cho rằng: “Lúc này Việt Nam chấp nhận đàm phán chưa phải là thời cơ và trên tư thế cao, đã nhân nhượng một cách vội vã”.
Ngày 9-10-1968, lãnh đạo Trung Quốc gặp Thứ trưởng
Ngoại thương Việt Nam ở Bắc Kinh yêu cầu báo cáo với lãnh đạo Việt Nam
rằng: “sự thỏa hiệp của Việt Nam với Mỹ là một thất bại lớn… nên để
cho Mỹ bắn phá trở lại khắp miền Bắc, để Mỹ phân tán mục tiêu oanh tạc,
chia sẻ bớt khó khăn cho miền Nam”. Viên tướng M. Taylo (Maxwell
Taylor) gọi là “quyết tâm của những người lãnh đạo Trung Quốc đánh Mỹ
đến người Việt Nam cuối cùng”.
Trong mấy năm liền cho đến 1972, lãnh đạo Trung Quốc
đề nghị giúp vận chuyển hàng phục vụ chiến trường từ miền Bắc đến miền
Nam Việt Nam, Lào, Campuchia trên con đường mòn Hồ Chí Minh, hứa cung
cấp đủ xe, người lái và khoảng 20 vạn quân để bảo đảm công việc này. Ý
đồ thâm hiểm của họ là nắm mạch máu chiến tranh của 3 nước Đông Dương để
điều khiển cuộc chiến tùy ý họ, để buôn bán với Mỹ và chuẩn bị bàn đạp
xuống Đông Nam Á. Tất nhiên lãnh đạo Việt Nam không thể chấp nhận.
Năm 1969, Nichxơn lên làm Tổng thống Mỹ, ông ta cảm
thấy bế tắc trong cuộc chiến tranh, muốn rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam
Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Ông ta nghĩ đến
con bài Bắc Kinh; Trung Quốc cũng nhìn thấy thế yếu của Mỹ trong chiến
tranh Việt Nam nên thời kỳ 1969-1973, Trung Quốc và Mỹ tăng cường tiếp
xúc bắt tay công khai với nhau, không chỉ bàn bạc các vấn đề tay đôi, mà
cả các vấn đề thuộc chủ quyền của Việt Nam và các nước Đông Dương.
Tháng 7 và tháng 10 năm 1971, Kitxingiơ (H.
Kissinger) đặc phái viên của Nichxơn sang Bắc Kinh và ít lâu sau Nichxơn
đích thân sang thăm Trung Quốc. Họ thỏa thuận với nhau các vấn đề trên
lưng nhân dân Việt Nam.
Ngày 1-3-1972, Kitxingiơ nói với các nhà báo rằng:
“Từ nay Tổng thống và tôi chỉ còn việc nhìn về Mascơva mà nghiền nát
Việt Nam”.
Khi Trung Quốc thông báo cho ta: trong chuyến thăm
Bắc Kinh của Nichxơn hai bên sẽ bàn cả vấn đề Việt Nam, lãnh đạo của
chúng ta thẳng thắn nói: “Việt Nam là của chúng tôi, các đồng chí không
được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam, các đồng chí đã nhận sai lầm năm
1954, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa”.
Cuối cùng bất chấp chiến dịch B52 ác liệt, bất chấp
mọi mưu ma chước quỷ của những người lãnh đạo Bắc Kinh, Việt Nam anh
dũng kiên cường, độc lập tự chủ vẫn thực hiện được lời dạy của Bác Hồ
kính yêu: “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thống nhất Tổ quốc.
Sau khi bình thường hóa quan hệ trở lại năm 1990,
những người Trung Quốc giương chiêu bài đạo đức giả, lừa phỉnh “16 chữ
và 4 tốt” nhưng rất hung hăng leo thang gây hấn ở biển Đông, cắt cáp 2
tàu khảo sát của chúng ta, liên tiếp bắn giết ngư dân ta, bắt tàu cá của
ta để đòi tiền chuộc, luôn to mồm tuyên bố một cách vô lý chủ quyền gần
hết biển Đông và các quần đảo của Việt Nam và các nước Đông Nam Á,
nhiều lần dọa đánh Việt Nam và Philippines… những việc này đang làm nóng
dư luận quốc tế và sục sôi tâm huyết của toàn dân Việt Nam trong thời
gian gần đây thì mọi người đều đã biết rõ.
Chú thích:
Một số trích dẫn lời lãnh đạo Trung Quốc là từ các nguồn sau:
(1) Từ những sách báo của nhà báo thân Trung Quốc Edgar Snow.
(2) Từ hồi ký của Kitsinger , cựu ngoại trưởng Mỹ.
(3) Từ những cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo Trung Quốc và lãnh đạo Việt Nam.
N.T.V.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Ngậm đắng nuốt cay bồ hòn
Nguyễn Duy Vinh – Boxitvn
TS Cơ khí Động học đã về hưu, đang dạy học ở Phi Châu
Tôi
chưa bao giờ ngậm trái bồ hòn. Chỉ biết là quả bồ hòn rất đắng và trong
cuộc sống có nhiều lúc chúng ta cũng gặp phải những hoàn cảnh khó khăn,
đôi khi nghiệt ngã đắng cay, ví như mình đang ngậm phải quả bồ hòn.
Thường thì chúng ta không chịu ngậm suông vì vị đắng cay của bồ hòn có
thể giúp chúng ta giữ được lòng kiên nhẫn và sức phấn đấu với hy vọng
thay đổi tình huống, hy vọng một ngày mai tươi sáng hơn. Giống như Câu
Tiễn nếm mật đắng mỗi ngày để nhớ việc mất nước và luôn nghĩ đến ngày
đuổi được quân thù dành lại độc lập cho quê hương. Tính kiên trì đó được
coi như một sức mạnh của con người, trong đó tinh thần bất khuất, nhẫn
nhục, biết chịu đựng những cay đắng tủi hờn và lòng trung kiên quyết
chiến đấu để thay đổi tình thế là những đức tính cao cả của người Việt
Nam.
Việc Trung Quốc (TQ) tiếp tục xâm lấn các đảo Hoàng
Sa và Trường Sa từ năm 1974 và việc xảy ra ngày hôm qua về tin nóng TQ
thành lập chính thức và cắt băng khánh thành thành phố Tam Sa trên quần
đảo Hoàng Sa là những hành động ngang ngược, những cái tát tai làm người
dân Việt Nam khắp nơi đau lòng. Dù anh có theo lề phải, lề tự do hay
lề… thờ ơ, dù anh là đảng viên ĐCSVN hay là Việt kiều hải ngoại thề
không đội trời chung với cộng sản VN, đã là một người Việt bình thường,
anh không thể không đau lòng trước những tin tức như thế.
Một câu hỏi sáng nay lẩn quẩn trong đầu tôi, và cũng
là câu hỏi mà các bạn trong nước vẫn tự hỏi: “chúng ta làm được gì trong
lúc này, Trung Quốc mạnh quá”.
Trung Quốc mạnh thật. TQ có quân đội hùng mạnh và là
một quốc gia với một nền kinh tế đang lên vùn vụt. Việc TQ bành trướng
và có âm mưu chiếm đất chiếm đảo bằng sức mạnh quân đội của mình đã có
từ cái thời Hán tộc nắm chủ quyền ở Trung Hoa. Khi Mao lên cầm quyền,
manh tâm thôn tính này một lần nữa đã được ấp ủ, hun đúc và thực thi khi
cái nghị quyết 1958 về chủ quyền biển đảo của TQ ra đời. Trước đó, năm
1956 Mao cũng đã xua quân sang chiếm nước Tây Tạng (Tibet).
Việc ủng hộ nghị quyết 1958 của TQ với công hàm của
Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng ký ngày 14 tháng 09 năm 1958 không còn
là điều bí mật nữa, bây giờ ai cũng biết. Chuyện này lịch sử sẽ tiếp tục
phán xét. Những nhà lãnh đạo VN dưới lá cờ Việt Minh ăn phải xương gà
và bị hóc. Ngày nay nhà cầm quyền Việt Nam mặt đỏ tía tai, đang rụt rè,
bối rối, tìm cách chạy chữa để rút cái xương gà ấy ra khỏi cổ.
Không cần phải nói nhiều, đứa con nít VN cũng biết là
các vị đang bị kẹt. Và cả nước phải ngậm đắng nuốt cay bồ hòn. Bồ hòn
của chính những quyết định sai lầm của ĐCSVN trong quá khứ, giờ đây lại
thêm một vài quả bồ hòn nữa trong việc cấm cản và đàn áp những người
biểu tình chống TQ trong nước. Tuy nhiên quả bồ hòn cay đắng nhất vẫn là
việc TQ tung hoành xâm lấn ngang ngược các đảo ngoài khơi biển Đông.
Nói mãi cũng không hết. Mà tình trạng mất đảo mất đất ngày càng khẩn trương.
Chúng ta làm được gì trong lúc này?
1. Phải củng cố đại đoàn kết dân tộc:
điều này đòi hỏi một tấm lòng thành thật từ nhà cầm quyền, từ người dân
trong nước, và từ tất cả những kiều bào đã bỏ nước ra đi.
Làm thế nào để chữa lành những vết thương quá khứ gây
ra bởi chiến tranh Nam Bắc để đi đến hòa hợp hòa giải thật sự? Việc làm
này phải bắt đầu từ người dân và nhà cầm quyền trong nước. Hay là việc
này có thể đã quá trễ và sẽ không bao giờ xảy ra vì tư duy quá khác biệt
giữa những người CS và những người không CS. Hay là chúng ta vẫn còn có
thể cùng bảo nhau tìm cách xây dựng một nền dân chủ thực sự cho VN để
nước VN được gia nhập và là bạn đồng hành với trào lưu văn minh thế
giới? Bạn tôi trong nước sẽ nói: Không được đâu, lấy Điều 4 của Hiến
Pháp VN đi là điều không tưởng trong lúc này. Chết cả lũ. OK friends,
let be it. Các bạn cứ tiếp tục định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế
thị trường. Người cày có ruộng. Đã có Đảng và nhà nước lo… Chúng ta
không còn một sự lựa chọn nào khác chứ gì? Tôi hiểu. Quả bồ hòn này quả
là đắng dã man, không biết chúng ta còn ngậm được đến bao lâu nữa. Theo
tôi, đi theo đường hướng XHCN này mới chính là tự sát. Dân tộc phải quan
trọng hơn chứ! Chỉ cần nhìn cách hành xử bạo ngược của TQ hiện nay, đứa
con nít cũng hiểu được là định hướng thế giới cộng sản đại đồng với 16
chữ vàng và 4 tốt chỉ là những bánh vẽ to tướng.
2. Phải chú trọng đến an sinh của người dân:
thực thi pháp luật nghiêm minh hơn để đưa công lý đến khắp nẻo đường
Việt Nam. Giải quyết thực tâm những bất công xã hội, nhất là những vụ
khiếu kiện đất đai. Tìm mọi cách giúp người dân cải thiện và nâng cao
đời sống.
3. Phải củng cố quân lực VN: nhà cầm
quyền phải nhanh chóng củng cố bộ binh, hải quân và không quân. Chuẩn
bị nghĩa vụ quân dịch cho tất cả thanh niên từ 18 đến 25 tuổi (phải đi
quân trường học quân sự tối thiểu một năm). Củng cố võ lực bằng cách mua
thêm vũ khí tối tân của Mỹ và của các nước khác như Nga và Do Thái hoặc
những nước sẵn sàng bán súng đạn cho VN.
4. Phải phản ứng mạnh mẽ hơn trước những hành động xâm lược của TQ:
triệu đại sứ TQ ở Hà Nội để bày tỏ sự quyết tâm phản đối của dân tộc
VN, chấm dứt tất cả những dự án có người TQ dự phần ở VN và yêu cầu tất
cả những người TQ này rời VN trong vòng một tháng (hoặc 48 tiếng đồng hồ
dưới dạng persona non grata nếu muốn làm dữ hơn), cho phép dân chúng
thể hiện lòng yêu nước của mình với những cuộc biểu tình chống TQ trên
các đường phố thủ đô và các tỉnh lớn trong nước, tiếp tục đệ trình kháng
thư cho Liên Hiệp Quốc… Và cũng đồng thời tiếp tục mở rộng cửa trân
trọng mời TQ đàm phán nghiêm chỉnh về chủ quyền các đảo Hoàng Sa, Trường
Sa.
Theo tôi đường đi hay nhất là đường đi trong đó dân
thực sự làm chủ. Trong đường đi đó có pháp luật rất nghiêm minh để thực
thi công lý. Trong đường đi đó có nhà nước lo an sinh cho dân nhiều hơn
là lo làm giàu cho chính mình. Trong đường đi đó có người dân không còn
nơm nớp lo sợ, không còn bị đe dọa đàn áp. Trong đường đi có đó tất cả
người Việt Nam chung lòng xây đắp quê hương. Tưởng tượng 3 triệu người
VN ở hải ngoại ùn ùn kéo nhau về nước, trong đó có hơn 300000 chuyên gia
các ngành nha y dược và kỹ nghệ nông công thương. Một sự đoàn kết như
thế sẽ có đầy đủ khả năng đối đầu với tất cả những giông bão từ phương
Bắc. Và việc ngậm đắng nuốt cay bồ hòn mới đem đến sự thành công huy
hoàng cho một tương lai Việt Nam sáng lạn hơn.
N.D.V.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Phó Chủ tịch Chính Hiệp Trung Quốc Tôn Gia Chính tiếp Đoàn đại biểu Thanh niên Việt Nam
Hình Danlambao
Hình Danlambao
2012-07-27 11:27:33 Xin Hua – CRI
Theo Tân Hoa xã: Ngày 26/7, tại Đại Lễ đường
Nhân dân ở Bắc Kinh, Phó Chủ tịch Chính Hiệp Trung Quốc Tôn Gia
Chính đã tiếp Đoàn đại biểu Thanh niên Việt Nam do đồng chí
Nguyễn Mạnh Dũng, Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh Việt Nam làm Trưởng đoàn.Phó
Chủ tịch Tôn Gia Chính cho biết, tình hữu nghị Trung-Việt là
tài sản vô giá của hai nước và nhân dân hai nước, là kết quả
nỗ lực chung của nhiều thế hệ hai nước, rất đáng trân
trọng. Trong khi kế thừa truyền thống tốt đẹp, thế hệ trẻ hai
nước Trung-Việt càng cần phải hướng về tương lai, nhìn ra thế
giới, tích cực gánh vác trọng trách phát triển và tiến bộ
xã hội của dân tộc, nỗ lực tôn vinh láng giềng hữu nghị
Trung-Việt, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện phát triển lành mạnh và ổn định.
Đoàn đại biểu Thanh niên Việt Nam đến Trung Quốc tham dự hoạt
động “Giao lưu Hữu nghị thanh niên Trung-Việt” lần thứ 13. Hoạt
động này là dự án giao lưu thanh niên thực hiện Sáng kiến của
Lãnh đạo Đảng hai nước Trung-Việt, do tổ chức Đoàn Thanh niên
hai nước cùng tổ chức thực hiện, dự án đã góp phần tích cực
cho tăng cường hiểu biết và hữu nghị giữa thanh niên hai nước,
thúc đẩy phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác hai nước.
http://vietnamese.cri.cn/421/2012/07/27/1s175822.htm
http://vietnamese.cri.cn/421/2012/07/27/1s175822.htm
Nga thương lượng mở lại căn cứ quân sự ở Việt Nam và Cuba
Vịnh Cam Ranh từng là nơi Nga đóng căn cứ Hải Quân (1979-2001). Ảnh
chụp trong chuyến thăm vịnh của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta
ngày 3/6/ 2012. -REUTERS/Jim Watson/Pool=========>>>
Trả lời hãng tin Nga về tình hình các cuộc thương lượng từ nhiều năm
qua đã đi đến đâu, Phó đô đốc Viktor Tchirkov, Tổng tham mưu trưởng Hải
quân Nga khẳng định : « Chúng tôi tiếp tục hành động để lực lượng
hải quân Nga có thể đóng quân ở ngoài biên giới Liên bang Nga. Trong
khuôn khổ kế hoạch mang tính quốc tế này, chúng tôi đang nghiên cứu vấn
đề thành lập các căn cứ hỗ trợ hậu cần và kỹ thuật tại Cuba, quần đảo
Seychelles và tại Việt Nam ».
Cuộc phỏng vấn trên đây được đăng tải trong bối cảnh sắp diễn ra cuộc hội đàm giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tại Sotchi, Hắc Hải trong ngày hôm nay.
Trước khi bước vào cuộc họp, Chủ tịch Trương Tấn Sang khi trả lời đài phát thanh Tiếng nói nước Nga đã tuyên bố : « Việt Nam đã từng có quan hệ hợp tác và đối tác chiến lược chặt chẽ với Nga trong một thời gian dài, và quan hệ đối tác này sẽ tiếp tục được triển khai ».
Ông Trương Tấn Sang nói thêm : « Đó là lý do vì sao chúng tôi ưu tiên cho Nga thuê căn cứ Cam Ranh, đặc biệt là trong mục đích hợp tác quân sự. Sau khi Nga chấm dứt sự hiện diện quân sự tại đây, Việt Nam đã quản lý toàn bộ cảng Cam Ranh và không hề có ý định hợp tác với quốc gia nào khác theo hướng sử dụng cảng Cam Ranh vào mục đích quân sự ». Chủ tịch Việt Nam nhấn mạnh : « Việt Nam có toàn quyền quyết định trên lãnh thổ của mình, và Cam Ranh là một cảng của Việt Nam ».
Cảng Cam Ranh nằm tại vịnh Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa của Việt Nam, là cảng nước sâu lý tưởng nhất Đông Nam Á, có vị trí chiến lược quan trọng. Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đến năm 1979 cảng Cam Ranh đã được Hà Nội cho cho Matxcơva thuê với thời hạn 25 năm và trở thành căn cứ hải quân ở nước ngoài lớn nhất của Liên Xô thời đó.
Hồi năm 2001, lúc đó ông Vladimir Putin đã là Tổng thống Nga, đã loan báo việc chấm dứt hợp đồng, rời khỏi căn cứ hải quân Cam Ranh. Nga cũng rút khỏi Cuba, nơi có một trạm nghe trộm đặt ở Lourdes từ thời Liên Xô. Vào thời đó, Matxcơva giải thích các quyết định trên đây là do bàn cờ chính trị thế giới thay đổi, và sự cần thiết phải tập trung các nỗ lực để đối phó với mối đe dọa khủng bố.
Ngoài cảng Sébastopol tại Crimée ở miền nam Ukraina, nơi đặt căn cứ của hạm đội Hắc Hải, Nga chỉ giữ lại một « điểm tiếp liệu và hỗ trợ kỹ thuật » tại cảng Tartous thuộc Syria, được Hải quân Nga sử dụng từ thập niên 70.
Cuộc phỏng vấn trên đây được đăng tải trong bối cảnh sắp diễn ra cuộc hội đàm giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tại Sotchi, Hắc Hải trong ngày hôm nay.
Trước khi bước vào cuộc họp, Chủ tịch Trương Tấn Sang khi trả lời đài phát thanh Tiếng nói nước Nga đã tuyên bố : « Việt Nam đã từng có quan hệ hợp tác và đối tác chiến lược chặt chẽ với Nga trong một thời gian dài, và quan hệ đối tác này sẽ tiếp tục được triển khai ».
Ông Trương Tấn Sang nói thêm : « Đó là lý do vì sao chúng tôi ưu tiên cho Nga thuê căn cứ Cam Ranh, đặc biệt là trong mục đích hợp tác quân sự. Sau khi Nga chấm dứt sự hiện diện quân sự tại đây, Việt Nam đã quản lý toàn bộ cảng Cam Ranh và không hề có ý định hợp tác với quốc gia nào khác theo hướng sử dụng cảng Cam Ranh vào mục đích quân sự ». Chủ tịch Việt Nam nhấn mạnh : « Việt Nam có toàn quyền quyết định trên lãnh thổ của mình, và Cam Ranh là một cảng của Việt Nam ».
Cảng Cam Ranh nằm tại vịnh Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa của Việt Nam, là cảng nước sâu lý tưởng nhất Đông Nam Á, có vị trí chiến lược quan trọng. Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đến năm 1979 cảng Cam Ranh đã được Hà Nội cho cho Matxcơva thuê với thời hạn 25 năm và trở thành căn cứ hải quân ở nước ngoài lớn nhất của Liên Xô thời đó.
Hồi năm 2001, lúc đó ông Vladimir Putin đã là Tổng thống Nga, đã loan báo việc chấm dứt hợp đồng, rời khỏi căn cứ hải quân Cam Ranh. Nga cũng rút khỏi Cuba, nơi có một trạm nghe trộm đặt ở Lourdes từ thời Liên Xô. Vào thời đó, Matxcơva giải thích các quyết định trên đây là do bàn cờ chính trị thế giới thay đổi, và sự cần thiết phải tập trung các nỗ lực để đối phó với mối đe dọa khủng bố.
Ngoài cảng Sébastopol tại Crimée ở miền nam Ukraina, nơi đặt căn cứ của hạm đội Hắc Hải, Nga chỉ giữ lại một « điểm tiếp liệu và hỗ trợ kỹ thuật » tại cảng Tartous thuộc Syria, được Hải quân Nga sử dụng từ thập niên 70.
Trung Quốc chỉ định các cấp chỉ huy quân sự «thành phố Tam Sa»
Theo tờ China Daily, phát ngôn viên bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ
Quân đã thông báo là ông Thái Hỷ Hồng, đại tá, làm tư lệnh thành phố
Tam Sa, ông Liêu Triều Nghị, đại tá, làm chính ủy.
Đại diện bộ Quốc phòng Trung Quốc nói rằng các nhiệm vụ chính của cơ quan quân sự Tam Sa là huy động lực lượng quốc phòng, bảo vệ thành phố Tam Sa, hỗ trợ phòng chống thảm họa thiên tai. Mặt khác, các hoạt động quốc phòng trên biển vẫn do hải quân Trung Quốc phụ trách, điều này hàm ý là bộ chỉ huy quân sự ở Tam Sa không có chức năng này.
Đầu tuần này, Việt Nam và Philipines đã lên án việc thành lập « thành phố Tam Sa ». Chính quyền Mỹ cũng bầy tỏ lo ngại về hành động này của Trung Quốc. Tuy nhiên, Bắc Kinh nói rằng Trung Quốc thành lập đơn vị hành chính mới trên lãnh thổ của mình, và điều này không liên quan gì đến Việt Nam, Philippines, Hoa Kỳ.
Xin nhắc lại là Trung Quốc vẫn tuyên bố có chủ quyền đối với gần như toàn bộ diện tích Biển Đông, bao gồm cả vùng quần đảo Hoàng Sa, nơi đang có tranh chấp với Việt Nam và vùng quần đảo Trường Sa, nơi có tranh chấp với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.
Một số chuyên gia nhận định là rút kinh nghiệm từ các tranh chấp trên biển trong quá khứ, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường sự kiểm soát về chính trị và quân sự trong khu vực « thành phố Tam Sa ».
Đại diện bộ Quốc phòng Trung Quốc nói rằng các nhiệm vụ chính của cơ quan quân sự Tam Sa là huy động lực lượng quốc phòng, bảo vệ thành phố Tam Sa, hỗ trợ phòng chống thảm họa thiên tai. Mặt khác, các hoạt động quốc phòng trên biển vẫn do hải quân Trung Quốc phụ trách, điều này hàm ý là bộ chỉ huy quân sự ở Tam Sa không có chức năng này.
Đầu tuần này, Việt Nam và Philipines đã lên án việc thành lập « thành phố Tam Sa ». Chính quyền Mỹ cũng bầy tỏ lo ngại về hành động này của Trung Quốc. Tuy nhiên, Bắc Kinh nói rằng Trung Quốc thành lập đơn vị hành chính mới trên lãnh thổ của mình, và điều này không liên quan gì đến Việt Nam, Philippines, Hoa Kỳ.
Xin nhắc lại là Trung Quốc vẫn tuyên bố có chủ quyền đối với gần như toàn bộ diện tích Biển Đông, bao gồm cả vùng quần đảo Hoàng Sa, nơi đang có tranh chấp với Việt Nam và vùng quần đảo Trường Sa, nơi có tranh chấp với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.
Một số chuyên gia nhận định là rút kinh nghiệm từ các tranh chấp trên biển trong quá khứ, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường sự kiểm soát về chính trị và quân sự trong khu vực « thành phố Tam Sa ».
Kỷ niệm 65 năm ngày thương binh liệt sỹ thật đau lòng!
Hoàng Việt (Danlambao) - Đất
nước đã chấm dứt chiến tranh 37 năm bao người con của nước Việt đã ngã
xuống mục đích cuối cùng cũng là sự thống nhất đất nước và hòa hợp dân
tộc.
Trong cuộc chiến rồi cũng phải có bên thắng bên thua nhưng xét cho
cùng một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn cũng là một nỗi đau cho một
giai đoạn lịch sử dân tộc, mà nỗi đau mất mát lớn nhất là nhân dân chứ
không phải kẻ thù hay bên nào cả. Nguyên nhân sâu xa ngẫm ra nguồn gốc
cũng là do những kẻ cầm quyền, sự mù quáng từ ý thức hệ, cho đến khát
vọng quyền lực đã đẩy nhân dân vào chỗ chết của vòng lửa đạn hận thù.
Mấy chục năm qua đi đáng lẽ nỗi đau của chia cắt, của hận thù trong
lòng dân tộc phải được hàn gắn, tình thương phải được vun đắp để con
trong một nhà không còn phải xót xa trong cảnh kẻ thắng người thua như
kẻ thù, con người phải yêu thương đùm bọc lẫn nhau cùng sát cánh bên
nhau để xây dựng một đất nước giàu mạnh hùng cường.
Nhưng trớ trêu thay lễ kỷ niệm 65 năm ngày thương binh liệt sỹ
27/7/2012 được truyền hình trực tiếp trên VTV1 đã làm tan nát bao con
tim của người dân Việt.
Hình ảnh và lời bình tố cáo sự tàn bạo của chế độ “Mỹ, và Ngụy
quân, ngụy quyền” tra tấn các tù binh Bắc Việt tại nhà tù Phú Quốc được
nhắc đi nhắc lại như một mối thù không bao giờ được quên cho các thế hệ
mai sau đã như muối xát vào lòng những người có lương tri của bao thế hệ
đã cố gắng quên đi trong cuộc sống đầy đọa của chế độ CS cầm quyền.
Trong khi đó tại đầu cầu Hà Nội, ở nghĩa trang Mai Dịch bốn nữ
tướng Nguyễn Thị Kim Ngân, Doãn Thanh, Hải Truyền, Thị Hòa đại diện cho
đảng, nhà nước nhân dân thắp hương cho các liệt sỹ anh hùng, mà ai cũng
biết nghĩa trang Mai Dịch chôn những ai. Có lẽ nào Lê Duẩn, Phạm Văn
Đồng… và các vị chóp bu của đảng, nhà nước CSVN được chôn tại đây là các
liệt sỹ, anh hùng khi không có vị nào ngã xuống trong khói lửa chiến
tranh và ai phong cho họ là anh hùng liệt sỹ. Thật lố bịch cho các cuộc
tri ân như vậy. Sự tri ân này chỉ có ý nghĩa của những kẻ còn sống đối
với kẻ đã chết từng nâng đỡ, sát cánh ăn nằm với nhau trong các quan hệ
cá nhân của quá khứ thối nát, cùng hội cùng thuyền không thể là tri ân
của nhân dân với anh hùng liệt sỹ nào cả.
Việc nhắc đi nhắc lại tội ác của “ngụy quân, ngụy quyền” có phải
như nhắc nhở các thế hệ mai sau là Mỹ, và chế độ VNCH như là những kẻ
thù đáng sợ nhất tàn ác nhất mà không bao giờ có thể thỏa hiệp, làm bạn,
và tha thứ. Chỉ có những người CS mới là những kẻ chân chính, là người
Việt đàng hoàng còn tất cả những người dân chiến tuyến bên kia không bao
giờ còn tồn tại trong lòng dân tộc.
Trong khi Trung quốc đang xâm chiếm từng phần đất nước, việc khơi
dậy quá khứ đau thương trong lòng dân tộc cũng hiểu như một sự khước từ
liên minh với Mỹ vì tội ác của Mỹ ngụy không bao giờ được quên cả. Thà
rằng làm nô lệ cho Tầu cộng còn hơn là tay sai cho Mỹ có thể hiểu như
vậy. Vì Trung Quốc vẫn là bạn tốt, đồng chí tốt, láng giềng tốt, đối tác
tốt. Có phải ban lãnh đạo CSVN đang truyền đi thông điệp này đến toàn
dân không, đừng nghi ngờ gì nữa đó chính là thông điệp của họ.
Căn cứ mới của Trung Quốc gây thêm căng thẳng ở Biển Đông
Thành phố và khu cảnh bị mới nhất của Trung Quốc được thiết lập trên một hòn đảo mà Việt Nam và Đài Loan cũng tuyên bố có chủ quyền.
Ông Tiêu Kiệt, thị trưởng đầu tiên của thành phố mới Tam Sa phát biểu như sau về diễn tiến này.
“Thiết lập Thành phố Tam sa là một quyết định sáng suốt của Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên và sự phát triển toàn diện ở biển Nam Hải.”
Bắc Kinh dự định dùng căn cứ ở Tam Sa để tăng cường những hoạt động tuần tiểu trong vùng biển mà Việt Nam và Philippines tuyên bố đòi chủ quyền.
Việt Nam đã mạnh mẽ chỉ trích hành động của Trung Quốc và Philippines cũng chính thức lên tiếng không thừa nhận việc thành lập Thành phố Tam Sa.
Dân biểu Walden Bello, thành viên Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Philippines, nhận định như sau về việc này.
“Đây là một hành động phát xuất từ một mưu đồ của Trung Quốc để giành giật đất đai và việc thành lập thành phố này là một hành động bất hợp pháp.”
Các nhà phân tích cho rằng việc thành lập Thành phố Tam Sa phản ánh thái độ tự tin của Trung Quốc trong vụ tranh chấp Biển Đông.
Ông Justin Logan, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu chính sách ngoại giao của Viện Cato ở Washington, nói rằng thái độ tự tin đó có thể là thiếu cơ sở. Ông nói thêm như sau:
“Tôi nghĩ rằng có một mối nguy hiểm của việc tính toán sai lầm, như việc Trung Quốc hành động một cách liều lĩnh – vượt quá khả năng của mình, và việc một bên nào đó vô tình vượt qua lằn ranh giới hạn của những bên còn lại.”
Các nhà quan sát cũng cho biết Trung Quốc đang đối phó với sự phản kháng của Việt Nam và Philippines bằng cách lợi dụng Campuchia để tạo chia rẽ trong khối ASEAN, là một tổ chức khu vực trong đó có 4 nước hội viên có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông.
Ông Justin Logan của Viện Cato cho rằng khi thiết lập khu cảnh bị Tam Sa, Trung Quốc có lẽ đã đi quá đà vì họ khó lòng biện minh cho sự hiện diện của binh lính ở đó. Ông nói:
“Có một số nước, rõ ràng nhất là Campuchia, và những nước khác trong khu vực và trong khối ASEAN, vì nhiều lý do khác nhau mà sẵn lòng ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Tôi nghĩ rằng việc thiết lập khu cảnh bị Tam Sa có thể tạo thêm áp lực cho những nước này, khiến họ phải nói với Trung Quốc rằng: Chúng tôi không thể ủng hộ các ông trong việc này. Có lẽ chúng tôi sẽ đứng ngoài hoặc sẽ không đưa ra phát biểu nào đối với vấn đề này.”
Hôm thứ Ba vừa qua, khi được hỏi về việc Trung Quốc thành lập Thành phố Tam Sa, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland đã tái khẳng định lập trường của Washington là không thể sử dụng vũ lực để giải quyết vụ tranh chấp Biển Đông. Phát ngôn viên Nuland nói:
“Chúng tôi tiếp tục lo ngại về những hành động đơn phương như vậy, những hành động dường như sẽ tác động một cách thiếu thỏa đáng đối với một vấn đề mà chúng tôi nhiều lần tuyên bố là chỉ có thể được giải quyết thông qua thương thuyết, thông qua đối thoại và thông qua một tiến trình ngoại giao có tính chất hợp tác giữa tất cả các bên đòi hỏi chủ quyền.
Tuy Hoa Kỳ không có đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông, chính phủ của Tổng thống Obama nói rằng không nước nào trên thế giới không cảm thấy lo âu vì sự gia tăng của những mối căng thẳng và những cuộc khẩu chiến kịch liệt trong vụ tranh chấp ở vùng biển này.
Việt Nam sẵn sàng cho Nga mở lại căn cứ hải quân ở Cam Ranh
27.07.2012 – VOA
Chủ tịch nước Việt Nam, Trương Tấn Sang, ngày 27/7 tuyên bố Việt Nam
sẽ cho phép Nga thành lập một căn cứ bảo trì tàu bè tại cảng Cam Ranh.Phát biểu với đài phát thanh Tiếng nói nước Nga trước khi hội đàm với Tổng thống Vladimir Putin, ông Trương Tấn Sang nhấn mạnh rằng điều này không có nghĩa là cảng Cam Ranh sẽ trở thành một căn cứ quân sự của Nga, nhưng sẽ được dùng để phát triển hợp tác quân sự giữa hai nước cựu đồng minh trong thời chiến tranh lạnh.
Ông Sang nói hai nước Việt-Nga có quan hệ hợp tác đối tác chiến lược trong một thời gian dài, và vì thế Nga sẽ có các thuận lợi chiến lược ở Cam Ranh, bao gồm những thuận lợi trong việc phát huy hợp tác quân sự.
Vẫn theo lời Chủ tịch nước Việt Nam, Hà Nội đang có kế hoạch phát huy khả năng cung cấp dịch vụ bảo trì cho bất kỳ tàu nước ngoài nào neo đậu tại Cam Ranh, từng là nơi Nga đóng căn cứ hải quân từ 1979 tới 2001.
Ngày 27/7, Tư lệnh Hải quân Nga, Phó Đô đốc Viktor Chirkov, xác nhận Nga đang thương lượng để mở các căn cứ hải quân ở Việt Nam, Cuba, và Seychelles.
Ông Chirkov cho hãng thông tấn Ria Novosti của Nga biết nỗ lực này nhằm mục đích triển khai lực lượng hải quân Nga bên ngoài lãnh thổ Liên Bang Nga.
Vẫn theo lời Tư lệnh Hải quân Chirkov, Nga đang thảo luận các vấn đề liên quan tới việc thành lập những cơ sở cung ứng, bảo trì tàu bè tại Việt Nam, Cuba, và Seychelles.
Hải quân Nga nhìn thấy nhu cầu cấp thiết cần có các căn cứ ở nước ngoài từ sau năm 2008, khi các tàu chiến của Nga gia nhập các nỗ lực chống hải tặc quốc tế ở Vịnh Aden.
Cảng Cam Ranh trên Vịnh Cam Ranh ở tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam, là cảng nước sâu có vị trí chiến lược quan trọng.
Sử dụng đòn gì để chống lại Trung Quốc?
Thanh Thủy
Trước hàng loạt hành động khiêu khích đầy mưu mô, xảo quyệt của Trung Quốc trong những ngày qua trên Hoàng Sa và Trường Sa, người dân Việt Nam ai cũng sốt ruột sôi sục ý chí đuổi kẻ xâm lược về nước. Có người bày tỏ ý kiến phải đánh Trung Quốc, có người trông chờ sự can thiệp của quốc tế, có người tạo áp lực để nhà nước ta có hành động thiết thực, có người ủng hộ quan điểm giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình…Thế nhưng, Việt Nam sẽ sử dụng chiến lược nào để Trung Quốc mãi mãi từ bỏ hành vi xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của đất nước Việt Nam?
Trên thực tế, luật pháp quốc tế công nhận 2 đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của đất nước Việt Nam và chính bản đồ của Trung Quốc cũng công nhận đều đó. Vậy tại sao Trung Quốc vẫn ngoan cố khiêu khích, lâm le ồ ạt thực hiện vũ lực trên đảo Hoàng Sa và Trường Sa?
Những ngày qua, dễ nhìn thấy Việt Nam chiến đấu với Trung Quốc trên bàn đàm phán, sử dụng luật quốc tế để bày tỏ sự xâm phạm phi pháp, ngang ngược của láng giềng hiếu chiến. Tại sao Việt Nam không chiến đấu trực diện với Trung Quốc bằng vũ lực? Vì nếu sử dụng vũ lực thì Việt Nam không khác nào lấy trứng chọi đá. Việt Nam có nhiều thứ để mất hơn Trung Quốc, thế yếu hơn Trung Quốc, và tiềm lực quân sự, nhất là không quân và hải quân có thể tác chiến trên biển kém xa.
Lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu chống mạnh
Việt Nam đang tránh chiến tranh chứ không phải sợ chết, sợ đánh. Việt Nam luôn trong tư thế cầm thủ và sẵn sàng ra đòn bất cứ lúc nào nhưng phải đúng lúc, đúng huyệt. Việc Trung Quốc tạo áp lực với Việt Nam, tung tin thất thiệt cũng là tự tạo áp lực cho mình, lộ rõ bộ mặt xấu với bạn bè thế giới đặc biệt là học giả Trung Quốc đang bày tỏ sự không ủng hộ chính quyền Trung Quốc đi xâm lược phi nghĩa Việt Nam.
Có thể nói, Việt Nam kiên quyết giải quyết các vấn đề bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Không hung hăng, nhưng Việt Nam dùng lý lẽ, thời thế từng bước buộc Trung Quốc ngồi vào bàn đàm phán song phương và đa phương.
Chiêu Việt Nam sử dụng “đánh nhưng không đánh, không đánh mà lại đánh”. Hiện tại Việt Nam không sử dụng đòn đánh trực diện với Trung Quốc nhưng dần làm cho Trung Quốc “còi cọc” các kế hoạch xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Và việc Trung Quốc phải chịu ngồi vào bàn đàm phán để giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế là chuyện sớm muộn, nếu như Trung Quốc không muốn cả thế giới cô lập và từ chối mọi sự hợp tác, phát triển. Đòn đánh của Việt Nam là sử dụng sức mạnh của cộng đồng quốc tế, luật pháp quốc tế trong giải quyết tranh chấp.
Chiến thắng Ngọc Hồi là sự thể hiện sức mạnh tổng hợp của Việt nam
Về mặt quân sự thì chiêu của Việt Nam là đưa địch đến chỗ yếu, lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu chống mạnh, nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, từng bước làm thay đổi cục diện, trong điều kiện Việt Nam yếu hơn đối thủ.
Sức mạnh của Việt nam là sức mạnh tổng hợp, không đơn thuần là sự so sánh tương quan lực lượng. Bài học của cha ông ta với các chiến công hiển hách: Triều Lý: 10 vạn quân thắng 30 vạn quân Tống, Triều Lý đã thực hiện “Tiên phát chế nhân”; Triều Trần: 15 vạn thắng 60 vạn Nguyên Mông với chiêu “Lấy đoản binh, chế trường trận”; Triều Lê: 10 vạn thắng 80 vạn quân Minh với chiêu “Vây thành, diệt viện”; Quang Trung: 10 vạn thắng 29 vạn quân Thanh với chiêu “đánh bất ngờ”.
Việt Nam đã và đang hiện đại hóa lực lượng Hải quân, Không quân để có thể tung “cú đánh” đúng lúc, đúng huyệt
Việt Nam không cần diễu võ dương oai sức mạnh quân sự, mà âm thầm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trên Biển, kiên cố hóa các đảo, hiện đại hóa lực lượng Hải quân, Không quân, chăm lo cho đời sống nhân dân trên các đảo, củng cố chứng cứ lịch sử vững chắc… để có thể tung “cú đánh” đúng lúc, đúng huyệt khi cần thiết như các thế hệ cha ông người Việt từng làm.
Theo: truongtansang.net
Trước hàng loạt hành động khiêu khích đầy mưu mô, xảo quyệt của Trung Quốc trong những ngày qua trên Hoàng Sa và Trường Sa, người dân Việt Nam ai cũng sốt ruột sôi sục ý chí đuổi kẻ xâm lược về nước. Có người bày tỏ ý kiến phải đánh Trung Quốc, có người trông chờ sự can thiệp của quốc tế, có người tạo áp lực để nhà nước ta có hành động thiết thực, có người ủng hộ quan điểm giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình…Thế nhưng, Việt Nam sẽ sử dụng chiến lược nào để Trung Quốc mãi mãi từ bỏ hành vi xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của đất nước Việt Nam?
Đòn đánh của Việt Nam là sử dụng sức mạnh của cộng đồng quốc tế thông qua hội nghị như ASEAN
Giáo sư De Castro thuộc Đại học De La Salle Philippines: “Các tàu
Trung Quốc sẽ tìm cách quấy rối, gây khó dễ để tìm cách khiêu khích phía
Việt Nam và Philippines phản ứng trước. Và khi đó, họ chỉ chờ chúng ta
bắn phát súng đầu tiên là hùng hổ trấn áp và tuyên bố là họ chỉ tự vệ”
cho thấy Trung Quốc thực hiện chiến lược của mình không chỉ thâm độc mà
còn khôn ngoan. Một mặt ra vẻ hùng hậu, ngang tàn mặt khác tạo ra cái
lý “trót lọt”, “vừa ăn cướp vừa la làng”. Từ đó ngôn thuận phao tin trên
toàn thế giới. Đối phó với phù thủy áo trắng, giỏi biện minh thích bịa
chuyện như Trung Quốc đòi hỏi Việt Nam phải khéo léo nếu không sập bẫy
vào âm mưu do Trung Quốc bày ra.Trên thực tế, luật pháp quốc tế công nhận 2 đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của đất nước Việt Nam và chính bản đồ của Trung Quốc cũng công nhận đều đó. Vậy tại sao Trung Quốc vẫn ngoan cố khiêu khích, lâm le ồ ạt thực hiện vũ lực trên đảo Hoàng Sa và Trường Sa?
Bản đồ khẳng định Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa
Hiện Trung Quốc đang yếu lý lẽ trên chính trường quốc tế nên không
dại gì gây chiến tranh với Việt Nam và Philippines ngay thời điểm này.
Bởi vì nếu xả súng lúc này chỉ làm Trung Quốc thâm hụt ngân sách, tổn
thất về kinh tế và mất đi vị trí đứng thứ 2 thứ giới. Hiện Trung Quốc
đang chơi chiêu bài giương đông kích tây, bề mặt vung tay với Việt Nam
nhưng đòn đánh mà Trung Quốc đang hướng đến là Mỹ. Nếu không có cái nhìn
sáng suốt thì Việt Nam vô tình tạo cái cớ cho Trung Quốc bắt chẹt, lấn
lướt.Những ngày qua, dễ nhìn thấy Việt Nam chiến đấu với Trung Quốc trên bàn đàm phán, sử dụng luật quốc tế để bày tỏ sự xâm phạm phi pháp, ngang ngược của láng giềng hiếu chiến. Tại sao Việt Nam không chiến đấu trực diện với Trung Quốc bằng vũ lực? Vì nếu sử dụng vũ lực thì Việt Nam không khác nào lấy trứng chọi đá. Việt Nam có nhiều thứ để mất hơn Trung Quốc, thế yếu hơn Trung Quốc, và tiềm lực quân sự, nhất là không quân và hải quân có thể tác chiến trên biển kém xa.
Lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu chống mạnh
Việt Nam đang tránh chiến tranh chứ không phải sợ chết, sợ đánh. Việt Nam luôn trong tư thế cầm thủ và sẵn sàng ra đòn bất cứ lúc nào nhưng phải đúng lúc, đúng huyệt. Việc Trung Quốc tạo áp lực với Việt Nam, tung tin thất thiệt cũng là tự tạo áp lực cho mình, lộ rõ bộ mặt xấu với bạn bè thế giới đặc biệt là học giả Trung Quốc đang bày tỏ sự không ủng hộ chính quyền Trung Quốc đi xâm lược phi nghĩa Việt Nam.
Có thể nói, Việt Nam kiên quyết giải quyết các vấn đề bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Không hung hăng, nhưng Việt Nam dùng lý lẽ, thời thế từng bước buộc Trung Quốc ngồi vào bàn đàm phán song phương và đa phương.
Chiêu Việt Nam sử dụng “đánh nhưng không đánh, không đánh mà lại đánh”. Hiện tại Việt Nam không sử dụng đòn đánh trực diện với Trung Quốc nhưng dần làm cho Trung Quốc “còi cọc” các kế hoạch xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Và việc Trung Quốc phải chịu ngồi vào bàn đàm phán để giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế là chuyện sớm muộn, nếu như Trung Quốc không muốn cả thế giới cô lập và từ chối mọi sự hợp tác, phát triển. Đòn đánh của Việt Nam là sử dụng sức mạnh của cộng đồng quốc tế, luật pháp quốc tế trong giải quyết tranh chấp.
Chiến thắng Ngọc Hồi là sự thể hiện sức mạnh tổng hợp của Việt nam
Về mặt quân sự thì chiêu của Việt Nam là đưa địch đến chỗ yếu, lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu chống mạnh, nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, từng bước làm thay đổi cục diện, trong điều kiện Việt Nam yếu hơn đối thủ.
Sức mạnh của Việt nam là sức mạnh tổng hợp, không đơn thuần là sự so sánh tương quan lực lượng. Bài học của cha ông ta với các chiến công hiển hách: Triều Lý: 10 vạn quân thắng 30 vạn quân Tống, Triều Lý đã thực hiện “Tiên phát chế nhân”; Triều Trần: 15 vạn thắng 60 vạn Nguyên Mông với chiêu “Lấy đoản binh, chế trường trận”; Triều Lê: 10 vạn thắng 80 vạn quân Minh với chiêu “Vây thành, diệt viện”; Quang Trung: 10 vạn thắng 29 vạn quân Thanh với chiêu “đánh bất ngờ”.
Việt Nam đã và đang hiện đại hóa lực lượng Hải quân, Không quân để có thể tung “cú đánh” đúng lúc, đúng huyệt
Việt Nam không cần diễu võ dương oai sức mạnh quân sự, mà âm thầm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trên Biển, kiên cố hóa các đảo, hiện đại hóa lực lượng Hải quân, Không quân, chăm lo cho đời sống nhân dân trên các đảo, củng cố chứng cứ lịch sử vững chắc… để có thể tung “cú đánh” đúng lúc, đúng huyệt khi cần thiết như các thế hệ cha ông người Việt từng làm.
Theo: truongtansang.net
Quốc phòng Việt – Mỹ: Đầu tư liên kết chiến lược
Vũ Hoàng, phóng viên RFA – 2012-07-27
Đầu tư chiến lược vào hợp tác quốc phòng là ưu tiên để phát triển quân sự, an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
“Điểm chính trong bài viết của chúng tôi là cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều có chung một lợi ích chiến lược trong khu vực liên quan đến chuyện cân bằng thế lực với sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như hạn chế tham vọng của quốc gia này đặc biệt là ngoài biển Đông.
Việt Nam và Hoa Kỳ không chỉ có chung lợi ích chiến lược như vậy mà còn có mối quan hệ khá phức tạp với Trung Quốc. Việt Nam không phải là kẻ thù của Trung Quốc, mặc dù như chúng ta thấy là những gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông, những tranh chấp lãnh hải giữa 2 quốc gia, rồi thì Việt Nam mua vũ khí để phòng bị trước Trung Quốc, thế nhưng, Việt Nam vẫn giữ mối giao hảo với Trung Quốc, đặc biệt là mối quan hệ Cộng Sản của 2 nước anh em.
Về phần mình, Hoa Kỳ cũng có mối quan hệ phức tạp với Trung Quốc, cũng thấy họ gây hấn với các nước đồng minh của mình, thấy sự lấn lướt của họ trên Biển Đông, nhưng ngược lại, Hoa Kỳ vẫn có mối quan hệ tích cực với Trung Quốc, chẳng hạn về mặt kinh tế hay trên các diễn đàn quốc tế.
Mục đích bài viết của chúng tôi là lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ với Việt Nam về mặt dài hạn, xây dựng mối quan hệ chiến lược sẽ cho phép quốc phòng hai quốc gia có thể tiến gần lại với nhau, tạo nên mối quan hệ vững mạnh hơn để đối phó với sự đe doạ của Trung Quốc.”
Vũ Hoàng: Trong bài viết, ông nhắc đến Hoa Kỳ và Việt Nam cần đầu tư chiến lược quân sự, ông có thể nói rõ hơn những điểm này được không ạ?
T.S Lohman: “Việt Nam rất muốn mua vũ khí của Hoa Kỳ nhưng hiện tại luật pháp Hoa Kỳ lại không cho phép họ mua các loại vũ khí sát thương. Nhưng trở ngại hiện nay chính là vấn đề nhân quyền mà Chính phủ Hoa Kỳ vẫn đang rất quan tâm. Tuy nhiên, theo tôi đánh giá thì vấn đề lớn nhất lại nằm ở vấn đề hợp tác chiến lược của Việt Nam với Hoa Kỳ vẫn không rõ ràng, chúng tôi thực sự không biết là đảng Cộng Sản Việt Nam có toàn tâm toàn ý liên kết với Hoa Kỳ trước sự đe doạ của Trung Quốc hay không. Tôi nghĩ chính vì lý do đó mà vấn đề mua bán vũ khí vẫn bị đình lại.
T.S Lohman: “Như chúng tôi trình bày trong bài viết thì không thấy rõ là liệu Việt Nam có thực sự muốn để tàu chiến Hoa Kỳ sử dụng cảng Cam Ranh hay không, phần vì giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn những dấu tích lịch sử, phần vì nó cũng liên quan đến chiến lược đối đầu với sự đe doạ của Trung Quốc. Việt Nam vẫn chưa quyết định sẽ giải quyết mối đe doạ của Trung Quốc ra sao và chưa sẵn sàng liên kết chiến lược với Hoa Kỳ để “ngăn chặn” Trung Quốc.
Vì thế họ không sẵn sàng cho phép Hoa Kỳ sử dụng vịnh Cam Ranh. Chuyện hợp tác chiến lược bây giờ chỉ dừng trên góc độ tượng trưng thôi, mỗi năm chỉ cho phép 1 tàu chiến sử dụng thì thực sự cũng chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Có thể nói ngắn gọn thế này, nếu như Việt Nam không thể quyết định cách giải quyết vấn đề Trung Quốc, cộng thêm cả vấn đề nhân quyền thì chẳng có lý do gì Hoa Kỳ lại bán vũ khí sát thương cho Việt Nam cả.”
Vũ Hoàng: Vậy với những khác biệt như vậy, cách thức giải quyết vấn đề của Hoa Kỳ sẽ ra sao?
T.S Lohman: “Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ở góc độ dài hạn. Phía Hoa Kỳ sẽ đầu tư dài hạn chẳng hạn như việc đào tạo binh sĩ Việt Nam, giúp Việt Nam chuẩn bị đối phó trong trường hợp có chiến tranh. Ngoài ra, phía Hoa Kỳ cũng có thể giúp Việt Nam về mặt giáo dục quốc phòng, chẳng hạn cử sĩ quan đi tập huấn tại Hoa Kỳ…
Vũ Hoàng: Ông nhắc nhiều đến vấn đề đầu tư, quay lại vấn đề Biển Đông đang căng thẳng, Hoa Kỳ đã “đầu tư” được những gì cho Việt Nam trên Biển Đông?
T.S Lohman: “Tôi có thể nói rằng hai quốc gia cũng đã có những hợp tác với nhau nhưng vẫn chưa nhiều. Chủ yếu những gì mà Hoa Kỳ và Việt Nam làm vẫn chỉ trên phương diện ngoại giao, tôi muốn nói là những trao đổi ngoại giao quốc phòng, chẳng hạn, những chuyến thăm của Ngoại trưởng Hoa Kỳ đến Việt Nam trong 2 năm vừa qua, hay tuyên bố về vai trò của Hoa Kỳ tại khu vực Đông Nam Á của bà Clinton trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Hà Nội năm 2010…
Những gì mà hai nước đang làm hiện nay đã gửi tín hiệu đến Trung Quốc rằng Hoa Kỳ và Việt Nam có cùng mối quan tâm về bảo vệ tự do hàng hải ở khu vực Biển Đông, những gì chúng ta đang làm là cho Trung Quốc hiểu rằng cả Hoa Kỳ và Việt Nam đang cùng đứng cùng về một phía.
Đồng thời, phía Hoa Kỳ cũng vẫn có những thông điệp riêng rẽ khác đến Trung Quốc để họ hiểu được sự có mặt của Hoa Kỳ trên Biển Đông, chẳng hạn Hoa Kỳ bảo vệ quyền tập trận của mình trên vùng biển này. Mặc dù, Hoa Kỳ làm điều đó chỉ là trên quyền lợi của bản thân nước mình, nhưng một cách gián tiếp, điều này cũng có lợi cho Việt Nam.”
Vũ Hoàng: Cám ơn ông, những gì ông giải thích là trên góc độ ngoại giao, thế còn về mặt quốc phòng hay an ninh quân sự thì ra sao?
T.S Lohman: “Phải nói là Hoa Kỳ sẽ không bao giờ ủng hộ việc Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Nói chung là người ta không thể tách rời giữa hợp tác ngoại giao và hợp tác quốc phòng. Mặc dù chúng tôi không ủng hộ việc Việt Nam tuyên bố chủ quyền nhưng những nước đồng minh của Hoa Kỳ như Philippines hay Đài Loan thì vẫn có những tuyên bố chồng lấn lãnh hải ngoài Biển Đông. Theo tôi, thì Hoa Kỳ có thể dựa trên mối quan hệ ngoại giao để xây dựng mối quan hệ quốc phòng với Việt Nam, để cho Trung Quốc thấy khả năng hợp tác quân sự của 2 nước, để Trung Quốc thấy rằng họ không phải nắm thế thượng phong về mặt quân sự.
Một điểm khác mà hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam có thể làm là tăng cường khả năng của Việt Nam đối phó với Trung Quốc. Dù rằng, Hoa Kỳ không trực tiếp can dự như trong trường hợp của Philippines là trực tiếp giúp nước này phòng vệ và tuyên bố chủ quyền, thì ít nhất là Hoa Kỳ có thể đứng phía sau giúp Việt Nam tự đứng ra bảo vệ chủ quyền, không để Trung Quốc vào vùng chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, về điểm này, thì phía Hoa Kỳ làm được.”
Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối cùng, thưa T.S, theo ông nguyên nhân nào khiến Việt Nam vẫn chần chừ trong vấn đề hợp tác chiến lược quân sự?
T.S Lohman: “Tính cho đến bây giờ hai quốc gia đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao được 15 năm còn kinh tế thì trước cả đó, thế nhưng quan hệ hợp tác quốc phòng thì còn lâu hơn, không thể trong một sớm một chiều. Nhất là Việt Nam vẫn chưa rõ ràng trong vấn đề Trung Quốc, Đảng Cộng Sản của 2 quốc gia vẫn thân thiết như anh em.
Thưa quí vị, viết chung cùng tác giả Walter Lohman, là Đại tá đã nghỉ hưu của Quân đội Hoa Kỳ William H. Jordan, ông từng đi lính ở Việt Nam 2 năm và T.S Lewis M. Stern, T.S Stern làm việc 10 năm trong Cục Tình Báo Trung Ương 10 năm và 20 năm là chuyên gia về Đông Nam Á của Văn Phòng Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.
Thứ năm, ngày 26/7/2012
TTXVN (Niu Yoóc 24/7)
Ngày 17/7, hãng Stratfor của Mỹ công bố tài liệu với đầu đề trên, trong đó cho biết, trong thập kỷ qua, Biển Đông trở thành một trong những điểm bất ốn nhất ở Đông Á. Trung Quốc, Việt Nam, Philíppin, Malaixia, Brunây và Đài Loan đều khẳng định chủ quyền một phần hoặc tất cả vùng biển, và các tuyên bố chồng lấn dẫn đến đối đầu ngoại giao và thậm chí quân sự trong những năm gần đây. Do Biển Đông có nhiều quần đảo, giàu tài nguyên khoáng sản, năng lượọng và gần 1/3 tuyến đường hàng hải của thế giới đi qua, nên tất nhiên vùng biển này có giá trị chiến lược đối với các quốc gia liên quan. Nhưng với Trung Quốc, kiểm soát trên Biển Đông không chỉ là vấn đề thực hiện mà còn là tâm điểm chính sách ngoại giao tiến thoái lưỡng nan của Bắc Kinh: Làm sao để khẳng định chủ quyền hàng hải lịch sử trong khi vẫn duy trì các chính sach không đối đầu với các nước do ông Đặng Tiểu Bình xây dựng năm 1980. Trung Quốc đã khẳng định quyền kiểm soát Biển Đông từ khi kết thúc cuộc nội chiến Trung Quốc. Lúc đó, hầu hết ở các nước khác đều đang nổi lên các phong trào giành độc lập, Trung Quốc chỉ cần làm rất ít việc để đảm bảo lời khẳng định của mình. Nhưng do các quốc gia khác xây dựng lực lượng hàng hải, theo đuổi mối quan hệ mới và có một quan điểm tích cực hơn trong việc thăm dò và tuần tra vùng biển và với thái độ không thân thiện của Trung Quốc trước bất cứ nhượng bộ nào về lãnh thổ, cách tiếp cận lặng lẽ của Đặng Tiểu Bình là lựa chọn đúng đắn.
Sự phát triển hàng hải của Trung Quốc
Trung Quốc là nước kiểm soát một bờ biển dài, trước kia từ biển Nhật Bản ở phía Đông Bắc tới Vịnh Bắc Bộ ở phía Nam. Mặc dù bờ biển dài, nhưng Trung Quốc gần như chỉ luôn chú trọng bên trong, ít khi quan tâm đến các vùng biển và thậm chí cả trong những thời điểm khá ổn định trên đất liền. Theo truyền thống, các mối đe dọa lớn nhất đối với Trung Quốc không xuất phát từ biển, trừ trường hợp cướp biển không thường xuyên, mà thường từ cạnh tranh nội bộ và các lực lượng du mục ở phía Bắc và phía Tây. Thách thức địa lý của Trung Quốc đã thúc đẩy một nền kinh tế nông nghiệp trên cơ sở quy mô dòng họ và nhỏ lẻ với một cơ cấu quyền lực mạnh mẽ phân cấp, được thiết kế một phần để giảm thiểu những thách thức liên tục từ các lãnh chúa và khu vực. Phần lớn thương mại của Trung Quốc với thế giới được thực hiện thông qua các tuyến đường bộ hoặc bởi người Arập và các thương nhân nước ngoài khác tại một số khu vực ven biển. Nói chung, Trung Quốc chỉ tập trung ổn định dân cư và biên giới đất liền hơn là các cơ hội tiềm tàng từ thương mại hàng hải hoặc thăm dò, bởi vì khi đó tiếp xúc với bên ngoài có thể mang lại nhiều rắc rối không kém gì những lợi ích. Hai yếu tố góp phần vào việc Trung Quốc thử nghiệm phát triển hải quân gồm: sự thay đổi chiến tranh từ phía Bắc xuống phía Nam Trung Quốc và có những thời điểm an ninh trong nước khá ổn định. Trong suốt triều đại nhà Tống (960-1279), các đội kỵ binh của vùng đồng bàng phía Bắc, vốn là một lực lượng quân sự lớn trên đất liền, kéo xuống phía Nam ven sông và đầm lầy. Lực lượng hải quân sông nước cũng phát triển ra bờ biển, và nhà Tống khuyến khích chuyển hướng về phía biển và thương thuyền của Trung Quốc thay thế các thương nhân nước ngoài dọc bờ biển. Mặc dù chủ yếu vẫn hướng vào nội địa trong suốt triều đại nhà Nguyên (1271-1368), nhưng Trung Quốc đã thực hiện ít nhất hai cuộc chiến hải quân lớn vào cuối thế kỷ 13 – chống Nhật Bản và Java – cả hai cuối cùng đã không thành công. Thất bại của các cuộc chiến góp phần vào quyết định của Trung Quốc một lần nữa quay lưng lại với biển. Cuộc phiêu lưu hàng hải lớn cuối cùng diễn ra vào đầu triều đại nhà Minh (1368-1644), khi nhà thám hiểm Hồi giáo Trịnh Hòa thực hiện 7 chuyến hành trình nổi tiếng tới nhiều khu vực trên thế giới như châu Phi, nhưng không sử dụng cơ hội này để thiết lập sức mạnh lâu dài của Trung Quốc ở nước ngoài. Hạm đội của Trịnh Hòa đã bị lãng quên vì Nhà Minh nhìn thấy khó khăn đang nổi lên trong đất liền, kể cả nạn cướp biển hoành hành ngoài khơi và Trung Quốc một lần nữa lại hướng nội. Tại cùng thời điểm mà Magellan bắt đầu chuyến thám hiểm toàn cầu vào đầu những năm 1500, Trung Quốc tiếp tục chính sách cô lập của họ, hạn chế thương mại và giao tiếp với bên ngoài và chấm dứt nghiên cứu các rủi ro hàng hải. Lực lượng hải quân Trung Quốc chuyển sang phòng vệ bờ biển hơn là tấn công. Sự xuất hiện các tàu chiến châu Âu trong thế kỷ 19 đã thu hút sự quan tâm của chính quyền Trung Quốc, và Trung Quốc sau đó đã thực hiện một chương trình hải quân dựa trên công nghệ phương Tây. Điều này cho thấy sự thống nhất trong suy nghĩ chiến lược lớn hơn của Trung Quốc vẫn hạn chế. Nhận thức không đầy đủ về hàng hải góp phần đưa đến quyết định của nhà Thanh nhượng quyền ra vào quan trọng cửa sông Đồ Môn cho Nga năm 1858, vĩnh viên đóng cửa ra vào vùng biển Nhật Bản từ phía Đông Bắc. Sau đó gần 40 năm, mặc dù xây dựng một đội tàu lớn nhất khu vực, hải quân Trung Quốc đã bị hải quân Nhật Bản mới nổi lên đánh bại. Sau đó gần một thế kỷ, người Trung Quốc một lần nữa tập trung gần như hoàn toàn trên đất liền, các lực lượng hải quân chỉ đóng vai trò phòng thủ thuần túy ven biển. Từ những năm 1990, chính sách này dần dần thay đổi khi mối quan hệ kinh tế của Trung Quốc với thế giới mở rộng. Đối với Trung Quốc, để bảo đảm sức mạnh kinh tế và nâng cao ảnh hưởng toàn cầu mạnh mẽ hơn, phát triển một chiến lược hải quân tiên phong đã trở thành điều bắt buộc.
Giải thích “đường 9 đoạn”
Để hiểu lôgích hàng hải của Trung Quốc ngày nay và các tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng của Trung Quốc, đầu tiên cần hiểu cái gọi là đường chín đoạn – đường biên giới lỏng lẻo phân định ranh giới các khiếu nại hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông. Đường 9 đoạn của Trung Quốc được dựa trên cơ sở một tuyên bố lãnh thổ năm 1947 của Chính quyền Quốc Dân Đảng lúc đó đang cầm quyền, thiếu sự cân nhắc chiến lược do lúc đó đang phải tập trung đối phó với hậu quả từ sự chiếm đóng của Nhật Bản trên đất Trung Quốc và cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau khi kết thúc sự chiếm đóng của Nhật Bản, Chính quyền Quốc Dân Đảng đã cử các sĩ quan hải quân và các đội khảo sát đến Biển Đông để lập bản đồ các hòn đảo khác nhau. Bộ Nội vụ Đài Loan công bô một tấm bản đồ đường 11 đoạn ở Biển Đông kéo ra xa từ bờ biển của Trung Quốc. Bản đồ này, mặc dù thiếu các tọa độ cụ thể, đã trở thành cơ sở cho tuyên bố hiện nay của Chính quyền Bắc Kinh sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949. Năm 1953, có lẽ như một biện pháp nhàm giảm thiểu xung đột với nước láng giềng Việt Nam, Bắc Kinh loại bỏ 2 trong số 11 đoạn, từ đó hình thành đường 9 đoạn như hiện nay. Trước đây các nước láng giềng ít phản đối hoặc khiếu nại bản đồ đường 9 đoạn của Bắc Kinh do họ đang tập trung cho các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Bắc Kinh coi sự im lặng của những người hàng xóm và cộng đồng quốc tế là sự phục tùng và sau đó Bắc Kinh chủ yếu im lặng để tránh những thách thức đối với bản vẽ. Bắc Kinh lảng tránh việc tuyên bố chính thức đường 9 đoạn vì cho rằng nó là một biên giới bất khả xâm phạm bất chấp các nước khu vực và quốc tế công nhận hay không công nhận và coi đường 9 đoạn là cơ sở lịch sử để chống lại các tuyên bố chủ quyền biển khác.
Cũng như các nước tuyên bố chủ quyền khác như Việt Nam và Philíppin, mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là sử dụng khả năng mạnh mẽ của hải quân để kiểm soát các đảo cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên và vị thế chiến lược của Biển Đông. Khi quân đội còn yếu kém, Bắc Kinh ủng hộ quan điểm gạt sang một bên các bất đồng chủ quyền và chú trọng phát triển chung nhằm hạn chế các bất đồng lớn do sự chống lấn chủ quyền, đồng thời kéo dài thời gian để phát triển lực lượng hải quân của mình. Bên cạnh đó, để đối phó với sự đoàn kết của các nước tuyên bố chủ quyền Biển Đông, Bắc Kinh âm mưu sử dụng cách tiếp cận đàm phán với từng quốc gia tuyên bố lãnh thổ mà không cần đề cập đến tuyên bố về đường 9 đoạn đó. Cách tiếp cận này sẽ cho phép Bắc Kinh chiếm ưu thế trong các cuộc đàm phán song phương – vấn đề mà họ lo sợ sẽ bị mất trong các diễn đàn đa phương. Mặc dù đường 9 đoạn không được Công ước củua Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 công nhận và liên tục gây nhiều tranh cãi, nhưng hiện nay Bắc Kinh ít có khả năng từ bỏ tuyên bố của họ. Trước sự quan tâm rất lớn của quốc tế và cạnh tranh khu vực trên Biển Đông, người dân Trung Quốc, vốn coi vùng nước trong đường 9 đoạn là khu vực lãnh hải Trung Quốc, đang ép Bắc Kinh có những hành động quyết đoán hơn. Điều này khiến Trung Quốc ở một vị thế khó khăn khi Bắc Kinh cố gắng mô tả phát triển chung như một bằng chứng cho thấy các nước khác đã công nhận tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc. Trái lại, các nước đối tác đã lảng tránh khi Bắc Kinh tìm cách giảm nhẹ tuyên bố để duy trì quan hệ quốc tế, trong khi người dân Trung Quốc ở trong nước thường tổ chức các cuộc biểu tình yêu cầu Chính phủ hành động. Nhưng bất cứ nỗ lực nào nhằm thu hút cử tri trong nước của Chính quyền Bắc Kinh đều có nguy cơ gây tức giận cho các đối tác nước ngoài hoặc ngược lại.
Phát triển chính sách hàng hải
Các diễn biến từ đường 9 đoạn, tình hình phát triển trong nước, và hệ thống quốc tế có nhiều thay đổi đã góp phần hình thành chiến lược phát triển biển của Trung Quốc. Dưới thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc tập trung vào nội bộ và bị hạn chế do lực lượng hải quân yếu kém. Mặc dù các tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc rất mơ hồ, nhưng khi các nước láng giềng chỉ tập chung vào cuộc đấu tranh giành độc lập, Trung Quốc đưa ra quan điểm biên giới lãnh hải mạnh mẽ hơn. Phát triển hải quân của Trung Quốc chủ yếu vẫn phục vụ mục tiêu phòns thủ và bảo vệ bờ biển khỏi các cuộc xâm lược từ bên naoài. Trong các nỗ lực cải cách kinh tế trong nước cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, Đặng Tiểu Bình đã tìm cách phát triển kinh tế thực dụng hơn từ các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông, đặt tuyên bố chủ quyền lãnh hải sang một thời điểm khác. Chi phí quân sự của Trung Quốc tiếp tục ưu tiên cho các lực lượng trên bộ và lực lượng tên lửa, còn lực lượng hải quân chỉ đóng vai trò bảo vệ các vùng ven biến Trung Quốc. Hai thập kỷ tiếp theo, Đặng Tiểu Bình vẫn tiếp tục các chính sách như vậy. Mặc dù lúc đó ở Biển Đông xảy ra một số đụng độ, nhưng nói chung, Bắc Kinh tiếp tục theo đuổi chiến lược tránh đối đầu và coi đây là một nguyên tắc cốt lõi trên biển. Hải quân Trung Quốc không ở vị trí thách thức sự thống trị của hải quân Mỹ hoặc không có bất cứ hành động quyêt đoán nào đối với các nước láng giềng, đặc biệt kể từ khi Bắc Kinh tìm cách tăng cường ảnh hướng trong khu vực thông qua các phương tiện kinh tế và chính trị. Nhưng đề nghị hợp tác phát triển Biển Đông của Bắc Kinh phần lớn bị thất bại. Do sức mạnh kinh tế và chi tiêu quân sự của Trung Quốc ngày càng tăng, đặc biệt gần đây Trung Quốc tập trung hiện đại hóa lực lượng hải quân, từ đó khiến các nước láng giềng nghi ngờ và họ kêu gọi đóng vai trò tích cực hơn để đối trọng với sự gia tăng của Trung Quốc. Vấn đề đường 9 đoạn và tuyên bố chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc cùng nổi lên đáng kể vì nhiều nước nộp đơn khiếu nại chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. Trung Quốc, đã ký Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển chủ yếu do lợi ích hàng hải và tài nguyên ở Biển Đông, nhận thấy chính họ cũng phải đưa ra một số tuyên bố ngược lại ở Biển Đông, từ đó báo động ở các nước láng giềng trước những gì được coi là hành động thúc đẩy ý đồ bá chủ khu vực của Bắc Kinh. Nhưng không chỉ các quốc gia có tranh chấp Biển Đông tỏ ra lo ngại trước các biện pháp của Trung Quốc, các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc Mỹ, Ôxtrâylia và Ấn Độ…, những nước phụ thuộc vào biển về thương mại và vận tải quân sự, cũng tỏ thái độ không thể chấp nhận quan điểm bành trướng của Trung Quốc. Tất cả các quốc gia này coi những hành động của Trung Quốc như một khúc dạo đầu thách thức các vùng nước thuộc quốc gia khác. Trung Quốc phản ứng băng những lời lẽ ngày càng quyết đoán và quân đội Trung Quốc cũng đóng vai trò lớn hơn trong các quyết định chính sách đối ngoại. Rõ ràng chính sách về không đối đầu của Trung Quốc trước đây nay đã được thay thế bằng một cách tiếp cận mới.
Tranh luận về chính sách đối ngoại
Năm 1980, Đặng Tiểu Bình đưa ra chính sách đối ngoại, trong đó yêu cầu Trung Quốc lặng lẽ quan sát, giữ vững trận địa, bình tĩnh ứng phó, giấu mình chờ thời…. Những nguyên lý cơ bản này vẫn là cốt lõi trong chính sách đối ngoại Trung Quốc và được coi là nguyên tắc chỉ đạo hành động hoặc sử dụng để bào chữa cho hành động yên lặng. Nhưng môi trường trong nước và khu vực đã thay đổi đáng kể từ những ngày đầu của cuộc cải cách do Đặng Tiểu Bình phát động và phát triển kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Do đó Bắc Kinh hiểu rằng chỉ thông qua một chính sách chủ động hơn, Trung Quốc mới có thể phát triển từ một sức mạnh duy nhất trên đất liền đến sức mạnh trên biển và định hình lại khu vực một cách có lợi cho lợi ích an ninh của họ. Nếu không hành động như vậy, các quốc gia khác trong khu vực và đồng minh của họ, cụ thể Mỹ, sẽ âm mưu hoặc thậm chí đe dọa các tham vọng của Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang tranh cãi hoặc thay đổi ít nhất bốn yếu tố chính sách của Đặng Tiểu Bình: 1. Thay đổi từ không can thiệp chuyển sang việc can thiệp sáng tạo; 2. Thay đổi từ nền ngoại giao song phương sang ngoại giao đa phương; 3. Thay đổi từ ngoại giao phản ứng sang ngoại giao phòng ngừa; 4. Phát triển từ chính sách không liên kết chặt chẽ sang bán liên minh. Can thiệp sáng tạo được Bắc Kinh mô tả như một biện pháp để Trung Quốc chủ động hơn trong việc bảo vệ lợi ích của họ ở nước ngoài bằng cách tham gia nhiều hơn vào tình hình chính trị của các nước khác – một sự thay đổi từ không can thiệp sang một thứ gì đó linh hoạt hơn. Trung Quốc đã sử dụng tiền và các công cụ khác để hình thành sự phát triển bên trong ở các nước khác trong quá khứ, nhưng sự thay đối chính sách chính thức sẽ đòi hỏi Trung Quốc phải can dự sâu hơn các vấn đề khu vực. Nhung điều này sẽ làm suy yếu các nỗ lực của Trung Quốc trong việc thúc đẩy ý đồ: Trung Quốc chỉ là một quốc gia đang phát triển giúp các nước đang phát triển khác trong bối cảnh của chủ nghĩa đế quốc phương Tây và bá quyền. Sự thay đổi trong nhận thức có thể ảnh hưởng đến một số lợi thế của Trung Quốc trong việc lôi kéo các nước đang phát triển vì Bắc Kinh dựa trên những cam kết không can thiệp chính trị như một biện pháp chống lại những lời chào mời của phương Tây về các công nghệ tốt hơn hoặc những nguồn phát triển tốt hơn thường kèm theo nhũng yêu cầu thay đổi chính trị của phương Tây. Từ lâu Trung Quốc đã dựa vào quan hệ song phương như một biện pháp ưa thích để quản lý các lợi ích quốc tế. Khi hoạt động trong các diễn đàn đa phương, Trung Quốc thường im lặng chứ không thể hiện sức mạnh của một siêu cường. Ví dụ, Trung Quốc có thể ngăn chặn các biện pháp trừng phạt trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhưng hiếm khi đề nghị các giải pháp khác cho cộng đồng quốc tế theo đuổi.
Nhưng hiện nay Trung Quốc đang theo đuổi các mối quan hệ đa phương như một cách để bảo đảm quyền lợi của họ thông qua các nhóm lớn hơn. Mối quan hệ của Trung Quốc với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, tham gia Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và theo đuổi hội nghị thượng đỉnh ba bên giúp Bắc Kinh định hướng chính sách của các tổ chức này. Bằng việc chuyển sang cách tiếp cận đa phương, Trung Quốc có thể làm cho một số quốc gia yếu hơn cảm thấy an toàn, từ đó có thể ngăn chặn các nước này chuyển sang tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ. Theo truyền thống, Trung Quốc áp dụng một chính sách ngoại giao tương đối tích cực, đối phó với cuộc khủng hoảng khi chúng xuất hiện nhưng thường không phát hiện hoặc hành động để ngăn chặn các cuộc khủng hoảng trước khi chúng trở thành hiện thực. Ở những nơi đã tìm cách tiếp cận được các nguồn tài nguyên thiên nhiên, Bắc Kinh thường bị chỉ trích không quan tâm tới những thay đổi trong khu vực và không chuẩn bị các chiến lược phản ứng, chẳng hạn sự phân chia Xuđăng thành hai nước Xuđăng và Nam Xuđăng. Giờ đây Trung Quốc đang tranh luận về việc chuyển hướng chính sách này sang một chính sách khác để có thể hiểu biết các lực lượng cơ bản và các nguy cơ dẫn đến xung đột, từ đó hành động một mình hoặc hợp tác với cộng đồng quốc tế nhằm xoa dịu các căng thẳng. Đối với Biển Đông, điều này có nghĩa, Trung Quốc phải làm rõ chủ quyền biển của họ ở mức nào thay vì tiếp tục sử dụng đường 9 đoạn mơ hồ, đồng thời nỗ lực theo đuổi các ý tưởng cho một cơ chế an ninh châu Á, trong đó Trung Quốc sẽ đóng một vai trò lãnh đạo tích cực. Lập trường của Trung Quốc về các liên minh vẫn giữ nguyên như Đặng Tiểu Bình đưa ra trong những năm 1980: Trung Quốc không tham gia thiết lập liên minh nhằm chống lại nước thứ ba. Đây là quan điểm cho phép Trung Quốc duy trì chính sách đối ngoại độc lập và tránh các vấn đề quốc tế do liên minh gây nên. Ví dụ, kế hoạch Trung Quốc chiếm lại Đài Loan bị nhấn chìm bởi sự tham gia của Trung Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên và nhờ đó quan hệ của Trung Quốc với Mỹ được thiết lập lại sau một thập kỷ. Sự sụp đổ của hệ thống Chiến tranh Lạnh và sự gia tăng ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Trung Quốc đã tạo nên chính sách mới. Bắc Kinh theo dõi thận trọng khi NATO mở rộng về phía Đông và khi Mỹ tăng cường liên minh quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Rõ ràng, chính sách không liên minh của Bắc Kinh khiến Trung Quốc thiếu khả năng một mình đối mặt với các tổ chức này. Do đó, Trung Quốc chủ trương theo đuối cơ cấu bán liên minh nhăm khăc phục nhược điểm này. Hiện nay Trung Quốc đang tìm kiếm và thúc đẩy các mối quan hệ đối tác chiến lược cũng như các cuộc diễn tập quân sự và nhân đạo với nhiều quốc gia khác là một phần của chiến lược này. Chiến lược mới của Trung Quốc nhằm xây dụng một cơ cấu liên minh chống lại Mỹ. Trong chiến lược biển, Bắc Kinh đang nỗ lực hợp tác với Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc trong các hoạt động clìống cướp biển, và trao đổi các hoạt động của hải quân và diễn tập chung.
Hưởng về phía trước
Thế giới đang thay đổi. Sự phát triển của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế lớn buộc Bắc Kinh phải suy nghĩ lại chính sách đối ngoại truyền thống. Trước mắt, vấn đề Biển Đông là một mô hình thu nhỏ của cuộc tranh luận rộng lớn về chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Các tuyên bố chủ quyền mập mờ của Trung Quốc chỉ có tác dụng khi tình hình khu vực yên tĩnh, nhưng không phục vụ mục đích phát triển lợi ích biển và hoạt động của hải quân Trung Quốc, ngược lại đã làm tăng căng thẳng giữa Bắc Kinh và khu vực. Công cụ chính sách trước đây không còn phục vụ các nhu cầu của Trung Quốc. Chính sách phát triển kế thừa từ Đặng Tiểu Bình không còn mang lại bất cứ sự hợp tác đáng kể nào với các nước láng giềng ven biển và việc khẳng định đường 9 đoạn hoàn toàn trái với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển đồng thời làm gia tăng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi ở trong nước cũng như các phản ứng mạnh mẽ của các nước láng giềng. Mặc dù chính sách biển thiếu rõ ràng, nhưng Trung Quốc thể hiện ý đồ tiếp tục củng cố tuyên bố của họ trên cơ sơ đường 9 đoạn. Bắc Kinh thừa nhận những thay đổi chính sách là cần thiết, nhưng sự thay đổi đó không được gây nên bất cứ hậu quả nào./.
Thứ năm, ngày 26/7/2012
TTXVN (Giacácta 22/7)
Bàn về các yếu tố cấu thành địa chính trị – kinh tế của khu vực Đông Nam Á trong bối cảnh hiện nay; vai trò và cách hành xử của Inđônêxia với tư cách là một nước lãnh đạo khu vực có sức ảnh hưởng ngày càng tăng trong chính sách của các nước lớn, học giả Beginda Pakpahan – giảng viên Đại học Inđônêxia và là một nhà nghiên cứu tại trường Đại học Edinburgh (Anh) có bài biết đăng trên tờ “Bưu điện Giacácta”, nhan đề: “Địa chính trị và địa kinh tế ở Đông Nam Á: Vị trí nào của Inđônêxia?”. Dựa trên những phân tích tình hình, trong đó có vấn đề Biển Đông và cấu trúc hiệp định tự do thương mại (FTA), tác giả cũng đã đưa ra những luận giải chính sách vì một Đông Á, ASEAN ổn định, phát triển đáng lưu tâm. Sau đây là nội dung bài viết:
Địa chính trị và địa kinh tế trên toàn bộ khu vực Đông Nam Á đang thay đổi nhanh chóng hơn bao giờ hết, trong khi tầm quan trọng toàn cầu của các vấn đề nội bộ khu vực tiếp tục mở rộng. Trong đó, Biển Đông và sự gia tăng của quan hệ đối tác thương mại là hai vấn đề trung tâm của các nước khu vực và trên toàn thế giới.
Vậy vị trí của Inđônêxia,trong hai vấn đề này là gì? Làm thế nào chúng ta có thể dự báo phản ứng của Inđônêxia đối với những phát triển đó? Mức độ mà Inđônêxia có thể, hoặc nên phát triển hoặc tăng cường vị trí của mình?
Tôi cho rằng Inđônêxia nên ở vào vị trí trung tâm địa chính trị – kinh tế đương đại khu vực Đông Nam Á; tăng cường năng lực và khả năng của mình để hành xử như một nhân tố ổn định không liên kết, và như là một nhạc trưởng, nếu không thì cũng như một bên tham gia.
Thiết lập và duy trì ổn định kinh tế, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế trong khu vực là vai trò chính của ASEAN. Inđônêxia, với tư cách là một quốc gia, một quyền lực ngoại giao hoặc kinh tế, có thể phải đóng vai trò trung tâm trong định hướng tới nhũng mục tiêu này. Đó chính là sức mạnh của nên kinh tế Inđônêxia, đến mức mà sự ổn định khu vực không thể đạt được nếu thiếu chúng ta.
Biển Đông trở thành một vấn đề quan trọng đối với Inđônêxia, bởi hiện tồn tại rất nhiều tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc và các nước ASEAN (Philíppin, Malaixia, Việt Nam và Brunây). Đôi khi Trung Quốc và Philíppin chơi trò chơi nguy hiểm ăn miếng trả miếng thông qua các tàu của họ ở bãi Scarborough – nơi cả hai đều tuyên bố chủ quyền. Hai bên cố tình gia tăng căng thẳng trong khu vực tới mức mà Trung Quốc gần đây đã phải cảnh báo các công dân của mình ở Philíppin. Còn Philíppin được Mỹ cam kết bảo vệ những gì mà Manila coi là lãnh thổ, nếu bị tấn công.
Sự căng thẳng ở Biển Đông có thể sẽ trở thành một cuộc chiến tranh toàn diện, nếu không được giải quyết hiệu quả.
Ôxtrâylia mời Mỹ triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ ở căn cứ Danviri, với tuyên bố công khai là để đối phó với thiên tai trong khu vực. Oasinhtơn cũng hứa hẹn với Canbơrơ triển khai các thiết bị do thám ở quần đảo Cocos để theo dõi các hoạt động ở Biển Đông.
Những động thái này đã khiến Trung Quốc và các nước ASEAN chú ý. Biển Đông có khả năng trở thành một nơi cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Xét về mặt địa lý, đây là một khu vực căng thẳng địa chính trị hoàn toàn mới, và là sân sau của chúng ta.
Nếu Biển Đông đại diện cho một địa chính trị mới, thì sự phổ biến của các quan hệ đối tác kinh tế chắc chắn phải là hình mẫu của một địa kinh tế mới ở khu vực Đông Nam Á. ASEAN đã mở rộng họp tác kinh tế với các đối tác bên ngoài thông qua các hiệp định tự do thương mại (FTA) và hiệp định đối tác kinh tế khác. Nhiều thòa thuận kinh tế đã được ký kết, hoàn tất và đang trong quá trình triển khai, với các nước láng giềng và lân cận như Trung Quốc, Ấn Độ, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Nhật Bản và Hàn Quốc. Các nước thành viên ASEAN cũng đã đạt thoả thuận song phương về kinh tế, ví dụ: Xinhgapo – Trung Quốc và Brunây – Nhật Bản.
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang nổi lên như một thỏa thuận thương mại quan trọng trong khu vực chúng ta.
Các nước thành viên TPP hiện bao gồm Niu Dilân, Xinhgapo, Brunây, Chilê, Mỹ, Malaixia, Ôxtrâylia, Việt Nam và Nhật Bản đã bày tỏ sự quan tâm đến tư cách thành viên và nhanh chóng thúc đẩy đàm phán gia nhập.
Trong khi chưa phải là thành viên của quan hệ đối tác này, Mỹ đã tuyên bố ý định thuyết phục các đồng minh trong khu vực Đông Nam Á tham gia TPP. Do đó, việc mở rộng nhanh chóng của các hiệp định thương mại kết họp với việc Mỹ xúc tiến thành lập TPP tạo nên đặc điểm một địa kinh tế mới của khu vực.
Dù muốn hay không, vị trí của Inđônêxia là ở trung tâm của những phát triển này. Một mặt, chúng ta là quốc gia lớn nhất Đông Nam Á với một vị trí chiến lược trong mối quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Ôxtrâylia. Nhật Bản và Hàn Quốc. Mặt khác, Inđônêxia nằm giữa sự cạnh tranh đang phát triển giữa Trung Quốc và Mỹ về các vấn đề nêu trên: cọ xát kinh tế và lãnh thổ trong khu vực.
Không liên kết và nằm giữa các siêu cường, Inđônêxia hoàn toàn có thể là một nhân tố ổn định ảnh hưởng và trung gian trung thực giữa Mỹ và Trung Quốc. Chúng ta có cả cơ hội và năng lực để thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển kinh tế.
Trên bình diện địa chính trị của khu vực Đông Nam Á, nếu ảnh hướng của Inđônêxia không phát huy tác dụng, liệu Trung Quốc có thể được thuyết phục để tôn trọng Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) và Bộ qui tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông? Inđônêxia, và có lẽ chỉ Inđônêxia, mới có động lực và cơ hội để tác động đến Trung Quốc và Philíppin và giảm căng thẳng trong khu vực Biển Đông.
Inđônêxia có thể đề nghị phương cách chủ quyền chung đối với các vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc, Philíppin, Việt Nam, Malaixia và Brunây với sự ủng hộ của Mỹ và các nước ASEAN khác. Nếu cần phải như vậy, Inđônêxia sẽ dàn xếp ổn thỏa việc này.
Dưới vai trò chèo lái của Inđônêxia, ASEAN và Trung Quốc có thề thiết lập một ủy ban an ninh chung để giám sát các thỏa thuận tập thể (ví dụ như an ninh hàng hải và hợp tác năng lượng) trên Biển Đông.
Với vai trò lãnh đạo mạnh mẽ, vô tư đó, thì Trung Quốc, Philíppin, và các quốc gia liên quan khác có thể làm việc cùng nhau để bảo vệ và phát triển khu vực Biển Đông mà không còn có bầu không khí ngờ vực, sợ hãi và các mối đe dọa như hiện nay.
Đối với các yếu tố địa kinh tế của khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia có thể tạo năng lực để ASEAN đạt đuực một lập trường chung khi ứng phó với sự phát triển của quan hệ đối tác kinh tế trong khu vực. Inđônêxia cần nhắc nhở và tác động các nước ASEAN khác hành động một cách tập thể, nhằm tăng cường hiệu lực của các FTA giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, và làm cho Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) trở thành một cơ sở cho hợp tác kinh tế ở Đông Á.
Mỹ, Ôxtrâylia và các nước khác trong khu vực là thành viên của EAS. Nói cách khác, nếu có ý chí, Inđônêxia có thể mang lại một nỗ lực tập thể của ASEAN, Mỹ và các đối tác khác để thúc đẩy EAS trở thành một trục họp tác kinh tế./.
Người dịch: Thủy Trúc
27-7-2012
Gần đây, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natalegawa đã thực hiện một chuyến công du ngoại giao con thoi cấp tốc, tới Campuchia, Việt Nam, Philippines, Singapore và Malaysia, để bảo vệ thỏa thuận của khối về Nguyên tắc Sáu Điểm Trên Biển Đông của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Khi được hãng truyền thông Australia (ABC) đề nghị tóm lược kết quả công việc, ông trả lời: “Trở lại với công việc như bình thường thôi”.
Ý ông Natalegawa là, ông đã vượt qua được tình trạng lộn xộn bề ngoài của ASEAN, khi bộ trưởng ngoại giao của các nước trong khối này không thể đạt được thỏa thuận về bốn phần (paragraph) trong vấn đề Biển Đông, cần phải được đưa vào một dự thảo tuyên bố chung để tóm lược kết quả hội nghị của khối. Lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của ASEAN, sự kiện do Campuchia chủ trì này đã bộc lộ việc Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) không đồng thuận được với nhau về một tuyên bố chung.
Natalegawa đứng bên cạnh Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Hor Namhong khi ông công bố tuyên bố sáu điểm của ASEAN. Tuy nhiên, Hor Namhong thì không thể cưỡng lại chuyện đổ hết mọi tội lỗi trong việc ASEAN không ra được tuyên bố chung cho Việt Nam và Philippines, hai quốc gia ASEAN có đụng độ rõ ràng nhất với Trung Quốc về các yêu sách chủ quyền trên Biển Đông. Brunei, Malaysia và Indonesia cũng có tranh chấp với Trung Quốc về một số địa điểm cụ thể trong khu vực biển này.
Tuy vậy, biên bản Hội nghị Hẹp của ASEAN (AMM Retreat) lại ghi một câu chuyện khác hẳn. Theo các bản ghi nhớ về những cuộc thảo luận do một thành viên tham dự soạn thảo (mà tác giả có viết bài nhận định), Campuchia đã hai lần bác bỏ đề nghị của Philippines, Việt Nam và các thành viên ASEAN – đề nghị có một tham chiếu đến các diễn biến gần đây trên Biển Đông. Lần nào Campuchia cũng đe sẽ hủy tuyên bố chung. Vấn đề Biển Đông đã được thảo luận trong suốt phiên toàn thể của Hội nghị Hẹp của ASEAN. Philippines lên tiếng đầu tiên và sau đó là Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Lào, Myanmar, Singapore và Campuchia.
Ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario kể lại những ví dụ trong quá khứ và hiện tại về “sự bành trướng và thái độ hung hăng” của Trung Quốc, đã ngăn cản Philippines “thực thi luật pháp và buộc Philippines phải rút lui khỏi Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của chính mình”.
Ông Del Rosario hùng hồn: “Đâu là giá trị thực sự của bộ Quy tắc Ứng xử (COC) nếu chúng ta không thể gìn giữ DOC [Tuyên bố về Ứng xử của Các bên]?” – văn bản này đã được chính Trung Quốc tán thành đầu tiên vào năm 2002. Del Rosario chấm dứt bài diễn văn can gián của mình với tuyên bố “rất cần phải phản ánh được cam kết tập thể của ASEAN trong tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng ASEAN”.
Bốn nước khác cũng trực tiếp đề cập tới vấn đề này. Việt Nam gọi việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa gần đây trên các quần đảo tranh chấp ở Biển Đông, và việc Công ty Dầu khí Hải dương Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) mời các công ty nước ngoài thầu thăm dò khai thác ở những vùng biển tranh chấp khác, là “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở EEZ và thềm lục địa của Việt Nam”.
Việt Nam cho rằng tuyên bố chung phải phản ánh được thực tế này. Indonesia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ASEAN hành động theo một tiếng nói thống nhất, và lưu ý các bên rằng những diễn biến gần đây đều gây lo ngại cho tất cả các thành viên ASEAN. Indonesia tán thành ký bộ Quy tắc Ứng xử, và hứa sẽ “lưu hành một bản ghi không chính thức các yếu tố khả thi, bổ sung cho COC”.
Malaysia ủng hộ bình luận của Indonesia và nhấn mạnh: “Chúng ta phải nói một tiếng nói duy nhất; ASEAN phải thể hiện tiếng nói đoàn kết [của mình]; [nếu không] chúng ta sẽ bị mất tín nhiệm”. Malaysia kết luận: “Chúng ta phải nhắc đến tình hình ở Biển Đông, đặc biệt là bất kỳ hành động nào vi phạm luật quốc tế về EEZ và thềm lục địa. Dứt khoát không thể chấp nhận được, nếu chúng ta không đưa được điều đó vào tuyên bố chung. ASEAN cần phải thể hiện rõ ràng quan ngại của mình về Biển Đông, trong bản tuyên bố chung”.
Singapore lưu ý rằng “các diễn biến gần đây đặc biệt đáng lo ngại” bởi vì chúng làm gia tăng “sự diễn giải kỳ lạ luật pháp quốc tế, một sự diễn giải có thể phá hoại hoàn toàn cơ chế UNCLOS”. Singapore kết luận bằng câu nói: “ASEAN cần phải thể hiện rõ ràng quan ngại của mình về Biển Đông, trong bản tuyên bố chung… [Sẽ là] tổn hại cho chúng ta nếu chúng ta không nói gì cả”.
Đồng thuận tan vỡ
Trước khi Campuchia cất tiếng thì không có nước nào phản đối các diễn văn can ngăn của Philippines, Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Singapore. Khi đến lượt Campuchia phát biểu, Bộ trưởng Ngoại giao của họ hỏi, tại sao lại cần phải nhắc đến chuyện bãi cạn Scarborough, nơi Trung Quốc và Philippines gần đây có cuộc đụng độ kéo dài hai tháng.
Sau đó, ông bất ngờ tuyên bố: “Tôi phải nói thẳng với các vị, trong trường hợp chúng ta không thể tìm được lối ra, Campuchia không còn lý do gì để đưa vấn đề này ra nữa. Khi đó, sẽ không có văn bản nào hết. Chúng ta không nên cố gắng áp đặt quan điểm quốc gia; chúng ta nên cố gắng phản ánh các quan điểm chung, trên tinh thần dung hòa”.
Đến lúc này, cuộc thảo luận nóng hẳn lên, cả Philippines lẫn Việt Nam đều tiếp tục tranh cãi. Malaysia, Indonesia và Singapore có thêm diễn văn bổ sung. Hội nghị Hẹp của ASEAN kết thúc bằng tuyên bố của Hor Namhong: “Chúng ta không bao giờ có thể đạt được thỏa thuận, cho dù chúng ta có ngồi đây thêm 4 hay 5 tiếng nữa cũng vậy… Nếu các vị không thể nhất trí về nội dung của tuyên bố chung; chúng tôi không còn lý do gì để đưa vấn đề này ra, trên cương vị Chủ tịch ASEAN”.
Natalegawa đã chỉ ra rất đúng, rằng mặc dù không ra được tuyên bố chung, nhưng các bộ trưởng ngoại giao của ASEAN đã đạt được thỏa thuận về “các yếu tố chủ chốt” của một Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông. Kết quả của chuyến ngoại giao con thoi là, ông nói rằng các bộ trưởng ngoại giao của ASEAN đã nhất trí với “bản đầu của một Bộ Quy tắc Ứng xử Khu vực trên Biển Đông”.
Campuchia, với quyền hạn của mình trên cương vị chủ tịch ASEAN, đã tổ chức hai hội nghị không chính thức giữa quan chức cấp cao ASEAN với Trung Quốc để thảo luận con đường trước mắt tiến tới COC. Trung Quốc công khai tuyên bố rằng họ sẵn sàng bước vào thảo luận chính thức với ASEAN “khi các điều kiện chín muồi”.
Nếu tất cả đều đúng theo kế hoạch, quan chức cấp cao ASEAN và Trung Quốc sẽ thảo luận về các phương thức (thể thức) cho những cuộc thảo luận sắp tới. Họ vẫn còn cần phải xác định sẽ tiếp xúc với nhau ở cấp nào, thường xuyên hay không, và sẽ báo cáo cho ai. Theo kế hoạch, thảo luận chính thức sẽ bắt đầu vào tháng 9, và giới chức ASEAN hy vọng sẽ kết thúc đàm phán trước tháng 11.
Hoạt động ngoại giao con thoi của ông Natalegawa đã tạo ra một cú hích tinh thần rất cần thiết cho ASEAN. Các nỗ lực của ông cũng đã giúp xua tan khỏi Đông Nam Á quan niệm cho rằng các thành viên ASEAN không thể đoàn kết khi bàn về cách giải quyết vấn đề Biển Đông.
Quan trọng hơn, sự hòa giải (can gián) của Indonesia đã lưu ý Campuchia rằng, với tư cách chủ tịch ASEAN năm 2012, Campuchia không thể đơn phương kiểm soát chương trình nghị sự của ASEAN. Sự can thiệp của Natalegawa là chưa từng có tiền lệ: đảm nhận vai trò lãnh đạo mà thông thường là thuộc về nước chủ tịch ASEAN, và là tín hiệu cho thấy Indonesia sẵn sàng đóng một vai trò chủ động hơn trong các vấn đề khu vực. Điều này trái ngược với những năm tháng dưới thời Suharto, khi Indonesia, vốn được nghiễm nhiên coi là nhà lãnh đạo của Đông Nam Á, giữ một vai trò kiềm chế “mềm yếu” hơn.
Tuy nhiên, đằng sau sự thể hiện của Natalegawa cũng có thể có một ý nghĩa khác, rằng ASEAN đang “trở lại với công việc như bình thường thôi”. Nghĩa thứ hai này có thể là một cách ám chỉ mơ hồ tới thái độ tiếp tục hung hăng của Trung Quốc khi họ tìm cách thực thi quyền tài phán trên Biển Đông.
Có ba hình thức thể hiện. Thứ nhất là, Trung Quốc đã nâng cấp Tam Sa từ một hạt cấp huyện lên cấp tỉnh, và cho nó quy chế hành chính, quản lý quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa (bãi Macclesfield) và Trường Sa. Quả thật, chính quyền tỉnh Hải Nam đã khẩn trương chỉ định quan chức địa phương đến đơn vị mới này công tác, và sẽ tổ chức bầu cử để lựa chọn đại biểu vào Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (tức là Quốc hội – ND).
Thứ hai là, Hải Nam – tỉnh miền nam Trung Quốc – không bao lâu sau đó đã phái 30 tàu cá và bốn tàu hộ tống đến vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa. Lúc đầu đội tàu này đánh cá ngoài khơi dải Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), sau đó di chuyển đến dải Đá Gạc Ma (Johnson South Reef), cả hai đều là vùng biển đang có tranh chấp.
Thứ ba, và quan trọng nhất, là Ủy ban Quân sự Trung ương của Trung Quốc đã ra chỉ thị xây một khu nhà tù quân sự tại đơn vị hành chính Tam Sa. Nhà tù này, với trụ sở đóng tại đảo Phú Lâm (Woody Islands) sẽ có chức năng quốc phòng, bảo vệ cho một khu vực biển có diện tích bao trùm 2 triệu dặm vuông.
Do đó, trở lại công việc như thường lệ, theo nghĩa thứ hai, còn có thể có nghĩa là trong khi ASEAN đàm phán COC với Bắc Kinh, Trung Quốc có lẽ sẽ đồng thời, tiếp tục gây áp lực và đe dọa cả Philippines và Việt Nam, và tìm các cách khác để gieo rắc bất đồng trong 10 nước thành viên của khối ASEAN.
Carlyle Thayer là Giáo sư Danh dự tại Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Australia ở Canberra.
Nguồn: Asia Times
Bản tiếng Việt © BS2012
Đầu tư chiến lược vào hợp tác quốc phòng là ưu tiên để phát triển quân sự, an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
AFP
photo -Hải quân Việt Nam (áo trắng) trên tàu USS Chafee trong đợt tập
huấn kiểm soát thảm họa với các thủy thủ Mỹ tại cảng Tiên Sa, Đà Nẵng
hôm 25/4/2012 =======>>>
Vì sao đầu tư chiến lược này của Hoa Kỳ lại quan trọng, đó
là vấn đề chính được giải quyết trong bài viết của T.S Walter
Lohman, giám đốc Nghiên cứu Châu Á của Quỹ Heritage. Bài viết
có sự tham gia của Đại tá Williams Jordan và T.S Lewis Stern
thuộc Cục Tình Báo Trung Ương (CIA). Để hiểu thêm về bài viết
này, mời quí vị nghe cuộc phỏng vấn của Vũ Hoàng và T.S
Lohman.Chung lợi ích chiến lược
Trước tiên T.S Lohman cho biết những điểm chính:“Điểm chính trong bài viết của chúng tôi là cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều có chung một lợi ích chiến lược trong khu vực liên quan đến chuyện cân bằng thế lực với sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như hạn chế tham vọng của quốc gia này đặc biệt là ngoài biển Đông.
Việt Nam và Hoa Kỳ không chỉ có chung lợi ích chiến lược như vậy mà còn có mối quan hệ khá phức tạp với Trung Quốc. Việt Nam không phải là kẻ thù của Trung Quốc, mặc dù như chúng ta thấy là những gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông, những tranh chấp lãnh hải giữa 2 quốc gia, rồi thì Việt Nam mua vũ khí để phòng bị trước Trung Quốc, thế nhưng, Việt Nam vẫn giữ mối giao hảo với Trung Quốc, đặc biệt là mối quan hệ Cộng Sản của 2 nước anh em.
Về phần mình, Hoa Kỳ cũng có mối quan hệ phức tạp với Trung Quốc, cũng thấy họ gây hấn với các nước đồng minh của mình, thấy sự lấn lướt của họ trên Biển Đông, nhưng ngược lại, Hoa Kỳ vẫn có mối quan hệ tích cực với Trung Quốc, chẳng hạn về mặt kinh tế hay trên các diễn đàn quốc tế.
Mục đích bài viết của chúng tôi là lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ với Việt Nam về mặt dài hạn, xây dựng mối quan hệ chiến lược sẽ cho phép quốc phòng hai quốc gia có thể tiến gần lại với nhau, tạo nên mối quan hệ vững mạnh hơn để đối phó với sự đe doạ của Trung Quốc.”
Vũ Hoàng: Trong bài viết, ông nhắc đến Hoa Kỳ và Việt Nam cần đầu tư chiến lược quân sự, ông có thể nói rõ hơn những điểm này được không ạ?
T.S Lohman: “Việt Nam rất muốn mua vũ khí của Hoa Kỳ nhưng hiện tại luật pháp Hoa Kỳ lại không cho phép họ mua các loại vũ khí sát thương. Nhưng trở ngại hiện nay chính là vấn đề nhân quyền mà Chính phủ Hoa Kỳ vẫn đang rất quan tâm. Tuy nhiên, theo tôi đánh giá thì vấn đề lớn nhất lại nằm ở vấn đề hợp tác chiến lược của Việt Nam với Hoa Kỳ vẫn không rõ ràng, chúng tôi thực sự không biết là đảng Cộng Sản Việt Nam có toàn tâm toàn ý liên kết với Hoa Kỳ trước sự đe doạ của Trung Quốc hay không. Tôi nghĩ chính vì lý do đó mà vấn đề mua bán vũ khí vẫn bị đình lại.
Việt Nam và Hoa Kỳ không chỉ có chung lợi ích chiến lược như vậy mà còn có mối quan hệ khá phức tạp với Trung Quốc.Trong bài viết, chúng tôi cũng đề cập đến nhiều điểm mà chúng tôi đang nỗ lực để hiểu hệ thống quân sự cũng như cải thiện tiêu chuẩn quân sự của Việt Nam, hi vọng phần nào có thể bắt kịp với tiêu chuẩn quân sự của Hoa Kỳ trên các phương diện hợp tác như tập trận chung trên hoặc tìm kiếm và cứu nạn…Nói chung vấn đề đầu tư chiến lược là vấn đề về mặt dài hạn.”
T.S Lohman
Chuyện mua vũ khí của Hoa Kỳ
Vũ Hoàng: Một điểm vẫn còn khiến dư luận chú ý là việc tàu chiến của Hoa Kỳ muốn cập cảng nhiều hơn ở Cam Ranh và cùng với đó là chuyện Việt Nam muốn mua vũ khí sát thương của Hoa Kỳ. Làm thế nào để đôi bên cùng có lợi trong chuyện này ạ?T.S Lohman: “Như chúng tôi trình bày trong bài viết thì không thấy rõ là liệu Việt Nam có thực sự muốn để tàu chiến Hoa Kỳ sử dụng cảng Cam Ranh hay không, phần vì giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn những dấu tích lịch sử, phần vì nó cũng liên quan đến chiến lược đối đầu với sự đe doạ của Trung Quốc. Việt Nam vẫn chưa quyết định sẽ giải quyết mối đe doạ của Trung Quốc ra sao và chưa sẵn sàng liên kết chiến lược với Hoa Kỳ để “ngăn chặn” Trung Quốc.
Vì thế họ không sẵn sàng cho phép Hoa Kỳ sử dụng vịnh Cam Ranh. Chuyện hợp tác chiến lược bây giờ chỉ dừng trên góc độ tượng trưng thôi, mỗi năm chỉ cho phép 1 tàu chiến sử dụng thì thực sự cũng chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Có thể nói ngắn gọn thế này, nếu như Việt Nam không thể quyết định cách giải quyết vấn đề Trung Quốc, cộng thêm cả vấn đề nhân quyền thì chẳng có lý do gì Hoa Kỳ lại bán vũ khí sát thương cho Việt Nam cả.”
Vũ Hoàng: Vậy với những khác biệt như vậy, cách thức giải quyết vấn đề của Hoa Kỳ sẽ ra sao?
T.S Lohman: “Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ở góc độ dài hạn. Phía Hoa Kỳ sẽ đầu tư dài hạn chẳng hạn như việc đào tạo binh sĩ Việt Nam, giúp Việt Nam chuẩn bị đối phó trong trường hợp có chiến tranh. Ngoài ra, phía Hoa Kỳ cũng có thể giúp Việt Nam về mặt giáo dục quốc phòng, chẳng hạn cử sĩ quan đi tập huấn tại Hoa Kỳ…
Tôi cũng muốn nhắc lại, cho đến khi nào Việt Nam xây dựng được quyết định chiến lược thì lúc đó Hoa Kỳ mới có thể bán vũ khí được cho Việt Nam.Nói chung, là Hoa Kỳ sẽ tự một mình đứng ra tạo nên một “thói quen” về mặt quan hệ an ninh và quốc phòng với Việt Nam mà không cần quyết định chiến lược của Việt Nam. Dù thế nào đi chăng nữa, tôi cũng muốn nhắc lại, cho đến khi nào Việt Nam xây dựng được quyết định chiến lược thì lúc đó Hoa Kỳ mới có thể bán vũ khí được cho Việt Nam.”
T.S Lohman
Vũ Hoàng: Ông nhắc nhiều đến vấn đề đầu tư, quay lại vấn đề Biển Đông đang căng thẳng, Hoa Kỳ đã “đầu tư” được những gì cho Việt Nam trên Biển Đông?
T.S Lohman: “Tôi có thể nói rằng hai quốc gia cũng đã có những hợp tác với nhau nhưng vẫn chưa nhiều. Chủ yếu những gì mà Hoa Kỳ và Việt Nam làm vẫn chỉ trên phương diện ngoại giao, tôi muốn nói là những trao đổi ngoại giao quốc phòng, chẳng hạn, những chuyến thăm của Ngoại trưởng Hoa Kỳ đến Việt Nam trong 2 năm vừa qua, hay tuyên bố về vai trò của Hoa Kỳ tại khu vực Đông Nam Á của bà Clinton trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Hà Nội năm 2010…
Những gì mà hai nước đang làm hiện nay đã gửi tín hiệu đến Trung Quốc rằng Hoa Kỳ và Việt Nam có cùng mối quan tâm về bảo vệ tự do hàng hải ở khu vực Biển Đông, những gì chúng ta đang làm là cho Trung Quốc hiểu rằng cả Hoa Kỳ và Việt Nam đang cùng đứng cùng về một phía.
Đồng thời, phía Hoa Kỳ cũng vẫn có những thông điệp riêng rẽ khác đến Trung Quốc để họ hiểu được sự có mặt của Hoa Kỳ trên Biển Đông, chẳng hạn Hoa Kỳ bảo vệ quyền tập trận của mình trên vùng biển này. Mặc dù, Hoa Kỳ làm điều đó chỉ là trên quyền lợi của bản thân nước mình, nhưng một cách gián tiếp, điều này cũng có lợi cho Việt Nam.”
Ngoại giao và quốc phòng
Vũ Hoàng: Cám ơn ông, những gì ông giải thích là trên góc độ ngoại giao, thế còn về mặt quốc phòng hay an ninh quân sự thì ra sao?
T.S Lohman: “Phải nói là Hoa Kỳ sẽ không bao giờ ủng hộ việc Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Nói chung là người ta không thể tách rời giữa hợp tác ngoại giao và hợp tác quốc phòng. Mặc dù chúng tôi không ủng hộ việc Việt Nam tuyên bố chủ quyền nhưng những nước đồng minh của Hoa Kỳ như Philippines hay Đài Loan thì vẫn có những tuyên bố chồng lấn lãnh hải ngoài Biển Đông. Theo tôi, thì Hoa Kỳ có thể dựa trên mối quan hệ ngoại giao để xây dựng mối quan hệ quốc phòng với Việt Nam, để cho Trung Quốc thấy khả năng hợp tác quân sự của 2 nước, để Trung Quốc thấy rằng họ không phải nắm thế thượng phong về mặt quân sự.
Một điểm khác mà hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam có thể làm là tăng cường khả năng của Việt Nam đối phó với Trung Quốc. Dù rằng, Hoa Kỳ không trực tiếp can dự như trong trường hợp của Philippines là trực tiếp giúp nước này phòng vệ và tuyên bố chủ quyền, thì ít nhất là Hoa Kỳ có thể đứng phía sau giúp Việt Nam tự đứng ra bảo vệ chủ quyền, không để Trung Quốc vào vùng chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, về điểm này, thì phía Hoa Kỳ làm được.”
Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối cùng, thưa T.S, theo ông nguyên nhân nào khiến Việt Nam vẫn chần chừ trong vấn đề hợp tác chiến lược quân sự?
T.S Lohman: “Tính cho đến bây giờ hai quốc gia đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao được 15 năm còn kinh tế thì trước cả đó, thế nhưng quan hệ hợp tác quốc phòng thì còn lâu hơn, không thể trong một sớm một chiều. Nhất là Việt Nam vẫn chưa rõ ràng trong vấn đề Trung Quốc, Đảng Cộng Sản của 2 quốc gia vẫn thân thiết như anh em.
Tính cho đến bây giờ hai quốc gia đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao được 15 năm còn kinh tế thì trước cả đó, thế nhưng quan hệ hợp tác quốc phòng thì còn lâu hơn, không thể trong một sớm một chiều.Có thể những người trong Bộ quốc phòng hay Bộ Ngoại giao Việt Nam không thích Trung Quốc hay quan ngại về toàn vẹn lãnh thổ, thế nhưng phía Đảng Cộng Sản thì quan tâm hơn đến tính giao hảo. Vì thế mà vấn đề hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ sẽ phải mất nhiều thời gian hơn cho đến khi mọi quyết định của Việt Nam trở nên rõ ràng.”
T.S Lohman
Thưa quí vị, viết chung cùng tác giả Walter Lohman, là Đại tá đã nghỉ hưu của Quân đội Hoa Kỳ William H. Jordan, ông từng đi lính ở Việt Nam 2 năm và T.S Lewis M. Stern, T.S Stern làm việc 10 năm trong Cục Tình Báo Trung Ương 10 năm và 20 năm là chuyên gia về Đông Nam Á của Văn Phòng Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.
1167. NGHỊCH LÝ CHIẾN LƯỢC BIỂN CỦA TRUNG QUỐC
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAMTài liệu Tham khảo đặc biệt
Thứ năm, ngày 26/7/2012
TTXVN (Niu Yoóc 24/7)
Ngày 17/7, hãng Stratfor của Mỹ công bố tài liệu với đầu đề trên, trong đó cho biết, trong thập kỷ qua, Biển Đông trở thành một trong những điểm bất ốn nhất ở Đông Á. Trung Quốc, Việt Nam, Philíppin, Malaixia, Brunây và Đài Loan đều khẳng định chủ quyền một phần hoặc tất cả vùng biển, và các tuyên bố chồng lấn dẫn đến đối đầu ngoại giao và thậm chí quân sự trong những năm gần đây. Do Biển Đông có nhiều quần đảo, giàu tài nguyên khoáng sản, năng lượọng và gần 1/3 tuyến đường hàng hải của thế giới đi qua, nên tất nhiên vùng biển này có giá trị chiến lược đối với các quốc gia liên quan. Nhưng với Trung Quốc, kiểm soát trên Biển Đông không chỉ là vấn đề thực hiện mà còn là tâm điểm chính sách ngoại giao tiến thoái lưỡng nan của Bắc Kinh: Làm sao để khẳng định chủ quyền hàng hải lịch sử trong khi vẫn duy trì các chính sach không đối đầu với các nước do ông Đặng Tiểu Bình xây dựng năm 1980. Trung Quốc đã khẳng định quyền kiểm soát Biển Đông từ khi kết thúc cuộc nội chiến Trung Quốc. Lúc đó, hầu hết ở các nước khác đều đang nổi lên các phong trào giành độc lập, Trung Quốc chỉ cần làm rất ít việc để đảm bảo lời khẳng định của mình. Nhưng do các quốc gia khác xây dựng lực lượng hàng hải, theo đuổi mối quan hệ mới và có một quan điểm tích cực hơn trong việc thăm dò và tuần tra vùng biển và với thái độ không thân thiện của Trung Quốc trước bất cứ nhượng bộ nào về lãnh thổ, cách tiếp cận lặng lẽ của Đặng Tiểu Bình là lựa chọn đúng đắn.
Sự phát triển hàng hải của Trung Quốc
Trung Quốc là nước kiểm soát một bờ biển dài, trước kia từ biển Nhật Bản ở phía Đông Bắc tới Vịnh Bắc Bộ ở phía Nam. Mặc dù bờ biển dài, nhưng Trung Quốc gần như chỉ luôn chú trọng bên trong, ít khi quan tâm đến các vùng biển và thậm chí cả trong những thời điểm khá ổn định trên đất liền. Theo truyền thống, các mối đe dọa lớn nhất đối với Trung Quốc không xuất phát từ biển, trừ trường hợp cướp biển không thường xuyên, mà thường từ cạnh tranh nội bộ và các lực lượng du mục ở phía Bắc và phía Tây. Thách thức địa lý của Trung Quốc đã thúc đẩy một nền kinh tế nông nghiệp trên cơ sở quy mô dòng họ và nhỏ lẻ với một cơ cấu quyền lực mạnh mẽ phân cấp, được thiết kế một phần để giảm thiểu những thách thức liên tục từ các lãnh chúa và khu vực. Phần lớn thương mại của Trung Quốc với thế giới được thực hiện thông qua các tuyến đường bộ hoặc bởi người Arập và các thương nhân nước ngoài khác tại một số khu vực ven biển. Nói chung, Trung Quốc chỉ tập trung ổn định dân cư và biên giới đất liền hơn là các cơ hội tiềm tàng từ thương mại hàng hải hoặc thăm dò, bởi vì khi đó tiếp xúc với bên ngoài có thể mang lại nhiều rắc rối không kém gì những lợi ích. Hai yếu tố góp phần vào việc Trung Quốc thử nghiệm phát triển hải quân gồm: sự thay đổi chiến tranh từ phía Bắc xuống phía Nam Trung Quốc và có những thời điểm an ninh trong nước khá ổn định. Trong suốt triều đại nhà Tống (960-1279), các đội kỵ binh của vùng đồng bàng phía Bắc, vốn là một lực lượng quân sự lớn trên đất liền, kéo xuống phía Nam ven sông và đầm lầy. Lực lượng hải quân sông nước cũng phát triển ra bờ biển, và nhà Tống khuyến khích chuyển hướng về phía biển và thương thuyền của Trung Quốc thay thế các thương nhân nước ngoài dọc bờ biển. Mặc dù chủ yếu vẫn hướng vào nội địa trong suốt triều đại nhà Nguyên (1271-1368), nhưng Trung Quốc đã thực hiện ít nhất hai cuộc chiến hải quân lớn vào cuối thế kỷ 13 – chống Nhật Bản và Java – cả hai cuối cùng đã không thành công. Thất bại của các cuộc chiến góp phần vào quyết định của Trung Quốc một lần nữa quay lưng lại với biển. Cuộc phiêu lưu hàng hải lớn cuối cùng diễn ra vào đầu triều đại nhà Minh (1368-1644), khi nhà thám hiểm Hồi giáo Trịnh Hòa thực hiện 7 chuyến hành trình nổi tiếng tới nhiều khu vực trên thế giới như châu Phi, nhưng không sử dụng cơ hội này để thiết lập sức mạnh lâu dài của Trung Quốc ở nước ngoài. Hạm đội của Trịnh Hòa đã bị lãng quên vì Nhà Minh nhìn thấy khó khăn đang nổi lên trong đất liền, kể cả nạn cướp biển hoành hành ngoài khơi và Trung Quốc một lần nữa lại hướng nội. Tại cùng thời điểm mà Magellan bắt đầu chuyến thám hiểm toàn cầu vào đầu những năm 1500, Trung Quốc tiếp tục chính sách cô lập của họ, hạn chế thương mại và giao tiếp với bên ngoài và chấm dứt nghiên cứu các rủi ro hàng hải. Lực lượng hải quân Trung Quốc chuyển sang phòng vệ bờ biển hơn là tấn công. Sự xuất hiện các tàu chiến châu Âu trong thế kỷ 19 đã thu hút sự quan tâm của chính quyền Trung Quốc, và Trung Quốc sau đó đã thực hiện một chương trình hải quân dựa trên công nghệ phương Tây. Điều này cho thấy sự thống nhất trong suy nghĩ chiến lược lớn hơn của Trung Quốc vẫn hạn chế. Nhận thức không đầy đủ về hàng hải góp phần đưa đến quyết định của nhà Thanh nhượng quyền ra vào quan trọng cửa sông Đồ Môn cho Nga năm 1858, vĩnh viên đóng cửa ra vào vùng biển Nhật Bản từ phía Đông Bắc. Sau đó gần 40 năm, mặc dù xây dựng một đội tàu lớn nhất khu vực, hải quân Trung Quốc đã bị hải quân Nhật Bản mới nổi lên đánh bại. Sau đó gần một thế kỷ, người Trung Quốc một lần nữa tập trung gần như hoàn toàn trên đất liền, các lực lượng hải quân chỉ đóng vai trò phòng thủ thuần túy ven biển. Từ những năm 1990, chính sách này dần dần thay đổi khi mối quan hệ kinh tế của Trung Quốc với thế giới mở rộng. Đối với Trung Quốc, để bảo đảm sức mạnh kinh tế và nâng cao ảnh hưởng toàn cầu mạnh mẽ hơn, phát triển một chiến lược hải quân tiên phong đã trở thành điều bắt buộc.
Giải thích “đường 9 đoạn”
Để hiểu lôgích hàng hải của Trung Quốc ngày nay và các tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng của Trung Quốc, đầu tiên cần hiểu cái gọi là đường chín đoạn – đường biên giới lỏng lẻo phân định ranh giới các khiếu nại hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông. Đường 9 đoạn của Trung Quốc được dựa trên cơ sở một tuyên bố lãnh thổ năm 1947 của Chính quyền Quốc Dân Đảng lúc đó đang cầm quyền, thiếu sự cân nhắc chiến lược do lúc đó đang phải tập trung đối phó với hậu quả từ sự chiếm đóng của Nhật Bản trên đất Trung Quốc và cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau khi kết thúc sự chiếm đóng của Nhật Bản, Chính quyền Quốc Dân Đảng đã cử các sĩ quan hải quân và các đội khảo sát đến Biển Đông để lập bản đồ các hòn đảo khác nhau. Bộ Nội vụ Đài Loan công bô một tấm bản đồ đường 11 đoạn ở Biển Đông kéo ra xa từ bờ biển của Trung Quốc. Bản đồ này, mặc dù thiếu các tọa độ cụ thể, đã trở thành cơ sở cho tuyên bố hiện nay của Chính quyền Bắc Kinh sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949. Năm 1953, có lẽ như một biện pháp nhàm giảm thiểu xung đột với nước láng giềng Việt Nam, Bắc Kinh loại bỏ 2 trong số 11 đoạn, từ đó hình thành đường 9 đoạn như hiện nay. Trước đây các nước láng giềng ít phản đối hoặc khiếu nại bản đồ đường 9 đoạn của Bắc Kinh do họ đang tập trung cho các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Bắc Kinh coi sự im lặng của những người hàng xóm và cộng đồng quốc tế là sự phục tùng và sau đó Bắc Kinh chủ yếu im lặng để tránh những thách thức đối với bản vẽ. Bắc Kinh lảng tránh việc tuyên bố chính thức đường 9 đoạn vì cho rằng nó là một biên giới bất khả xâm phạm bất chấp các nước khu vực và quốc tế công nhận hay không công nhận và coi đường 9 đoạn là cơ sở lịch sử để chống lại các tuyên bố chủ quyền biển khác.
Cũng như các nước tuyên bố chủ quyền khác như Việt Nam và Philíppin, mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là sử dụng khả năng mạnh mẽ của hải quân để kiểm soát các đảo cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên và vị thế chiến lược của Biển Đông. Khi quân đội còn yếu kém, Bắc Kinh ủng hộ quan điểm gạt sang một bên các bất đồng chủ quyền và chú trọng phát triển chung nhằm hạn chế các bất đồng lớn do sự chống lấn chủ quyền, đồng thời kéo dài thời gian để phát triển lực lượng hải quân của mình. Bên cạnh đó, để đối phó với sự đoàn kết của các nước tuyên bố chủ quyền Biển Đông, Bắc Kinh âm mưu sử dụng cách tiếp cận đàm phán với từng quốc gia tuyên bố lãnh thổ mà không cần đề cập đến tuyên bố về đường 9 đoạn đó. Cách tiếp cận này sẽ cho phép Bắc Kinh chiếm ưu thế trong các cuộc đàm phán song phương – vấn đề mà họ lo sợ sẽ bị mất trong các diễn đàn đa phương. Mặc dù đường 9 đoạn không được Công ước củua Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 công nhận và liên tục gây nhiều tranh cãi, nhưng hiện nay Bắc Kinh ít có khả năng từ bỏ tuyên bố của họ. Trước sự quan tâm rất lớn của quốc tế và cạnh tranh khu vực trên Biển Đông, người dân Trung Quốc, vốn coi vùng nước trong đường 9 đoạn là khu vực lãnh hải Trung Quốc, đang ép Bắc Kinh có những hành động quyết đoán hơn. Điều này khiến Trung Quốc ở một vị thế khó khăn khi Bắc Kinh cố gắng mô tả phát triển chung như một bằng chứng cho thấy các nước khác đã công nhận tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc. Trái lại, các nước đối tác đã lảng tránh khi Bắc Kinh tìm cách giảm nhẹ tuyên bố để duy trì quan hệ quốc tế, trong khi người dân Trung Quốc ở trong nước thường tổ chức các cuộc biểu tình yêu cầu Chính phủ hành động. Nhưng bất cứ nỗ lực nào nhằm thu hút cử tri trong nước của Chính quyền Bắc Kinh đều có nguy cơ gây tức giận cho các đối tác nước ngoài hoặc ngược lại.
Phát triển chính sách hàng hải
Các diễn biến từ đường 9 đoạn, tình hình phát triển trong nước, và hệ thống quốc tế có nhiều thay đổi đã góp phần hình thành chiến lược phát triển biển của Trung Quốc. Dưới thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc tập trung vào nội bộ và bị hạn chế do lực lượng hải quân yếu kém. Mặc dù các tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc rất mơ hồ, nhưng khi các nước láng giềng chỉ tập chung vào cuộc đấu tranh giành độc lập, Trung Quốc đưa ra quan điểm biên giới lãnh hải mạnh mẽ hơn. Phát triển hải quân của Trung Quốc chủ yếu vẫn phục vụ mục tiêu phòns thủ và bảo vệ bờ biển khỏi các cuộc xâm lược từ bên naoài. Trong các nỗ lực cải cách kinh tế trong nước cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, Đặng Tiểu Bình đã tìm cách phát triển kinh tế thực dụng hơn từ các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông, đặt tuyên bố chủ quyền lãnh hải sang một thời điểm khác. Chi phí quân sự của Trung Quốc tiếp tục ưu tiên cho các lực lượng trên bộ và lực lượng tên lửa, còn lực lượng hải quân chỉ đóng vai trò bảo vệ các vùng ven biến Trung Quốc. Hai thập kỷ tiếp theo, Đặng Tiểu Bình vẫn tiếp tục các chính sách như vậy. Mặc dù lúc đó ở Biển Đông xảy ra một số đụng độ, nhưng nói chung, Bắc Kinh tiếp tục theo đuổi chiến lược tránh đối đầu và coi đây là một nguyên tắc cốt lõi trên biển. Hải quân Trung Quốc không ở vị trí thách thức sự thống trị của hải quân Mỹ hoặc không có bất cứ hành động quyêt đoán nào đối với các nước láng giềng, đặc biệt kể từ khi Bắc Kinh tìm cách tăng cường ảnh hướng trong khu vực thông qua các phương tiện kinh tế và chính trị. Nhưng đề nghị hợp tác phát triển Biển Đông của Bắc Kinh phần lớn bị thất bại. Do sức mạnh kinh tế và chi tiêu quân sự của Trung Quốc ngày càng tăng, đặc biệt gần đây Trung Quốc tập trung hiện đại hóa lực lượng hải quân, từ đó khiến các nước láng giềng nghi ngờ và họ kêu gọi đóng vai trò tích cực hơn để đối trọng với sự gia tăng của Trung Quốc. Vấn đề đường 9 đoạn và tuyên bố chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc cùng nổi lên đáng kể vì nhiều nước nộp đơn khiếu nại chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. Trung Quốc, đã ký Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển chủ yếu do lợi ích hàng hải và tài nguyên ở Biển Đông, nhận thấy chính họ cũng phải đưa ra một số tuyên bố ngược lại ở Biển Đông, từ đó báo động ở các nước láng giềng trước những gì được coi là hành động thúc đẩy ý đồ bá chủ khu vực của Bắc Kinh. Nhưng không chỉ các quốc gia có tranh chấp Biển Đông tỏ ra lo ngại trước các biện pháp của Trung Quốc, các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc Mỹ, Ôxtrâylia và Ấn Độ…, những nước phụ thuộc vào biển về thương mại và vận tải quân sự, cũng tỏ thái độ không thể chấp nhận quan điểm bành trướng của Trung Quốc. Tất cả các quốc gia này coi những hành động của Trung Quốc như một khúc dạo đầu thách thức các vùng nước thuộc quốc gia khác. Trung Quốc phản ứng băng những lời lẽ ngày càng quyết đoán và quân đội Trung Quốc cũng đóng vai trò lớn hơn trong các quyết định chính sách đối ngoại. Rõ ràng chính sách về không đối đầu của Trung Quốc trước đây nay đã được thay thế bằng một cách tiếp cận mới.
Tranh luận về chính sách đối ngoại
Năm 1980, Đặng Tiểu Bình đưa ra chính sách đối ngoại, trong đó yêu cầu Trung Quốc lặng lẽ quan sát, giữ vững trận địa, bình tĩnh ứng phó, giấu mình chờ thời…. Những nguyên lý cơ bản này vẫn là cốt lõi trong chính sách đối ngoại Trung Quốc và được coi là nguyên tắc chỉ đạo hành động hoặc sử dụng để bào chữa cho hành động yên lặng. Nhưng môi trường trong nước và khu vực đã thay đổi đáng kể từ những ngày đầu của cuộc cải cách do Đặng Tiểu Bình phát động và phát triển kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Do đó Bắc Kinh hiểu rằng chỉ thông qua một chính sách chủ động hơn, Trung Quốc mới có thể phát triển từ một sức mạnh duy nhất trên đất liền đến sức mạnh trên biển và định hình lại khu vực một cách có lợi cho lợi ích an ninh của họ. Nếu không hành động như vậy, các quốc gia khác trong khu vực và đồng minh của họ, cụ thể Mỹ, sẽ âm mưu hoặc thậm chí đe dọa các tham vọng của Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang tranh cãi hoặc thay đổi ít nhất bốn yếu tố chính sách của Đặng Tiểu Bình: 1. Thay đổi từ không can thiệp chuyển sang việc can thiệp sáng tạo; 2. Thay đổi từ nền ngoại giao song phương sang ngoại giao đa phương; 3. Thay đổi từ ngoại giao phản ứng sang ngoại giao phòng ngừa; 4. Phát triển từ chính sách không liên kết chặt chẽ sang bán liên minh. Can thiệp sáng tạo được Bắc Kinh mô tả như một biện pháp để Trung Quốc chủ động hơn trong việc bảo vệ lợi ích của họ ở nước ngoài bằng cách tham gia nhiều hơn vào tình hình chính trị của các nước khác – một sự thay đổi từ không can thiệp sang một thứ gì đó linh hoạt hơn. Trung Quốc đã sử dụng tiền và các công cụ khác để hình thành sự phát triển bên trong ở các nước khác trong quá khứ, nhưng sự thay đối chính sách chính thức sẽ đòi hỏi Trung Quốc phải can dự sâu hơn các vấn đề khu vực. Nhung điều này sẽ làm suy yếu các nỗ lực của Trung Quốc trong việc thúc đẩy ý đồ: Trung Quốc chỉ là một quốc gia đang phát triển giúp các nước đang phát triển khác trong bối cảnh của chủ nghĩa đế quốc phương Tây và bá quyền. Sự thay đổi trong nhận thức có thể ảnh hưởng đến một số lợi thế của Trung Quốc trong việc lôi kéo các nước đang phát triển vì Bắc Kinh dựa trên những cam kết không can thiệp chính trị như một biện pháp chống lại những lời chào mời của phương Tây về các công nghệ tốt hơn hoặc những nguồn phát triển tốt hơn thường kèm theo nhũng yêu cầu thay đổi chính trị của phương Tây. Từ lâu Trung Quốc đã dựa vào quan hệ song phương như một biện pháp ưa thích để quản lý các lợi ích quốc tế. Khi hoạt động trong các diễn đàn đa phương, Trung Quốc thường im lặng chứ không thể hiện sức mạnh của một siêu cường. Ví dụ, Trung Quốc có thể ngăn chặn các biện pháp trừng phạt trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhưng hiếm khi đề nghị các giải pháp khác cho cộng đồng quốc tế theo đuổi.
Nhưng hiện nay Trung Quốc đang theo đuổi các mối quan hệ đa phương như một cách để bảo đảm quyền lợi của họ thông qua các nhóm lớn hơn. Mối quan hệ của Trung Quốc với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, tham gia Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và theo đuổi hội nghị thượng đỉnh ba bên giúp Bắc Kinh định hướng chính sách của các tổ chức này. Bằng việc chuyển sang cách tiếp cận đa phương, Trung Quốc có thể làm cho một số quốc gia yếu hơn cảm thấy an toàn, từ đó có thể ngăn chặn các nước này chuyển sang tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ. Theo truyền thống, Trung Quốc áp dụng một chính sách ngoại giao tương đối tích cực, đối phó với cuộc khủng hoảng khi chúng xuất hiện nhưng thường không phát hiện hoặc hành động để ngăn chặn các cuộc khủng hoảng trước khi chúng trở thành hiện thực. Ở những nơi đã tìm cách tiếp cận được các nguồn tài nguyên thiên nhiên, Bắc Kinh thường bị chỉ trích không quan tâm tới những thay đổi trong khu vực và không chuẩn bị các chiến lược phản ứng, chẳng hạn sự phân chia Xuđăng thành hai nước Xuđăng và Nam Xuđăng. Giờ đây Trung Quốc đang tranh luận về việc chuyển hướng chính sách này sang một chính sách khác để có thể hiểu biết các lực lượng cơ bản và các nguy cơ dẫn đến xung đột, từ đó hành động một mình hoặc hợp tác với cộng đồng quốc tế nhằm xoa dịu các căng thẳng. Đối với Biển Đông, điều này có nghĩa, Trung Quốc phải làm rõ chủ quyền biển của họ ở mức nào thay vì tiếp tục sử dụng đường 9 đoạn mơ hồ, đồng thời nỗ lực theo đuổi các ý tưởng cho một cơ chế an ninh châu Á, trong đó Trung Quốc sẽ đóng một vai trò lãnh đạo tích cực. Lập trường của Trung Quốc về các liên minh vẫn giữ nguyên như Đặng Tiểu Bình đưa ra trong những năm 1980: Trung Quốc không tham gia thiết lập liên minh nhằm chống lại nước thứ ba. Đây là quan điểm cho phép Trung Quốc duy trì chính sách đối ngoại độc lập và tránh các vấn đề quốc tế do liên minh gây nên. Ví dụ, kế hoạch Trung Quốc chiếm lại Đài Loan bị nhấn chìm bởi sự tham gia của Trung Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên và nhờ đó quan hệ của Trung Quốc với Mỹ được thiết lập lại sau một thập kỷ. Sự sụp đổ của hệ thống Chiến tranh Lạnh và sự gia tăng ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Trung Quốc đã tạo nên chính sách mới. Bắc Kinh theo dõi thận trọng khi NATO mở rộng về phía Đông và khi Mỹ tăng cường liên minh quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Rõ ràng, chính sách không liên minh của Bắc Kinh khiến Trung Quốc thiếu khả năng một mình đối mặt với các tổ chức này. Do đó, Trung Quốc chủ trương theo đuối cơ cấu bán liên minh nhăm khăc phục nhược điểm này. Hiện nay Trung Quốc đang tìm kiếm và thúc đẩy các mối quan hệ đối tác chiến lược cũng như các cuộc diễn tập quân sự và nhân đạo với nhiều quốc gia khác là một phần của chiến lược này. Chiến lược mới của Trung Quốc nhằm xây dụng một cơ cấu liên minh chống lại Mỹ. Trong chiến lược biển, Bắc Kinh đang nỗ lực hợp tác với Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc trong các hoạt động clìống cướp biển, và trao đổi các hoạt động của hải quân và diễn tập chung.
Hưởng về phía trước
Thế giới đang thay đổi. Sự phát triển của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế lớn buộc Bắc Kinh phải suy nghĩ lại chính sách đối ngoại truyền thống. Trước mắt, vấn đề Biển Đông là một mô hình thu nhỏ của cuộc tranh luận rộng lớn về chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Các tuyên bố chủ quyền mập mờ của Trung Quốc chỉ có tác dụng khi tình hình khu vực yên tĩnh, nhưng không phục vụ mục đích phát triển lợi ích biển và hoạt động của hải quân Trung Quốc, ngược lại đã làm tăng căng thẳng giữa Bắc Kinh và khu vực. Công cụ chính sách trước đây không còn phục vụ các nhu cầu của Trung Quốc. Chính sách phát triển kế thừa từ Đặng Tiểu Bình không còn mang lại bất cứ sự hợp tác đáng kể nào với các nước láng giềng ven biển và việc khẳng định đường 9 đoạn hoàn toàn trái với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển đồng thời làm gia tăng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi ở trong nước cũng như các phản ứng mạnh mẽ của các nước láng giềng. Mặc dù chính sách biển thiếu rõ ràng, nhưng Trung Quốc thể hiện ý đồ tiếp tục củng cố tuyên bố của họ trên cơ sơ đường 9 đoạn. Bắc Kinh thừa nhận những thay đổi chính sách là cần thiết, nhưng sự thay đổi đó không được gây nên bất cứ hậu quả nào./.
1168. VỊ TRÍ NÀO CHO INĐÔNÊXIA Ở ĐÔNG NAM Á?
Tài liệu Tham khảo đặc biệtThứ năm, ngày 26/7/2012
TTXVN (Giacácta 22/7)
Bàn về các yếu tố cấu thành địa chính trị – kinh tế của khu vực Đông Nam Á trong bối cảnh hiện nay; vai trò và cách hành xử của Inđônêxia với tư cách là một nước lãnh đạo khu vực có sức ảnh hưởng ngày càng tăng trong chính sách của các nước lớn, học giả Beginda Pakpahan – giảng viên Đại học Inđônêxia và là một nhà nghiên cứu tại trường Đại học Edinburgh (Anh) có bài biết đăng trên tờ “Bưu điện Giacácta”, nhan đề: “Địa chính trị và địa kinh tế ở Đông Nam Á: Vị trí nào của Inđônêxia?”. Dựa trên những phân tích tình hình, trong đó có vấn đề Biển Đông và cấu trúc hiệp định tự do thương mại (FTA), tác giả cũng đã đưa ra những luận giải chính sách vì một Đông Á, ASEAN ổn định, phát triển đáng lưu tâm. Sau đây là nội dung bài viết:
Địa chính trị và địa kinh tế trên toàn bộ khu vực Đông Nam Á đang thay đổi nhanh chóng hơn bao giờ hết, trong khi tầm quan trọng toàn cầu của các vấn đề nội bộ khu vực tiếp tục mở rộng. Trong đó, Biển Đông và sự gia tăng của quan hệ đối tác thương mại là hai vấn đề trung tâm của các nước khu vực và trên toàn thế giới.
Vậy vị trí của Inđônêxia,trong hai vấn đề này là gì? Làm thế nào chúng ta có thể dự báo phản ứng của Inđônêxia đối với những phát triển đó? Mức độ mà Inđônêxia có thể, hoặc nên phát triển hoặc tăng cường vị trí của mình?
Tôi cho rằng Inđônêxia nên ở vào vị trí trung tâm địa chính trị – kinh tế đương đại khu vực Đông Nam Á; tăng cường năng lực và khả năng của mình để hành xử như một nhân tố ổn định không liên kết, và như là một nhạc trưởng, nếu không thì cũng như một bên tham gia.
Thiết lập và duy trì ổn định kinh tế, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế trong khu vực là vai trò chính của ASEAN. Inđônêxia, với tư cách là một quốc gia, một quyền lực ngoại giao hoặc kinh tế, có thể phải đóng vai trò trung tâm trong định hướng tới nhũng mục tiêu này. Đó chính là sức mạnh của nên kinh tế Inđônêxia, đến mức mà sự ổn định khu vực không thể đạt được nếu thiếu chúng ta.
Biển Đông trở thành một vấn đề quan trọng đối với Inđônêxia, bởi hiện tồn tại rất nhiều tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc và các nước ASEAN (Philíppin, Malaixia, Việt Nam và Brunây). Đôi khi Trung Quốc và Philíppin chơi trò chơi nguy hiểm ăn miếng trả miếng thông qua các tàu của họ ở bãi Scarborough – nơi cả hai đều tuyên bố chủ quyền. Hai bên cố tình gia tăng căng thẳng trong khu vực tới mức mà Trung Quốc gần đây đã phải cảnh báo các công dân của mình ở Philíppin. Còn Philíppin được Mỹ cam kết bảo vệ những gì mà Manila coi là lãnh thổ, nếu bị tấn công.
Sự căng thẳng ở Biển Đông có thể sẽ trở thành một cuộc chiến tranh toàn diện, nếu không được giải quyết hiệu quả.
Ôxtrâylia mời Mỹ triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ ở căn cứ Danviri, với tuyên bố công khai là để đối phó với thiên tai trong khu vực. Oasinhtơn cũng hứa hẹn với Canbơrơ triển khai các thiết bị do thám ở quần đảo Cocos để theo dõi các hoạt động ở Biển Đông.
Những động thái này đã khiến Trung Quốc và các nước ASEAN chú ý. Biển Đông có khả năng trở thành một nơi cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Xét về mặt địa lý, đây là một khu vực căng thẳng địa chính trị hoàn toàn mới, và là sân sau của chúng ta.
Nếu Biển Đông đại diện cho một địa chính trị mới, thì sự phổ biến của các quan hệ đối tác kinh tế chắc chắn phải là hình mẫu của một địa kinh tế mới ở khu vực Đông Nam Á. ASEAN đã mở rộng họp tác kinh tế với các đối tác bên ngoài thông qua các hiệp định tự do thương mại (FTA) và hiệp định đối tác kinh tế khác. Nhiều thòa thuận kinh tế đã được ký kết, hoàn tất và đang trong quá trình triển khai, với các nước láng giềng và lân cận như Trung Quốc, Ấn Độ, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Nhật Bản và Hàn Quốc. Các nước thành viên ASEAN cũng đã đạt thoả thuận song phương về kinh tế, ví dụ: Xinhgapo – Trung Quốc và Brunây – Nhật Bản.
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang nổi lên như một thỏa thuận thương mại quan trọng trong khu vực chúng ta.
Các nước thành viên TPP hiện bao gồm Niu Dilân, Xinhgapo, Brunây, Chilê, Mỹ, Malaixia, Ôxtrâylia, Việt Nam và Nhật Bản đã bày tỏ sự quan tâm đến tư cách thành viên và nhanh chóng thúc đẩy đàm phán gia nhập.
Trong khi chưa phải là thành viên của quan hệ đối tác này, Mỹ đã tuyên bố ý định thuyết phục các đồng minh trong khu vực Đông Nam Á tham gia TPP. Do đó, việc mở rộng nhanh chóng của các hiệp định thương mại kết họp với việc Mỹ xúc tiến thành lập TPP tạo nên đặc điểm một địa kinh tế mới của khu vực.
Dù muốn hay không, vị trí của Inđônêxia là ở trung tâm của những phát triển này. Một mặt, chúng ta là quốc gia lớn nhất Đông Nam Á với một vị trí chiến lược trong mối quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Ôxtrâylia. Nhật Bản và Hàn Quốc. Mặt khác, Inđônêxia nằm giữa sự cạnh tranh đang phát triển giữa Trung Quốc và Mỹ về các vấn đề nêu trên: cọ xát kinh tế và lãnh thổ trong khu vực.
Không liên kết và nằm giữa các siêu cường, Inđônêxia hoàn toàn có thể là một nhân tố ổn định ảnh hưởng và trung gian trung thực giữa Mỹ và Trung Quốc. Chúng ta có cả cơ hội và năng lực để thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển kinh tế.
Trên bình diện địa chính trị của khu vực Đông Nam Á, nếu ảnh hướng của Inđônêxia không phát huy tác dụng, liệu Trung Quốc có thể được thuyết phục để tôn trọng Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) và Bộ qui tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông? Inđônêxia, và có lẽ chỉ Inđônêxia, mới có động lực và cơ hội để tác động đến Trung Quốc và Philíppin và giảm căng thẳng trong khu vực Biển Đông.
Inđônêxia có thể đề nghị phương cách chủ quyền chung đối với các vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc, Philíppin, Việt Nam, Malaixia và Brunây với sự ủng hộ của Mỹ và các nước ASEAN khác. Nếu cần phải như vậy, Inđônêxia sẽ dàn xếp ổn thỏa việc này.
Dưới vai trò chèo lái của Inđônêxia, ASEAN và Trung Quốc có thề thiết lập một ủy ban an ninh chung để giám sát các thỏa thuận tập thể (ví dụ như an ninh hàng hải và hợp tác năng lượng) trên Biển Đông.
Với vai trò lãnh đạo mạnh mẽ, vô tư đó, thì Trung Quốc, Philíppin, và các quốc gia liên quan khác có thể làm việc cùng nhau để bảo vệ và phát triển khu vực Biển Đông mà không còn có bầu không khí ngờ vực, sợ hãi và các mối đe dọa như hiện nay.
Đối với các yếu tố địa kinh tế của khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia có thể tạo năng lực để ASEAN đạt đuực một lập trường chung khi ứng phó với sự phát triển của quan hệ đối tác kinh tế trong khu vực. Inđônêxia cần nhắc nhở và tác động các nước ASEAN khác hành động một cách tập thể, nhằm tăng cường hiệu lực của các FTA giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, và làm cho Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) trở thành một cơ sở cho hợp tác kinh tế ở Đông Á.
Mỹ, Ôxtrâylia và các nước khác trong khu vực là thành viên của EAS. Nói cách khác, nếu có ý chí, Inđônêxia có thể mang lại một nỗ lực tập thể của ASEAN, Mỹ và các đối tác khác để thúc đẩy EAS trở thành một trục họp tác kinh tế./.
1169. Đằng sau sự tan vỡ của ASEAN
Asia TimesTác giả: Carlyle A Thayer
Người dịch: Thủy Trúc
27-7-2012
Gần đây, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natalegawa đã thực hiện một chuyến công du ngoại giao con thoi cấp tốc, tới Campuchia, Việt Nam, Philippines, Singapore và Malaysia, để bảo vệ thỏa thuận của khối về Nguyên tắc Sáu Điểm Trên Biển Đông của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Khi được hãng truyền thông Australia (ABC) đề nghị tóm lược kết quả công việc, ông trả lời: “Trở lại với công việc như bình thường thôi”.
Ý ông Natalegawa là, ông đã vượt qua được tình trạng lộn xộn bề ngoài của ASEAN, khi bộ trưởng ngoại giao của các nước trong khối này không thể đạt được thỏa thuận về bốn phần (paragraph) trong vấn đề Biển Đông, cần phải được đưa vào một dự thảo tuyên bố chung để tóm lược kết quả hội nghị của khối. Lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của ASEAN, sự kiện do Campuchia chủ trì này đã bộc lộ việc Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) không đồng thuận được với nhau về một tuyên bố chung.
Natalegawa đứng bên cạnh Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Hor Namhong khi ông công bố tuyên bố sáu điểm của ASEAN. Tuy nhiên, Hor Namhong thì không thể cưỡng lại chuyện đổ hết mọi tội lỗi trong việc ASEAN không ra được tuyên bố chung cho Việt Nam và Philippines, hai quốc gia ASEAN có đụng độ rõ ràng nhất với Trung Quốc về các yêu sách chủ quyền trên Biển Đông. Brunei, Malaysia và Indonesia cũng có tranh chấp với Trung Quốc về một số địa điểm cụ thể trong khu vực biển này.
Tuy vậy, biên bản Hội nghị Hẹp của ASEAN (AMM Retreat) lại ghi một câu chuyện khác hẳn. Theo các bản ghi nhớ về những cuộc thảo luận do một thành viên tham dự soạn thảo (mà tác giả có viết bài nhận định), Campuchia đã hai lần bác bỏ đề nghị của Philippines, Việt Nam và các thành viên ASEAN – đề nghị có một tham chiếu đến các diễn biến gần đây trên Biển Đông. Lần nào Campuchia cũng đe sẽ hủy tuyên bố chung. Vấn đề Biển Đông đã được thảo luận trong suốt phiên toàn thể của Hội nghị Hẹp của ASEAN. Philippines lên tiếng đầu tiên và sau đó là Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Lào, Myanmar, Singapore và Campuchia.
Ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario kể lại những ví dụ trong quá khứ và hiện tại về “sự bành trướng và thái độ hung hăng” của Trung Quốc, đã ngăn cản Philippines “thực thi luật pháp và buộc Philippines phải rút lui khỏi Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của chính mình”.
Ông Del Rosario hùng hồn: “Đâu là giá trị thực sự của bộ Quy tắc Ứng xử (COC) nếu chúng ta không thể gìn giữ DOC [Tuyên bố về Ứng xử của Các bên]?” – văn bản này đã được chính Trung Quốc tán thành đầu tiên vào năm 2002. Del Rosario chấm dứt bài diễn văn can gián của mình với tuyên bố “rất cần phải phản ánh được cam kết tập thể của ASEAN trong tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng ASEAN”.
Bốn nước khác cũng trực tiếp đề cập tới vấn đề này. Việt Nam gọi việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa gần đây trên các quần đảo tranh chấp ở Biển Đông, và việc Công ty Dầu khí Hải dương Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) mời các công ty nước ngoài thầu thăm dò khai thác ở những vùng biển tranh chấp khác, là “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở EEZ và thềm lục địa của Việt Nam”.
Việt Nam cho rằng tuyên bố chung phải phản ánh được thực tế này. Indonesia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ASEAN hành động theo một tiếng nói thống nhất, và lưu ý các bên rằng những diễn biến gần đây đều gây lo ngại cho tất cả các thành viên ASEAN. Indonesia tán thành ký bộ Quy tắc Ứng xử, và hứa sẽ “lưu hành một bản ghi không chính thức các yếu tố khả thi, bổ sung cho COC”.
Malaysia ủng hộ bình luận của Indonesia và nhấn mạnh: “Chúng ta phải nói một tiếng nói duy nhất; ASEAN phải thể hiện tiếng nói đoàn kết [của mình]; [nếu không] chúng ta sẽ bị mất tín nhiệm”. Malaysia kết luận: “Chúng ta phải nhắc đến tình hình ở Biển Đông, đặc biệt là bất kỳ hành động nào vi phạm luật quốc tế về EEZ và thềm lục địa. Dứt khoát không thể chấp nhận được, nếu chúng ta không đưa được điều đó vào tuyên bố chung. ASEAN cần phải thể hiện rõ ràng quan ngại của mình về Biển Đông, trong bản tuyên bố chung”.
Singapore lưu ý rằng “các diễn biến gần đây đặc biệt đáng lo ngại” bởi vì chúng làm gia tăng “sự diễn giải kỳ lạ luật pháp quốc tế, một sự diễn giải có thể phá hoại hoàn toàn cơ chế UNCLOS”. Singapore kết luận bằng câu nói: “ASEAN cần phải thể hiện rõ ràng quan ngại của mình về Biển Đông, trong bản tuyên bố chung… [Sẽ là] tổn hại cho chúng ta nếu chúng ta không nói gì cả”.
Đồng thuận tan vỡ
Trước khi Campuchia cất tiếng thì không có nước nào phản đối các diễn văn can ngăn của Philippines, Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Singapore. Khi đến lượt Campuchia phát biểu, Bộ trưởng Ngoại giao của họ hỏi, tại sao lại cần phải nhắc đến chuyện bãi cạn Scarborough, nơi Trung Quốc và Philippines gần đây có cuộc đụng độ kéo dài hai tháng.
Sau đó, ông bất ngờ tuyên bố: “Tôi phải nói thẳng với các vị, trong trường hợp chúng ta không thể tìm được lối ra, Campuchia không còn lý do gì để đưa vấn đề này ra nữa. Khi đó, sẽ không có văn bản nào hết. Chúng ta không nên cố gắng áp đặt quan điểm quốc gia; chúng ta nên cố gắng phản ánh các quan điểm chung, trên tinh thần dung hòa”.
Đến lúc này, cuộc thảo luận nóng hẳn lên, cả Philippines lẫn Việt Nam đều tiếp tục tranh cãi. Malaysia, Indonesia và Singapore có thêm diễn văn bổ sung. Hội nghị Hẹp của ASEAN kết thúc bằng tuyên bố của Hor Namhong: “Chúng ta không bao giờ có thể đạt được thỏa thuận, cho dù chúng ta có ngồi đây thêm 4 hay 5 tiếng nữa cũng vậy… Nếu các vị không thể nhất trí về nội dung của tuyên bố chung; chúng tôi không còn lý do gì để đưa vấn đề này ra, trên cương vị Chủ tịch ASEAN”.
Natalegawa đã chỉ ra rất đúng, rằng mặc dù không ra được tuyên bố chung, nhưng các bộ trưởng ngoại giao của ASEAN đã đạt được thỏa thuận về “các yếu tố chủ chốt” của một Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông. Kết quả của chuyến ngoại giao con thoi là, ông nói rằng các bộ trưởng ngoại giao của ASEAN đã nhất trí với “bản đầu của một Bộ Quy tắc Ứng xử Khu vực trên Biển Đông”.
Campuchia, với quyền hạn của mình trên cương vị chủ tịch ASEAN, đã tổ chức hai hội nghị không chính thức giữa quan chức cấp cao ASEAN với Trung Quốc để thảo luận con đường trước mắt tiến tới COC. Trung Quốc công khai tuyên bố rằng họ sẵn sàng bước vào thảo luận chính thức với ASEAN “khi các điều kiện chín muồi”.
Nếu tất cả đều đúng theo kế hoạch, quan chức cấp cao ASEAN và Trung Quốc sẽ thảo luận về các phương thức (thể thức) cho những cuộc thảo luận sắp tới. Họ vẫn còn cần phải xác định sẽ tiếp xúc với nhau ở cấp nào, thường xuyên hay không, và sẽ báo cáo cho ai. Theo kế hoạch, thảo luận chính thức sẽ bắt đầu vào tháng 9, và giới chức ASEAN hy vọng sẽ kết thúc đàm phán trước tháng 11.
Hoạt động ngoại giao con thoi của ông Natalegawa đã tạo ra một cú hích tinh thần rất cần thiết cho ASEAN. Các nỗ lực của ông cũng đã giúp xua tan khỏi Đông Nam Á quan niệm cho rằng các thành viên ASEAN không thể đoàn kết khi bàn về cách giải quyết vấn đề Biển Đông.
Quan trọng hơn, sự hòa giải (can gián) của Indonesia đã lưu ý Campuchia rằng, với tư cách chủ tịch ASEAN năm 2012, Campuchia không thể đơn phương kiểm soát chương trình nghị sự của ASEAN. Sự can thiệp của Natalegawa là chưa từng có tiền lệ: đảm nhận vai trò lãnh đạo mà thông thường là thuộc về nước chủ tịch ASEAN, và là tín hiệu cho thấy Indonesia sẵn sàng đóng một vai trò chủ động hơn trong các vấn đề khu vực. Điều này trái ngược với những năm tháng dưới thời Suharto, khi Indonesia, vốn được nghiễm nhiên coi là nhà lãnh đạo của Đông Nam Á, giữ một vai trò kiềm chế “mềm yếu” hơn.
Tuy nhiên, đằng sau sự thể hiện của Natalegawa cũng có thể có một ý nghĩa khác, rằng ASEAN đang “trở lại với công việc như bình thường thôi”. Nghĩa thứ hai này có thể là một cách ám chỉ mơ hồ tới thái độ tiếp tục hung hăng của Trung Quốc khi họ tìm cách thực thi quyền tài phán trên Biển Đông.
Có ba hình thức thể hiện. Thứ nhất là, Trung Quốc đã nâng cấp Tam Sa từ một hạt cấp huyện lên cấp tỉnh, và cho nó quy chế hành chính, quản lý quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa (bãi Macclesfield) và Trường Sa. Quả thật, chính quyền tỉnh Hải Nam đã khẩn trương chỉ định quan chức địa phương đến đơn vị mới này công tác, và sẽ tổ chức bầu cử để lựa chọn đại biểu vào Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (tức là Quốc hội – ND).
Thứ hai là, Hải Nam – tỉnh miền nam Trung Quốc – không bao lâu sau đó đã phái 30 tàu cá và bốn tàu hộ tống đến vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa. Lúc đầu đội tàu này đánh cá ngoài khơi dải Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), sau đó di chuyển đến dải Đá Gạc Ma (Johnson South Reef), cả hai đều là vùng biển đang có tranh chấp.
Thứ ba, và quan trọng nhất, là Ủy ban Quân sự Trung ương của Trung Quốc đã ra chỉ thị xây một khu nhà tù quân sự tại đơn vị hành chính Tam Sa. Nhà tù này, với trụ sở đóng tại đảo Phú Lâm (Woody Islands) sẽ có chức năng quốc phòng, bảo vệ cho một khu vực biển có diện tích bao trùm 2 triệu dặm vuông.
Do đó, trở lại công việc như thường lệ, theo nghĩa thứ hai, còn có thể có nghĩa là trong khi ASEAN đàm phán COC với Bắc Kinh, Trung Quốc có lẽ sẽ đồng thời, tiếp tục gây áp lực và đe dọa cả Philippines và Việt Nam, và tìm các cách khác để gieo rắc bất đồng trong 10 nước thành viên của khối ASEAN.
Carlyle Thayer là Giáo sư Danh dự tại Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Australia ở Canberra.
Nguồn: Asia Times
Bản tiếng Việt © BS2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét