Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

Có cần phải thông cảm cho ông Phạm Văn Đồng?

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI

TIN KINH TẾ

TIN DIỄN ĐÀN

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ

TIN THẾ GIỚI

Mai Tú Ân - Ông Bộ Trưởng "nếm phân"

Dĩ nhiên đây là nếm phân hóa học, và ý của bộ trưởng bộ Công thương Vũ Huy Hoàng muốn có một ví dụ chính xác về việc các nhân viên của bộ ông vì thiếu phương tiện nên là đã phải dùng miệng để nếm phân bón xem chất lượng. Chính xác là như vậy. Nhưng mọi người cũng có thể hiểu, qua câu nói trời ơi của ông trên diễn đàn Quốc Hội rằng, nhân viên của ông đã nếm phân. NẾM PHÂN ! cũng hoàn toàn chính xác, không bắt bẻ đi đâu được, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Và đưa bản thân ông bộ trưởng biến thành một kẻ ngô nghê nhất cũng như cả bộ máy chính phủ rơi vào một cái thế vô duyên chẳng giống ai...
Và cái thế bi hài này lại do ông, hoàn toàn vì ông gây ra chứ chẳng vì ai cả. Một vị Bộ trưởng, ở một vị trí quan trọng như thế, với cương vị lãnh đạo một bộ như thế mà phát ngôn sai sót như thế, ngớ ngẩn như thế thì chỉ có thể tự trách mình. Chắc chắn trình độ của ông là phải rất cao rồi, Đông Tây Kim Cổ đã thông, trên Trời dưới Đất cũng tường, thì hẳn ông phải hiểu chữ nghĩa, ngôn từ Việt Nam chứ...Và lúc nào dùng chữ nào, lúc nào không dùng chữ nào thì hẳn ông phải biết chứ...Là một lãnh đạo, một bộ mặt của chính phủ thì ông không thể dùng những câu chữ tối nghĩa, ẩn ý hay câu chữ hiểu sao cũng được mà phải dùng đúng ngôn từ tiếng Việt. Ấy là chuyện bình thường của người có chữ, có văn hóa...
Ví dụ như thành ngữ Trên bảo dưới không nghe thì vừa có nghĩa là cấp trên bảo, cấp dưới không nghe nhưng cũng còn nghĩa dung tục khác nữa.
Rồi chữ vùng miền như ra ngoài Hà Nội, bạn bè có thể alô rủ nhau đi chơi bời, vì chữ chơi bời này có nhiều hàm ý rất rộng. Đám thanh niên có thể lê la rượu chè, bù khú với nhau rồi thôi cũng gọi là đi chơi bời. Nhưng ở miền Nam thì chơi bời còn có nghĩa là chơi bời trai gái hoa tình..
Trong một tiệc nhà hàng, người Bắc có thể nói là đi vệ sinh, nhưng người miền Nam phải nói là đi toa lét...
Ở miền Nam, cái máy cát sét, máy vi tính người ta gọi là máy và vô tư nói như thay cái máy mới, đổi cái máy cũ lấy máy mới, rửa máy (ăn mừng khao máy mới), nhưng ở miền Bắc thì không thể nói như vậy được...
Có hàng trăm ví dụ như vậy để biết rằng từ ngữ có thể dùng ở nơi này nhưng không thể ở nơi khác, với giới này những không thể với giới khác cũng như lúc này gọi nhưng lúc khác không thể gọi, tuy cùng một chữ những có thể có nhiều nghĩa....Và người ta chỉ có thể biết cách dùng chữ, biết cách xử lý câu chữ khi người ta có một quá trình học, hành, thẩm thấu...
Và một người như ông Bộ Trưởng thì phải biết, phải hiểu tất tần tật những qui tắc của phép ăn, phép nói lịch sự thành văn hoặc bất thành văn đó...Vì sao ? Vì ông là Bộ Trưởng, ông phải biết...
Người dân có thể nhầm lẫn, có thể không biết nhưng là bộ trưởng thì ông phải biết. Nếu không biết thì có lẽ nên học theo cách mà bà BT Y Tế Nguyễn Thị Kịm Tiến khuyên các bác sĩ là nên đi học văn đi. Nếu không thì ông đừng làm bộ trưởng nữa.
Và với tất cả sự kính trọng, không thể không phong tặng câu nói trên của ông là câu nói "hay" nhất trong năm, cũng như không thể không gọi ông bằng một cái tên mới, cái nick name là : "Bộ trưởng nếm phân"...
  Mai Tú Ân
(FB Mai Tú Ân)

Có cần phải thông cảm cho ông Phạm Văn Đồng?

Là một người quan tâm tới vấn đề Biển Đông và đã từng lên tiếng trên báo chí ngoại quốc để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, tôi kinh ngạc khi đọc bài biện hộ cho Công hàm Phạm Văn Đồng (PVĐ) của GS Cao Huy Thuần (xem đây).

Kinh ngạc không phải vì những lời biện hộ trong bài. Những lý lẽ tương tự đã từng được đưa ra rất nhiều bởi báo chí trong nước và những dư luận viên trên mạng. Nhưng kinh ngạc vì chúng xuất phát từ một vị giáo sư của một đại học Pháp.

Công hàm Phạm Văn Đồng. Nguồn: vi.wikipedia.org

Xin miễn bàn về khía cạnh pháp lý của Công hàm Phạm Văn Đồng hay làm cách nào để hóa giải nó, vì đây là những vấn đề vô cùng rắc rối và nhức nhối, cần thảo luận chi tiết ở nơi khác. Tôi chỉ xin bàn về những lý lẽ GS Cao Huy Thuần dùng để giải thích và biện hộ cho động cơ hay ý định đằng sau Công hàm này, nói rõ ra là để kêu gọi sự thông cảm cho Phạm Văn Đồng.

Về những lý lẽ bào chữa cho Công hàm Phạm Văn Đồng

Ông Cao Huy Thuần viết:

“Phải phân biệt cho rõ hai vấn đề mà Trung Quốc muốn cột vào với nhau nhưng bối cảnh của năm 1958 về luật biển buộc phải tách riêng ra: vấn đề hải phận và vấn đề chủ quyền. Vấn đề hải phận là pháp lý. Vấn đề chủ quyền là chính trị. Tranh chấp không giải quyết được tại Hội nghị Genève 1958 là tranh chấp trên vấn đề hải phận. Bác bỏ hay tán thành tuyên bố của Trung Quốc là bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải lý ấy, một chuyện pháp lý nóng bỏng vào thời buổi ấy. Không phải vì bác bỏ hay tán thành cái chuyện 12 hải lý là bắt buộc phải bao hàm việc bác bỏ hay tán thành cái chuyện chủ quyền – chuyện này ở bên lề, hạ hồi phân giải.”

Thật là một cách “diễn nghĩa” khó hiểu! Nếu Trung Quốc muốn cột hai vấn đề 12 hải lý và TS-HS vào với nhau thì trách nhiệm của chính phủ Việt Nam là phải tách hai cái ra chứ tại sao lại lờ đi? Công hàm PVĐ viết “tán thành tuyên bố [của Trung Quốc]” chứ đâu có viết là “tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về 12 hải lý, nhưng không tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về Hoàng Sa-Trường Sa”? Thậm chí Công hàm cũng chẳng nói gì về hội nghị Genève 1958. Làm sao mà một tòa án quốc tế có thể đem câu “nhưng không tán thành phần tuyên bố của Trung Quốc về Hoàng Sa-Trường Sa” vào Công hàm này? Một nguyên thủ hay thủ tướng phải biết câu “bút sa gà chết” và cũng phải có một chút cẩn thận tối thiểu chứ? Diễn giải một câu viết tùy theo bối cảnh thời sự, lịch sử, văn hóa xã hội, v.v. là cách diễn giải thích hợp cho một tác phẩm văn chương cổ như Truyện Kiều, nhưng hoàn toàn không thích hợp cho một công hàm của một vị thủ tướng ở thế kỷ 20.

Ông Cao Huy Thuần biện hộ rằng vì Liên Xô đã tán đồng tuyên bố của Trung Quốc, nên việc Phạm Văn Đồng cũng tán đồng điều đó có thể hiểu được trong tình hình thế giới năm 1958. Ông Cao Huy Thuần đưa ra bằng cớ rằng câu chữ, cách viết của công hàm Phạm Văn Đồng hầu như y hệt với công hàm của Liên Xô: “Hãy so sánh ngữ văn này của Liên Xô với “công hàm Phạm Văn Đồng”: chữ nào chữ nấy gần như bản chính với bản sao. Đây là một điểm quan trọng góp phần vào việc giải thích bản văn của Hà Nội.”

Lối bênh vực đó thật phi lý. Khi một người hay một đảng chính trị đã ở vị trí lãnh đạo một nước, và nhất là khi người hay đảng đó đã tự chiếm cho mình độc quyền lãnh đạo nước đó, không cho ai khác được tranh giành, thì không thể biện hộ rằng chỉ vì máy móc theo gương mẫu, tập quán XHCN, gương mẫu, tập quán quốc tế hay bất cứ gương mẫu gì khác “như một bản sao”, mà vô ý nhượng bộ lãnh thổ cho ngoại bang. Thủ tướng một nước đâu có phải là một cậu học trò lười biếng sao chép bài của thầy, bạn?

Phạm Văn Đồng, và tập thể lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) thời 1958, có phải là những Bambi (nai tơ) ngây thơ vô tội, nhìn đời qua cặp mắt kiếng mầu hồng, nên bị lừa dối bởi những ảo tưởng không thực tế? Hay ông và những người đồng đảng, kể cả lãnh đạo Hồ Chí Minh, là những nhà chính trị lão luyện, đã từng trải qua nhiều chục năm tranh đấu gay go, vào sinh ra tử, đã từng không ngần ngại bắt bớ, thủ tiêu những chính trị gia đồng bào không đồng ý kiến?

Khi Phạm Văn Đồng rập khuôn công hàm của Liên Xô, ông có nghĩ tới sự khác biệt quan trọng: Liên Xô không có tranh chấp với Trung Quốc về những đảo trong tuyên bố của Trung Quốc, còn Việt Nam thì có? Khi Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” của Trung Cộng, thì ông có thêm dòng chữ “trừ điều khoản về Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa)”? Không, ông chỉ “ghi nhận và tán thành” “như một bản sao”! Khó có thể tưởng tượng người nào – dù là một người bình thường hay một thẩm phán Tòa án Quốc tế – chấp nhận việc một thủ tướng lại nhắm mắt sao chép như vậy về một vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ nước mình!

Bản tuyên bố của Trung Cộng, 4 tháng Chín, 1958.

Ông Cao Huy Thuần viết: “Cho đến bây giờ, độc giả Việt Nam chỉ thấy thư của Phạm Văn Đồng đáp lại tuyên bố của Chu Ân Lai mà chẳng thấy tuyên bố của Trung Quốc là thế nào, tuy rằng đó là cái chìa khóa để mở cánh cửa đầu tiên”. Có vẻ như ông ám chỉ rằng công chúng Việt nam chỉ trích Công hàm PVĐ chỉ vì họ chưa đọc bản tuyên bố của Tàu. Không hiểu ông Cao Huy Thuần căn cứ vào đâu mà viết vậy. Thực ra, những người quan tâm về hậu quả Công hàm PCĐ nhiều nhất chính là những người đã đọcbản tuyên bố của Tàu. Khi tôi trao đổi trên facebook, có nhiều người còn bào chữa cho Công hàm, nhưng đến khi tôi cho họ coi nguyên văn bản tuyên bố của Tàu thì tất cả đều lặng người vì đau đớn.

Càng đọc tuyên bố của Trung Quốc càng thấy rõ sự nguy hại của Công hàm PVĐ, vì tuyên bố đó nói rõ ràng là hải phận 12 hải lý “áp dụng cho Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa)”. Mà nào có ai ép PVĐ phải “ghi nhận và tán thành” cái tuyên bố đó đâu? Ông chỉ cần viết rằng Việt Nam sẽ tôn trọng hải phận 12 hải lý quanh các bờ biển thuộc về Trung Quốc là đủ chứng tỏ sự đoàn kết và ủng hộ nước Tàu rồi, tại sao phải viết thêm câu “ghi nhận và tán thành” đó?
Ông Cao Huy Thuần viết:

“Một chính quyền [của thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu] chưa hoàn toàn độc lập đối với Pháp mà còn cương quyết [bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa] như thế, lẽ nào, thực lòng, một chính quyền đã hy sinh xương máu để bảo vệ độc lập, chủ quyền như chính quyền Phạm Văn Đồng, lại có thể từ khước chủ quyền một cách dễ dàng như vậy trong một bức thư?”

Lý luận như vậy theo tôi là lý luận ngược, đặt cái cày trước con trâu. Chúng ta không thể đặt mệnh đề “chính quyền Phạm Văn Đồng đã hy sinh xương máu để bảo vệ độc lập, chủ quyền” làm tiền đề, vì đó chỉ là niềm tin của tác giả chứ không phải là một sự thật khách quan.

Sự thật khách quan là ông Phạm Văn Đồng đã “ghi nhận và tán thành” một bản tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa-Trường Sa. Sự thật khách quan là chính quyền Phạm Văn Đồng đã hy sinh rất nhiều xương máu của dân Việt Nam, nhưng chưa chắc hành động hy sinh xương máu đồng bào đó đã là với mục đích bảo vệ độc lập, chủ quyền. Và dù chính quyền Phạm Văn Đồng thực sự có mục đích bảo vệ độc lập, chủ quyền, thì cũng chưa chắc là họ đã không có một mục đích khác họ coi là cao cả hơn, chẳng hạn như mục đích thế giới đại đồng dưới chủ nghĩa cộng sản và sự lãnh đạo của Liên Xô và Trung Quốc, mà họ đã nhắc đi nhắc lại cả ngàn lần. Và cũng đừng quên là Công hàm không phải là hành động duy nhất, mà còn đi đôi với nhiều hành động khác, đã bị Tàu đem ra làm bằng chứng cho sự từ khước chủ quyền.

Lại càng không thể chấp nhận tiền đề, dù chỉ hiểu ngầm, rằng thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu không yêu nước, không quan tâm chủ quyền các đảo bằng thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng, để từ đó suy ra rằng Trần Văn Hữu bảo vệ chủ quyền nên Phạm Văn Đồng, người không thể thua kém Trần Văn Hữu, không thể từ bỏ chủ quyền. Đó chỉ là suy diễn, từ thành kiến chính trị mà suy ra sự việc: đáng lẽ dùng hành động của hai người (Trần Văn Hữu và Phạm Văn Đồng) để đánh giá và so sánh họ, thì lại khởi sự từ sự đánh giá có sẵn trong đầu để giải thích hành động. Kiểu “lý luận” đó cũng như của một kẻ đang yêu mù quáng và tôn thờ người yêu nên thấy nàng làm gì cũng bào chữa, khen ngợi, dù là chuyện xấu xa. Đáng lẽ ông Cao Huy Thuần phải hỏi: một người (Trần Văn Hữu) tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam trước quốc tế, một người (Phạm Văn Đồng) không những phớt lờ khi kẻ tranh giành chủ quyền công khai tuyên bố rõ ràng chữ Hoàng Sa -Trường Sa, mà còn “ghi nhận và tán thành”, thì ai quan tâm tới chủ quyền hơn ai?

Vấn đề cơ bản của Công hàm Phạm Văn Đồng

Ông Cao Huy Thuần, cũng như nhiều người khác, cho rằng Công hàm PVĐ không có tính cách pháp lý, không phải là một hiệp định phân định biên giới hay nhường đảo, và do đó không đáng sợ. Nhưng cái tai hại của nó không ở chỗ đó. Nó nguy hiểm ở chỗ là nó có thể được coi là chứng cớ rằng từ trước đó, chính quyền VNDCCH vẫn công nhận Hoàng Sa-Trường Sa đương nhiên là thuộc về Trung Quốc. Tức là, nó không chứng tỏ rằng Việt Nam đã “nhường chủ quyền” cho Trung Quốc, nhưng nó chứng tỏ rằng VNDCCH công nhận rằng chủ quyền từ xưa vẫn thuộc về Trung Quốc một cách đương nhiên, “không thể chối cãi”, và Việt Nam chẳng có gì để mà nhường. Nó không phải là tờ giấy cho con mình làm con nuôi người khác, mà là giấy chứng nhận rằng đứa trẻ không hề là con mình. Cách hiểu này càng khó bác bỏ khi đi đôi với những hành động khác (bản đồ, sách giáo khoa, sự im lặng về trận hải chiến Hoàng Sa và về vấn đề chủ quyền các đảo nói chung).

Giữa hai cách hiểu Công hàm PVĐ: “vô ý rập khuôn Liên Xô nên đánh rớt chủ quyền”“đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc từ trước”, chỉ có thể chọn cách thứ nhất nếu người viết và ký là một em bé thơ ngây chứ không phải là một nhà chính trị lão luyện, đứng đầu một chính phủ. Nhưng cũng có thể là khi giao dịch với đàn anh phương Bắc thì các lãnh đạo VNDCCH trở thành ngây thơ như em bé? Khả năng đó không thể hoàn toàn loại bỏ, vì đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ VNDCCH chịu ơn người anh Trung Quốc quá, quá nặng.

Tóm lại, những lý lẽ ông Cao Huy Thuần đưa ra để bào chữa cho Phạm Văn Đồng không đóng góp được gì cho cuộc tranh đấu vô cùng gay go để tháo gỡ hậu quả tai hại của Công hàm này. Công hàm PVĐ không phải là bản án tử hình, nhưng ít ra nó cũng là một lưỡi gươm Damocles đủ sắc để chặt cụt cánh tay pháp lý của Việt Nam, khiến nước này sẽ không dám ra tòa để đòi phân xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa dù là chính quyền muốn làm vậy (mà việc này thì chưa chắc, vì còn 16 chữ vàng gì đó). Công hàm PVĐ đã khiến khả năng thua kiện trở thành đáng để ý (non-negligible), mà nếu thua là mất tất cả, kể cả những đảo Trường Sa còn đang chiếm hữu, còn nếu thắng thì Tàu hầu như chắc chắn cũng không giao trả đảo nào. Người khôn ngoan không bao giờ đi vào một vụ kiện như vậy (hy vọng là chính phủ hiện thời khôn ngoan hơn chính phủ Phạm Văn Đồng).

Cuộc tranh đấu chủ quyền do đó sẽ chỉ diễn ra trên các mặt trận học thuật, công luận, ngoại giao, chính trị quốc tế. Tiếc thay, trên những mặt trận đó thì Công hàm Phạm Văn Đồng lại càng nguy hại hơn là trong địa hạt pháp lý! Rốt cuộc, những lý lẽ của GS Cao Huy Thuần có lẽ chỉ để “lưu hành nội bộ”, may ra an ủi được những người “phò đảng tới cùng” (hay theo tiếng Anh là chúng chỉ dùng vào mục tiêu “preaching to the converted”).
Phạm Quang Tuấn

Nguồn: – Có cần phải thông cảm cho ông Phạm Văn Đồng? Phạm Quang Tuấn. Tác giả gởi cho Bauxite Việt Nam. 15/06/2014

Những sự "Cù Lần" của "Ông Đèn Cù"

Một người thông minh là người không chỉ làm ra được những điều mới mẻ có giá trị mà còn biết nhận ra sai lầm của chính mình. Với khoa học công nghệ thì dễ, nếu sai anh sẽ biết ngay vì kiểm chứng sai hoặc không cho ra sản phẩm. Bộ óc vĩ đại như Einstein cũng đã buộc phải thừa nhận mình là “ngu ngốc” khi đưa vào phương trình của mình “hằng số vũ trụ” vì ông cho rằng vũ trụ là “tĩnh”. Nhưng với chính trị tư tưởng thì khác, vì thế giới còn phân cực nên vẫn có những sự sai trái được ủng hộ, tung hô. Những cuốn như Bên thắng cuộc của Huy Đức hôm nào và Đèn cù của Trần Đĩnh hôm nay chính là loại như vậy. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã mà. Họ bất chấp sự phi lý, sai trái, viết ra để ngụy biện, muốn lau đi những gì nhem nhuốc trên gương mặt mình, và tệ hơn nữa, là vì tiền, nhưng vẫn có những kẻ ca ngợi. Có điều để tranh biện khách quan, ai cũng phải dựa trên cơ sở của đạo lý, như cướp của giết người thì phải là xấu, xâm lược thì phải là phi nghĩa. Từ đó ta sẽ thấy chủ trương đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước, giành lại nền độc lập của chúng ta như lịch sử đã diễn ra tất yếu là đúng đắn, là chính nghĩa. Chỉ có những kẻ mất nhân tính mới không thấy như vậy. Một người đã ở tuổi U90 như Trần Đĩnh, lại từng làm ở báo Sự Thật (tiền thân của báo Nhân Dân), sau ngày thống nhất đến 40 năm, vẫn viết sách cho cuộc kháng chiến của chúng ta từng khiến cả thế giới và đến cả kẻ thù cũng phải khâm phục, là sai lầm, thì đầu óc ông ta đúng là cù lần thật! Và cái tựa đề “Đèn cù”, ông nên dùng để chỉ sự lẩn quẩn của chính mình thì đúng hơn.
Nhật báo Người Việt sẽ xuất bản quyển sách tư liệu mang tựa đề Đèn Cù của nhà văn, nhà báo Trần Đĩnh vào cuối tháng 8 nàyĐặt tên cuốn sách là Đèn cù, Trần Đĩnh muốn nhạo báng sự thay đổi những quyết sách của các nhà lãnh đạo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Một  khe  nứt  ngoài  sức  tưởng  tượng!  Ngày  nào  ai  nói  vừa đánh  vừa  đàm,  ai  nói Liên  Xô  cũng  bênh  Trung  Quốc  mà chống Mỹ  thì  cầm  chắc  chết.  Nay  lại chính là Bộ Chính trị. Thay  đổi  quả  là  nhanh  gọn. Trước  kia  ai  li  khai  Liên Xô,  tổ quốc của cách mạng vô sản  thế giới  thì chết, ai dè đến Nghị quyết 9 chửi Liên Xô phản động lại là tuyệt vời cách mạng. Dân từ đó đẻ ra câu: sáng đúng chiều sai đến mai lại đúng. Và ông Trung Quốc bà Liên Xô, ông nhảy dây, bà đá bóng. Lộn tùng phèo hết”.
Viết vậy, Trần Đĩnh đã ngây ngô không hiểu rằng, với chính trị, cái chuyện đèn cù “sáng đúng chiều sai mai lại đúng” lại chính là một thuộc tính của nó. Ta thấy trên thế giới, Anh, Pháp, Mỹ từng là kẻ thù của Đức, Ý, Nhật trong Đại chiến Thế giới lần thứ II, nhưng nay họ là đồng minh. Còn Liên Xô từng là đồng minh với Anh, Pháp, Mỹ chống Phát-xít nhưng rồi lại đối đầu nhau trong cuộc chiến tranh lạnh. Đọc truyện Tam Quốc ta thấy có những ông quan làm nghề thuyết khách, họ thường “uốn ba tấc lưỡi” thuyết phục kẻ thù cũ hợp tác để chống kẻ thù mới, xong rồi thì họ lại tiếp tục chống nhau. Là một nhà báo, lại làm ở báo Nhân Dân, báo chính trị, vậy mà không hiểu điều đó thì tác giả Đèn cù lại là cù lần! Mà khốn nạn ở chỗ không chỉ là chuyện hiểu hay không hiểu, sự cù lần này đã làm Trần Đĩnh bị thất sủng, bị khốn khổ, rồi cả một đời tự giam cầm trong sự quẩn quanh sai trái của chính mình.
Cái sai lớn nhất của Trần Đĩnh là không hiểu, để làm được một việc gần như không tưởng, gần như tay trắng mà muốn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, nước ta đã phải tận dụng mọi sự giúp đỡ của “hai ông anh Xô-Trung” và tất cả các nước khác. Ngược lại ta cũng không đồng tình với tất cả những gì làm khó khăn cho mục đích tối thượng đó, kể cả từ phía Liên Xô hoặc TQ. Trần Đĩnh cũng đã không phân biệt được chuyện ta chỉ chống quan điểm xét lại của Liên Xô chứ không chống Liên Xô, ta theo Trung Quốc vì Trung Quốc giúp ta chứ ta không chấp nhận sự bành trướng. Việc Trần Đĩnh lặp lại rất nhiều lần cái ý ta chống Mỹ là cho Trung Quốc chứ không phải cho chính ta thì một lần nữa cũng lại là một cái nhìn cù lần!
***
Gắn với số phận Trần Đĩnh, khởi thủy từ chuyện Khrusov, giữa năm 1956, đưa ra luận điểm “chung sống hòa bình” mà ta cho là “chủ nghĩa xét lại”.
Là một người lương thiện có ai không muốn chung sống hòa bình? Nhưng lịch sử thế giới là là lịch sử của những kẻ khi mạnh thì thường tham lam, luôn muốn thống trị kẻ yếu. Đến tận hôm nay vẫn như vậy. Như việc “con bò” Trung Quốc vẫn đang muốn “liếm” hết Biển Đông chẳng hạn. Như vậy “luận điểm chung sống hòa bình” của Khrusov là chuyện không tưởng.
Vậy Khrusov, thần tượng của Trần Đĩnh và những người trong vụ án “Xét lại chống Đảng”, là người như thế nào?
 Khrusov từng thông qua vợ của Stalin, bạn học ở đại học, để thể hiện “sự trung thành của mình”. Nhưng khi nắm quyền đã phủ định hoàn toàn Stalin. Để nắm trọn quyền lực, năm 1953, Khrusov đã phải dựa vào sức mạnh của Nguyên soái Zhukov tổ chức bắt rồi xử tử Bộ trưởng Nội vụ Beria, cánh tay phải nắm an ninh dưới thời Stalin. Trước đó, Khrusov cũng đã từng chịu ơn Zhukov. Năm 1944, trong đoàn xe hộ tống đại tướng N. F. Vatutin bị phục kích có xe của Khrusov. Có người tố cáo với Stalin rằng Khrusov đã bỏ chạy nhưng Zhukov đã nói với Stalin là Khrusov đã làm mọi cách để cứu Vatutin. Năm 1957, có một dự thảo nghị quyết cách chức Bí thư thứ nhất của Khrusov, Zhukov một lần nữa đã ủng hộ Khrusov với lời tuyên bố: “Quân đội chống lại nghị quyết này và sẽ không có một chiếc xe tăng nào rời khỏi vị trí nếu không có lệnh của tôi !”. Vậy mà trong một chuyến công du Nam Tư, khi Zhukov xa “đoàn xe tăng” của mình, ông đã bị cách chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phía sau lưng, Khrusov đã không làm gì giúp ông. Ngược lại, theo nhiều nhà phân tích, chính Khrusov cũng sợ Zhukov, một căn bệnh có tính truyền thống: "Sợ kẻ có sức mạnh". Nhưng rồi đến chính Khrusov cũng bị mất chức. Năm 1964, theo Mesyatsev: “Hội nghị toàn thể đã bầu Khrusov làm Bí thư thứ nhất. Và cũng chính Hội nghị toàn thể cho ông thôi chức này. … Khrusov cũng đã thừa nhận rằng, ông không thể tiếp tục lèo lái nhà nước và đảng được nữa. — Như vậy, các thành viên BCH TƯ đã hành động không những hợp pháp, mà đây còn là lần đầu tiên trong lịch sử xô-viết của đảng, bằng thuyết phục, họ đã dũng cảm đi tới thống nhất cho thôi chức một lãnh tụ, người đã mắc nhiều sai lầm”.
Không chỉ như vậy, Khrusov cũng chính là người đã gieo mầm ý thức làm tan rã Liên Xô. Thời trẻ, khi Goocbachov hình thành thế giới quan cũng chính là vào thời kỳ Khrusov phủ định hoàn toàn Stalin. Goocbachov từng nói: “Thời trẻ chúng tôi tin theo Đảng, trung thành gia nhập Đảng, nhưng sau Đại hội 20, tư tưởng của chúng tôi bắt đầu có sự thay đổi”. 1990, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội thông qua nghị quyết về lập chức Tổng thống Liên Xô và lời tựa Hiến pháp Liên Xô đã xóa đi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản!
Rút cuộc, Khrusov chỉ là một người tầm tường như vậy. Chung sống hòa bình nói chung là tốt nhưng với riêng nước ta là phi lý vì là sự chung sống với kẻ bán nước và kẻ cướp nước! Chỉ có những kẻ phản bội, muốn bán nước cầu vinh mới chấp nhận chuyện trái đạo lý ấy.
***  
Có lẽ cần phải dạy đôi nét lịch sử cho Trần Đĩnh và những kẻ mù lịch sử biết. Năm 1858 nước ta bị Pháp xâm lược, những cuộc kháng chiến của quân dân ta đều bị thất bại, đến cả Vua Hàm Nghi, rồi Vua Duy Tân cũng đã bị Pháp bắt đi đầy. 1887, khi Pháp lập Liên bang Đông dương thì dân ta đã thực sự mất nước.  Chỉ đến Cách mạng tháng 8 - 1945, chúng ta mới giành lại được chính quyền. Bảo Đại bù nhìn đã thoái vị, 2-9-1945, khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, một nhà nước mới, Nước VNDCCH, đã thực sự chào đời. Rồi khi Pháp quay lại, chính nhà nước ấy đã làm nên chiến thắng ĐBP 1954 chấn động Địa cầu, buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève 1954, trao trả nền độc lập cho VN. Đến đây thì làm sao chúng ta lại có thể chung sống hòa bình với những kẻ phá hoại Hiệp định, chung sống với một chế độ tay sai, tiếp tục bán nước của Ngô Đình Diệm.
Theo "Fire In The Lake" by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về Diệm, tác giả viết: “Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the modern world was Saigon, that parasite city that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West)”. Trong thời gian chúng ta vẫn kiên trì chờ đợi thực hiện Hiệp định, Ngô Đình Diệm đã đưa ra luật 10/59, lê máy chém khắp nơi để diệt cộng; với những nhà tù khét tiếng như nhà ngục Chín hầm ở Huế, nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc v.v… Những hành động tàn sát chính đồng bào mình được coi là quốc sách. Mức độ độc tài, tàn ác quá lớn đã làm mất lòng cả thuộc cấp, làm phật ý cả Mỹ, vì thế Diệm mới phải chịu quả báo nhãn tiền, bị đảo chính, bị giết. Ấy vậy mà đến tận giờ vẫn có những kẻ thuộc “bên thắng cuộc” như Lê Công Định tôn thờ Ngô Đình Diệm, và với Trần Đĩnh thì cũng thật là cù lần khi đến tận giờ vẫn cho cần phải “chung sống hòa bình” với một chế độ như thế. Hãy xem lá thư quỵ lụy, kể công bán nước với Pháp của Ngô Đình Thục, anh ruột Ngô Đình Diệm, người đã dựa vào thế lực công giáo, giúp em mình đoạt quyền từ Bảo Đại:
"Với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi (Ngô Đình Khả) cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh.
   
   Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp...."
Như vậy, theo lẽ thường, chỉ có Cách mạng Tháng Tám 1945, Chiến thắng ĐBP 1954 và Chiến dịch HCM giành toàn thắng vào ngày 30-4-1975 là những trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Thật kỳ quái, đã 40 năm sau ngày thống nhất, vậy mà Trần Đĩnh, một nhà báo từng là Đảng viên, vẫn cho rằng cuộc kháng chiến thần thánh của quân dân ta là cuộc chiến ý thức hệ, chúng ta chiến đấu bởi sự giật dây của Trung Quốc, chiến đấu cho Trung Quốc chứ không phải cho chính ta:
“Nhưng đến nay, bây giờ khi viết những dòng này,  tôi  lại hình dung thấy tất cả phe cộng sản  lúc ấy  là một chậu nước lớn nhưng đã ngầu đục bị Mao  lắc cho nổi sóng cuộn gió và bên  trong  chậu  đó  các  anh  hùng  hảo  hán,  các  kẻ  vệ  đạo nghiêng ngửa hò hét hủy diệt nhau. Trong sóng gió tối tăm ấy của cộng sản (thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ)”.
Trần Đĩnh cần phải hiểu, nước ta đã bị Pháp rồi Mỹ xâm lược chứ không phải Trung Quốc bị xâm lược. Nên ta tiến hành cuộc kháng chiến giành độc lập trước hết là cho chính ta chứ không phải cho Trung Quốc. Nếu cuộc kháng chiến của ta có lợi cho Trung Quốc như phên giậu bảo vệ họ thì chỉ là một lẽ tự nhiên, một công đôi việc, vậy Trung Quốc vì lợi ích của họ mà giúp ta cũng là điều hợp lý. Việc cho chúng ta “đổ máu cho Trung Quốc” là một cái nhìn thiển cận của một kẻ tâm thần!
Trần Đĩnh cần phải công nhận thực tế, nước ta từ một đất nước có 2 triệu người chết đói, được như hôm nay, dù còn nhiều tệ nạn, yếu kém, kể cả sai lạc, dân ta vẫn đang được sống những ngày hạnh phúc nhất so với toàn bộ lịch sử của dân tộc. Kể cả những kẻ đang to mồm chống chế độ, thực tế chỉ vì đố kỵ nhỏ nhen, vì tham vọng không cùng, vì cơ hội, muốn bắt cá nhiều tay, chứ bọn chúng thực tế đã được hưởng rất nhiều danh lợi từ chế độ. Mà hạnh phúc của chúng ta hôm nay chính là hạnh phúc thật, tự tay ta làm ra, chứ không như sự “phồn vinh giả tạo” của Sài Gòn trước 1975. Nói giả tạo là nói thật chứ không phải tuyên truyền bởi sự phồn vinh đó đã ăn theo chi phí của Mỹ cho chiến tranh mà nhà kinh tế Steven ước tính lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho thế chiến thứ hai. Và theo ông Nguyễn Tiến Hưng, cứ mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VNCH hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Chính Nguyễn Văn Thiệu cũng đã huỵch toẹt ra rằng: “Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!”
***
Từ ảo tưởng về tư tưởng chủ hòa, há miệng chờ sung, Trần Đĩnh đã mù lòa trước tội ác của kẻ xâm lược, của kẻ theo giặc làm tay sai, nên đã phân chia các nhà lãnh đạo nước ta làm hai phe: “chủ chiến” và “chủ hòa”. Phe chủ chiến gồm có Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, v.v… Phe chủ hòa gồm có Bác Hồ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, v.v…
Vốn coi Khrusov là thần tượng với tư tưởng “chung sống hòa bình”, Trần Đĩnh theo phe “chủ hòa”. Nhưng là người cố chấp, ngu lâu nên khi thấy phe “chủ hòa” thống nhất ý kiến với phe “chủ chiến” mà ông ta cho là họ đã “đầu hàng”, Trần Đĩnh đã “thất tình” với họ. Ông ta viết: “Tôi yêu Trường Chinh và không ưa Lê Duẩn. Quan điểm tả khuynh bạo lực của Lê Duẩn không thuyết phục tôi”. Nhưng rồi: “Trường  Chinh  đã  đổi dòng. Ông mà lại theo Mao muốn  Xô, Mỹ chỏang  nhau  cho ruồi muỗi chết! Có thể nói đây là một thất tình của tôi với Trường Chinh, cũng là mối thất tình đầu tiên trong đời”. “Chủ trương vũ trang để thống nhất đất nước của Duẩn, Chí Thanh đã thắng. Trường  Chinh  đầu  hàng  Duẩn  là  cánh  chủ  hòa  qụy”; “Cụ Hồ không bỏ phiếu … Người mà tôi hy vọng cuối cùng thế là cũng thua nốt: thua đám con em của Cụ trong cơn nguy cấp ầm ầm sấm sét này. Thì ra thường là Cụ thua”.
Từ đó Trần Đĩnh cảm thấy:
“Tôi chợt mệt tưởng như có thể khuỵu xuống. Vốn đã biết Nghị quyết 9 là nhằm chuẩn bị đánh Mỹ… Mới nhận  thấy  vì  quá  sợ,  quá  ghét  cái  triển  vọng  bom  đạn  ùng oàng nên  lâu nay  tôi cố  tin hết  từ Trường Chinh, Cụ Hồ đến lương tri của Trung ương để rồi nay thì chiến tranh nó đang lù lù ở trước mặt. Một cuộc chiến tranh mà người ta đã đem  trang  hoàng như  cỗ  xe  hoa  lộng  lẫy  trong  hội  lễ  hóa  trang carnival… với bầu khí quyển khủng bố mà bọn chúng tôi đang được nếm trước.  Ở  tôi lúc này trùm lên trên tất cả là tâm trạng thua. Đúng hơn, một  không  gian  thua, một  trận  địa  thua, một  đời  vét sạch cho thua, thua nhẵn, thua nhục, thua rã rượi mênh mang toàn diện và nó đang dìm tôi ngập lút vào trong nỗi tự ái cay đắng. Tôi thấy tôi bơ vơ, côi cút trong đêm đen ngòm ở giữa một sa mạc hoang vắng  là  thế giới hung hãn khát máu này”; “Sao hòa bình dân chủ không lay động lương tri người ta?”.
Trần Đĩnh cho những người quyết tâm dùng bạo lực đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước là “Mao ít”, là “chống Liên Xô”, là những người “muốn  biến  đất nước  thành  ra  bãi  chọi  trâu”; “Khốn nạn, đại loạn là cách mạng, yên bình là phản cách mạng, nói ngang như thế mà nghe lại sướng mê sướng mẩn lên với nhau kìa! Khốn nạn!”; “Chiến tranh hớn hở đến gần và cái phao tôi bám vào đã nổ đánh bụp”.
Vào những năm 60, Trần Đĩnh mới ở tuổi 30, các vị lãnh đạo tối cao như Lê Duẩn, Trường Trinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ đã ở tuổi trên dưới 50. Về tuổi, Trần Đĩnh so với họ chỉ là thằng chọi con, về công việc thì chỉ là thằng nhà báo, ai cần thì sai vặt chuyện ghi chép. Chính Trần Đĩnh tự bơm mình lên để có đủ tầm cao nhận định về họ, nhưng tầm nhìn của một mô đất thì làm sao có thể thấy những đỉnh núi nghĩ gì nên ông ta mới “thất tình” như vậy. Trường Chinh mà Trần Đĩnh kể đã chỉ dậy Trần Đĩnh những chữ nghĩa đầu tiên trong nghề báo chí, tức rất hiểu Trần Đĩnh và có chút ân tình quen biết, vậy mà theo chính Trần Đĩnh kể: “gặp tôi ở sân báo, Quang Đạm bóp bóp tay tôi nói:  - Mình vừa  lên anh Năm (tức Trường Chinh) về, anh Năm bảo sao Trần Đĩnh lại sa đọa chính trị thế?”. Như vậy, một người thầy cỡ như Trường Chinh chỉ cho mà Trần Đĩnh vẫn không nhận ra được cái sai của mình thì là thằng học trò quá dốt, lại yếm thế, nhỏ nhen, nên cả đời mới sa lầy trong cái ao tù mặc cảm, giận hờn, tự thân làm tội đời mình!
***
Có một ý Trần Đĩnh rất “cù lần” viết trong Đèn cù là : “Trong  khi  hết  lời  ca  ngợi  phản  chiến  ở  Mỹ  thì  tại  sao trừng  trị  chúng  tôi  ác nghiệt  đến  thế  và  đặc  biệt  trước  sau không bao giờ nêu tội danh phản chiến của chúng tôi ra?”. Mang danh là một nhà báo, mà lại ở báo Nhân Dân nhưng Trần Đĩnh không phân biệt nổi chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi nghĩa, cuộc kháng chiến tự vệ với sự xâm lược. Trần Đĩnh cần phải hiểu cho đúng những người như ông không phải “phản chiến” mà là “phản động”, tức là phản lại xu hướng vận động chung của đất nước. Trần Đĩnh viết: “Viết Bất Khuất, tôi không một lời chửi Mỹ, trong khi đặc trưng của văn học cách mạng là phải tìm mọi dịp lên án nó, thằng đế quốc kẻ thù của loài người và nhân dân Việt Nam”. Hồi chiến tranh, Mỹ mang bom đạn đến giết dân ta mà Trần Đĩnh “không chửi Mỹ” chứng tỏ hồi đó Trần Đĩnh là một kẻ bất lương, còn đến hôm nay mà vẫn viết thế chứng tỏ là một kẻ cơ hội, muốn trông ngóng Mỹ “giải ngân” chăng? Trong chiến tranh Mỹ là “giặc” thì một người lương thiện phải biết chửi giặc, còn bây giờ Mỹ là “bạn” mà vẫn chửi Mỹ như xưa thì sẽ là một con “bò đỏ”! Người hiểu đạo lý thì phải biết ứng xử “biện chứng” như thế.  Cũng mất nhân tính như Dương Thu Hương “khóc như cha chết trong ngày toàn thắng”, Trần Đĩnh viết: “1975. Tháng 4. Đại thắng mùa xuân.  Bỏ báo xuống  là một phản ứng buồn. Chính  tôi thua. Với thân phận kẻ bị đàn áp, rất bản năng tôi đứng ngay vào phía bà con đại bại trong Nam.  Gần trưa 30  - 4, Nguyễn Thành Long rủ  tôi đi bộ về phía ngã  tư  Lý  Thường  Kiệt  -  Phố  Huế. 
 Đường  ngày  càng  đông người hò reo. Tôi nói: “Chả  lẽ trời đất quỷ thần  lại phù hộ”.  Cho mình là người ghét chiến tranh yêu hòa bình thì hòa bình về phải mừng chứ sao lại buồn, sao lại trách cả trời đất phù hộ cho một dân tộc được hòa bình? Như vậy Trần Đĩnh đã tự biến mình thành kẻ địch nên phải buồn khi phe mình bị thất bại. Với đứa con gái, ông ta viết: “Tôi  vẫy  cháu  đến  bên  giường.  Thấy  cần  cho  cháu  hiểu điều cơ bản. Nói: - Cho con đi mừng đất nuớc hết chiến tranh, dân  thôi chết chóc chứ không phải mừng chiến  thắng vì khi con reo hò thì trong kia có thể ông nội và các cô chú của con lại  đang  khóc...  bởi  bom đạn ngoài này  giết  chết mất người thân”. 
***
Để biện hộ cho sai lầm của mình, Trần Đĩnh dựa vào bao thứ màu mè, từ nhân danh chủ nghĩa nhân đạo yêu hòa bình, ghét chiến tranh, đến nhân danh tư tưởng triết học của Karl Popper bác bỏ chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác  - xít, cho  là  thứ  thuốc mê  gây  ảo tưởng chủ quan, lạc quan tếu, viển vông, nhưng như câu nói với đứa con gái ở trên, con người Trần Đĩnh như vậy đơn giản chỉ là vì mang gen di truyền. Ở đây khoa học lại tỏ ra tuyệt đối chính xác. Bởi Trần Đĩnh là con của một người mà chính ông ta “khoe” như thế này:
“Một thời gian dài bố tôi đã  là giáo viên phản diện về chính  trị. Lúc tôi bé, mẹ hay kể bố  ngày  học  ở  Bưởi  rất  nhiệt  huyết  cách  mạng…  Để  tang  Phan  Chu Trinh  rất hăng  hái,  bố  bị  Trường Bưởi  đuổi  rồi  vào  sổ  đen mật thám. Thế là sợ, về đi làm và ăn chơi, và để ăn chơi thì ăn hối lộ. “Bố các con chỗ này xoàng. Con một mà,” - mẹ thường nhận xét. Khi bố  tôi  tản cư về quê vợ của ông (một người bạn của bố Trần Đĩnh), ông là chủ tịch huyện liền chuẩn bị đưa lính đến bắt. Em vợ bác ngầm báo và bố tôi đành để ông bà và chúng tôi ở lại mà về thành”.
Tuy ở hai phía đối đầu nhưng hai cha con Trần Đĩnh luôn đồng chí, đồng lòng nên “Xong chiến tranh cả  tháng tôi rất buồn: không có  tin của bố và các em tôi. Gia đình tôi mất liên hệ với nhau đã lâu.  Thương miền Nam đang sướng rồi khổ đây”. Lại một phản xạ có điều kiện của loài vật, được ăn ngon thì tiết ra cảm giác sung sướng, mà không hiểu rằng với loài người, có miếng ăn là miếng nhục. Mà miếng ăn làm nên cái “sướng” của một bộ phận dân cư tại đô thị ở Miền Nam trong chiến tranh không chỉ là miếng nhục mà còn là miếng ác, có dính máu!
***
Qua việc Trần Đĩnh kể, dù có thật đi chăng nữa, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã có sự khác nhau về quan điểm giữa những vị lãnh đạo tối cao của cách mạng nước ta, nếu là người hiểu biết cũng sẽ thấy đó chỉ là chuyện bình thường. Bởi với một việc con con người ta đã có những ý kiến khác nhau thì cả một sự nghiệp giải phóng dân tộc làm sao ngay lập tức tất cả đều nghĩ giống nhau. Cái chính là sau đó những sự khác biệt được giải tỏa, không ai vì cái tôi mà tất cả đã vì sự nghiệp chung, nên cuối cùng họ đã đi đến thống nhất với nhau. Từ trước tới nay lịch sử mà chúng ta học là lịch sử đã được chưng cất, tinh lọc, với quần chúng thì như thế là đủ; nhưng với các nhà nghiên cứu, các nhà lý luận, lịch sử không chỉ để tự hào mà còn là tấm gương soi, là bài học cho đời sau thì lịch sử cần phải được hiểu biết sâu sắc, toàn diện hơn. Nhưng nếu trí không đủ cao, tâm không đủ sáng, người ta rất dễ bị sa lầy vào những vùng trũng, những góc khuất của lịch sử. Vì thế cần phải có cái nhìn thấu suốt minh triết trên cơ sở của tri thức và đạo lý. Với triết học Mác, quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản và là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật: “sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển”. Vì không hiểu cả đời lẫn “đạo” triết học nên Trần Đĩnh mới ngây ngô chia phe, rồi cho phe này thắng phe kia như thế. Và chính vì thế ông ta mới không hiểu nổi chuyện: “Đến  tháng 6  - 1967,  tất  cả những Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, gần hết Bộ chính trị và 11 nguyên soái đã bị Mao  bỏ  tù  thì  ở Việt Nam,  tuy  nằm  ở Bắc Kinh, Cụ Hồ  vẫn nguyên thanh thế chủ tịch nước có thơ gửi đồng bào, bộ đội và đặc biệt Giáp vẫn đầy đặn danh hiệu, chức vụ, quyền lực”.
  Như vậy, có thể ở giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bác Hồ và các vị Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã có những ý kiến thận trọng về cách thức tiến hành chứ hoàn toàn không có chuyện chia phe “chủ chiến”, “chủ hòa”. Việc chủ chiến là xuyên suốt. Nếu Bác Hồ có tư tưởng chủ hòa thì làm sao có chuyện Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại chuyện Bác đang bệnh trong lán Nà Lừa đã nói với ông câu nói đã thành bất hủ: “Dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Và làm sao có chuyện chính Trần Đĩnh viết sau Điện Biên Phủ, Hồ Chủ tịch ôm Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Chúc chú thắng trận trở về, nhưng chúng ta còn  phải đánh Mỹ”. Với Trường Chinh, thái độ chủ chiến của ông cũng thể hiện qua đoạn Trần Đĩnh kể: “Bất chợt tôi hỏi: - Có thể nói Hội nghị trung ương lần thứ 8 ở Pắc Bó là bắt đầu chấm dứt thời giáo điều mạo hiểm tả khuynh kéo dài của Đảng được không anh?  Ngồi bật thẳng dậy, nhô người về đằng trước, Trường Chinh nhíu lông mày nghiêm nghị nhìn tôi, rồi rành rọt từng tiếng: - Không! Anh nghĩ không đúng. Đường lối của đảng ta là  liên  tục phát  triển  có kế  thừa,  không  có  chuyện  thay đổi đường lối cũng như chấm dứt cái này cái kia”.  Còn về Liên Xô chắc cũng đã có những ý kiến khác nhau: hoặc chống Liên Xô một cách cực đoan, hoặc cần phải giữ mối quan hệ với Liên Xô, chỉ nên góp ý với Liên Xô những gì sai mà thôi. Thực tế quan điểm giữ mối quan hệ với Liên Xô đã được thực hiện. Đơn giản là vì nếu không có tên lửa Liên Xô làm sao bắn cháy máy bay Mỹ? Chính Trần Đĩnh kể chuyện ông Ung Văn  Khiêm nói về cách ứng xử của Bác Hồ với Liên Xô và Trung Quốc : “Cụ  biết,  biết  rõ  Liên  Xô,  Trung  Quốc  hầm  hè nhau  từ 1957, 58  rồi  cơ. Năm 1958, Cụ dẫn một đoàn  sang Trung Quốc, Liên Xô. Cụ tới Bắc Kinh, các cháu thiếu nhi khăn quàng  đỏ  ra  đón  chỉ  tặng  hoa  và  quàng  khăn đỏ  cho Cụ  và Hoàng Văn Hoan,  ủy  viên Bộ  chính  trị  phụ  trách  đối  ngoại. Sáng  sau  Cụ  bảo mình  chú  ở  nhà,  Bác  với  chú Hoan  đi  hội đàm  với bác Mao… Nhưng khi ta đến Mát - xcơ - va thì thiếu nhi khăn quàng đỏ lại chỉ tặng hoa và thắt khăn quàng đỏ cho Cụ và mình. Chắc đại sứ quán Nga ở Bắc Kinh đã mách chuyện Hoan được khăn quàng đỏ. Lần này Cụ bảo Hoàng Văn Hoan ở nhà, Bác và chú Khiêm đi hội đàm với đồng chí Khroutchev”.
Lối ứng xử mềm dẻo đó của Bác trong lĩnh vực ngoại giao đã trở thành sách lược, thành bài học quý giá cho cách mạng nước ta. Nước ta là một nước nhỏ yếu, trình độ khoa học công nghệ kém, không phải muốn ứng xử thế nào với thiên hạ cũng được. Vậy mà có rất nhiều kẻ, chuyện đại sự quốc gia mà lại đòi xử sự như giữa những kẻ anh hùng rơm, sĩ diện hão.
***
Vì có cái nhìn thiển cận, Trần Đĩnh cho Lê Duẩn đơn giản là theo Trung Quốc chống Liên Xô để rồi băn khoăn chuyện “sáng đúng chiều sai mai lại đúng”. Thực tế, khi quan điểm xét lại của Liên Xô như gáo nước lạnh dội vào ngọn lửa đấu tranh cách mạng nước ta. Liên Xô không tin ta có thể thắng được Mỹ. Podgorny từng nói với Lê Duẩn: "Các anh không thắng nổi Mỹ đâu". Ông đã trả lời: "Chúng tôi sẽ thắng cho các đồng chí xem". Sau Hội nghị Trung ương 9 chống chủ nghĩa xét lại, Lê Duẩn được cử sang góp ý với Liên Xô. Nhưng khi gặp họ, ông lại cảm ơn sự giúp đỡ của Liên Xô đã giúp cho cuộc đấu tranh ở Miền Nam tiến triển rất tốt đẹp và yêu cầu họ giúp đỡ tích cực hơn nữa. Khrusov đang chuẩn bị đối phó với thái độ phê phán của VN nhưng lại được nghe những lời cảm ơn như vậy nên rất mừng và đã vui vẻ chấp nhận ngay yêu cầu của Lê Duẩn. Sau khi được việc rồi Lê Duẩn mới có vài lời “góp ý với bạn”. Như vậy Lê Duẩn không chỉ là một nhà lãnh đạo quyết đoán, cứng rắn, mà khi cần ông cũng tỏ ra là một nhà ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo. Ông là người rất coi trọng việc Trung Quốc giúp ta chống Mỹ, nhưng chính ông cũng là người sớm nhận ra chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Theo hồi ký Trần Quỳnh, trong một cuộc gặp gỡ giữa Lê Duẩn với Mao ở Vũ Hán, khi Mao nói: “Tôi sẽ tổ chức một đội quân bần nông năm trăm triệu người. Tôi sẽ giải phóng cho cả Đông Nam Á, cho cả Việt Nam, các đồng chí không cần đánh”. Lê Duẩn nói: "Hắn nói giải phóng Đông Nam Á? Còn Việt Nam là của ta, hắn có quyền gì mà đem quân sang giải phóng Miền Nam ta? Chú thấy không? Tư tưởng bành trướng bá quyền đại Hán nó nói trắng trợn trước mặt ta, coi như chuyện dĩ nhiên. Thật là nguy hiểm hết sức". Năm 1972, trước khi Nixon sang Trung Quốc, Chu Ấn Lai sang Hà Nội. Lê Duẩn nói: "Các anh mời Nixon sang thăm Trung Quốc chẳng khác nào các anh đâm một nhát dao vào lưng chúng tôi. Việc giữa Trung Quốc và Mỹ các anh bàn gì chúng tôi không có ý kiến. Nhưng vấn đề Việt Nam là của chúng tôi, các anh không có quyền bàn. Giải quyết vấn đề Việt Nam như thế nào là do chúng tôi tự quyết định lấy. Còn vấn đề có viện trợ hay không cái đó tùy các anh. Các anh viện trợ, chúng tôi sẽ thắng Mỹ. Các anh không viện trợ chúng tôi phải hy sinh nhiều hơn nhưng cũng sẽ thắng Mỹ".
Như vậy hoàn toàn không phải như Trần Đĩnh viết, trước cuộc kháng chiến chống Mỹ đã có việc chia phe chủ chiến và chủ hòa, chúng ta “Đánh Mỹ là bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa”, chúng ta chiến đấu cho Trung Quốc, v.v… Mà thực tế, quyết tâm dùng bạo lực thống nhất đất nước là đồng lòng, là xuyên suốt. Chúng ta đã thực hiện một chiến lược ngoại giao mềm dẻo, một mặt vẫn giữ được mối quan hệ để xin viện trợ, một mặt ta phải vượt qua được tất cả sự toan tính sai lầm, vụ lợi, ích kỷ của các nước lớn, để rồi chúng ta đã thực hiện được mục tiêu tối thượng của chúng ta là giành toàn thắng, để đất nước hòa bình, độc lập, thống nhất như hôm nay!
          ***
Về vụ án chống Đảng mà Trần Đĩnh thực sự chỉ là một con tép riu, sau gần nửa thế kỷ (từ 1967), nếu hôm nay Trần Đĩnh không “kêu đau” chắc không ai biết Trần Đĩnh là ai. 19 tuổi đã được làm báo Sự thật (tiền thân của báo Nhân Dân), được chính đương kim TBT Trường Chinh dìu dắt, nếu trí cao, tâm sáng chắc chắn Trần Đĩnh sẽ thành đạt to. Nhưng tiếc là Trần Đĩnh lại thuộc diện tôi cao, trí thấp, tâm tối nên đã tự bôi đen cái số đỏ của mình. Trần Đĩnh cũng không có gan làm giặc chỉ “sa đọa chính trị” như đánh giá của Trường Chinh thôi. Trần Đĩnh một mặt vẫn hăng hái làm “bồi bút” và đợi “tăng lương”, một mặt vẫn ăn theo, nói leo sự sai trái, nên đã bị thất sủng, chỉ bị cải tạo lao động nhì nhằng chứ không bị đi tù. Như vậy, so với những người cùng trang lứa phải xông pha nơi hòn tên mũi đạn, quả là một may mắn cho một người hèn nhát như Trần Đĩnh trốn nghĩa vụ quân sự. Trần Đĩnh kể lại tâm trạng mình sau khi bị khai trừ Đảng: “tôi dửng dưng, tênh tênh khi bị khai trừ. Đúng! Nhưng không phải không có lúc suy sụp. Vì tự  ái, xấu  hổ… Rồi còn cả một chút tình ý bị mất quyền lợi… Và rơi vào diện chờ mọt xác mới được  tăng  lương”.
Về bản lĩnh chống đối, Trần Đĩnh không đáng xách dép cho Hoàng Minh Chính. Theo Trần Đĩnh: “tại hội  nghị  phổ  biến Nghị  quyết  9  ở  trường Nguyễn  Ái Quốc, Trường  Chinh  giới  thiệu  nghị  quyết, Hoàng Minh  Chính  đã đứng  lên  bác  lại.  Vặn  ngay Trường  Chinh… Chính nói đánh Mỹ sẽ là cưỡi lưng cọp dữ chứ không phải cưỡi cọp giấy đâu”. Chính vì vậy Hoàng Minh Chính bị coi là người đứng đầu nhóm Xét lại Chống Đảng và là người bị bắt đầu tiên. Ở cương vị Viện trưởng Viện Triết học, Hiệu phó trường đảng Nguyễn Ái Quốc, Hoàng Minh Chính từng được giao nhiệm vụ soạn thảo bản Báo cáo chính trị của Hội nghị TW9. Nhưng Hoàng Minh Chính đã chọn lập trường “chung sống hòa bình” của Khrusov nên đã bị bác bỏ, nhưng Hoàng Minh Chính lại “không chịu thua”, đã viết tiếp và phân phát bài "Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam". Vì thế mới bị bắt.
Vụ án trên thực chất là một cuộc đấu tranh tư tưởng, thể hiện quyết tâm giải phóng, thống nhất đất nước, giành lại nền độc lập của các nhà lãnh đạo nước ta chứ hoàn toàn không phải là một cuộc đấu đá cá nhân như các nạn nhân tự biện hộ và các “nhà sử học phương Tây” suy diễn. Nhóm người bị bắt chỉ chiếm phần rất nhỏ. Bản thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp người bị xem là "mục tiêu hạ bệ" thực tế vẫn giữ chức vụ Chủ tịch Quân ủy Trung ương và tham gia vào mọi quyết định lớn. Trong hồi ký ông cũng phủ nhận việc có bất đồng với Lê Duẩn, bản thân ông cũng ủng hộ quan điểm đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam. Chính ông viết trong hồi ký: "Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (Lê Duẩn) đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói với tôi: “Anh  là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo”. Ngoài ra, những nhà lãnh đạo Việt Nam chỉ chấp nhận những quan điểm của nước ngoài ủng hộ cuộc kháng chiến của ta và chống lại tất những quan điểm không ủng hộ chứ hoàn toàn không phải đơn giản là chuyện theo hoặc chống Liên Xô hay Trung Quốc.
Vậy mà đến tận hôm nay Trần Đĩnh và nhiều người liên quan vẫn không hiểu bản chất vấn đề, vẫn cho mình bị oan. Có thể hình dung nước ta ngày đó như một con tầu vượt sóng gió giữa trùng khơi, các nhà lãnh đạo như thuyền trưởng cầm lái. Những người trong vụ án đã đánh thẳng vào tay lái đó nên đã bị bắt, bị kỷ luật chứ không phải vì họ theo Liên Xô hay chống TQ. Trần Đĩnh không hiểu điều này nên mới đặt tên cuốn sách là Đèn cù. Trong thời chiến, nếu không kiên quyết, nghiêm khắc xử lý, con tầu không thể nào vượt qua được sóng gió để đến được bờ bến bình yên mà chắc chắn sẽ bị lật nhào, chìm nghỉm tận dưới lòng biển sâu! Cuộc kháng chiến của chúng ta cũng như tất cả các cuộc chiến mà nhân loại đã trải, cũng như Liên Xô và lực lượng Đồng minh đã chiến thắng Phát xít, hòa bình đã không tự đến, hòa bình chỉ đến với nhân loại, đến với dân ta bằng việc đánh đổi rất rất rất nhiều máu!
          ***
  Chiến tranh đã lùi xa 40 năm, cũng như mọi thành công trong cuộc đời, bản thân sự chiến thắng chính là chứng cớ sống động nhất chứng tỏ tài trí, đạo lý thuộc về những người làm nên chiến thắng đó. Nếu sự thật lịch sử không tiến theo đường thẳng, bước đi của lịch sử không được trải thảm, thực tế phải trả giá cao hơn, ta sẽ càng thấy quý giá hơn chiến thắng đó. Vậy mà đến nay vẫn có những cuốn sách như Đèn cù ra đời. Có điều ngược đời là, với tham vọng bôi đen lịch sử bằng việc kể ra “sự thật” những chuyện thâm cung bí sử nhưng Trần Đĩnh lại tự khoe là “tôi bịa”, “Tôi dựng ”, “tôi viết theo sự pha phách thêm nếm”. Như vậy, lịch sử VN vốn là vàng ngọc, nó không tùy theo “góc nhìn” của Trần Đĩnh, Trần Đĩnh không thể bôi đen được mà chỉ tự bôi bẩn thêm gương mặt của chính mình. Đèn cù chỉ được mỗi việc cho những người chống chế độ lợi dụng. Để lấy lòng họ, Trần Đĩnh còn tự nhận mình chỉ là một kẻ “bồi bút”, như một sự sám hối, ăn năn. Vì thế đọc loại như Đèn cù chúng ta sẽ chỉ thấy sự nhỏ nhen tầm thường của những người viết, sẽ thấy họ giống như những kẻ ẩn núp ở bờ bụi ném bùn vào áo cô dâu hoặc chỉ là những kẻ chọc gậy bánh xe mà thôi!
17-11-2014
ĐÔNG LA
(Blog Đông La)

Ong Bắp Cày - Xe bọc thép để bọc gì?

Mấy ngày nay báo chí cứ nhặng xị ngậu lên vì chuyện bố con anh Hải hai lúa chế tạo xe bọc thép cho Căm Bốt. Nếu thế thì chả có gì đáng nói. Điều kỳ lạ là gần như mấy anh bí cháo của Tuổi Chẻ và Thanh Liên lại chính là những cái loa đưa ra thông điệp ngầm rằng, vì chúng ta coi thường chất xám, nên bố con anh Hải chọn con đường xuất ngoại để chất xám được thăng hoa. 
Các bạn bí cháo cứ ba hoa vung xích chó làm như xe bọc thép Căm Bốt do anh Hải phát minh sáng chế không bằng. Lại nữa, các bạn ý chém đến mức tưởng như đó là loại xe tiên tiến hơn cả Nga xô. Thật, vãi các bạn quá!
Sự thật thì thế nào?
Trước hết về nguồn tin, nếu các bạn search trên mạng, có thể thấy tin viết bài đến từ 2 nguồn là Tuổi Chẻ Và Thanh Liên. Kể cả báo tiếng Anh của Căm Bốt cũng dẫn lại nguồn từ 2 báo này. Đã bao giờ các bạn tự hỏi rằng, vì sao truyền thông không sử dụng tin từ nguồn chính thống của Căm Bốt? Và đây, ngay cả Báo Phnompenh Post cho biết là vẫn chưa xác nhận được tin tức này với Bộ Quốc Phòng Campuchia. (Hiệp sĩ cưỡi lừa).
Thế nào là xe bọc thép ?
Để trả lời câu hỏi này, chị dẫn lại nội dung trên Đơn vị tác chiến điện tử:
1. Loại thép dùng chế tạo các xe bọc thép thông thường được các cty chế tạo theo một quy trình nghiêm ngặt và tất nhiên là bí mật … hehe, không thì có thằng đớp mất công nghệ là toi.
2. Thường có 2 lớp thép chống đạn và giữa 2 lớp này sẽ là một lớp sợi thuỷ tinh hoặc polymer để tạo thành giáp phức hợp, có tác dụng giảm bớt sức công phá của đầu đạn.
3. Xe bọc thép, tất nhiên sẽ nặng, do đó, yêu cầu độ cứng của khung xe rất lớn. Đặt giả thuyết xe bị trúng mìn và lật ngửa, nếu dùng thép thường thì lính ở trong … dẹp lép.
4. Khoảng cách bắn giảm xuống 7m so với nguyên bản 150m là không có giá trị do xe bọc thép thông thường là xe hỗ trợ tấn công. Để quân địch tới gần như vậy, đảm bảo xe…nát là cái chắc.
5. Với 4 tháng, để kiếm được tất cả những vật liệu đủ bền, chắc và đạt độ an toàn nhằm chế tạo cho một chiếc xe còn khó . Nếu chỉ đơn thuần cho một lớp sắt ở bên ngoài chiếc xe thì … ông thợ sửa xe ô tô nào cũng có thể làm được .
Củ Hành: "Vậy nên xin nhắc lại các bạn đừng nên so sánh và đặt câu hỏi tại sao quân đội ta không chấp nhận mẫu thử của xe bác Hải trừ khi các bạn muốn ngồi trong một chiếc xe ra trận mà đạn AK còn bắn thủng được. Và cũng xin đừng bắt quân đội phải chấp nhận những sáng kiến mà bên quân giới đã làm từ cách đây 50 năm".
Nếu các bạn có sức có tài sáng tạo thì sắp tới ‪#‎ComCom‬ sẽ mở cuộc thi cho các bạn thỏa sức đam mê, nhưng yêu cầu phải thực tế chứ không phải vẽ gì vào cũng được nhé. (hết trích).
Chiểu theo hiểu biết trên, thì xe mà bố con ông Hải "chế" ở Căm Bốt có mà chiến đấu vào mắt.
Còn đây, chị lại dẫn ra phần bình của anh Tai Le: "Lúc đầu tôi tưởng là giữ nguyên kích thước của tháp pháo, bố trí lại súng làm cho góc bắn thấp xuống để tiêu diệt mục tiêu cách xe 7 m so với 150m như cũ thì rất hay. Nhưng ông Hải lại nâng tháp pháo cao thêm 1/3 nữa (để mũi súng chúi xuống nên xác suất xe bị tiêu diệt lại tăng thêm. Ngô nghê hơn lại gắn thêm khẩu DKZ cao ngếu nghện muốn bắn xạ thủ phải đứng thẳng người làm mồi cho đạn nhọn. Nghĩa là ông Hải đã làm tăng xác suất bị tiêu diệt của xe và kíp xe lên nhiều lần. Ông cải tiến xe để cơ động đồi núi mà không nghĩ là bánh hơi chạy dèo dốc khó khăn. Người ta chế tạo ra xe này để dùng tác chiến trong địa hình đồng bằng, thành phố rất phù hợp. Tóm lại Hai lúa giỏi máy móc nhưng ngô nghê về vũ khí, tác chiến. 
Điều lạ là không hiểu tại sao những sỹ quan của lữ đoàn này không nhận ra điều đó. (Hết trích)
Khách quan nhé. Cái thứ mà bố con anh Hải chế tạo mà ra trận, chị tin nó sẽ thành cái hòm sắt tây chỉ sau loạt đạn đầu.
Thực lòng mà nói, chị tự hào vì nông dân ta có anh Hải và nhiều anh khác nữa đam mê chế tạo máy bay và xe bọc thép. Làm được đến như thế cũng là giỏi rồi.
Tuy nhiên, cần phải hiểu cho đúng. Những gì các anh làm thì thế giới đã làm, và quân đội ta đã làm từ vài chục năm trước, và những sản phẩm của họ không ngô nghê ưỡn ngực ra làm bia đỡ đạn như của anh Hải đâu.
Nhân đây cũng nói luôn với mấy anh bí cháo. Hãy mở mắt nhìn và đọc lại lịch sử quân sự nước nhà đi rồi hãy tung hô ai đó là nhân tài. Đừng có nhân chuyện anh nông dân chế được cái gì nổ bình bịch, quay vù vù là bóng gió miệt thị các nhà khoa học Việt Nam và qua đó ỏng eo chế độ.
Chị phát tởm vì cái trình và cái tâm báo chí của các bạn.
Ong Bắp Cày
(Tre Làng)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét