Hà Nội đang chơi trò…liều giữa Mỹ và Trung Quốc
Tranh châm biếm của Hoàn Cầu Thời báo. |
UV BCT Lê Hồng Anh vừa thăm Bắc Kinh, về Hà Nội, chưa làm xong báo
cáo gửi BCT, thì Trung Quốc đã xỏ xiên bằng một bài báo trên Hoàn Cầu
Thời báo (HCTB – Global Times) – phát ngôn của Nhân dân Nhật báo bằng
tiếng Anh – với cái tít “Việt Nam đang chơi trò liều giữa Trung Quốc và
Mỹ”.
Chưa dừng ở đó, HCTB còn đăng cái ảnh giễu một anh nông dân đội nón cầm ô, chân đi dép thái, mặc áo nâu sồng gì đó, mồ hôi túa ra và đang…leo dây. Trông na ná ông khách vừa ở Trung Nam Hải. Nhìn mà tức điên.
Xem bài này thấy cái tone của Ngoại giao thuyền thúng
Dịch lược như sau – by Cua Times:
Vào giữa tháng 8, tướng Mỹ Martin Dempsey thăm VN, như một biểu tượng về quốc phòng và an ninh Mỹ – Viêt. Nhiều người cho rằng, đây là bước “đại nhảy vọt” của hai quốc gia về quốc phòng.
Sau chuyến đi của Dempsey, ông Lê Hồng Anh, đặc phái viên cao cấp của TBT Trọng đến Bắc Kinh nhằm khai thông bế tắc sau vụ giàn khoan.
Có hai tín hiệu của hai chuyến đi. Dempsey sang Hà Nội để hợp tác an ninh và quốc phòng, với hy vọng VN mua được vũ khí Mỹ để tự tin đối trọng với Trung Quốc. Nhưng chuyến đi của ông Lê Hồng Anh lại gửi một tín hiệu khác: Hà Nội muốn sự ổn định và hàn gắn với Bắc Kinh, dù đã bị sứt mẻ trong mấy tháng qua.
Hai chuyến đi gửi đi hai tín hiệu đối chọi nhau chan chát. Quan hệ Mỹ Việt tốt hơn sẽ làm Bắc Kinh nghi ngờ về sự thật lòng của Hà Nội. Ông Lê Hồng Anh tới Bắc Kinh cũng chỉ cho Mỹ biết là Hà Nội không thiết tha gì với Mỹ đâu. Đừng có tưởng bở.
Theo một nghĩa nào đó, trò ngoại giao leo dây này làm cho cả Mỹ và Trung Quốc đều thất vọng. Có vẻ Việt Nam đang áp dụng chiến thuật “tự mâu thuẫn mình” trong bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Một mặt, Hà Nội muốn Washington chống lưng, nhưng lại hoàn toàn không thể phụ thuộc vào Washington.
Những gì xảy ra tại Iraq, Afghanistan, Ukraine và những động thái yếu đuối và nhu nhược của Washington chứng tỏ nguy cơ cao nếu quốc gia nào tìm cách chọn Mỹ làm đồng minh để bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Hơn thế, những gì xảy ra trong lịch sử Mỹ-Việt thì không thể một sớm một chiều để quan hệ có thể đơm hoa kết trái. Vì thế, cho dù hợp tác quân sự và an ninh có tốt hơn thì hai bên còn dò xét nhau chán mới có thể tin được.
Mặt khác, Việt Nam không thể đối đầu với Trung Quốc trên biển Đông với cái giá làm đóng băng quan hệ láng giềng.
Người ta có thể chọn bạn mà không thể chọn láng giềng. Nước nhỏ và trung bình không thể đối đầu với các nước lớn nếu không còn lựa chọn nào khác.
Việt Nam đối đầu với Trung Quốc là chiến lược không thông minh. Việt Nam nên uyển chuyển hơn khi quan hệ Việt Trung trở nên canh chẳng ngọt, cơm chẳng lành. Hai nước cần nhìn vào thực tế để thỏa hiệp trong những thời điểm nhất định.
Kịch bản lý tưởng, giá như Hà Nội được Washington ủng hộ về chính trị, an ninh quốc gia, và ngoại giao, khi căng thẳng với Trung Quốc. Và có thể dùng lợi thế đó, dù rất hạn chế, để làm nhặng xị trên biển Đông.
Nhưng kịch bản lý tưởng này chỉ có thể có được khi giữ thế cân bằng giữa Washington và Bắc Kinh.
Tuy nhiên, trong cuộc chơi này, không chỉ Việt Nam đang cầm cái. Hà Nội đang leo dây bằng cách lợi dụng cả Mỹ lẫn Trung Quốc. Trung Quốc đã rất kiềm chế, nhưng tình hình có thể mất kiểm soát nếu Việt Nam tiếp tục khiêu khích.
Chơi trò leo dây giữa Mỹ và Trung Quốc là nguy hiểm cho Việt Nam. Hà Nội cần dừng kiểu xoay trục và giữ một thái độ nhất quán về biển Đông. Hà Nội cần chiến lược lớn và thông minh hơn là mẹo vặt và cơ hội.
Tiếng Anh gốc ở đây – Nhờ ai đó dịch chuẩn hơn :)
Chưa dừng ở đó, HCTB còn đăng cái ảnh giễu một anh nông dân đội nón cầm ô, chân đi dép thái, mặc áo nâu sồng gì đó, mồ hôi túa ra và đang…leo dây. Trông na ná ông khách vừa ở Trung Nam Hải. Nhìn mà tức điên.
Xem bài này thấy cái tone của Ngoại giao thuyền thúng
Dịch lược như sau – by Cua Times:
Vào giữa tháng 8, tướng Mỹ Martin Dempsey thăm VN, như một biểu tượng về quốc phòng và an ninh Mỹ – Viêt. Nhiều người cho rằng, đây là bước “đại nhảy vọt” của hai quốc gia về quốc phòng.
Sau chuyến đi của Dempsey, ông Lê Hồng Anh, đặc phái viên cao cấp của TBT Trọng đến Bắc Kinh nhằm khai thông bế tắc sau vụ giàn khoan.
Có hai tín hiệu của hai chuyến đi. Dempsey sang Hà Nội để hợp tác an ninh và quốc phòng, với hy vọng VN mua được vũ khí Mỹ để tự tin đối trọng với Trung Quốc. Nhưng chuyến đi của ông Lê Hồng Anh lại gửi một tín hiệu khác: Hà Nội muốn sự ổn định và hàn gắn với Bắc Kinh, dù đã bị sứt mẻ trong mấy tháng qua.
Hai chuyến đi gửi đi hai tín hiệu đối chọi nhau chan chát. Quan hệ Mỹ Việt tốt hơn sẽ làm Bắc Kinh nghi ngờ về sự thật lòng của Hà Nội. Ông Lê Hồng Anh tới Bắc Kinh cũng chỉ cho Mỹ biết là Hà Nội không thiết tha gì với Mỹ đâu. Đừng có tưởng bở.
Theo một nghĩa nào đó, trò ngoại giao leo dây này làm cho cả Mỹ và Trung Quốc đều thất vọng. Có vẻ Việt Nam đang áp dụng chiến thuật “tự mâu thuẫn mình” trong bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Một mặt, Hà Nội muốn Washington chống lưng, nhưng lại hoàn toàn không thể phụ thuộc vào Washington.
Những gì xảy ra tại Iraq, Afghanistan, Ukraine và những động thái yếu đuối và nhu nhược của Washington chứng tỏ nguy cơ cao nếu quốc gia nào tìm cách chọn Mỹ làm đồng minh để bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Hơn thế, những gì xảy ra trong lịch sử Mỹ-Việt thì không thể một sớm một chiều để quan hệ có thể đơm hoa kết trái. Vì thế, cho dù hợp tác quân sự và an ninh có tốt hơn thì hai bên còn dò xét nhau chán mới có thể tin được.
Mặt khác, Việt Nam không thể đối đầu với Trung Quốc trên biển Đông với cái giá làm đóng băng quan hệ láng giềng.
Người ta có thể chọn bạn mà không thể chọn láng giềng. Nước nhỏ và trung bình không thể đối đầu với các nước lớn nếu không còn lựa chọn nào khác.
Việt Nam đối đầu với Trung Quốc là chiến lược không thông minh. Việt Nam nên uyển chuyển hơn khi quan hệ Việt Trung trở nên canh chẳng ngọt, cơm chẳng lành. Hai nước cần nhìn vào thực tế để thỏa hiệp trong những thời điểm nhất định.
Kịch bản lý tưởng, giá như Hà Nội được Washington ủng hộ về chính trị, an ninh quốc gia, và ngoại giao, khi căng thẳng với Trung Quốc. Và có thể dùng lợi thế đó, dù rất hạn chế, để làm nhặng xị trên biển Đông.
Nhưng kịch bản lý tưởng này chỉ có thể có được khi giữ thế cân bằng giữa Washington và Bắc Kinh.
Tuy nhiên, trong cuộc chơi này, không chỉ Việt Nam đang cầm cái. Hà Nội đang leo dây bằng cách lợi dụng cả Mỹ lẫn Trung Quốc. Trung Quốc đã rất kiềm chế, nhưng tình hình có thể mất kiểm soát nếu Việt Nam tiếp tục khiêu khích.
Chơi trò leo dây giữa Mỹ và Trung Quốc là nguy hiểm cho Việt Nam. Hà Nội cần dừng kiểu xoay trục và giữ một thái độ nhất quán về biển Đông. Hà Nội cần chiến lược lớn và thông minh hơn là mẹo vặt và cơ hội.
Tiếng Anh gốc ở đây – Nhờ ai đó dịch chuẩn hơn :)
Theo Global Times
Hiệu Minh
Việt Nam tìm cách cân bằng quan hệ với Trung Quốc
Trong các nỗ lực nhằm giảm bớt căng
thẳng sau khi Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu đến vùng biển thuộc
chủ quyền của Việt Nam, Hà Nội đã gửi một đặc phái viên sang Bắc Kinh để
xoa dịu tình hình. Tuy vậy, theo tiến sĩ Martin Großheim, Việt Nam đã
thay đổi cách nhận thức về Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết hôm 25 Tháng Tám rằng ông Lê Hồng Anh, ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, đã được mời đến gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc. “Chuyến đi nhằm mục đích thảo luận về các biện pháp nhằm giảm bớt căng thẳng và tránh để tình hình leo thang như trước đây, trong khi đó sẽ cố gắng làm sâu sắc thêm quan hệ giữa hai đảng và hai nước”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình cho biết.
Chuyến thăm kéo dài hai ngày, bắt đầu vào thứ Ba tuần trước, là một trong những động thái nhằm cải thiện quan hệ giữa hai nước cộng sản vốn đã trở nên tồi tệ hơn do chuyện tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Các vụ tranh cãi đã gia tăng khi Bắc Kinh triển khai một giàn khoan dầu khổng lồ vào vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trung Quốc đã dời chuyển giàn khoan ra khỏi khu vực này vào ngày 16 tháng Tám và cho biết rằng nhiệm vụ của họ đã hoàn tất. Việc lắp đặt giàn khoan dầu đã gây ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam, dẫn đến cuộc bạo động ở một số khu công nghiệp. Bắc Kinh gần đây đã hoan nghênh quyết định của Việt Nam khi bồi thường cho những nạn nhân trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong cùng lúc, Hà Nội cũng đã liên tục chào đón rất nhiều chính khách đến từ Hoa Kỳ, trong đó có bốn thượng nghị sĩ và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, Tướng Martin Dempsey.
Tiến sĩ Martin Grossheim, chuyên gia về Việt Nam và giáo sư trợ giảng tại Đại học Passau ở Đức, đã nói trong một cuộc phỏng vấn với DW rằng trong khi chuyến thăm này cho thấy tình hình căng thẳng Việt–Trung có thể đã trôi qua, người dân Việt Nam vẫn còn rất bất mãn trước vấn đề Trung Quốc. Ông nói thêm rằng cuộc khủng hoảng ở Biển Đông đã thay đổi cách Việt Nam nhìn nhận về Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết hôm 25 Tháng Tám rằng ông Lê Hồng Anh, ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, đã được mời đến gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc. “Chuyến đi nhằm mục đích thảo luận về các biện pháp nhằm giảm bớt căng thẳng và tránh để tình hình leo thang như trước đây, trong khi đó sẽ cố gắng làm sâu sắc thêm quan hệ giữa hai đảng và hai nước”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình cho biết.
Chuyến thăm kéo dài hai ngày, bắt đầu vào thứ Ba tuần trước, là một trong những động thái nhằm cải thiện quan hệ giữa hai nước cộng sản vốn đã trở nên tồi tệ hơn do chuyện tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Các vụ tranh cãi đã gia tăng khi Bắc Kinh triển khai một giàn khoan dầu khổng lồ vào vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trung Quốc đã dời chuyển giàn khoan ra khỏi khu vực này vào ngày 16 tháng Tám và cho biết rằng nhiệm vụ của họ đã hoàn tất. Việc lắp đặt giàn khoan dầu đã gây ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam, dẫn đến cuộc bạo động ở một số khu công nghiệp. Bắc Kinh gần đây đã hoan nghênh quyết định của Việt Nam khi bồi thường cho những nạn nhân trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong cùng lúc, Hà Nội cũng đã liên tục chào đón rất nhiều chính khách đến từ Hoa Kỳ, trong đó có bốn thượng nghị sĩ và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, Tướng Martin Dempsey.
Tiến sĩ Martin Grossheim, chuyên gia về Việt Nam và giáo sư trợ giảng tại Đại học Passau ở Đức, đã nói trong một cuộc phỏng vấn với DW rằng trong khi chuyến thăm này cho thấy tình hình căng thẳng Việt–Trung có thể đã trôi qua, người dân Việt Nam vẫn còn rất bất mãn trước vấn đề Trung Quốc. Ông nói thêm rằng cuộc khủng hoảng ở Biển Đông đã thay đổi cách Việt Nam nhìn nhận về Trung Quốc.
DW: Tại sao các lãnh đạo Việt Nam phải quyết tâm giảm bớt căng thẳng với Trung Quốc?
Martin Grossheim: Quyết định của lãnh đạo Việt Nam trong việc bồi thường cho các công ty Trung Quốc cũng như các nạn nhân trong cuộc bạo động chống Trung Quốc vừa qua và việc họ gửi ủy viên Bộ Chính trị Lê Hồng Anh – đặc phái viên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – cần được nhìn nhận trong bối cảnh Việt Nam liên tục tiếp đón các nhân vật cấp cao của Hoa Kỳ đến thăm Hà Nội trong những tuần gần đây.
Việc gửi Lê Hồng Anh – cựu Bộ trưởng Bộ Công an và ủy viên thường trực Ban Thư ký Đảng Cộng sản Việt Nam vốn nắm giữ vị trí quan trọng trong nội bộ đảng có thể được hiểu như Hà Nội muốn gửi một tín hiệu ngoại giao đến Bắc Kinh, trong đó Hà Nội muốn cân bằng quan hệ với Hoa Kỳ lẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC).
DW: Trung Quốc cũng đã hoan nghênh quyết định của Việt Nam trong việc bồi thường cho các nạn nhân trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc hồi tháng Năm, như vậy liệu căng thẳng đã hết chăng?
Martin Grossheim: Có thể hiện nay căng thẳng đã qua rồi. Tuy nhiên, theo như tôi thấy trong những chuyến đi nghiên cứu của mình gần đây ở Việt Nam, thì người dân nước này đang rất bất mãn trước mối đe dọa từ Trung Quốc.
Trong trường hợp các lãnh đạo Trung Quốc có những hành động được coi là khiêu khích, chẳng hạn như xây dựng các công trình thăm dò hay khai thác dầu khí trong vùng lãnh thổ mà Việt Nam cũng tuyên bố có chủ quyền, thì sự bất mãn này có thể sẽ bùng nổ. Mặt khác, sau lần xảy ra các cuộc biểu tình, bộ máy an ninh Việt Nam có thể sẽ chuẩn bị tốt hơn để đối phó với thách thức.
DW: Hà Nội làm thế nào để biện minh cho hành động này trước sự bất mãn trong lòng dân chúng?
Martin Grossheim: Dù bất mãn, nhưng đại đa số dân chúng ở Việt Nam muốn hòa bình, và họ chắc chắn sẽ hoan nghênh bất cứ hành động nào có thể giúp giảm bớt căng thẳng. Tuy nhiên, nếu ông Lê Hồng Anh có những nhượng bộ trong chuyến thăm đến Bắc Kinh, thì có thể việc này sẽ dẫn đến những phản ứng tiêu cực trong lòng người dân Việt Nam.
DW: Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc vào Trung Quốc như thế nào?
Martin Grossheim: Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Hơn nữa, các công ty Trung Quốc hiện đang tham gia vào rất nhiều loại dự án tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Các lãnh đạo Việt Nam đã hiểu rằng họ cần đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào nước láng giềng khổng lồ ở miền Bắc, nhưng điều này không thể làm được chỉ sau một đêm.
DW: Liệu các vụ tranh chấp gần đây có buộc Việt Nam phải liên minh chặt chẽ hơn với các nước khác?
Martin Grossheim: Đúng, các vụ tranh chấp đã khiến Việt Nam tiến sâu hơn trong mối quan hệ đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Điều này được phản ánh trong các chuyến thăm gần đây giữa hai nước: Trong tháng Bảy năm 2014, ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị đến thăm Hoa Kỳ; Thượng nghị sĩ thuộc Đảng Cộng hòa John McCain và – quan trọng hơn – Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ đã đến thăm Hà Nội trong tháng Tám – đây là chuyến thăm đầu tiên ở cấp tướng đến Việt Nam kể từ năm 1971. Có một số bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ có thể sẽ bán vũ khí cho Việt Nam trong tương lai gần.
Martin Grossheim: Quyết định của lãnh đạo Việt Nam trong việc bồi thường cho các công ty Trung Quốc cũng như các nạn nhân trong cuộc bạo động chống Trung Quốc vừa qua và việc họ gửi ủy viên Bộ Chính trị Lê Hồng Anh – đặc phái viên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – cần được nhìn nhận trong bối cảnh Việt Nam liên tục tiếp đón các nhân vật cấp cao của Hoa Kỳ đến thăm Hà Nội trong những tuần gần đây.
Việc gửi Lê Hồng Anh – cựu Bộ trưởng Bộ Công an và ủy viên thường trực Ban Thư ký Đảng Cộng sản Việt Nam vốn nắm giữ vị trí quan trọng trong nội bộ đảng có thể được hiểu như Hà Nội muốn gửi một tín hiệu ngoại giao đến Bắc Kinh, trong đó Hà Nội muốn cân bằng quan hệ với Hoa Kỳ lẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC).
DW: Trung Quốc cũng đã hoan nghênh quyết định của Việt Nam trong việc bồi thường cho các nạn nhân trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc hồi tháng Năm, như vậy liệu căng thẳng đã hết chăng?
Martin Grossheim: Có thể hiện nay căng thẳng đã qua rồi. Tuy nhiên, theo như tôi thấy trong những chuyến đi nghiên cứu của mình gần đây ở Việt Nam, thì người dân nước này đang rất bất mãn trước mối đe dọa từ Trung Quốc.
Trong trường hợp các lãnh đạo Trung Quốc có những hành động được coi là khiêu khích, chẳng hạn như xây dựng các công trình thăm dò hay khai thác dầu khí trong vùng lãnh thổ mà Việt Nam cũng tuyên bố có chủ quyền, thì sự bất mãn này có thể sẽ bùng nổ. Mặt khác, sau lần xảy ra các cuộc biểu tình, bộ máy an ninh Việt Nam có thể sẽ chuẩn bị tốt hơn để đối phó với thách thức.
DW: Hà Nội làm thế nào để biện minh cho hành động này trước sự bất mãn trong lòng dân chúng?
Martin Grossheim: Dù bất mãn, nhưng đại đa số dân chúng ở Việt Nam muốn hòa bình, và họ chắc chắn sẽ hoan nghênh bất cứ hành động nào có thể giúp giảm bớt căng thẳng. Tuy nhiên, nếu ông Lê Hồng Anh có những nhượng bộ trong chuyến thăm đến Bắc Kinh, thì có thể việc này sẽ dẫn đến những phản ứng tiêu cực trong lòng người dân Việt Nam.
DW: Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc vào Trung Quốc như thế nào?
Martin Grossheim: Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Hơn nữa, các công ty Trung Quốc hiện đang tham gia vào rất nhiều loại dự án tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Các lãnh đạo Việt Nam đã hiểu rằng họ cần đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào nước láng giềng khổng lồ ở miền Bắc, nhưng điều này không thể làm được chỉ sau một đêm.
DW: Liệu các vụ tranh chấp gần đây có buộc Việt Nam phải liên minh chặt chẽ hơn với các nước khác?
Martin Grossheim: Đúng, các vụ tranh chấp đã khiến Việt Nam tiến sâu hơn trong mối quan hệ đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Điều này được phản ánh trong các chuyến thăm gần đây giữa hai nước: Trong tháng Bảy năm 2014, ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị đến thăm Hoa Kỳ; Thượng nghị sĩ thuộc Đảng Cộng hòa John McCain và – quan trọng hơn – Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ đã đến thăm Hà Nội trong tháng Tám – đây là chuyến thăm đầu tiên ở cấp tướng đến Việt Nam kể từ năm 1971. Có một số bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ có thể sẽ bán vũ khí cho Việt Nam trong tương lai gần.
Tương tự như mối quan hệ với Hoa Kỳ, Việt Nam đã thắt chặt mối quan hệ với Nhật Bản, và Tokyo cũng đã cam kết sẽ gửi sáu tàu hải quâncho phía Việt Nam nhằm giúp tăng năng lực hải quân của Hà Nội.
DW: Giáo sư nghĩ sao về tương lai hợp tác giữa hai nước Việt–Trung sau các vụ tranh chấp lãnh hải/lãnh thổ ở Biển Đông?
Martin Grossheim: Cuộc khủng hoảng ở Biển Đông đã thay đổi cách Việt Nam nhận thức về Trung Quốc, ngay cả trong giới lãnh đạo Việt Nam. Dù sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, tư tưởng lợi ích chung thường được nhấn mạnh, nhưng hiện nay các nhà lãnh đạo ở Hà Nội đã nhận ra rằng họ không nên dựa quá nhiều vào Trung Quốc. Hà Nội vẫn có lựa chọn là theo đuổi hành động pháp lý chống lại Bắc Kinh, và có thể đệ đơn kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế trong thời gian tới.
Đỗ Đăng Khoachuyển ngữ,CTV Phía Trước
Gabriel Dominguez, DW
Tiến sĩ Martin Grossheim là giáo sư trợ giảng chuyên Khoa Nghiên cứu Đông Nam Đại học Passau, Đức. Các chương trình nghiên cứu và giảng dạy của ông tập trung vào lịch sử cận đại Việt Nam, lịch sử Chiến tranh Lạnh và tình báo.
© 2014 Bản tiếng Việt Tạp chí Phía Trước
Nội chiến ở "Hội nhà báo độc lập Việt Nam": Phạm Thành tấn công Phạm Chí Dũng
Ngay
từ những ngày đầu, "Hội nhà báo độc lập Việt Nam" tuyên bố thành lập,
căn cứ vào cái danh sách 42 thành viên ấy, người ta đã nhìn ra cái kết
cục buồn như ngày hôm nay.
Kể từ khi Phạm Chí Dũng nhận ra Ngô Nhật Đăng là một tay chơi không vừa, lại đang quản trị tờ Việt Nam Thời báo và Việt Nam Times của HNBĐLVN, và vì thế tiếng nói quyền lực của Hội NBĐL Việt Nam không dành tuyệt đối cho mình. Vì thế, Phạm Chí Dũng tự ý cho ra đời tờ VNTB, và trên trang bìa lại có dòng: "Cơ quan ngôn luận của Hội NBĐL Việt Nam". Chính dòng chữ này đã làm cho người đọc hiểu rằng, chỉ có duy nhất tờ của Dũng mới đại diện cho tiếng nói của cả Hội và tất nhiên, các tờ khác chỉ là...lá cải.
Đồng thời với động thái đó Phạm Chí Dũng siết chặt quản lý, hạn chế đăng bài của các thành viên và đòi quyền biên tập trước khi đăng. Hành động của Dũng đã đi ngược lại tiêu chí "Độc lập" của Hội và ngay lập tức bị chỉ trích.
Có ý kiến cho rằng, Dũng đang lặp lại cách kiểm duyệt báo chí ở quy mô nhỏ, và điều này đã mâu thuẫn với quyền tự do báo chí mà các thành viên đang kêu gọi.
Thực ra, ý đồ của Phạm Chí Dũng hòng thâu tóm quyền lực và các khoản tài chính đã bị cánh của Ngô Nhật Đăng phách vị từ rất sớm. Thế nên, dù chưa bộc lộ, song hai bên đã kéo bề kéo cánh sẵn sàng sinh tử với nhau.
Trong cuộc chơi, Phạm Chí Dũng áp dụng đòn "Tiên hạ thủ vi cường", đánh trước với thông báo số 5 của Hội NBĐL VN. Trong đó, đáng chú ý là đòn triệt hạ đối thủ: "Từ ngày 1/9/2014, trang Facebook mang tên Việt Nam Thời Báo do ông Ngô Nhật Đăng điều hành không còn mang danh nghĩa là một trang báo của Hội NBĐLVN, cũng không còn mối liên quan nào với Hội NBĐLVN về quan điểm, nội dung, nhân sự và tài chính".
Quả thật với nội dung thông báo ấy thì hình ảnh Ngô Nhật Đăng đã xấu đi một cách tệ hại, và người ta sẽ nghĩ Đăng đã làm điều gì đó mờ ám trong cái Hội kia.
Ngay sau đó, Ngô Nhật Đăng nghênh chiến với cú bóc mặt nạ Phạm Chí Dũng và tiếp theo là Phạm Thành. Trong bài viết bênh vực Đăng, của mình, Phạm Thành viết:
"Thông báo của ông Phạm Chí Dũng, nhân danh chủ tịch Hội, như một nhát dao chí mạng đâm vào gan ruột Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam với tuổi đời chưa được thôi nôi hai tháng.
Thực là một Thông báo hoàn toàn thiểu năng trí tuệ, vi phạm điều lệ Hội, hoàn toàn mang tính phá hoại.
Thực chất trang Website của Hội có sau trang Fcebook của Hội".
Tiếp tục vạch mặt Phạm Chí Dũng với trò tháu cáy khi các hội viên đăng bài: "Cơ quan ngôn luận của Hội kiểu gì mà không thể hiện ý chỉ của Hội viên; giữ quyền biên tập kiểu gì mà lại “phủi tay” khi dưới mỗi bài đăng đều cột người viết vào trách nhịệm: “ Việt Nam Thời Báo – Trang Thông Tin Đa Chiều. Tất cả bài đăng tải trên thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả không phản ảnh quan điểm hay lập trường của Việt Nam Thời Báo”. Một trò tháu cáy không hơn không kém".
Những người làm website nhân danh Hội là ai? Ai phân công họ và những ai đồng ý cho họ được thay mặt Hội điều hành trang website của Hội? Không ai cả.
Phải chăng trong Hội cũng có nhóm lợi ích lợi dụng Hội để thực hiện mưu đồ cá nhân?
Với tư cách là Hội viên, tôi – Phạm Thành- phản đối Thông báo số 5 của ông Chủ tịch Hội Phạm Chí Dũng và minh định rằng website Việt Nam Thời báo không phải là cơ quan ngôn luận của Hội, nó chỉ là website của một nhóm người mang danh Hội lập ra mà thôi".
Với giọng điệu chua chát, Phạm Thành viết: "Ông Phạm Chí Dũng, dù là Chủ tịch, cũng không được quyền có quyết định như vậy. Ông xem các Hội viên chỉ là thứ để ông dẫm lên lưng họ mà hành động hay sao?".
Cuồi cùng, cái tên "Hội nhà báo độc lập Việt Nam" đang hữa hẹn cho chúng ta xem những màn kịch mà ở đó diễn viên không cần thiết phải sử dụng đến kỹ thuật hóa trang nữa.
Còn nữa...
Kể từ khi Phạm Chí Dũng nhận ra Ngô Nhật Đăng là một tay chơi không vừa, lại đang quản trị tờ Việt Nam Thời báo và Việt Nam Times của HNBĐLVN, và vì thế tiếng nói quyền lực của Hội NBĐL Việt Nam không dành tuyệt đối cho mình. Vì thế, Phạm Chí Dũng tự ý cho ra đời tờ VNTB, và trên trang bìa lại có dòng: "Cơ quan ngôn luận của Hội NBĐL Việt Nam". Chính dòng chữ này đã làm cho người đọc hiểu rằng, chỉ có duy nhất tờ của Dũng mới đại diện cho tiếng nói của cả Hội và tất nhiên, các tờ khác chỉ là...lá cải.
Đồng thời với động thái đó Phạm Chí Dũng siết chặt quản lý, hạn chế đăng bài của các thành viên và đòi quyền biên tập trước khi đăng. Hành động của Dũng đã đi ngược lại tiêu chí "Độc lập" của Hội và ngay lập tức bị chỉ trích.
Có ý kiến cho rằng, Dũng đang lặp lại cách kiểm duyệt báo chí ở quy mô nhỏ, và điều này đã mâu thuẫn với quyền tự do báo chí mà các thành viên đang kêu gọi.
Thực ra, ý đồ của Phạm Chí Dũng hòng thâu tóm quyền lực và các khoản tài chính đã bị cánh của Ngô Nhật Đăng phách vị từ rất sớm. Thế nên, dù chưa bộc lộ, song hai bên đã kéo bề kéo cánh sẵn sàng sinh tử với nhau.
Trong cuộc chơi, Phạm Chí Dũng áp dụng đòn "Tiên hạ thủ vi cường", đánh trước với thông báo số 5 của Hội NBĐL VN. Trong đó, đáng chú ý là đòn triệt hạ đối thủ: "Từ ngày 1/9/2014, trang Facebook mang tên Việt Nam Thời Báo do ông Ngô Nhật Đăng điều hành không còn mang danh nghĩa là một trang báo của Hội NBĐLVN, cũng không còn mối liên quan nào với Hội NBĐLVN về quan điểm, nội dung, nhân sự và tài chính".
Quả thật với nội dung thông báo ấy thì hình ảnh Ngô Nhật Đăng đã xấu đi một cách tệ hại, và người ta sẽ nghĩ Đăng đã làm điều gì đó mờ ám trong cái Hội kia.
Ngay sau đó, Ngô Nhật Đăng nghênh chiến với cú bóc mặt nạ Phạm Chí Dũng và tiếp theo là Phạm Thành. Trong bài viết bênh vực Đăng, của mình, Phạm Thành viết:
"Thông báo của ông Phạm Chí Dũng, nhân danh chủ tịch Hội, như một nhát dao chí mạng đâm vào gan ruột Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam với tuổi đời chưa được thôi nôi hai tháng.
Thực là một Thông báo hoàn toàn thiểu năng trí tuệ, vi phạm điều lệ Hội, hoàn toàn mang tính phá hoại.
Thực chất trang Website của Hội có sau trang Fcebook của Hội".
Tiếp tục vạch mặt Phạm Chí Dũng với trò tháu cáy khi các hội viên đăng bài: "Cơ quan ngôn luận của Hội kiểu gì mà không thể hiện ý chỉ của Hội viên; giữ quyền biên tập kiểu gì mà lại “phủi tay” khi dưới mỗi bài đăng đều cột người viết vào trách nhịệm: “ Việt Nam Thời Báo – Trang Thông Tin Đa Chiều. Tất cả bài đăng tải trên thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả không phản ảnh quan điểm hay lập trường của Việt Nam Thời Báo”. Một trò tháu cáy không hơn không kém".
Những người làm website nhân danh Hội là ai? Ai phân công họ và những ai đồng ý cho họ được thay mặt Hội điều hành trang website của Hội? Không ai cả.
Phải chăng trong Hội cũng có nhóm lợi ích lợi dụng Hội để thực hiện mưu đồ cá nhân?
Với tư cách là Hội viên, tôi – Phạm Thành- phản đối Thông báo số 5 của ông Chủ tịch Hội Phạm Chí Dũng và minh định rằng website Việt Nam Thời báo không phải là cơ quan ngôn luận của Hội, nó chỉ là website của một nhóm người mang danh Hội lập ra mà thôi".
Với giọng điệu chua chát, Phạm Thành viết: "Ông Phạm Chí Dũng, dù là Chủ tịch, cũng không được quyền có quyết định như vậy. Ông xem các Hội viên chỉ là thứ để ông dẫm lên lưng họ mà hành động hay sao?".
Cuồi cùng, cái tên "Hội nhà báo độc lập Việt Nam" đang hữa hẹn cho chúng ta xem những màn kịch mà ở đó diễn viên không cần thiết phải sử dụng đến kỹ thuật hóa trang nữa.
Còn nữa...
Khoai@
(Blog Tre Làng)
Giang Lê - Kiện Trung Quốc thế nào?
Đây là bài cuối cùng trong series về BĐ-HS-TS của blog
kinhtetaichinh. Tôi tạm ngưng chủ đề này không phải vì TQ đã rút giàn
khoan HD-981 hay tôi không còn quan tâm đến nó nữa, đơn giản vì tôi đã
tới giới hạn của những kiến thức cóp nhặt được từ một số sách vở/tài
liệu mà tôi đọc trong 3 tháng qua. Là một kẻ ngoại đạo (về lịch sử,
chính trị, công pháp quốc tế) tôi không có ý định trở thành hoặc được
coi là chuyên gia trong lĩnh vực này, nhưng vẫn hi vọng những gì tôi
viết ở đây giúp ích cho ai đó. Có điều các bạn đã được cảnh báo: Read at
your own risk!
Kiện TQ thế nào?
Khi TQ kéo giàn khoan HD-981 vào Biển Đông đầu tháng 5/2014, giống như
nhiều người Việt tôi rất “to mồm” kêu gào VN phải kiện ngay TQ ra một
toà án quốc tế. Thú thực cho đến thời điểm đó tôi vẫn chưa hiểu rõ kiện
cái gì và kiện thế nào, chỉ đơn giản nghĩ rằng chính nghĩa thuộc về VN
nên chắc chắn cứ “kiện” là VN sẽ thắng. Kiến thức của tôi về các tranh
chấp BĐ-HS-TS gần như chỉ gói gọn trong những gì phía VN đã tuyên truyền
chính thức mấy chục năm qua, cộng thêm một vài thông tin lẻ tẻ đọc được
trên mạng về công hàm Phạm Văn Đồng 1958 và hai cuộc hải chiến Hoàng Sa
1974 và Trường Sa 1988 mà chính phủ VN đã cố tình che giấu cho đến tận
gần đây.
Bước ngoặt thúc đẩy tôi quyết tâm tìm hiểu kỹ hơn về chủ đề này là vụ CNN phỏng vấn Sam Bateman
ngày 11/6 sau khi TQ “tố” VN ra LHQ. Trong cuộc phỏng vấn đó ông tiến
sỹ tại viện RSIS (NTU – Singapore) này khẳng định đa số học giả quốc tế
cho rằng claim chủ quyền của TQ về HS-TS mạnh hơn của VN. Nóng mũi trước
phát biểu đó, trong gần 3 tháng qua tôi bỏ công tìm đọc hầu hết các tác
giả mà Sam Bateman nhắc đến và một số học giả quốc tế có uy tín trong
lĩnh vực này, đáng kể nhất là Marwyn Samuels, Stein Tonnesson, Greg
Austin, Robert Beckman, Ang Chen Guan và một số tác giả khác (cả một số
tác giả VN và TQ).
Dù là một người ngoại đạo và chỉ có điều kiện đọc tài liệu rất tản mát,
đến thời điểm này có thể nói hiểu biết của tôi về việc “kiện TQ ra một
toà án quốc tế” đã rõ ràng hơn nhiều so với 3 tháng trước. Quả thực kiện
thế nào, kiện cái gì, và kiện ở đâu không hề đơn giản. Trong entry này
tôi sẽ tóm tắt lại những gì tôi đã tìm hiểu về chủ đề này cho những ai
quan tâm, nhưng tất nhiên tôi vẫn khuyến cáo các bạn muốn biết tường tận
nên tham khảo ý kiến của các luật gia/luật sư chuyên nghiệp về công
pháp quốc tế.
Kiện ra PCA theo UNCLOS
Bài trả lời phỏng vấn hãng Reuters của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày
22/5 đã làm nức lòng nhiều người Việt khi lần đầu tiên một lãnh đạo cao
cấp tuyên bố VN có thể sẽ sử dụng “legal action” chống lại TQ. Sau TT
Dũng, người phát ngôn BNG và một số quan chức khác cũng nhắc đến biện
pháp này, thậm chí có người đã nói VN chỉ còn cân nhắc thời điểm khởi
kiện. Việc BNG ký “Host Country Agreement” với PCA, toà trọng tài
mà Philippines đang kiện TQ, càng làm nhiều người hi vọng chính phủ VN
cuối cùng cũng dám đối đầu với ông anh Cộng sản phương bắc. Tuy nhiên
cho đến thời điểm này, hơn 1 tháng sau khi HD-981 đã rút đi, VN vẫn chưa
có động thái gì trên mặt trận pháp lý và chuyến thăm TQ của ủy viên BCT
Lê Hồng Anh càng làm nhiều người thất vọng.
Tôi sẽ không đi vào phân tích tình hình quan hệ giữa VN và TQ, điều này
nằm ngoài khả năng của tôi. Tuy nhiên tôi cho rằng cho dù quan hệ này
nồng ấm trở lại cũng không hẳn VN sẽ không còn khả năng thực hiện một
“legal action” liên quan đến Biển Đông. Ở đây tôi cho rằng chữ “legal
action” mà TT Dũng phát biểu có ý nghĩa không chỉ một vụ kiện ra tòa mà
có thể còn bao hàm những biện pháp pháp lý khác ít đối đầu với TQ hơn.
Tất nhiên tôi prefer phương án kiện TQ sòng phẳng ra PCA như Philippines
đang làm, mà đáng ra VN nên cùng join với Philippines từ đầu năm 2013.
Như tôi đã phân tích trong entry Philippines vs China, phe khởi
kiện trong vụ này có thể sẽ thất bại vì PCA không công nhận jurisdiction
do TQ đã opt-out theo điều 298 UNCLOS. Tuy nhiên nếu VN khởi kiện lúc
đó hoặc nếu bây giờ VN nộp hồ sơ kiện sẽ có một số lợi ích sau.
Thứ nhất, nếu VN kiện TQ ra PCA theo tinh thần tương tự như Philippines,
hoặc thậm chí có thể đề nghị Philippines sửa đổi đơn kiện năm 2013 để
đưa thêm VN vào bên nguyên cáo, thì khả năng lớn là TQ sẽ tiếp tục không
theo kiện như đã làm với Philippines. Điều này sẽ giúp VN tránh phải
giải trình trước tòa về những bằng chứng “khó ăn khó nói” như công hàm
Phạm Văn Đồng hay lời phát biểu của thứ trưởng Ung Văn Khiêm. Tất nhiên
TQ sẽ vẫn “lu loa” những bằng chứng này ngoài tòa như đã làm khi VN phản
đối vụ giàn khoan HD-981, nhưng điều đó không ảnh hưởng/liên quan đến
các tranh tụng trong tòa. Điều này rất quan trọng vì tôi nghĩ một trong
những lý do VN vẫn lưỡng lự kiện và nhún nhường TQ là do ĐCS VN lo ngại
một tòa án quốc tế xử VN thua vì công hàm PVĐ hay những bằng chứng bất
lợi khác mà họ mắc phải trong quá khứ. Việc tòa không xét đến những bằng
chứng đó sẽ giúp cho ĐCS tránh được lời buộc tội “bán nước” mà lề trái
đã khăng khăng bấy lâu nay cho dù kết quả thắng thua ra sao.
Thứ hai, vẫn biết dù VN thắng kiện thì TQ sẽ không bao giờ chấp nhận và
tuân thủ phán quyết của tòa, nhưng việc tự nguyện đem tranh chấp ra phân
xử ở một tòa án quốc tế là một hành động văn minh và chắc chắn sẽ được
dư luận quốc tế ủng hộ. Dù thiên vị TQ thế nào đi nữa những học giả như
Sam Bateman hay Stefan Talmon cũng không thể biện hộ cho tính chính đáng
của các claim của TQ trên Biển Đông được nữa sau khi một tòa án quốc tế
ra phán quyết chính thức. Một phần dư luận nội bộ TQ sẽ thức tỉnh hiểu
rằng những gì chính quyền của họ tuyên truyền không phải là sự thật. Tôi
tin rằng một phán quyết có lợi cho VN sẽ làm TQ chùn bước trong những
kế hoạch leo thang sắp tới, giàn khoan HD-981 sẽ khó có thể được kéo vào
EEZ của VN một cách ngang nhiên như vừa qua, một vùng cấm bay (ADIZ) mà
TQ có thể đưa ra trong tương lai trên Biển Đông sẽ vấp phải phản kháng
quốc tế mạnh mẽ hơn.
Thứ ba, như đã phân tích trong entry trước, có một khả năng Philippines
và TQ sẽ thỏa thuận ngoài tòa trước khi PCA có phán quyết cuối cùng, VN
sẽ “nhỡ tầu” nếu điều này xảy ra. Việc tham gia vụ kiện, một mình hay
chung tên với Philippines, sẽ giúp VN trong các cuộc đàm phán ngoài tòa
với TQ. Mặc dù tôi tin VN đã và đang sử dụng khả năng kiện TQ như một
quân bài (bargaining chip) trong các cuộc đàm phán, nếu thay quân bài đó
bằng việc đi kiện rồi ra điều kiện cho TQ phải đàm phán và nhượng bộ
thì mới rút đơn kiện sẽ là strategy mạnh mẽ hơn nhiều. Mà không chỉ
trong các cuộc đàm phán song phương, đem vụ kiện ra “mặc cả” trong các
đàm phán đa phương như COC sắp tới hay trong các diễn đàn quốc tế như
ASEAN+3, Shangrila… sẽ giúp củng cố vị trí/quan điểm của VN và các “đồng
minh” như Philippines.
Cuối cùng là lý do đối nội. Chỉ mới rào đón khả năng “legal action” mà
rất nhiều người đã tung hô TT Dũng, thậm chí đã có người kêu gọi đưa ông
lên làm tổng thống. Nếu ông thực sự khởi kiện tôi tin đa số dân VN sẽ
ủng hộ ông bất chấp các phe cánh chính trị khác trong ĐCS chống lại, và
dù kết cục thế nào cái tên Nguyễn Tấn Dũng sẽ đi vào lịch sử một cách
rất khác với cái tên Phạm Văn Đồng. Nếu ĐCS đồng lòng khởi kiện, những
cáo buộc “bán nước” của lề trái sẽ không còn cơ sở. Nhưng quan trọng hơn
một vụ kiện như vậy sẽ khẳng định quyết tâm “thoát Trung” mà đa số dân
VN mơ ước. Tôi cho rằng có một số không nhỏ dân chúng trong nước sẵn
sàng chấp nhận chế độ độc đảng nếu VN thực sự thoát Trung. Ngược lại nếu
ĐCS quay đầu về công thức Thành Đô thì vị trí của họ sẽ lung lay như
nhận định mới đây của The Economist: “… the Communists in Hanoi that get
burned.“
Trên đây là phương án kiện tốt nhất mà tôi mong muốn VN tiến hành. Nhưng
đó không phải là duy nhất và khả thi nhất, “legal action” trong trường
hợp này còn bao hàm khả năng VN đưa vụ việc ra ITLOS mà tôi sẽ phân tích
trong phần tiếp theo.
Yêu cầu ITLOS cho Advisory Opinion
Một số người (trong đó có tôi) cho rằng nên tách việc kiện TQ xâm phạm
EEZ của VN với vấn đề chủ quyền trên HS-TS. Bởi lẽ bất kể bên nào có chủ
quyền trên đảo Tri Tôn thuộc HS, nếu đảo này không có EEZ thì theo
UNCLOS vị trí giàn khoan HD-981 TQ kéo vào Biển Đông đầu tháng 5 vừa rồi
rõ ràng nằm trong phạm vi 200 hải lý EEZ của VN. Phía TQ tuyên bố vị
trí giàn khoan nằm trong contiguous zone của đảo Tri Tôn mà họ claim
thuộc về họ. Có thể thấy TQ đã cố tình tránh không đề cập đến khái niệm
EEZ vì bản thân họ cũng thấy đảo này quá nhỏ và không đủ điều kiện để có
EEZ riêng. Một câu hỏi đặt ra là tại sao TQ không để HD-981 nằm trong
vùng hải phận 12 hải lý của đảo Tri Tôn, như vậy TQ sẽ buộc chặt vấn đề
lãnh hải với chủ quyền đảo và VN sẽ khó bề kiện TQ như Philippines đã
làm.
Bỏ qua khả năng đây là một tính toán sai của TQ, tôi nghĩ vị trí giàn
khoan nằm ngoài hải phận 12 hải lý của Tri Tôn là một phép thử không chỉ
với VN mà còn với ITLOS và giới luật gia liên quan đến UNCLOS. Vấn đề
là nếu TQ muốn test, liệu VN có dám tham gia hay không và VN phải làm
gì? Câu trả lời đã được một số chuyên gia như Stein Tonnesson, Robert
Beckman, Tạ Văn Tài khuyến nghị trước và sau vụ HD-981. VN cần hỏi ITLOS
một cách chính thức (seek an advisory opinion) về cơ sở tuyên bố EEZ
cho các đảo/bãi đá thuộc HS-TS. Đây không phải là “kiện” theo qui định
UNCLOS nên sẽ tránh được các điều 287 và 298, TQ không bị “lôi ra tòa”
nên về phương diện ngoại giao biện pháp này sẽ đỡ căng thẳng hơn. Theo
Robert Beckman UNCLOS không có qui định nào về điều này nhưng bản thân
ITLOS (Article 138, Rules of the Tribunal) cho rằng tòa này có
jurisdiction để đưa ra advisory opinion.
Như có lần phân tích trước đây, VN đã từng “tham lam” claim EEZ cho tất
cả các đảo thuộc HS-TS. Tuy nhiên sau khi công nhận UNCLOS năm 1994 và
chính thức nộp bản đồ giới hạn thềm lục địa cho CLCS năm 2009, VN đã
chính thức từ bỏ những claim trái với UNCLOS này. Ngược lại cho đến thời
điểm này TQ vẫn lập lờ về vấn đề thềm lục địa, không khẳng định cũng
không từ bỏ EEZ của các đảo trên Biển Đông mà họ claim hoặc đang chiếm
đóng. Rất có thể TQ làm như vậy vì họ âm mưu độc chiếm toàn bộ Biển Đông
trong đường lưỡi bò, nhưng cũng có thể TQ bị “há miệng mắc quai” vì đã
claim đường lưỡi bò trước đây và bây giờ khó có thể rút lại mà không làm
dân TQ nổi giận. Nếu vậy có thể một phán quyết của ITLOS bác bỏ EEZ của
các đảo trên Biển Đông sẽ có lợi cho tất cả các bên kể cả TQ. Theo tôi
đây là phương án “legal action” khả thi nhất mà VN có thể làm trong điều
kiện chính trị ngoại giao hiện tại.
Legal Actions liên quan đến đánh bắt cá
Người VN không ai không căm phẫn khi tàu TQ đâm chìm hoặc phá hỏng các
tàu đánh cá nhỏ của ngư dân VN. Nếu VN có bằng chứng những hành động này
phía TQ thực hiện bên trong EEZ của mình và bên ngoài 12 hải lý quanh
các đảo HS-TS mà TQ đang chiếm đóng thì VN có thể kiện việc này ra Hội
đồng bảo an LHQ như một hành động xâm lăng (aggression) theo ngôn từ của
Stein Tonnesson. Thậm chí nếu những hành động này gây thiệt hại nhân
mạng VN có thể khởi kiện tại International Criminal Court về hành động
thảm sát dân thường của TQ. Tương tự như vậy vụ TQ xả súng bắn các chiến
sĩ công binh VN không có khả năng tự vệ trên đảo Gạc Ma 1988, mà theo
James Zumwalt – một nhà ngoại giao Mỹ – là một vụ thảm sát (massacre)
cũng có thể bị VN đem ra ICC kiện. Tuy nhiên lôi một nước láng giềng, mà
lại là TQ, ra ICC kiện về tội xâm lăng hay thảm sát chắc chắn không khả
thi trong hoàn cảnh hiện tại. Ở đây tôi xin đưa ra một giải pháp khác.
Theo Article 116 Part VII UNCLOS, tất cả các nước được quyền đánh bắt cá
trên vùng biển quốc tế (High Sea), nghĩa là vùng biển nằm ngoài EEZ của
các nước có bờ biển liên quan. Như vậy nếu tất cả các đảo thuộc HS-TS
không có EEZ, một phần của Biển Đông sẽ được coi là High Sea. Phần đáy
biển bên dưới High Sea gọi là The Area được UNCLOS qui định thuộc về
toàn bộ nhân loại (Humanity). Tất cả tài nguyên dưới đáy biển (khoáng
sản, dầu khí) trong The Area sẽ do một tổ chức quốc tế (International
Seabed Authority) quản lý, còn việc đánh bắt hải sản (living resources)
trong High Sea và The Area sẽ do các tổ chức đánh bắt hải sản khu vực
(Reasonal Fisheries Management Organizations – RFMO) cấp phép và điều
phối.
Hiện tại chưa có một RFMO nào cho khu vực Biển Đông. Như vậy legal
action đầu tiên mà VN có thể tiến hành là yêu cầu TQ và các nước có liên
quan, không chỉ các nước có bờ biển quay ra Biển Đông mà cả các nước có
khả năng sẽ tiến hành đánh cá ở khu vực High Sea trên Biển Đông (Úc,
Nhật, Hàn quốc, Đài Loan, Ấn Độ …), tiến hành đàm phán lập ra một RFMO
cho khu vực theo tinh thần UNCLOS. TQ vẫn thường rêu rao đề nghị các
nước gác lại tranh chấp để cùng nhau khai thác tài nguyên, đề nghị thành
lập RFMO này đúng theo tinh thần hợp tác đó nhưng sẽ làm khó cho TQ. Lý
do là tháng 12/2013 chính quyền đảo Hải Nam đưa ra một qui định đánh cá
bao trùm toàn bộ đường lưỡi bò mà Carl Thayer gọi là một bộ luật cướp
biển nhà nước. Vùng biển mà Hải Nam sẽ quản lý bao trùm tất cả những
vùng có thể coi là High Sea trên Biển Đông theo qui định UNCLOS. Nếu TQ
chấp nhận ngồi vào đàm phán thành lập RFMO nghiễm nhiên qui định đánh cá
của Hải Nam vô tác dụng và đường lưỡi bò coi như không có giá trị.
Do đó nhiều khả năng TQ sẽ không chịu tham gia thành lập RFMO, điều này
sẽ là bằng chứng cho thấy TQ không hề muốn hợp tác theo luật lệ quốc tế.
Nếu vậy legal action thứ hai VN có thể thực hiện là kiện bộ luật quản
lý đánh cá của Hải Nam ra một tòa trọng tài đặc biệt (Special
Arbitration) theo khoản 1(d) Điều 287 và Annex VIII. Đây là một cách
lách Điều 298 vì theo qui định TQ chỉ được opt-out khỏi các tranh chấp
liên quan đến ranh giới biển chứ không loại trừ các tranh chấp liên quan
đến đánh cá. Một nội dung khác VN có thể đưa vào vụ kiện này (bên cạnh
luật đánh cá của Hải Nam) là những vụ TQ bắt giữ tàu cá của ngư dân VN
và yêu cầu tiền chuộc. Theo Robert Beckman điều 298 không áp dụng cho
trường hợp này nên dù TQ có opt-out họ vẫn có nghĩa vụ phải ra tòa theo
qui định UNCLOS nếu VN khởi kiện.
Binding Codes of Conducts
Legal action cuối cùng mà tôi nghĩ có thể khả thi là tiến hành đàm phán
COC giữa các nước liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông, trong hoặc
ngoài khuôn khổ của ASEAN. Trong thời gian gần đây chính TQ đã tuyên bố
muốn khởi động đàm phán COC, VN nên chính thức đưa ra một kế hoạch đàm
phán cụ thể và yêu cầu tất cả các nước liên quan không có hành động tạo
căng thẳng trong quá trình đàm phán. TQ sẽ không có cớ gì để lẩn tránh
đề nghị này nhưng nhiều khả năng sẽ đưa đường lưỡi bò ra để gây khó dễ.
Đây sẽ là điểm khó nhằn cho VN và các nước liên quan, nếu chấp nhận đưa
vấn đề đường lưỡi bò vào đàm phán thì vô hình chung chấp nhận vùng biển
bên trong đường lưỡi bò đang bị tranh chấp, một điều phi lý và bất công.
Nhưng nếu không chấp nhận thì sẽ không xúc tiến đàm phán được và TQ sẽ
không chịu công nhận các vùng EEZ chồng lấn của VN và các nước khác.
Tất nhiên vấn đề này sẽ dễ thở hơn nhiều nếu Philippines thắng trong vụ
kiện tại PCA hiện tại hoặc VN đưa vấn đề đánh giá EEZ các đảo HS-TS ra
ITLOS. Chưa kể đó là các con bài đàm phán, khi đối mặt với các vụ
kiện/legal actions TQ sẽ có incentive ký COC sớm với các nước liên quan
trước khi bị một phiên tòa quốc tế ra phán quyết bất lợi cho mình vì như
vậy sẽ mất thế khi đàm phán COC. Cá nhân tôi cho rằng đạt được một COC
công bằng và theo tinh thần UNCLOS sẽ là một thắng lợi cho VN, những
legal actions tôi liệt kê bên trên chủ yếu để giúp đạt được mục tiêu
này. Chúng ta cần phải chấp nhận một thực tế là TQ sẽ không chịu nhả
HS-TS với bất cứ giá nào. Kiện TQ ra ICJ về chủ quyền HS-TS vô cùng khó
khăn và chưa chắc đã đạt được kết quả mong đợi. Trong khi ranh giới biển
và quyền khai thác tài nguyên trong EEZ của mình đã được qui định cụ
thể trong UNCLOS, chủ quyền đảo phải phân xử theo common laws không có
gì trói buộc với TQ. Khác với 3 tháng trước đây, quan điểm hiện tại của
tôi giống của GS Phạm Quang Tuấn: VN nên gác lại vấn đề chủ quyền HS-TS.
Nói vậy không có nghĩa VN từ bỏ vĩnh viễn chủ quyền ở hai quần đảo này.
Việc gác lại vấn đề chủ quyền để ký COC theo tinh thần UNCLOS sẽ chứng
tỏ cho thế giới thấy một nước VN có hành xử văn minh, biết tuân thủ luật
pháp quốc tế và sẵn sàng hợp tác vì hòa bình và lợi ích của các nước
trong khu vực. Vấn đề chủ quyền là thiêng liêng, nhưng chúng ta còn có
những mục tiêu khác quan trọng không kém, vd đưa VN trở thành một quốc
gia thịnh vượng và dân chủ. Mà chắc chắn chúng ta phải đạt được những
điều đó trước khi hoàn thành giấc mơ “Sang năm tới Hoàng Sa” của mọi
người dân VN.
02/09/2014
Giang Lê
VN cần cho TQ thấy họ không thể bị thao túng
Trao đổi bên lề Diễn đàn Biển ASEAN mở rộng ngày 28/8, GS. Carl Thayer
nhận định: VN cần đặt mình ở vị trí trung tâm trong quan hệ với TQ và
các quốc gia lớn khác.
Diễn biến tích cực
- Ông nhìn nhận thế nào về chuyến thăm vừa rồi của đặc phái viên Tổng
bí thư, Thường trực Ban bí thư Lê Hồng Anh, đến TQ, và trong các cuộc
tiếp kiến, phía TQ đều nói muốn phục hồi quan hệ song phương?
Đây là một diễn biến tích cực sau sự việc giàn khoan Hải Dương 981 hồi
tháng 5. Tôi nghĩ hai bên đều nhận thấy không thể có diễn biến gì mang
tính xây dựng nếu cứ tiếp tục đối đầu. Sau khi TQ rút giàn khoan, tình
hình đã bớt căng thẳng, và bây giờ là thời điểm thích hợp.
GS. Carl Thayer |
TQ đã quyết định chọn cách giải quyết giữa hai Đảng để tránh sự đối đầu
giữa hai Nhà nước. Tôi hy vọng sau chuyến thăm của đặc phái viên sẽ là
một chuyến thăm của đích thân Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh.
Chúng ta đều biết là đối với vấn đề biên giới trên đất liền, hay phân
định vịnh Bắc Bộ, các lãnh đạo cao nhất đã đạt được thỏa thuận và đặt ra
thời hạn, tất cả đều tuân thủ.
Chuyến thăm có thể không giải quyết được vấn đề trên Biển Đông nhưng
phải tìm giải pháp cho hai việc: Liệu TQ có đưa giàn khoan trở lại vào
năm tới? Và VN có tiếp tục theo đuổi việc đấu tranh pháp pháp lý?
Đây mới chỉ là những bước trù bị, nhưng với tôi đó là những dấu hiệu tích cực.
- Cũng trong tháng 8, VN đón các quan chức cao cấp như Ngoại trưởng
Nhật Bản, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ và Ngoại
trưởng Ấn Độ. Theo ông, các chuyến thăm này cho thấy điều gì?
Điều này cho thấy sự tiếp tục đường lối đối ngoại đa phương của Việt Nam được đánh dấu từ năm 1991.
Việc này chỉ có thể thực hiện được khi tất cả các bên đều hợp tác với
VN. Khi căng thẳng gia tăng xung quanh giàn khoan, chính sách đó không
tránh khỏi bị đặt câu hỏi. Nay khi căng thẳng đã hạ nhiệt, cùng với việc
tăng cường quan hệ song phương với TQ, VN cũng theo đuổi quan hệ đa
phương với các quốc gia khác.
Việc VN đặt mình ở vị trí trung tâm sẽ khiến các nước phải tự hỏi nếu
không hợp tác với VN, họ có thể bị lỡ tàu, cũng như để TQ nhận ra họ
không thể thao túng. VN cho thấy mình không về phe nào mà đang cố gắng
hợp tác, trở thành một người bạn đáng tin cậy, chừng nào các nước còn
hợp tác với VN.
Vì vậy, việc VN mời các quan chức Ấn Độ, Hoa Kỳ và nhiều nước khác đến cùng lúc là một việc tốt.
- Ông có dự đoán nào về những giàn khoan mà TQ đang tiếp tục xây dựng, liệu họ có tiếp tục chiến lược lãnh thổ di động không?
Đây là một vấn đề khá mâu thuẫn. Các giàn khoan rất lớn, được làm là để
tham gia các hoạt động hợp tác thương mại. Nhưng nếu chính quyền yêu cầu
các giàn khoan này tham gia các mục đích chính trị và chủ quyền, chúng
sẽ không phục vụ đúng mục đích.
Thế nên TQ cần quyết định sẽ triển khai các giàn khoan này đến những nơi
giàu dầu khí có thể khai thác để làm giàu cho kinh tế TQ, hay đến đặt ở
những vùng biển tranh chấp để tiếp tục gây ra những căng thẳng và đối
đầu.
Còn quá sớm để nói, họ có thể quay lại, có thể đến một vùng khác, gần
Philippines chẳng hạn, chờ xem TQ sẽ thể hiện thế nào. Nhưng khi VN phản
ứng lại TQ, một điều tôi cho là bất ngờ, thì cả hai bên, nhất là TQ,
cần nhìn lại liệu họ có muốn đưa giàn khoan quay lại và gây thêm căng
thẳng không.
Tại diễn đàn này, các đại biểu dù không đề cập trực tiếp cũng cho thấy
sự quan ngại về vụ việc giàn khoan Hải Dương 981. Không ai thích và đều
sợ các va chạm trên biển, tàu cá bị đâm chìm… Thế nên mọi chuyện phụ
thuộc vào TQ.
Con đường Tơ lụa trên biển không phải là cơ hội duy nhất
- Chủ đề của các diễn đàn Biển ASEAN và mở rộng là về hợp tác biển.
Thời gian gần đây, một số tỉnh miền Nam TQ như Quảng Đông, cũng nói đến
việc thiết lập Con đường Tơ lụa trên biển để tăng cường giao thương với
ASEAN. Theo ông dự án này có hứa hẹn?
Hội nhập kinh tế phải mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Con đường Tơ
lụa trên biển cũng nằm trong bối cảnh chung của việc liên kết kinh tế
giữa miền Nam TQ với khu vực ASEAN thông qua VN. Còn nhớ trong chuyến
thăm VN tháng 10 năm ngoái, Thủ tướng TQ Lý Khắc Cường cũng nói về việc
tạo điều kiện hạ tầng cho sự liên kết này.
Việc các nước liên quan đều muốn đẩy mạnh hợp tác kinh tế là một yếu tố
hữu ích, nhưng không thể tự nó giải quyết tất cả các vấn đề an ninh.
Nhưng hợp tác kinh tế là tốt, vì ví dụ, nhiều nhà đầu tư TQ có nhà máy
sinh lời ở VN, họ cũng muốn các nhà máy đó nhanh chóng trở lại hoạt
động. Khi VN tham gia Hiện định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP),
các nhà máy đó có thể xuất khẩu sang Mỹ với giá thành rẻ hơn là xuất
khẩu trực tiếp từ TQ. Thế nên đó là một quan hệ các bên đều có lợi.
Nhưng Con đường Tơ lụa trên biển không phải là cơ hội duy nhất. VN cũng
đang đàm phán gia nhập TPP với Mỹ. VN có thể có cả hai, có thể có tất cả
các cơ hội hợp tác song phương với các nước hay đa phương trong khu
vực.
Bài và ảnh: Chung Hoàng(VNN)
Biển Đông : Trung Quốc biến sáu bãi đá ngầm ở Trường Sa thành đảo nhỏ
Ảnh vệ tinh chụp cụm Sinh Tồn thuộc quần đảo Trường Sa, Biển Đông.
wikipedia
|
Theo tờ Want China Times của Đài Loan hôm nay 02/09/2014, Bắc Kinh đã
dấn thêm một bước mới trong chiến dịch tích cực xâm lấn để tìm cách
khẳng định chủ quyền tại Biển Đông. Ảnh chụp vệ tinh cho thấy sáu rạn
san hô ở quần đảo Trường Sa đã được biến thành các đảo nhỏ nhờ việc cải
tạo hạ tầng trong sáu tháng qua.
Từ tháng Hai, Trung Quốc đã tất bật gởi những đội xây dựng đến nhiều bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa, hiện đang tranh chấp với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. Theo các nguồn tin, sáu rạn san hô đã bị biến thành đảo nhỏ.
Đó là hai rạn thuộc cụm Sinh Tồn là Đá Gạc Ma (Johnson South, bị Trung Quốc chiếm năm 1988 sau trận Hải chiến Trường Sa) và Đá Tư Nghĩa (Hughes), và bốn rạn san hô khác là Đá Ga Ven (Gaven), Đá Chữ Thập (Fiery Cross), Đá Én Đất (Eldad) đều thuộc cụm Nam Yết, Đá Châu Viên (Cuarteron) thuộc cụm Trường Sa, tất cả đều bị Trung Quốc chiếm năm trong khoảng 1988 -1989.
Các ảnh chụp Đá Gạc Ma từ vệ tinh vào tháng Bảy cho thấy Trung Quốc đã xây một cầu tàu, trồng những hàng dừa cùng với các cơ sở hạ tầng mới như đường sá, nhà cửa, khiến bãi đá ngầm chủ yếu là cát và đá trở thành một hòn đảo trắng có dạng trái táo. Ảnh của Google Earth vào cuối tháng Sáu cũng đã phát hiện một lượng thiết bị xây dựng quan trọng trên đảo.
Theo các nhà phân tích, các hoạt động cải tạo hiện trạng nhanh chóng của Bắc Kinh tại Biển Đông, nhờ nguồn lực dồi dào và năng lực xây dựng, khiến Trung Quốc có thể lấn át tất cả các nước khác. Các cơ sở hạ tầng kiên cố ngày càng nhiều trên các bãi đá ngầm mang lại ưu thế cho Bắc Kinh trong yêu sách chủ quyền.
Một viên chức an ninh cao cấp của Philippines than thở: « Khi các lãnh đạo của chúng tôi bận rộn tranh cãi, thì ngoài Biển Đông chúng tôi đang bị mất dần lãnh thổ do Trung Quốc gặm nhấm từ từ ».
Tổng thống Benigno Aquino tuần rồi khẳng định Bắc Kinh tiếp tục các hoạt động xâm lấn, và lại đưa ra lời kêu gọi Trung Quốc nên làm dịu bớt căng thẳng tại Biển Đông. Ông cho biết Philippines tiếp tục xúc tiến việc kiện lên Tòa án quốc tế về Luật Biển, và đòi hỏi xây dựng Bộ quy tắc ứng xử để điều chỉnh các hành vi trong khu vực.
Từ tháng Hai, Trung Quốc đã tất bật gởi những đội xây dựng đến nhiều bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa, hiện đang tranh chấp với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. Theo các nguồn tin, sáu rạn san hô đã bị biến thành đảo nhỏ.
Đó là hai rạn thuộc cụm Sinh Tồn là Đá Gạc Ma (Johnson South, bị Trung Quốc chiếm năm 1988 sau trận Hải chiến Trường Sa) và Đá Tư Nghĩa (Hughes), và bốn rạn san hô khác là Đá Ga Ven (Gaven), Đá Chữ Thập (Fiery Cross), Đá Én Đất (Eldad) đều thuộc cụm Nam Yết, Đá Châu Viên (Cuarteron) thuộc cụm Trường Sa, tất cả đều bị Trung Quốc chiếm năm trong khoảng 1988 -1989.
Các ảnh chụp Đá Gạc Ma từ vệ tinh vào tháng Bảy cho thấy Trung Quốc đã xây một cầu tàu, trồng những hàng dừa cùng với các cơ sở hạ tầng mới như đường sá, nhà cửa, khiến bãi đá ngầm chủ yếu là cát và đá trở thành một hòn đảo trắng có dạng trái táo. Ảnh của Google Earth vào cuối tháng Sáu cũng đã phát hiện một lượng thiết bị xây dựng quan trọng trên đảo.
Theo các nhà phân tích, các hoạt động cải tạo hiện trạng nhanh chóng của Bắc Kinh tại Biển Đông, nhờ nguồn lực dồi dào và năng lực xây dựng, khiến Trung Quốc có thể lấn át tất cả các nước khác. Các cơ sở hạ tầng kiên cố ngày càng nhiều trên các bãi đá ngầm mang lại ưu thế cho Bắc Kinh trong yêu sách chủ quyền.
Một viên chức an ninh cao cấp của Philippines than thở: « Khi các lãnh đạo của chúng tôi bận rộn tranh cãi, thì ngoài Biển Đông chúng tôi đang bị mất dần lãnh thổ do Trung Quốc gặm nhấm từ từ ».
Tổng thống Benigno Aquino tuần rồi khẳng định Bắc Kinh tiếp tục các hoạt động xâm lấn, và lại đưa ra lời kêu gọi Trung Quốc nên làm dịu bớt căng thẳng tại Biển Đông. Ông cho biết Philippines tiếp tục xúc tiến việc kiện lên Tòa án quốc tế về Luật Biển, và đòi hỏi xây dựng Bộ quy tắc ứng xử để điều chỉnh các hành vi trong khu vực.
Thụy My
Căng thẳng ‘có thể giảm’ nhưng khủng hoảng ở biển Đông vẫn ‘có thể xảy ra’
BẮC KINH (The Straits Times / ANN) – Giới phân tích cho rằng thỏa thuận mong manh là dấu hiệu Hà Nội sẽ không đi kiện TQ về vụ tranh chấp trên biển.Biển lặng hay đang có sóng ngầm? Nguồn: http://bakken.com/ |
Trung Quốc và Việt Nam đã đạt một thỏa
thuận mong manh nhằm giảm bớt căng thẳng giữa hai bên leo thang từ tháng
Năm khi TQ đưa giàn khoan 981 vào Biển Đông và đã khiến Hà Nội phải
nghĩ đến việc đưa những tranh chấp biển Đông ra trước tòa án quốc tế.
Nhưng một số trong giới phân tích cũng lưu ý rằng cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và đặc sứ của Việt Nam Lê Hồng Anh tại Bắc Kinh hôm thứ Tư đã không mang lại bất kỳ bước đột phá cơ bản nào, mặc dù cả hai bên bày tỏ mong muốn “phục hồi” và “hàn gắn” bang giao.
Chuyên gia về Trung Quốc-ASEAN Li Jinming của Đại học Xiamen (Hạ Môn) tin rằng chuyến đi của Lê Hồng Anh và tuyên bố hòa giải sau cuộc gặp gỡ với giới lãnh đạo Trung Quốc có nghia là Việt Nam nay đã xếp lại việc đi kiện trước tòa án quốc tế.
Giáo sư Li Jinming nói với tờ Straits Times “Hà Nội đã bình tĩnh suy nghĩ lại khi nhận thấy rằng sẽ có quá nhiều rủi ro về mặt kinh tế nếu đi kiện. Vì Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xã hội chủ nghĩa, từ lâu đã có mối quan hệ bền vững và thân thiết.”
Anh, một thành viên của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, đã được gửi đến Bắc Kinh như đặc sứ của Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng. Ông là nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất Việt Nam thăm Trung Quốc kể từ tháng Năm. Vị trí của giàn khoan của Trung Quốc trong vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa đã làm quan hệ Việt-Trung căng thẳng hai tháng với những cuộc đụng độ trên biển giữa hai bên và những cuộc bạo loạn chống Trung Quốc khiến bốn công nhân chết.
Bắc Kinh đình chỉ một phần quan hệ song phương, trong khi Hà Nội công khai cứu xét việc theo bước chân của Philippines nộp đơn kiện Trung Quốc trước Tòa án quốc tế về Luật biển.
Giới phân tích cho biết một loạt những nhượng bộ và đe dọa trong vài tháng qua đã mở đường cho một thỏa hiệp hòa hoãn cao cấp.
Trung Quốc đã dời giàn khoan khỏi Biển Đông hồi giữa tháng Bảy, một tháng trước thời hạn, nói rằng công việc đã hoàn tất, nhưng David Koh, một người quan sát Việt Nam từ lâu, lưu ý rằng việc rút giàn khoan cũng dẹp được trở ngại lớn nhất ngăn cản những cuộc đàm phán.
Theo tin của giới truyền thông thì đã Việt Nam bồi thường nạn nhân của các cuộc bạo loạn chống Trung Quốc, và tại phiên họp các Bộ trưởng Ngoại giao của ASEAN tại Myanmar hồi đầu tháng Tám, đã không ủng hộ đề nghị của Philippines đóng băng tất cả “những hoạt động khiêu khích” trong vùng biển đang có tranh chấp.
Đồng thời giới quan sát còn ghi nhận rằng cam kết của một số thượng nghị sĩ Mỹ sẽ vận động để chính phủ Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương tại Việt Nam đã là một lo ngại cho Trung Quốc rằng nước láng giềng cộng sản sẽ xoay về phía Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Nhưng trong khi tuyên bố chính thức cho biết cả hai bên “hứa sẽ tôn trọng các quy tắc đàm phán hàng hải và từ bỏ những hành động có thể làm phức tạp hoặc thổi phồng các tranh chấp,” tiến sĩ Koh cho rằng đây chỉ là “rượu cũ trong bình mới”.
Nhưng một số trong giới phân tích cũng lưu ý rằng cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và đặc sứ của Việt Nam Lê Hồng Anh tại Bắc Kinh hôm thứ Tư đã không mang lại bất kỳ bước đột phá cơ bản nào, mặc dù cả hai bên bày tỏ mong muốn “phục hồi” và “hàn gắn” bang giao.
Chuyên gia về Trung Quốc-ASEAN Li Jinming của Đại học Xiamen (Hạ Môn) tin rằng chuyến đi của Lê Hồng Anh và tuyên bố hòa giải sau cuộc gặp gỡ với giới lãnh đạo Trung Quốc có nghia là Việt Nam nay đã xếp lại việc đi kiện trước tòa án quốc tế.
Giáo sư Li Jinming nói với tờ Straits Times “Hà Nội đã bình tĩnh suy nghĩ lại khi nhận thấy rằng sẽ có quá nhiều rủi ro về mặt kinh tế nếu đi kiện. Vì Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xã hội chủ nghĩa, từ lâu đã có mối quan hệ bền vững và thân thiết.”
Anh, một thành viên của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, đã được gửi đến Bắc Kinh như đặc sứ của Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng. Ông là nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất Việt Nam thăm Trung Quốc kể từ tháng Năm. Vị trí của giàn khoan của Trung Quốc trong vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa đã làm quan hệ Việt-Trung căng thẳng hai tháng với những cuộc đụng độ trên biển giữa hai bên và những cuộc bạo loạn chống Trung Quốc khiến bốn công nhân chết.
Bắc Kinh đình chỉ một phần quan hệ song phương, trong khi Hà Nội công khai cứu xét việc theo bước chân của Philippines nộp đơn kiện Trung Quốc trước Tòa án quốc tế về Luật biển.
Giới phân tích cho biết một loạt những nhượng bộ và đe dọa trong vài tháng qua đã mở đường cho một thỏa hiệp hòa hoãn cao cấp.
Trung Quốc đã dời giàn khoan khỏi Biển Đông hồi giữa tháng Bảy, một tháng trước thời hạn, nói rằng công việc đã hoàn tất, nhưng David Koh, một người quan sát Việt Nam từ lâu, lưu ý rằng việc rút giàn khoan cũng dẹp được trở ngại lớn nhất ngăn cản những cuộc đàm phán.
Theo tin của giới truyền thông thì đã Việt Nam bồi thường nạn nhân của các cuộc bạo loạn chống Trung Quốc, và tại phiên họp các Bộ trưởng Ngoại giao của ASEAN tại Myanmar hồi đầu tháng Tám, đã không ủng hộ đề nghị của Philippines đóng băng tất cả “những hoạt động khiêu khích” trong vùng biển đang có tranh chấp.
Đồng thời giới quan sát còn ghi nhận rằng cam kết của một số thượng nghị sĩ Mỹ sẽ vận động để chính phủ Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương tại Việt Nam đã là một lo ngại cho Trung Quốc rằng nước láng giềng cộng sản sẽ xoay về phía Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Nhưng trong khi tuyên bố chính thức cho biết cả hai bên “hứa sẽ tôn trọng các quy tắc đàm phán hàng hải và từ bỏ những hành động có thể làm phức tạp hoặc thổi phồng các tranh chấp,” tiến sĩ Koh cho rằng đây chỉ là “rượu cũ trong bình mới”.
“Không có gì mới đạt được sau chuyến viếng thăm này ngoại trừ việc nó cho thấy tất cả mọi bên sẵn sàng làm việc cho hòa bình. Nhưng vấn đề cơ bản về chủ quyền, giàn khoan đã thực sự ở trong vùng biển của Trung Quốc hay biển của Việt Nam, và hành động thăm dò dầu khí của Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế hay không, không có biến chuyển nào về những điểm điều.”
Một số nhà quan sát phần lớn thấy hiện
trạng là tình thế không bền vững. Chuyên gia nghiên cứu cao cấp Ian
Storey thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore cho biết một phần
của lý do để Lê Hồng Anh đi Trung Quốc là để yêu cầu và được sự đảm bảo
của Trung Quốc rằng họ sẽ không gửi thêm một giàn khoan nào khác vào
vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông.
“Tôi chắc chắn rằng không có một đảm bảo như vậy,” ông Storey nói.
“Trung Quốc dường như quyết tâm xác định chủ quyền lãnh thổ và Việt Nam cũng không kém phần quyết tâm bảo vệ chủ quyền của mình và chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc. Khi không bên nào thay đổi, những cuộc khủng hoảng trong tương lai là điều không thể tránh khỏi.”
Rachel Chang
DCVOnline lược dịch
DCVOnline lược dịch
Nguồn: China-Vietnam tensions ‘likely to ease. Rachel Chang | Asia News Network (Hamburg, Germany). August 29, 2014.
© 2014 DCVOnline
Nga 'thay đổi chiến lược quân sự'
Nga sẽ thay đổi chiến lược quân
sự vì khủng hoảng Ukraine và sự hiện diện của Nato ở Đông Âu, theo lời
một quan chức Điện Kremlin.
Mikhail Popov, một cố vấn cho Điện Kremlin, nói quan hệ xấu đi với Mỹ và Nato sẽ được phản ánh trong sách lược mới.
Mikhail Popov, một cố vấn cho Điện Kremlin, nói quan hệ xấu đi với Mỹ và Nato sẽ được phản ánh trong sách lược mới.
Chưa rõ cụ thể học thuyết mới của Nga sẽ như thế nào.
Trong khi đó, Nato tuyên bố sẽ tăng cường hiện diện ở Đông Âu để bảo vệ các thành viên.
Quân chính phủ Ukraine đang giao tranh với phe nổi dậy ở đông Ukraine.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ukraine nói Nga đã mở một cuộc 'chiến tranh lớn' có thể khiến hàng chục nghìn người thiệt mạng.
Nga bác bỏ phát biểu này, cho rằng nó chỉ khiến người dân Ukraine đắm sâu vào một cuộc xung đột đẫm máu ở bên trong.
Ông bộ trưởng đã đưa ra phát biểu như trên sau khi binh lính Ukraine buộc phải rút khỏi sân bay Luhansk ở miền Đông đất nước vì bị phiến quân thân Nga tấn công.
Trong khi đó, cuộc đàm phán giải quyết khủng hoảng giữa giới chức Ukraine, quân ly khai và đại diện phía Nga đã chấm dứt mà không đạt được thỏa thuận nào.
Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Valeriy Heletey viết trên trang Facebook của ông hôm thứ Hai 1/9: "Một cuộc chiến lớn đã đến cửa nhà chúng ta, ở mức độ mà châu Âu chưa từng chứng kiến kể từ Thế chiến II".
"Đáng tiếc là thiệt hại sinh mạng trong những cuộc chiến thế này sẽ không phải là hàng trăm mà là hàng nghìn và hàng chục nghìn."
Nga đã nhiều lần bác bỏ cáo buộc của Ukraine và Phương Tây là Moscow cung cấp binh lính và khí tài cho phe ly khai.
Bộ Ngoại giao Nga nói "khó có thể tin là một tuyên bố như vậy có thể được một bộ trưởng quốc phòng của một nước văn minh đưa ra".
Đàm phán
Trong khi đó, Nato tuyên bố sẽ tăng cường hiện diện ở Đông Âu để bảo vệ các thành viên.
Quân chính phủ Ukraine đang giao tranh với phe nổi dậy ở đông Ukraine.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ukraine nói Nga đã mở một cuộc 'chiến tranh lớn' có thể khiến hàng chục nghìn người thiệt mạng.
Nga bác bỏ phát biểu này, cho rằng nó chỉ khiến người dân Ukraine đắm sâu vào một cuộc xung đột đẫm máu ở bên trong.
Ông bộ trưởng đã đưa ra phát biểu như trên sau khi binh lính Ukraine buộc phải rút khỏi sân bay Luhansk ở miền Đông đất nước vì bị phiến quân thân Nga tấn công.
Trong khi đó, cuộc đàm phán giải quyết khủng hoảng giữa giới chức Ukraine, quân ly khai và đại diện phía Nga đã chấm dứt mà không đạt được thỏa thuận nào.
Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Valeriy Heletey viết trên trang Facebook của ông hôm thứ Hai 1/9: "Một cuộc chiến lớn đã đến cửa nhà chúng ta, ở mức độ mà châu Âu chưa từng chứng kiến kể từ Thế chiến II".
"Đáng tiếc là thiệt hại sinh mạng trong những cuộc chiến thế này sẽ không phải là hàng trăm mà là hàng nghìn và hàng chục nghìn."
Nga đã nhiều lần bác bỏ cáo buộc của Ukraine và Phương Tây là Moscow cung cấp binh lính và khí tài cho phe ly khai.
Bộ Ngoại giao Nga nói "khó có thể tin là một tuyên bố như vậy có thể được một bộ trưởng quốc phòng của một nước văn minh đưa ra".
Sáng thứ Hai, quân đội Ukraine cho hay họ đã buộc phải rút khỏi sân bay Luhansk sau khi xe tăng Nga tấn công nơi này.
Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko nói đây là vụ "tấn công trực tiếp chống lại Ukraine từ một nước láng giềng".
Quyết định rút lui được đưa ra sau khi
phiến quân thân Nga cũng tiến sâu thêm trong cả hai khu vực Luhansk
và Donetsk, cũng như ở miền Nam gần cảng Mariupol.
Khoảng 680 lính Ukraine đã bị quân ly khai bắt giữ trong những trận giao tranh mới đây quanh Donetsk, theo hãng thông tấn nhà nước Ukraine UNIAN.
Một quan chức cao cấp của nước này nói với hãng thông tấn AFP rằng mục tiêu của Nga là "làm Ukraine bất ổn và tạo hành lang tới Crimea", nơi Nga đã sáp nhập hồi tháng Ba.
Thế nhưng Tổng thống Nga Vladimir Putin nói châu Âu tảng lờ một việc là quân đội Ukraine đang "trực tiếp nhắm vào" dân thường ở miền Đông Ukraine.
Vòng đàm phán khủng hoảng mới nhất được tiến hành tại Belarus vào hôm thứ Hai nhưng chỉ sau vài giờ là bị hoãn tới thứ Sáu 5/9.
Andrei Purgin, thủ lĩnh của nhóm ly khai Cộng hòa Nhân dân Donetsk nói với truyền hình Nga: "Đây chỉ là bước khởi đầu của tiến trình".
Các đại diện phiến quân được nói đã giảm đòi hỏi độc lập mà chỉ muốn tìm kiếm "vị thế đặc biệt" cho khu vực của họ ở Ukraine.
Điều đó có nghĩa họ có thể được kiểm soát an ninh và không bị truy tố, trong khi "hội nhập kinh tế sâu rộng hơn với Nga".
Các phóng viên nói đòi hỏi của phe ly khai sẽ chia rẽ đất nước vì chính quyền Kiev đang nỗ lực tạo dựng quan hệ kinh tế thân chặt hơn với EU.
Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov trong khi đó nói ông mong muốn cuộc đàm phán tập trung vào "thỏa thuận việc ngừng bắn ngay lập tức và vô điều kiện".
Khoảng 680 lính Ukraine đã bị quân ly khai bắt giữ trong những trận giao tranh mới đây quanh Donetsk, theo hãng thông tấn nhà nước Ukraine UNIAN.
Một quan chức cao cấp của nước này nói với hãng thông tấn AFP rằng mục tiêu của Nga là "làm Ukraine bất ổn và tạo hành lang tới Crimea", nơi Nga đã sáp nhập hồi tháng Ba.
Thế nhưng Tổng thống Nga Vladimir Putin nói châu Âu tảng lờ một việc là quân đội Ukraine đang "trực tiếp nhắm vào" dân thường ở miền Đông Ukraine.
Vòng đàm phán khủng hoảng mới nhất được tiến hành tại Belarus vào hôm thứ Hai nhưng chỉ sau vài giờ là bị hoãn tới thứ Sáu 5/9.
Andrei Purgin, thủ lĩnh của nhóm ly khai Cộng hòa Nhân dân Donetsk nói với truyền hình Nga: "Đây chỉ là bước khởi đầu của tiến trình".
Các đại diện phiến quân được nói đã giảm đòi hỏi độc lập mà chỉ muốn tìm kiếm "vị thế đặc biệt" cho khu vực của họ ở Ukraine.
Điều đó có nghĩa họ có thể được kiểm soát an ninh và không bị truy tố, trong khi "hội nhập kinh tế sâu rộng hơn với Nga".
Các phóng viên nói đòi hỏi của phe ly khai sẽ chia rẽ đất nước vì chính quyền Kiev đang nỗ lực tạo dựng quan hệ kinh tế thân chặt hơn với EU.
Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov trong khi đó nói ông mong muốn cuộc đàm phán tập trung vào "thỏa thuận việc ngừng bắn ngay lập tức và vô điều kiện".
(BBC)
Phá sản ngân hàng: Thủ tướng cũng bất lực?
(VNTB) - Điều gì phải đến đã đến, dành cho cơ thể ngân hàng đang dần thối rữa.
Không thật ngạc nhiên khi sau cuộc họp thường kỳ Chính phủ tháng 8/2014
về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, một vài tờ báo nhà nước bình luận:
Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp về "Kiên quyết thực hiện
tái cơ cấu ngân hàng vì an toàn của hệ thống, vì lợi ích của người dân.
Dứt khoát các ngân hàng yếu kém phải kiểm soát chặt chẽ, cần thiết thì
sáp nhập, giải thể theo đúng pháp luật" cho thấy triển vọng trong tương
lai sẽ có ngân hàng bị cho phá sản nếu không thể vực dậy dưới sự hỗ trợ
của Ngân hàng Nhà nước.
Một lãnh đạo ngân hàng thương mại tại Hà Nội cũng cho rằng thông điệp
của Thủ tướng đưa ra thời điểm này có thể xem là hàn thử biểu cho một
sự việc sắp xảy ra.
“Sự việc sắp xảy ra”
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) rất có thể sẽ đóng vai “sự việc sắp xảy ra”.
Tháng 6/2014, cơ quan kiểm toán nhà nước “bất ngờ” công bố hàng loạt số liệu cực kỳ bất ổn về tình trạng tài chính của Agribank.
Chỉ ít ngày sau, đến lượt số ngân hàng được xem là xương sống của đế chế
tín dụng Việt Nam lộ hình báo cáo tài chính quý 2/2014. Có đến 8 ngân
hàng rơi vào cơn mơ nợ xấu tăng chóng mặt: Vietinbank, Vietcombank, ACB,
MB, Sacombank, Eximbank, BIDV và SHB, với tổng nợ xấu tăng gần 13.400
tỷ đồng trong 6 tháng.
Những ngân hàng trên lại đều nằm trong top 12 tổ chức tín dụng được coi
là “điểm sáng” mà giới quan chức Ngân hàng nhà nước thường tự hào trong
các báo cáo thành tích luôn tô vẽ giáo điều và phủ mị.
Đến trung tuần tháng 8/2014, có thể một cái tên mới đã hình thành: “G
1+8”, gồm quán quân Agribank và 8 ngân hàng khác mà nợ xấu bủa vây sẽ
khiến các “thành viên” quá khó để ứng cứu lẫn nhau.
Bi kịch đang lộ diện ở chỗ không chỉ một Agribank, mà hầu hết các ngân
hàng lớn nhất Việt Nam đều nằm trong tình thế nợ xấu quá tải và còn có
thể chẳng có điểm dừng, nếu tình trạng thu hồi nợ từ các doanh nghiệp,
trong đó có đến 70% hoặc hơn là nợ cho vay bất động sản, vẫn gần như vô
phương hiện thời.
Một triệu chứng khác mà có thể dẫn đến cơn sang chấn bất thường là riêng
tại TP. Hồ Chí Minh: nợ có khả năng mất vốn cũng đang là mối lo của các
ngân hàng khi chiếm tới 70,5% trong tổng nợ xấu của các nhà băng trên
địa bàn trong 6 tháng đầu năm 2014.
Và như dân gian truyền tụng, khi ngân hàng phải kêu thét lên thì đó
chính là thời điểm mà hiệu ứng Minsky - các món cho vay đến hạn không
thể thanh toán được - có thể ập tới bất kỳ lúc nào.
Thủ tướng cũng bất lực?
Bất kỳ lúc nào cũng có thể bùng nổ sự sụp đổ của một ngân hàng đầu tiên
ôm nợ xấu bất động sản mà không thể bán lại cho bất kỳ ai.
Nhưng sẽ không giống như kịch bản của Hoa Kỳ chỉ tập trung cứu chữa chủ
yếu cho một Lehman Brothers, giới điều hành tín dụng và tiền tệ Việt Nam
rất có thể sẽ phải đối mặt với kịch bản có ít nhất từ 3-5 ngân hàng lớn
cùng rơi vào tâm thế hôn mê, khiến cho phương án ứng cứu lẫn nhau trở
nên khá vô nghĩa.
Gần đây, ông Bùi Kiến Thành - một chuyên gia ngân hàng có thực tâm, còn
nói thẳng là Ngân hàng nhà nước đã vô tâm đến mức “chẳng làm gì cả” đối
với sự nghiệp “tái cấu trúc ngành ngân hàng”. Tức sau làn sóng sáp nhập
một số ngân hàng “ngon ăn” vào năm 2012, cho tới nay vẫn còn nguyên
trạng nhóm ngân hàng yếu kém mà không một ngân hàng “cá mập” nào thèm
ngó ngàng.
Không thể sáp nhập ngân hàng yếu vào ngân hàng mạnh, cũng không có nổi
một thái độ cưu mang từ những kẻ mà ích kỷ đã trở thành một đặc tính cố
hữu, sẽ rất khó để Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp cứu, dù
bằng biện pháp bơm máu - in tiền ồ ạt, nếu một loạt ngân hàng cả lớn lẫn
nhỏ cùng lúc rơi vào đổ bể theo hiệu ứng “Minsky tập thể”.
Mọi chuyện đều có logic của nó. Nếu vào đầu năm nay, Quốc hội Việt Nam
đã phải dành đến một chương chuyên biệt trong Luật phá sản cho “giải thể
tổ chức tín dụng”, chắc hẳn giới lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Việt
Nam đã “lờ mờ” nhận ra thực chất Ngân hàng nhà nước “chẳng làm gì cả”,
hoặc có làm gì chăng nữa thì cũng chẳng còn tác dụng nào trước một hậu
quả quá ghê gớm đến giờ mà cơ quan điều hành tín dụng tối cao này đã góp
một phần không nhỏ gây ra.
Đã đến nước này, Thủ tướng cũng đành bất lực?
Viết Lê Quân
Lộ Trình Hạ Bệ Cựu Chủ Tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân
Cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân tại Đại lễ đường Nhân dân vào ngày 08 tháng 11 năm 2012 ở Bắc Kinh. Các đồng minh thân cận của Giang Trạch Dân đang bị điều tra từng người một. Ngày Giang bị bắt dường như đang đến gần hơn (Hình ảnh: Feng Li/Getty) |
Tháng Hai năm nay, truyền thông Trung Quốc đưa tin về chiến lược mà Ủy
ban Điều tra Kỷ luật Trung ương (CCDI) đang thực hiện đối với “những con
hổ”, tên đặt cho các quan chức cấp cao tham nhũng của nước này. Theo
đó, CCDI sẽ tuân thủ lộ trình: đi sâu điều tra từng bước, với mỗi bước
đều mang tính chiến lược và là một phần trong kế hoạch lớn hơn.
Thông thường, trước khi điều tra một quan chức cấp cao thì những người thân, nhân tình, bạn bè và cộng sự của người đó sẽ bị điều tra đầu tiên. Hai nhóm mục tiêu điển hình ở bước này là phụ nữ/nhân tình và các đối tác làm ăn.
Nói cách khác, quá trình điều tra bắt đầu với những người liên quan, đồng thời còn thu thập nhiều nguồn tin từ các quan chức cấp thấp, nhằm xác định xem những vấn đề này liên hệ như thế nào với mục tiêu điều tra chính. Sau khi có được bằng chứng đáng tin cậy và hiểu rõ về nghi án, vòng điều tra mới tiến đến siết chặt xung quanh “con hổ”. Hổ ở đây ám chỉ quan chức cấp cao tham nhũng ở Trung Quốc.
Trong hai năm qua, những con hổ nổi bật bị quật ngã từ hàng ngũ chính trị cấp cao bao gồm cựu Bí thư Tỉnh ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai, cựu trùm an ninh Chu Vĩnh Khang, cựu Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Từ Tài Hậu. Cả ba đều bị hạ bệ trong chiến dịch bài trừ tham nhũng này.
Có một số manh mối khiến tác giả bài viết dự đoán rằng con hổ lớn nhất Giang Trạch Dân sắp đến ngày sa lưới và cũng sẽ bị điều tra theo cách thức như trên.
Trước đây, CCDI từng tuyên bố “những con hổ lớn về hưu” phải nằm trong đối tượng bị điều tra. Các báo cáo truyền thông gần đây phát biểu “cuộc điều tra Chu Vĩnh Khang chưa phải là điểm kết thúc trong chiến dịch chống tham nhũng”. Sau cùng, những động thái mới đây của CCDI được cho là nhắm vào những nhân vật thân cận của Giang Trạch Dân.
Dưới đây có thể là chi tiết của quá trình hạ bệ Giang Trạch Dân:
Thông thường, trước khi điều tra một quan chức cấp cao thì những người thân, nhân tình, bạn bè và cộng sự của người đó sẽ bị điều tra đầu tiên. Hai nhóm mục tiêu điển hình ở bước này là phụ nữ/nhân tình và các đối tác làm ăn.
Nói cách khác, quá trình điều tra bắt đầu với những người liên quan, đồng thời còn thu thập nhiều nguồn tin từ các quan chức cấp thấp, nhằm xác định xem những vấn đề này liên hệ như thế nào với mục tiêu điều tra chính. Sau khi có được bằng chứng đáng tin cậy và hiểu rõ về nghi án, vòng điều tra mới tiến đến siết chặt xung quanh “con hổ”. Hổ ở đây ám chỉ quan chức cấp cao tham nhũng ở Trung Quốc.
Trong hai năm qua, những con hổ nổi bật bị quật ngã từ hàng ngũ chính trị cấp cao bao gồm cựu Bí thư Tỉnh ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai, cựu trùm an ninh Chu Vĩnh Khang, cựu Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Từ Tài Hậu. Cả ba đều bị hạ bệ trong chiến dịch bài trừ tham nhũng này.
Có một số manh mối khiến tác giả bài viết dự đoán rằng con hổ lớn nhất Giang Trạch Dân sắp đến ngày sa lưới và cũng sẽ bị điều tra theo cách thức như trên.
Trước đây, CCDI từng tuyên bố “những con hổ lớn về hưu” phải nằm trong đối tượng bị điều tra. Các báo cáo truyền thông gần đây phát biểu “cuộc điều tra Chu Vĩnh Khang chưa phải là điểm kết thúc trong chiến dịch chống tham nhũng”. Sau cùng, những động thái mới đây của CCDI được cho là nhắm vào những nhân vật thân cận của Giang Trạch Dân.
Dưới đây có thể là chi tiết của quá trình hạ bệ Giang Trạch Dân:
Thân nhân của Giang Trạch Dân
Cuộc điều tra bước đầu sẽ nhắm vào những người thân và nhân tình của Giang, cụ thể là con trai cả Giang Miên Hằng, con trai thứ Giang Miên Khang, người anh họ Giang Trạch Huy, cháu nội Giang Chí Thành (Alvin Jiang) và người tình Tống Tổ Anh.
Dựa trên nhiều báo cáo truyền thông, các thành viên của CCDI đã bắt đầu có mặt ở những “căn cứ quyền lực” của Giang Trạch Dân và các con của ông ta, bao gồm Thượng Hải, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, Tập đoàn ô tô đệ nhất (First Automobile Works – FWA) và một số nơi khác.
Con cả Giang Miên Hằng
Tháng 11 năm 1999, Giang Miên Hằng được bổ nhiệm làm Viện phó Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc nhờ ảnh hưởng chính trị của người cha. Đến năm 2005, Giang Miên Hằng trở thành Giám đốc Chi nhánh Thượng Hải của Viện nghiên cứu này.
Giang Miên Hằng được mệnh danh là “tham nhũng bậc nhất Trung Quốc” vì ông ta còn liên quan đến các ngành bưu chính viễn thông và nhiều ngành khác. Và mức độ tham nhũng ở Viện Nghiên cứu Hàn lâm Khoa học Trung Quốc như thế nào thì sự thật này cũng sẽ bị phơi bày.
Giang Miên Hằng còn giữ vị trí thành viên điều tra trong Ủy ban Xây dựng Thượng Hải và là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thông tin về Phát triển Đô thị. Với vị trí này, ông bị nghi ngờ có quan hệ thân cận với nhân vật vừa bị bắt gần đây là Vương Tông Nam, cựu Chủ tịch Tập đoàn Quang Minh Thượng Hải. Vì vậy, còn phải chờ xem liệu CCDI có thu thập được những bằng chứng tham nhũng đáng giá từ Vương hay không.
Anh họ Giang Trạch Huy
Bên cạnh đó, trang 9000wy.com của quân đội Trung Quốc còn tiết lộ một báo báo từ cuộc họp Bắc Đới Hà về mối quan hệ của Giang Trạch Huy và Hoa Bang Tung, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành tập đoàn Wilson Engineering.
Trước đó, cơ quan truyền thông Trung Quốc công bố rộng rãi về mối liên hệ tiền bạc giữa nhân vật đã bị bắt Hoa Bang Tung và con trai của Chu Vĩnh Khang là Chu Bân. Mặc dù bài báo mạng này không tiết lộ chính xác bản chất mối quan hệ giữa Giang Trạch Huy và Hoa Bang Tung, nhưng việc đăng tấm ảnh chụp hai người này hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên.
Người ta biết rằng Giang Trạch Huy và Hoa Bang Tung đều cùng xuất thân từ tỉnh Giang Tô. Một công dân mạng có tên Hsu Hsiang đã tiết lộ một số thông tin về hai người này.
Các báo cáo cho biết Hoa Bang Tung là người coi trọng các mối quan hệ bạn bè và rất “rộng rãi”. Do đó, ông ta rất thân thiết với nhiều quan chức ngành dầu khí, chẳng hạn như Tưởng Khiết Mẫn.
Chính Giang Trạch Dân là người đã giới thiệu Chu Bân với Hoa Bang Tung, sau đó Hoa Bang Tung mới gặp Giang Trạch Huy. Thông qua các mối quan hệ này, Hoa Bang Tung nhanh chóng phát triển khối tài sản của mình lên đến 22 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 3,58 tỷ đô la Mỹ) chỉ trong vòng 17 năm. Người ta vẫn đang điều tra liệu có mối liên quan tiền bạc nào giữa Hoa và Giang Trạch Huy không.
Cháu trai Giang Chí Thành
Vào tháng Tư năm nay, có thông tin tiết lộ Giang Chí Thành – cháu trai của Giang Trạch Dân và là thành viên sáng lập Tập đoàn Đầu tư Tài chính Boyu, đã kiếm được bộn tiền từ thị trường chứng khoán. Đây có thể là điểm khởi đầu của cuộc điều tra trong tương lai.
Người tình Tống Tổ Anh
Trong khi các thành viên của gia đình Giang Trạch Dân là đối tượng nhắm tới của CCDI, Tống Tổ Anh, người tình của Giang Trạch Dân, có lẽ cũng cảm nhận được độ gay cấn của sự việc mặc dù không có bất kỳ thông tin nào nhắc đến cô ta trong khoảng một tháng gần đây. Điều kỳ lạ hơn là trong danh sách các nữ ca sĩ quân đội do truyền thông Trung Quốc thống kê lại không có Tống Tổ Anh, Giám đốc Đoàn Ca múa nhạc của Lực lượng Vũ trang Nhân dân Trung Quốc. Có tin đồn rằng Tống Tổ Anh hiện cũng đang bị điều tra.
Bạn bè
Bạn bè của Giang Trạch Dân, đặc biệt là những doanh nhân sẽ là mục tiêu nhắm đến tiếp theo.
Vào ngày 11 tháng 08, chủ tịch Tập đoàn Quang Minh Thượng Hải, Vương Tông Nam, người có mối quan hệ gần gũi với gia đình Giang Trạch Dân đã bị bắt. Rõ ràng mục đích ở đây là nhằm thu thập bằng chứng tham nhũng chống lại Giang và thân nhân của ông ta
Những cộng sự thân cận
Bên cạnh việc bắt giữ Từ Tài Hậu và Chu Vĩnh Khang – hai nhân vật đã bị rớt đài chính trị cũng như cố vấn chính trị cho Giang là Tăng Khánh Hồng, CCDI gần đây đã đến Thượng Hải và Tập đoàn ô tô đệ nhất ở Trường Xuân.
Thượng Hải được xem là “thành trì” của Giang Trạch Dân, và Tập đoàn FWA từng là nơi làm việc của Giang trước đây. Sau khi đoạt được quyền lực chính trị, Giang đã đưa nhiều lãnh đạo cấp cao của tập đoàn này vào các vị trí trong Bộ ngành Trung ương.
Việc CCDI đến hai nơi này đồng nghĩa hai đồng minh thân cận của Giang là Hàn Chính và Ngô Chi Minh đã đến số. Có khoảng hơn 70 nhân viên của FWA được báo cáo là đang bị điều tra. Điều này chắc chắn sẽ gây chấn động tập đoàn FWA và giới quan chức chính trị ở tỉnh Cát Lâm.
Trước đây Tập Cận Bình đã có những dấu hiệu ám chỉ Giang Trạch Dân đang ở tình huống rất nguy hiểm. Càng nhiều cộng sự của Giang bị điều tra thì việc Giang bị hạ bệ như Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu và Tăng Khánh Hồng chỉ còn là vấn đề thời gian.
Quan điểm thể hiện trong bài viết này là ý kiến cá nhân của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Thời báo Đại Kỷ Nguyên.
(Đại Kỷ Nguyên)
Công an tra tấn 3 thiếu niên để 'lập thành tích phá án nhanh'
BÀ RỊA-VŨNG TÀU (NV) - Có
nhiều dấu hiệu cho thấy để lập thành tích “phá án nhanh,” công an đã
tra tấn ba thiếu niên, ép chúng nhận tội. Không chỉ thủ phạm kêu oan mà
nạn nhân cũng nghi ngờ bản án.
Tháng 10 năm ngoái, dựa trên các thông tin do công an cung cấp, nhiều tờ báo ở Việt Nam loan tin, sau khi có hàng loạt vụ cướp mà thủ phạm lẻn vào một số căn nhà ở huyện Châu Ðức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, khống chế nạn nhân cướp tài sản, thậm chí đòi cưỡng hiếp nạn nhân, “qua truy xét và sàng lọc đối tượng, công an huyện Châu Ðức đã nhanh chóng tìm ra ba thiếu niên gây ra những vụ cướp đó.”
Tháng 10 năm ngoái, dựa trên các thông tin do công an cung cấp, nhiều tờ báo ở Việt Nam loan tin, sau khi có hàng loạt vụ cướp mà thủ phạm lẻn vào một số căn nhà ở huyện Châu Ðức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, khống chế nạn nhân cướp tài sản, thậm chí đòi cưỡng hiếp nạn nhân, “qua truy xét và sàng lọc đối tượng, công an huyện Châu Ðức đã nhanh chóng tìm ra ba thiếu niên gây ra những vụ cướp đó.”
Hình chụp Lê Hoài Công, Hoàng Ðỗ Thanh Tú và Mai Công Bằng lúc vừa bị bắt. Công an “tạo điều kiện” cho báo giới đưa tin, khen ngợi công an “phá án nhanh.” (Hình: Giáo Dục Việt Nam) |
Ba thiếu niên được xác định là “thủ phạm” gồm: Lê Hoài Công-15 tuổi, Hoàng Ðỗ Thanh Tú-14 tuổi, Mai Công Bằng-13 tuổi.
Theo kết luận điều tra của công an và cáo trạng của Viện Kiểm Sát thì Công, Tú và Bằng đã bàn bạc để ăn trộm lấy tiền tiêu xài. Khoảng ba giờ sáng ngày 13 tháng 9 năm 2013, cả ba tìm đến nhà ông Nguyễn Văn Long, tọa lạc ở xã Bình Ba, thực hiện kế hoạch đã vạch sẵn. Bằng và Tú đứng bên ngoài quan sát động tĩnh, Công tìm cách đột nhập vào nhà sau khi vợ chồng ông Long rời nhà để vào rừng cạo mủ cao su. Lúc đầu, Công tính đập vỡ cửa kính nhưng sau đó đổi ý, “lấy cưa sắt cưa song cửa rồi dùng tay bẻ cong song cửa để chui vào trong nhà.” Khi lọt được vào nhà, Công dùng dao không chế cô con gái 16 tuổi của vợ chồng ông Long, cướp 350,000 đồng rồi mở cửa sau tẩu thoát...
Trong kết luận điều tra và cáo trạng, công an và Viện Kiểm Sát huyện Châu Ðức xác định, do Tú và Bằng chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (dưới 15 tuổi), giá trị tại sản bị trộm cắp lại không lớn nên miễn tố cho cả hai.
Ở cả hai phiên xử: Sơ thẩm do Tòa án huyện Châu Ðức thực hiện hồi tháng 1 năm nay và phúc thẩm do Tòa án tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thực hiện hồi tháng 8 năm nay, cả Công, Tú và Bằng đều kêu oan. Vào thời điểm xảy ra vụ cướp, Công và Tú đang ngủ ở một cây xăng, cách hiện trường vài cây số để trông coi cây xăng thế cho anh trai là một nhân viên làm thuê tại đó. Bằng thì ở nhà của mình.
Trước tòa, Công, Tú và Bằng khẳng định, cả ba nhận tội vì bị công an tra tấn. Luật Hình Sự Việt Nam qui định, khi lấy cung trẻ vị thành niên, phải có sự chứng kiến của người giám hộ, tuy nhiên thân nhân của ba thiếu niên khẳng định, họ không được tham dự. Công an buộc họ chờ ở bên ngoài. Lấy cung xong, họ mới được gọi vào để ký biên bản. Một nhà báo theo dõi vụ này khẳng định với tờ Pháp Luật TP.HCM rằng, thời điểm đó, anh ta đã ngồi cùng với thân nhân ba thiếu niên để chờ... tin.
Bà Phan Thị Diệu Hiền, mẹ của Mai Công Bằng - bị can nhỏ tuổi nhất (13 tuổi), kể rằng, khi con bà được thả, tất cả các đầu ngón tay đều tím bầm và rỉ máu. Bằng kể, công an dùng kẹp, kẹp chặt mười đầu ngón tay của em rồi dùng bút bi xoáy vào chỗ bị kẹp, bắt Bằng “thú nhận tội trạng” theo gợi ý của điều tra viên.
Trước tòa, bị Hội Ðồng Xét Xử đòi “chứng cứ,” bà Hiền bảo rằng, bà không biết phải đưa con đến bệnh viện lấy giấy chứng thương nên không có chứng cứ để xuất trình.
Ðáng lưu ý là nạn nhân trực tiếp - cô con gái 16 tuổi của ông Nguyễn Văn Long khẳng định, thủ phạm to con hơn Công, giọng nói khác hẳn Công. Còn ông Long thì cho rằng, tuy Công nhỏ con nhưng ông không tin Công có thể chui lọt qua lỗ hổng do các thanh sắt bị bẻ cong tạo ra.
Tuy vậy, ở phiên sơ thẩm, Tòa án huyện Châu Ðức vẫn phạt Lê Hoài Công ba năm sáu tháng tù. Tòa án tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu vẫn tuyên y án sơ thẩm. Trong bản án, hai hội đồng xét xử ghi nhận sự kiện Công phản cung nhưng nhận định “những lời khai trước đó của Công tại cơ quan điều tra phù hợp với các lời khai khác của những người có liên quan (Tú, Bằng) và lời khai của người bị hại”!
Theo kết luận điều tra của công an và cáo trạng của Viện Kiểm Sát thì Công, Tú và Bằng đã bàn bạc để ăn trộm lấy tiền tiêu xài. Khoảng ba giờ sáng ngày 13 tháng 9 năm 2013, cả ba tìm đến nhà ông Nguyễn Văn Long, tọa lạc ở xã Bình Ba, thực hiện kế hoạch đã vạch sẵn. Bằng và Tú đứng bên ngoài quan sát động tĩnh, Công tìm cách đột nhập vào nhà sau khi vợ chồng ông Long rời nhà để vào rừng cạo mủ cao su. Lúc đầu, Công tính đập vỡ cửa kính nhưng sau đó đổi ý, “lấy cưa sắt cưa song cửa rồi dùng tay bẻ cong song cửa để chui vào trong nhà.” Khi lọt được vào nhà, Công dùng dao không chế cô con gái 16 tuổi của vợ chồng ông Long, cướp 350,000 đồng rồi mở cửa sau tẩu thoát...
Trong kết luận điều tra và cáo trạng, công an và Viện Kiểm Sát huyện Châu Ðức xác định, do Tú và Bằng chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (dưới 15 tuổi), giá trị tại sản bị trộm cắp lại không lớn nên miễn tố cho cả hai.
Ở cả hai phiên xử: Sơ thẩm do Tòa án huyện Châu Ðức thực hiện hồi tháng 1 năm nay và phúc thẩm do Tòa án tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thực hiện hồi tháng 8 năm nay, cả Công, Tú và Bằng đều kêu oan. Vào thời điểm xảy ra vụ cướp, Công và Tú đang ngủ ở một cây xăng, cách hiện trường vài cây số để trông coi cây xăng thế cho anh trai là một nhân viên làm thuê tại đó. Bằng thì ở nhà của mình.
Trước tòa, Công, Tú và Bằng khẳng định, cả ba nhận tội vì bị công an tra tấn. Luật Hình Sự Việt Nam qui định, khi lấy cung trẻ vị thành niên, phải có sự chứng kiến của người giám hộ, tuy nhiên thân nhân của ba thiếu niên khẳng định, họ không được tham dự. Công an buộc họ chờ ở bên ngoài. Lấy cung xong, họ mới được gọi vào để ký biên bản. Một nhà báo theo dõi vụ này khẳng định với tờ Pháp Luật TP.HCM rằng, thời điểm đó, anh ta đã ngồi cùng với thân nhân ba thiếu niên để chờ... tin.
Bà Phan Thị Diệu Hiền, mẹ của Mai Công Bằng - bị can nhỏ tuổi nhất (13 tuổi), kể rằng, khi con bà được thả, tất cả các đầu ngón tay đều tím bầm và rỉ máu. Bằng kể, công an dùng kẹp, kẹp chặt mười đầu ngón tay của em rồi dùng bút bi xoáy vào chỗ bị kẹp, bắt Bằng “thú nhận tội trạng” theo gợi ý của điều tra viên.
Trước tòa, bị Hội Ðồng Xét Xử đòi “chứng cứ,” bà Hiền bảo rằng, bà không biết phải đưa con đến bệnh viện lấy giấy chứng thương nên không có chứng cứ để xuất trình.
Ðáng lưu ý là nạn nhân trực tiếp - cô con gái 16 tuổi của ông Nguyễn Văn Long khẳng định, thủ phạm to con hơn Công, giọng nói khác hẳn Công. Còn ông Long thì cho rằng, tuy Công nhỏ con nhưng ông không tin Công có thể chui lọt qua lỗ hổng do các thanh sắt bị bẻ cong tạo ra.
Tuy vậy, ở phiên sơ thẩm, Tòa án huyện Châu Ðức vẫn phạt Lê Hoài Công ba năm sáu tháng tù. Tòa án tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu vẫn tuyên y án sơ thẩm. Trong bản án, hai hội đồng xét xử ghi nhận sự kiện Công phản cung nhưng nhận định “những lời khai trước đó của Công tại cơ quan điều tra phù hợp với các lời khai khác của những người có liên quan (Tú, Bằng) và lời khai của người bị hại”!
(Người Việt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét