Lời người dịch: Tình
cờ đọc bài tường trình tiếng Anh sau đây trên VietnamNetBridge (một cơ
quan ngôn luận và cũng là một trang báo điện tử Anh văn đầu tiên của
Việt Nam) người dịch xin làm một chuyện tức cười là chuyển ngữ ngược lại
một bài có lẽ đã được soạn bằng tiếng Việt trước khi chuyển qua tiếng
Anh, do vậy mà có lẽ phần Anh ngữ trên VietnamNetBridge của tác giả Bùi Diên viết không được chuẩn lắm.
Vì dịch từ Anh ngữ không dấu, tên tác giả cũng của các nhân vật Việt Nam trong bài cũng có thể không chính xác, xin quý vị đọc giả lượng thứ.
Sau khi quên được thân phận tha hương của mình, trớ trêu nhất có lẽ là nỗi đau ăm ắp của người Việt hải ngoại (như tôi) là vẫn dõi mắt nhìn về quê nhà để nhiều lúc phải cảm thấy nhục nhã và phẩn uất vì những chuyện khuất tất và nghịch lý vẫn tiếp tục xảy ra ở Việt-Nam, thí dụ như chuyện mã độc đang đe dọa các cơ quan nhà nước sau đây. Tuy bài viết không nói ra nhưng tôi đoan chắc các hệ thống tin học, vi tính và phần mềm đều đến từ Trung quốc (1), một người bạn và láng giềng 4 tốt và 16 chữ vàng được nhiều lãnh tụ đỉnh cao trí tuệ Việt Nam khắc ghi vào tâm não – nếu không – thì cũng khắc ghi trên hầu bao, nhắc họ đừng quên trọng lượng của đồng kim tiền đến từ đâu!
Trong khi hàng hóa Trung quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, thì lãnh đạo — không khác gì dân đen không-được-họ-chăm-lo — vẫn đổ xô tìm mua hàng rẻ và kém phẩm lượng từ Trung quốc và bỏ túi riêng ngân khoản còn lại. Do đó Việt Nam mới bị gán cho các con vi-rút độc địa của Trung quốc, và các ông lớn bị tiêm nhiểm một loại vi khuẩn khó chữa hơn mà dân gian gọi là bị Tàu phù. Trong khi hệ thống vi tính và tin học nhà nước bị cấy bởi các con vi-rút Trung hoa ác hiểm thì các ông lớn và an ninh quốc phòng Việt Nam bị gài những phần tử thân Trung quốc mà người dân gọi nôm na là tay sai gián điệp, vốn dĩ độc hại không kém những con ngựa thành Troie/Troy (Trojan horse).
Dân làm báo cũng như những người có tiếng nói trung trực, yêu nước lâu nay cũng chẳng lạ gì các vụ tấn công của tin tặc có lẽ xuất xứ từ phía nhà nước Việt Nam (có thể thừa hành lệnh của Trung quốc) bằng virus và những cài đặt nhu liệu khác. Cho nên trong vụ thiệt hại và thất thoát tin học quốc phòng này mà thủ phạm có lẽ không ai khác hơn bác láng giềng khổng lồ Trung quốc thì những người mà trước giờ e-mail hay các trang điện tử và server của họ đã bị thiệt hại vì bị công an mạng tấn công cũng nên đặt câu hỏi với nhà nước: so sánh số tiền và khoản thời gian khổng lồ mà Bộ Nội vụ đã bỏ ra cũng như chi trả cho các vụ đánh phá công dân mạng Việt Nam và hải ngoại xem có bằng số tiền mà họ dùng để phòng chống các thế lực thù địch không? (tôi cũng không hiểu ngoài Trung quốc ra, các thế lực thù địch khác là ai, có phải là Hoa Kỳ hay công dân nhập tịch Mỹ to mồm không?). Vì nếu thật sự CIA hay tình báo Mỹ có dự phần trong chuyện cài đặt vi-rút (một sắc xuất quá nhỏ!) thì thú thật cá nhân tôi cũng mừng, bởi vì tôi quan niệm rằng không có kẻ thù của Việt Nam nào thâm hiểm hơn kẻ thù truyền kiếp ngàn đời Trung quốc, lúc nào cũng âm mưu thôn tính hay đồng hóa dân Việt! Và nếu Hoa Kỳ có biết được những âm mưu lấn át của Bắc triều với Việt Nam thì âu đó là một điều đáng mừng giúp cho họ có cách đối phó với âm mưu bành trướng và mua chuộc này từ bên trong nội bộ Việt Nam.
(1) Công ty tin học Hua Wei của Trung Quốc – dưới quyền điều khiển của ông tổng giám đốc Nhậm Chính Phi (任正非 Ren Zhengfei), một cựu sĩ quan trong Quân đội Nhân dân Trung Quốc – trong vòng từ 2000 đến nay đã nhảy vọt lên đứng thứ nhì trên thế giới (chỉ sau công ty Eriscsson của Thụy Điển). Hua Wei có hơn 110.000 nhân viên, thu nhập năm 2010 của công ty Hua Wei lên đến 28 tỉ Mỹ kim. Thi trường của Hua Wei chiếm toàn quốc Trung Hoa kể cả Hồng Kông, Anh Quốc, Nhật và Liên hiệp Âu châu. Chính công ty này đã đưa nền tin học và hệ thống điện thoại viễn liên của Phi châu từ một kỹ nghệ phôi thai lên đẳng cấp quốc tế, và có thể sẽ qua mặt Ericsson để giữ vị trí thượng phong trong những năm tới, ngang hàng với những đại công ty vi tính và tin học truyền thông viễn liên thế giới như Cisco, IBM, và HP. Ở Việt Nam điện thoại di động của Hue Wei đang được giới tiêu thụ ưa chuộng, vì giá rẻ và nhiều công dụng. Nhiều chiếc điện thoại di động của Hua Wei có đến 3 sim và IP khác nhau (một số để liên lạc với công sở, một số với người nhà, một số cho người yêu hay vợ bé – một người bạn ở Việt Nam khoe với tôi như vậy). Cũng như các công ty công nghệ hay điện tử khác của Trung Quốc, lý do cho sự lớn mạnh của Hua Wei tùy thuộc vào sự điều khoản chuyển nhượng thông tin công nghệ trong cá hợp đồng của các công ty Tây phương và Hoa Kỳ khi họ đầu tư vào Trung Hoa, phần nữa do Trung Quốc không tôn trọng luật bản quyền trí tuệ và /tác quyền sáng chế (intellectual property) của các quốc gia khác.
Cũng vì lý do này và chủ trương cài đặt mã độc hoặc virus trong các bộ phận và linh kiện và phần mềm của Hua Wei mà hiện nay chính phủ Hoa Kỳ đã bác bỏ giao kèo hàng tỉ Mỹ kim của Hua Wei khi họ ký hợp đồng hợp tác với công ty SprintNextel của Mỹ vào tháng 11 vừa qua, cũng như khi Hua-Wei trả 2 triệu mua bản quyền của 3Leaf, một công ty trong vùng Silicon (thung lũng Hoa Vàng) thuộc San José, Santa Clara ở bang California.
Còn ở Việt Nam thì càng nguy hại hơn vì các router (dùng cho Internet) và switch (dùng cho các hãng điện thoại) thường mua của Huawei do giá rẻ và do tiền bôi trơn tay hấp dẫn hơn với các viên chức. Có nhiều nguồn tin cho thấy Huawei cài spyware vào router và switch của họ để nghe lén khách hàng … hai đường dẫn sau đây là một ví dụ:
http://nerdtwilight.wordpress.com/2011/12/05/u-s-national-security-concerns-cast-pall-over-huawei/
http://www.economist.com/node/18771640
Malware đang đe dọa các cơ quan nhà nước
Bùi Diên
VietNamNet Bridge – (Cập nhật lần chót 24/12/2011 11:47:00 (GMT +7)
Tin tặc điều khiển, tấn công và tán phát phần mềm độc hại đến hơn 1500 cổng thông tin điện tử tại Việt Nam. Trong khi đó, 1/3 máy tính nhập khẩu đã được phát hiện bị nhiễm mã độc. Tuy vậy
cơ quan nhà nước vẫn lơ là và cẩu thả trước nguy cơ bị phần mềm độc hại tấn công.*
Con số đáng lo ngại
Tại cuộc họp về cải thiện an toàn thông tin cho các cơ quan nhà nước do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức, người tham dự nghe nói đến những con số đáng ngại về các cuộc tấn công của tin tặc.
Cơ quan A68 thuộc Bộ Công an cho biết rằng các cán bộ của Bộ gần đây đã phát hiện ra rất nhiều hệ thống thông tin và cổng thông tin của các cơ quan nhà nước, kể cả những bộ phận và các cơ quan trọng yếu của Đảng Cộng sản và Nhà nước bị nhu liệu (malware) tàn độc lây nhiễm, thậm chí còn bị thâm nhập và tấn công.
Cơ quan A68 đã phát hiện ra rằng tin tặc đã đột nhập vào 1500 cổng thông tin, cài đặt malware với mục đích thu thập thông tin và chiếm quyền điều khiển hệ thống. Trong khi đó, Việt Nam đã được thêm vào danh sách 5 nước với khối lượng thư rác (spam) cao nhất thế giới. Như vậy 2011 rõ ràng là một năm “nóng” trong hệ thống an ninh mạng tại Việt Nam.
Một đại diện của Bộ Công An cũng đã cảnh báo rằng trong hai năm qua, khi kiểm tra các máy tính và các thiết bị nhập khẩu, Bộ đã phát hiện 1165 trong số 4892 bộ phận nhập khẩu, hoặc 1/3 hàng hoá nhập khẩu, đã bị nhiễm phần mềm độc hại. Cơ quan nhà nước đã được thông báo để kiểm tra nhập khẩu trang thiết bị kỹ lưỡng trước khi (đưa vào) sử dụng.
Quá bất cẩn
Các chuyên gia đã cho thấy lý do lớn nhất đằng sau vấn đề tin tặc hiện nay là sự bất cẩn quá mức của các cán bộ trong các cơ quan nhà nước.
“Rất nhiều cơ quan trọng yếu tại Việt Nam vẫn sử dụng địa chỉ email của nước ngoài để gửi tài liệu mật quan trọng cho các nhân viên của họ. Một số cơ quan và cá nhân đã phải chịu tổn thất nặng nề vì điều này”, Bộ An ninh đã cảnh báo.
Một viên chức của Bộ Quốc phòng nói rằng trong thực tế, các cơ quan chính quyền đều thiết lập các quy trình và điều lệ về bảo vệ thông tin, nhưng họ vẫn còn thiếu kỷ luật.
Nhiều sĩ quan biên soạn tài liệu bí mật hàng đầu trên máy tính của họ và sau đó gửi qua Internet để thu thập ý kiến của các quan chức khác . Một số các trường hợp khác, họ sao chép các tài liệu tối mật vào linh kiện USB và truyền tay những linh kiện USB này cho người khác.
“Đây thực sự là một mối đe dọa lớn đối với toàn bộ hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước”, ông nói.
Cơ quan nhà nước cũng đã được kêu gọi để tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hơn trong việc thanh lý thiết bị. Trong một số trường hợp, khi máy tính đã được đưa đến các cửa hàng để sửa chữa, các thông tin bí mật được lưu giữ trong các máy tính đã bị đánh cắp tại cửa hàng.
Khó khăn đến từ mọi phía
Ông Nguyễn Hữu Chính, Trưởng Cơ quan Công nghệ Thông tin của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết rằng rất nhiều thông tin dự án công nghệ đã không được thực hiện như dự hoạch, bởi vì các dự án không nhận được ngân khoản trong bối cảnh khi nhà nước Việt Nam đã cắt giảm chi tiêu ngân sách công.
Ông nói rằng số tiền được phân bổ cho Bộ trong năm 2012 chỉ đủ lớn để đảm bảo một nửa các thủ tục để đảm bảo an toàn thông tin.
Đỗ Đức Cường, Giám đốc Trung tâm Thông tin của Bộ Nội Vụ, cũng cho biết, cơ quan nhà nước thiếu tiền để đảm bảo thông tin an toàn. Ông cho biết ngân sách nhà nước chỉ cung cấp một số hàng trăm hàng ngàn đồng để đào tạo một nhân viên, trong khi học phí thực sự cao hơn nhiều.
Trong khi đó, báo động về các cuộc tấn công đã không được cập nhật. Trong một số trường hợp, Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đưa ra báo động về các cuộc tấn công của tin tặc hai tuần sau khi các cuộc tấn công đã được cảnh báo trên thông tin công nghệ diễn đàn.
—————————————–
BBT Đàn Chim Việt chú thích:
Bài viết kể trên, trước ấn bản Anh ngữ đã có (các) ấn bản Việt ngữ như:
Mã độc đe dọa các cơ quan nhà nước (21/12/2011). Theo nguồn ghi trên bản gốc tiếng Việt thì tác giả là báo Bưu Điện chứ không phải Bùi Diên như Nguyễn Khoa Thái Anh “cảm” bằng tiếng Anh.
Vì dịch từ Anh ngữ không dấu, tên tác giả cũng của các nhân vật Việt Nam trong bài cũng có thể không chính xác, xin quý vị đọc giả lượng thứ.
Sau khi quên được thân phận tha hương của mình, trớ trêu nhất có lẽ là nỗi đau ăm ắp của người Việt hải ngoại (như tôi) là vẫn dõi mắt nhìn về quê nhà để nhiều lúc phải cảm thấy nhục nhã và phẩn uất vì những chuyện khuất tất và nghịch lý vẫn tiếp tục xảy ra ở Việt-Nam, thí dụ như chuyện mã độc đang đe dọa các cơ quan nhà nước sau đây. Tuy bài viết không nói ra nhưng tôi đoan chắc các hệ thống tin học, vi tính và phần mềm đều đến từ Trung quốc (1), một người bạn và láng giềng 4 tốt và 16 chữ vàng được nhiều lãnh tụ đỉnh cao trí tuệ Việt Nam khắc ghi vào tâm não – nếu không – thì cũng khắc ghi trên hầu bao, nhắc họ đừng quên trọng lượng của đồng kim tiền đến từ đâu!
Trong khi hàng hóa Trung quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, thì lãnh đạo — không khác gì dân đen không-được-họ-chăm-lo — vẫn đổ xô tìm mua hàng rẻ và kém phẩm lượng từ Trung quốc và bỏ túi riêng ngân khoản còn lại. Do đó Việt Nam mới bị gán cho các con vi-rút độc địa của Trung quốc, và các ông lớn bị tiêm nhiểm một loại vi khuẩn khó chữa hơn mà dân gian gọi là bị Tàu phù. Trong khi hệ thống vi tính và tin học nhà nước bị cấy bởi các con vi-rút Trung hoa ác hiểm thì các ông lớn và an ninh quốc phòng Việt Nam bị gài những phần tử thân Trung quốc mà người dân gọi nôm na là tay sai gián điệp, vốn dĩ độc hại không kém những con ngựa thành Troie/Troy (Trojan horse).
Dân làm báo cũng như những người có tiếng nói trung trực, yêu nước lâu nay cũng chẳng lạ gì các vụ tấn công của tin tặc có lẽ xuất xứ từ phía nhà nước Việt Nam (có thể thừa hành lệnh của Trung quốc) bằng virus và những cài đặt nhu liệu khác. Cho nên trong vụ thiệt hại và thất thoát tin học quốc phòng này mà thủ phạm có lẽ không ai khác hơn bác láng giềng khổng lồ Trung quốc thì những người mà trước giờ e-mail hay các trang điện tử và server của họ đã bị thiệt hại vì bị công an mạng tấn công cũng nên đặt câu hỏi với nhà nước: so sánh số tiền và khoản thời gian khổng lồ mà Bộ Nội vụ đã bỏ ra cũng như chi trả cho các vụ đánh phá công dân mạng Việt Nam và hải ngoại xem có bằng số tiền mà họ dùng để phòng chống các thế lực thù địch không? (tôi cũng không hiểu ngoài Trung quốc ra, các thế lực thù địch khác là ai, có phải là Hoa Kỳ hay công dân nhập tịch Mỹ to mồm không?). Vì nếu thật sự CIA hay tình báo Mỹ có dự phần trong chuyện cài đặt vi-rút (một sắc xuất quá nhỏ!) thì thú thật cá nhân tôi cũng mừng, bởi vì tôi quan niệm rằng không có kẻ thù của Việt Nam nào thâm hiểm hơn kẻ thù truyền kiếp ngàn đời Trung quốc, lúc nào cũng âm mưu thôn tính hay đồng hóa dân Việt! Và nếu Hoa Kỳ có biết được những âm mưu lấn át của Bắc triều với Việt Nam thì âu đó là một điều đáng mừng giúp cho họ có cách đối phó với âm mưu bành trướng và mua chuộc này từ bên trong nội bộ Việt Nam.
(1) Công ty tin học Hua Wei của Trung Quốc – dưới quyền điều khiển của ông tổng giám đốc Nhậm Chính Phi (任正非 Ren Zhengfei), một cựu sĩ quan trong Quân đội Nhân dân Trung Quốc – trong vòng từ 2000 đến nay đã nhảy vọt lên đứng thứ nhì trên thế giới (chỉ sau công ty Eriscsson của Thụy Điển). Hua Wei có hơn 110.000 nhân viên, thu nhập năm 2010 của công ty Hua Wei lên đến 28 tỉ Mỹ kim. Thi trường của Hua Wei chiếm toàn quốc Trung Hoa kể cả Hồng Kông, Anh Quốc, Nhật và Liên hiệp Âu châu. Chính công ty này đã đưa nền tin học và hệ thống điện thoại viễn liên của Phi châu từ một kỹ nghệ phôi thai lên đẳng cấp quốc tế, và có thể sẽ qua mặt Ericsson để giữ vị trí thượng phong trong những năm tới, ngang hàng với những đại công ty vi tính và tin học truyền thông viễn liên thế giới như Cisco, IBM, và HP. Ở Việt Nam điện thoại di động của Hue Wei đang được giới tiêu thụ ưa chuộng, vì giá rẻ và nhiều công dụng. Nhiều chiếc điện thoại di động của Hua Wei có đến 3 sim và IP khác nhau (một số để liên lạc với công sở, một số với người nhà, một số cho người yêu hay vợ bé – một người bạn ở Việt Nam khoe với tôi như vậy). Cũng như các công ty công nghệ hay điện tử khác của Trung Quốc, lý do cho sự lớn mạnh của Hua Wei tùy thuộc vào sự điều khoản chuyển nhượng thông tin công nghệ trong cá hợp đồng của các công ty Tây phương và Hoa Kỳ khi họ đầu tư vào Trung Hoa, phần nữa do Trung Quốc không tôn trọng luật bản quyền trí tuệ và /tác quyền sáng chế (intellectual property) của các quốc gia khác.
Cũng vì lý do này và chủ trương cài đặt mã độc hoặc virus trong các bộ phận và linh kiện và phần mềm của Hua Wei mà hiện nay chính phủ Hoa Kỳ đã bác bỏ giao kèo hàng tỉ Mỹ kim của Hua Wei khi họ ký hợp đồng hợp tác với công ty SprintNextel của Mỹ vào tháng 11 vừa qua, cũng như khi Hua-Wei trả 2 triệu mua bản quyền của 3Leaf, một công ty trong vùng Silicon (thung lũng Hoa Vàng) thuộc San José, Santa Clara ở bang California.
Còn ở Việt Nam thì càng nguy hại hơn vì các router (dùng cho Internet) và switch (dùng cho các hãng điện thoại) thường mua của Huawei do giá rẻ và do tiền bôi trơn tay hấp dẫn hơn với các viên chức. Có nhiều nguồn tin cho thấy Huawei cài spyware vào router và switch của họ để nghe lén khách hàng … hai đường dẫn sau đây là một ví dụ:
http://nerdtwilight.wordpress.com/2011/12/05/u-s-national-security-concerns-cast-pall-over-huawei/
http://www.economist.com/node/18771640
Malware đang đe dọa các cơ quan nhà nước
Bùi Diên
VietNamNet Bridge – (Cập nhật lần chót 24/12/2011 11:47:00 (GMT +7)
Tin tặc điều khiển, tấn công và tán phát phần mềm độc hại đến hơn 1500 cổng thông tin điện tử tại Việt Nam. Trong khi đó, 1/3 máy tính nhập khẩu đã được phát hiện bị nhiễm mã độc. Tuy vậy
cơ quan nhà nước vẫn lơ là và cẩu thả trước nguy cơ bị phần mềm độc hại tấn công.*
Con số đáng lo ngại
Tại cuộc họp về cải thiện an toàn thông tin cho các cơ quan nhà nước do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức, người tham dự nghe nói đến những con số đáng ngại về các cuộc tấn công của tin tặc.
Cơ quan A68 thuộc Bộ Công an cho biết rằng các cán bộ của Bộ gần đây đã phát hiện ra rất nhiều hệ thống thông tin và cổng thông tin của các cơ quan nhà nước, kể cả những bộ phận và các cơ quan trọng yếu của Đảng Cộng sản và Nhà nước bị nhu liệu (malware) tàn độc lây nhiễm, thậm chí còn bị thâm nhập và tấn công.
Cơ quan A68 đã phát hiện ra rằng tin tặc đã đột nhập vào 1500 cổng thông tin, cài đặt malware với mục đích thu thập thông tin và chiếm quyền điều khiển hệ thống. Trong khi đó, Việt Nam đã được thêm vào danh sách 5 nước với khối lượng thư rác (spam) cao nhất thế giới. Như vậy 2011 rõ ràng là một năm “nóng” trong hệ thống an ninh mạng tại Việt Nam.
Một đại diện của Bộ Công An cũng đã cảnh báo rằng trong hai năm qua, khi kiểm tra các máy tính và các thiết bị nhập khẩu, Bộ đã phát hiện 1165 trong số 4892 bộ phận nhập khẩu, hoặc 1/3 hàng hoá nhập khẩu, đã bị nhiễm phần mềm độc hại. Cơ quan nhà nước đã được thông báo để kiểm tra nhập khẩu trang thiết bị kỹ lưỡng trước khi (đưa vào) sử dụng.
Quá bất cẩn
Các chuyên gia đã cho thấy lý do lớn nhất đằng sau vấn đề tin tặc hiện nay là sự bất cẩn quá mức của các cán bộ trong các cơ quan nhà nước.
“Rất nhiều cơ quan trọng yếu tại Việt Nam vẫn sử dụng địa chỉ email của nước ngoài để gửi tài liệu mật quan trọng cho các nhân viên của họ. Một số cơ quan và cá nhân đã phải chịu tổn thất nặng nề vì điều này”, Bộ An ninh đã cảnh báo.
Một viên chức của Bộ Quốc phòng nói rằng trong thực tế, các cơ quan chính quyền đều thiết lập các quy trình và điều lệ về bảo vệ thông tin, nhưng họ vẫn còn thiếu kỷ luật.
Nhiều sĩ quan biên soạn tài liệu bí mật hàng đầu trên máy tính của họ và sau đó gửi qua Internet để thu thập ý kiến của các quan chức khác . Một số các trường hợp khác, họ sao chép các tài liệu tối mật vào linh kiện USB và truyền tay những linh kiện USB này cho người khác.
“Đây thực sự là một mối đe dọa lớn đối với toàn bộ hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước”, ông nói.
Cơ quan nhà nước cũng đã được kêu gọi để tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hơn trong việc thanh lý thiết bị. Trong một số trường hợp, khi máy tính đã được đưa đến các cửa hàng để sửa chữa, các thông tin bí mật được lưu giữ trong các máy tính đã bị đánh cắp tại cửa hàng.
Khó khăn đến từ mọi phía
Ông Nguyễn Hữu Chính, Trưởng Cơ quan Công nghệ Thông tin của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết rằng rất nhiều thông tin dự án công nghệ đã không được thực hiện như dự hoạch, bởi vì các dự án không nhận được ngân khoản trong bối cảnh khi nhà nước Việt Nam đã cắt giảm chi tiêu ngân sách công.
Ông nói rằng số tiền được phân bổ cho Bộ trong năm 2012 chỉ đủ lớn để đảm bảo một nửa các thủ tục để đảm bảo an toàn thông tin.
Đỗ Đức Cường, Giám đốc Trung tâm Thông tin của Bộ Nội Vụ, cũng cho biết, cơ quan nhà nước thiếu tiền để đảm bảo thông tin an toàn. Ông cho biết ngân sách nhà nước chỉ cung cấp một số hàng trăm hàng ngàn đồng để đào tạo một nhân viên, trong khi học phí thực sự cao hơn nhiều.
Trong khi đó, báo động về các cuộc tấn công đã không được cập nhật. Trong một số trường hợp, Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đưa ra báo động về các cuộc tấn công của tin tặc hai tuần sau khi các cuộc tấn công đã được cảnh báo trên thông tin công nghệ diễn đàn.
—————————————–
BBT Đàn Chim Việt chú thích:
Bài viết kể trên, trước ấn bản Anh ngữ đã có (các) ấn bản Việt ngữ như:
Mã độc đe dọa các cơ quan nhà nước (21/12/2011). Theo nguồn ghi trên bản gốc tiếng Việt thì tác giả là báo Bưu Điện chứ không phải Bùi Diên như Nguyễn Khoa Thái Anh “cảm” bằng tiếng Anh.
Thái độ bất cẩn của CBCNV là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất an toàn, an ninh thông tin. ảnh: Thái Anh |
Mã độc đe doạ các cơ quan Nhà nước
ICTnews - Hơn
1.500 cổng thông tin điện tử tại Việt Nam bị tin tặc kiểm soát, phát
tán mã độc và chiếm quyền điều khiển. 1/3 thiết bị máy tính nhập khẩu về
có phát hiện bị nhiễm mã độc. Có vẻ như các cơ quan Nhà nước (CQNN) vẫn
quá lơ là trước nguy cơ tấn công của mã độc.
Những con số đáng giật mình
Tại
cuộc họp về tăng cường đảm bảo an toàn thông tin trong hoạt động của
các CQNN vừa diễn ra tại Bộ TT&TT dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Bộ
TT&TT Nguyễn Minh Hồng, đại diện các CQNN đã đưa ra những con số
đáng lo ngại.
Đại
diện Cục A68 Bộ Công an cho biết: Thời gian qua, lực lượng chức năng
của Bộ này đã phát hiện rất nhiều hệ thống CNTT, cổng thông tin của các
CQNN, đặc biệt là các Bộ, ngành, cơ quan trọng yếu của Đảng và Nhà nước
bị mã độc xâm nhập, thậm chí chiếm quyền điều khiển.
Thống
kê chưa đầy đủ năm 2011 cho thấy, đã có tới hơn 1.500 cổng thông tin
điện tử bị tin tặc xâm nhập, cài mã độc có chủ đích thu thập thông tin
và chiếm quyền điều khiển hệ thống CNTT. Cùng với đó, Việt Nam đã lọt
vào TOP 5 quốc gia bị phát tán thư rác nhiều nhất thế giới. Có thể nói
2011 là năm nóng bỏng về an ninh mạng tại Việt Nam.
Đại
diện Bộ Công an cũng lưu ý về hiện trạng 2 năm qua, khi kiểm tra các
thiết bị, máy tính nhập khẩu, lực lượng chức năng đã phát hiện tới
1.165/4.892 máy tính nhập khẩu bị nhiễm mã độc (tương đương 1/3 tổng số
thiết bị nhập khẩu). Để tránh những hệ luỵ nghiêm trọng, các CQNN khi
nhập khẩu thiết bị về cần phải kiểm tra thật kỹ rồi mới đưa vào sử dụng.
Bất cẩn quá mức
Một
trong những nguyên nhân dẫn tới hiện trạng đáng báo động nêu trên chính
là thái độ bất cẩn, vô tư thái quá của các cán bộ, công chức, nhân viên
trong các CQNN.
"Rất
nhiều cơ quan trọng yếu của Việt Nam vẫn sử dụng địa chỉ mail của nước
ngoài để gửi các tài liệu quan trọng trong nội bộ cơ quan, và đã có một
số cá nhân, đơn vị chịu hậu quả khá nặng nề trong việc này", đại diện Bộ
Công an dẫn chứng.
Chia
sẻ quan điểm này, đại diện Bộ Quốc phòng dẫn chứng thêm: Các CQNN đều
ra quy chế để bảo vệ thiết bị sao chép dữ liệu như USB, ổ cứng... nhưng
quy định còn lỏng lẻo. Trên thực tế, không ít cán bộ vẫn mang cả thiết
bị sao chép dữ liệu về nhà để làm. Không chỉ có vậy, vẫn còn cán bộ "hồn
nhiên" soạn thảo cả văn bản tuyệt mật trên máy tính rồi truyền qua mạng
Internet hoặc copy vào USB để chuyển cho những cán bộ khác để lấy ý
kiến góp ý. Đây là một nguy cơ dẫn tới mất an toàn thông tin cho cả hệ
thống CNTT của CQNN.
Một
hành vi bất cẩn khác cũng vừa được "nêu tên" để các CQNN tránh "lặp lại
vết xe đổ" chính là nguy cơ rò rỉ thông tin từ các thiết bị thanh lý.
Trên thực tế, đã có trường hợp máy tính ngân hàng bị hỏng, mang ra ngoài
sửa chữa thì đã bị lấy cắp mất dữ liệu mật có trong máy tính. Các CQNN
cần siết chặt hơn nữa quy trình tiêu huỷ, thanh lý đĩa cứng, máy tính
chứa nhiều dữ liệu mật.
Khó khăn tứ phía
Công
tác tăng cường an toàn thông tin, an ninh mạng đã được đề xuất triển
khai tại các CQNN từ rất lâu nay song từ lý thuyết đến thực tiễn triển
khai còn rất nhiều khó khăn, vướng mắc chưa thể giải quyết thấu đáo.
Ông
Nguyễn Hữu Chính, Cục trưởng Cục CNTT Bộ Tài nguyên & Môi trường
cho biết thời gian qua, rất nhiều đề án, dự án về CNTT không được triển
khai như mong muốn vì không lo được kinh phí trong bối cảnh cả nước vẫn
đang cắt giảm chi tiêu công. Đối với Bộ Tài nguyên & Môi trường, đề
án An toàn thông tin dù đã được lãnh đạo Bộ đặt lên hàng đầu song kinh
phí được cấp vẫn còn rất "khiêm tốn" so với nhu cầu. Theo thiết kế thì
hệ thống cần phải được đầu tư 7 nút cấp 2 để tăng cường an toàn bảo mật
song kinh phí lo được để triển khai trong năm 2012 chỉ đảm bảo được cho 3
nút (gồm cả khoản đầu tư bằng nguồn kinh phí khác của Bộ Tài nguyên
& Môi trường). Những nút còn lại sẽ còn khó khăn trong việc đảm bảo
an ninh thông tin trong thời gian tới.
Cùng
chia sẻ nhận định về việc "cái khó" có thể "bó cái khôn", ông Đỗ Đức
Cường, Giám đốc Trung tâm Thông tin, Bộ Nội vụ nhấn mạnh khó khăn trong
khâu đào tạo. Theo quy định hiện nay, kinh phí đào tạo được duyệt chỉ
mấy trăm nghìn đồng/suất/năm trong khi học phí thực tế cao hơn rất
nhiều. Chưa kể trên mạng quảng cáo rất nhiều địa chỉ đào tạo nhưng không
ai kiểm định xem nơi nào đào tạo với chất lượng cao, thực sự đảm bảo
tính bảo mật. Ông Cường đề xuất Bộ TT&TT phối hợp với Bộ Kế hoạch
Đầu tư và Bộ Tài chính để tăng chi phí đào tạo an toàn bảo mật cho các
CQNN.
Một
khó khăn khác cũng được ông Đỗ Đức Cường nêu ra đó là công tác cảnh báo
thời gian qua vẫn chưa kịp thời, thường xuyên. Đã có trường hợp cộng
đồng mạng phản ánh về vụ tấn công website CQNN nhưng sau đó 1 - 2 tuần
mới có cảnh báo chính thức của Bộ TT&TT.
Dự
kiến từ quý 1/2012, bên cạnh những cảnh báo sự cố bất thường, VNCERT sẽ
cung cấp thông tin hàng quý gửi cho lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ
và lãnh đạo các cơ quan chuyên trách về CNTT để kịp thời cảnh báo nguy
cơ cũng như thông báo về tình hình an toàn thông tin. Khoảng tháng
3/2012, bản tin đầu tiên sẽ được trình làng.
Cũng
trong quý 1/2012, Bộ TT&TT sẽ mở lớp đào tạo về an toàn bảo mật
thông tin cho cán bộ chuyên trách CNTT các Bộ, ngành. Sau đó sẽ dần hoàn
thiện chương trình khung để đào tạo rộng rãi hơn.
Thế
giới đang phải đối mặt với tội phạm mạng thế hệ 6, là những tổ chức
kinh doanh, liên kết quốc tế, phân phối mã độc theo sơ đồ
Pay-per-Install hay thuê dây chuyền mã độc hoàn toàn tự động (tội phạm
“Point-and-click”). Tháng 11/2011, sau 2 năm điều tra, Chiến dịch
Operation Ghost Click của FBI đã bắt băng nhóm tội phạm mạng có trụ sở
tại Estonia, triệt phá mạng lưới botnet điều khiển 4 triệu chiếc máy
tính tại hơn 100 quốc gia thu lời bất hợp pháp hơn 14 triệu USD.
Ngọc Mai
-Xuất hiện vũ khí mới đe dọa sự sống còn của nhiều quân đội-
-(GDVN) - Trong khi nguy cơ xảy ra chiến tranh Mỹ-Iran ngày càng cận kề, thì một cuộc chiến tranh kiểu mới – chiến tranh mạng đang bam trùm lên Đông Á.
- 9 vũ khí bí mật của quân đội Nhật Bản
- Nhật Bản sẽ làm suy yếu khả năng răn đe chiến lược của TQ
- Ấn Độ nhập khẩu vũ khí nhiều nhất thế giới năm 2011
- Động cơ Nga báncho Ấn Độ hơn hẳn loại bán cho Trung Quốc
- Hải quân Ấn Độ phô diễn sức mạnh trong lễ diễu binh hoành tráng
- Nhật Bản xây dựng căn cứ quân sự trên đảo tranh chấp với TQ?
- Lần đầu tiên Nhật Bản mua máy bay quân sự đã qua sử dụng
- Nhật Bản lại phát hiện tàu Trung Quốc gần đảo tranh chấp
Gần
đây, tờ “Yomiuri Shimbun” Nhật Bản cho biết, Bộ Quốc phòng Nhật Bản
đang nghiên cứu một loại virus, loại virus này, trong trường hợp hệ
thống máy tính kiểm soát vũ khí bị tấn công mạng, có thể truy tìm con
đường tấn công và tấn công trở lại nơi khởi nguồn.
Lý
Đại Quang cho biết, mục đích căn bản của tác chiến mạng là thông qua
bảo vệ và phá hoại đối với lớp xử lý thông tin của máy tính, để làm giảm
hiệu quả sử dụng hệ thống thông tin mạng của kẻ địch,
bảo vệ sự vận hành bình thường của hệ thống thông tin mạng của mình, tiến tới giành lấy và duy trì quyền kiểm soát không gian mạng.
Hệ thống mạng thông tin lấy máy tính làm trung tâm đã trở thành trung khu thần kinh của một quân đội hiện đại; các hệ thống mạng như mạng thiết bị cảm biến, mạng chỉ huy kiểm soát, mạng vũ khí sẽ trở thành trung tâm và sự hỗ trợ quan trọng cho chiến tranh thông tin.
1: >> Những hình ảnh đẹp nhất về quân đội Việt Nam
2: >>Hoạt động của quân đội Nga qua những hình ảnh đẹp, cập nhật
3: >> Chủ nhân tương lai, điều khiển những chiếc tàu ngầm của Hải quân Việt Nam
4: >> Ngắm những chiếc tàu ngầm lớp Kilo trong tương lai của Hải quân Việt Nam
6 : >> Đánh giá sức mạnh quân sự của Iran
7 : >> Các cường quốc đang đấu đá nhau tại Iran
8 : >> Mỹ - Iran có nguy cơ bùng phát chiến tranh bất cứ lúc nào
Năm
2009, Mỹ đề xuất, nắm chắc quyền kiểm soát mạng trong thế kỷ 21 có ý
nghĩa quyết định như nắm chắc quyền kiểm soát biển trong thế kỷ 19 và
quyền kiểm soát trên không trong thế kỷ 20.
Sau đó, “Luật An ninh mạng 2009” đã được thông qua, luật này giành cho Tổng thống Mỹ quyền “tuyên bố tình trạng khẩn cấp của an ninh mạng”, cho phép “đóng hoặc hạn chế những hệ thống mạng thông tin quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia”. Tháng 10/2010, Bộ Tư lệnh mạng của quân Mỹ chính thức đi vào hoạt động.
Về
việc những năm gần đây Nhật Bản tập trung nghiên cứu chiến tranh mạng,
giáo sư Phùng Vĩ, Khoa Lịch sử - Đại học Phúc Đán, Thường trực Hội học
thuật Trung Hoa-Nhật Bản cho rằng, “chủ nghĩa hòa bình” của Hiến pháp
hiện hành Nhật Bản thể hiện ở Điều 9 Chương 2.
Điều này có 2 nội dung, một là vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh và đe dọa vũ lực; hai là không duy trì lục, hải, không quân và lực lượng chiến tranh khác. Những năm gần đây, các động thái sửa đổi điều này liên tục xuất hiện.
Bài
báo cho biết, từ năm 2008 đến nay, Nhật Bản luôn tập trung nghiên cứu
phát triển loại virus này, ứng phó virus Stuxnet, làm một loại vũ khí
mạng mạnh, để tiến hành chiến tranh mạng.
Ngoài ra, giáo sư Đại học Keio Nhật Bản Tsuchiya cũng cho biết, các nước khác đã bắt đầu những dự án tương tự. Điều này chỉ ra rằng chiến tranh mạng đang gia tăng. Trong tương lai có thể diễn ra một cuộc chạy đua về kho vũ khí mạng.
Ngoài ra, giáo sư Đại học Keio Nhật Bản Tsuchiya cũng cho biết, các nước khác đã bắt đầu những dự án tương tự. Điều này chỉ ra rằng chiến tranh mạng đang gia tăng. Trong tương lai có thể diễn ra một cuộc chạy đua về kho vũ khí mạng.
Chiến tranh mạng - chiến tranh thế hệ thứ sáu |
Ngay
từ tháng 7/2011, Mỹ đã công bố “Chiến lược hành động không gian mạng”,
báo cáo này đặt không gian mạng lên thành “lĩnh vực hành động” ngang
hàng với lục, hải, không quân, không gian vũ trụ, cho biết coi tấn công
mạng tương tự một “hành vi chiến tranh”.
Ngoài ra, các nước như Anh, Pháp, Nga, Israel, Hàn Quốc cũng lần lượt cho biết lập trường tăng cường xây dựng lực lượng mạng.
Ngoài ra, các nước như Anh, Pháp, Nga, Israel, Hàn Quốc cũng lần lượt cho biết lập trường tăng cường xây dựng lực lượng mạng.
Việc
triển khai chiến lược không gian mạng của các nước cuối cùng có ý nghĩa
gì? Giáo sư Lý Đại Quang, Đại học Quốc phòng Trung Quốc, tác giả cuốn
sách “Tác chiến mạng dựa trên hệ thống thông tin” cho rằng, do có khả
năng lan tỏa và thâm nhập tuyệt vời,
mạng chắc chắn sẽ trở thành một phương tiện quan trọng xây dựng quân đội của các nước, trở thành phương tiện chủ yếu xây dựng hình tượng quân đội và công cụ quan trọng xây dựng tăng cường sức mạnh mềm cho quân đội.
mạng chắc chắn sẽ trở thành một phương tiện quan trọng xây dựng quân đội của các nước, trở thành phương tiện chủ yếu xây dựng hình tượng quân đội và công cụ quan trọng xây dựng tăng cường sức mạnh mềm cho quân đội.
Kiểm soát thông tin tức là chiến tranh
Mỹ rất coi trọng an ninh mạng |
Nhà dự đoán tương lai học Thor Larholm tiên đoán, ai đã nắm được thông tin, đã kiểm soát mạng, người đó sẽ có cả thế giới.
bảo vệ sự vận hành bình thường của hệ thống thông tin mạng của mình, tiến tới giành lấy và duy trì quyền kiểm soát không gian mạng.
Hệ thống mạng thông tin lấy máy tính làm trung tâm đã trở thành trung khu thần kinh của một quân đội hiện đại; các hệ thống mạng như mạng thiết bị cảm biến, mạng chỉ huy kiểm soát, mạng vũ khí sẽ trở thành trung tâm và sự hỗ trợ quan trọng cho chiến tranh thông tin.
Mỹ
là nước đầu tiên thành lập lực lượng mạng, cựu Tham mưu trưởng Lục quân
Mỹ, Thượng tướng Sullivan cho rằng, sự xuất hiện của thời đại thông
tin, sẽ làm thay đổi phương thức tiến hành chiến tranh một cách căn bản.
Trong nhiều năm trước, sự thay đổi này đang diễn ra.
Trong nhiều năm trước, sự thay đổi này đang diễn ra.
Trong
chiến tranh Kosovo vào cuối những năm 1990, các chuyên gia máy tính
Liên bang Nam Tư và Nga đã xâm nhập thành công trang mạng của Nhà Trắng,
làm cho nó bị tê liệt.
Đồng thời, hệ thống thông tin của NATO đã bị virus tấn công; máy chủ thư mang theo thông tin tác chiến của lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ hầu như bị tắc nghẽn toàn bộ,
thậm chí hệ thống chỉ huy kiểm soát của tàu sân bay động cơ hạt nhân Nimitz cũng bị hacker tấn công và gián đoạn hơn 3 tiếng đồng hồ.
Đồng thời, hệ thống thông tin của NATO đã bị virus tấn công; máy chủ thư mang theo thông tin tác chiến của lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ hầu như bị tắc nghẽn toàn bộ,
thậm chí hệ thống chỉ huy kiểm soát của tàu sân bay động cơ hạt nhân Nimitz cũng bị hacker tấn công và gián đoạn hơn 3 tiếng đồng hồ.
Lý
Đại Quang cho rằng: “Trong mấy cuộc chiến tranh cục bộ gần đây, quân
đội các nước phát triển có ưu thế mạng thông tin, có thể dùng virus máy
tính và hacker tiến hành tấn công đối với hệ thống mạng và thông tin của
đối phương,
hoàn toàn chi phối không gian mạng, giành được ưu thế chiến trường thông tin, và trong thời gian rất ngắn đã làm tê liệt hệ thống chỉ huy phòng không của đối phương, hỗ trợ mạnh mẽ cho tác chiến trên các chiến trường khác”.
hoàn toàn chi phối không gian mạng, giành được ưu thế chiến trường thông tin, và trong thời gian rất ngắn đã làm tê liệt hệ thống chỉ huy phòng không của đối phương, hỗ trợ mạnh mẽ cho tác chiến trên các chiến trường khác”.
Trung tâm chỉ huy tác chiến mạng của Quân đội Mỹ |
Trên
thế giới, quân đội Mỹ có hơn 15.000 hệ thống mạng và 7 triệu thiết bị
máy tính, sự phụ thuộc vào không gian mạng và thiếu hụt an ninh mạng đã
tạo nên sự tương phản rõ rệt. Báo cáo của Bộ Quốc phòng cho biết, hệ
thống mạng của Lầu Năm Góc hàng ngày bị hàng triệu cuộc dò tìm, mà những
cuộc xâm nhập thành công đã làm cho hàng nghìn tài liệu (file) bị rò
rỉ.
Trên
thực tế, không chỉ có Mỹ phải hứng chịu các cuộc tấn công mạng. Ngày
23/8/2010, một hacker chưa rõ đã tấn công trang web của Cục Cảnh vệ Liên
bang Nga, làm cho rất nhiều tài liệu nội bộ bộc lộ trực tuyến đến vài
giờ.
Theo thống kê của Cục An ninh Liên bang Nga, từ năm 2005 đến nay, các trang web của các cơ quan nhà nước Nga mỗi năm đều bị hàng triệu cuộc tấn công mạng, trong đó các cuộc tấn công vào trang web của Thủ tướng Putin lên tới 120.000 vụ.
Theo thống kê của Cục An ninh Liên bang Nga, từ năm 2005 đến nay, các trang web của các cơ quan nhà nước Nga mỗi năm đều bị hàng triệu cuộc tấn công mạng, trong đó các cuộc tấn công vào trang web của Thủ tướng Putin lên tới 120.000 vụ.
Lý
Đại Quang cho rằng: “Một khi mạng máy tính bị tấn công và bị phá hủy,
sức chiến đấu của toàn bộ quân đội sẽ giảm mạnh, thậm chí bị mất đi hoàn
toàn, máy móc quân sự nhà nước sẽ ở vào trạng thái bị tê liệt, an ninh
quốc gia sẽ bị đe dọa nghiêm trọng”.
Thế giới đều đang sẵn sàng cho chiến tranh mạng
Từ
thập niên 90 của thế kỷ trước cho đến đầu thế kỷ này, Mỹ đã lần lượt
công bố “Bảo vệ hạ tầng cơ sở then chốt của Mỹ”, “Khung kỹ thuật bảo đảm
thông tin” (IATF), “Chiến lược an ninh quốc gia”.
Lý
Đại Quang cho rằng: “Sự kiện 11/9 đã thúc đẩy chiến lược an ninh thông
tin trở thành chiến lược cốt lõi của chiến lược quốc gia Mỹ”.
Lực lượng tác chiến mạng của quân đội Mỹ |
1: >> Những hình ảnh đẹp nhất về quân đội Việt Nam
2: >>Hoạt động của quân đội Nga qua những hình ảnh đẹp, cập nhật
3: >> Chủ nhân tương lai, điều khiển những chiếc tàu ngầm của Hải quân Việt Nam
4: >> Ngắm những chiếc tàu ngầm lớp Kilo trong tương lai của Hải quân Việt Nam
6 : >> Đánh giá sức mạnh quân sự của Iran
7 : >> Các cường quốc đang đấu đá nhau tại Iran
8 : >> Mỹ - Iran có nguy cơ bùng phát chiến tranh bất cứ lúc nào
Sau đó, “Luật An ninh mạng 2009” đã được thông qua, luật này giành cho Tổng thống Mỹ quyền “tuyên bố tình trạng khẩn cấp của an ninh mạng”, cho phép “đóng hoặc hạn chế những hệ thống mạng thông tin quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia”. Tháng 10/2010, Bộ Tư lệnh mạng của quân Mỹ chính thức đi vào hoạt động.
Để
nâng cao năng lực tác chiến mạng, quân đội Mỹ lần lượt tiến hành 3 cuộc
tập trận “Cơn lốc mạng” (Cyber Storm) vào năm 2006, 2008 và 2010.
Đặc biệt cuộc tập trận “Cyber Storm III” là cuộc tập trận lớn liên ngành lần đầu tiên sau khi Bộ Tư lệnh mạng của quân đội Mỹ được thành lập, đã mô phỏng tình huống một số hạ tầng cơ sở then chốt bị tấn công mạng lớn, mô phỏng sự cố nhiều tới 1.500 vụ.
Đặc biệt cuộc tập trận “Cyber Storm III” là cuộc tập trận lớn liên ngành lần đầu tiên sau khi Bộ Tư lệnh mạng của quân đội Mỹ được thành lập, đã mô phỏng tình huống một số hạ tầng cơ sở then chốt bị tấn công mạng lớn, mô phỏng sự cố nhiều tới 1.500 vụ.
Với việc Mỹ tích cực triển khai “chiến tranh mạng”, các nước khác trên thế giới cũng đã tích cực hưởng ứng theo.
Đến cuối năm 2010, quân đội các nước như Nga, Nhật Bản, Israel, Pháp, Đức, Singapore, Ấn Độ và Hàn Quốc cũng đều đã lần lượt thành lập lực lượng tác chiến mạng của mình. Thậm chí có nghiên cứu cho biết, Iran cũng có vũ khí tác chiến mạng tương đối tiên tiến và kế hoạch tấn công mạng, bao gồm phát động cuộc tấn công mạng đối với trang web chính phủ và hạ tầng cơ sở cụ thể.
Đến cuối năm 2010, quân đội các nước như Nga, Nhật Bản, Israel, Pháp, Đức, Singapore, Ấn Độ và Hàn Quốc cũng đều đã lần lượt thành lập lực lượng tác chiến mạng của mình. Thậm chí có nghiên cứu cho biết, Iran cũng có vũ khí tác chiến mạng tương đối tiên tiến và kế hoạch tấn công mạng, bao gồm phát động cuộc tấn công mạng đối với trang web chính phủ và hạ tầng cơ sở cụ thể.
Chiến tranh tương lai |
Phó
Viện trưởng Viện nghiên cứu Mỹ - Viện Khoa học xã hội Trung Quốc Nghê
Phong cho rằng: “Chủ thể hành vi chiến tranh mạng phần nhiều có thể là
cá nhân và tổ chức, thường một hacker có thể phát động một cuộc tấn công
mạng, kiểm soát được rất khó. Mỹ đưa nó lên cấp độ chiến lược quốc gia,
chắc chắn sẽ làm cho các nước tham gia vào cuộc chạy đua”.
Thực
ra, ngay từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, Nga đã thiết lập Ủy ban
an ninh thông tin chuyên phụ trách an ninh thông tin mạng; năm 1995,
Hiến pháp Nga đưa an ninh thông tin vào phạm trù quản lý an ninh quốc gia; năm 2002 “Học thuyết An ninh Thông tin Liên bang Nga” được thông qua, nâng chiến tranh mạng lên một cấp độ cao mới, coi đó là “chiến tranh thế hệ thứ 6” của tương lai.
Hiến pháp Nga đưa an ninh thông tin vào phạm trù quản lý an ninh quốc gia; năm 2002 “Học thuyết An ninh Thông tin Liên bang Nga” được thông qua, nâng chiến tranh mạng lên một cấp độ cao mới, coi đó là “chiến tranh thế hệ thứ 6” của tương lai.
Nghê
Phong cho rằng: “Internet do Mỹ phát minh, các nhà cung cấp chính đều ở
Mỹ và một số nước phương Tây. Mỹ ý thức được tầm quan trọng của an ninh
mạng, đồng thời hy vọng thông qua tăng cường ưu thế riêng của họ, tiếp
tục nắm chắc quyền chủ đạo trong không gian mạng”. Mỹ lấy hệ thống mạng
làm điểm cao khống chế chiến lược mới, muốn tiếp tục tạo dựng quy tắc
trò chơi.
Học thuyết chiến tranh thế hệ thứ 6
Lý luận về chiến tranh thế hệ thứ 6 được học giả quân sự Nga B.N. Silipuqinke (dịch âm) đưa ra sớm nhất.
Theo
lý luận của Silipuqinke, chiến tranh thế hệ thứ nhất là chỉ chiến tranh
được tiến hành bằng vũ khí lạnh, sau khi kết thúc xã hội nguyên thủy
của loài người, nó được duy trì 3.500 năm, là hình thức chiến tranh có
thời gian liên tục dài nhất.
"Người lính" trong chiến tranh mạng |
Chiến
tranh thế hệ thứ hai là chiến tranh sau khi phát minh ra thuốc nổ, dùng
vũ khí không nòng xoắn làm tiêu chí. Nó đã kéo dài hơn 600 năm.
Chiến tranh thế hệ thứ ba bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 dùng súng và pháo có rãnh nòng súng làm tiêu chí. Nó kéo dài khoảng 200 năm.
Chiến
tranh thế hệ thứ tư từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, sử dụng nhiều
các loại vũ khí tự động, xe bọc thép, máy bay tác chiến, tàu chiến,
radar và các khí tài thông tin vô tuyến điện làm tiêu chí. Loại chiến
tranh này kéo dài đến hiện nay.
Đặc điểm chung của 4 thế hệ chiến tranh đầu tiên chính là, chúng đều là chiến tranh kiểu tiếp xúc, giao chiến về thể lực hoặc sử dụng pháo súng và các loại vũ khí tác chiến tiến hành giao đấu quyết liệt trong cự ly gần (có thể nhìn thấy được).
Đặc điểm chung của 4 thế hệ chiến tranh đầu tiên chính là, chúng đều là chiến tranh kiểu tiếp xúc, giao chiến về thể lực hoặc sử dụng pháo súng và các loại vũ khí tác chiến tiến hành giao đấu quyết liệt trong cự ly gần (có thể nhìn thấy được).
Trong
thời đại chiến tranh thế hệ thứ tư còn xuất hiện dùng năng lượng nguyên
tử to lớn cho quân sự, tạo ra cuộc cách mạng quân sự lần thứ 5, cũng
đánh dấu sự hình thành của chiến tranh thế hệ thứ 5, tức là chiến tranh
thời đại hạt nhân.
Cuối
thế kỷ 20, sự phát triển công nghệ cao của loài người, đặc biệt là sự
ứng dụng rộng rãi của công nghệ vi điện tử, làm cho rất nhiều vũ khí
chính xác cao trong lĩnh vực quân sự xuất hiện, đã tạo điều kiện cho sự
ra đời của chiến tranh thế hệ thứ 6.
Chiến tranh mạng liên quan đến sự sống và cái chết
Sau
khi tờ “Yomiuri Shimbun” đưa tin về tình hình nghiên cứu phát triển “vũ
khí mạng” kiểu mới của Nhật Bản, đã gây ra sự chú ý của dư luận đối với
cuộc chiến tranh kiểu mới – “chiến tranh mạng”.
Tấn công mạng |
Điều này có 2 nội dung, một là vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh và đe dọa vũ lực; hai là không duy trì lục, hải, không quân và lực lượng chiến tranh khác. Những năm gần đây, các động thái sửa đổi điều này liên tục xuất hiện.
Ngoài
ra, Nhất hiểu rất rõ, trong bối cảnh công nghệ cao, quân đội nếu không
có trang bị hoàn hảo, chỉ có thể làm “mục tiêu sống”. Do đó, Lực lượng
Phòng vệ Nhật Bản (SDF) tuy chỉ có 240.000 người, nhưng chi tiêu quân sự
lại chỉ đứng sau Mỹ (thứ hai thế giới).
Điều
đáng chú ý hơn là, những năm gần đây Nhật Bản không chỉ luôn nâng cao
trình độ trang bị, mà còn ngày càng coi trọng thông tin tình báo.
Ngày 1/8/2009, Nhật Bản đã thành lập Bộ Giám sát thống nhất, phụ trách công tác thông tin tác chiến của Lực lượng Phòng vệ, đồng thời xóa bỏ ranh giới giữa các quân chủng, thực hiện tác chiến hiệp đồng “tam vị nhất thể” (hợp nhất) hải, lục, không quân.
Ngày 1/8/2009, Nhật Bản đã thành lập Bộ Giám sát thống nhất, phụ trách công tác thông tin tác chiến của Lực lượng Phòng vệ, đồng thời xóa bỏ ranh giới giữa các quân chủng, thực hiện tác chiến hiệp đồng “tam vị nhất thể” (hợp nhất) hải, lục, không quân.
Phùng Vĩ cho rằng, trong các vấn đề khu vực và quốc tế, Nhật có tư thế chủ động hơn về quân sự, chủ yếu có 2 nguyên nhân:
Một
là, các nước láng giềng ngày càng tăng cường quân bị, tạo ra mối đe dọa
cho Nhật Bản. Chẳng hạn, gần đây Nhật Bản công bố “Môi trường bảo đảm
an ninh xung quanh Nhật Bản”, đã tiến hành phân tích chi tiết đối với
chính sách quốc phòng,
chi tiêu và độ minh bạch quốc phòng, khả năng tác chiến lục, hải, không quân, khả năng tấn công của tên lửa hạt nhân, khả năng tận dụng quân sự trong không gian vũ trụ và khả năng chiến tranh thông tin của Trung Quốc, tiếp tục truyền đi thông điệp mạnh mẽ về “mối đe dọa từ Trung Quốc”.
chi tiêu và độ minh bạch quốc phòng, khả năng tác chiến lục, hải, không quân, khả năng tấn công của tên lửa hạt nhân, khả năng tận dụng quân sự trong không gian vũ trụ và khả năng chiến tranh thông tin của Trung Quốc, tiếp tục truyền đi thông điệp mạnh mẽ về “mối đe dọa từ Trung Quốc”.
Hai
là, môi trường an ninh quốc tế không hề lạc quan. Sau khi liệt kê các
nhân tố như tình hình bán đảo Triều Tiên, hoạt động quân sự ngày càng
tích cực của Nga, tấn công mạng, sự phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
và hoạt động khủng bố quốc tế, văn kiện này viết: “Môi trường bảo đảm an
ninh quốc tế vẫn phức tạp và bất ổn”.
Lính Mỹ được trang bị thiết bị tiên tiến |
Phũng
Vĩ cho rằng, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng “Chiến lược Bảo vệ an ninh
thông tin quốc gia” cần phải thực hiện trước năm 2013. Đồng thời, Bộ
Quốc phòng Nhật Bản đã quyết định, ngoài Lực lượng Phòng vệ Mặt
đất/Biển/Trên không, thành lập mới “Lực lượng chuyên trách phòng thủ
mạng”.
Nhật Bản không tính tới mở ra con đường riêng để phát triển sức mạnh quân sự, mà Nhật Bản cho rằng: “Ứng phó với các cuộc tấn công mạng và bảo đảm an toàn cho hoạt động không gian mạng là vấn đề sống còn đối với quân đội các nước”.
Nhật Bản không tính tới mở ra con đường riêng để phát triển sức mạnh quân sự, mà Nhật Bản cho rằng: “Ứng phó với các cuộc tấn công mạng và bảo đảm an toàn cho hoạt động không gian mạng là vấn đề sống còn đối với quân đội các nước”.
Tiến hành chiến tranh mạng như thế nào?
Lý
Đại Quang cho rằng, tác chiến mạng giống các loại tác chiến khác, cũng
bao gồm hai mặt tấn công và phòng ngự. Tấn công bao gồm 3 mô hình như
phá hoại hệ thống, đánh lạc hướng thông tin (tung tin giả), tổng hợp.
Thông qua các phương pháp như tung ra virus máy tính để phá hoại hệ thống máy tính và hệ thống mạng, làm tê liệt hệ thống chỉ huy của đối phương; tung tin giả vào hệ thống mạng của đối phương,
làm cho đối phương ra quyết định, chỉ huy, kiểm soát bị sai lầm; phá hoại hệ thống tổng hợp và dẫn dắt thông tin sai, tạo ra “sát thương” lớn cho hệ thống chỉ huy, kiểm soát của đối phương.
Thông qua các phương pháp như tung ra virus máy tính để phá hoại hệ thống máy tính và hệ thống mạng, làm tê liệt hệ thống chỉ huy của đối phương; tung tin giả vào hệ thống mạng của đối phương,
làm cho đối phương ra quyết định, chỉ huy, kiểm soát bị sai lầm; phá hoại hệ thống tổng hợp và dẫn dắt thông tin sai, tạo ra “sát thương” lớn cho hệ thống chỉ huy, kiểm soát của đối phương.
Về
mặt phòng ngự, chủ yếu bao gồm 3 mô hình ngụy trang điện từ, cách ly
vật lý và phòng hộ tổng hợp. Thông qua các biện pháp công nghệ, giảm bớt
cường độ phóng xạ (bức xạ) điện tử của mình,
thay đổi quy luật bức xạ, từ đó bảo vệ an ninh hệ thống thông tin của mình; thực hiện các biện pháp, ngăn chặn virus máy tính xâm nhập hệ thống mạng của mình; thực hiện các biện pháp tăng cường bảo vệ trước sự tấn công của hacker và vũ khí mới.
thay đổi quy luật bức xạ, từ đó bảo vệ an ninh hệ thống thông tin của mình; thực hiện các biện pháp, ngăn chặn virus máy tính xâm nhập hệ thống mạng của mình; thực hiện các biện pháp tăng cường bảo vệ trước sự tấn công của hacker và vũ khí mới.
Rất nhiều nước đã thành lập lực lượng tác chiến mạng. Trong hình là hệ thống chỉ huy tác chiến mạng của Hải quân Trung Quốc |
Lý
Đại Quang cho rằng: “Vai trò liên kết của hệ thống mạng làm cho các yếu
tố tác chiến như lực lượng tác chiến, hành động tác chiến, chỉ huy tác
chiến và bảo đảm tổng hợp có sự thống nhất rất cao.
Hệ thống mạng máy tính liên kết chặt chẽ thiết bị cảm biết, hệ thống chỉ huy kiểm soát và hệ thống hỏa lực, làm cho mô hình tác chiến chủ yếu do thám bằng con người vũ khí là chính, chuyển sang mô hình tác chiến lấy hệ thống mạng làm trung tâm – dựa vào hệ thống mạng để thực hiện tác chiến liên hợp.
Hệ thống mạng máy tính liên kết chặt chẽ thiết bị cảm biết, hệ thống chỉ huy kiểm soát và hệ thống hỏa lực, làm cho mô hình tác chiến chủ yếu do thám bằng con người vũ khí là chính, chuyển sang mô hình tác chiến lấy hệ thống mạng làm trung tâm – dựa vào hệ thống mạng để thực hiện tác chiến liên hợp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét